• Thuộc tính
Tên đề tài Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương
Nội dung tóm tắt
 
 
 

I. SỰ CẦN THIẾT, PHẠM VI NgHIÊN CỨU VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chương trình cải cách kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia, thời gian qua, công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Trung ương cũng như ở địa phương đã có nhiều tiến bộ, góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh, bảo đảm sự phát triển ổn định của xã hội. Theo đó, chất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương ngày càng được hoàn thiện hơn, bao quát nhiều mặt đời sống xã hội trên địa bàn. Tính hợp pháp, đồng bộ, hợp lý ngày càng được bảo đảm hơn so với trước.

Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên - Nhiệm vụ này là đòi hỏi tất yếu để cụ thể hoá, chi tiết hoá những quy phạm pháp luật, căn cứ vào từng điều kiện cụ thể về kinh tế - xã hội của từng địa phương. Hơn nữa, với tư cách là cơ quan nhà nước có chức năng quản lý các mặt, các lĩnh vực trên địa bàn, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cần thiết phải được giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chủ động điều chỉnh các quan hệ xã hội đang tồn tại trên địa bàn nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã được pháp luật quy định. Trong thực tiễn xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, cũng như trong quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mảng các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan chính quyền địa phương ban hành có một vị trí hết sức quan trọng.

Bên cạnh những thành tựu bước đầu, trong thời gian qua công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp chính quyền địa phương còn tồn tại nhiều bất cập, thiếu sót cả trong việc xác định thẩm quyền lẫn trong trình tự, thủ tục ban hành, làm hạn chế chất lượng văn bản và hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý. Một trong những nguyên nhân quan trọng đó là các vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, thấu đáo. Trong hệ thống pháp luật hiện hành cũng chưa có những quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Trong chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, dự kiến Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, chính quyền địa phương sẽ được soạn thảo và thông qua trong thời gian tới. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài khoa học: "Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp chính quyền địa phương" đang được đặt ra một cách cấp thiết nhằm tạo tiền đề, điều kiện cho hoạt động nghiên cứu, soạn thảo dự án luật. Mặt khác, qua đó giúp cho các đơn vị chức năng thuộc hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn, nhiệm vụ nhằm tăng chất lượng, hiệu quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các địa phương.

Đề tài tập trung vào nghiên cứu những nội dung cơ bản sau:

- Làm rõ khái niệm văn bản quy phạm pháp luật - Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân;

- Xác định vị trí, tính chất, vai trò trong việc xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong các hoạt động quản lý của chính quyền địa phương;

- Đánh giá khái quát công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, làm rõ việc phân định thẩm quyền ban hành và thủ tục, trình tự ban hành văn bản;

- Nêu lên những hạn chế, tồn tại trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra những nguyên nhân của những han chế, tồn tại đó;

- Đưa ra phương hướng hoàn thiện công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp;

- Kết luận và một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Việc triển khai nghiên cứu đề tài phục vụ yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn cải cách nền hành chính nhà nước. Từ đó, góp phần xây dựng Dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

II.                                                                                                                                                 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. Văn bản quy phạm pháp luật - Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp

Theo nghĩa rộng, văn bản được hiểu là một phương tiện để ghi nhận và truyền đạt các thông tin, quyết định từ chủ thể này đến chủ thể khác bằng một ký hiệu hoặc ngôn ngữ nhất định.

Theo nghĩa hẹp, văn bản được hiểu là các tài liệu, giấy tờ được sử dụng trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng, các tổ chức kinh tế... hoặc các tài liệu của cá nhân có giá trị, ý nghĩa pháp lý, xã hội nhất định.

1.1. Theo Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 thì: "văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Văn bản quy phạm pháp luật phải là văn bản có đầy đủ các yếu tố sau đây([1]):

a. Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành với hình thức nhất định được pháp luật quy định;

b. Được ban hành theo đúng thủ tục, trình tự nhất định;

c. Chứa đựng các quy tắc xử sự chung, áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương.

d. Được Nhà nước bảo đảm thi hành bằng các biện pháp như: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết thì Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành và quy định chế tài đối với người có hành vi vi phạm.

Những văn bản cũng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành mà không có đầy đủ các yếu tố nói trên để giải quyết những vụ việc cụ thể đối với những đối tượng cụ thể, thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật như: quyết định lên lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, quyết định xử phạt vi phạm hành chính…

1.2. Theo Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là một bộ phận trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta, gồm có Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân, được ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên. Văn bản của Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Như vậy, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là văn bản được ban hành dưới hình thức Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, được Nhà nước bảo đảm thực hiện và có hiệu lực trong phạm vi địa phương.

Ngoài các yếu tố đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật nói chung, thì các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân còn có những yếu tố đặc thù sau:

- Là văn bản do Hội đồng nhân dân ban hành hoặc Uỷ ban nhân dân ban hành nhằm thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước ở địa phương - để thi hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên hoặc để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

- Được ban hành theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định nhằm bảo đảm tính hợp pháp, tính hợp lý và hiệu quả của nội dung các quy định cũng như hình thức thể hiện. Hiện nay, do chưa có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cho nên thủ tục, trình tự ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được quy định một phần ở các luật, pháp lệnh về tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, còn một phần (cụ thể, chi tiết) lại do bản thân Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân ban hành;

- Có chứa đựng các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần trong phạm vi địa phương đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng là cơ quan tổ chức hay cá nhân. Các quy tắc xử sự chung này hoặc là đặt ra các quy phạm pháp luật mới hoặc sửa đổi, bãi bỏ các quy phạm pháp luật hiện hành, trực tiếp làm thay đổi hệ thống quy phạm pháp luật ở địa phương. Đây là yếu tố đặc trưng nhất làm cơ sở để phân biệt với các loại văn bản khác tuy cũng do Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân ban hành nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật;

- Được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục thuyết phục; các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành và chế tài đối với người có hành vi vi phạm.

2. Vị trí, tính chất, vai trò của việc xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương

Các cơ quan chính quyền địa phương có vị trí quan trọng trong việc xây dựng và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng... là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.

Hiến pháp năm 1992 là nền tảng, cơ sở pháp lý đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương. Trong đó, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được hình thành trên nguyên tắc xác định thẩm quyền theo địa bàn hành chính - lãnh thổ, tạo thành một hệ thống chính quyền địa phương thống nhất, vừa là những cơ quan nhà nước, đóng tại địa phương, là bộ phận của quyền lực nhà nước thống nhất không phân chia, thay mặt Nhà nước Trung ương giải quyết những vấn đề chung ở địa phương, đồng thời, vừa là những cơ quan đại diện cho cộng đồng dân cư ở cơ sở, giải quyết những vấn đề trong phạm vi địa phương, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong phạm vi địa phương đó.

Căn cứ Điều 119 Hiến pháp năm 1992 thì vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân có thể xét theo hai góc độ:

(1) Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương;

(2) Hội đồng nhân dân - cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.

Quyền lực của Hội đồng nhân dân được giới hạn trong phạm vi đơn vị hành chính - lãnh thổ. Tuy là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nhưng Hội đồng nhân dân không có quyền lập pháp, mà có chức năng quản lý địa phương, thực hiện nhiều hoạt động mang tính chấp hành và điều hành thông qua việc ban hành nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân có quyền chủ động giải quyết các vấn đề trong phạm vi địa phương, vì quyền lợi và đời sống của nhân dân địa phương, không trái với lợi ích chung của quốc gia và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Theo Điều 112 Hiến pháp 1992, Điều 8 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thì Hội đồng nhân dân chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, tức là quyền lực nhà nước ở địa phương phải được thực hiện trên cơ sở hợp hiến và hợp pháp, cũng như không được trái với các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng...

Căn cứ Điều 123 Hiến pháp 1992, thì vị trí pháp lý của Uỷ ban nhân dân có thể xét theo hai góc độ:

(1) Là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân;

(2) Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của Bộ trưởng trong việc thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ phụ trách (Điều 27 Luật tổ chức Chính phủ).

Cũng như Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quản lý địa phương theo Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 3 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân). Là cơ quan quản lý thẩm quyền chung, Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý toàn diện theo lãnh thổ đối với mọi ngành lĩnh vực thuộc địa phương, bảo đảm thi hành pháp luật, các quy định của cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp, giám sát việc thi hành pháp luật đối với các cơ quan trên địa bàn trong về những vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý theo lãnh thổ.

Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

Như vậy, với vị trí pháp lý của mình, Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và ngân sách; quốc phòng, an ninh; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân ở địa phương... Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn luật định, Uỷ ban nhân dân có quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.

Với nhiệm vụ của mình, các cơ quan chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân) thông qua các hoạt động cụ thể thực hiện quản lý, điều hành mọi mặt ở địa phương. Một hoạt động quan trọng nhất của cơ quan chính quyền địa phương là việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ở đây, một vấn đề đặt ra là thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương đến đâu? Theo chúng tôi có thể tìm lời giải ở hai lý do chính sau đây:

Một là, chính quyền địa phương là cơ quan quyền lực nhà nước, phải có phương thức để biểu hiện quyền lực của mình ra bên ngoài, nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao;

Hai là, hệ thống pháp luật dù đầy đủ, hoàn thiện đến mấy, thì cũng không thể phù hợp với yêu cầu, đặc điểm, đặc thù cụ thể của mọi địa phương. Hệ thống pháp luật với những quy tắc xử sự chung, điều chỉnh trên nguyên tắc bình đẳng đối với mọi quan hệ xã hội, đặc biệt là các văn bản do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành, không thể đủ sức đưa ra lời giải đáp cho mọi trường hợp cụ thể được. Vì vậy, trên cơ sở các quy định của các cơ quan nhà nước Trung ương, chính quyền địa phương phải ban hành các văn bản để cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của địa phương. Tất nhiên, phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, có thể nói rằng nhiệm vụ hướng dẫn thi hành Hiến pháp và pháp luật là một nhiệm vụ tất yếu để cụ thể hoá, chi tiết hoá những quy phạm pháp luật vào tình hình và điều kiện cụ thể của từng địa phương.

Muốn đạt được những yêu cầu cơ bản nêu trên, bên cạnh việc xác định rõ, chính xác thẩm quyền ban hành văn bản về nội dung và hình thức, thì việc xác định rõ trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật là rất quan trọng. Ý nghĩa quan trọng đó thể hiện ở việc nó không chỉ giúp cho việc chuẩn bị văn bản, đảm bảo được tiến độ thời gian mà quan trọng hơn là nâng cao chất lượng văn bản, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, tính thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật.

III. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG (HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN)

1. Đánh giá chung

Hơn 10 năm vừa qua, kể từ khi có Hiến pháp 1992, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương ngày càng được đẩy mạnh và có những bước phát triển mới, tiến bộ hơn rất nhiều so với thời gian trước. Chứng tỏ các ngành, các cấp ở địa phương đã nhận thức được sự cần thiết, tầm quan trọng của việc quản lý nhà nước bằng pháp luật. Những văn bản quy phạm pháp này đã góp phần tạo nên một hệ thống pháp luật khá ổn định ở địa phương, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân.

1.1. Về ưu điểm

Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương trong thời gian qua có những ưu điểm sau đây:                                                                                                

- Đã có sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát hơn của cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp;

- Kịp thời ban hành để thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp uỷ trong việc hướng dẫn áp dụng các Luật, Pháp lệnh và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên; quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình trong lĩnh vực chưa được văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên quy định hoặc quy định chưa cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương;

- Về hình thức, các văn bản quy phạm pháp luật cơ bản đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng văn bản ban hành bằng hình thức không do luật định, trái thẩm quyền, không vào sổ, không đánh số, không đề ngày, tháng, năm ban hành ở nhiều địa phương về cơ bản đã được khắc phục một cách cơ bản;

- Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được nâng cao. Tình trạng văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung trái pháp luật, chồng chéo, mâu thuẫn hoặc có nội dung không phù hợp với tình hình thực tế của địa phương ngày càng giảm bớt và được chú ý khắc phục;

- Nhiều cấp địa phương đã xây dựng được chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm. Do có chương trình nên các địa phương đã chủ động hơn trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Qua đó quản lý được kế hoạch, tiến độ xây dựng văn bản và bảo đảm công tác xây dựng pháp luật phù hợp với yêu cầu quản lý ở địa phương, khắc phục được tình trạng bị động, tuỳ tiện từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả soạn thảo, bảo đảm được tính đồng bộ, thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật;

- Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng và ban hành được văn bản riêng (dưới hình thức quyết định ban hành quy định, quy chế, điều lệ hay chỉ là chỉ thị) quy định trình tự, thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, trình tự soạn thảo, việc lấy ý kiến góp ý soạn thảo, quan hệ giữa cơ quan soạn thảo với cơ quan ban hành văn bản, các cơ quan có liên quan, thủ tục thẩm định và ban hành văn bản để áp dụng thống nhất trong phạm vi địa phương. Những văn bản này đã góp phần tích cực trong việc lập lại trật tự công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, đặc biệt là trong điều kiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào có hiệu lực cao quy định thống nhất trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương;

- Các cơ quan tư pháp địa phương đã dần khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong quá trình soạn thảo, thẩm định văn bản nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật. Đặc biệt, nhiều cơ quan Tư pháp địa phương còn có ý kiến cả về mặt hợp lý của văn bản mới trước khi trình xem xét, thông qua. Ở nhiều địa phương việc Sở Tư pháp xem xét và có ý kiến thẩm định Dự thảo văn bản trước khi trình Uỷ ban nhân dân ban hành là trình tự bắt buộc trong quy trình soạn thảo văn bản.

Bên cạnh đó, ở nhiều địa phương, Sở Tư pháp cũng đóng vai trò tích cực trong công tác tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân rà soát và kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác Tư pháp, thường xuyên tiến hành tập huấn nghiệp vụ xây dựng văn bản và hướng dẫn các ngành, các cấp trong tỉnh về quản lý công tác xây dựng văn bản;

- Nhiều địa phương đã coi trọng đặt công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động thường xuyên - một họat động rất quan trọng gắn liền với công tác xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Qua đó, phát hiện kịp thời những văn bản có mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực để trình cấp có quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ.

1.2. Về những hạn chế, tồn tại

Bên cạnh những ưu điểm, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục. Những tồn tại thiếu sót bao gồm:

- Vẫn còn hiện tượng ban hành văn bản có tính quy phạm dưới hình thức không được pháp luật định như công văn, thông báo, kết luận. Nhiều văn bản có cùng nội dung hoặc quy định lại những vấn đề đã được văn bản của cấp trên quy định nhưng lại không đầy đủ, thậm chí không đúng gây hiểu sai và không thực hiện được;

- Thời gian chuẩn bị một dự án, dự thảo văn bản thường bị kéo dài, thiếu điều tra, khảo sát thực tiễn, cũng như cân nhắc mức độ, biện pháp quản lý thích hợp của Nhà nước. Phần lớn các dự thảo được soạn thảo khi khung chính sách chung chưa được dự liệu một cách thấu đáo, toàn diện và vững chắc;

- Còn tình trạng ban hành văn bản không đúng thẩm quyền, không phân biệt rõ, thống nhất thẩm quyền về nội dung, hình thức của văn bản, không phù hợp với yêu cầu quản lý. Điều này xảy ra ở cả ba cấp tỉnh, huyện và xã nhưng tập trung nhiều ở cấp huyện và xã, đặc biệt ở cấp xã mặc dù văn bản được ban hành ở cấp này không nhiều.

- Nội dung của các văn bản được ban hành còn có tình trạng chắp vá, mâu thuẫn chồng chéo, thiếu sự thống nhất nội tại trong từng văn bản cũng như trong cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật...;

- Do quản lý, kiểm soát chưa tốt, lại thiếu sự chỉ đạo, điều phối có hiệu quả theo một kế hoạch, định hướng cơ bản, nên phần lớn các địa phương đều có hệ thống văn bản chưa đồng bộ, hoàn thiện. Có lĩnh vực quá ít văn bản hoặc có nội dung lạc hậu không được kịp thời thay thế, sửa đổi, bổ sung. Ngược lại, có lĩnh vực quá nhiều văn bản cùng điều chỉnh về một vấn đề, một nội dung. Tuổi thọ của văn bản chưa cao, tầm khái quát của văn bản chưa đủ mức cần thiết, có một số bị sửa đổi, thay thế liên tục làm hạn chế tác dụng, hiệu lực, hiệu quả quản lý;

- Trình tự, thủ tục ban hành văn bản đã được quy định, nhưng do chưa có sự chỉ đạo chung, một số chủ yếu dựa vào thực tiễn nên chưa đảm bảo sự thống nhất giữa các địa phương. Thêm vào đó, tình trạng không tuân thủ quy trình, thủ tục đã quy định, làm tắt, văn bản soạn thảo sơ sài, không gửi lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan và ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp. Thực tế này dẫn đến Sở Tư pháp không nắm được tình hình xây dựng và ban hành văn bản, không thể chủ động tham gia và có ý kiến ngay từ khâu soạn thảo và chỉ có thể phát hiện các sai sót sau khi văn bản đã được ban hành.

- Việc quản lý, lưu trữ văn bản ban hành thiếu chặt chẽ, chưa bảo đảm tính khoa học nhất là ở các cấp huyện, xã. Công tác hệ thống hoá mới dừng lại chủ yếu ở cấp tỉnh;

- Công tác rà soát và hệ thống hoá văn bản tuy được tiến hành đều đặn, nhưng kết quả chưa thật tốt, nhất là việc rà soát, xử lý các mâu thuẫn, sơ hở, chồng chéo của các văn bản để kịp thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản; việc in ấn, xuất bản tập hệ thống văn bản đang còn hiệu lực để áp dụng thống nhất chưa thực hiện được đều khắp ở các địa phương. Cá biệt do không nắm được kết quả rà soát, xử lý văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh, vẫn còn tình trạng cơ quan quản lý áp dụng văn bản đã bị bãi bỏ, gây ảnh hưởng không tốt đến việc quản lý nhà nước trong phạm vi địa phương.

2. Đánh giá công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

2.1. Về công tác lập kế hoạch

Ở một số địa phương đã xây dựng được chương trình, kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm, là cơ sở bảo đảm tiến độ và chất lượng xây dựng văn bản, thể hiện sự chủ động về thời gian, cũng như bố trí lực lượng phối hợp và kinh phí phục vụ cho công tác soạn thảo văn bản. Kế hoạch được xây dựng dựa trên cơ sở xem xét nhu cầu quản lý, thực trạng kinh tế - xã hội và từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương đã góp phần nâng cao chất lượng soạn thảo của từng văn bản; chủ động hơn trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản của địa phương.

Tuy nhiên, có thể nói rằng ở đa số các địa phương, việc xây dựng chương trình, kế hoạch chưa thực sự được chú trọng. Thực tế này làm cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật luôn bị động về tiến độ, chất lượng; nội dung các văn bản mang tính chất đối phó, chắp vá. Thậm chí ở những nơi đã lập được kế hoạch thì nội dung các kế hoạch ít nhiều còn mang tính chất chủ quan, do chưa thiết lập được quy trình cụ thể để xây dựng kế hoạch; chưa xác định cụ thể vị trí, vai trò của các cơ quan tham gia chuẩn bị, thẩm định và thông qua kế hoạch. Các biện pháp bảo đảm thực hiện kế hoạch chưa được quy định đồng bộ, chưa có luận chứng cụ thể.

2.2. Về hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

Hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và huyện đã bước đầu đảm bảo, thực hiện theo quy trình từ việc phân công trách nhiệm cụ thể của Ban soạn thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo đến việc điều tra, khảo sát thực tiễn cũng như tập hợp, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để làm cơ sở nghiên cứu, xem xét; đảm bảo sự tham gia, phối hợp của các cơ quan ban ngành có liên quan, cũng như tập hợp ý kiến của nhân dân về những vấn đề có liên quan và nhiều địa phương có quy định bắt buộc việc phải có ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp trước khi trình Uỷ ban nhân dân xem xét và ký ban hành.

Trên cơ sở của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 101/CP, một số địa phương đã ban hành văn bản quy định trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, trong đó xác định rõ hình thức văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Tuy nhiên, hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ở các địa phương cũng còn một số hạn chế như tiến độ soạn thảo còn chậm so với yêu cầu đặt ra; trách nhiệm, quyền hạn, vị trí pháp lý của Ban soạn thảo, các thành viên Ban soạn thảo, tổ chuyên viên giúp việc chưa được quy định rõ; các hoạt động nghiên cứu chính sách pháp lý, phương thức huy động trí tuệ tập thể của các cấp, các ngành, các nhà khoa học và tầng lớp nhân dân trong quá trình xây dựng văn bản chưa được chú trọng. Có lúc, có nơi vẫn còn tình trạng một vài cá nhân soạn thảo văn bản một cách sơ sài, thiếu điều tra, khảo sát thực tế, nghiên cứu, lấy ý kiến rồi trình ký ban hành.

2.3. Việc xem xét thông qua văn bản quy phạm pháp luật

Việc xem xét, thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân hiện được thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp. Theo đó, các Ban của Hội đồng nhân dân có trách nhiệm thẩm tra nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo trong hệ thống pháp luật và sự phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. Luật và Quy chế cũng quy định quy trình thẩm tra, quy trình thảo luận thông qua dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, trong đó xác định về cơ bản quy trình xem xét thông qua dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, nhưng điều đáng lưu ý là có một số nội dung công việc, thủ tục cần thiết đặc trưng cho việc xem xét thông qua một văn bản quy phạm pháp luật chưa được quy định rõ như hồ sơ trình, việc phối hợp chỉnh lý dự thảo khi trình...

Việc xem xét thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đã được chú ý hơn trước. Trong quy trình xem xét thông qua đó, thì vị trí, vai trò của Sở Tư pháp (cơ quan Tư pháp địa phương) trong việc thẩm định đã được nhiều nơi chú trọng. Căn cứ vào quy định của Thông tư Liên Bộ số 12-TTLB, các địa phương đã khẳng định tính chất bắt buộc của công tác thẩm định dự thảo của cơ quan Tư pháp, song đó không phải là tất cả, có nơi giao cho Văn phòng Uỷ ban nhân dân thực hiện thẩm định hoặc có giao cho cơ quan Tư pháp nhưng chỉ mang tính tuỳ nghi.

Ở một số địa phương còn tồn tại quy trình soạn thảo - ký ban hành trong mối quan hệ trực tiếp khép kín giữa nhóm chuyên viên Văn phòng Uỷ ban nhân dân với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Quy trình thảo luận, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân chưa được chú trọng (nhiều trường hợp, cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trực tiếp ký quyết định, chỉ thị có chứa đựng quy phạm pháp luật). Đặc biệt, nhiều nội dung cụ thể của quy trình này chưa được cụ thể hoá (như hồ sơ trình, quy trình thảo luận, biểu quyết...). Đây là một trong những khâu yếu nhất trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, mà hậu quả của nó là Uỷ ban nhân dân ban hành nhiều quyết định, chỉ thị trái Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý ở địa phương.

2.4. Về cơ chế kiểm tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

Trong lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, pháp luật hiện hành quy định có các cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể để đảm bảo cho văn bản khi được ban hành hợp hiến, hợp pháp và đi vào thực tiễn cuộc sống. Cụ thể:

(i) Cơ chế kiểm tra trước, bao gồm:

- Cơ chế thẩm định của cơ quan Tư pháp cùng cấp (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp);

- Cơ chế lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, ban ngành ở địa phương cũng như thông qua việc lấy ý kiến của nhân dân/người bị tác động trực tiếp của văn bản dự kiến được ban hành. Cá biệt có địa phương còn lấy ý kiến trước của Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp về tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý của văn bản trước khi trình xem xét, thông qua và ký ban hành.

 (ii) Cơ chế giám sát sau khi ban hành, bao gồm:

- Sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với văn bản của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;

- Sự kiểm tra của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

- Sự kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp trên đối với văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp dưới;

- Sự kiểm tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với văn bản của Hội đồng nhân dân vả Uỷ ban nhân dân cùng cấp;

- Sự kiểm tra của Toà án nhân dân thông qua hoạt động xét xử nói chung và hoạt động của Toà án hành chính nói riêng;

- Sự kiểm tra của Thanh tra nhà nước thông qua hoạt động nghiệp vụ và thông qua sự giám sát trực tiếp của công dân, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng nhân dân.

IV. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

1. Nguyên nhân khách quan

- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định một hệ thống nhiều loại, nhiều hệ cấp văn bản quy phạm pháp luật. Có thể thấy, đây là một hệ thống gồm nhiều loại, nhiều cấp, nhiều tầng lớp chồng xếp lên nhau, xuất phát từ các quy định về thẩm quyền ban hành văn bản quy định tại Hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy, với mục đích tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền ban hành quy tắc xử sự chung để quản lý, điều hành. Nhưng trên thực tế, các quy định này đã tạo ra một hệ thống văn bản, quy phạm quá phức tạp, nhiều tầng nấc (các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là bộ phận thấp nhất, cuối cùng của hệ thống), theo đó, dễ tạo ra những mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các bộ phận của hệ thống; gây ra tình trạng chờ đợi, chậm triển khai thực hiện; trong nhiều trường hợp văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới sao chép một cách máy móc quy định của văn bản cấp trên; có quá nhiều loại văn bản quy phạm do nhiều cơ quan ban hành về một vấn đề hay một lĩnh vực quản lý, tạo nên hệ thống quy phạm nhiều tầng nấc, phức tạp, khó hiểu, khó thực hiện không chỉ trong các tầng lớp nhân dân mà cả trong các cơ quan quản lý.

- Những quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua ngày 12-11-1996 mới chỉ quy định một số nguyên tắc chỉ đạo cho công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, còn trình tự, thủ tục cụ thể áp dụng cho hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương phải nhờ một văn bản khác;

- Thực tế công cuộc đổi mới đất nước cũng đặt ra những yêu cầu và nhiệm vụ mới đối với công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh mà văn bản pháp luật của trung ương và địa phương chưa có điều kiện để điều chỉnh, nhất là về tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương các cấp, vấn đề phân cấp giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau, vấn đề tinh giảm biên chế và sắp sếp lại tổ chức bộ máy... đều chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh thống nhất, phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hiện nay.

Những hạn chế nêu trên vừa làm giảm hiệu lực, hiệu quả, tính nhạy bén của hoạt động quản lý, vừa trực tiếp làm hạn chế việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đã đến lúc cần đặt vấn đề phải làm đơn giản hoá hệ thống quy phạm pháp luật.

2. Nguyên nhân chủ quan

- Những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay, một phần do hạn chế về trình độ, kỹ năng soạn thảo văn bản của người soạn thảo, nhưng nguyên nhân chính là do chúng ta chưa có một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao quy định thống nhất về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

- Hoạt động nghiên cứu điều tra, khảo sát thực tế để xác định một khung cơ bản, toàn diện về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự thảo chưa được chú trọng và do đó, không hình dung đầy đủ và chính xác các biện pháp quản lý thích hợp của Nhà nước đối với các quan hệ xã hội đang nảy sinh và phát triển. Hậu quả là hiệu quả quản lý nhà nước không đáp ứng được yêu cầu đặt ra, có trường hợp gây hậu quả xấu.

- Một số cơ quan, ban, ngành ở địa phương chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chưa dành sự quan tâm thích đáng, thiếu đầu tư nhân lực, vật lực hay còn bỏ qua các quy trình, thủ tục;

- Hầu hết các địa phương không có kinh phí dành cho công tác xây dựng văn bản, khiến cho việc tuân thủ trình tự soạn thảo, thẩm định gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khâu khảo sát thực tế, đánh giá tình hình, nghiên cứu tư liệu tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học phục vụ cho việc soạn thảo, thẩm định văn bản. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng soạn thảo văn bản;

- Ở nhiều địa phương đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp quá mỏng, chưa đủ sức đảm đương trách nhiệm đuợc giao. Thêm vào đó, trình độ cán bộ soạn thảo văn bản còn nhiều hạn chế, chưa được tập huấn, hướng dẫn thường xuyên về nghiệp vụ, nhất là ở các cấp chính quyền cơ sở. Có những nơi, cán bộ soạn thảo chưa phân biệt rõ khái niệm văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật, hình thức văn bản do từng cấp có thẩm quyền ban hành, những tiêu chí, yêu cầu của một văn bản quy phạm pháp luật.

V. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Nguyên tắc chỉ đạo

- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.

- Bảo đảm dân chủ trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.

- Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương. Theo đó:

+ Các văn bản phải được ban hành đúng thẩm quyền.

+ Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

+ Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm đúng trình tự và thủ tục được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

2. Việc phân định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp

Xem xét từ góc độ thẩm quyền ban hành hình thức văn bản quy phạm pháp luật, ta thấy pháp luật hiện hành còn để ngỏ một số vấn đề cơ bản quan trọng như: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp nào thì có thẩm quyền ban hành nghị quyết, quyết định, chỉ thị và Uỷ ban nhân dân, với tư cách là cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, được giao thẩm quyền ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật nào là phù hợp?

Yêu cầu bức xúc hiện nay là cần đơn giản hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mà trước hết là đơn giản, hạn chế hình thức loại văn bản có chứa quy phạm pháp luật, những lĩnh vực cơ quan chính quyền địa phương được ban hành văn bản. Để giải đáp những câu hỏi này, theo chúng tôi, cần bắt đầu từ các văn bản quy phạm pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành theo các nguyên tắc sau đây:

- Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần được tập trung ở các cơ quan nhà nước cấp cao, hạn chế dần thẩm quyền này theo thứ bậc từ trên xuống. Như vậy, cần hạn chế thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan chính quyền địa phương nói chung và trong các cơ quan chính quyền địa phương thì ở cấp càng thấp, càng nên hạn chế thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo hướng này, gắn với việc giảm dần thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật, thì cũng đồng thời cần tăng dần thẩm quyền ban hành văn bản cá biệt, thực thi pháp luật tương ứng cho các cơ quan chính quyền địa phương cấp dưới;

- Để bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, khả thi của hệ thống quy phạm pháp luật, cũng cần giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung, cho tập thể là chủ yếu. Ngược lại, thẩm quyền tổ chức thực hiện cũng như ban hành văn bản cá biệt lại cần phải xác định trách nhiệm và giao cho cá nhân là chủ yếu.

Theo các định hướng nêu trên, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương chỉ nên tập trung cho Hội đồng nhân dân và tập thể Uỷ ban nhân dân. Cụ thể:

- Về hình thức văn bản và cơ quan có thẩm quyền ban hành: nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân;

- Trong văn bản có chứa các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi địa phương;

- Được ban hành theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định;

- Được các cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành.

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phải có đầy đủ các yếu tố sau:

- Là văn bản được ban hành dưới hình thức nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân;

- Được ban hành theo thủ tục, trình tự do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật này quy định;

- Trong đó có các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng khi tham gia quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh; có hiệu lực trong phạm vi địa phương;

- Được các cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành bằng các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết thì Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành đối với người có hành vi vi phạm.

Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Như trên đã phân tích, pháp luật hiện hành giao thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân với các hình thức tương tự.

Nghị quyết, quyết định, chỉ thị quy phạm pháp luật là một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời là một loại quyết định quản lý do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành.

Xem xét từ góc độ thẩm quyền ban hành hình thức văn bản quy phạm pháp luật, ta thấy pháp luật hiện hành, cụ thể là Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn để ngỏ một số vấn đề cơ bản quan trọng như: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp nào thì có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật? Và, Uỷ ban nhân dân, với tư cách là cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, được giao thẩm quyền ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật nào là phù hợp?

Để giải đáp những câu hỏi này, trước hết cần xem xét hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và vị trí của các văn bản này trong hệ thống đó. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định một hệ thống nhiều loại, nhiều hệ cấp văn bản quy phạm pháp luật từ Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản của Chủ tịch nước, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các cơ quan tư pháp ở trung ương đến văn bản của các cấp chính quyền địa phương. Có thể thấy, đây là một hệ thống gồm nhiều loại, nhiều cấp, nhiều tầng lớp chồng xếp lên nhau. Cách quy định như vậy tuy xuất phát từ các quy định về thẩm quyền ban hành văn bản đã được quy định tại Hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy và đồng thời cũng tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc đề ra các quy tắc xử sự chung để quản lý, điều hành. Nhưng trên thực tế cũng đã tạo ra một hệ thống văn bản, hệ thống quy phạm pháp luật quá phức tạp, nhiều tầng nấc mà trong đó các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là bộ phận thấp nhất, cuối cùng của hệ thống đó. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật như vậy sẽ tạo ra những hạn chế thiếu sót như: dễ tạo ra những mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các bộ phận của hệ thống; gây ra tình trạng chờ đợi, chậm triển khai thực hiện các văn bản cấp trên; trong nhiều trường hợp văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới sao chép một cách máy móc quy định của văn bản cấp trên; có quá nhiều loại văn bản quy phạm do nhiều cơ quan ban hành về một vấn đề hay một lĩnh vực quản lý, tạo nên hệ thống quy phạm nhiều tầng nấc, phức tạp, khó hiểu, khó thực hiện không chỉ trong các tầng lớp nhân dân mà cả trong các cơ quan quản lý. Những hạn chế này vừa làm giảm hiệu lực, hiệu quả, tính nhạy bén của hoạt động quản lý, vừa trực tiếp làm hạn chế việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đã đến lúc cần đặt vấn đề phải làm đơn giản hoá hệ thống quy phạm pháp luật. Trước hết, cần hạn chế bớt cơ quan có thẩm quyền ban hành quy phạm và hạn chế bớt hình thức văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở có sự phân loại văn bản pháp luật như đã phân tích ở phần trên.

Vấn đề đặt ra tiếp theo là cần xác định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như thế nào? Trước hết, thẩm quyền nội dung các văn bản cần được xác định trong khuôn khổ thẩm quyền quản lý nhà nước mà Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp cũng như các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên đã giao cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Thẩm quyền nói trên của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là bao quát toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn (chỉ căn cứ vào Pháp lệnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp thì thẩm quyền quản lý nhà nước trên địa bàn của các cấp như sau: Hội đồng nhân dân tỉnh: 8 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân thành phố thuộc trung ương: 12 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân huyện: 8 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân huyện đảo: 11 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân quận: 9 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh: 12 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân xã, thị trấn: 7 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân phường: 10 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân tỉnh: 15 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân thành phố thuộc trung ương: 25 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân huyện: 12 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân huyện đảo: 16 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân quận: 16 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh: 17 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn: 12 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân phường: 15 lĩnh vực. Trong mỗi lĩnh vực lại có rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.)

Vấn đề lưu ý ở đây là không thể đồng nhất thẩm quyền quản lý nhà nước trên địa bàn với thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nói chung, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật hẹp hơn rất nhiều so với thẩm quyền quản lý nhà nước. Bởi vì, để thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phải ban hành ba loại văn bản, mà văn bản quy phạm pháp luật chỉ là một trong ba loại đó. Hơn nữa, theo quan hệ phân cấp từ trung ương xuống các cấp chính quyền địa phương thì có một số quan hệ xã hội, các cấp chính quyền địa phương không được pháp luật giao thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật. Đó là những lĩnh vực như: hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân dự, thương mại, thuế, ngân sách, hôn nhân gia đình, xử lý vi phạm hành chính, đất đai, tổ chức bộ máy...

Vậy ở những lĩnh vực, loại quan hệ xã hội nào thì Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được đặt ra quy phạm pháp luật? Hiện chưa có văn bản nào quy định cụ thể vấn đề này. Thông thường, có thể chọn một trong ba phương pháp để quy định thẩm quyền ban hành quy phạm cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, đó là: phương pháp liệt kê loại quan hệ xã hội và phương pháp loại trừ (ví dụ loại trừ những lĩnh vực, loại quan hệ xã hội mà chỉ những cơ quan nhà nước ở trung ương mới có quyền ban hành quy phạm, còn lại thì các cấp chính quyền địa phương ban hành). Phương pháp thứ ba kết hợp cả 2 phương pháp trên: kết hợp loại trừ và liệt kê (ví dụ: loại trừ một số lĩnh vực chỉ cơ quan nhà nước ở trung ương mới có quyền ban hành quy phạm và liệt kê một số loại quan hệ xã hội mà chính quyền địa phương được phép ban hành quy phạm pháp luật trong số thẩm quyền quản lý nhà nước mà văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên quy định giao quyền tự quản cho địa phương).

Nếu xem xét ở góc độ Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật, cũng cần lưu ý một điểm là: theo nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền và yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật thì thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ngày càng phải thu hẹp khi Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Nói cách khác, thẩm quyền ban hành và nội dung văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương tỷ lệ nghịch với mức độ hoàn thiện của Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật. Trên cơ sở những nội dung đã phân tích, việc quy định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân nên theo phương pháp thứ ba nêu trên: kết hợp loại trừ những loại quan hệ chỉ thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành quy phạm pháp luật để điều chỉnh và liệt kê các loại quan hệ xã hội đặc thù mang tính tự quản ở địa phương mà cơ quan chính quyền địa phương cần ban hành quy phạm pháp luật để điều chỉnh.

Hơn nữa, việc quy định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cần theo hướng cụ thể, có phân biệt thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân với thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân; phân biệt thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp trên với Hội đồng nhân dân cấp dưới và của Uỷ ban nhân dân cấp trên với Uỷ ban nhân dân cấp dưới căn cứ vào vị trí, tính chất, chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi loại, mỗi cấp cơ quan chính quyền địa phương.

3. Về phát hiện nhu cầu, lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Các nguồn thông tin để phát hiện nhu cầu phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương gồm:

- Thông tin từ hoạt động quản lý của Nhà nước (đây là nguồn cơ bản nhất) nhằm phát hiện nhu cầu phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, điều chỉnh một lĩnh vực, một nhóm các quan hệ xã hội nào đó trong thực tiễn;

- Thông tin thu được từ các phương tiện thông tin đại chúng, các kiến nghị đề xuất của công dân, các cơ quan đoàn thể;

- Thông tin từ văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao nhiệm vụ quyền hạn trong công tác quản lý và tổ chức thực hiện văn bản đó;

- Thông tin từ công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản phát hiện các vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo; các kiến nghị ban hành văn bản mới để sửa đổi, bổ sung, thay thế văn bản hiện hành.

Khi nhận được thông tin từ các nguồn trên, bộ phận tham mưu cần nghiên cứu rõ xem có vấn đề gì đang đặt ra? cần định hướng của Nhà nước như thế nào? đến mức nào? Có cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hay dùng biện pháp khác? Nếu cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì dùng loại hình văn bản nào? cấp nào ban hành. Muốn trả lời được các câu hỏi này, cần triển khai tìm hiểu bước đầu thực trạng xã hội, xử lý các tài liệu có liên quan, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng để xác định và đề xuất nhu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật, lập các kế hoạch có tính định hướng chung và kế hoạch cụ thể.

Chủ thể lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật gồm có các sở, ban, ngành, Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân. Trong đó, bên cạnh cơ quan có thẩm quyền thông qua (quyết định) kế hoạch, cần thấy rõ vai trò quan trọng của cơ quan Tư pháp, Văn phòng Uỷ ban nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân là các cơ quan đầu mối, tham mưu tích cực cho việc xây dựng kế hoạch.

Bên cạnh kế hoạch có tính định hướng chung (nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chiến lược dài hạn) các địa phương nên lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm, sáu tháng và hàng quý, trong đó có kế hoạch của Hội đồng nhân dân (ban hành nghị quyết) và kế hoạch của Uỷ ban nhân dân (ban hành quyết định, chỉ thị).

Nội dung kế hoạch cần có: tên văn bản; cơ quan chủ trì soạn thảo; cơ quan thông qua; tiến độ các khâu đoạn trong quá trình soạn thảo, thông qua; cơ quan thẩm định, thẩm tra và các điều kiện bảo đảm.

4. Về hoạch định chính sách pháp lý trong việc ban hành văn bản

Hoạch định chính sách pháp lý là việc nghiên cứu đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội, thực trạng và nhu cầu quản lý nhà nước nhằm xây dựng một hệ thống quan điểm, chủ trương biện pháp quản lý nhà nước, về những vấn đề có liên quan đến nội dung của một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho việc soạn thảo, thông qua văn bản đó.

Trong quá trình nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp lý cần phải xác định nội dung của khung cơ bản về chính sách pháp luật với các yêu cầu cụ thể như:

- Phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ của chủ thể quản lý, đúng đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam;

- Lựa chọn đúng phương pháp và hình thức tác động của quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động, phù hợp với khả năng trình độ của các đối tượng phải thi hành văn bản đó;

- Phù hợp các quy định của Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

- Lựa chọn hình thức văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với nội dung quản lý và thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước sẽ ban hành văn bản đó.

Để đáp ứng được các yêu cầu nêu trên, các nhà hoạch định chính sách pháp lý phải nêu ra và trả lời được cụ thể, chính xác các câu hỏi tổng quát sau đây:

- Cái gì đang xảy ra? Để giải quyết vấn đề đó, Nhà nước có cần tác động hay không? và có cần phải tác động bằng các quy phạm pháp luật hay không?

Song song với việc nghiên cứu cụ thể thực trạng kinh tế xã hội, các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, các nhà hoạch định chính sách pháp lý phải nghiên cứu cả những nội dung quan trọng khác như đường lối chính sách của Đảng, kinh nghiệm quản lý trong và ngoài nước để xây dựng hoàn chỉnh một khung cơ bản, đồng bộ về chính sách pháp lý. ở địa phương, vấn đề nghiên cứu kinh nghiệm của các địa phương khác cũng có ý nghĩa quan trọng.

Để thu thập được thông tin, tư liệu phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu hoạch định chính sách pháp lý, cần sử dụng các biện pháp cơ bản sau đây:

a. Tổ chức việc rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (thực tiễn lập pháp - lập quy);

Rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước là nhiệm vụ thường xuyên do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định. Mục tiêu trực tiếp của rà soát, hệ thống hoá là sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước để xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn thiện, thống nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước. Trước khi soạn thảo một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; phải tến hành công tác rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành làm cơ sở cho việc đưa ra các quy định mới.

b. Tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tiễn quản lý nhà nước, thực trạng kinh tế - xã hội, đường lối chính sách của Đảng.

Cùng với việc nghiên cứu thực tiễn lập pháp (rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan), việc tổ chức nghiên cứu khảo sát thực tiễn quản lý, thực trạng kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định cho việc hình thành nội dung của văn bản sẽ được soạn thảo.

c. Tổ chức nghiên cứu khảo sát kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các địa phương bạn về vấn đề tương ứng.

Tổ chức nghiên cứu, khảo sát, rút kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các địa phương bạn sẽ tạo được điều kiện cho các nhà xây dựng dự thảo hình dung được kinh nghiệm (hình thức văn bản, nội dung văn bản) điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội tương ứng. Mặt khác vấn đề này cũng tạo nên điều kiện để xây dựng được mặt bằng pháp lý nói chung trong cơ cấu so sánh ngang giữa các địa phương - một yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật của nhà nước thống nhất, đồng bộ. Có thể dùng các biện pháp khác nhau để nghiên cứu khảo sát kinh nghiệm như: thu thập văn bản để nghiên cứu; cử đoàn tham quan, trao đổi kinh nghiệm, mời các cán bộ có kinh nghiệm của địa phương bạn báo cáo các chuyên đề liên quan...

5. Về tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

Việc tổ chức ban soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cần được xây dựng theo cơ chế "mềm", cụ thể là có những trường hợp văn bản phức tạp, quan trọng, liên quan đến nhiều ngành thì có thể thành lập tiểu ban soạn thảo hoặc tổ soạn thảo với sự tham gia của nhiều ngành (cơ quan chủ trì, cơ quan Tư pháp, Văn phòng Uỷ ban nhân dân, ban của Hội đồng nhân dân và một số đại diện các ngành khác...) còn những văn bản đơn giản, cụ thể thì có thể giao cho cơ quan chủ trì (cơ quan chuyên môn) chuẩn bị với sự theo dõi, phối hợp của Văn phòng Uỷ ban nhân dân và thẩm định của cơ quan Tư pháp, thẩm tra của các Ban của Hội đồng nhân dân theo khung cơ bản sau đây:

+ Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện do Uỷ ban nhân dân cùng cấp chủ trì phối hợp với các Ban của Hội đồng nhân dân được phân công soạn thảo. Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ đạo soạn thảo. Trong trường hợp cần thiết, thường trực Hội đồng nhân dân thành lập tiểu ban soạn thảo.

+ Dự thảo quyết định, chỉ thị do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện phân công cho cơ quan chuyên môn, đơn vị thuộc Uỷ ban nhân dân chủ trì soạn thảo. Đối với dự thảo quyết định, chỉ thị có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, lĩnh vực thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành lập tiểu ban soạn thảo. Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ đạo việc soạn thảo.

- Việc tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cần được tiến hành một cách dân chủ. Vấn đề thu hút sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, các nhà chuyên môn, các đối tượng phải thi hành văn bản và công dân vào công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được chú trọng. Cần phải xác định phạm vi, phương thức thích hợp của việc tham gia ý kiến của các cơ quan, các cấp, các ngành kể cả xin ý kiến Cấp Uỷ, của các tổ chức đoàn thể xã hội và của cả công dân trong giai đoạn soạn thảo. Việc lấy ý kiến này sẽ do cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan xem xét thông qua quyết định và là bắt buộc đối với mọi dự thảo.

Cần chú trọng kỹ thuật soạn thảo, trình bày một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. ở đây cần nắm chắc thể thức, cách trình bày (khung) của một văn bản nghị quyết, quyết định, chỉ thị; kỹ thuật viết một điều luật trong mối quan hệ với quy phạm pháp luật (hình thức và nội dung); câu chữ, cách diễn đạt trong văn bản phải đơn giản, dễ hiểu, chính xác, cụ thể...

6. Về giai đoạn xem xét, thông qua văn bản quy phạm pháp luật

6.1. Về thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

 Giai đoạn này cần xác định rõ một số nội dung cụ thể sau đây:

- Tuỳ theo tính chất nội dung của dự thảo nghị quyết, thường trực Hội đồng nhân dân giao cho một ban của Hội đồng nhân dân thẩm tra dự thảo, các ban khác có trách nhiệm tham gia. Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra tất cả các mặt của dự thảo nghị quyết nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo trong hệ thống pháp luật và sự phù hợp của dự thảo với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. Đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã thì chủ tịch Hội đồng nhân dân xem xét cho ý kiến.

- Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân phải được cơ quan Tư pháp (Sở, Phòng, Ban Tư pháp) thẩm định trước khi trình Uỷ ban nhân dân. Cơ quan Tư pháp thẩm định sự cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, kỹ thuật soạn thảo văn bản, bảo đảm sự phù hợp của nội dung dự thảo với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

- Cần có quy định cụ thể hồ sơ trình (dự thảo văn bản; tờ trình; báo cáo thẩm tra, thẩm định; bản tập hợp ý kiến đóng góp và các tài liệu liên quan khác).

6.2. Về trình tự xem xét thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

- Đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, cần có quy định rõ trách nhiệm của thường trực Hội đồng nhân dân trong việc bảo đảm chuẩn bị dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân là đầu mối để xử lý, đề xuất các vấn đề đưa ra kỳ họp Hội đồng nhân dân thảo luận, quyết định. Trình tự xem xét, thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cũng cần chặt chẽ bảo đảm cho các đại biểu Hội đồng nhân dân có điều kiện, thông tin để thảo luận và quyết định các nội dung của dự thảo.

- Đối với dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân, vấn đề nổi lên hiện nay là cần quy định rõ trình tự xem xét, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân để bảo đảm những văn bản này đúng là văn bản của tập thể Uỷ ban nhân dân, do tập thể Uỷ ban nhân dân thảo luận, thông qua trong phiên họp của Uỷ ban nhân dân. Có thể quy định rõ trình tự thảo luận, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo hướng:

+ Tại phiên họp của Uỷ ban nhân dân đại diện cơ quan, tổ chức được phân công chủ trì soạn thảo trình bày dự thảo;

+ Sau khi nghe ý kiến thẩm định của cơ quan Tư pháp, Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.

Để thực hiện được những công đoạn cơ bản của quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Điều quan trọng hiện nay là cần nhanh chóng khảo sát, nghiên cứu đưa ra phương án chung làm cơ sở cho việc xây dựng Luật ban hành quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân để khép kín quy trình xây dựng các loại văn bản quy phạm pháp luật đã được mở ra và giải quyết một phần ở Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Những quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân sẽ là cơ sở để ban hành những quy chế làm việc cụ thể về cách thức, lề lối làm việc và sự phối kết hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

V. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN

1. Cần khẩn trương xây dựng và ban hành "Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp".

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương bảo đảm quy trình soạn thảo và ban hành văn bản đúng thẩm quyền, khắc phục tình trạng văn bản có quy định chồng chéo, mâu thuẫn, có nội dung trái pháp luật; trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản được xác định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 101/CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc nghiên cứu, soạn thảo ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân sẽ phúc đáp yêu cầu của địa phương và yêu cầu xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ, hoàn thiện trong phạm vi cả nước, ở cả trung ương lẫn các cấp chính quyền địa phương.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cần được xây dựng trên khung các vấn đề cơ bản sau đây:

* Những quy định chung quy định rõ các vấn đề như: định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; nguyên tắc về tính hợp hiến, hợp pháp, về tính thống nhất; nguyên tắc dân chủ hoá hoạt động lập quy, xác định hiệu lực văn bản; số ký hiệu văn bản; rà soát hệ thống hoá; sửa đổi, bổ sung, thay thế, đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân...;

* Nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.

Trong phần này tập trung giải quyết các vấn đề cụ thể như: thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó cần phân định rõ thẩm quyền về nội dung và hình thức của mỗi loại văn bản để tránh tình trạng ban hành văn bản tuỳ tiện, chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau.

* Soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phần này tập trung giải quyết các vấn đề cụ thể như:

- Lập và thông qua chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân dài hạn và hàng năm;

- Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, trong đó quy định rõ cá nhân/cơ quan chủ trì soạn thảo và trách nhiệm của cá nhân/cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia hoạt động soạn thảo;

- Thẩm định, cho ý kiến về mặt pháp lý dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Tư pháp địa phương trong việc thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân;

- Trách nhiệm của Thường trực Hội đồng nhân dân và Văn phòng Uỷ ban trong việc bảo đảm chuẩn bị dự thảo;

- Trình tự xem xét, thông qua và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân;

* Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Trong phần này quy định rõ: thời điểm có hiệu lực, hết hiệu lực cũng như việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

* Cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý văn bản trái pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Trong phần này cần quy định một cách cụ thể thẩm quyền và xác định rõ cơ chế kiểm tra, giám sát và sử lý văn bản trái pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như:

- Thẩm quyền, cơ chế giám sát, xử lý đối với nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

- Thẩm quyền, cơ chế kiểm tra và xử lý đối với văn bản quy phạm pháp luật sai trái của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

* Các điều kiện bảo đảm việc cho việc tổ chức thực hiện như: huy động sự tham gia ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực chuyên môn và pháp lý; điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí; trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành trong hiện phổ biến, tuyên truyền và hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ soạn thảo văn bản ...

2. Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Như đã phân tích ở phần trên, theo chúng tôi nên tập trung thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Việc xác định cụ thể thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cả 3 cấp hay chỉ ở cấp tỉnh hoặc ở cấp tỉnh và cấp huyện cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng. Vấn đề này có quan hệ mật thiết với các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, thậm chí  kể cả Hiến pháp. Theo chúng tôi, có thể chỉ nên giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc có thể mở rộng đến cấp huyện với những lý do đã được phân tích ở phần trên.

Cần phân định rõ thẩm quyền về nội dung và hình thức của mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân để tránh tình trạng ban hành văn bản tuỳ tiện, chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau và cần quy định thẩm quyền ban hành theo hướng hẹp dần theo hệ cấp thẩm quyền từ trên xuống.

Không nên quy định cơ quan quản lý ngành ở địa phương và Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành văn bản pháp quy. Đối với cơ quan quản lý ngành ở địa phương trong quá trình quản lý thấy cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh thì phải đăng ký để bổ sung vào chương trình xây dựng pháp quy của địa phương. Trong tờ trình phải nêu rõ lý do, mục đích, phạm vi điều chỉnh và dự kiến các phương án, cơ chế và các điều kiện bảo đảm khác.

3. Về quy trình ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Theo chúng tôi quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các câp các chính quyền địa phương cần được xây dựng theo quy trình sau:

+ Xây dựng chương trình, kế hoạch soạn thảo văn bản;

+ Thành lập ban soạn thảo văn bản;

+ Tiến hành soạn thảo văn bản;

+ Thu thập ý kiến xây dựng dự thảo văn bản;

+ Thẩm định dự thảo văn bản;

+ Trình tự xem xét, thông qua dự thảo văn bản;

+ Ký ban hành và tổ chức thực hiện.

4. Nâng cao vai trò của cơ quan tư pháp trong quá trình xây dựng dự thảo văn bản của các cấp chính quyền địa phương.

Theo chúng tôi, trong quá trình xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp cần phải xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và vai trò của cơ quan tư pháp trong việc tham gia ý kiến xây dựng dự thảo và thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương. Đây là một khâu quan trọng (bắt buộc) của quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, văn bản pháp quy độc lập của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

5. Về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân.

Hội đồng nhân dân là cơ quan nhà nước cao nhất ở địa phương, là cơ quan quyết định các vấn đề cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước ở địa phương. Do vậy, trong dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp cần quy định rõ phạm vi các nội dung được phép đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; còn những vấn đề nào thì thuộc nội dung Chỉ thị, Quyết định của Uỷ ban nhân dân. Hiện nay một số địa phương có xu hướng muốn đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân nhiều vấn đề cụ thể, bức xúc để bắt buộc thực hiện nên luật cần có hạn chế để Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tập trung vào quyết định những vấn đề lớn, chung nhất cả địa phương.

Ngoài văn bản này cần có văn bản riêng quy định và hướng dẫn về quy cách xây dựng và ban hành các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.



([1]) Điều 1 Nghị định số 101/CP của Chính phủ ban hành ngày 23/9/1997 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

 

Nội dung toàn văn

Bộ tư pháp

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý

 

 

 

 

Đề tài

 

Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật

của các cấp chính quyền địa phương

 

Mã số: 98-98-073

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hà Nội - 2000

Bộ tư pháp

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý

 

 

 

 

Đề tài

 

Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật

của các cấp chính quyền địa phương

 

Mã số: 98-98-073

 

Ban chủ nhiệm đề tài:

 

TS. Uông Chu Lưu - Chủ nhiệm.

TS. Lê Hồng Sơn - P. Chủ nhiệm.

TS. Thái Vĩnh Thắng - P. Chủ nhiệm

LG. Dương Bạch Long - Thư ký

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hà Nội - 2000

 

 

Lời nói đầu

 

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Từ năm 1986 đến nay, Nhà nước ta thực hiện việc chuyền đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường; thực hiện chương trình cải cách kinh tế và từng bước cải cách nền hành chính quốc gia. Thực tế, chúng ta đã đạt được những thành công nhất định trong việc hình thành một cơ chế quản lý kinh tế hợp quy luật, hợp lòng dân, hợp xu thế thời đại - tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội... Việc tăng cường và phát huy vai trò của Nhà nước theo hướng quản lý xã hội bằng pháp luật đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Trong thời gian qua, công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Trung ương cũng như ở địa phương đã có nhiều tiến bộ, góp phần tạo được một môi trường pháp lý lành mạnh, bảo đảm sự phát triển ổn định của xã hội. Cùng với những tiến bộ vượt bậc tạo sự chuyển biến về chất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương ngày càng được hoàn thiện hơn, bao quát nhiều mặt đời sống xã hội trên địa bàn. Tình hợp pháp, đồng bộ, hợp lý (phù hợp thực trạng kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý) ngày càng được bảo đảm hơn so với trước. Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên.

Nhiệm vụ hướng dẫn thi hành Hiến pháp, luật và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên là đòi hỏi tất yếu để cụ thể hoá, chi tiết hoá những quy phạm pháp luật, căn cứ vào từng điều kiện cụ thể về kinh tế - xã hội của từng địa phương. Hơn nữa, với tư cách là cơ quan nhà nước có chức năng quản lý các mặt, các lĩnh vực trên địa bàn, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cần thiết phải được giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để chủ động điều chỉnh các quan hệ xã hội đang tồn tại trên địa bàn nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã được pháp luật giao. Trong thực tiễn xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước ta cũng như trong quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mảng các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan chính quyền địa phương ban hành có một vị trí hết sức quan trọng. Bên cạnh những thành tựu bước đầu, trong thời gian qua công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp chính quyền địa phương đang tồn tại nhiều bất cập, thiếu sót cả trong việc xác định thẩm quyền lẫn trong trình tự, thủ tục ban hành, làm hạn chế chất lượng văn bản và hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý. Một trong những nguyên nhân quan trọng của những tồn tại, thiếu sót này là các vấn đề cơ bản thuộc lý luận và thực tiễn ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, thấu đáo. Trong hệ thống pháp luật hiện hành cũng chưa có những quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Trong chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, dự kiến Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, chính quyền địa phương sẽ được soạn thảo và thông qua trong thời gian tới. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài khoa học: "Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp chính quyền địa phương" đang được đặt ra một cách cấp thiết nhằm nghiên cứu một cách đầy đủ, đồng bộ cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tạo tiền đề, điều kiện cho hoạt động nghiên cứu, soạn thảo dự án luật. Mặt khác, thông qua kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho các đơn vị chức năng thuộc Bộ hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn, nhiệm vụ nhằm tăng chất lượng, hiệu quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các địa phương.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.

Đề tài: "Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương" nhằm:

- Xem xét, đánh giá về lý luận và thực tiễn ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay;

- Phân tích, đánh giá thực trạng về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; về tổ chức, hoạt động và cơ chế ban hành văn bản pháp quy ở các cấp chính quyền địa phương. Tìm ra cơ chế để đưa pháp luật vào cuộc sống;

- Đưa ra các kiến nghị góp phần xây dựng Dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.

3. Nhu cầu kinh tế xã hội và địa chỉ áp dụng

Việc triển khai nghiên cứu đề tài phục vụ yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước theo Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.

Nội dung nghiên cứu của Đề tài sẽ góp phần xây dựng Dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ởđịa phương, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu.

Trong quá trình nghiên cứu Đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lê nin; đồng thời sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, hệ thống, thống kê... trên cơ sở những kết quả thu được từ điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn và nghiên cứu khoa học.

5. Nội dung chính của Đề tài.

Đề tài tập trung vào nghiên cứu những nội dung cơ bản về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương; đưa ra phương hướng, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Cụ thể như sau:

- Làm rõ khái niệm văn bản quy phạm pháp luật - Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp;

- Xác định vị trí, tính chất, vai trò của việc xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý của chính quyền địa phương;

- Đánh giá khái quát công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, làm rõ việc phân định thẩm quyền ban hành và thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp;

- Nêu lên những hạn chế, tồn tại trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại đó;

- Đưa ra phương hướng hoàn thiện công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trong giai đoạn hiện nay;

- Kết luận và đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

6. Tổ chức thực hiện.

Đề tài: "Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương" được tổ chức bởi:

Cơ quan chủ quản: Bộ Tư pháp

Cơ quan chủ trì: Viện NCKH pháp lý

Chủ nhiệm: TS. Uông Chu Lưu

Thứ trưởng Bộ Tư pháp

Phó chủ nhiệm: TS. Lê Hồng Sơn

P. Vụ trưởng Vụ PL Hành chính - Hình sự

TS. Thái Vĩnh Thắng

Phó chủ nhiệm khoa Hành chính - Nhà nước

Thư ký đề tài: Dương Bạch Long

Viện NCKH pháp lý.

Cơ quan phối hợp chính: Vụ Pháp luật Hành chính - Hình sự, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Bắc Ninh, Hải Dương, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Hoà Bình...

 

Phần I:

Báo cáo phúc trình Đề tài:

 

Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương

 

I. Những vấn đề chung.

1. Văn bản quy phạm pháp luật - Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

1.1. Văn bản quy phạm pháp luật.

Văn bản là một hình thức thể hiện của tư duy dùng để ghi lại các quyết định của con người. Từ góc độ của các ngành khoa học khác nhau, có các định nghĩa khác nhau về văn bản:

Theo nghĩa rộng, văn bản được hiểu là một phương tiện để ghi nhận và truyền đạt các thông tin, quyết định từ chủ thể này đến chủ thể khác bằng một ký hiệu hoặc ngôn ngữ nhất định. Theo quan niệm này, từ các loại giấy tờ, tài liệu, sách vở đến các loại khẩu hiệu, hoành phi, câu đối, áp phích, băng ghi âm, bản vẽ... đều được coi là văn bản.

Theo nghĩa hẹp, văn bản được hiểu là các tài liệu, giấy tờ được sử dụng trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng, các tổ chức kinh tế... hoặc các tài liệu của cá nhân có giá trị, ý nghĩa pháp lý, xã hội nhất định.

Văn bản quy phạm pháp luật, theo Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (do Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày ngày 12-11-1996) thì: "văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Theo quy định của pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật phải có đầy đủ các yếu tố sau đây:

a. Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành với hình thức được quy định tại Điều 1 của Chương I và Chương II của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

b. Văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương ban hành theo đúng thủ tục, trình tự được quy định tại các chương III, IV, V, VI và VII của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các quy định tại Nghị định số 101/CP ngày 23-9-1997;

c. Văn bản có chứa các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương.

Quy tắc xử sự chung là những chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh;

d. Văn bản được Nhà nước bảo đảm thi hành bằng các biện pháp như: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết thì Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành và quy định chế tài đối với người có hành vi vi phạm.

Những văn bản cũng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành mà không có đầy đủ các yếu tố nói trên để giải quyết những vụ việc cụ thể đối với những đối tượng cụ thể, thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật và không chịu sự điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 101/CP như: quyết định lên lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định phê duyệt dự án, Chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua, biểu dương người tốt, việc tốt và những văn bản cá biệt khác.

Từ những vấn đề trình bày ở trên có thể kết luận: văn bản quy phạm pháp luật là kết quả của sự thực hiện ý chí quyền lực nhà nước của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, được xây dựng và ban hành theo thủ tục do pháp luật quy định, trong đó có các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, đặt ra quy phạm pháp luật mới, áp dụng các quy phạm pháp luật hiện hành do các cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ quy phạm pháp luật hiện hành, thay đổi phạm vi hiệu lực của quy phạm pháp luật hiện hành về thời gian, không gian và đối tượng thi hành, được Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.

1.2. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Theo quy định tại Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là một bộ phận trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta gồm có các hình thức: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. Văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; Văn bản của Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Như vậy, trên cơ sở khái niệm chung về văn bản quy phạm pháp luật đã được Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định, ta có thể hiểu "Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là văn bản được ban hành dưới hình thức Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, được Nhà nước bảo đảm thực hiện và có hiệu lực trong phạm vi địa phương".

Với quan niệm như vậy, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng có các yếu tố đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật nói chung. Đồng thời, do đặc điểm của chủ thể ban hành, phạm vi hiệu lực pháp lý, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân còn có những yếu tố đặc thù so với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Cụ thể là:

- Là những văn bản do Hội đồng nhân dân ban hành (dưới hình thức Nghị quyết) hoặc do Uỷ ban nhân dân ban hành (dưới hình thức Quyết định, Chỉ thị) nhằm thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước ở địa phương, thể hiện ý chí và quyền lực Nhà nước của các chủ thể này, buộc các chủ thể pháp luật khác phải tuân theo (nếu họ thuộc phạm vi tác động của văn bản). Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được ban hành để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân còn để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

- Được ban hành theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định nhằm bảo đảm tính hợp pháp, tính hợp lý và hiệu quả của nội dung các quy định cũng như hình thức thể hiện. Thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật là các giai đoạn cơ bản kế tiếp nhau theo trình tự thời gian từ khi có sáng kiến ban hành đến khi thông qua, ký ban hành văn bản đó. Trong từng giai đoạn, nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của từng chủ thể tham gia vào việc nghiên cứu, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và xem xét biểu quyết hoặc ký thông qua văn bản quy phạm pháp luật được xác định rõ. Hiện nay, do chưa có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cho nên thủ tục, trình tự ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được quy định một phần ở các luật, pháp lệnh về tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, còn một phần (cụ thể, chi tiết) lại do bản thân Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân ban hành;

- Có chứa đựng các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần trong phạm vi địa phương đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng là cơ quan tổ chức hay cá nhân. Các quy tắc xử sự chung này hoặc là đặt ra các quy phạm pháp luật mới hoặc sửa đổi, bãi bỏ các quy phạm pháp luật hiện hành, trực tiếp làm thay đổi hệ thống quy phạm pháp luật ở địa phương. Đây là yếu tố đặc trưng nhất làm cơ sở để phân biệt với các loại văn bản khác tuy cũng do Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân ban hành nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật. (Ví dụ: Văn bản chủ đạo - đề ra chủ trương đường lối, nhiệm vụ, chính sách, biện pháp lớn có tính chất chung. Hoặc văn bản cá biệt - áp dụng quy phạm pháp luật vào các trường hợp cá biệt cụ thể và chỉ áp dụng một lần làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể ở địa phương như lên lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động, thuyên chuyển, bổ nhiệm, xử lý vi phạm hành chính...);

- Được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành và quy định chế tài đối với người có hành vi vi phạm.

2. Vị trí, tính chất, vai trò của việc xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý của chính quyền địa phương.

Trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, các cơ quan chính quyền địa phương có vị trí hết sức quan trọng trong việc xây dựng và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng... Các cơ quan chính quyền địa phương là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.

ý nghĩa của các cơ quan chính quyền địa phương xét từ góc độ vận hành của bộ máy Nhà nước tựu chung ở chỗ chúng gần với nhân dân. Khoảng cách giữa chính quyền và dân chúng được rút ngắn rất nhiều so với Trung ương. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII nêu rõ: "Cơ quan chính quyền Nhà nước ở cấp địa phương dựa trên hệ thống thống nhất về luật pháp, chính sách và theo định hướng của kế hoạch nhà nước để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội đối với mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ, bảo đảm thi hành pháp luật nghiêm minh, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở địa phương, củng cố an ninh và quốc phòng".

Với tinh thần đổi mới của Đảng, Hiến pháp năm 1992 đã đặt nền tảng, cơ sở pháp lý cho sự đổi mới về tổ chức hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được hình thành trên nguyên tắc xác định thẩm quyền theo địa bàn hành chính - lãnh thổ tạo thành một hệ thống thống nhất - hệ thống chính quyền địa phương. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình với 2 tư cách: trước hết, là những cơ quan nhà nước, đóng tại địa phương, là bộ phận của quyền lực nhà nước thống nhất không phân chia, thay mặt Nhà nước Trung ương giải quyết những vấn đề chung của Nhà nước ở địa phương; đồng thời, là những cơ quan đại diện cho cộng đồng dân cư ở cơ sở giải quyết những vấn đề có ý nghĩa địa phương, là những pháp nhân thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ nhất định.

Điều 119 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên". Như vậy, vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân có thể xét theo hai góc độ:

1 - Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương;

2 - Hội đồng nhân dân - cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.

Quyền lực của Hội đồng nhân dân đựơc giới hạn trong phạm vi đơn vị hành chính - lãnh thổ. Tuy là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân không có quyền lập pháp, mà là cơ quan có chức năng quản lý địa phương, thực hiện nhiều hoạt động mang tính chấp hành và điều hành "Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương..." (Điều 120 Hiến pháp 1992). Là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân của địa phương, Hội đồng nhân dân có quyền chủ động giải quyết các vấn đề trong phạm vi địa phương, vì quyền lợi và đời sống của nhân dân địa phương, không trái với lợi ích chung của quốc gia và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Theo Điều 112 Hiến pháp 1992, Điều 8 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: "Hội đồng nhân dân chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên". Quyền lực Nhà nước ở địa phương phải được thực hiện sao cho không những đáp ứng yêu cầu hợp hiến và hợp pháp, mà còn không được trái với các quy định trong các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng...

 

Điều 123 Hiến pháp 1992 quy định: "Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân". Như vậy, vị trí pháp lý của Uỷ ban nhân dân có thể xét theo hai góc độ:

1. Là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân;

2. Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của Bộ trưởng trong việc thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ phụ trách (Điều 27 Luật tổ chức Chính phủ).

Cũng như Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quản lý địa phương theo Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 3 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân). Là cơ quan quản lý thẩm quyền chung, Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý toàn diện theo lãnh thổ đối với mọi ngành lĩnh vực thuộc địa phương, bảo đảm thi hành pháp luật, các quy định của cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp, giám sát việc thi hành pháp luật đối với các cơ quan đóng tại địa bàn trong phạm vi thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân về những vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý theo lãnh thổ.

Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

Là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, Hội đồng nhân dân các cấp ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân... Là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính ở địa phương, Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, Uỷ ban nhân dân có quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.

Thực hiện nhiệm vụ luật định, các cơ quan chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân) thông qua các hoạt động cụ thể quản lý, điều hành mọi mặt hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân trong địa phương. Một hoạt động quan trọng nhất trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình là cơ quan chính quyền địa phương có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

ở đây, một câu hỏi được đặt ra là: thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương đến đâu? Lý giải vấn đề đó không phải đơn giản. Nhưng theo chúng tôi có thể tìm lời giải ở hai lý do chính sau đây:

Một là, chính quyền địa phương theo pháp luật là cơ quan quyền lực Nhà nước phải có phương thức để biểu hiện quyền lực của mình ra bên ngoài nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao;

Hai là, các cơ quan nhà nước ở Trung ương dù cố gắng đến mấy cũng không thể ban hành được một hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu, đặc điểm, đặc thù của mọi địa phương trong toàn quốc, là hệ thống quy tắc xử sự chung, là đại lượng bằng nhau cho mọi quan hệ xã hội không bằng nhau, pháp luật, đặc biệt là các văn bản do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành không thể đủ sức đưa ra lời giải đáp cho mọi trường hợp cụ thể được. Vì vậy, trên cơ sở các quy định của các cơ quan nhà nước Trung ương, chính quyền địa phương ban hành các văn bản để cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của địa phương. Tất nhiên, nguyên tắc pháp chế XHCN không cho phép các quy định của chính quyền địa phương trái với các quy định của cơ quan nhà nước Trung ương mà phải phù hợp với nó.

Do vậy, nhiệm vụ hướng dẫn thi hành Hiến pháp, luật và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên là một nhiệm vụ tất yếu để cụ thể hoá, chi tiết hoá những quy phạm pháp luật căn cứ vào tình hình và điều kiện cụ thể về kinh tế - xã hội của từng địa phương. Trong thực tiễn xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước ta cũng như trong quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mảng các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan chính quyền địa phương ban hành có một vị trí hết sức quan trọng.

Muốn đạt được những yêu cầu cơ bản nêu trên, bên cạnh việc xác định rõ, chính xác thẩm quyền ban hành văn bản về nội dung và hình thức thì việc xác định rõ trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật là rất quan trọng. ý nghĩa quan trọng của vấn đề này thể hiện ở chỗ không chỉ giúp cho việc chuẩn bị văn bản, đảm bảo được tiến độ thời gian mà quan trọng hơn là nâng cao chất lượng văn bản, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, tính thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật.

 

II. Thực trạng công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.

1. Đánh giá chung.

Hơn 10 năm vừa qua, kể từ khi có Hiến pháp 1992, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương ngày càng được đẩy mạnh và có những bước phát triển mới, tiến bộ hơn rất nhiều so với thời gian trước. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành trong thời gian qua ngày càng tăng cả về số lượng cũng như chất lượng, chứng tỏ các ngành, các cấp ở địa phương đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc quản lý nhà nước bằng pháp luật, coi văn bản quy phạm pháp luật là công cụ quan trọng không thể thiếu trong quản lý, điều hành nhà nước ở địa phương. Những văn bản này, mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số văn bản đã được ban hành và ở nhiều địa phương chỉ tập trung chủ yếu ở cấp tỉnh nhưng nhìn chung đã góp phần tạo nên một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá ổn định ở địa phương, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những văn bản này, cùng với các quy định của pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân.

1.1. Về ưu điểm trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương trong thời gian qua có những ưu điểm sau đây:

- Đã có sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát hơn của cấp uỷ và chính quyền địa phương các cấp đối với công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật;

- Các văn bản quy phạm pháp luật đã được kịp thời ban hành để thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp uỷ trong việc hướng dẫn áp dụng các luật, pháp lệnh và văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phù hợp với tình hình, đặc điểm và yêu cầu chính trị của địa phương; quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình trong lĩnh vực chưa được văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên quy định hoặc quy định chưa cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương;

- Các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành về cơ bản đáp ứng được yêu cầu về hình thức. Tình trạng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bằng hình thức không do luật định, trái thẩm quyền, không vào sổ, không đánh số, không đề ngày, tháng, năm ban hành ở nhiều địa phương về cơ bản đã được khắc phục một cách cơ bản;

- Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được nâng cao, nhất là đối với các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành. Tình trạng văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật khác do cùng cấp ban hành hoặc có nội dung không phù hợp với tình hình thực tế của địa phương ngày càng giảm bớt và được chú ý khắc phục;

- Một số địa phương (chủ yếu ở cấp tỉnh) đã xây dựng được chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm. Chương trình này được xây dựng trên cơ sở để bảo đảm thực hiện Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, căn cứ vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương. Do có chương trình nên các địa phương đã chủ động hơn trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Qua đó quản lý được kế hoạch, tiến độ xây dựng văn bản và bảo đảm công tác xây dựng pháp luật phù hợp với yêu cầu quản lý ở địa phương, đồng thời khắc phục được tình trạng bị động, tuỳ tiện từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả soạn thảo, bảo đảm được tính đồng bộ và tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật;

- Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng và ban hành được văn bản riêng (dưới hình thức quyết định ban hành quy định, quy chế, điều lệ hay chỉ là chỉ thị) quy định trình tự, thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương (như Phú Thọ, Kon-Tum, Lai Châu, Yên Bái, Nghệ An, Bến Tre, Đồng Tháp, Thái Bình, Lạng Sơn, Bình Định, Bình Thuận, Tây Ninh ...). Mặc dù hình thức và nội dung của những văn bản này ở những địa phương khác nhau có điểm khác nhau. Nhưng nhìn chung trong các văn bản này đã xác định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, trình tự soạn thảo, việc lấy ý kiến góp ý soạn thảo, quan hệ giữa cơ quan soạn thảo với cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản và các cơ quan có liên quan khác, thủ tục thẩm định và ban hành văn bản để áp dụng thống nhất trong phạm vi địa phương. Những văn bản này đã góp phần tích cực vào việc thành lập lại trật tự trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, đặc biệt trong điều kiện Nhà nước ta chưa có văn bản có hiệu lực cao quy định thống nhất trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương;

- Đã dần dần khẳng định được vai trò và vị trí của Sở Tư pháp, các phòng Tư pháp trong quá trình soạn thảo, tham gia soạn thảo và đặc biệt là trong việc thẩm định văn bản nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, về kỹ thuật soạn thảo văn bản, nhiều cơ quan Tư pháp địa phương còn có ý kiến cả về mặt hợp lý của văn bản mới khi trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua. ở nhiều địa phương việc Sở Tư pháp xem xét và có ý kiến thẩm định Dự thảo văn bản trước khi trình Uỷ ban nhân dân ban hành là trình tự bắt buộc trong quy trình soạn thảo văn bản. Thực tế có những địa phương làm rất tốt công tác này, ví dụ ở Kon Tum tỷ lệ văn bản được Sở Tư pháp thẩm định là 91,5% đối với dự thảo quyết định của Uỷ ban nhân dân. ở Lâm Đồng, một số huyện quy định văn bản trình ký phải có chữ ký tắt của Chánh Văn phòng và Trưởng phòng Tư pháp huyện. ở Nghệ An, Sở Tư pháp là cơ quan đồng trình dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tại tờ trình dự thảo văn bản phải có chữ ký của Lãnh đạo Sở Tư pháp bên cạnh chữ ký của lãnh đạo cơ quan được giao chủ trì việc soạn thảo.

Cùng với trách nhiệm thẩm định, ở nhiều địa phương, Sở Tư pháp cũng đóng vai trò tích cực trong công tác tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân rà soát và kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác Tư pháp, thường xuyên tiến hành tập huấn nghiệp vụ xây dựng văn bản và hướng dẫn các ngành, các cấp trong tỉnh về quản lý công tác xây dựng văn bản (Kon - Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre...);

- Nhiều địa phương đã coi trọng đặt công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật thành một hoạt động thường xuyên (Nghệ An, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bến Tre, Bắc Ninh, Nam Định ...), xác định đây là một họat động rất quan trọng gắn liền với công tác xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Qua thực hiện công tác này đã phát hiện kịp thời những văn bản có mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực để trình cấp có quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ. Một số Sở Tư pháp đã chủ động tổ chức tập hợp, in thành sách các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương đang còn hiệu lực sau mỗi đợt rà soát. Cùng với hoạt động này, việc xây dựng tủ sách pháp luật ở các cấp quản lý, trang bị đầy đủ các tập Công báo đã hỗ trợ tích cực cho việc áp dụng và thực hiện thống nhất pháp luật ở địa phương.

1.2. Về những hạn chế, tồn tại trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được nói trên, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục. Những tồn tại thiếu sót bao gồm:

- ở một số địa phương vẫn còn hiện tượng ban hành văn bản có tính quy phạm dưới hình thức không do luật định như công văn, thông báo, kết luận. Trong hoạt động xây dựng văn bản vẫn còn có quan niệm cho rằng cơ quan cấp trên có loại văn bản nào đề cập vấn đề gì thì địa phương cũng phải có hình thức cho mỗi loại văn bản đó dẫn đến tình trạng chồng chéo. Nhiều văn bản có cùng nội dung hoặc văn bản của cơ quan cấp dưới quy định lại những vấn đề đã được văn bản của cấp trên quy định nhưng lại không đầy đủ, thậm chí không đúng gây hiểu sai và không thực hiện được;

- Quá trình chuẩn bị một dự án, dự thảo thường bị kéo dài về mặt thời gian do thiếu điều tra, khảo sát thực tiễn để đánh giá đúng thực trạng các quan hệ xã hội, thực trạng thi hành các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành cũng như cân nhắc mức độ, biện pháp quản lý thích hợp của Nhà nước. Phần lớn các dự thảo được biên soạn khi khung chính sách chung chưa được dự liệu một cách thấu đáo toàn diện và vững chắc;

- Còn tình trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đúng thẩm quyền, không có sự phân biệt rõ và thống nhất thẩm quyền về nội dung cũng như thẩm quyền về hình thức của văn bản và không phù hợp với yêu cầu quản lý. Điều này xảy ra ở cả ba cấp tỉnh, huyện và xã nhưng tập trung nhiều ở cấp huyện và xã, đặc biệt ở cấp xã mặc dù theo thống kê của nhiều địa phương văn bản quy phạm pháp luật được ban hành ở cấp này được ban hành không nhiều.

Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành còn có tình trạng chắp vá, mâu thuẫn chồng chéo, thiếu sự thống nhất nội tại trong từng văn bản cũng như các văn bản trong cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật...;

- Do chưa quản lý tốt, kiểm soát được tình hình ban hành văn bản, thiếu sự điều phối có hiệu quả từ một trung tâm theo một kế hoạch, định hướng cơ bản cho nên ở phần lớn các tỉnh, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, hoàn thiện. Có lĩnh vực quá ít văn bản hoặc văn bản có nội dung đã lạc hậu không được kịp thời thay thế, sửa đổi, bổ sung. Ngược lại, có lĩnh vực quá nhiều văn bản cùng điều chỉnh về một vấn đề, một nội dung (trật tự trị an, xây dựng, nhà đất...). Tuổi thọ của văn bản chưa cao, tầm khái quát của văn bản chưa đủ mức cần thiết, có một số bị sửa đổi, thay thế liên tục làm hạn chế tác dụng, hiệu lực, hiệu quả quản lý;

- Trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được nhiều địa phương quy định nhưng do chưa có sự chỉ đạo chung, một số quy định lại chủ yếu dựa trên thực tiễn áp dụng từ trước tới nay nên chưa đảm bảo sự thống nhất giữa các địa phương. Thêm vào đó, tình trạng không tuân thủ quy trình, thủ tục đã quy định, làm tắt, văn bản soạn thảo sơ sài hoặc do thư ký Uỷ ban nhân dân phụ trách từng lĩnh vực soạn thảo rồi trình ký luôn, không gửi lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan và ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp. Thực tế này dẫn đến tình trạng ở một số nơi Sở Tư pháp không nắm được tình hình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, không thể chủ động tham gia và có ý kiến ngay từ khâu soạn thảo, mà "chỉ thực hiện chức năng theo dõi số lượng văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh thông qua sổ công văn lưu trữ của Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh". Cũng vì lý do này Sở Tư pháp chỉ có thể phát hiện các sai sót sau khi văn bản đã được ban hành. Trong những trường hợp như vậy việc kiến nghị cơ quan đã ban hành văn bản bãi bỏ được sửa đổi ngay văn bản là rất khó khăn;

- Việc quản lý, lưu trữ văn bản ban hành thiếu chặt chẽ, chưa bảo đảm tính khoa học nhất là ở các cấp huyện, xã. Công tác hệ thống hoá mới dừng lại chủ yếu ở cấp tỉnh;

- Công tác rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật tuy được tiến hành đều đặn theo định kỳ nhưng việc tiến hành rà soát và xử lý kết quả làm chưa thật tốt như các việc rà soát, xử lý các mâu thuẫn, sơ hở, chồng chéo của các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản; việc in ấn, xuất bản tập hệ thống văn bản đang còn hiệu lực để áp dụng thống nhất chưa thực hiện được đều khắp ở các địa phương. Cá biệt do không nắm được kết quả rà soát, xử lý văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh, vẫn còn tình trạng cơ quan quản lý áp dụng văn bản đã bị bãi bỏ, gây ảnh hưởng không tốt đến việc quản lý nhà nước trong phạm vi địa phương.

2. Đánh giá công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trên một số giai đoạn cụ thể.

2.1. Về công tác lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Phát hiện nhu cầu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa là sự khởi đầu cho quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. ở một số địa phương đã xây dựng được chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm, kế hoạch này đã trở thành cơ sở bảo đảm tiến độ và chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, làm cho công tác này thực hiện có sự chủ động về thời gian cũng như bố trí lực lượng phối hợp và kinh phí phục vụ cho công tác soạn thảo văn bản. Kế hoạch được xây dựng dựa trên cơ sở xem xét nhu cầu quản lý, thực trạng kinh tế - xã hội và từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương đã góp phần nâng cao chất lượng soạn thảo của từng văn bản; chủ động hơn trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản của địa phương.

Tuy nhiên, có thể nói rằng ở đa số các địa phương trong phạm vi toàn quốc, việc xây dựng chương trình, kế hoạch chưa thực sự được chú trọng. (Có nơi cho rằng việc xây dựng chương trình, kế hoạch là hình thức và không thể thực hiện được vì bị động vào hệ văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, vì sự thay đổi trong thực trạng kinh tế - xã hội và nhu cầu quản lý). Thực tế này làm cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật luôn bị động về tiến độ, chất lượng; nội dung các văn bản mang tính chất đối phó, chắp vá.

ở những nơi đã lập được kế hoạch thì nội dung các kế hoạch còn ít nhiều mang tính chất chủ quan do chưa thiết lập được quy trình cụ thể để xây dựng kế hoạch; chưa xác định cụ thể vị trí, vai trò của các cơ quan tham gia chuẩn bị, thẩm định và thông qua kế hoạch. Các biện pháp bảo đảm thực hiện kế hoạch chưa được quy định đồng bộ, chưa có luận chứng cụ thể.

2.2. Về hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.

ở hầu hết các địa phương thời gian qua đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận; đã bước đầu xác định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, trình tự các bước soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp hoàn thiện dự thảo. Sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan trong từng giai đoạn của quá trình soạn thảo văn bản đã được chú ý hơn, hạn chế một bước tình trạng cục bộ, khép kín, thiếu dân chủ trong hoạt động soạn thảo văn bản.

Hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và huyện đã bước đầu đảm bảo quy trình từ việc phân công trách nhiệm cụ thể của Ban soạn thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo đến việc điều tra, khảo sát thực tiễn cũng như tập hợp, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để làm cơ sở nghiên cứu, xem xét; đảm bảo sự tham gia, phối hợp của các cơ quan ban ngành cũng như tập hợp ý kiến của nhân dân về những vấn đề có liên quan và nhiều địa phương có quy định bắt buộc việc phải có ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp trước khi trình Uỷ ban nhân dân xem xét và ký ban hành.

Hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân dự kiến xây dựng và ban hành cần được xác định ngay từ khi có sáng kiến, lập kế hoạch. Trên cơ sở của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 101/CP một số địa phương đã ban hành văn bản quy định trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương trong đó xác định rõ hình thức văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Tuy nhiên, hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ở các địa phương cũng còn một số hạn chế như: tiến độ soạn thảo nhiều dự án còn chậm so với yêu cầu đặt ra. Trách nhiệm, quyền hạn, vị trí pháp lý của Ban soạn thảo, các thành viên Ban soạn thảo, tổ chuyên viên giúp việc chưa được quy định rõ. Các hoạt động nghiên cứu chính sách pháp lý, phương thức huy động trí tuệ tập thể của các cấp, các ngành, các nhà khoa học và tầng lớp nhân dân trong quá trình xây dựng văn bản chưa được chú trọng. Có lúc, có nơi vẫn còn tình trạng một vài cá nhân soạn thảo văn bản một cách sơ sài, thiếu điều tra, khảo sát thực tế, nghiên cứu, lấy ý kiến rồi trình ký ban hành.

2.3. Việc xem xét thông qua văn bản quy phạm của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Việc xem xét, thông qua Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hiện được thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp. Theo các quy định này, các Ban của Hội đồng nhân dân có trách nhiệm thẩm tra dự thảo văn bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo trong hệ thống pháp luật và sự phù hợp của dự thảo với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. Luật và Quy chế cũng quy định quy trình thẩm tra, quy trình thảo luận thông qua dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Các quy định của Luật, Quy chế tuy đã xác định về cơ bản quy trình xem xét thông qua dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, nhưng điều đáng lưu ý là có một số nội dung công việc, thủ tục cần thiết đặc trưng cho việc xem xét thông qua một văn bản quy phạm pháp luật chưa được quy định rõ như hồ sơ trình, việc phối hợp chỉnh lý dự thảo khi trình...

Việc xem xét thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đã được chú ý hơn trước. Trong quy trình xem xét thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị, vị trí, vai trò của Sở Tư pháp (cơ quan Tư pháp địa phương) trong việc thẩm định dự thảo đã được nhiều nơi chú trọng. Căn cứ vào quy định của Thông tư Liên Bộ số 12-TTLB, nhiều Uỷ ban nhân dân đã khẳng định tính chất bắt buộc của công tác thẩm định dự thảo của cơ quan Tư pháp.

Tuy nhiên, ở phần lớn các tỉnh chưa chú ý thực hiện quy định trong Thông tư này. Có nơi giao cho Văn phòng Uỷ ban nhân dân chức năng thẩm định, có nơi tuy giao cho cơ quan Tư pháp địa phương nhưng chỉ đối với một số văn bản (tuỳ nghi). ở một số địa phương còn tồn tại quy trình soạn thảo - ký ban hành trong mối quan hệ trực tiếp khép kín giữa nhóm chuyên viên Văn phòng Uỷ ban nhân dân với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. ở những nơi này, cơ quan Tư pháp bị mất chức năng thẩm định, chỉ phát hiện sai sót của văn bản sau khi văn bản đó được ban hành, và chỉ theo dõi được số lượng văn bản được ban hành thông qua sổ công văn lưu trữ của Văn phòng Uỷ ban nhân dân. Quy trình thảo luận, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân chưa được chú trọng. Nhiều trường hợp, cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trực tiếp ký quyết định, chỉ thị có chứa đựng quy phạm pháp luật mà không đưa ra thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Nhiều nội dung cụ thể của quy trình này chưa được cụ thể hoá (như hồ sơ trình, quy trình thảo luận, biểu quyết...). Đây là một trong những khâu yếu nhất trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương mà hậu quả của nó là Uỷ ban nhân dân ban hành nhiều quyết định, chỉ thị (có chứa đựng quy phạm pháp luật) trái Hiến pháp, luật, pháp lệnh và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý ở địa phương.

2.4. Về cơ chế kiểm tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Trong lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương, pháp luật hiện hành quy định có các cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể để đảm bảo cho văn bản khi được ban hành hợp hiến, hợp pháp và đi vào thực tiễn cuộc sống.

Cơ chế kiểm tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trong giai đoạn hiện nay như sau:

Cơ chế kiểm tra trước, được thực hiện như sau:

- Cơ chế thẩm định của cơ quan Tư pháp cùng cấp (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp);

- Cơ chế lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, ban ngành ở địa phương cũng như thông qua việc lấy ý kiến của nhân dân/người bị tác động trực tiếp của văn bản dự kiến được ban hành. Cá biệt có địa phương còn lấy ý kiến trước của Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp về tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý của văn bản trước khi trình ra Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xem xét, thông qua và ký ban hành.

Cơ chế giám sát sau khi văn bản được ban hành bao gồm:

- Sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với văn bản của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;

- Sự kiểm tra của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

- Sự kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp trên đối với văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp dưới;

- Sự kiểm tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với văn bản của Hội đồng nhân dân vả Uỷ ban nhân dân cùng cấp;

- Sự kiểm tra của Toà án nhân dân thông qua hoạt động xét xử nói chung và hoạt động của Toà án hành chính nói riêng;

- Sự kiểm tra của Thanh tra Nhà nước thông qua hoạt động nghiệp vụ và thông qua sự giám sát trực tiếp của công dân, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng nhân dân.

III. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

1. Nguyên nhân khách quan.

- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định một hệ thống nhiều loại, nhiều hệ cấp văn bản quy phạm pháp luật từ Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội, văn bản của Chủ tịch nước, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các cơ quan nhà nước ở trung ương đến văn bản của các cấp chính quyền địa phương. Có thể thấy, đây là một hệ thống gồm nhiều loại, nhiều cấp, nhiều tầng lớp chồng xếp lên nhau. Cách quy định như vậy tuy xuất phát từ các quy định về thẩm quyền ban hành văn bản đã được quy định tại Hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy và đồng thời cũng tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc đề ra các quy tắc xử sự chung để quản lý, điều hành. Nhưng trên thực tế cũng đã tạo ra một hệ thống văn bản, hệ thống quy phạm quá phức tạp, nhiều tầng nấc mà trong đó, các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là bộ phận thấp nhất, cuối cùng của hệ thống đó. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật như vậy sẽ tạo ra những hạn chế thiếu sót như: dễ tạo ra những mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các bộ phận của hệ thống; gây ra tình trạng chờ đợi, chậm triển khai thực hiện các văn bản cấp trên; trong nhiều trường hợp văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới sao chép một cách máy móc quy định của văn bản cấp trên; có quá nhiều loại văn bản quy phạm do nhiều cơ quan ban hành về một vấn đề hay một lĩnh vực quản lý, tạo nên hệ thống quy phạm nhiều tầng nấc, phức tạp, khó hiểu, khó thực hiện không chỉ trong các tầng lớp nhân dân mà cả trong các cơ quan quản lý.

- Những quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua ngày 12-11-1996 mới chỉ quy định một số nguyên tắc chỉ đạo cho công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, còn trình tự, thủ tục cụ thể áp dụng cho hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương phải nhờ một văn bản khác;

- Thực tế công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc vừa qua cũng đặt ra những yêu cầu và nhiệm vụ mới đối với công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh mà văn bản pháp luật của trung ương và địa phương chưa có điều kiện để điều chỉnh, có nhiều vấn đề của đời sống xã hội phong phú, đa dạng chưa được phản ánh, đề cập kịp thời vào trong văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều vấn đề về tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương các cấp, vấn đề phân cấp giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau, vấn đề tinh giảm biên chế và sắp sếp lại tổ chức bộ máy... đều chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh thống nhất, phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hiện nay.

Những hạn chế này vừa làm giảm hiệu lực, hiệu quả, tính nhạy bén của hoạt động quản lý, vừa trực tiếp làm hạn chế việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đã đến lúc cần đặt vấn đề phải làm đơn giản hoá hệ thống quy phạm pháp luật.

2. Nguyên nhân chủ quan.

- Những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp trong giai đoạn hiện nay một phần do hạn chế về trình độ, kỹ năng soạn thảo văn bản của người soạn thảo nhưng nguyên nhân chính là do chúng ta chưa có một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao quy định thống nhất về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

- Hoạt động nghiên cứu điều tra, khảo sát thực tế để xác định một khung cơ bản, toàn diện về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự thảo chưa được chú trọng và do đó, không hình dung đầy đủ và chính xác các biện pháp quản lý thích hợp của Nhà nước đối với các quan hệ xã hội đang nảy sinh và phát triển. Hậu quả của những thiếu sót này là hiệu quả quản lý nhà nước không đáp ứng được yêu cầu đặt ra, có nhiều trường hợp gây hậu quả xấu về mặt kinh tế - xã hội và cả tâm lý. Trong những trường hợp này, pháp luật không còn là công cụ quản lý, định hướng và hỗ trợ cho sự phát triển của xã hội mà ngược lại, trở thành vật cản tác động tiêu cực vào tiến trình phát triển chung.

- Một số cơ quan, ban, ngành ở địa phương chưa nhận thức đúng với tầm quan trọng của công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chưa dành sự quan tâm thích đáng, thiếu đầu tư vật chất và chất xám cho hoạt động này, bỏ qua quy trình thủ tục quy định;

- Hầu hết các địa phương không có kinh phí dành riêng cho công tác xây dựng văn bản khiến cho việc tuân thủ trình tự soạn thảo, thẩm định gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khâu khảo sát thực tế, đánh giá tình hình, nghiên cứu tư liệu tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học phục vụ cho việc soạn thảo, thẩm định văn bản. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng soạn thảo văn bản;

- ở nhiều địa phương đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp quá mỏng, chưa đủ sức đảm đương trách nhiệm đuợc giao. Thêm vào đó, trình độ cán bộ soạn thảo văn bản còn nhiều hạn chế, chưa được tập huấn, hướng dẫn thường xuyên về nghiệp vụ, nhất là ở các cấp chính quyền cơ sở. Có những nơi, cán bộ soạn thảo chưa phân biệt rõ khái niệm văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật, hình thức văn bản do từng cấp có thẩm quyền ban hành, những tiêu chí và yêu cầu cần có của một văn bản quy phạm pháp luật.

 

IV. Phương hướng hoàn thiện công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay.

1. Nguyên tắc chỉ đạo việc hoàn thiện công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc quan trọng nhất trong các nguyên tắc chỉ đạo việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Nguyên tắc này khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, đòi hỏi pháp luật phải thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng. Nếu như chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, theo cách nói của Lênin, thì cũng theo sự khẳng định của Lênin, pháp luật là sự biểu hiện tập trung của chính trị, Luật là "thước đo chính trị, là chính trị".

Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng yêu cầu các cấp bộ Đảng thường xuyên kiểm tra các cơ quan có thẩm quyền trong việc thể chế hoá các chủ trương, đường lối, các nghị quyết của các cấp uỷ Đảng bằng các quy định của Nhà nước và kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật đó trong thực tế cuộc sống.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước còn thể hiện ở chỗ các cơ quan lãnh đạo của Đảng tham gia tích cực vào việc chỉ đạo chuẩn bị các Dự án văn bản quy phạm pháp luật. Đảng là người khởi xướng việc đưa ra dân thảo luận các dự án văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức các Hội nghị, kêu gọi cán bộ và nhân dân tham gia ý kiến vào các Dự án văn bản và vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Bảo đảm dân chủ trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương..

ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là một nguyên tắc đã được Hiến pháp 1992 khẳng định tại Điều 2. Nguyên tắc bảo đảm dân chủ trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi:

- Khi tiến hành soạn thảo bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều phải đứng ở vị thế là người đại diện của nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân, lợi ích toàn cục làm yêu cầu cần phản ảnh và làm mục tiêu để phục vụ, chống chủ nghĩa cục bộ, bản vị trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật;

- Phải tạo điều kiện cho sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân vào soạn thảo văn bản pháp luật. Nhân dân càng tham gia tích cực và đông đảo bao nhiêu thì quy phạm pháp luật càng sát hợp với yêu cầu của nhân dân, càng có tính khả thi và hiệu lực thi hành cao bấy nhiêu;

- Phải thu hút sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp vào quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, bởi vì văn bản quy phạm pháp luật không những tác động đến lợi ích của mỗi một công dân, mà còn đụng chạm đến quyền lợi của các tầng lớp, các nhóm dân cư trong xã hội. Văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành phải lấy ý kiến của đối tượng phải thi hành văn bản đó nhằm bảo đảm tính khả thi của văn bản.

Bảo đảm pháp chế XHCN trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.

Đối với hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương đòi hỏi:

a. Các văn bản phải được ban hành đúng thẩm quyền. Các cơ quan quyền lực và quản lý nhà nước được tổ chức theo thứ tự quan hệ về thẩm quyền: trên và dưới, Trung ương và địa phương. Vì vậy, các văn bản do mỗi một cơ quan nhà nước ban hành phải thể hiện đúng thẩm quyền của từng cơ quan đó, có như vậy mới bảo đảm sự tương xứng với mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Mỗi một cơ quan nhà nước được pháp luật quy định thẩm quyền về mặt hình thức và về mặt nội dung trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, một cơ quan nhà nước, khi có nhu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội thuộc thẩm quyền, thì nhất thiết phải dùng hình thức văn bản đã được pháp luật quy định. Đồng thời, pháp luật cũng xác định rõ thẩm quyền nội dung của từng cơ quan nhà nước trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nghĩa là, pháp luật quy định rõ vấn đề gì thuộc thẩm quyền ban hành văn bản của cơ quan nào? Thẩm quyền nội dung trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật bắt nguồn từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan nhà nước được quy định trong Hiến pháp và các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp thì việc xác định rõ các vấn đề thuộc thẩm quyền nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng.

b. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Đây là yêu cầu về sự tuân thủ thứ bậc cao thấp về giá trị pháp lý của văn bản. Nó đòi hỏi phải tôn trọng vị trí tối cao của Hiến pháp và Luật. Trên cơ sở những quy phạm của Hiến pháp và luật, các cơ quan nhà nước khác ban hành các quy phạm cụ thể hoá các quy phạm cơ bản. Các văn bản pháp luật phải được ban hành trên cơ sở Hiến pháp và luật, phải phù hợp với Hiến pháp và luật. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi: trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản ở cấp độ thấp hơn phải căn cứ vào văn bản ở cấp độ cao hơn, phải nhằm cụ thể hoá để thực hiện văn bản ở cấp độ cao hơn và không được trái với văn bản ở cấp độ cao hơn. Nếu không đáp ứng yêu cầu như vậy, thì văn bản ở cấp độ thấp hơn sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành (Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phải phù hợp với hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn bản của Uỷ ban nhân dân còn phải phù hợp với văn bản của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

c. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm đúng trình tự và thủ tục được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Để đạt được mục tiêu đó, cần xác định cụ thể cơ chế phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các khâu, nấc, các cơ quan, bộ phận tham gia quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Vì vậy, bảo đảm quy trình là một yêu cầu của pháp chế trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nó sẽ góp phần quan trọng vào việc khắc phục tình trạng tùy tiện, không theo những chuẩn mực, nguyên tắc nhất định làm hạn chế tiến độ và chất lượng của các dự thảo, gây lãng phí, tốn kém không cần thiết.

2. Việc phân định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Xem xét từ góc độ thẩm quyền ban hành hình thức văn bản quy phạm pháp luật, ta thấy pháp luật hiện hành (theo quy định của Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật) còn để ngỏ một số vấn đề cơ bản quan trọng như: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp nào thì có thẩm quyền ban hành nghị quyết, quyết định, chỉ thị quy phạm pháp luật? Và, Uỷ ban nhân dân, với tư cách là cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, được giao thẩm quyền ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật nào là phù hợp?

Thực tế hiện nay, Hội đồng nhân dân có thẩm quyền ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị. Các hình thức văn bản này trùng với tên gọi và hình thức văn bản của các cơ quan nhà nước ở trung ương đã tạo ra một hệ thống văn bản đa dạng, phức tạp khó hiểu, khó thực hiện. Yêu cầu bức xúc hiện nay là cần đơn giản hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mà trước hết là đơn giản, hạn chế hình thức loại văn bản có chứa quy phạm pháp luật, những lĩnh vực cơ quan chính quyền địa phương được ban hành văn bản.

Để giải đáp những câu hỏi này, trước hết cần xem xét hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và vị trí của các văn bản này trong hệ thống đó. Việc đơn giản hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, theo chúng tôi, cần bắt đầu từ các văn bản quy phạm pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành theo các nguyên tắc sau đây:

- Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần được tập trung ở các cơ quan nhà nước cấp cao, hạn chế dần thẩm quyền này theo thứ bậc từ trên xuống. Như vậy, cần hạn chế thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan chính quyền địa phương nói chung. Và trong các cơ quan chính quyền địa phương thì ở cấp càng thấp, càng nên hạn chế thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. (Theo hướng này, cũng cần nói thêm là đồng thời với việc giảm dần thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật thì cũng đồng thời cần tăng dần thẩm quyền ban hành văn bản cá biệt, thực thi pháp luật tương ứng cho các cơ quan chính quyền địa phương cấp dưới);

- Để bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, khả thi của hệ thống quy phạm pháp luật, cũng cần giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung, cho tập thể là chủ yếu (và ngược lại, thẩm quyền tổ chức thực hiện cũng như ban hành văn bản cá biệt lại cần phải xác định trách nhiệm và giao cho cá nhân là chủ yếu). Chỉ nên giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cá nhân có thẩm quyền trong một số trường hợp cá biệt thật cần thiết.

Theo các định hướng nêu trên, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương chỉ nên tập trung cho Hội đồng nhân dân và tập thể Uỷ ban nhân dân. Cụ thể:

- Về hình thức văn bản và cơ quan có thẩm quyền ban hành: nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân;

- Trong văn bản có chứa các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi địa phương;

- Được ban hành theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định;

- Được các cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành.

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phải có đầy đủ các yếu tố sau:

- Là văn bản được ban hành dưới hình thức nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân;

- Được ban hành theo thủ tục, trình tự do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật này quy định;

- Trong đó có các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng khi tham gia quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh; có hiệu lực trong phạm vi địa phương;

- Được các cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành bằng các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết thì nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành đối với người có hành vi vi phạm.

Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Như trên đã phân tích, pháp luật hiện hành giao thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân với các hình thức tương tự.

Nghị quyết, quyết định, chỉ thị quy phạm pháp luật là một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời là một loại quyết định quản lý do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành.

Xem xét từ góc độ thẩm quyền ban hành hình thức văn bản quy phạm pháp luật, ta thấy pháp luật hiện hành, cụ thể là Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn để ngỏ một số vấn đề cơ bản quan trọng như: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp nào thì có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật? Và, Uỷ ban nhân dân, với tư cách là cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, được giao thẩm quyền ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật nào là phù hợp?

Để giải đáp những câu hỏi này, trước hết cần xem xét hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và vị trí của các văn bản này trong hệ thống đó. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định một hệ thống nhiều loại, nhiều hệ cấp văn bản quy phạm pháp luật từ Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản của Chủ tịch nước, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các cơ quan tư pháp ở trung ương đến văn bản của các cấp chính quyền địa phương. Có thể thấy, đây là một hệ thống gồm nhiều loại, nhiều cấp, nhiều tầng lớp chồng xếp lên nhau. Cách quy định như vậy tuy xuất phát từ các quy định về thẩm quyền ban hành văn bản đã được quy định tại Hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy và đồng thời cũng tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc đề ra các quy tắc xử sự chung để quản lý, điều hành. Nhưng trên thực tế cũng đã tạo ra một hệ thống văn bản, hệ thống quy phạm pháp luật quá phức tạp, nhiều tầng nấc mà trong đó các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là bộ phận thấp nhất, cuối cùng của hệ thống đó. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật như vậy sẽ tạo ra những hạn chế thiếu sót như: dễ tạo ra những mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các bộ phận của hệ thống; gây ra tình trạng chờ đợi, chậm triển khai thực hiện các văn bản cấp trên; trong nhiều trường hợp văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới sao chép một cách máy móc quy định của văn bản cấp trên; có quá nhiều loại văn bản quy phạm do nhiều cơ quan ban hành về một vấn đề hay một lĩnh vực quản lý, tạo nên hệ thống quy phạm nhiều tầng nấc, phức tạp, khó hiểu, khó thực hiện không chỉ trong các tầng lớp nhân dân mà cả trong các cơ quan quản lý. Những hạn chế này vừa làm giảm hiệu lực, hiệu quả, tính nhạy bén của hoạt động quản lý, vừa trực tiếp làm hạn chế việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đã đến lúc cần đặt vấn đề phải làm đơn giản hoá hệ thống quy phạm pháp luật. Trước hết, cần hạn chế bớt cơ quan có thẩm quyền ban hành quy phạm và hạn chế bớt hình thức văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở có sự phân loại văn bản pháp luật như đã phân tích ở phần trên.

Vấn đề đặt ra tiếp theo là cần xác định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như thế nào? Trước hết, thẩm quyền nội dung các văn bản cần được xác định trong khuôn khổ thẩm quyền quản lý nhà nước mà Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp cũng như các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên đã giao cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Thẩm quyền nói trên của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là bao quát toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn (chỉ căn cứ vào Pháp lệnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp thì thẩm quyền quản lý nhà nước trên địa bàn của các cấp như sau: Hội đồng nhân dân tỉnh: 8 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân thành phố thuộc trung ương: 12 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân huyện: 8 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân huyện đảo: 11 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân quận: 9 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh: 12 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân xã, thị trấn: 7 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân phường: 10 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân tỉnh: 15 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân thành phố thuộc trung ương: 25 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân huyện: 12 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân huyện đảo: 16 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân quận: 16 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh: 17 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn: 12 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân phường: 15 lĩnh vực. Trong mỗi lĩnh vực lại có rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.)

Vấn đề lưu ý ở đây là không thể đồng nhất thẩm quyền quản lý nhà nước trên địa bàn với thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nói chung, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật hẹp hơn rất nhiều so với thẩm quyền quản lý nhà nước. Bởi vì, để thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phải ban hành ba loại văn bản, mà văn bản quy phạm pháp luật chỉ là một trong ba loại đó. Hơn nữa, theo quan hệ phân cấp từ trung ương xuống các cấp chính quyền địa phương thì có một số quan hệ xã hội, các cấp chính quyền địa phương không được pháp luật giao thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật. Đó là những lĩnh vực như: hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân dự, thương mại, thuế, ngân sách, hôn nhân gia đình, xử lý vi phạm hành chính, đất đai, tổ chức bộ máy...

Vậy ở những lĩnh vực, loại quan hệ xã hội nào thì Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được đặt ra quy phạm pháp luật? Hiện chưa có văn bản nào quy định cụ thể vấn đề này. Thông thường, có thể chọn một trong ba phương pháp để quy định thẩm quyền ban hành quy phạm cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, đó là: phương pháp liệt kê loại quan hệ xã hội và phương pháp loại trừ (ví dụ loại trừ những lĩnh vực, loại quan hệ xã hội mà chỉ những cơ quan nhà nước ở trung ương mới có quyền ban hành quy phạm, còn lại thì các cấp chính quyền địa phương ban hành). Phương pháp thứ ba kết hợp cả 2 phương pháp trên: kết hợp loại trừ và liệt kê (ví dụ: loại trừ một số lĩnh vực chỉ cơ quan nhà nước ở trung ương mới có quyền ban hành quy phạm và liệt kê một số loại quan hệ xã hội mà chính quyền địa phương được phép ban hành quy phạm pháp luật trong số thẩm quyền quản lý nhà nước mà văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên quy định giao quyền tự quản cho địa phương).

Nếu xem xét ở góc độ Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật, cũng cần lưu ý một điểm là: theo nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền và yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật thì thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ngày càng phải thu hẹp khi Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Nói cách khác, thẩm quyền ban hành và nội dung văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương tỷ lệ nghịch với mức độ hoàn thiện của Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật. Trên cơ sở những nội dung đã phân tích, việc quy định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân nên theo phương pháp thứ ba nêu trên: kết hợp loại trừ những loại quan hệ chỉ thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành quy phạm pháp luật để điều chỉnh và liệt kê các loại quan hệ xã hội đặc thù mang tính tự quản ở địa phương mà cơ quan chính quyền địa phương cần ban hành quy phạm pháp luật để điều chỉnh.

Hơn nữa, việc quy định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cần theo hướng cụ thể, có phân biệt thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân với thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân; phân biệt thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp trên với Hội đồng nhân dân cấp dưới và của Uỷ ban nhân dân cấp trên với Uỷ ban nhân dân cấp dưới căn cứ vào vị trí, tính chất, chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi loại, mỗi cấp cơ quan chính quyền địa phương.

3. Về phát hiện nhu cầu, lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Các nguồn thông tin để phát hiện nhu cầu phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương gồm:

- Thông tin từ hoạt động quản lý của Nhà nước (đây là nguồn cơ bản nhất) nhằm phát hiện nhu cầu phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, điều chỉnh một lĩnh vực, một nhóm các quan hệ xã hội nào đó trong thực tiễn;

- Thông tin thu được từ các phương tiện thông tin đại chúng, các kiến nghị đề xuất của công dân, các cơ quan đoàn thể;

- Thông tin từ văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao nhiệm vụ quyền hạn trong công tác quản lý và tổ chức thực hiện văn bản đó;

- Thông tin từ công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản phát hiện các vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo; các kiến nghị ban hành văn bản mới để sửa đổi, bổ sung, thay thế văn bản hiện hành.

Khi nhận được thông tin từ các nguồn trên, bộ phận tham mưu cần nghiên cứu rõ xem có vấn đề gì đang đặt ra? cần định hướng của Nhà nước như thế nào? đến mức nào? Có cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hay dùng biện pháp khác? Nếu cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì dùng loại hình văn bản nào? cấp nào ban hành. Muốn trả lời được các câu hỏi này, cần triển khai tìm hiểu bước đầu thực trạng xã hội, xử lý các tài liệu có liên quan, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng để xác định và đề xuất nhu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật, lập các kế hoạch có tính định hướng chung và kế hoạch cụ thể.

Chủ thể lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật gồm có các sở, ban, ngành, Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân. Trong đó, bên cạnh cơ quan có thẩm quyền thông qua (quyết định) kế hoạch, cần thấy rõ vai trò quan trọng của cơ quan Tư pháp, Văn phòng Uỷ ban nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân là các cơ quan đầu mối, tham mưu tích cực cho việc xây dựng kế hoạch.

Bên cạnh kế hoạch có tính định hướng chung (nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chiến lược dài hạn) các địa phương nên lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm, sáu tháng và hàng quý, trong đó có kế hoạch của Hội đồng nhân dân (ban hành nghị quyết) và kế hoạch của Uỷ ban nhân dân (ban hành quyết định, chỉ thị).

Nội dung kế hoạch cần có: tên văn bản; cơ quan chủ trì soạn thảo; cơ quan thông qua; tiến độ các khâu đoạn trong quá trình soạn thảo, thông qua; cơ quan thẩm định, thẩm tra và các điều kiện bảo đảm.

4. Về hoạch định chính sách pháp lý trong việc ban hành văn bản.

Hoạch định chính sách pháp lý là việc nghiên cứu đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội, thực trạng và nhu cầu quản lý nhà nước nhằm xây dựng một hệ thống quan điểm, chủ trương biện pháp quản lý nhà nước, về những vấn đề có liên quan đến nội dung của một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho việc soạn thảo, thông qua văn bản đó.

Trong quá trình nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp lý cần phải xác định nội dung của khung cơ bản về chính sách pháp luật với các yêu cầu cụ thể như:

- Phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và trình độ của các chủ thể quản lý, đúng đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam;

- Lựa chọn đúng phương pháp và hình thức tác động của quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động, phù hợp với khả năng trình độ của các đối tượng phải thi hành văn bản đó;

- Phù hợp các quy định của Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

- Lựa chọn hình thức văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với nội dung quản lý và thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước sẽ ban hành văn bản đó.

Để đáp ứng được các yêu cầu nêu trên, các nhà hoạch định chính sách pháp lý phải nêu ra và trả lời được cụ thể, chính xác các câu hỏi tổng quát sau đây:

- Cái gì đang xảy ra? Để giải quyết vấn đề đó, Nhà nước có cần tác động hay không? và có cần phải tác động bằng các quy phạm pháp luật hay không?

Song song với việc nghiên cứu cụ thể thực trạng kinh tế xã hội, các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, các nhà hoạch định chính sách pháp lý phải nghiên cứu cả những nội dung quan trọng khác như đường lối chính sách của Đảng, kinh nghiệm quản lý trong và ngoài nước để xây dựng hoàn chỉnh một khung cơ bản, đồng bộ về chính sách pháp lý. ở địa phương, vấn đề nghiên cứu kinh nghiệm của các địa phương khác cũng có ý nghĩa quan trọng.

Để thu thập được thông tin, tư liệu phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu hoạch định chính sách pháp lý, cần sử dụng các biện pháp cơ bản sau đây:

a. Tổ chức việc rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (thực tiễn lập pháp - lập quy);

Rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước là nhiệm vụ thường xuyên do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định. Mục tiêu trực tiếp của rà soát, hệ thống hoá là sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước để xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn thiện, thống nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước. Trước khi soạn thảo một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; phải tến hành công tác rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành làm cơ sở cho việc đưa ra các quy định mới.

b. Tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tiễn quản lý nhà nước, thực trạng kinh tế - xã hội, đường lối chính sách của Đảng.

Cùng với việc nghiên cứu thực tiễn lập pháp (rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan), việc tổ chức nghiên cứu khảo sát thực tiễn quản lý, thực trạng kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định cho việc hình thành nội dung của văn bản sẽ được soạn thảo.

c. Tổ chức nghiên cứu khảo sát kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các địa phương bạn về vấn đề tương ứng.

Tổ chức nghiên cứu, khảo sát, rút kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các địa phương bạn sẽ tạo được điều kiện cho các nhà xây dựng dự thảo hình dung được kinh nghiệm (hình thức văn bản, nội dung văn bản) điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội tương ứng. Mặt khác vấn đề này cũng tạo nên điều kiện để xây dựng được mặt bằng pháp lý nói chung trong cơ cấu so sánh ngang giữa các địa phương - một yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật của nhà nước thống nhất, đồng bộ. Có thể dùng các biện pháp khác nhau để nghiên cứu khảo sát kinh nghiệm như: thu thập văn bản để nghiên cứu; cử đoàn tham quan, trao đổi kinh nghiệm, mời các cán bộ có kinh nghiệm của địa phương bạn báo cáo các chuyên đề liên quan...

5. Về tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Việc tổ chức ban soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cần được xây dựng theo cơ chế "mềm", cụ thể là có những trường hợp văn bản phức tạp, quan trọng, liên quan đến nhiều ngành thì có thể thành lập tiểu ban soạn thảo hoặc tổ soạn thảo với sự tham gia của nhiều ngành (cơ quan chủ trì, cơ quan Tư pháp, Văn phòng Uỷ ban nhân dân, ban của Hội đồng nhân dân và một số đại diện các ngành khác...) còn những văn bản đơn giản, cụ thể thì có thể giao cho cơ quan chủ trì (cơ quan chuyên môn) chuẩn bị với sự theo dõi, phối hợp của Văn phòng Uỷ ban nhân dân và thẩm định của cơ quan Tư pháp, thẩm tra của các Ban của Hội đồng nhân dân theo khung cơ bản sau đây:

+ Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện do Uỷ ban nhân dân cùng cấp chủ trì phối hợp với các Ban của Hội đồng nhân dân được phân công soạn thảo. Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ đạo soạn thảo. Trong trường hợp cần thiết, thường trực Hội đồng nhân dân thành lập tiểu ban soạn thảo.

+ Dự thảo quyết định, chỉ thị do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện phân công cho cơ quan chuyên môn, đơn vị thuộc Uỷ ban nhân dân chủ trì soạn thảo. Đối với dự thảo quyết định, chỉ thị có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, lĩnh vực thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành lập tiểu ban soạn thảo. Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ đạo việc soạn thảo.

- Việc tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cần được tiến hành một cách dân chủ. Vấn đề thu hút sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, các nhà chuyên môn, các đối tượng phải thi hành văn bản và công dân vào công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được chú trọng. Cần phải xác định phạm vi, phương thức thích hợp của việc tham gia ý kiến của các cơ quan, các cấp, các ngành kể cả xin ý kiến Cấp Uỷ, của các tổ chức đoàn thể xã hội và của cả công dân trong giai đoạn soạn thảo. Việc lấy ý kiến này sẽ do cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan xem xét thông qua quyết định và là bắt buộc đối với mọi dự thảo.

Cần chú trọng kỹ thuật soạn thảo, trình bày một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. ở đây cần nắm chắc thể thức, cách trình bày (khung) của một văn bản nghị quyết, quyết định, chỉ thị; kỹ thuật viết một điều luật trong mối quan hệ với quy phạm pháp luật (hình thức và nội dung); câu chữ, cách diễn đạt trong văn bản phải đơn giản, dễ hiểu, chính xác, cụ thể...

6. Về giai đoạn xem xét, thông qua văn bản quy phạm pháp luật.

6.1. Về thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Giai đoạn này cần xác định rõ một số nội dung cụ thể sau đây:

- Tuỳ theo tính chất nội dung của dự thảo nghị quyết, thường trực Hội đồng nhân dân giao cho một ban của Hội đồng nhân dân thẩm tra dự thảo, các ban khác có trách nhiệm tham gia. Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra tất cả các mặt của dự thảo nghị quyết nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo trong hệ thống pháp luật và sự phù hợp của dự thảo với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. Đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã thì chủ tịch Hội đồng nhân dân xem xét cho ý kiến.

- Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân phải được cơ quan Tư pháp (Sở, Phòng, Ban Tư pháp) thẩm định trước khi trình Uỷ ban nhân dân. Cơ quan Tư pháp thẩm định sự cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, kỹ thuật soạn thảo văn bản, bảo đảm sự phù hợp của nội dung dự thảo với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

- Cần có quy định cụ thể hồ sơ trình (dự thảo văn bản; tờ trình; báo cáo thẩm tra, thẩm định; bản tập hợp ý kiến đóng góp và các tài liệu liên quan khác).

6.2. Về trình tự xem xét thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

- Đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, cần có quy định rõ trách nhiệm của thường trực Hội đồng nhân dân trong việc bảo đảm chuẩn bị dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân là đầu mối để xử lý, đề xuất các vấn đề đưa ra kỳ họp Hội đồng nhân dân thảo luận, quyết định. Trình tự xem xét, thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cũng cần chặt chẽ bảo đảm cho các đại biểu Hội đồng nhân dân có điều kiện, thông tin để thảo luận và quyết định các nội dung của dự thảo.

- Đối với dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân, vấn đề nổi lên hiện nay là cần quy định rõ trình tự xem xét, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân để bảo đảm những văn bản này đúng là văn bản của tập thể Uỷ ban nhân dân, do tập thể Uỷ ban nhân dân thảo luận, thông qua trong phiên họp của Uỷ ban nhân dân. Có thể quy định rõ trình tự thảo luận, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo hướng:

+ Tại phiên họp của Uỷ ban nhân dân đại diện cơ quan, tổ chức được phân công chủ trì soạn thảo trình bày dự thảo;

+ Sau khi nghe ý kiến thẩm định của cơ quan Tư pháp, Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.

Để thực hiện được những công đoạn cơ bản của quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Điều quan trọng hiện nay là cần nhanh chóng khảo sát, nghiên cứu đưa ra phương án chung làm cơ sở cho việc xây dựng Luật ban hành quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân để khép kín quy trình xây dựng các loại văn bản quy phạm pháp luật đã được mở ra và giải quyết một phần ở Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Những quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân sẽ là cơ sở để ban hành những quy chế làm việc cụ thể về cách thức, lề lối làm việc và sự phối kết hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

 

V. Một số kiến nghị cụ thể nhằm xây dựng, hoàn thiện Dự án luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.

1. Cần khẩn trương xây dựng và ban hành "Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp".

 

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương bảo đảm quy trình soạn thảo và ban hành văn bản đúng thẩm quyền, khắc phục tình trạng văn bản có quy định chồng chéo, mâu thuẫn, có nội dung trái pháp luật; trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản được xác định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 101/CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc nghiên cứu, soạn thảo ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân sẽ phúc đáp yêu cầu của địa phương và yêu cầu xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ, hoàn thiện trong phạm vi cả nước, ở cả trung ương lẫn các cấp chính quyền địa phương.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cần được xây dựng trên khung các vấn đề cơ bản sau đây:

* Những quy định chung quy định rõ các vấn đề như: định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; nguyên tắc về tính hợp hiến, hợp pháp, về tính thống nhất; nguyên tắc dân chủ hoá hoạt động lập quy, xác định hiệu lực văn bản; số ký hiệu văn bản; rà soát hệ thống hoá; sửa đổi, bổ sung, thay thế, đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân...;

* Nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.

Trong phần này tập trung giải quyết các vấn đề cụ thể như: thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó cần phân định rõ thẩm quyền về nội dung và hình thức của mỗi loại văn bản để tránh tình trạng ban hành văn bản tuỳ tiện, chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau.

* Soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phần này tập trung giải quyết các vấn đề cụ thể như:

- Lập và thông qua chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân dài hạn và hàng năm;

- Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, trong đó quy định rõ cá nhân/cơ quan chủ trì soạn thảo và trách nhiệm của cá nhân/cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia hoạt động soạn thảo;

- Thẩm định, cho ý kiến về mặt pháp lý dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Tư pháp địa phương trong việc thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân;

- Trách nhiệm của Thường trực Hội đồng nhân dân và Văn phòng Uỷ ban trong việc bảo đảm chuẩn bị dự thảo;

- Trình tự xem xét, thông qua và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân;

* Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Trong phần này quy định rõ: thời điểm có hiệu lực, hết hiệu lực cũng như việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

* Cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý văn bản trái pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Trong phần này cần quy định một cách cụ thể thẩm quyền và xác định rõ cơ chế kiểm tra, giám sát và sử lý văn bản trái pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như:

- Thẩm quyền, cơ chế giám sát, xử lý đối với nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

- Thẩm quyền, cơ chế kiểm tra và xử lý đối với văn bản quy phạm pháp luật sai trái của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

* Các điều kiện bảo đảm việc cho việc tổ chức thực hiện như: huy động sự tham gia ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực chuyên môn và pháp lý; điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí; trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành trong hiện phổ biến, tuyên truyền và hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ soạn thảo văn bản ...

2. Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Như đã phân tích ở phần trên, theo chúng tôi nên tập trung thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Việc xác định cụ thể thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cả 3 cấp hay chỉ ở cấp tỉnh hoặc ở cấp tỉnh và cấp huyện cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng. Vấn đề này có quan hệ mật thiết với các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, thậm chí kể cả Hiến pháp. Theo chúng tôi, có thể chỉ nên giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc có thể mở rộng đến cấp huyện với những lý do đã được phân tích ở phần trên.

Cần phân định rõ thẩm quyền về nội dung và hình thức của mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân để tránh tình trạng ban hành văn bản tuỳ tiện, chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau và cần quy định thẩm quyền ban hành theo hướng hẹp dần theo hệ cấp thẩm quyền từ trên xuống.

Không nên quy định cơ quan quản lý ngành ở địa phương và Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành văn bản pháp quy. Đối với cơ quan quản lý ngành ở địa phương trong quá trình quản lý thấy cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh thì phải đăng ký để bổ sung vào chương trình xây dựng pháp quy của địa phương. Trong tờ trình phải nêu rõ lý do, mục đích, phạm vi điều chỉnh và dự kiến các phương án, cơ chế và các điều kiện bảo đảm khác.

3. Về quy trình ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Theo chúng tôi quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các câp các chính quyền địa phương cần được xây dựng theo quy trình sau:

+ Xây dựng chương trình, kế hoạch soạn thảo văn bản;

+ Thành lập ban soạn thảo văn bản;

+ Tiến hành soạn thảo văn bản;

+ Thu thập ý kiến xây dựng dự thảo văn bản;

+ Thẩm định dự thảo văn bản;

+ Trình tự xem xét, thông qua dự thảo văn bản;

+ Ký ban hành và tổ chức thực hiện.

4. Nâng cao vai trò của cơ quan tư pháp trong quá trình xây dựng dự thảo văn bản của các cấp chính quyền địa phương.

Theo chúng tôi, trong quá trình xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp cần phải xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và vai trò của cơ quan tư pháp trong việc tham gia ý kiến xây dựng dự thảo và thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương. Đây là một khâu quan trọng (bắt buộc) của quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, văn bản pháp quy độc lập của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

5. Về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân.

Hội đồng nhân dân là cơ quan nhà nước cao nhất ở địa phương, là cơ quan quyết định các vấn đề cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước ở địa phương. Do vậy, trong dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp cần quy định rõ phạm vi các nội dung được phép đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; còn những vấn đề nào thì thuộc nội dung Chỉ thị, Quyết định của Uỷ ban nhân dân. Hiện nay một số địa phương có xu hướng muốn đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân nhiều vấn đề cụ thể, bức xúc để bắt buộc thực hiện nên luật cần có hạn chế để Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tập trung vào quyết định những vấn đề lớn, chung nhất cả địa phương.

Ngoài văn bản này cần có văn bản riêng quy định và hướng dẫn về quy cách xây dựng và ban hành các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân./.

 

Phần II:

các chuyên đề cụ thể

 

Văn bản quy phạm pháp luật

của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương

 

PTS. Phạm Hồng Thái

Trưởng khoa Nhà nước và Pháp luật

Học Viện hành chính Quốc gia

 

I. Quan niệm về văn bản.

Quá trình phát triển của loài người là quá trình tiến hoá không ngừng, đồng thời đó cũng là quá trình phát triển của tư duy với những hình thức thể hiện ngày càng phong phú. Sản phẩm của tư duy, nhận thức là kết quả của quá trình lao động, sáng tạo của con người. Lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người và nhờ có lao động con người ngày càng hoàn thiện về thể chất và tinh thần. Ph. Ăngen từng viết: bắt đầu là lao động, sau đó là tiếng nói trong khi cùng lao động đó là hai động lực chủ yếu chuyển hóa từ vượn người thành người. Tiếng nói xuất hiện và ngày càng hoàn thiện, phong phú làm cho khả năng tư duy, nhận thức của con người ngày càng phát triển và trở thành phương tiện để truyền đạt các thông tin từ người này tới người khác và ngôn ngữ vừa là sản phẩm của tư duy đồng thời là hình thức thể hiện của tư duy, của các quyết định của con người. Khi chữ viết xuất hiện thì con người sử dụng nó để ghi lại, truyền đạt những thông tin từ chủ thể này tời chủ thể khác. Như vậy, cái gốc của vấn đề là những thông tin hay quyết định chứ không phải là chữ viết hay văn bản. Văn bản chỉ là hình thức thể hiện của tư duy, ghi lại các quyết định của con người. Ngày nay, văn bản được nghiên cứu từ nhiều góc độ của nhiều ngành khoa học khác nhau. Vì vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về văn bản:

Theo nghĩa rộng, văn bản được hiểu là một phương tiện để ghi nhận và truyền đạt các thông tin, quyết định từ chủ thể này đến chủ thể khác bằng một ký hiệu hoặc ngôn ngữ nhất định. Theo quan niệm này, từ các loại giấy tờ, tài liệu, sách vở đến các loại khẩu hiệu, hoành phi, câu đối, áp phích, băng ghi âm, bản vẽ, v.v... đều được coi là văn bản.

Theo nghĩa hẹp, văn bản được hiểu là các tài liệu, giấy tờ được sử dụng trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng, các tổ chức kinh tế, v. v... hoặc các tài liệu của cá nhân có giá trị, ý nghĩa pháp lý, xã hội nhất định.

 

Cơ quan nhà nước ban hành các quyết định pháp luật hay văn bản pháp luật.

Trong khoa học pháp lý, ở trong hay ngoài nước, có nhiều quan niệm khác nhau về quyết định pháp luật. Có người đồng nhất quyết định pháp luật với hành vi pháp lý - là sự thể hiện ý chí; hoặc coi quyết định pháp luật là văn bản pháp luật; hoặc coi quyết định pháp luật là kết quả và là hình thức thể hiện của hoạt động mang tính nhà nước.

Xuất phát từ quan niệm hoạt động của các cơ quan nhà nước là một loại hoạt động xã hội đặc biệt mang tính quyền lực, nó mang lại cho xã hội một sản phẩm nhất định - quyết định pháp luật. Vì vậy, không thể đồng nhất quyết định pháp luật với tính cách sản phẩm là kết quả của lao động quyền lực với bản thân lao động đó.

Nếu coi quyết định pháp luật là hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí thì không cho phép phân biệt quyết định với các hành động có tính cưỡng chế chẳng hạn như việc thực hiện các quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính như khám người, khám xét các phương tiện giao thông, v.v... hoặc chủ thể ban hành quyết định không còn tồn tại nhưng quyết định của họ vẫn còn tồn tại. Do vậy, có thể coi quyết định pháp luật là kết quả của hoạt động mang tính ý chí quyền lực nhà nước.

Nếu coi quyết định pháp luật là văn bản pháp luật thì đã đồng nhất giữa nội dung với hình thức thể hiện của nội dung đó. Quyết định pháp luật có các hình thức thể hiện: văn nói, văn viết (văn bản), ám hiệu, tín hiệu, biển báo. Tuỳ theo tính chất của quyết định pháp luật mà lựa chọn hình thức thể hiện cho phù hợp. Những quyết định pháp luật cá biệt cụ thể quan trọng, những quyết định quy phạm và những quyết định chủ đạo thì không thể chọn hình thức là văn nói.

 

Quan niệm coi quyết định pháp luật là kết quả, là hình thức thể hiện của hoạt động mang tính quyền lực nhà nước đã tiếp cận dần tới bản chất của vấn đề, nhưng cái chưa hợp lý là đã đồng nhất giữa hình thức thể hiện của hoạt động (các hành vi) với bản thân các quyết định là kết quả (sản phẩm) của hành vi. Đành rằng, thông qua nội dung của quyết định mà thấy được hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.

Một vấn đề căn bản trong lý luận pháp luật chúng ta đều thừa nhận là: pháp luật thể hiện ý chỉ của giai cấp thống trị. Khi nói về pháp luật tư sản, C. Mác từng viết: pháp luật của các ông là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật... Tức là, pháp luật thể hiện cái ý chí quyền lực của giai cấp thống trị - ý chí nhà nước. Nhờ có pháp luật mà giai cấp thống trị biến ý chí của mình thành ý chí nhà nước, buộc mọi đối tượng trong xã hội hoặc một nhóm đối tượng phải tuân theo.

Từ những phân tích trên có thể kết luận:

- Quyết định pháp luật là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực nhà nước (ý chí của cơ quan, người có thẩm quyền). Nhưng không phải là ý chí chủ quan, tuỳ tiện của họ mà ý chí đó phải phù hợp với quy luật vận động phát triển của xã hội;

- Văn bản pháp luật là hình thức thể hiện của quyết định pháp luật.

Các tính chất của quyết định pháp luật.

Quyết định pháp luật mang tính ý chí, tính quyền lực nhà nước và pháp lý. Tính ý chí, tính quyền lực của quyết định pháp luật thể hiện ở chỗ, nó là kết quả sự thể hiện ý chí của chủ thể ban hành, khi ban hành quyết định chủ thể đó nhân danh quyền lực nhà nước, vì lợi ích nhà nước. Nhờ hai đặc điểm này của quyết định pháp luật mà phân biệt đuợc giữa quyết định pháp luật với các hoạt động của các tổ chức - xã hội trực tiếp, các tác nghiệp vật chất - kỹ thuật.

Tính pháp lý của quyết định pháp luật thể hiện ở hệ quả pháp lý của nó. Khi một quyết định pháp luật được ban hành tuỳ teo tính chất pháp lý của nó có thể đem lại sự thay đổi của cơ chế điều chỉnh pháp luật bằng việc bổ sung, bỏ bớt qui phạm pháp luật hoặc đình chỉ hiệu lực của qui phạm pháp luật (nói cách khác nó làm thay đổi cơ chế quản lý nhà nước), hoặc làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ những quan hệ pháp luật cụ thể.

Phân loại quyết định pháp luật.

Việc phân loại quyết định pháp luật dựa vào nhiều tiêu chuẩn và căn cứ khác nhau.

- Theo chủ thể ban hành có: quyết định pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước, của các cơ quan quản lý nhà nước, của Toà án nhân dân, của Viện kiểm sát nhân dân.

- Theo cấp độ hiệu lực pháp lý có: quyết định ở cấp độ luật, quyết định dưới luật.

 

- Theo tính chất pháp lý có: quyết định chính sách, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt - cụ thể.

- Theo hình thức thể hiện có: quyết định bằng văn nói, quyết định bằng văn bản, quyết định bằng ám hiệu, tín hiệu.

 

Đáng quan tâm là cách phân loại theo tính pháp lý và hình thức thể hiện có liên quan trực tiếp tới đề tài mà chúng ta nghiên cứu.

 

II. Văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương.

1. Quan niệm về văn bản qui phạm pháp luật.

Văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương chỉ là một bộ phận văn bản qui phạm pháp luật. Vì vậy, cần có quan niệm đầy đủ, khoa học về văn bản qui phạm pháp luật trước khi nói tới văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương.

Lần đầu tiên trong pháp luật thực định Việt Nam đưa ra khái niệm văn bản qui phạm pháp luật. Theo điều 1 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật (do Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày ngày 12-11-1996): "văn bản qui phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong định nghĩa này còn một số vấn đề cần được bàn bạc, làm rõ.

- Luật quan niệm: văn bản qui phạm pháp luật là văn bản. Cách quan niệm như vậy chưa thật khoa học. Từ góc độ triết học để đưa ra một định nghĩa phức tạp cần phải sử dụng những khái niệm đơn giản gần gũi với nó để định nghĩa. Như trên đã nêu, văn bản pháp luật chỉ là hình thức thể hiện của quyết định pháp luật và văn bản qui phạm pháp luật là hình thức thể hiện của quyết định qui phạm pháp luật. Vì vậy, sẽ là hợp lý hơn nếu quan niệm: văn bản qui phạm pháp luật là hình thức thể hiện của quyết định qui phạm pháp luật.

- Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định. Trên cơ sở Hiến pháp và thực tiễn pháp lý, việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật không chỉ do cơ quan nhà nước ban hành mà còn do cá nhân - người có thẩm quyền ban hành (Thủ tướng, Bộ trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, v.v...). Ban hành văn bản qui phạm pháp luật chỉ là giai đoạn (hay hành vi) thông qua dự thảo văn bản sau khi được thảo luận. Đây là giai đoạn trung tâm của toàn bộ quá trình "làm ra" văn bản qui phạm pháp luật, ở đây, văn bản được ban hành và có hiệu lực pháp lý. Nhưng trước khi ban hành văn bản cần thực hiện hàng loạt hành vi có tính pháp lý như: sáng kiến ban hành, xây dựng dự thảo (lấy ý kiến), trình dự thảo trước cơ quan, người có thẩm quyền. Toàn bộ quá trình đó cần phải tuân theo những quy định có tính thủ tục. Vì vậy, cần coi toàn bộ quy trình "làm" văn bản là thủ tục xây dựng và ban hành văn bản.

- Thuật ngữ "thủ tục" được hiểu là trình tự thực hiện những hoạt động kế tiếp nhau về mặt thời gian. Vì vậy, không nên đặt hai từ "thủ tục" và "trình tự" đi liền kề nhau.

2. Các đặc trưng của văn bản qui phạm pháp luật.

Nghị định số 101/CP của Chính phủ ban hành ngày 23-9-1997 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật đã gián tiếp nêu các đặc trưng của văn bản qui phạm pháp luật nói chung, gồm:

- Chức các qui tắc xử sự.

- Được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng.

- Có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương.

- Được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp tổ chức, hành chính, kinh tế, hoặc cưỡng chế.

Chỉ những văn bản nào do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành với đầy đủ mọi đặc điểm trên mới là văn bản qui phạm pháp luật.

Từ những vấn đề trình bầy ở trên có thể kết luận: văn bản qui phạm pháp luật là hình thức thể hiện của quyết định qui phạm pháp luật, là kết quả của sự thực hiện ý chí quyền lực nhà nước của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, được xây dựng và ban hành theo thủ tục do pháp luật quy định, trong đó có các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, đặt ra qui phạm pháp luật mới, áp dụng các qui phạm pháp luật hiện hành do các cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ qui phạm pháp luật hiện hành, thay đổi phạm vi hiệu lực của qui phạm pháp luật hiện hành về thời gian, không gian và đối tượng thi hành, được nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.

3. Cơ sở pháp lý việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân và cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân.

 

Nói một cách khái quát vê quyền ban hành các văn bản qui phạm pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương ở nước ta hiện nay được quy định rất mờ nhạt trong các văn bản pháp luật. Quyền ban hành văn bản của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ được gián tiếp quy định trong các văn bản như: Hiến pháp, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và một số văn bản khác.

Hiến pháp năm 1992 quy định: "Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó... khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số" (Điều 124). Trong pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng không quy định quyền hạn, nhiệm vụ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.

Như vậy, có thể suy ra có những vấn đề không quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân thì do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban giải quyết. Phải chăng, trong trường hợp này, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải ký thay mặt Uỷ ban nhân dân ? Cách quy định này của pháp luật là một hạn chế của kỹ thuật tổ chức. Cần phải liệt kê những quyền của Uỷ ban nhân dân và của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân mọt cách tách bạch.

Khoản 4 điều 114 khi quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ đã quy định, Thủ tướng Chính phủ "đình chỉ hoặc bãi bỏ... quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên". Như vậy, Hiến pháp còn ngụ ý còn có loại quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Nhưng rất tiếc không chỉ rõ những hình thức pháp lý (tên gọi) văn bản nào của Uỷ ban nhân dân do tập thể ban hành hoặc do Chủ tịch thay mặt Uỷ ban nhân dân, hình thức nào là của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Vấn đề này cũng không được giải quyết trong luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật hay trong nghị định số 101/CP (ngày 23-9-1997) của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật. Một số điều đáng lưu ý tại khoản 5 Điều 3 của Nghị định này là, có một hạn chế rất lớn chỉ nói tới tính hợp hiến, hợp pháp của những quyết định, chỉ thị do Uỷ ban nhân dân ban hành mà không đề cập tới những quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ban hành. Những hạn chế này của pháp luật dẫn tới tình trạng thực tế là bất kỳ một quyết định hay chỉ thị nào dù là của Uỷ ban nhân dân hay thuộc quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì Chủ tịch đều ký thay mặt Uỷ ban. Điều này rất dễ gây sự lẩn tránh trách nhiệm.

Với vị trí pháp lý, tính chất tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân "là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương" là cơ quan làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số, còn Chủ tịch Uỷ ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân thì về nguyên tắc, cần phải quy định cụ thể quyền ban hành văn bản, tên văn bản do Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ban hành, để tránh tình trạng nhầm lẫn khó xác định trách nhiệm.

Hơn nữa, về hình thức làm việc, Uỷ ban nhân dân như một "tiểu chính phủ" hoạt động theo nguyên tắc tập thể, giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền trong phiên hợp, biểu quyết theo đa số, cần quy định Uỷ ban nhân dân ban hành: nghị quyết, còn Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ra quyết định, chỉ thị để giải quyết những công việc thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân nhưng xét thấy không cần thiết phải đưa ra cuộc họp. Đây là những quy định có tính chất điều hành hành chính, giải quyết những vấn đề cụ thể và chủ tịch phải chịu trách nhiệm về quyết định loại này và phải báo cáo trước Uỷ ban nhân dân cùng cấp tại phiên họp gần nhất.

Để thực hiện, giải quyết công việc của mình do pháp luật quy định (chỉ thuộc chủ tịch chứ không thuộc Uỷ ban nhân dân) cần quy định chủ tịch ban hành quyết định và chỉ thị. Với những quyết định pháp luật loại này, chủ tịch ban hành hoàn toàn với tư cách cá nhân, không ký thay mặt Uỷ ban nhân dân. Nếu uỷ quyền cho phó chủ tịch ký thì phó chủ tịch phải ký thay chủ tịch và chịu trách nhiệm trước chủ tịch mà không nhân danh ký thay Uỷ ban nhân dân.

Về nội dung và tính chất pháp lý các quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và chủ tịch Uỷ ban nhân dân.

Các quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân có thể là những quyết định chính sách, xác định các nhiệm vụ trong quản lý nhà nước trên địa bàn làm tương ứng phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp theo quy định của pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp, cũng có thể là quyết định qui phạm pháp luật, quyết định cá biệt cụ thể.

Theo quy định của luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân không ban hành văn bản qui phạm pháp luật. Đây cõ lẽ cũng là một hạn chế của luật. Là người lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp dưới, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ, đình chỉ việc thực hiện hoặc bãi bỏ quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp và các văn bản của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Nếu văn bản của Hội đồng nhân dân của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp là văn bản pháp qui mà bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên đình chỉ, bãi bỏ thì quyết định đó của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên cũng là văn bản qui phạm pháp luật. Vì nhờ có quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên mà văn bản qui phạm pháp luật cấp dưới bị ngưng, hoặc mất hiệu lực.

Hơn nữa, để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của mình, giải quyết điều hành hành chính ở địa phương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cũng cần được ban hành văn bản qui phạm pháp luật. Về nguyên tắc chung, đa phần quyết định, chỉ thị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là quyết định cụ thể - cá biệt. Toàn bộ hoạt động này cần được điều chỉnh bằng pháp luật.

 

III. Đôi điều kết luận.

Với quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền cần tạo ra một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ cả về nội dung và hình thức. Nhưng không vì vậy mà gạt bỏ tính sáng tạo, năng động của địa phương, các cơ quan nhà nước ở cơ sở. Cuộc sống luôn vận động còn pháp luật luôn ở trạng thái "tĩnh", luôn có xu hướng lạc hậu dần. Trong khi chưa có điều kiện ban hành nhiều luật, pháp luật, nghị định thì việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật ở địa phương, ở cơ sở là cần thiết, nhưng không trái với văn bản của cơ quan cấp trên.

- Về tương quan hiệu lực pháp lý giữa văn bản của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cũng không được giải quyết trong các văn bản pháp luật.
Về nguyên tắc chung, văn bản qui phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân có hiệu lực cao hơn văn bản qui phạm pháp luật của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, là căn cứ để Chủ tịch ra các quyết định. Ngược lại, cũng cần tính đến những trường hợp khi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân độc lập sử dụng các quyền hạn của mình mà pháp luật đã quy định để ban hành các văn bản qui phạm pháp luật thì các quyết định của Uỷ ban nhân dân cũng không thể trái, tương tự như mối tương quan giữa hiệu lực văn bản qui phạm pháp luật của Thủ tướng và các văn bản của Chính phủ. Nếu quy định như Nghị định số 101/CP ngày 23-9-1997 sẽ mắc sai lầm vì không phải mọi trường hợp nghị quyết, nghị định của Chính phủ đều là căn cứ pháp lý để Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định, chỉ thị.

- Hiệu lực văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật và nghị định số 101/CP ngày 23-9-1997 của Chính phủ nhìn chung không đề cập tới các vấn đề liên quan tới quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp.

Trong luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật chỉ quy định hiệu lực về không gian đối với nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân còn hiệu lực về thời gian không được quy định. Khi ban hành văn bản quy định: ban hành văn bản pháp luật của chính quyền ở địa phương cần quy định rõ.

Một vấn đề cần được quan tâm là, hiện nay chúng ta mới chỉ có những quy định về "ban hành văn bản qui phạm pháp luật" nhưng chính quyền ở địa phương lại chủ yếu ban hành văn bản cá biệt - cụ thể (quyết định hành chính thành văn bản). Phải chăng nếu ban hành pháp lệnh hay nghị định về ban hành văn bản qui phạm pháp luật của chính quyền ở địa phương cần có quy định cả về những văn bản cá biệt - cụ thể để đảm bảo tính thống nhất ./.

 

 

 

các nguyên tắc soạn thảo

văn bản quy phạm pháp luật

 

Dr. Hoàng Thế Liên

Viện trưởng - Viện NCKH Pháp lý

 

Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động có tính sáng tạo cao. Nội dung chủ yếu của hoạt động này là biến ý chí của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng thành những quy định pháp luật, thành những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm cho các quan hệ xã hội vận động theo một trật tự chung phù hợp với yêu cầu của Nhà nước. Hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có một số đặc trưng sau đây:

- Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động thể hiện và thực hiện quyền lực nhân dân, do nhiều cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện bằng những hình thức văn bản khác nhau về tên gọi và giá trị pháp lý.

- Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động thường xuyên của Nhà nước. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành ở các thời điểm và giai đoạn khác nhau.

- Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động có ý thức và ý chí của Nhà nước (suy cho cùng là hoạt động tư duy của con người). Tức là hoạt động này phản ảnh các giá trị khách quan của xã hội trong từng giai đoạn phát triển thông qua hoạt động tư duy chủ quan của con người. ý chí của Nhà nước, nhất lại là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, cần phải phản ảnh một cách đầy đủ ý chí của nhân dân, các yêu cầu khách quan của đời sống xã hội. Có như vậy mới có thể điều chỉnh các quan hệ xã hội đạt hiệu quả.

Các đặc trưng nêu trên phản ảnh tính phức tạp, khó khăn nhiều mặt của hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật là phải làm thế nào để tạo dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và có tính thống nhất nội tại cao. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật cần đạt được cả về hình thức lẫn nội dung quy định pháp luật, không thể để tình trạng các quy phạm pháp luật trong một hệ thống mâu thuẫn, chồng chéo và vô hiệu hoá lẫn nhau. Muốn đạt được các yêu cầu đó, một trong những điều kiện tiên quyết là phải xác định rõ các nguyên tắc chỉ đạo hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Bởi vì, với nội dung là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt một quá trình, một hiện tượng xã hội, các nguyên tắc không những làm cho quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có xuất phát điểm vững chắc, mà còn bảo đảm cho quá trình đó có tính định hướng rõ rệt, vượt lên trên mọi sự vụn vặt, phức tạp và những yếu tố ngẫu nhiên để giữ vững mục tiêu và đi đến đích cuối cùng. Bảo đảm các nguyên tắc trong việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật sẽ làm cho văn bản pháp luật được ban hành đáp ứng các yêu cầu nội tại của hệ thống pháp luật, đó là:

- Phản ảnh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

- Thống nhất về hình thức và nội dung của quy định pháp luật.

- Phù hợp với yêu cầu thực tế của đời sống xã hội.

Các nguyên tắc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc quan trọng nhất trong các nguyên tắc chỉ đạo việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Nguyên tắc này khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, đòi hỏi pháp luật phải thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng. Nếu như chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, theo cách nói của Lênin, thì cũng theo sự khẳng định của Lênin, pháp luật là sự biểu hiện tập trung của chính trị, Luật là "thước đo chính trị, là chính trị".

Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng yêu cầu các cấp bộ Đảng thường xuyên kiểm tra các cơ quan có thẩm quyền trong việc thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng bằng các quy định của Nhà nước và kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật đó trong thực tế cuộc sống.

Đảng quan tâm sâu sắc vào việc xây dựng một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh. Hệ thống đó thể hiện đầy đủ tinh thần của Hiến pháp - quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 12 Hiến pháp 1992). Hệ thống các quy phạm pháp luật phải đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội, phải có tính thực thi và hiệu quả.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước còn thể hiện ở chỗ các cơ quan lãnh đạo của Đảng tham gia tích cực vào việc chuẩn bị các Dự án văn bản quy phạm pháp luật. Đảng là người khởi xướng việc đưa ra dân thảo luận các dự án văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức các Hội nghị, kêu gọi cán bộ và nhân dân tham gia ý kiến vào các Dự án văn bản và vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Nguyên tắc bảo đảm dân chủ trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.

ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Đó là một nguyên tắc đã được Hiến pháp 1992 khẳng định tại Điều 2. Nguyên tắc bảo đảm dân chủ trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi:

- Khi tiến hành soạn thảo bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đều phải đứng ở vị thế là người đại diện của nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân, lợi ích toàn cục làm yêu cầu cần phản ảnh và làm mục tiêu để phục vụ, chống chủ nghĩa cục bộ, bản vị trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.

- Phải tạo điều kiện cho sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân vào soạn thảo văn bản pháp luật. Nhân dân càng tham gia tích cực và đông đảo bao nhiêu thì quy phạm pháp luật càng sát hợp với yêu cầu của nhân dân, càng có tính khả thi và hiệu lực thi hành cao.

- Phải thu hút sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp vào quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, bởi vì văn bản quy phạm pháp luật không những tác động đến lợi ích của mỗi một công dân, mà còn đụng chạm đến quyền lợi của các tầng lớp, các nhóm dân cư trong xã hội.

Bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên ba yêu cầu cơ bản sau đây:

- Cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Có nghĩa là hệ thống pháp luật phải có đủ các quy phạm pháp luật cần thiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Hệ thống quy phạm pháp luật đó phải có tính thống nhất nội tại, không được chồng chéo, mâu thuẫn nhau.

- Sự tôn trọng triệt để những quy định của Hiến pháp và pháp luật. Mọi công dân bình đẳng trước pháp luật.

- Xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật.

Đối với hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nguyên tắc pháp chế đòi hỏi:

a. Các văn bản phải được ban hành đúng thẩm quyền. Các cơ quan quyền lực và quản lý Nhà nước được tổ chức theo thứ tự quan hệ về thẩm quyền: trên và dưới, Trung ương và địa phương. Vì vậy, các văn bản do mỗi một cơ quan Nhà nước ban hành phải thể hiện đúng thẩm quyền của từng cơ quan đó, có như vậy mới bảo đảm sự tương xứng với mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau. Mỗi một cơ quan Nhà nước được pháp luật quy định thẩm quyền về mặt hình thức và về mặt nội dung trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, một cơ quan Nhà nước, khi có nhu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội thuộc thẩm quyền, thì nhất thiết phải dùng hình thức văn bản đã được pháp luật quy định. Đồng thời, pháp luật cũng xác định rõ thẩm quyền nội dung của từng cơ quan Nhà nước trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nghĩa là, pháp luật quy định rõ vấn đề gì thuộc thẩm quyền ban hành văn bản của cơ quan nào? Thẩm quyền nội dung trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật bắt nguồn từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan Nhà nước được quy định trong Hiến pháp và các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước.

b. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Đây là yêu cầu về sự tuân thủ thứ bậc cao thấp về giá trị pháp lý của văn bản. Nó đòi hỏi phải tôn trọng vị trí tối cao của Hiến pháp và Luật. Trên cơ sở những quy phạm pháp luật của Hiến pháp và luật, các cơ quan Nhà nước khác ban hành các quy phạm cụ thể hoá các quy phạm cơ bản. Các văn bản pháp luật phải được ban hành trên cơ sở Hiến pháp và Luật, phải phù hợp với Hiến pháp và Luật. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi: trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản ở cấp độ thấp hơn phải căn cứ vào văn bản ở cấp độ cao hơn, phải nhằm cụ thể hoá để thực hiện văn bản ở cấp độ cao hơn và không được trái với văn bản ở cấp độ cao hơn. Nếu không đáp ứng yêu cầu như vậy, thì văn bản ở cấp độ thấp hơn sẽ bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành (Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).

ở đây, một yêu cầu quan trọng khác đặt ra là phải xoá bỏ tình trạng buộc văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên phải chờ văn bản của cơ quan Nhà nước cấp dưới. Tình trạng Luật và Pháp lệnh phải chờ các Thông tư là một thực tế vi phạm nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Tính thống nhất và phù hợp về nội dung và hình thức của văn bản quy phạm pháp luật còn đòi hỏi phải thường xuyên rà soát, hệ thống hoá và xử lý văn bản nhằm loại bỏ các quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, lạc hậu, lỗi thời trong quá trình xây dựng pháp luật. Điều 8 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định theo yêu cầu đó.

c. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm đúng trình tự và thủ tục được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Để đạt được mục tiêu đó, cần xác định cụ thể cơ chế phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các khâu, nấc, các cơ quan, bộ phận tham gia quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Vì vậy, bảo đảm quy trình là một yêu cầu của pháp chế trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nó sẽ góp phần quan trọng vào việc khắc phục tình trạng tùy tiện, không theo những chuẩn mực, nguyên tắc nhất định làm hạn chế tiến độ và chất lượng của các dự thảo, gây lãng phí, tốn kém không cần thiết.

 

 

ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp

 

 

TS. Uông Chu Lưu

Thứ trưởng Bộ Tư pháp

 

i. Tình hình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương:

Trong 5 năm vừa qua, kể từ khi có Hiến pháp 1992, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương ngày càng được đẩy mạnh và có những bước phát triển mới, tiến bộ hơn rất nhiều so với thời gian trước. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dâncác cấp ban hành trong thời gian qua ngày càng tăng cả về số lượng cũng như chất lượng, chứng tỏ các ngành, các cấp ở địa phương đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước bằng Pháp luật, coi văn bản quy phạm pháp luật là công cụ quan trọng không thể thiếu trong quản lý, điều hành Nhà nước ở địa phương. Những văn bản này, mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số văn bản đã được ban hành(1) và ở nhiều địa phương chỉ tập trung chủ yếu ở cấp tỉnh nhưng nhìn chung đã góp phần tạo nên một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá ổn định ở địa phương, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những văn bản này, cùng với các quy định của Pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở Trung ương ban hành đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ gìn an ninh chíh trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân.

Nhìn chung, công tác xâydựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương trong thời gian qua có những ưu điểm sau đây:

1. Đã có sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát hơn của cấp uỷ và chính quyền địa phương các cấp đối với công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật;

2. Các văn bản quy phạm pháp luật đã được kịp thời ban hành để thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp uỷ trong việc hướng dẫn áp dụng các Luật, Pháp lệnh và văn bản của các cơ quan Nhà nứơc cấp trên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phù hợp với tình hình, đặc điểm và yêu cầu chính trị của địa phương; quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình trong lĩnh vực chưa được văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên quy định hoặc quy định chưa cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước ở địa phương;

3. Các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành về cơ bản đáp ứng được yêu cầu về hình thức. Tình trạng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bằng hình thức khong do Luật định, trái thẩm quyền, không vào sổ, không đánh số, không đề ngày, tháng, năm ban hành ở nhiều địa phương về cơ bản đã được khắc phục;

4. Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được nâng cao, nhất là đối với các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành. Tình trạng văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung trái với văn bản của cơ quan Nhà nứoc cấp trên, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật khác do cùng cấp ban hành hoặc có nội dung không phù hợp với tình thình thực tế của địa phương ngày càng giảm bớt và được chú ý khắc phục. Theo báo cáo của các địa phương như: Hải Dương, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền ở cấp tỉnh trong thời gian qua về cơ bản bảo đảm được thẩm quyền về nội dung cũng như thẩm quyền về hình thức do Luật định;

5. Một số địa phương (chủ yếu ở cấp tỉnh) đã xây dựng được chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm ví dụ (Phú Thọ, Bà Rịa - Vũng Tàu, Nghệ An, Quảng Ngãi ...). Chương trình này được xây dựng trên cơ sở để bảo đảm thực hiện Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, căn cứ vào chương trình phát triể kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và yêu cầu quản lý Nhà nước ở địa phương. Do có chương trình nên các địa phương đã chủ động được trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Qua đó quản lý được kế hoạch, tiến độ xây dựng văn bản và bảo đảm công tác xây dựng Pháp luật phù hợp với yêu cầu quản lý ở địa phương, đồng thời khắc phục được tình trạng bị động, tuỳ tiện từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả soạn thảo, bảo đảm được tính đồng bộ và tính thống nhất của văn bản trong hệ thống Pháp luật;

6. Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng và ban hành được văn bản riêng (dưới hình thức Quyết định ban hành Quy định, Quy chế, Điều lệ hay chỉ là Chỉ thị) quy định trình tự, thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương (như PHú Thọ, Kon - Tum, Lai Châu, Yên Bái, Nghệ An, Bến Tre, Đồng Tháp, Thái Bình, Lạng Sơn, Bình Định, Bình Thuận, Tây Ninh ...) (2). Mặc dù hiện thực và nội dung của những văn bản này ở những địa phương khác nhau có điểm khác nhau (3). Nhưng nhìn chung đã xác định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, trình tự soạn thảo, việc lấy ý kiến góp ý soạn thảo, quan hệ giữa cơ quan soạn thảo với cơ quan có thẩm quyền ba hành văn bản và các cơ quan có liên quan khác, thủ tục thẩm định và ban hành văn bản để áp dụng thống nhất trong phạm vi địa phương. Những văn bản này đã góp phần tích cực vào việc thành lập lại trật tự trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, đặc biệt trong điều kiện Nhà nước ta chưa có văn bản có hiệu lực cao quy định thống nhất trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.

7. Đã dần dần khẳng định được vai trò và vị trí của Sở Tư pháp, các phòng Tư pháp trong quá trình soạn thảo, tham gia soạn thảo và đặc biệt là trong việc thẩm định văn bản nhằm bảo đảm tính hợp Hiến, hợp Pháp và tính thống nhất của Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống Pháp luật, về kỹ thuật soạn thảo văn bản nhiều cơ quan Tư pháp địa phương còn có ý kiến cả về mặt hợp lý hợp thời của văn bản mới khi trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua. ở nhiều địa phương như Kon - Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Tháp, Long An, Bến Tre, Nghệ An ... việc Sở Tư pháp xem xét và có ý kiến thẩm định Dự thảo văn bản trước khi trình Uỷ ban nhân dân ban hành là trình tự bắt buộc trong quy trình soạn thảo văn bản. Thực tế có những địa phương làm rất tốt công tác này, ví dụ ở Kon - Tum tỷ lệ văn bản được Sở Tư pháp thẩm định là 91,5% đối với Dự thảo Quyết định của Uỷ ban nhân dân. ở Lâm Đồng, một số huyện quy định văn bản trình ký phải có chữ ký tắt của Chánh Văn phòng và Trưởng phòng Tư pháp huyện.

Cùng với trách nhiệm thẩm định, ở nhiều địa phương, Sở Tư pháp cũng đóng vai trò tích cực trong công tác tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân rà soát và kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác Tư pháp, thường xuyên tiến hành tập huấn nghiệp vụ xây dựng văn bản và hướng dẫn các ngành, các cấp trong tỉnh về quản lý công tác xây dựng văn bản (Kon - Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre).

8. Nhiều địa phương đã coi trọng đặt công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật thành một hoạt động thường xuyên (Nghệ An, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre ...), xác định đây là một họat động rất quan trọng gắn liền với công tác xây dựng Pháp luật và thực hiện Pháp luật. Qua thực hiện công tác này đã phát hiện kịp thời những văn bản có mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực để trình cấp có quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ. Một số Sở Tư pháp đã chủ động tổ chức tập hợp, in thành sách các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương đang còn hiệu lực sau mỗi đợt rà soát. Cùng với hoạt động này, việc xây dựng tủ sách Pháp luật ở các cấp quản lý, trang bị đầy đủ các tập Công báo đã hỗ trợ tích cực cho việc áp dụng và thực hiện thống nhất Pháp luật ở địa phương.

Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được nói trên, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục. Những tồn tại thiếu sót bao gồm:

1. ở một số địa phương vẫn còn hiện tượng ban hành văn bản có tính quy phạm dưới hình tức không do luật định như Công văn, Thông báo, kết luận ... mà không kèm theo quyết định (Thừa Thiên - Huế, Bà Rịa - Vũng tàu, Bình định, Thái bình, Thanh hoá, Lâm đồng, Khánh hoà).(4)

Trong hoạt động xây dựng văn bản vẫn còn có quan niệm cho rằng cơ quan cấp trên có loại văn bản nào đề cập vấn đề gì thì địa phương cũng phải có hinhf thức cho mỗi loại văn bản đó dẫn đến tình trạng chồng chéo : Nhiều văn bản có cùng nội dung hoặc văn bản của cơ quan cấp dưới quy định lại những vấn đề đã đưọc văn bản của cấp trên quy định nhưng lại không đầy đủ, thậm chí không đúng gây hiểu sai và không thực hiện được (Khánh Hoà, Thanh Hoá, Hải Dương).

Việc sử dụng căn cứ pháp luật để ban hành văn bản đôi khi còn rất tuỳ tiện: Văn bản ban hành không có căn cứ pháp lý hoặc căn cứ vào công văn, thông báo, kết luận miệng của lãnh đạo (Lai Châu), căn cứ không chính xác hoặc thậm chí căn cứ vào văn bản đã hết hiệu lực (Hải Dương) . ở một vài nơi, văn bản thậm chí không ghi ngày tháng ban hành hoặc sau đó tự tiện sửa đổi ngày tháng, văn bản ban hành mà không có dấu của cơ quan ban hành hoặc do cấp phó ký nhưng không ghi rõ là ký thay v.v...

2. Còn tình trạng văn bản ban hành vượt thẩm quyền do Pháp luật quy định. Điều này xảy ra ở cả ba cấp tỉnh, huyện và xã nhưng tập trung nhiều ở cấp huyện và xã, đặc biệt ở cấp xã mặc dù theo thống kê của nhiều địa phương văn bản quy phạm pháp luật được ban hành ở cấp này được ban hành không nhiều (Hải Dương, Thanh Hoá, Thừa Thiên - Huế, Lâm Đồng, Lai Châu, Thái Bình)(5).

3. Nhiều địa phương chưa xây dựng được chương trình lập quy hàng năm khiến hoạt động xây dựng văn bản luôn bị động về nội dung và thời gian dẫn đến nhiều trường hợp Dự thảo văn bản kém chất lượng, thiếu tính khả thi. Cá biệt có địa phương cho rằng việc xây dựng chương trình lập quy hàng năm là không thể thực hiện được "Vì các ngành tham mưu của tỉnh cũng chỉ căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên (chủ yếu là văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ và cơ quan ngang Bộ) để tham mưu giúp tỉnh có văn bản pháp quy ở địa phương để cụ thể hoá triển khai thực hiện, ngành không thể tự chủ động xây dựng dự kiến văn bản pháp quy sẽ trình tỉnh ban hành được";(6)

4. Trình tự,thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được nhiều địa phương quy định nhưng do chưa có sự chỉ đạo chung, một số quy định lại chủ yếu dựa trên thực tiễn áp dụng từ trước tới nay nên chưa đảm bảo sự thống nhất giữa các địa phương. Ví dụ như liên quan đến chức năng thẩm định văn bản, một số địa phương không quy định rõ Sở Tư pháp là cơ quan thẩm định (Thanh Hoá, Bình Định), thậm chí có nơi giao cho Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng này (Lạng Sơn, Thừa Thiên - Huế ...). Thêm vào đó, tình trạng không tuân thủ quy trình, thủ tục đã quy định, làm tắt, văn bản soạn thảo sơ sài hoặc do thư ký Uỷ ban nhân dân phụ trách từng lĩnh vực soạn thảo rồi trình ký luôn, lhông gửi lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan và ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp cũng được đề cập trong báo cáo của một số địa phương (Yên Bái, Lai Châu, Nghệ An, Bình Định ...). Thực tế này dẫn đến tình trạng ở một số nơi Sở Tư pháp không nắm được tình hình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, không thể chủ động tham gia và có ý kiến ngay từ khâu soạn thảo, mà "chỉ thực hiện chức năng theo dõi số lượng VBQPPl của tỉnh thông qua sổ công văn lưu trữ của Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh"(7). Cũng vì lý do này Sở Tư pháp chỉ có thể phát hện các sai sót sau khi văn bản đã được ban hành(8). Trong những trường hợp như vậy việc kiến nghị cơ quan đã ban hành văn bản bãi bỏ được sửa đổi ngay văn bản là rất khó khăn.

5. Việc quản lý, lưu trữ văn bản ban hành thiếu chặt chẽ, chưa bảo đảm tính khoa học nhất là ở các cấp huyện, xã. Công tác hệ thống hoá mới dừng lại chủ yếu ở cấp tỉnh. ở Thừa Thiên - Huế, tình trạng văn bản ban hành không được vào sổ hoặc sắp xếp theo hình thức văn bản và thời gian ban hành là tương đối phổ biến. Có huyện chỉ lưu trữ được 35% văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban nhân dân ban hành trong năm có xã hoàn toàn không có sổ theo dõi công tác ban hành văn bản và không lưu trữ văn bản đã ban hành. Cung vì lý do này ở Lâm Đồng nhiều xã không có căn cứ để tổng kết, đánh giá hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo yêu cầu của Sở Tư pháp;

6. Công tác rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật tuy được tiến hành đềy đặn theo địnhkỳ nhưng việc in ấn, xuất bản tập hệ thống văn bản đang còn hiệu lực để áp dụng thống nhất hầu như chưa thực hiện được ở đa số các địa phương. Cá biệt do không nắm được kết quả rà soát, xử lý văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh, vẫn còn tình trạng cơ quan quản lý áp dụng văn bản đã bị baĩ bỏ, gây ảnh hưởng không tốt đến việc quản lý Nhà nước trong phạm vi địa phương (Nghệ An).

 

ii. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, thiếu sót nêu trên là do:

Nhà nước ta chưa có văn bản quy định cụ thể, rõ ràng, và thống nhất về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Những quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua ngày 12/11/1996 vừa qua mới chỉ quy định một số nguyên tắc chỉ đạo cho công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, còn trình tự, thủ tục cụ thể áp dụng cho hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương phải nhờ một văn bản khác;

Một số cơ quan, Ban, Ngành ở địa phương chưa nhận thức đúng với tầm quan trọng của công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chưa dành sự quan tâm thích đáng, thiếu đầu tư vật chất và chất xám cho hoạt động này, bỏ qua quy trình thủ tục quy định (9).

Hầu hết các địa phương không có kinh phí dành riêng cho công tác xây dựng văn bản (thực tế chưa có cơ sở pháp lý để chi Ngân sách cho hoạt động này) khiến cho việc tuân thủ trình tự soạn thảo, thẩm định gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khâu khảo sát thực tế, đánh giá tình hình, nghiên cứu tư liệu tổ chức các Hội nghị, Hội thảo Khoa học phục vụ cho việc soạn thảo, thẩm định văn bản. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng soạn thảo văn bản ;

ở nhiều địa phương đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp quá mỏng, chưa đủ sức đảm đương trách nhiệm đuợc giao. Thêm vào đó, trình độ cán bộ soạn thảo văn bản còn nhiều hạn chế, chưa được tập huấn, hướng dẫn thường xuyên về nghiệp vụ, nhất là ở các cấp chính quyền cơ sở. Có những nơi, cán bộ soạn thảo chưa phân biệt rõ khái niệm văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật, hình thức văn bản do từng cấp có thẩm quyền ban hành, những tiêu chí và yêu cầu cần có của một văn bản quy phạm pháp luật. ở Bến tre, đại đa số Chủ tịch xã chưa qua trường lớp chính quy, trình độ hiểu biết pháp luật rất sơ đẳng. Thực tế này không những hạn chế học thực hiện thẩm quyền ban hành văn bản do pháp luật quy định mà nếu họ thực hiện quyền đó thì khó tránh khỏi sai sót;

 

iii. Kiến nghị :

 

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, bảo đảm văn bản được soạn thảo và ban hành đúng thẩm quyền, khắc phục tình trạng văn bản có quy định chồng chéo, mâu thuẫn, có nội dung trái pháp luật cần tiến hành một số công tác sau đây:

1. Nhà nước cần nghiên cứu sớm ban hành một văn bản pháp luật có hiệu lực cao quy định thống nhất về thẩm quyền, trình tự xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, quy định rõ trách nhiệm của các ban, ngành ở địa phương trong quá trình soạn thảo, góp ý kiến thẩm định văn bản, đặc biệt cần khẳng định trách nhiệm thẩm định Dự thảo văn bản của các cơ quan Tư pháp và quy định mối quan hệ công tác với Văn phòng Uỷ ban nhân dân và Ban pháp chế Hội đồng nhân dân trong hoạt động này.

Văn bản này cần quy định rõ, cụ thể những vấn đề sau:

+ Quy định đầy đủ chính xác các hình thức văn bản quy phạm pháp luật mà địa phương có thẩm quyền ban hành;

+ Phân định phạm vi, ranh giới giữa các văn bản quy phạm pháp luật và với các văn bản áp dụng pháp luật; Thẩm quyền nội dung của các hình thức văn bản, của các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương.

+ Quy định cụ thể và rõ ràng trình tự, thủ tục soạn thảo, lấy ý kiến, thẩm định và ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

+ Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các điều kiện bảo đảm cho việc ban hành.

2. Hiện nay về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương còn có nhiều ý kiến khác nhau:

- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị giữ nguyên như hiện nay tức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cả ở 3 cấp tỉnh, huyện và xã đều có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Những lý lẽ ủng hộ quan điểm này bao gồm:

+ Cơ cấu tổ chức chính quyền Nhà nước ta có 4 cấp, đồng thời đây cũng là 4 cấp ngân sách. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân mỗi cấp đều xác định chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp là phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng trong phạm vi thẩ quyền và trên cơ sở đặc điểm đặc thù của địa phương ở mỗi cấp. Do vậy mỗi cấp chính quyền địa phương cần có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh những vấn đề có tính chất đặc thù đó.

+ Cho phép các cấp chính quyền địa phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật là phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta vì một trong những nội dung của nguyên tắc này là phát huy khả năng sáng tạo, tính linh hoạt của cơ sở.

- Loại ý kiến thứ hai đề nghị thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ nên quy định cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân hai cấp là cấp tỉnh và cấp huyện; cần hạn chế hoặc không để cáp xã ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Những lý lẽ bảo vệ quan điểm này bao gồm:

+ Trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở hai cấp tỉnh và huyện chặt chẽ hơn nên bảo đảm được chất lượng văn bản. Thực tế do ở cấp xã do thiếu cán bộ; trình độ hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế nên văn bản do cấp này ban hành thường có nhiều sai sót;

+ văn bản quy phạm pháp luật do các cấp tỉnh và huyện ban hành đã bảo đảm tính chất cụ thể, chi tiết và sát thực tế địa phương có thể áp dụng để xử lý các vấn đề mang tính đặc thù ở cơ ở mà không cần quy định chi tiết nữa;

+ Cấp xã cũng là một cấp quản lý nhà nước, song việc quản lý ở cấp xã về mọi mặt đã có văn bản của cấp trên quy định cụ thể, cấp xã chỉ tổ chức thực hiện, không cần thiết phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật nữa.

- Loại ý kiến thứ ba cho rằng chỉ nên giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật pháp luật cho cấp tỉnh vì thực tế cho thấy ở địa phương các cấp huyện và cấp xã rất ít ra văn bản quy phạm pháp luật mà chủ yếu là văn bản áp dụng pháp luật. Trường hợp nếu có ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì cũng gần như là sao chép lại văn bản của cấp trên. Các sai sót cũng thường xảy ra ở hai cấp này. Việc quy định nhiều cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật như hiện nay dẫn đến một thực tế là trong một lĩnh vực, về cùng một vấn đề có rất nhiều văn bản do nhiều cơ quan ban hành, không những trùng lặp mà còn chồng chéo, mâu thuẫn, không bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

3. Cần củng cố và có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế ở địa phương. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cần thường xuyên hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ về soạn thảo văn bản, kỹ thuật rà soát, hệ thống hoá văn bản cho cán bộ của địa phương.

4. Nhà nước cần dành một phần kinh phí thoả đáng cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.

5. Cần đầu tư thích đáng cho việc hiện đại hoá công tác văn phòng, văn thư, lưu trữ văn bản; cung cấp kịp thời văn bản do cơ quan cấp trên ban hành và thường xuyên cập nhật thông tin pháp lý nhằm hộ trợ cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.

 

văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền ban hành

văn bản quy phạm pháp luật

của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân

 

Ts. Lê Hồng Sơn - Bộ Tư pháp

 

Tuy đã có một bước tiến so với các văn bản hiện hành trong việc xác định nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân là văn bản quy phạm pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn để ngỏ các nội dung hết sức quan trọng, cơ bản của loại văn bản này. Những nội dung như : Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ? Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp nào được ban hành văn bản quy phạm pháp luật ? Nội dung của từng loại văn bản và thủ tục, trình tự ban hành chúng như thế nào?.v.v... cần được nghiên cứu một cách cụ thể, thấu đáo cả về lý luận cũng như thực tiễn nhằm giúp cho hoạt động soạn thảo Dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng như hoạt động xây dựng văn bản của các cấp chính quyền địa phương.

Phạm vi của chuyên đề này đề cập đến một số vấn đề cơ bản như : Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

1. Về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, đồng thời cũng là một loại trong các loại quyết định quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chủ thể ban hành chúng là Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định :

"Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên"

(Điều 119 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân)

" Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp"

(Điều 123 Hiến pháp1992; Điều 2 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân)

Trên cơ sở xác định tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp đã trao quyền cho Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết và Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị: Điều 120 Hiến pháp 1992, Điều 11 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Điều 3 Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp quy định Hội đồng nhân dân các cấp có quyền ban hành nghị quyết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; Điều 124 Hiến pháp, Điều 41Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Điều 3 Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp quy định Hội đồng nhân dân các cấp có quyền ban hành quyết định, chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.

Về mặt lý luận, vị trí, tính chất nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Hội đồng nhân dân có thể được xem xét dựa trên vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là những chủ thể ban hành chúng. Tuy nhiên, xét từ góc độ văn bản pháp luật nói chung, chúng ta có thể xác định vị trí, tính chất nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân dựa trên hai tiêu chí cơ bản: Chúng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chúng là một loại trong các loại quyết định quản lý do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Trong hệ thống pháp luật hiện hành, với tư cách là một loại văn bản quy phạm pháp luật hay với tư cách là một loại quyết định quản lý, vị trí, tính chất nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đều chưa được xác định một cách đầy đủ, thấu đáo.

Tiếp cận từ tiêu chí coi nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân là một loại văn bản quản lý, chúng ta có thể thấy rằng pháp luật hiện hành, kể cả Hiến pháp lẫn luật, pháp lệnh đều chưa có quy định hợp lý.

Văn bản quản lý nhà nước là công cụ cơ bản nhất để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và được phân loại dựa trên những tiêu chuẩn khác nhau như: theo tính chất pháp lý, cơ quan ban hành, trình tự ban hành và hình thức thể hiện... Theo các tiêu chuẩn này, kể cả về tổng thể lẫn từng tiêu chuẩn cụ thể đều chưa được quy chuẩn hoá trong pháp luật hiện hành một cách đồng bộ.

Nếu căn cứ theo tính chất pháp lý, có thể chia các văn bản quản lý thành ba loại cơ bản: văn bản chủ đạo, văn bản quy phạm và văn bản cá biệt. Theo đó, nội dung và thể thức ban hành rất khác nhau tuỳ theo mỗi loại. Nghị quyết do Hội đồng nhân dân ban hành cũng là một loại văn bản quản lý. Căn cứ vào thẩm quyền của chủ thể ban hành (Hội đồng nhân dân) và nội dung cụ thể, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cũng có thể chia thành ba loại: chủ đạo, quy phạm, cá biệt. Tương tự, quyết định do Uỷ ban nhân dân ban hành cũng có ba loại : chủ đạo, quy phạm và cá biệt.

Như trên đã trình bày, Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân vàUỷ ban nhân dân ở mỗi cấp chỉ mới dừng lại ở việc giao quyền cho Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà chưa có sự phân loại cụ thể theo tính chất pháp lý của văn bản.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật xác định nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân là văn bản quy phạm pháp luật tức là cũng chỉ mới xác định một trong ba loại nêu trên, còn loại văn bản nghị quyết, quyết định chủ đạo và nghị quyết, quyết định cá biệt vẫn chưa được đề cập. Hơn nữa, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật tuy có quy định nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân là văn bản quy phạm pháp luật nhưng cũng chưa đưa ra những tiêu chí rõ ràng, cụ thể để xác định nghị quyết, quyết định, chỉ thị nào là văn bản quy phạm pháp luật. Hạn chế này làm cho các cơ quan ban hành văn bản không chỉ lúng túng khi xác định nội dung của văn bản mà còn lẫn lộn khi xác định thẩm quyền và quy trình chuẩn bị, ban hành văn bản.

( Xin nói thêm : cũng theo cách phân loại trên, nếu phân tích từ góc độ văn bản cá biệt thì trong quy định của pháp luật hiện hành đã bộc lộ hạn chế ở chỗ: quy định không đầy đủ chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định các biệt. Ví dụ, ngoài quyết định của Uỷ ban nhân dân là văn bản cá biệt thì còn rất nhiều chủ thể khác ở địa phương cũng ban hành văn bản quyết định cá biệt để điều hành, quản lý mà Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân không quy định như: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, giám đốc Sở, ban, ngành ở địa phương...)

Tiếp cận từ tiêu chí coi nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân là loại văn bản quy phạm pháp luật: Nếu như Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp mới chỉ dừng lại ở việc giao cho Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà chưa quy định rõ đây là loại văn bản gì, thì lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của Nhà nước ta, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân với tư cách là văn bản quy phạm pháp luật.

Theo quy định tại Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì "Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa."

Cũng tại Điều 1 Luật này đã quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: các văn bản do Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành (Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết); các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở trung ương ban hành (lệnh, nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư); các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành (nghị quyết, quyết định, chỉ thị ). Tại Khoản 3 Điều 1 Luật này quy định "Văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp:

a/ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân

b/ Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân."

Điều 19 Luật này quy định chi tiết hơn một bước so với Điều 1:"Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết.

Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị."

Trên cơ sở nội dung Điều 1 và Điều 19 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số 101/CP của Chính phủ ngày 23 tháng 9 năm 1997 đã quy định tại Điều 1:

"1- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có đầy đủ các yếu tố sau đây:

a) Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành với hình thức được quy định tại Điều 1 của Chương I và Chương II của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

b)...

c) Văn bản có chứa các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương;

Quy tắc xử sự chung là những chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh;

d) Văn bản được nhà nước bảo đảm thi hành bằng các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết thì nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành và quy định chế tài đối với người có hành vi vi phạm.

2- Những văn bản cũng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành mà không có đầy đủ các yếu tố nói trên để giải quyết những vụ việc cụ thể đối với những đối tượng cụ thể, thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật và không chịu sự điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định này như: quyết định lên lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định phê duyệt dự án, chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua, biểu dương người tốt, việc tốt và những văn bản cá biệt khác"

Như vậy, Luật ban hành quy phạm pháp luật và Nghị đinh 101/CP của Chính phủ đã cho phép đưa ra những nét khái quát nhất về văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Cụ thể là :

- Về hình thức văn bản và cơ quan có thẩm quyền ban hành: nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân;

- Trong văn bản có chứa các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi địa phương;

- Được ban hành theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định;

- Được các cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành.

Căn cứ vào những tiêu chí chung đã nêu ở trên, có thể sơ bộ đưa ra khái niệm văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như sau:

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là văn bản được ban hành dưới hình thức nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có hiệu lực trong phạm vi địa phương.

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phải có đầy đủ các yếu tố sau:

- Là văn bản được ban hành dưới hình thức nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân;

- Được ban hành theo thủ tục, trình tự do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật này quy định;

- Trong đó có các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng khi tham gia quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chỉnh; có hiệu lực trong phạm vi địa phương;

- Được các cơ quan nhà nước bảo đảm thi hành bằng các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết thì nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành đối với người có hành vi vi phạm.

2. Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

Như trên đã phân tích, pháp luật hiện hành giao thẩm quyền cho Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân với các hình thức tương tự.

Nghị quyết, quyết định chỉ thị quy phạm pháp luật là một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời là một loại quyết định quản lý do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành.

Xem xét từ góc độ thẩm quyền ban hành hình thức văn bản quy phạm pháp luật, ta thấy pháp luật hiện hành, cụ thể là Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn để ngỏ một số vấn đề cơ bản quan trọng như: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp nào thì có thẩm quyền ban hành nghị quyết, quyết định, chỉ thị quy phạm pháp luật? Và, Uỷ ban nhân dân, với tư cách là cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, được giao thẩm quyền ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật nào là phù hợp?

Để giải đáp những câu hỏi này, trước hết cần xem xét hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và vị trí của các văn bản này trong hệ thống đó. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định một hệ thống nhiều loại, nhiều hệ cấp văn bản quy phạm pháp luật từ Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH, văn bản của Chủ tịch nước, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các cơ quan tư pháp ở trung ương đến văn bản của các cấp chính quyền địa phương. Có thể thấy, đây là một hệ thống gồm nhiều loại, nhiều cấp, nhiều tầng lớp chồng xếp lên nhau. Cách quy định như vậy tuy xuất phát từ các quy định về thẩm quyền ban hành văn bản đã được quy định tại Hiến pháp, các luật tổ chức bộ máy và đồng thời cũng tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc đề ra các quy tắc xử sự chung để quản lý, điều hành. Nhưng trên thực tế cũng đã tạo ra một hệ thống văn bản, hệ thống quy phạm quá phức tạp, nhiều tầng nấc mà trong đó, các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là bộ phận thấp nhất, cuối cùng của hệ thống đó. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật như vậy sẽ tạo ra những hạn chế thiếu sót như: dễ tạo ra những mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các bộ phận của hệ thống; gây ra tình trạng chờ đợi, chậm triển khai thực hiện các văn bản cấp trên; trong nhiều trường hợp văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới sao chép một cách máy móc quy định của văn bản cấp trên; có quá nhiều loại văn bản quy phạm do nhiều cơ quan ban hành về một vấn đề hay một lĩnh vực quản lý, tạo nên hệ thống quy phạm nhiều tầng nấc, phức tạp, khó hiểu, khó thực hiện không chỉ trong các tầng lớp nhân dân mà cả trong các cơ quan quản lý. Những hạn chế này vừa làm giảm hiệu lực, hiệu quả, tính nhạy bén của hoạt động quản lý, vừa trực tiếp làm hạn chế việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đã đến lúc cần đặt vấn đề phải làm đơn giản hoá hệ thống quy phạm pháp luật. Trước hết, cần hạn chế bớt cơ quan có thẩm quyền ban hành quy phạm và hạn chế bớt hình thức văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở có sự phân loại văn bản pháp luật như đã phân tích ở phần trên. Việc hạn chế, theo chúng tôi, cần bắt đầu từ các văn bản quy phạm pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành theo các nguyên tắc sau đây:

- Việc ban hành quy phạm pháp luật cần được tập trung ở các cơ quan nhà nước cấp cao, hạn chế dần thẩm quyền này theo thứ bậc từ trên xuống. Như vậy, cần hạn chế thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật của các cơ quan chính quyền địa phương nói chung. Và trong các cơ quan chính quyền địa phương thì ở cấp càng thấp, càng nên hạn chế thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật. (Theo hướng này, cũng cần nói thêm là đồng thời với việc giảm dần thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật thì cũng đồng thời cần tăng dần thẩm quyền ban hành văn bản cá biệt, thực thi pháp luật tương ứng cho các cơ quan chính quyền địa phương cấp dưới.)

- Để bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, khả thi của hệ thống quy phạm pháp luật, cũng cần giao thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật cho cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung, cho tập thể là chủ yếu (và ngược lại, thẩm quyền tổ chức thực hiện cũng như ban hành văn bản cá biệt lại cần phải xác định trách nhiệm và giao cho cá nhân là chủ yếu). Chỉ nên giao thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật cho cá nhân có thẩm quyền trong một số trường hợp cá biệt thật cần thiết.

Theo các định hướng nêu trên, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương chỉ nên tập trung cho Hội đồng nhân dân và tập thể Uỷ ban nhân dân.

Về vấn đề giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cấp nào là hợp lý? Qua khảo sát, lấy ý kiến các địa phương, quan điểm xác định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cấp nào hiện cũng không thống nhất. Một số địa phương cho rằng chỉ nên giao quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cấp tỉnh với lý do là cấp huyện và cấp xã từ trước đến nay ít ban hành văn bản quy phạm pháp luật, và nếu có thì chủ yếu là sao chép, nhắc lại quy định của văn bản cấp trên. Hơn nữa, tỷ lệ văn bản quy phạm pháp luật do các cấp này ban hành có nội dung sai trái, mâu thuẫn, chồng chéo so với văn bản cấp trên là rất lớn. Một số địa phương đề nghị giao thẩm quyền này cho chính quyền địa phương cấp tỉnh và cấp huyện mà không nên không giao cho cấp xã vì ở xã hầu như không có vấn đề gì cần ban hành quy phạm. Trình độ cán bộ xã nhìn chung còn rất yếu kém, do đó chỉ nên giao cho cấp xã tổ chức thực hiện quy phạm pháp luật và ban hành văn bản cá biệt. Cũng có một số địa phương đề nghị giao thẩm quyền này cho cả 3 cấp với lý do cả 3 cấp đều có thẩm quyền quản lý nhà nước trên địa bàn. Hiến pháp, luật tổ chức...đều có quy định cho cả ba cấp ban hành nghị quyết, quyết định, chỉ thị. Chúng tôi cho rằng, trong ba cấp chính quyền địa phương, có thể nghiên cứu hướng chỉ giao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho chính quyền địa phương cấp tỉnh (hoặc nếu cần thiết, cho cả chính quyền cấp huyện). Chỉ nên giao cho chính quyền địa phương (cấp huyện), cấp xã thẩm quyền tổ chức thực hiện quy phạm pháp luật, ban hành văn bản cá biệt, thực hiện thủ tục hành chính công quyền. Về hình thức văn bản quy phạm pháp luật, cần giữ thẩm quyền ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân (bên cạnh nghị quyết quy phạm pháp luật, Hội đồng nhân dân còn có thẩm quyền ban hành nghị quyết chủ đạo và nghị quyết cá biệt để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình). Đối với Uỷ ban nhân dân, cần nghiên cứu hướng chỉ giao cho tập thể Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định quy phạm pháp luật (bên cạnh quyết định quy phạm pháp luật, Uỷ ban nhân dân còn có thẩm quyền ban hành quyết định chủ đạo và quyết định cá biệt). Không nên duy trì hình thức chỉ thị có chứa quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân.

Những đề xuất đổi mới thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hình thức văn bản và chủ thể ban hành như trên không chỉ liên quan đến nội dung của Dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân mà còn đụng chạm đến nội dung của Điều 1 và Điều 19 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

Về thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, thực tiễn ban hành văn bản ở các địa phương cho thấy hiện đang còn nhiều lúng túng trong việc trong việc xác định nội dung của văn bản. Có quan niệm cho rằng cơ quan cấp trên có loại văn bản nào đề cập đến vấn đề gì thì địa phương và cấp dưới cũng cần ban hành với hình thức và nội dung tương tự. Quan niệm này hiện đang tương đối phổ biến ở các cấp chính quyền địa phương, tạo nên tâm lý chờ đợi phải có văn bản của chính quyền địa phương mới tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương trên địa bàn. Mặt khác, thực tế cũng cho thấy tình trạng văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành có nội dung sai trái, vượt thẩm quyền còn tương đối phổ biến, đặc biệt là ở cấp huyện và cấp xã.

Vấn đề đặt ra là cần xác định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như thế nào? Trước hết, thẩm quyền nội dung các văn bản cần được xác định trong khuôn khổ thẩm quyền quản lý nhà nước mà Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp lệnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp cũng như các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên đã giao cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Thẩm quyền nói trên của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là bao quát toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn (chỉ căn cứ vào Pháp lệnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp thì thẩm quyền quản lý nhà nước trên địa bàn của các cấp như sau: Hội đồng nhân dân tỉnh: 8 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân thành phố thuộc trung ương: 12 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân huyện: 8 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân huyện đảo: 11 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân quận: 9 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh: 12 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân xã, thị trấn: 7 lĩnh vực; Hội đồng nhân dân phường: 10 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân tỉnh: 15 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân thành phố thuộc trung ương: 25 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân huyện: 12 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân huyện đảo: 16 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân quận: 16 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh: 17 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn: 12 lĩnh vực; Uỷ ban nhân dân phường: 15 lĩnh vực. Trong mỗi lĩnh vực lại có rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.)

Vấn đề lưu ý ở đây là : không thể đồng nhất thẩm quyền quản lý nhà nước trên địa bàn với thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nói chung, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật hẹp hơn rất nhiều so với thẩm quyền quản lý nhà nước. Bởi vì, để thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phải ban hành ba loại văn bản, mà văn bản quy phạm pháp luật chỉ là một trong ba loại đó. Hơn nữa, theo quan hệ phân cấp từ trung ương xuống các cấp chính quyền địa phương thì có một số quan hệ xã hội, các cấp chính quyền địa phương không được pháp luật giao thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật. Đó là những lĩnh vực như: hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân dự, thương mại, thuế, ngân sách, hôn nhân gia đình, xử lý vi phạm hành chính, đất đai, tổ chức bộ máy .v.v..Do đó, về nguyên tắc không thể giao thẩm quyền nội dung các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân theo hướng dẫn chỉ nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước của chủ thể ban hành văn bản đó.

Vậy ở những lĩnh vực, loại quan hệ xã hội nào thì Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được đặt ra quy phạm pháp luật? Hiện chưa có văn bản nào quy định cụ thể vấn đề này. Thông thường, có thể chọn một trong ba phương pháp để quy định thẩm quyền ban hành quy phạm cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, đó là: phương pháp liệt kê loại quan hệ xã hội và phương pháp loại trừ (ví dụ loại trừ những lĩnh vực, loại quan hệ xã hội mà chỉ những cơ quan nhà nước ở trung ương mới có quyền ban hành quy phạm, còn lại thì các cấp chính quyền địa phương ban hành.) Phương pháp thứ ba kết hợp cả 2 phương pháp trên: kết hợp loại trừ và liệt kê (ví dụ: loại trừ một số lĩnh vực chỉ cơ quan nhà nước ở trung ương mới có quyền ban hành quy phạm và liệt kê một số loại quan hệ xã hội mà chính quyền địa phương được phép ban hành quy phạm pháp luật trong số thẩm quyền quản lý nhà nước mà văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên quy định giao quyền tự quản cho địa phương.)

Nếu xem xét ở góc độ Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật, cũng cần lưu ý một điểm là: theo nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền và yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật thì thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ngày càng phải thu hẹp khi Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Nói cách khác, thẩm quyền ban hành và nội dung văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương tỷ lệ nghịch với mức độ hoàn thiện của Nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật. Trên cơ sở những nội dung đã phân tích, việc quy định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân nên theo phương pháp thứ ba nêu trên: kết hợp loại trừ những loại quan hệ chỉ thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành quy phạm pháp luật để điều chỉnh và liệt kê các loại quan hệ xã hội đặc thù mang tính tự quản ở địa phương mà cơ quan chính quyền địa phương cần ban hành quy phạm pháp luật để điều chỉnh.

Hơn nữa, việc quy định thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cần theo hướng cụ thể, có phân biệt thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân với thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân; phân biệt thẩm quyền nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp trên với Hội đồng nhân dân cấp dưới và của Uỷ ban nhân dân cấp trên với Uỷ ban nhân dân cấp dưới căn cứ vào vị trí, tính chất, chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi loại, mỗi cấp cơ quan chính quyền địa phương.

Những định hướng trên cần được tiếp tục nghiên cứu một cách thấu đáo, có phương án cụ thể thể hiện trong Dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đang được nghiên cứu soạn thảo để trình Quốc hội xem xét thông qua trong thời gian tới . /.

 

 

Cơ sở lý luận và thực tiễn

phân định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan chính quyền địa phương

 

Thái Vĩnh Thắng - PTS Luật học

P. Trưởng khoa Hành chính, Nhà nước

Trường Đại học Luật Hà Nội

 

I. Những bất cập trong lý luận và thực tiễn về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay.

1. Nhận thức chưa rõ ràng và thống nhất về hình thức của pháp luật.

Hiện nay trên thế giới có bảy hệ thống pháp luật lớn: hệ thống pháp luật lục địa Châu Âu, hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (Anglo - Saxon), hệ thống pháp luật hồi giáo, hệ thống pháp luật XHCN, hệ thống pháp luật các nước viễn đông, hệ thống pháp luật ấn Độ và hệ thống pháp luật Châu Phi. Hệ thống pháp luật Việt Nam thuộc hệ thống pháp luật XHCN nên tiền lệ pháp luật và tập quán pháp luật không được coi là những hình thức pháp luật thông dụng và ít được quan tâm nghiên cứu. Việc chuyển đổi cơ chế hành chính, quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường buộc chúng ta phải đổi mới nhận thức về pháp luật trong đó cần phải đổi mới nhận thức về hình thức pháp luật.

Trước hết nói về tiền lệ pháp luật là hình thức Nhà nước thừa nhận các bản án của các cơ quan tòa án có thể trở thành khuôn mẫu cho các vụ việc tương tự về sau. Từ trước đến nay do thiếu nghiên cứu, thiếu sự hiểu biết sâu sắc về cơ chế áp dụng án lệ nên chúng ta phủ nhận hình thức pháp luật này, cho rằng chúng sẽ tạo ra sự tuỳ tiện hoặc máy móc trong công tác xét xử. Quan niệm trên đây cần phải được thay đổi, bởi quan niệm này làm nghèo đi khả năng sáng tạo pháp luật của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật. Tìm hiểu cơ chế áp dụng tiền lệ pháp luật chúng ta thấy chúng có các ưu thế sau đây:

- Các án lệ là các bản án mang tính mẫu mực vì đã được thử thách với thời gian và công luận.

- Các án lệ là thành quả của cả hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật, vì vậy nó là sự kết tinh của lý luận và thực tiễn. Nếu so sánh với các văn bản pháp luật vừa mới ban hành thì tính thực tiễn của án lệ cao hơn rất nhiều.

- Việc áp dụng các án lệ khắc phục được lỗ hỏng của pháp luật thành văn, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự nơi mà các quy phạm pháp luật không thể bao quát hết mọi quan hệ xã hội.

- Việc áp dụng án lệ thường gắn với việc đăng tải công khai các bản án, đặc biệt là các bản án được coi là án lệ. ở Anh Quốc 75% các bản án của Thượng nghị viện (House of Lords) được công bố, 25% các bản án của toà phúc thẩm (court of apple) và 10% các bản án của toà án cao cấp (High Court of Justice) cũng được công bố trong các tạp chí: "Law of England", "Law reports", "Weekly law report". Việc công bố các bản án dưới các hình thức công báo, tạp chí luật, các báo pháp luật tạo ra điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan tư pháp, tích cực chống lại các hiện tượng tham nhũng, hối lộ trong bộ máy tư pháp, thiết nghĩ trong điều kiện thực tế hiện nay ở nước ta, việc công bố công khai các bản án của toà án các cấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động tư pháp, phát hiện kịp thời những lỗ hỏng của pháp luật, đề cao vai trò của cơ quan xét xử, cơ quan cầm cán cân công lý cho xã hội. Từ việc đăng công khai các bản án của toà án nhân dân địa phương cũng như của trung ương làm tiền đề cho việc lựa chọn các bản án mẫu mực làm tiền lệ cho các vụ việc tương tự về sau. Hoạt động xét xử của tòa án sẽ được quần chúng nhân dân quan tâm theo dõi, các thẩm phán công minh vừa giỏi chuyên môn, vừa trong sạch trong đạo đức tư cách sẽ được quần chúng nhân dân ngưỡng mộ, động viên.

- Những ưu thế trên đây sẽ là nguyên nhân tạo ra một ưu thế khác nữa. Đó là việc áp dụng án lệ sẽ là động cơ quan trọng thúc đẩy việc xét xử công minh. Các thẩm phán tạo ra được nhiều án lệ sẽ là những thẩm phán giỏi. Những thẩm phán có nhiều án lệ nhất sẽ là những thẩm phán nổi tiếng cũng như các bác sĩ, luật sư, nhà văn, nhà thơ, nhà toán học, kiến trúc sư. v.v...

Tóm lại, nếu chúng ta mạnh dạn nghiên cứu cơ chế áp dụng án lệ ở các nước theo hệ thống pháp luật Anglo - Sacxon chúng ta có thể thấy hệ thống các cơ quan tòa án ở nước ta bằng hoạt động xét xử của mình cũng thể có tạo ra những bản án mang tính nguyên tắc, những bản án này tạo ra công lý, công bằng trong xã hội. Và như vậy ở các cơ quan Nhà nước địa phương không phải chỉ có Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà Toà án nhân dân cũng có thể tạo ra các quy phạm pháp luật dưới hình thức các án lệ.

Hiện nay, hàng năm khi làm tổng kết công tác xét xử, Toà án nhân dân tối cao cũng đưa ra các vụ án điển hình để hướng dẫn toà án cấp dưới trong công tác xét xử. Sự hướng dẫn này cũng được toà án các cấp chấp hành nghiêm chỉnh. Tuy nhiên chưa thể coi đây là áp dụng tiền lệ pháp luật vì khi lập luận căn cứ ra bản án các thẩm phán chỉ căn cứ vào quy phạm pháp luật thành văn chứ không phải căn cứ vào các vụ án điển hình. Thiết nghĩ rằng các bản án điển hình phải được hệ thống hóa thành các bộ án lệ và được phát hành công khai cho nhân dân. Như vậy tác dụng giáo dục của hoạt động của toà án sẽ được phát huy. Nhân dân được tiếp xúc, được nghiên cứu các bản án như vậy sự hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật ngày càng được nâng cao. Mặt khác sự áp dụng tiền lệ pháp luật sẽ là nguồn khích lệ vô cùng lớn lao đối với các thẩm phán. Bởi những bản án xét xử công minh của họ sẽ được quần chúng nhân dân nêu gương, công việc tốt đẹp của họ được biến thành luật lệ, được lưu giữ, được in thành sách, được tuyên truyền trong xã hội.

Vấn đề thứ hai cần phải đề cập đến là tập quán pháp luật. Cũng như tiền lệ pháp luật, tập quán pháp luật cũng là một hình thức pháp luật thông dụng ở nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt ở nước ta nơi mà "phép vua thua lệ làng" thì tập quán pháp luật lại càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên trong nhận thức của chúng ta về tập quán pháp luật vẫn còn mang nặng tính chủ quan rằng tập quán thông thường mang tính cục bộ địa phương không phù hợp với nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét quá trình hình thành và phát triển của tập quán pháp luật ở nước ta, chúng ta sẽ thấy rằng tập quán pháp luật đã tồn tại ở Việt Nam hàng nghìn năm. Và nếu chúng ta phân tích pháp luật phong kiến Việt Nam chúng ta sẽ thấy rằng pháp luật Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng như pháp luật phong kiến các nước phương Đông chủ yếu phát triển trong lĩnh vực công pháp nghĩa là chỉ phát triển trong lĩnh vực điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến Nhà nước như luật hình sự và luật hành chính. Do đặc điểm của nền kinh tế tự cung tự cấp nên luật dân sự và thương mại không phát triển. Các quan hệ dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình chủ yếu được điều chỉnh bằng các quy tắc đạo đức, tôn giáo và phong tục tập quán. Các phong tục tập quán hình thành trên tư tưởng của nho giáo đã chi phối các quan hệ hôn nhân, gia đình, làng xóm hàng chục các thế kỷ. Các quan điểm mới về pháp luật XHCN du nhập vào nước ta vào cuối nửa đầu của thế kỷ XX, khi chế độ thực dân nửa phong kiến được xoá bỏ, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên được ra đời trên đất nước ta. Tuy nhiên, với nửa thế kỷ ngắn ngủi và trong điều kiện đất nước nằm trong tình trạng chia cắt và chiến tranh khoảng 1/4 thế kỷ, những quan điểm mới về pháp luật và Nhà nước pháp quyền không đủ bén rễ sâu vào đời sống của nhân dân. Trong hàng chục thế kỷ các làng xã Việt Nam đã tồn tại và phát triển với một trật tự làng xã được xây dựng không chỉ dựa trên pháp luật của chính quyền Nhà nước trung ương mà còn bởi các tập quán địa phương dựa trên hương ước và các lệ làng khác. Một nét đặc thù quan trọng của làng xã Việt Nam là chế độ tự trị. Các xã quan (các lý trưởng, tiên chỉ, thứ chỉ) theo một truyền thống từ lâu đời không hưởng lương Nhà nước mà do các làng xã tự chu cấp trả công bộc vì vậy các xã quan trước hết bảo vệ lợi ích của làng xã rồi sau mới lợi ích của Nhà nước. Làng xã nào cũng có pháp luật của mình thể hiện trong các bản hương ước. Cần phải nhấn mạnh rằng hương ước đó là luật pháp của làng xã, bởi thực hiện hương ước là nghĩa vụ bắt buộc của mỗi thành viên trong làng xã. Người nào không thực hiện hương ước phải chịu các hình phạt của làng kể cả bị trục xuất khỏi làng xã. Có thể khẳng định rằng hương ước là một hình thức pháp luật do các cộng đồng làng xã làm ra, nó tồn tại song song bên cạnh pháp luật của chính quyền Nhà nước trung ương.

Hương ước là công cụ rất hiệu quả để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng làng xã. Hương ước cũng là công cụ rất hiệu quả để Nhà nước quản lý làng xã, điều hoà giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích làng xã. Điều đáng tiếc là sau cách mạng tháng 8 - 1845 chúng ta đã không đánh giá đúng giá trị của hương ước vì vậy nhiều nơi hương ước bị xóa bỏ vì cho rằng đó là sản phẩm của xã hội phong kiến lạc hậu. Tháng 10 - 1958 trong lần về thăm tỉnh Thái Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê bình các cán bộ địa phương đã xóa bỏ hương ước. Bác nói: "Hương ước là những khoán ước trong làng. Người ta quy định với nhau không được để trâu bò phá lúa, gà qué ăn mạ, ăn rau, không được trộm cắp của nhau, đấy là những phong tục hay của nông thôn nước ta trước đây. Từ sau cách mạng các chú đem xóa bỏ cả thế là không đúng. Cách mạng chỉ xóa bỏ cái xấu, cái dở và giữ lại cái tốt, cái hay".

Tháng 4 - 1988 Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VI) ra Nghị quyết 10. Đây là Nghị quyết đóng vai trò quan trọng cho sự đổi mới ở nông thôn Việt Nam. Nông dân chỉ còn nghĩa vụ nộp thuế đóng cho Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng. Ngoài phần thuế đóng cho Nhà nước nông dân có thể bán thóc gạo thừa bất cứ lúc nào, nơi nào có lợi nhất cho họ. (Trước đây Nhà nước thu mua theo giá quy định). Hộ gia đinh được xác nhận trở lại là đơn vị kinh tế tự chủ. Làng với tính cách là cộng đồng có thiết chế tổ chức riêng, phong tục tập quán, tâm lý và tín ngưỡng riêng đã dần dần khẳng định lại vị trí, vai trò và chức năng quan trọng của nó trong quản lý kinh tế xã hội: từ việc xây dựng cơ sở chính quyền (chi bộ Đảng, các đoàn thể quần chúng) chính quyền (chức danh trưởng thôn) đến quản lý kinh tế (quy mô hợp tác xã nông nghiệp) xây dựng đời sống văn hóa cơ sở... đều tổ chức theo đơn vị làng (hay thôn, bản). ở đồng bằng Bắc Bộ, xu hướng tái lập hương ước để tạo thành cơ sở pháp lý để quản lý mọi mặt sinh hoạt của cộng đồng làng, xã đã phát triển. Ví dụ, đến cuối năm 1992 ở huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh (Hà Bắc cũ) đã có 127/144 làng có qui ước làng. Tháng 4/1993, Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Bắc khóa IX, kỳ họp 15 đã ra nghị quyết số 38/HĐND về xây dựng quy ước làng văn hóa. Có thể coi đây là hương ước mới. Tuy nhiên về tên gọi và nội dung cũng như tính pháp lý của nó cho đến nay vẫn là vấn đề tranh luận. Về vấn đề hương ước mới tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ V (khóa VII) họp tháng 6/1993 đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: "Nhà nước cần đề ra quy chế thích hợp với chức năng, vai trò của xã, của thôn xóm, làng bản trong tình hình mới. Trong khuôn khổ của pháp luật xã có thể xây dựng "hương ước" làm cơ sở để tổ chức, quản lý hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... trên địa bàn". Tuy vậy, cho đến nay, vấn đề hương ước và vai trò của nó trong quản lý làng xã, hương ước có phải là hình thức pháp luật hay không vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ. Trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đề cập đến hương ước. Theo quan điểm xây dựng một nền pháp luật vừa hiện đại vừa mang bản sắc dân tộc, thiết nghĩ rằng mỗi cộng đồng làng xã Việt Nam nên duy trì một bản hương ước hoặc khoán ước để điều chỉnh mọi quan hệ trong làng xã. Mỗi thành viên của làng xã có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ các quy ước trong hương ước làng - xã. Như vậy, ngoài nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân, ở các địa phương còn có một hình thức văn bản pháp luật nữa là hương ước. Hương ước phải được toàn thể nhân dân trong làng biểu quyết thông qua, được chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã phê duyệt và phải được chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện ra quyết định công nhận toàn bộ văn bản.

Theo chúng tôi, một bản hương ước phải có đầy đủ các nội dung sau đây:

Chương I: Mục đích của hương ước, phạm vi điều chỉnh của hương ước và các nguyên tắc chung.

 

Chương II: Các tổ chức của làng:

Hội nghị toàn thể; Trưởng thôn, Ban khánh tiết, Ban văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao, Ban an ninh, Ban khen thưởng và kỷ luật.

Chương III: Nhiệm vụ và quyền hạn của trưởng thôn, phó trưởng thôn.

 

Chương IV: Quyền và nghĩa vụ của các thành viên của làng.

Chương V: Nếp sống văn hóa của làng: bao gồm các quy định về lễ hội, cưới xin, tang ma, cải táng, bài trừ mê tín dị đoan.

 

Chương VI: Đạo lý gia đình xã hội; Quy định về các quan hệ trong gia đình họ hàng, làng xóm.

Chương VII: Về an ninh trật tự xóm làng

 

Bao gồm các quy định về tuần phòng, chông trộm cắp, cờ bạc, ma túy, bảo vệ các công trình tập thể.

Chương VIII: Tổ chức thực hiện, khen thưởng, kỷ luật.

2. Chưa có sự phân biệt rõ ràng về thẩm quyền nội dung và hình thức của các văn bản pháp luật của chính quyền địa phương

Theo luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 các cơ quan chính quyền địa phương chỉ được phép ban hành ba loại văn bản quy phạm pháp luật:

- Hội đồng nhân dân các cấp ban hành Nghị quyết

- Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành quyết định, chỉ thị

Hội đồng nhân dân chỉ ban hành một loại văn bản đó là Nghị quyết. Nhưng nghị quyết có thể là văn bản áp dụng pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật. Luật cần phải quy định rõ sự khác nhau về hình thức và nội dung của hai loại văn bản này.

Uỷ ban nhân dân ban hành hai loại văn bản là quyết định và chỉ thị. Quy định và chỉ thị được ban hành để giải quyết các công việc khác nhau. Tuy nhiên với nội dung như thế nào thì phải ban hành quyết định hoặc chỉ thị thì pháp luật chưa xác định rõ ràng.

Theo tư duy lôgic thì các chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định hoặc đề ra các quy phạm pháp luật hoặc để trực tiếp áp dụng pháp luật. Còn chỉ thị thông thường được ban hành để truyền đạt hoặc đề ra các chủ trương, chính sách, để giao nhiệm vụ cho cấp dưới hay nhắc nhở cấp dưới thực hiện nhiệm vụ đã được giao. Trong cuốn "Một số vấn đề về soạn thảo văn bản" của Nguyễn Thế Quyền - một chuyên gia nghiên cứu về văn bản pháp luật thì sự khác nhau giữa quyết định và chỉ thị được tác giả phân tích như sau: "Nếu là văn bản quy phạm pháp luật thì quyết định được ban hành để đặt ra các quy phạm pháp luật còn chỉ thị được ban hành để truyền đạt, phổ biến, giải thích hướng dẫn về nội dung một văn bản hoặc một chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu là văn bản áp dụng pháp luật thì quyết định được ban hành trong trường hợp chủ thể ban hành có thẩm quyền trực tiếp thực hiện pháp luật, còn chỉ thị được ban hành khi cấp trên điều khiển, chỉ đạo cấp dưới thực hiện pháp luật". Quan điểm trên đây hoàn toàn chính xác. Bởi trong thực tiễn khi nhận được đơn khiếu nại của công dân về việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương sẽ ra quyết định để áp dụng pháp luật hiện hành, nhằm giải quyết khiếu nại, khôi phục, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên trong trường hợp nhận được nhiều đơn thư khiếu nại tố cáo vượt cấp (về các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các giám đốc sở, chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh) thì chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) không ra quyết định giải quyết trực tiếp mà ra chỉ thị để chỉ đạo cấp dưới nhanh chóng giải quyết các vụ việc này. Như vậy, có thể thấy rằng quyết định có thể là văn bản quy phạm pháp luật, có thể là văn bản áp dụng pháp luật còn chỉ thị luôn luôn là văn bản quy phạm pháp luật, bởi nó là mệnh lệnh cho các cơ quan Nhà nước cấp dưới thực thi nhiệm vụ là cơ sở pháp lý để họ ra văn bản áp dụng pháp luật.

Trong thực tiễn hiện nay các cơ quan chính quyền địa phương còn lẫn lộn giữa quyết định và chỉ thị bởi hai khái niệm này còn bị lẫn lộn ngay trong các thông tư hướng dẫn thi hành pháp luật của Nhà nước. Ví dụ: Thông tư số 33/BT ngày 10/12/1992 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ hướng dẫn về hình thức văn bản và ban hành văn bản của các cơ quan hành chính Nhà nước đã quy định là "Chỉ thị được ban hành trong trường hợp không cần thiết ban hành quyết định". Quy định này làm cho các cơ quan cấp dưới hiểu là nếu các việc quan trọng thì ban hành quyết định, còn các việc ít quan trọng hơn thì ban hành chỉ thị. Trong thực tiễn chúng ta thấy rằng nhiều việc nhỏ ít quan trọng trong đời sống xã hội như điều động công tác đối với cán bộ, quyết định khen thưởng, điều chỉnh việc làm, điều chỉnh lương được giải quyết bằng quyết định. Còn những việc rất lớn, rất quan trọng như lập lại trật tự an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông... được giải quyết bằng chỉ thị.

Hiện nay còn có quan điểm cho rằng chỉ thị có thể là văn bản quy phạm pháp luật, có thể là văn bản áp dụng pháp luật. Theo quan điểm của chúng tôi chỉ thị được ban hành trong quan hệ hành chính theo chiều dọc nghĩa là một cơ quan cấp trên ban hành cho cơ quan cấp dưới nhằm hướng dẫn, chỉ đạo, truyền đạt, giải thích, ra mệnh lệnh thực hiện những quy phạm pháp luật nào đó, hoặc tiến hành một công việc nào đó, vì vậy cơ quan ban hành chỉ thị không trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội mà cơ quan nhận được chỉ thị mới trực tiếp điều chỉnh, trực tiếp ban hành quyết định áp dụng pháp luật. Như vậy chỉ thị chỉ có thể là văn bản quy phạm pháp luật chứ không thể là văn bản áp dụng pháp luật.

Một vấn đề khác cũng phải đề cập đến là luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 chỉ quy định Uỷ ban nhân dân các cấp có quyền ban hành quyết định, chỉ thị. Vậy chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, các giám đốc sở có quyền ban hành quyết định, chỉ thị hay không. Thực tiễn cho thấy chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện đã và đang toàn quyền ban hành quyết định, chỉ thị, chủ tịch ủy ban nhân dân xã, các giám đốc sở, các trưởng ban cấp huyện đã và đang toàn quyền ban hành các quyết định. Chỉ có khác là về hình thức khi ban hành họ nhân danh UBND mà thôi. Theo quan điểm của chúng tôi luật cần quy định rõ vấn đề này và khẳng định rõ trong văn bản là chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có quyền ban hành quyết định, chỉ thị, các giám đốc sở, trưởng ban cấp huyện, các chủ tịch xã (phường) có quyền ban hành quyết định.

3. Còn có sự lẫn lộn giữa các chức năng của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương dẫn đến tình trạng các cơ quan của Đảng cũng ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Theo quy định tại điều 4 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội và mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Quy định này là cơ sở pháp lý để khẳng định vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với chính quyền địa phương: Tỉnh ủy đối với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện ủy đối với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện, Đảng ủy xã đối với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã. Pháp luật Nhà nước ta luôn luôn là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản. Các văn bản pháp luật của chính quyền địa phương, không những là sự cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật khác của cơ quan Nhà nước cấp trên mà còn là sự thể chế hóa của Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh. Sự thể chế hóa này là rất cần thiết bởi thông qua tính cưỡng chế, bắt buộc của pháp luật mà nghị quyết của Đảng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và triệt để. Tuy nhiên trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ quy định: "Văn bản do hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp". Theo quan điểm của chúng tôi quy định như vậy là chưa đầy đủ, chưa phù hợp với tinh thần điều 4 Hiến pháp 1992.

Do thiếu sự quy định về việc thể chế hóa Nghị quyết của Đại hội Đảng, Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ các cấp thành pháp luật nên ở một số địa phương các Nghị quyết của Đại hội Đảng, Nghị quyết của các cấp ủy Đảng được đem áp dụng cho toàn dân và chúng được coi như văn bản quy phạm pháp luật. Điều này là không phù hợp việc xây dựng pháp chế XHCN và Nhà nước pháp quyền. Một số cán bộ Đảng ra "chỉ thị" "thông tư" và bắt buộc các cơ quan chính quyền địa phương phải thực hiện như một văn bản quy phạm pháp luật. Trong vụ án phá rừng ở huyện Tánh Linh, tỉnh Ninh Thuận, Đinh Mạnh Hổ đã khai thác được gỗ lậu nhiều như vậy bởi vì y đã làm vô hiệu hóa được bộ máy bảo vệ pháp luật của chính quyền địa phương. Một trong những công cụ tiếp tay cho y phá rừng là "thông tư 01" của ông bí thư huyện ủy ban hành ngày 5/12/1992 "Thông tư" này đã qui định ngoài kiểm lẩm ra, không đơn vị, ngành nào khác được tham gia quản lý việc vận chuyển lâm sản - cho dù đó là gỗ lậu, chính thông tư này đã trói tay và vô hiệu hóa các lực lượng công an của huyện trong việc thực hiện pháp luật bảo vệ rừng, tạo nên thế độc quyền cho ngành kiểm lâm và tạo cơ hội cho những kẻ biến chất trong ngành lâm nghiệp bán đứng hàng trăm héc ta rừng. Việc ban hành các "thông tư" hoặc các "chỉ thị" như vậy vừa làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng vừa làm hạn chế vai trò chức năng của các cơ quan chính quyền.

 

II. Những kiến nghị về việc phân định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan chính quyền địa phương

1. Về hình thức pháp luật:

a. Nhà nước cần đầu tư nghiên cứu cơ chế, áp dụng tiền lệ pháp luật ở nước ngoài để sớm có thể áp dụng tiền lệ pháp luật ở nước ta. Để phục vụ cho việc áp dụng tiền lệ pháp luật cần công bố công khai (dưới dạng công báo) tất cả các bản án phúc thẩm và chọn công bố những bản án sơ thẩm được dư luận công chúng và báo chí đánh giá là bản án công minh. Trên cơ sở dư luận quần chúng và báo chí cần lựa chọn các bản án sơ thẩm, phúc thẩm công minh, xếp chúng vào loại các bản án nguyên tắc, có thể coi đó là các án lệ để đem áp dụng. Cần phải thành lập một hội đồng thẩm phán xem xét án lệ bao gồm các thẩm phán có uy tín nhất. Hội đồng này sẽ xem xét và công bố các bản án được coi là án lệ. Trên cơ sở công bố án lệ, thẩm phán nào có nhiều bản án trở thành án lệ sẽ được Nhà nước phong tặng các danh hiệu cao quý như "thẩm phán ưu tú", "thẩm phán công huân", "thẩm phán nhân dân".

b. Nhà nước cần tổ chức nghiên cứu và thừa nhận một số tập quán tốt đẹp của dân tộc, thể chế hóa thành tập quán pháp luật. Theo chúng tôi một số tập quán sau đây có thể coi là tập quán pháp luật:

- Tập quán đón tết cổ truyền. Tập quán đón tết cổ truyền đã được Nhà nước thừa nhận rằng việc quy định ngày nghỉ tết là ngày nghỉ chính thức của cán bộ, công nhân, viên chức. Tuy nhiên tết cổ truyền của dân tộc không đơn giản chỉ là ngày nghỉ, ngày để bà con bạn bè thân thuộc thăm viếng nhau, nó còn là những ngày hội vui chơi và giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà khi nói đến tết cổ truyền dân tộc là người ta nói đến:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

Lúc giao thừa, người ta đốt pháo để xua tan âm khí của năm cũ, để đón không khí vui tươi của năm mới. Người đi xa Tổ quốc khi tết đến xuân về người ta thường nhớ da diết tiếng pháo giao thừa. Vì vậy Nhà nước nên duy trì lại phong tục đốt giao thừa. Tuy nhiên, phải có biện pháp để quản lý việc sản xuất pháo. Pháo phải sản xuất đúng kích cỡ quy định để đảm bảo an toàn.

- Tập quán tổ chức "Lễ ăn hỏi" hoặc "Lễ hứa hôn" là một tập quán tốt đẹp, nó là một điều kiện tốt để thắt chặt mối quan hệ giữa các thế hệ với nhau, tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai gia đình, hai họ hàng và tạo ra trách nhiệm chung của họ hàng, gia đình, xã hội đối với tương lai hành phúc của một gia đình mới. Đồng thời hứa hôn cũng tạo ra một thời gian cần thiết để đối trai gái tìm hiểu nhau kỹ càng hơn trước khi đi đến hôn nhân. Một trong những ưu thế của xã hội phương Đông so với phương Tây là sự bền vững của gia đình. Sự bền vững của gia đình phương Đông được hình thành một phần nhờ các thiết chế pháp luật về hứa hôn, kết hôn, ly hôn chặt chẽ.

- Tập quán để tang cha, mẹ, người thân.

Không phải ngẫu nhiên mà trong luật Hồng Đức phần tang lễ được đưa lên phần đầu. Từ "trảm thôi" để tang 3 năm cho đến cha, mẹ đến "ty ma" để tang ba tháng cho bà con họ hàng xa như chú, bác, thím họ xa, anh, em con chú bác họ xa. Trong thời gian để tang cha, mẹ, con cái không được lấy vợ, lấy chồng. Người Việt nam có thể không biết ngày sinh của cha, mẹ nhưng không ai có thể quên ngày giỗ (ngày mất) của cha, mẹ mình. Từ tập quán này của người Việt Nam, thiết nghĩ cần phải thể chế hóa thành tập quán pháp luật trên cơ sở có nghiên cứu và cải tiến luật Hồng Đức. Theo chúng tôi, chúng ta có thể qui định: "trong thời gian 1 năm kể từ khi cha, mẹ mất con cái không thể lấy vợ, lấy chồng".

c. Cần xây dựng "hương ước" thành một văn bản quy phạm pháp luật của cộng đồng làng xã Việt Nam. Nguyên tắc xây dựng Hương ước là do cộng đồng làng xã xây dựng nên (tất cả công dân trong làng hoặc trong xã từ 18 tuổi trở lên đều có quyền tham gia xây dựng và biểu quyết). Sau khi Đại hội làng (hoặc xã) biểu quyết (với điều kiện ít nhất 2/3 thành viên làng xã đồng ý) chủ tịch xã xét duyệt đề nghị chủ tịch huyện phê chuẩn.

2. Về hình thức văn bản quy phạm pháp luật

- Đối với Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp cần phải phân biệt rõ hai loại Nghị quyết: Nghị quyết là văn bản áp dụng pháp luật và Nghị quyết là văn bản quy phạm pháp luật.

- Đối với Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp cần quy định rõ những trường hợp nào thì ban hành quyết định hoặc chỉ thị.

- Cần quy định rõ chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chủ tịch huyện, quận, thành phố tỉnh, các giám đốc sở, trưởng ban các ngành cấp huyện có quyền ban hành quyết định, chỉ thị. Chủ tịch xã, phường có quyền ban hành quyết định.

- Cần bổ sung và sửa đổi khoản 3 điều 1 luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau: "Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, các giám đốc sở và tương đương, các trưởng ngành cấp huyện ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

 

 

Hoạch định chính sách pháp lý trong việc ban hành

văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

 

PTS. Lê Hồng Sơn - Phó Vụ trưởng

Vụ pháp luật Hành chính - Hình sự

Bộ Tư pháp.

 

I. Hoạch định chính sách pháp lý.

Hoạch định chính sách pháp luật là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội, thực trạng và nhu cầu quản lý Nhà nước nhằm xây dựng một hệ thống quan điểm, chủ trương biện pháp quản lý Nhà nước, về những vấn đề có liên quan đến nội dung của một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho việc soạn thảo, thông qua văn bản đó.

Do không làm tốt việc hoạch định chính sách pháp luật cho nên thực trạng hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp chính quyền địa phương trong những năm qua bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Có thể nêu khái quát những hạn chế thiếu sót phát sinh trực tiếp từ việc không chú trọng làm tốt việc hoạch định chính sách pháp luật như sau:

- Quá trình chuẩn bị một dự án, dự thảo thường bị kéo dài về mặt thời gian do thiếu điều tra, khảo sát thực tiễn để đánh giá đúng thực trạng các quan hệ xã hội, thực trạng thi hành các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành cũng như cân nhắc mức độ, biện pháp quản lý thích hợp của Nhà nước. Phần lớn các dự thảo được biên soạn khi khung chính sách chung chưa được dự liệu một cách thấu đáo toàn diện và vững chắc.

- Vẫn tồn tại tình trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đúng thẩm quyền, không có sự phân biệt rõ và thống nhất thẩm quyền về nội dung cũng như thẩm quyền về hình thức của văn bản và không phù hợp với yêu cầu quản lý.

- Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành còn có tình trạng chắp vá, mâu thuẫn chồng chéo, thiếu sự thống nhất nội tại trong từng văn bản cũng như các văn bản trong cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật...

Những hạn chế thiếu sót này một phần do hạn chế về trình độ, kỹ năng nhưng nguyên nhân chính là do trước khi bắt tay biên soạn dự thảo, các hoạt động nghiên cứu điều tra, khảo sát thực tế để xác định một khung cơ bản, toàn diện về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự thảo chưa được chú trông và do đó, không hình dung đầy đủ và chính xác các biện pháp quản lý thích hợp của Nhà nước đối với các quan hệ xã hội đang nảy sinh và phát triển.

Hậu quả của những thiếu sót này là hiệu quả quản lý Nhà nước không đáp ứng được yêu cầu đặt ra, có nhiều trường hợp gây hậu quả xấu về mặt kinh tế - xã hội và cả tâm lý. Trong những trường hợp này, pháp luật không còn là công cụ quản lý, định hướng và hỗ trợ cho sự phát triển của xã hội mà ngược lại, trở thành vật cản tác động tiêu cực vào tiến trình phát triển chung.

Những vấn đề nêu trên phản ánh sự cần thiết khách quan của hoạt đông nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp luật - và cũng lý giải vì sao phải tập trung giải quyết vấn đề này ở giai đoạn tiền soạn thảo. Hoạch định chính sách pháp luật chính là tạo điều kiện, tiền đề cho công tác biên soạn cũng như thảo luận thông qua một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Chính sách pháp luật càng được chuẩn bị tốt ngay từ đầu thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc soạn thảo và thông qua văn bản quy phạm pháp luật một cách nhanh chóng. Trong điều kiện đó, nội dung của văn bản được thông qua sẽ thoả mãn đầy đủ nhất yêu cầu hợp pháp, hợp lý về nội dung cũng như hình thức thể hiện.

Trong quá trình nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp luật cần phải xác định nội dung của khung cơ bản về chính sách pháp luật với các yêu cầu cụ thể như:

- Phù hợp với trình độ phát triên kinh tế - xã hội và trình độ của các chủ thể quản lý, đúng đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam;

- Lựa chọn đúng phương pháp và hình thức tác động của quản lý Nhà nước, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động, phù hợp với khả năng trình độ của các đối tượng phảp thi hành văn bản đó;

- Phù hợp các quy định của Hiến pháp, pháp luật, bảo đame yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

- Lựa chọn hình thức văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với nội dung quản lý và thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước sẽ ban hành văn bản đó.

Để đáp ứng được các yêu cầu nêu trên, các nhà hoạch định chính sách pháp luật phải nêu ra và trả lời được cụ thể, chính xác các câu hỏi tổng quát sau đây:

- Cái gì đang xảy ra? Để giải quyết vấn đề đó, Nhà nước có cần tác động hay không? và có cần phải tác động bằng các quy phạm pháp luật hay không?

" Cái gì" ở đây là định tính các quan hệ xã hội. Chúng ta cần xem xét về tính chất, bản chất của các quan hệ xã hội để giải đáp được câu hỏi: Nhà nước có cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội đang tồn tại hay mới phát sinh không? Về mặt nguyên tắc, các quan hệ xã hội cần phải có sự can thiệp bằng quy phạm pháp luật của Nhà nước là các quan hệ xá hội cơ bản, có phạm vi tác động rộng ở địa bàn hành chính (từng địa phương, trong cả nước) hay đối với một nhóm các cơ quan, tổ chức, công dân. Các quan hệ xã hội đó tồn tại lâu dài, được lặp đi, lặp lại nhiều lần và theo một hay một số tiêu chí, nguyên tắc nhất định. Các quan hệ xã hội không cơ bản, có phạm vi tác động hẹp về địa bàn, đối tượng thì có thể để cho các biện pháp tác động phi NHà nước (Biện pháp xã hội, tự quản, hành chính nội bộ v.v.). Ví dụ cùng là quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, nhưng những quan hệ như ly hôn, kết hôn, nghĩa vụ và quyền của vợ chồng, của cha, mẹ và con, điều kiện nhận, nuôi con nuôi, chế độ đỡ đầu... thì Nhà nước cần phải dùng quy phạm pháp luật về hôn nhân gia đình để điều chỉnh. Còn các quan hệ không cơ bản như về thủ tục cưới xin, cụ thể như ăn hỏi, chạm ngõ, thể thức tiến hành lễ cưới... thì lại theo phong tục tập quán, Nhà nước chỉ dùng biện pháp giáo dục, vân động, thuyết phục để tác động vào những quan hệ đó. Hoặc có thể cũng cần thiết phải có sự tác động của Nhà nước nhưng lại bằng các biện pháp kinh tế (đòn bẩy, khuyến khích về kinh tế để định hướng các quan hệ đó theo mong muốn của Nhà nước) hoặc bằng biện pháp thông qua các quyết định hành chính các biệt để giải quyết.

Không định tính được quan hệ xã hội sẽ lẫn lôn và sai lầm trong việc xác định Nhà nước có cần phải can thiệp hay không? và can thiệp bằng biện pháp nào thì phù hợp với tính chất của các quan hệ xã hội đó?

Khi xác định được tính chất quan hệ xã hội cần được Nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh thì câu hỏi tiếp theo để cân nhắc là phạm vi, mức độ và cách thức tác động về mặt pháp lý như thế nào thì phù hợp? Có thể đặt ra các câu hỏi cụ thể để đưa ra các câu trả lời cụ thể như:

- Phạm vi tác động của các quan hệ xã hội về mặt không gian như thế nào? Trường hợp quan hệ xã hội đó chỉ có tác động riêng trong phạm vi từng địa phương hoặc có tính đặc thù riêng địa phương thì thuộc thẩm quyền của địa phương ban hành văn bản để quy định. ở đây, các nhà hoạch định chính sách cần nghiên cứu đến thẩm quyền nội dung của văn bản.

- Xác định cách thức tác động của Nhà nước như thế nào cho phù hợp? vấn đề này đòi hỏi phân tích cụ thể các loại quan hệ xã hội đề xác định thái độ của Nhà nước, ví dụ: Cấm, bắt buộc, cho phép hay định hướng hành vi ...?

- Xác định mức độ tác động cụ thể của Nhà nước: Vấn đề này đòi hỏi phải phân loại các quan hệ xã hội theo mảng, lĩnh vực như kinh tế- văn hoá - giáo dục - y tế - an ninh quốc phòng... Một mặt để xác định cách thức, biện pháp tác động phù hợp, mặt khác để xác định mức độ tác động.

- Việc xác định mức độ tác động cụ thể của Nhà nước còn phải xem xét cả trình độ, khả năng của xã hội (trình độ, mặt bằng kinh tế, văn hoá, xã hội...) và khả năng của đối tượng thi hành các quy định của văn bản để tránh viẹc đưa ra yêu cầu quá cao hoặc quá thấp (không hợp lý). Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cần chú ý các quy định trong văn bản của cơ quan cấp trên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng khi nghiên cứu hoạch định chính sách pháp luật để xây dựng văn bản quy định cụ thể và đảm bảo thực hiện các quy định đó ở địa phương.

Hiện nay, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ: "Luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác phải được quy định cụ thể để khi các văn bản có hiệu lực thì được thi hành ngay" (Điều 7)

Với yêu cầu đó, việc xác định cách thức, mức độ, biện pháp tác động của Nhà nước phải rất cụ thể, tỉ mỉ làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết định cụ thể.

Song song với việc nghiên cứu cụ thể thực trạng kinh tế xã hội, các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, các nhà hoạch định chính sách pháp lýphải nghiên cứu cả những nội dung quan trọng khác như đường lối chính sách của Đảng, kinh nghiệm quản lý trong và ngoài nước để xây dựng hoàn chỉnh một khung cơ bản, đồng bộ về chính sách pháp lý. ở địa phương, vấn đề nghiên cứu kinh nghiệm của các địa phương khác cũng có ý nghĩa quan trọng.

 

II. biện pháp tổ chức thu thập thông tin phục vụ cho việc hoạch định chính sách pháp lý của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Để thu thập được thông tin, tư liệu phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu hoạch định chính sách pháp lý, cần sử dụng các biện pháp cơ bản sau đây:

1. Tổ chức việc rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (thực tiễn lập pháp)

Rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước là nhiệm vụ thường xuyên do Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định. Mục tiêu trực tiếp của rà soát, hệ thống hoá là sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ thi hành các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước để xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn thiện, thống nhất, kbảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý phục vụ cho hoạt động quản lý Nhà nước. Trước khi soạn thảo một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; phải tến hành công tác rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành làm cơ sở cho việc đưa ra các quy định mới.

ở góc độ hoạch định chính sách pháp lý, công tác rà soát, hệ thống hoá phải rút ra được những kết luận về những vấn đề cụ thể sau đây: Từ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có cần ban hành văn bản mới hay không? Đó là loại văn bản gì? Có nội dung hoàn toàn mới hay để sửa đổi, bổ sung một văn bản hiện hành? Nội dung văn bản mới nên quy định như thế nào để vừa đáp ứng nhu cầu quản lý, vừa thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành?

Xử lý nội dung các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật hiện hành phục vụ cho công tác soạn thảo cần chú trọng các mặt sau đây:

- Phải phát hiện được những vấn đề, những nội dung của quy định hiện hành có thể đưa vào dự thảo mới một cách "nguyên trạng" không cần phải sửa đổi, bổ sung gì thêm. Xử lý tốt vấn đề này sẽ bảo đảm tính liên tục, kế thừa trong văn bản cũng như trong hoạt động quản lý.

- Phát hiện được những vấn đề, những nội dung có thể đưa vào dự thảo mới, nhưng cần sửa đổi bổ sung thêm cho phù hợp với yêu cầu quản lý. ở đây ngoài "hạt nhân hợp lý" của quy định cũ, kết hợp với những thông tin khác cần dự kiến được những cái mới sẽ đưa thêm vào nội dung của các quy định cũ.

- Phát hiện được những vấn đề, những nội dung đã hoàn toàn lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình phát triển và nhu cầu quản lý - cần phải đưa ra khỏi văn bản mới.

- Kết hợp với các kết quả nghiên cứu thông tin thực tiễn khác, có thể dự kiến được những nội dung mới được đưa vào trong văn bản sẽ dự thảo.

Xử lý nội dung các văn bản hiện hành cần đảm bảo yêu cầu đồng bộ- xem xét nội dung của văn bản cụ thể trong mối quan hệ với các nội dung ngang cấp hoặc trên, dưới trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Một yêu cầu nữa của việc xử lý nội dung là cần xem xét một quy định hay một văn bản cụ thể trong quá trình phát triển của nó từ trước đến nay như thế nào.

Trường hợp văn bản sẽ soạn thảo là văn bản quy định về một vấn đề hoàn toàn mới thì công tác hệ thống hoá được thực hiện đối với những quy định hiện hành có liên quan với mục đích là định biên rõ nội dung mới sẽ được soạn thảo với nội dung có liên quan của hệ thống pháp luật hiện hành. Đồng thời công tác này cũng sẽ giúp các nhà làm luật xác định được mối quan hệ giữa các quy định mới với các quy định hiện hành có liên quan để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản mới với hệ thống pháp luật.

2) Tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tiễn quản lý Nhà nước, thực trạng kinh tế - xã hội, đường lối chính sách của Đảng.

Cùng với việc nghiên cứu thực tiễn lập pháp (rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan), việc tổ chức nghiên cứu khảo sát thực tiễn quản lý, thực trạng kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định cho việc hình thành nội dung của văn bản sẽ được soạn thảo.

ở đây chúng ta đặt vấn đề nghiên cứu khảo sát thực tiễn quản lý nhà nước là muốn chỉ rõ mặt chủ quan trong hoạt động quản lý: Chủ thể quản lý(ai đang quản lý, quản lý bằng phương thức, biện pháp nào, hiệu quả của quản lý nhà nước có mặt nào được, mặt nào chưa được). Mặt khác cũng xuất phát từ chức năng của pháp luật là công cụ cơ bản để quản lý Nhà nước.

Đối tượng nghiên cứu, khảo sát ở đây là các nhà quản lý và hoạt động quản lý. Cũng cần chú trọng các thông tin từ các đối tượng quản lý. Thực tế cho thấy, nếu chỉ dừng lại ở ý kiến của các nhà quản lý thì thông tin có được cũng chỉ là phiến diện một chiều. Vì nhà quản lý nào cũng muốn tạo thuận lợi cho mình, tạo cho mình những quyền "vượt trội" so với đối tượng quản lý cũng như với các nhà quản lý khác.

Khảo sát thực trạng kinh tế - xã hội sẽ cho chúng ta các thông tin có tính khách quan từ thực tiễn đời sống sinh hoạt cộng đồng. ở đây muốn nhấn mạnh mặt khách quan của hoạt động quản lý- cái gì đang xảy ra trong thực tế? Để giải quyết nó có cần phải can thiệp bằng quy phạm pháp nluật? nếu cần thì can thiệp đến mức nào, như thế nào là phù hợp?

Khảo sát thực tiễn quản lý nhà nước, thực trạng kinh tế - xã hội giúp các nhà làm luật giải đáp được nội dung cơ bản của các vấn đề sau đây:

- Có những quan hệ xã hội nào đang tồn tại trong thực tế? Biểu hiện cụ thể của các quan hệ xã hội này như thế nào? và vấn đề giải đáp là có cần dùng quy phạm pháp luật để điều chỉnh chúng hay không?

Khi nghiên cứu sự hình thành, phát triển và nội dung của các quan hệ xã hội sẽ cho ta câu trả lời : nên dùng loại quy phạm nào để điều chỉnh? Dùng quy phạm xã hội để tác động về mặt xã hội hoặc áp dụng biện pháp tác động về lợi ích kinh tế là đủ hay nhất thiết phải dùng quy phạm pháp luật để điều chỉnh? Khi câu trả lời là : Nhất thiết phải dùng quy phạm pháp luật để điều chỉnh (hay phải có sự kết hợp giữa việc dùng quy phạm pháp luật với các biện pháp về xã hội, về kinh tế) thì phát sinh nhu cầu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

- Dùng quy phạm pháp luật loại nào để điều chỉnh là phù hợp? Trả lời câu hỏi này phải nghiên cứu sâu sắc nội dung, bản chất, phạm vi, mức độ tác động của các loại quan hệ xã hội cụ thể. Có những quan hệ xã hội chỉ cần dùng văn bản của một cấp chính quyền địa phương, cũng có những quan hệ xã hội phải được điều chỉnh bằng văn bản của cơ quan Nhà nước ở Trung ương.

Vấn đề xác định nội dung quy định của pháp luật cũng hết sức cần thiết khi hoạch định chính sách pháp lý

Để xác định nội dung quy định của pháp luật, cần nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ những tình tiết của quan hệ xã hội, xác định đặc trưng của các quan hệ đó để xác định hướng tác động của pháp luật phù hợp với bản chất, đặc trưng của từng loại quan hệ. Về bản chất, ở đây nhà làm luật phải xác định rõ phương pháp điều chỉnh: điều chỉnh theo chiều dọc(mệnh lệnh - phục tùng), hay theo chiều ngang (đưa các nguyên tắc để các bên chủ thể của các quan hệ đó tự định đoạt) điều chỉnh bằng cách đưa ra các quy định cấm, bắt buộc, cho phép, hay định hướng... Hoặc từ đặc trưng, tính chất của các quan hệ xã hội mà nhà làm luật phải sử dụng cac phương pháp khác nhau có sự phốí hợp đan xen khi đặt ra các quy định trong văn bản sẽ soạn thảo.

Văn bản sẽ soạn thảo cần quy định về vấn đề đó đến mức nào. Nội dung quy định như thế nào là phù hợp?

Trả lời câu hỏi này phải đặt ra văn bản quy phạm pháp luật(văn bản quy phạm pháp luật) nói riêng đặt việc Nhà nước quản lý bằng pháp luật nói chung trong mối quan hệ với các biện pháp tác động xã hội khác. Có những loại quan hệ xã hội nhất định phải dùng quy phạm pháp luật(quy phạm pháp luật) để điều chỉnh, nhưng có những loại quan hệ xã hội cần có sự phối hợp tác động giữa quy phạm pháp luật và các loại quy phạm xã hội khác thì mới đạt hiệu quả tối đa trong quản lý (Ví dụ: Những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình duy trì sinh hoạt cộng đồng của xã hội dân sự trên địa bàn hành chính cơ sở...)

Trong quá trình tổ chức nghiên cưú khảo sát thực tiễn quản lý, thực trạng kinh tế xã hội ở địa phương, một nội dung cơ bản có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc hoạch định chính sách pháp lý là cần phải tìm hiểu nội dung các chủ trương chính sách của Đảng, các Nghị quyết của các cấp uỷ Đảng, bởi vì pháp luật của nhà nước ta là công cụ thể chế hoá đường lối, chủ trương chính sách của Đảng với tư cách là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Phương thức, biện pháp nghiên cứu chủ trương chính sách của Đảng thường là sưu tầm, nghiên cứu các quan điểm, chủ trương được nêu trong các văn kiện, bài nói của lãnh tụ cũng có thể bằng các buổi hội thảo mà trong đó có thể có sự tham gia ý kiến của cơ quan đảng hoặc bằng cách nêu vấn đề xin ý kiến chỉ đạo định hướng trực tiếp về một hay một số nội dung cơ bản, quan trọng của chính sách pháp luật v. v. .

3) Tổ chức nghiên cứu khảo sát kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các địa phương bạn về vấn đề tương ứng.

Tổ chức nghiên cứu, khảo sát, rút kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các địa phương bạn sẽ tạo được điều kiện cho các nhà xây dựng dự thảo hình dung được kinh nghiệm (hình thức văn bản, nội dung văn bản) điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội tương ứng. Mặt khác vấn đề này cũng tạo nên điều kiện để xây dựng được mặt bằng pháp lý nói chung trong cơ cấu so sánh ngang giữa các địa phương- một yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật của nhà nước thống nhất, đồng bộ. Có thể dùng các biện pháp khác nhau để nghiên cứu khảo sát kinh nghiệm như: thu thập văn bản để nghiên cứu; cử đoàn tham quan, trao đổi kinh nghiệm, mời các cán bộ có kinh nghiệm của địa phương bạn báo cáo các chuyên đề liên quan v. v. . .

4) Chính sách pháp lý được xây dựng chủ yếu trong giai đoạn tiền soạn thảo nhưng không có nghĩa là nó được xác định và quyết định ở giai đoạn này.

Về nguyên tắc hoạch định chính sách pháp lý được xây dựng chủ yếu trong giai đoạn tiền soạn thảo làm cơ sở cho việc soạn thảo văn bản nhanh chóng, tiết kiệm. Hơn nữa việc xây dựng chính sách pháp lý giai đoạn này chỉ có giá trị tham mưu đề xuất vấn đề và phương án giải quyết cụ thể (được thể hiện trong dự thảo), còn giai đoạn thảo luận, thông qua văn bản mới là giai đoạn chính thức (đúng thẩm quyền) của việc cân nhắc, thảo luận và cuối cùng là quyết định chính sách đó trong dự thảo. Tuy nhiên, tham mưu tốt thì có nghĩa là giúp cho các nhà làm luật thông qua văn bản nhanh chóng hơn, đỡ tốn kém công sức thời gian hơn ở một mức độ nào đó, nó giúp cho văn bản sau khi được ban hành bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính khả thi cao.

Trong giai đoạn soạn thảo, các thành viên trong ban soạn thảo có thể nêu trở lại các vấn đề về chính sách pháp lý để thảo luận. ở giai đoạn này có thể là các buổi thảo luận trong nội bộ Ban soạn thảo, có thể tổ chức các hội thảo để lấy thêm ý kiến về chính sách pháp lý đối với một hay một số vấn đề nào đó hoặc nêu vấn đề hỏi ý kiến các cấp, các ngành các cơ quan quản lý... bằng các phương thức và biện pháp đã nêu ở trên. Đặc biệt ở giai đoạn này, Ban soạn thảo, cơ quan chủ trì có thể đưa những vấn đề cơ bản, quan trọng để xin ý kiến, các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước cấp trên làm cơ sở cho việc định hướng nội dung của dự thảo về chính sách pháp lý.

Trong giai đoạn thảo luận, thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật các vấn đề về chính sách pháp lý được đưa ra xem xét thảo luận quyết định chính thức. ở giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền xem xét, thảo luận thông qua văn bản quy phạm pháp luật có thể tổ chức thêm việc lấy ý kiến (bằng các hình thức thích hợp) cuả các cơ quan, các ngành, các cấp. Vấn đề lưu ý là ở giai đoạn này, việc xem xét, thảo luận thông qua không chỉ bó hẹp trong các vấn đề về chính sách pháp lý mà toàn bộ nội dung hình thức thể hiện (câu chữ, ngôn ngữ pháp lý...) của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên trong đó, các nội dung về chính sách pháp lý luôn luôn là vấn đề trọng tâm.

 

 

Quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân

thực trạng và kiến nghị

TS. Lê Hồng Sơn - Phó Vụ trưởng

Vụ pháp luật Hành chính - Hình sự

Bộ Tư pháp

 

I. Đặt vấn đề

Trong thực tiễn xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước ta cũng như trong quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mảng các văn bản quy phạm pháp do cơ quan chính quyền địa phương ban hành có một vị trí hết sức quan trọng.

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được ban hành dưới hình thức Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân để bảo đảm thực hiện Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, thể chế hoá Nghị quyết của cấp uỷ Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương. Muốn đạt được những yêu cầu cơ bản này, bên cạnh việc xác định rõ, chính xác thẩm quyền ban hành văn bản về nội dung và hình thức thì việc xác định rõ quy trình các công đoạn, nội dung yêu cầu của từng công đoạn ban hành văn bản quy phạm pháp luật là rất quan trọng. ý nghĩa quan trọng của vấn đề này thể hiện ở chỗ không chỉ giúp cho việc chuẩn bị văn bản đảm bảo được tiến độ thời gian mà quan trọng hơn là nâng cao chất lượng văn bản, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật.

Trong những năm gần đây, công tác xây dựng, ban hành văn bản của các cấp chính quyền địa phương đã có nhiều tiến bộ, có nhiều văn bản được ban hành với nội dung tốt, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, điều hành ở cơ sở. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương ngày càng được hoàn thiện hơn, bao quát nhiều mặt đời sống xã hội trên địa bàn. Tình hợp pháp, đồng bộ, hợp lý (phù hợp thực trạng kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý) ngày càng được bảo đảm hơn so với trước.

Tuy nhiên, thực tế cũng đang chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của địa phương ở các mặt cơ bản sau đây:

1. Do chưa quản lý tốt, kiểm soát được tình hình ban hành văn bản, thiếu sự điều phối có hiệu quả từ một trung tâm theo một kế hoạch, định hướng cơ bản cho nên ở phần lớn các tỉnh, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, hoàn thiện. Có lĩnh vực quá ít văn bản hoặc văn bản có nội dung đã lạc hậu không được kịp thời thay thế, sửa đổi, bổ sung. Ngược lại, có lĩnh vực quá nhiều văn bản cùng điều chỉnh về một vấn đề, một nội dung (trật tự trị an, xây dựng, nhà đất...). Tuổi thọ của văn bản chưa cao, tầm khái quát của văn bản chưa đủ mức cần thiết, có một số bị sửa đổi, thay thế liên tục làm hạn chế tác dụng, hiệu lực, hiệu quả quản lý.

2. Trong từng văn bản cũng như trong cả hệ thống các văn bản chưa có tính thống nhất cao, còn hiện tượng chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn. Có nhiều sai sót về thẩm quyền ban hành văn bản. có một số si sót về thẩm quyền hình thức (ban hành Công văn, Thông báo có chứa quy phạm, để sửa đổi, huỷ bỏ một quyết định, chỉ thị ...). Có một số văn bản quy phạm có sai sót về thẩm quyền nội dung (chủ yếu trong các lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, thuế, lệ phí, huy động nhân dân đóng góp, về quản lý đất, rừng, tài nguyên...)

Nhiều văn bản có nội dung không hợp pháp (bẻ cong, xuyên tạc nội dung của luật, pháp lệnh, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên) và có nội dung không hợp lý, đưa ra những chủ trương, chính sách không phù hợp với thực tiễn.

3. Nhiều địa phương không tuân theo thủ tục, trình tự cần thiết khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cá biệt có nơi do lợi ích cục bộ cơ quan tham mưu đã trình tắt, bỏ qua nhiều khâu đoạn, thủ tục và sự đóng góp ý kiến của các cơ quan chức năng có liên quan.

4. Trong từng văn bản còn nhiều sai sót về cách diễn đạt, trình bày văn bản (không đánh số; không có dấu; chữ ký không đúng thẩm quyền; không có ngày ban hành; không có trích yếu, căn cứ ban hành...). Ngôn ngữ diễn đạt chưa chính xác, thiếu trong sáng, khó hiểu; có lúc, có nơi còn dùng thổ ngữ, khẩu ngữ.

Những hạn chế, thiếu sót này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là công tác tổ chức soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa theo một quy trình chặt chẽ, thống nhất.

Quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành là kết quả của một quá trình hoạt động phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ trong việc chuẩn bị nghiên cứu, biên soạn, chỉnh lý, hoàn thiện và xem xét thông qua văn bản đó. Quá trình này được chia làm nhiều công đoạn (có thể ví như một quy trình công nghệ để chế tạo sản phẩm). Có nhiều cách phân chia các công đoạn, tựu chung lại có một số công đoạn chính như sau:

- Phát hiện nhu cầu ban hành văn bản, lập kế hoạch xây dựng văn bản;

- Tổ chức biên soạn dự thảo văn bản;

- Xem xét thông qua văn bản;

- Công bố, tổ chứ thực hiện văn bản.

Trong mỗi công đoạn có thể chia thành các công đoạn nhỏ hơn.

 

II. Đánh giá thực trạng quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.

Thời gian gần đây, vấn đề xác lập một quy trình hợp lý cho hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được chú ý ở một số địa phương. Sở Tư pháp ở nhiều địa phương đã chủ động xây dựng, trình Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản pháp quy để quy định cụ thể về trình tự, thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (như tỉnh Nghệ An, Phú Thọ, Kon Tum, Lai Châu, Yên Bái, Bến Tre, Đồng Tháp, Thái Bình, Lạng sơn, Bình Thuận, Bình Định, Tây Ninh...).

ở những địa phương này, văn bản quy định thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp có tên gọi khác nhau như: Quyết định của Uỷ ban nhân dân quy định Quy chế, Điều lệ...; Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân... Việc soạn thảo, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân chủ yếu được thực hiện theo thủ tục, trình tự cụ thể được quy định trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp.

Về nội dung, nhận xét chung trong phạm vi toàn quốc là trình tự, thủ tục cụ thể, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tham gia vào các công đoạn của quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân chưa được quy định rõ ràng, cụ thể. Việc soạn thảo, thẩm tra các nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân chủ yếu được khép kín trong các ban của Hội đồng nhân dân, thường trực Hội đồng nhân dân. Nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật được xem xét thông qua tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân theo quy trình giống như việc soạn thảo, thẩm tra, thông qua các nghị quyết khác của Hội đồng nhân dân. Thủ tục, trình tự soạn thảo, xem xét thông qua văn bản của Uỷ ban nhân dân chủ yếu vẫn mang tình chất tuỳ nghi, phụ thuộc vào nhận thức riêng của từng địa phương. ở nhiều địa phương, việc soạn thảo, xem xét thông qua chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, thói quen làm việc được hình thành từ trước đến nay. ở những địa phương đã có quy định thủ tục, trình tự trong một văn bản của Uỷ ban nhân dân thì cũng chưa có một khuôn mẫu thống nhất.

Có thể điểm qua một số nét về thực trạng quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các địa phương trong phạm vi toàn quốc ở một số công đoạn chủ yếu của việc soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật như sau:

1.- Về việc lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Phát hiện nhu cầu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa là sự khởi đầu cho quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. ở một số địa phương như Phú Thọ, Nghệ An, Quảng Ngãi... đã có chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm. ở những địa phương này, kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã trở thành cơ sở bảo đảm tiến độ và chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, làm cho công tác này thực hiện có sự chủ động về thời gian, bố trí lực lượng phối hợp và kinh phí phục vụ cho công tác soạn thảo văn bản. Kế hoạch được xây dựng đựa trên cơ sở xem xét nhu cầu quản lý, thực trạng kinh tế - xã hội và từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương đã góp phần nâng cao chất lượng soạn thảo của từng văn bản; chủ động hơn trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản của địa phương.

Tuy nhiên, có thể nói rằng ở đa số các địa phương trong phạm vi toàn quốc, việc xây dựng chương trình, kế hoạch chưa thực sự được chú trọng. (Có nơi cho rằng việc xây dựng chương trình, kế hoạch là hình thức và không thể thực hiện được vì bị động vào hệ văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, vì sự thay đổi trong thực trạng kinh tế - xã hội và nhu cầu quản lý). Thực tế này làm cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật luôn bị động về tiến độ, chất lượng; nội dung các văn bản mang tính chất đối phó, chắp vá.

ở những nơi đã lập được kế hoạch thì nội dung các kế hoạch còn ít nhiều mang tính chất chủ quan do chưa thiết lập được quy trình cụ thể để xây dựng kế hoạch; chưa xác định cụ thể vị trí, vai trò của các cơ quan tham gia chuẩn bị, thẩm định và thông qua kế hoạch. Các biện pháp bảo đảm thực hiện kế hoạch chưa được quy định đồng bộ, chưa có luận chứng cụ thể.

2.- Hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ở nhiều địa phương thời gian qua đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận; đã bước đầu xác định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, trình tự các bước soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp hoàn thiện dự thảo. Sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan trong từng giai đoạn của quá trình soạn thảo văn bản đã được chú ý hơn, hạn chế một bước tình trạng cục bộ, khép kính, thiếu dân chủ trong hoạt động soạn thảo văn bản.

Hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ở các địa phương cũng còn một số hạn chế: tiến độ soạn thảo nhiều dự án chậm so với yêu cầu. Trách nhiệm, quyền hạn, vị trí pháp lý của Ban soạn thảo, các thành viên Ban soạn thảo, tổ chuyên viên giúp việc chưa được quy định rõ. Các hoạt động nghiên cứu chính sách pháp lý, phương thức huy động trí tuệ tập thể của các cấp, các ngành, các nhà khoa học và tầng lớp nhân dân trong quá trình xây dựng văn bản chưa dược chú trọng. Có lúc, có nơi vẫn còn tình trạng một vài cá nhân soạn thảo văn bản một cách sơ sài, thiếu điều tra, khảo sát thực tế, nghiên cứu, lấy ý kiến rồi trình ký ban hành.

3.- Việc xem xét thông qua văn bản quy phạm của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng đã đạt được một số tiến bộ đáng kể.

Việc xem xét, thông qua Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hiện được thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp. Theo các quy định này, các Ban của Hội đồng nhân dân có trách nhiệm thẩm tra dự thảo văn bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo trong hệ thống pháp luật và sự phù hợp của dự thảo với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. Luật và Quy chế cũng quy định quy trình thẩm tra, quy trình thảo luận thông qua dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Các quy định của Luật, Quy chế tuy đã xác định về cơ bản quy trình xem xét thông qua dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, nhưng điều đáng lưu ý là có một số nội dung công việc, thủ tục cần thiết đặc trưng cho việc xem xét thông qua một văn bản quy phạm pháp luật chưa được quy định rõ như hồ sơ trình, việc phối hợp chỉnh lý dự thảo khi trình...

Việc xem xét thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân đã được chú ý hơn trước. Trong quy trình xem xét thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị, vị trí, vai trò của Sở Tư pháp (cơ quan Tư pháp địa phương) trong việc thẩm định dự thảo đã được nhiều nơi chú trọng. Căn cứ vào quy định của Thông tư Liên Bộ số 12/TTLB, nhiều Uỷ ban nhân dân đã khẳng định tính chất bắt buộc của công tác thẩm định dự thảo của cơ quan Tư pháp (Nghệ An, Đồng Tháp, Bến Tre...).

Tuy nhiên, ở phần lớn các tỉnh chưa chú ý thực hiện quy định trong Thông tư này. Có nơi giao cho Văn phòng Uỷ ban nhân dân chức năng thẩm định, có nơi tuy giao cho cơ quan Tư pháp địa phương nhưng chỉ đối với một số văn bản (tuỳ nghi). ở một số địa phương còn tồn tại quy trình soạn thảo - ký ban hành trong mối quan hệ trực tiếp khép kín giữa nhóm chuyên viên Văn phòng Uỷ ban nhân dân với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. ở những nơi này, cơ quan Tư pháp bị mất chức năng thẩm định, chỉ phát hiện sai sót của văn bản sau khi văn bản đó được ban hành, và chỉ theo dõi được số lượng văn bản được ban hành thông qua sổ công văn lưu trữ của Văn phòng Uỷ ban nhân dân. Quy trình thảo luận, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân chưa được chú trọng. Nhiều trường hợp, cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trực tiếp ký quyết định, chỉ thị có chứa đựng quy phạm pháp luật mà không đưa ra thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Nhiều nội dung cụ thể của quy trình này chưa được cụ thể hoá (như hồ sơ trình, quy trình thảo luận, biểu quyết...). Đây là một trong những khâu yếu nhất trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương mà hậu quả của nó là Uỷ ban nhân dân ban hành nhiều quyết định, chỉ thị (có chứa đựng quy phạm pháp luật) trái Hiến pháp, luật, pháp lệnh và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên hoặc không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý ở địa phương.

 

III. Một số kiến nghị hoàn thiện quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân

1.- Cần khắc phục sự phân tán, tản mạn, không thống nhất về cơ sở pháp lý của hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hình thức hoạt động cơ bản của chính quyền địa phương mang tính sáng tạo cao, trong đó có sự phối kết hợp nhiều cơ quan, có nhiều khâu đoạn để từ việc nhận thức quy luật khách quan của thực trạng kinh tế - xã hội, nhu cầu quản lý... nhằm xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật, sản phẩm của hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, vừa phải có nội dung phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu quản lý Nhà nước vừa phải bảo đảm tính thống nhất đồng bộ trong hệ thống pháp luật chung, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Những yêu cầu này đòi hỏi phải có quy định của Nhà nước có hiệu lực pháp lý cao tạo ra một khung cơ bản các nguyên tắc về thẩm quyền, thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tình trạng tuỳ tiện như hiện nay.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 101/CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định cụ thể, chặt chẽ quy trình xây dựng, ban hành VBPPL của các cơ quan Nhà nước ở trung ương. Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản được xác định trong các văn bản này, việc nghiên cứu, soạn thảo ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là một yêu cầu bức xúc phúc đáp yêu cầu của địa phương và yêu cầu xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ, hoàn thiện trong phạm vi cả nước, ở cả trung ương lẫn các cấp chính quyền địa phương.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cần được xây dựng trên khung các vấn đề cơ bản sau đây:

Những nguyên tắc chung quy định rõ các vấn đề như: Định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; nguyên tắc về tính hợp hiến, hợp pháp, về tính thống nhất; nguyên tắc dân chủ hoá hoạt động lập quy, xác định hiệu lực văn bản; rà soát hệ thống hoá...

Quy định về thẩm quyền nội dung Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân;

Quy định các nguyên tắc về soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, trong đó quy định rõ việc lập chương trình; tổ chức soạn thảo; thẩm định; chuẩn bị hồ sơ trình; thảo luận, thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân;

Hiệu lực và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân;

Giám sát, kiểm tra, kiểm soát và sử lý văn bản sai trái của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân...

Trong cơ cấu của luật này, vấn đề về thủ tục, trình tự (quy trình) ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được coi là một phần cơ bản quan trọng.

2.- Đổi mới, hoàn thiện những nội dung cơ bản của quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

a/ Giai đoạn phát hiện nhu cầu, lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Theo kinh nghiệm chung, các nguồn thông tin để phát hiện nhu cầu phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương gồm:

- Thông tin từ hoạt động quản lý của Nhà nước (đây là nguồn cơ bản nhất) nhằm phát hiện nhu cầu phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, điều chỉnh một lĩnh vực, một nhóm các quan hệ xã hội nào đó trong thực tiễn.

- Thông tin thu được từ các phương tiện thông tin đại chúng, các kiến nghị đề xuất của công dân, các cơ quan đoàn thể.

- Thông tin từ văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên giao nhiệm vụ quyền hạn trong công tác quản lý và tổ chức thực hiện văn bản đó.

- Thông tin từ công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản phát hiện các vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo; các kiến nghị ban hành văn bản mới để sửa đổi, bổ sung, thay thế văn bản hiện hành.

Khi nhận được thông tin từ các nguồn trên, bộ phận tham mưu cần nghiên cứu rõ xem có vấn đề gì đang đặt ra? cần định hướng của Nhà nước như thế nào? đến mức nào? Có cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hay dùng biện pháp khác? Nếu cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì dùng loại hình văn bản nào? cấp nào ban hành. Muốn trả lời được các câu hỏi này, cần triển khai tìm hiểu bước đầu thực trạng xã hội, xử lý các tài liệu có liên quan, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng để xác định và đề xuất nhu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật, lập các kế hoạch có tính định hướng chung và kế hoạch cụ thể.

Căn cứ lập kế hoạch gồm có: nhu cầu quản lý của Nhà nước, yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật và khả năng đáp ứng của bộ máy lập quy.

Chủ thể lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật gồm có các sở, ban, ngành, Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân. Trong đó, bên cạnh cơ quan có thẩm quyền thông qua (quyết định) kế hoạch, cần thấy rõ vai trò quan trọng của cơ quan Tư pháp, Văn phòng Uỷ ban nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân là các cơ quan đầu mối, tham mưu tích cực cho việc xây dựng kế hoạch.

Bên cạnh kế hoạch có tính định hướng chung (nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chiến lược dài hạn) các địa phương nên lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm, sáu tháng và hàng quý, trong đó có kế hoạch của Hội đồng nhân dân (ban hành nghị quyết) và kế hoạch của Uỷ ban nhân dân (ban hành quyết định, chỉ thị).

Nội dung kế hoạch cần có: tên văn bản; cơ quan chủ trì soạn thảo; cơ quan thông qua; tiến độ các khâu đoạn trong quá trình soạn thảo, thông qua; cơ quan thẩm định, thẩm tra và các điều kiện bảo đảm.

Vấn đề nổi nên hiện nay là: cần xây dựng một quy trình lập kế hoạch đơn giải, chặt chẽ trong đó có sự phối hợp có hiệu quả ngay từ đầu của các chủ thể tham gia xây dựng kế hoạch. Tính khả thi của kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cũng là vấn đề có tính thời sự. Do tính chất của xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương có khác so với kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương (tính bị động, phụ thuộc) cho nên việc xây dựng hệ thống văn bản dự kiến có tính khả thi cao là rất khó khăn. Theo chúng tôi, không nên coi kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giống như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội khác. Hơn nữa, cần xây dựng hệ thống văn bản dự kiến ban hành theo các mảng vấn đề như: từ nhu cầu quản lý toàn diện mọi mặt đời sống xã hội và thực trạng các văn bản hiện hành; từ nhu cầu ban hành văn bản đáp ứng yêu cầu của văn bản trung ương; trong đó mảng vấn đề thứ hai có tính chất co dãn, có thể bổ sung, sửa đổi căn cứ vào thực trạng ban hành văn bản của cơ quan Nhà nước ở trung ương.

b/ Giai đoạn tổ chức soạn thảo là công đoạn lớn, quan trong quyết định chất lượng, tiến độ ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

* Tuỳ theo đặc điểm tổ chức bộ máy, truyền thống xây dựng văn bản và các điều kiện cụ thể khác, hiện nay, nhiều địa phương đang tổ chức biện soạn dự thảo văn bản quy phạm pháp luật không giống nhau. Theo chúng tôi, việc tổ chức ban soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nên theo cơ chế " mềm ", cụ thể là có những trường hợp văn bản phức tạp, quan trọng, liên quan đến nhiều ngành thì có thể thành lập tiểu ban soạn thảo hoặc tổ soạn thảo với sự tham gia của nhiều ngành (cơ quan chủ trì, cơ quan Tư pháp, Văn phòng Uỷ ban nhân dân, ban của Hội đồng nhân dân và một số đại diện các ngành khác...) còn những văn bản đơn giản, cụ thể thì có thể giao cho cơ quan chủ trì (cơ quan chuyên môn) chuẩn bị với sự theo dõi, phối hợp của Văn phòng Uỷ ban nhân dân và thẩm định của cơ quan Tư pháp, thẩm tra của các Ban của Hội đồng nhân dân theo khung cơ bản sau đây:

Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện do Uỷ ban nhân dân cùng cấp chủ trì phối hợp với các Ban của Hội đồng nhân dân được phân công soạn thảo. Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ đạo soạn thảo. Trong trường hợp cần thiết, thường trực Hội đồng nhân dân thành lập tiểu ban soạn thảo.

Dự thảo quyết định, chỉ thị do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện phân công cho cơ quan chuyên môn, đơn vị thuộc Uỷ ban nhân dân chủ trì soạn thảo. Đối với dự thảo quyết định, chỉ thị có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, lĩnh vực thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành lập tiểu ban soạn thảo. Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ đạo việc soạn thảo.

* Chúng tôi đồng ý với nhiều chuyên gia cho rằng cần phải có công đoạn "phân tích và quyết định chính sách". Đây là giai đoạn tiền soạn thảo làm cơ sở cho các hoạt động tiếp theo trong quy trình soạn thảo văn bản. Giai đoạn này cần được bắt đầu ngay từ khâu nghiên cứu, đề xuất nhu cầu lập quy, xây dựng kế hoạch ban hành văn bản, tập trung giải quyết chính sách pháp lý ở giai đoạn tiền soạn thảo (trước khi viết dự thảo), được tiếp tục ở các giai đoạn sau của quy trình. (xin tham khảo chuyên đề nghiên cứu hoạch định chính sách pháp lý trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân).

* Việc tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cần được tiến hành một cách dân chủ. Vấn đề thu hút sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, các nhà chuyên môn, các đối tượng phải thi hành văn bản và công dân vào công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được chú trọng. Cần phải xác định phạm vi, phương thức thích hợp của việc tham gia ý kiến của các cơ quan, các cấp, các ngành kể cả xin ý kiến cấp uỷ, của các tổ chức đoàn thể xã hội và của cả công dân trong giai đoạn soạn thảo. Việc lấy ý kiến này sẽ do cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan xem xét thông qua quyết định và là bắt buộc đối với mọi dự thảo.

Cần chú trọng kỹ thuật soạn thảo, trình bày một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. ở đây cần nắm chắc thể thức, cách trình bày (khung) của một văn bản nghị quyết, quyết định, chỉ thị; kỹ thuật viết một điều luật trong mối quan hệ với quy phạm pháp luật (hình thức và nội dung); câu chữ, cách diễn đạt trong văn bản phải đơn giản, dễ hiểu, chính xác, cụ thể...

c/ Việc xem xét, thông qua văn bản quy phạm pháp luật.

* Về vấn đề thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, cần xác định rõ một số nội dung cụ thể sau đây:

Tuỳ theo tính chất nội dung của dự thảo nghị quyết, thường trực Hội đồng nhân dân giao cho một ban của Hội đồng nhân dân thẩm tra dự thảo, các ban khác có trách nhiệm tham gia. Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra tất cả các mặt của dự thảo nghị quyết nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo trong hệ thống pháp luật và sự phù hợp của dự thảo với tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương. đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã thì chủ tịch Hội đồng nhân dân xem xét cho ý kiến.

Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân phải được cơ quan Tư pháp (Sở, Phòng, Ban Tư pháp) thẩm định trước khi trình Uỷ ban nhân dân. Cơ quan Tư pháp thẩm định sự cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, kỹ thuật soạn thảo văn bản, bảo đảm sự phù hợp của nội dung dự thảo với văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

* Cần có quy định cụ thể hồ sơ trình (dự thảo văn bản; tờ trình; báo cáo thẩm tra, thẩm định; bản tập hợp ý kiến đóng góp và các tài liệu liên quan khác).

* Về trình tự xem xét thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

- Đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, cần có quy định rõ trách nhiệm của thường trực Hội đồng nhân dân trong việc bảo đảm chuẩn bị dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân là đầu mối để xử lý, đề xuất các vấn đề đưa ra kỳ họp Hội đồng nhân dân thảo luận, quyết định. Trình tự xem xét, thông qua nghị quyết của Hội đồng nhân dân cũng cần chặt chẽ bảo đảm cho các đại biểu Hội đồng nhân dân có điều kiện, thống tin để thảo luận và quyết định các nội dung của dự thảo.

- Đối dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân, vấn đề nổi nên hiện nay là cần quy rõ trình tự xem xét, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân để bảo đảm những văn bản này đúng là văn bản của tập thể Uỷ ban nhân dân, do tập thể Uỷ ban nhân dân thảo luận, thống qua trong phiên họp của Uỷ ban nhân dân. Có thể quy định rõ trình tự thảo luận, thông qua quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo hướng:

+ Tại phiên họp của Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện đại diện cơ quan, tổ chức được phân công chủ trì soạn thảo trình bày dự thảo;

+ Sau khi nghe ý kiến thẩm định của cơ quan Tư pháp, Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.

Trên đây là một số kiến nghị về những công đoạn cơ bản của quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Điều quan trọng hiện nay là cần nhanh chóng khảo sát, nghiên cứu đưa ra phương án chung làm cơ sở cho việc xây dựng Luật ban hành quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân để khép kín quy trình xây dựng các loại văn bản quy phạm pháp luật đã được mở ra và giải quyết một phần ở Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Những quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân sẽ là cơ sở để ban hành những quy chế làm việc cụ thể về cách thức, lề lối làm việc và sự phối kết hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân./.

 

Cơ chế kiểm tra, giám sát

việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật

của cấp chính quyền địa phương.

 

Dương Bạch Long

 

Viện NCKH Pháp lý

 

Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các cơ quan chính quyền địa phương có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng... Các cơ quan đó là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.

Theo quy định tại Điều 123 và 125 Hiến pháp 1992 thì: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước và Nghị quyết Hội đồng nhân dân. Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình do pháp luật quy định có quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Mặt khác, Hiến pháp 1992 cũng đã quy định một hệ thống chức năng thẩm quyền và thủ tục kiểm tra, giám sát việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống đó tạo thành một cơ chế thống nhất đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Trong lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương, pháp luật hiện hành quy định có các cơ chế kiểm tra, giám sát sau:

- Sự giám sát của Quốc hội;

- Sự kiểm tra của Chính phủ;

- Sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân;

- Sự kiểm tra, giám sát của Toà án nhân dân;

- Sự kiểm tra, giám sát của Thanh tra Nhà nước;

- Sự kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp trên đối với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp dưới;

- Sự kiểm tra, giám sát của công dân, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng nhân dân.

Sự giám sát của Quốc hội.

Sự giám sát, kiểm tra của Quốc hội đối với việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, bao gồm quyền giám sát tối cao của Quốc hội; sự kiểm tra giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; của các Uỷ ban của Quốc hội; của các Đại biểu Quốc hội.

- Quốc hội của nước ta là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền Lập hiến và Lập pháp. Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, quy định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân, là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội được quy định tại Điều 83 của Hiến pháp 1992. Giám sát tối cao có nghĩa là giám sát đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; Hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, hoạt động xét xử. Quyền giám sát tối cao được áp dụng đối với cả ở trung ương và địa phương, ở tất cả các ngành, các cấp. Theo nguyên tắc đó, Quốc hội trong từng khoá họp đã thực hiện việc kiểm tra tình hình kinh tế - xã hội, tình hình thi hành pháp luật... ở các nghành, các cấp, các địa phương.

Theo quy định tại Điều 91 Hiến pháp 1992, Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội có thẩm quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và có thẩm quyền bãi bỏ các văn bản sai trái của Hội đồng nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền tự mình hoặc theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi đối với nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.

- Sự giám sát của các Uỷ ban của Quốc hội. Tại Điều 95 Hiến pháp 1992 quy định nhiệm vụ của các Uỷ ban của Quốc hội trong việc giúp Quốc hội thực hiện chức năng giám sát của mình. Sự Giám sát của các Uỷ ban của Quốc hội còn được thực hiện thông qua quyền của Uỷ ban yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức Nhà nước hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. Luật tổ chức Quốc hội ban hành ngày 18-4-1992 quy định việc xem xét và trả lời đó phải được thực hiện trong vòng 15 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị mà không trả lời hoặc trong trường hợp Hội đồng hoặc Uỷ ban của Quốc hội không tán thành với nội dung trả lời, thì Hội đồng hoặc Uỷ ban có quyền kiến nghị với Chủ tịch Quốc hội yêu cầu trả lời tại phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp Quốc hội gần nhất.

- Sự kiểm tra, giám sát do đại biểu Quốc hội thực hiện thông qua mối liên hệ, tiếp xúc và báo cáo với cử tri, xem xét, đôn đốc theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Quốc hội có thể phát hiện được những trường hợp vi phạm Hiến pháp và pháp luật.

Sự kiểm tra của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

Điều 109 và Điều 112 của Hiến pháp 1992 quy định một trong những nhiệm vụ của Chính phủ là bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ quyền hạn theo Luật định; thi hành các biện pháp bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện những quyền và nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và xã hội, bảo vệ môi trường; xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở...;

Để thực hiện được những nhiệm vụ quan trọng của Chính phủ, Hiến pháp quy định cho Thủ tướng Chính phủ thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật đối với các văn bản của các cơ quan hữu quan. Quyền kiểm tra, giám sát đó được thực hiện dưới các hình thức:

- Đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ những Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên.

- Đình chỉ việc thi hành những Nghị quyết của Hội đồng nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.

Chính phủ ra Nghị quyết, Nghị định; Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và cơ quan trực thuộc Chính phủ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở (Điều 115, 116 Hiến pháp 1992).

Cụ thể hoá các quy định tại Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức Chính phủ và Pháp lệnh về giám sát và hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ quốc hội, hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân ngày 24-2-1996 quy định: Chính phủ có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo hoạt động của hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước thông suốt trong hệ thống hành chính nhà nước, cơ quan hành chính cấp dưới phải phục tùng sự lãnh đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cơ quan hành chính cấp trên. Hướng dẫn và kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiẹn Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của thủ tướng, kiểm tra tính hợp pháp của các nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Với tư cách là thành viên của Chính phủ, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có quyền:

- Kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành những Nghị quyết của Hội đồng nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương trái với các văn bản pháp luật của Nhà nước hoặc của Bộ, ngành, lĩnh vực do Bộ, cơ quan ngang Bộ phụ trách;

- Đình chỉ việc thi hành, đề nghị với Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ những quy định của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương trái với các văn bản pháp luật của Nhà nước hoặc của Bộ, ngành, lĩnh vực do Bộ, cơ quan ngang Bộ phụ trách.

Sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước ở địa phương.

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý trí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Theo quy định của pháp luật, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của công dân ở địa phương.

Thông qua hoạt động giám sát, Hội đồng nhân dân có quyền bãi bỏ những quyết định sai trái của Uỷ ban nhân dân cùng cấp; bải bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi những nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp.

Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và chỉ đoạ hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp. Uỷ ban nhân dân có quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do Luật định khi phát hiện những quyết định bất hợp hiến và bất hợp pháp, những điều trái với văn bản của mình do các cơ quan Nhà nước cấp dưới gây ra, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được sử dụng quyền:

+ Đình chỉ việc thi hành hoặc bải bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới.

+ Đình chỉ và đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ các Nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới.

Sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kiểm soát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất.

Để thực hiện được nhiệm vụ và chức năng bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất, Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm soát chung, kiểm soát đối với các hoạt động áp dụng pháp luật.

Chức năng kiểm sát chung được thực hiện để đảm bảo việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong công tác ban hành các văn bản quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội... Đây là chức năng hết sức quan trọng bảo đảm duy trì trật tự pháp luật trong phạm vi hoạt động rộng lớn của Nhà nước, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khi phát hiện các quy định của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Viện trưởng Viện kiển sát nhân dân có quyền kháng nghị yêu cầu đình chỉnh thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ văn bản đó. Trong trường hợp, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân không nhất trí với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân báo cáo nên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên để Viện kiểm sát nhân dân cấp trên kháng nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.

Sự kiểm tra, giám sát của cơ quan Toà án nhân dân.

Hệ thống cơ quan xét xử của nước ta, theo quy định của Điều 127 Hiến pháp 1992 bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định. Việc xét xử của Toà án cũng như hoạt động điều tra, truy tố là nhằm phát hiện chính sách, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua công tác xét xử, các Toà án nhân dân kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các khâu trước khi xét xử. Đồng thời cũng thông qua công tác này Toà án có thể phát hiện ra các vi phạm trong các khâu quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước.

Như vậy, Hiến pháp 1992 của Nhà nước ta đã quy định một hệ thống các hình thức kiểm tra, giám sát việc thực thi và tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Thực chất đó là cơ chế bảo vệ Hiến pháp.

Hiến pháp được tôn trọng, được chấp hành thông qua hoạt động làm Luật, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật, thông qua hoạt động quản lý và xét xử, thông qua hành vi và hoạt động của công dân. Cơ chế mà Hiến pháp quy định để kiểm tra, giám sát sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong toàn bộ các hoạt động kể trên cho phép tạo ra những đảm bảo pháp lý cho hoạt động bình thường của Nhà nước, cho việc bảo đảm để công dân sử dụng được đầy đủ các quyền và thực hiện được các nghĩa vụ của họ. Vì vậy, mặc dù không quy định một tổ chức chuyên môn để kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của các văn bản pháp luật và các hoạt động khác, nhưng Hiến pháp đã xác lập một cơ chế chặt chẽ để đảm bảo thực hiện được mục đích đó.

 

Công tác rà soát và hệ thống hoá

văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, mục đích, yêu cầu và nghiệp vụ

 

Nguyễn Văn Thảnh Phó Vụ trưởng

Vụ Pháp luật Hành chính - Hình sự

 

Rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật là một bộ phận hợp thành của kỹ thuật xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, công tác này giữ một vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật, củng cố pháp chế và góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới hệ thống pháp luật. Tại Điều 8 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được Quốc hội khóa IX thông qua tại kỳ họp thứ 10 có quy định: "Các cơ quan Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm thường xuyên rà soát và định kỳ hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật, nếu phát hiện có quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, thì tự mình hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.

Cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật".

Như vậy, nhiệm vụ rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật và nhiệm vụ xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật theo đề nghị của cơ quan, tổ chức và công dân là nhiệm vụ thường xuyên, do luật định của các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan các cấp chính quyền địa phương. Để cùng các địa phương nghiên cứu, thực hiện có hiệu quả kế hoạch Tổng rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật theo Quyết định số 355/TTg ngày 28.5.1997 của Thủ tướng Chính phủ, trong bài chuyên đề tham luận Hội nghị này, chúng tôi chỉ xin đề cập một số vấn đề thuộc nhiệm vụ rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật sau đây:

 

I. Tính tất yếu, khách quan của công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm đến công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm mục đích thực hiện nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. Trên thực tế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra... việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các văn bản đó đã tạo thành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hầu hết các mối quan hệ xã hội trong mọi mặt đời sống xã hội, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi những mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong thời kỳ phát triển của đất nước ta. Đó là các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoàn thiện bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đến Chính phủ, các Bộ, ngành, cơ quan chính quyền địa phương, các tổ chức, các đoàn thể trong hệ thống chính trị; các văn bản quy phạm pháp luật của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; các văn bản quy phạm pháp luật về các vấn đề xã hội, công dân, bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân trong các mặt của đời sống xã hội... Việc xây dựng và ban hành các văn bản nêu trên ngày càng được quan tâm và đạt được tốc độ phát triển ngày càng cao. Những năm thực hiện chính sách đổi mới cũng là những năm có số lượng văn bản quy phạm pháp luật đạt mức kỷ lục so với các thời kỳ trước đây; chỉ tính riêng Quốc hội khóa IX đã ban hành được 36 Bộ luật và luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành được 41 Pháp lệnh, Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp đã ban hành hàng vạn văn bản pháp quy.

Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước đã chú trọng hoàn thiện và bước đầu định hình được một quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật từ luật, pháp lệnh đến các văn bản khác của các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như địa phương. Bước đầu chú trọng việc gắn với quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật với tổ chức thực hiện văn bản, trước hết chú trọng tính đồng bộ của văn bản từ luật, pháp lệnh đến các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Nhà nước quan tâm hơn đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đưa pháp luật vào trong các tầng lớp nhân dân, nâng cao dân trí, ý thức pháp luật của nhân dân. Công tác rà soát, hệ thống hoá, xử lý văn bản sai trái cũng được quan tâm hơn. Tăng cường xuất bản các tập hệ thống hoá pháp luật trong từng ngành, từng địa phương. Các cấp, các ngành đã chú ý hơn đến việc tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí để xây dựng và đưa pháp luật vào đời sống.

Những thành tựu thu được trong lĩnh vực xây dựng, ban hành văn bản pháp luật đã được khẳng định. Tuy nhiên, thực trạng của hệ thống pháp luật cũng như hoạt động xây dựng văn bản đã và đang bộc lộ những hạn chế, thiếu sót cần phải kịp thời khắc phục. Có thể nêu khái quát những hạn chế, thiếu sót đó như sau:

1. Việc ban hành văn bản không đúng thẩm quyền, chưa có sự phân biệt và thống nhất thẩm quyền về nội dung cũng như thẩm quyền về hình thức trong việc ban hành văn bản. Trong thời gian dài trước đây, chúng ta chưa có sự phân biệt rõ và thống nhất thẩm quyền ban hành văn bản của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cấp chính quyền địa phương.

2. Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật ban hành còn có tình trạng chắp vá, mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu sự thống nhất nội tại trong từng văn bản cũng như của các văn bản trong cả hệ thống văn bản pháp luật.

3. Quá trình chuẩn bị, ban hành văn bản kéo dài, phải làm đi, làm lại nhiều lần, thiếu sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban ngành tham gia vào quy trình xây dựng văn bản. Còn có tình trạng là xây dựng văn bản thiếu kế hoạch, còn tuỳ tiện, thiếu điều tra nghiên cứu khảo sát thực tế để đánh giá đúng thực trạng các quan hệ xã hội, thực trạng thi hành các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, làm ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng văn bản.

4. Việc giám sát, kiểm tra và xử lý các văn bản sai trái, việc rà soát và hệ thống hoá chưa được tiến hành thường xuyên, cho nên trong hệ thống pháp luật có hiện tượng tồn tại cả văn bản sai trái, những văn bản đã hết hiệu lực, gây khó khăn cho việc thi hành.

Nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, yếu kém nói trên một mặt là do Nhà nước ta chưa quy định rõ về thẩm quyền, thủ tục và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Mặt khác, là do việc chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế mới, mọi cái vừa làm vừa thử nghiệm, các văn bản pháp luật hình thành trong thời kỳ quản lý theo cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp đã được xoá bỏ nhưng chưa hoàn toàn, còn hệ thống pháp luật mới thể chế hoá đường lối mới trên tất cả các mặt của đời sống xã hội mới đang hình thành từng bước. Chính vì vậy mà văn bản quy phạm pháp luật phải được thường xuyên rà soát, hệ thống hoá để kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để tập hợp công bố một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, thống nhất thuận tiện cho việc tổ chức thực hiện và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân và đáp ứng tình hình phát triển của đất nước ta hiện nay.

 

II. Mục đích, yêu cầu và một số vấn đề về nghiệp vụ rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.

Rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật là sự sưu tầm, tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật đơn lẻ, các văn bản quy phạm pháp luật riêng rẽ thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ về nội dung, hài hoà về hình thức. Kết quả của rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật sẽ giúp cho việc tìm hiểu, sử dụng, áp dụng những văn bản một cách dễ dàng, có hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành, nhanh chóng phát hiện những quy định có mâu thuẫn, chồng chéo, sơ hở hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước trong hệ thống văn bản để kịp thời sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chúng.

Khoa học pháp lý đã phân biệt hai hình thức cơ bản của rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật đó là tập hợp hoá và pháp điển hoá.

Trong tập hợp hóa, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành được tập trung toàn bộ hoặc từng phần thành những tập hệ thống hoá nhất định theo trình tự thời hạn ban hành, theo thứ bậc hiệu lực của văn bản, theo thứ tự chữ cái, theo các vấn đề... Tuy nhiên, các văn bản trong tập hệ thống hóa phải được giữ nguyên trạng vốn có ban đầu của nó. Người hoặc cơ quan tiến hành tập hợp hóa không được tự ý sửa chữa câu chữa, cách trình bày của văn bản, không được làm thay đổi nội dung của văn bản cũng như các điều khoản khi tập hợp (chỉ có cơ quan, người có thẩm quyền mới sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành). Vì vậy, khi các văn bản, các quy định pháp luật đã được tập hợp theo đúng mục đích và được in thành sách hay các tập hệ thống văn bản, thì về cơ bản đó chỉ là những văn bản pháp luật có sẵn trước đây với đầy đủ ngày tháng và năm ban hành. Việc tập hợp hoá chỉ nhằm mục đích phục vụ cho việc sử dụng, tra cứu, sưu tập... về thực chất đây không phải pháp luật mới, cho nên khi áp dụng pháp luật, các cơ quan và người có thẩm quyền phải viện dẫn tên, ngày, tháng ban hành những văn bản cụ thể trong tập hệ thống hoá chứ không thể viện dẫn tên tập hệ thống hoá.

ở đây cũng cần phân biệt hai loại tập hợp hóa: tập hợp hoá không chính thức và tập hệ thống hoá chính thức. Tập hệ thống hoá không chính thức do cơ quan tổ chức, cá nhân tiến hành trong phạm vi khác nhau và với mục đích riêng như để phục vụ công tác nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện một công việc hoặc để tra cứu khi cần thiết. Còn tập hợp hoá chính thức phải do các cơ quan có thẩm quyền quyết định tiến hành và kết quả cuối cùng của tập hợp hóa được công bố chính thức để áp dụng, thi hành và phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Khác với tập hợp hoá, pháp điển hóa là hình thức cao của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành. Trong pháp điển hóa, cơ quan, người có thẩm quyền không bị hạn chế bởi những văn bản quy phạm pháp luật có sẵn. Không đơn giản là chỉ tập hợp và hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành, mà phải đánh giá lại chúng, khắc phục sự bất cập, mâu thuẫn sơ hở, chồng chéo của hệ thống văn bản, xác lập được các quy phạm mới phù hợp với các nhu cầu cuộc sống đang hàng ngày đổi thay.

Trong quá trình pháp điển hóa, cơ quan, người có thẩm quyền cần phải cân nhắc, tính toán cả thực tiễn áp dụng pháp luật của tòa án, các cơ quan nhà nước khác và các kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, công dân về các vấn đề đang pháp điển hóa.

Kết quả của quá trình pháp điển hóa là xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mới, thay thế một vài, đôi khi một số lượng lớn văn bản đơn lẻ, là văn bản tổng hợp các quy định pháp luật của một ngành luật hoặc của một bộ phận tương đối độc lập của một ngành luật và là văn bản mà các quy phạm được sắp xếp theo một hệ thống hài hòa, cân đối, theo một trật tự, kết cấu lôgíc. Đặc điểm của các văn bản được pháp điển hóa là trong đó bao hàm các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội đã định hình, tồn tại bền vững trong một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài (ví dụ: Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự...).

Như vậy, pháp điển hóa không chỉ là hình thức cao của rà soát, hệ thống hoá văn bản, mà còn là một dạng hoạt động sáng tạo pháp luật. Bằng hoạt động pháp điển hóa nhà làm luật không những tổng kết, đánh giá lại những văn bản pháp luật hiện có, mà còn giải quyết các vấn đề mới của pháp luật, làm cho pháp luật phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, mở rộng phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật, tăng cường hiệu lực từng văn bản trong hệ thống pháp luật, hoàn thiện kỹ thuật xây dựng văn bản và hoàn thiện bản thân công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật.

Hai hình thức của rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đều cần thiết và có cùng mục đích chung là làm cho hệ thống pháp luật được đồng bộ, thống nhất, hài hòa, gọn nhẹ, dễ sử dụng, dễ thi hành... là 2 hình thức của một quá trình, song tập hợp hóa và pháp điển hóa có mối liên hệ hữu cơ với nhau, nhiều công trình pháp điển hóa của Nhà nước ta như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự... được tiến hành trên cơ sở kết quả của công tác tập hợp hoá văn bản thường xuyên của các Bộ, ngành và địa phương và thực tiễn xét xử của các toà án trong hàng chục năm. Ngược lại, những công trình pháp điển hóa lại là khởi điểm đầu cho một quá trình tập hợp hóa mới. Bởi vậy, tuỳ theo tình hình phát triển của các quan hệ xã hội, hoạt động xây dựng văn bản của các cơ quan nhà nước và tình hình đặc điểm của đất nước mà nhà nước quyết định việc tập hợp hóa hoặc pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật.

Trong những năm qua, các cấp chính quyền địa phương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và để quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương mình, góp phần đáng kể vào việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi, phát huy mọi tiềm năng của địa phương phục vụ công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước. Đó là những thành tích không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng văn bản, các cấp chính quyền cũng còn gặp không ít khó khăn, lúng túng trong việc xác định thẩm quyền của từng cấp, thủ tục, trình tự ban hành văn bản, vì vậy không thể tránh khỏi những khuyết, nhược điểm trong việc thực hiện công tác này. Nhận thức rõ điều đó và để khắc phục nó các cấp chính quyền địa phương đã luôn luôn hưởng ứng mạnh mẽ các quyết định của Chính phủ về rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của từng thời kỳ (Quyết định số 128/TTg ngày 8.8.1968; Chỉ thị số 300/CT ngày 30.10.1987; Chỉ thị số 166/CT ngày 26.6.1989...) đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn ở các ngành, các cấp thường xuyên hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền...

Song, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật là công việc quan trọng nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành thận trọng tỷ mỷ với ý thức trách nhiệm cao, đồng thời phải có những điều kiện cần thiết như: sự chỉ đạo, hướng dẫn thường xuyên về nghiệp vụ, có cơ quan chuyên môn, cán bộ được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ tiến hành, kinh phí, văn bản quy phạm pháp luật phải được công bố và lưu trữ theo quy định... Những điều kiện này, trong thời gian qua không phải lúc nào cũng được đáp ứng đầy đủ. Vì vậy, hiệu quả công tác hệ thống hoá ở các cấp chính quyền địa phương cũng như ở trung ương trong thời gian qua còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Để giải quyết những tồn tại, yếu kém trong công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật hiện nay, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định hàng loạt vấn đề có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến công tác này. Đó là các vấn đề về trách nhiệm rà soát, hệ thống hoá, về định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật, về thẩm quyền ban hành, về hiệu lực văn bản, về công bố, đưa tin, về lưu trữ văn bản... và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền, thủ tục trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Mục đích chính của công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương là:

- Nâng cao nhận thức của cán bộ ngành, các cấp ở địa phương về vị trí, vai trò của công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý nhà nước; trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, đồng thời đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc chỉ đạo thực hiện công tác này.

- Đánh giá một cách thường xuyên toàn diện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của địa phương, khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập của hệ thống văn bản đó (sự chồng chéo, mẫu thuẫn, sơ hở, thiếu tính khả thi, tính thống nhất và đồng bộ của cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật).

- Lập và công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật, xuất bản các tập hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực để áp dụng thống nhất trong địa phương.

- Phát hiện, phân tích những vấn đề còn tồn tại trong việc ban hành, công bố, đăng, lưu trữ... văn bản quy phạm pháp luật từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm góp phần xây dựng, hoàn thiện pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.

- Xây dựng một quy trình khoa học về rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật trên thành tự công nghệ tin học, các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Hình thành và kiện toàn một đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình độ nghiệp vụ và kỹ năng thành thạo để đảm nhiệm công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Đưa công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật vào hoạt động thường xuyên của địa phương.

Để đạt những mục đích nêu trên, các cấp chính quyền địa phương, trước hết phải quan tâm đến các vấn đề về tổ chức, tăng cường chỉ đạo các cấp, các ngành thực sự quan tâm và chăm lo đến công tác rà soát, hệ thống hoá như là một nhiệm vụ thường xuyên của cấp ngành đó, phân công hệ thống tư pháp của Uỷ ban nhân dân các cấp và cơ quan pháp chế thuộc Hội đồng nhân dân thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác hệ thống hoá văn bản ở các cấp, các ngành và định kỳ báo cáo Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.

Thứ hai cần bố trí những cán bộ đã được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ có sự hiểu biết sâu rộng về pháp luật, nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật. Trong quá trình thực hiện công tác này, cán bộ cơ quan của các ngành, các cấp địa phương phải có sự phối hợp chặt chẽ để xem xét, phân tích nêu phương án xử lý văn bản quy phạm pháp luật (nhất là các văn bản của Hội đồng nhân dân, Toà án, Kiểm sát).

Thứ ba, cần cung cấp những phương tiện, thiết bị cần thiết như phương tiện đi lại, máy móc, văn phòng phẩm... cho công tác này.

Trên đây là mục đích, ý nghĩa và yêu cầu cơ bản của công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, khi nói đến rà soát, hệ thống hoá văn bản mà chỉ đề cập đến mục đích, yêu cầu thì quả là không đầy đủ. Để hiểu và thực hiện có hiệu quả công tác này với tư cách là một nhiệm vụ thường xuyên của các cấp chính quyền địa phương, chúng ta cần xem xét, nghiên cứu một số vấn đề thuộc nghiệp vụ rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật theo các bước sau đây:

Thứ nhất: là xác định phạm vi văn bản quy phạm pháp luật cần rà soát, hệ thống hoá. Muốn làm rõ vấn đề này, cần bám sát quy định của Điều 8 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật: "Cơ quan Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thường xuyên rà soát, định kỳ hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật"... Như vậy, văn bản cần rà soát phải là những văn bản quy phạm pháp luật - đó là những văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thủ tục với hình thức được luật quy định, trong đó có chứa các chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện khi tham gi quan hệ xã hội được văn bản đó điều chỉnh, văn bản này được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng, có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước hoặc từng địa phương và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp như giáo dục, thuyết phục, các biện pháp tổ chức, hành chính, kinh tế, trong trường hợp cần thiết thì Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành bằng các chế tài đối với người vi phạm.

Các cơ quan nhà nước thuộc các cấp chính quyền địa phương khi tiến hành rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật cần căn cứ vào văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để xác định phạm vi những văn bản mà cơ quan có trách nhiệm thực hiện hoặc phải tổ chức thực hiện. Theo quy định của luật thì phạm vi rà soát, hệ thống hoá văn bản của các cấp, các ngành ở địa phương là những văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và của các cơ quan Nhà nước cấp trên có liên quan đến hoạt động của các cấp, các ngành đó.

Thứ hai là công tác sưu tầm, tập hợp văn bản.

Sau khi đã xác định được phạm vi văn bản cần rà soát, hệ thống hoá, cần tiến hành khai thác các trung tâm lưu trữ văn bản hiện có tại địa phương, khai thác các nguồn văn bản chủ yếu để thu thập sưu tầm như công báo, phụ lục công báo, các tập mục lục luật lệ, các tập hệ thống hoá văn bản pháp luật đã được ấn hành, các hồ sơ lưu trữ, sổ công văn đến, đi ở các cơ quan thuộc địa phương. Đồng thời, phải tổ chức cập nhật văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và tổng hợp những kiến nghị của các cơ quan, công dân ở địa phương về sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến cơ quan mình. Để thực hiện có hiệu quả và không bỏ sót văn bản, khi tiến hành sưu tập văn bản cần có sự phân công hợp lý nhân lực theo các vấn đề hẹp, cơ bản. Mỗi chuyên gia phụ trách một hoặc một số vấn đề có trách nhiệm sưu tầm đầy đủ văn bản thuộc vấn đề đó. Nếu trong văn bản quy phạm pháp luật chỉ có một hoặc một vài quy phạm có liên quan đến lĩnh vực quản lý của cơ quan mình, thì phải sưu tầm những quy phạm đó cùng với việc ghi rõ, đầy đủ tên, số, ngày, tháng, năm, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật có chứa các quy phạm đó.

Văn bản quy phạm pháp luật sau khi được sưu tầm đầy đủ phải được tập hợp lại theo trình tự thời gian ban hành, theo thứ bậc hiệu lực của văn bản và theo các chuyên đề để thuận tiện cho việc so sánh, đối chiếu ở bước sau:

Thứ ba là bước xử lý sơ bộ: Đây là bước quan trọng, kết quả rà soát, hệ thống hoá phần lớn phụ thuộc vào bước này. ở đây cần tập trung các chuyên gia giỏi về xây dựng văn bản và rà soát, hệ thống hoá văn bản. Bước xử lý sơ bộ được bắt đầu bằng việc xem xét hiệu lực của từng văn bản quy phạm pháp luật đã được sưu tầm và tập hợp ở giai đoạn trước và loại những văn bản đã hết hiệu lực ra khỏi tập hợp văn bản - văn bản đã hết hiệu lực là những văn bản đã hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định ngay trong văn bản đó, là văn bản đã được thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó, văn bản đã bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một văn bản đã hết hiệu lực, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hoặc một phần vì còn phù hợp với các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật mới. Sau khi đã loại những văn bản đã hết hiệu lực, tiến hành việc nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh các quy phạm pháp luật trong một hoặc nhiều văn bản điều chỉnh một loại quan hệ xã hội, những văn bản quy phạm pháp luật quy định các vấn đề trong một lĩnh vực... để phát hiện những điểm hạn chế, sơ hở, sai sót, mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy phạm, các văn bản để có phương án xử lý. Cơ sở để tiến hành việc này là tính hợp Hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, những văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, ban hành sai thẩm quyền, không đúng trình tự, thủ tục phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành; những văn bản mâu thuẫn, chồng chéo cần được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới để thay thế văn bản đã lỗi thời, để thể chế hoá những chủ trương, chính sách mới hoặc những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn mà chưa có văn bản pháp luật nào quy định... Để giúp cho việc xử lý sơ bộ có kết quả, có những giải pháp xử lý đúng, cần tổ chức những cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề có sự tham gia của các cơ quan có liên quan, các nhà quản lý và các cán bộ pháp lý...

Thứ tư là bước lập các danh mục văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực, cần bãi bỏ, cần bổ sung, sửa đổi, cần đình chỉ thi hành, cần ban hành mới kiến nghị Uỷ ban nhân dân các cấp xử lý theo thẩm quyền hoặc để Uỷ ban nhân dân đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.

Dựa trên kết quả của công tác rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan ở địa phương, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật căn cứ kiến nghị của các cơ quan tiến hành rà soát, hệ thống hoá xem xét sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành có mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của địa phương và đề nghị cơ quan nhà nước cấp trên xử lý theo thẩm quyền.

Đối với những văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, ngành ở Trung ương, Uỷ ban nhân dân tỉnh lập danh mục văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới đề nghị các cơ quan đó xử lý theo thẩm quyền. Đồng thời, Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng lập và gửi về Chính phủ danh mục các văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.

Trên cơ sở các loại văn bản đã được xử lý, Uỷ ban nhân dân các cấp công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực và danh mục văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để áp dụng thống nhất ở địa phương.

 

III. Một số kiến nghị:

Hoạt động rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, không chỉ nhằm phát hiện, loại bỏ những văn bản sai trái, mâu thuẫn, chồng chéo cho việc thi hành và phổ biến trong nhân dân mà còn tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước phát hiện, xác định được nhu cầu xây dựng văn bản pháp luật mới, nhằm làm hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Để hoạt động này có hiệu quả hơn, xin có một số kiến nghị sau:

1. Các cấp chính quyền địa phương cần có sự quan tâm, chỉ đạo công tác rà soát, hệ thống hoá bằng việc phân công người trực tiếp phụ trách để theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện công tác này ở địa phương. Kinh nghiệm của một số đợt rà soát, hệ thống hoá của Nhà nước ta và của một số địa phương cho thấy nếu có sự quan tâm, chỉ đạo từ đầu của Chính quyền thì công tác này được tiến hành đồng bộ, có kế hoạch và thu được kết quả khả quan.

2. Để tránh những sai sót ngay trong quá trình soạn thảo, chuẩn bị ban hành văn bản, cần xây dựng một cơ chế giám sát chất lượng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành (tổ chức thẩm định dự thảo trước khi ban hành).

3. Các văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban hành cần được yết thị, đưa tin theo quy định để các cơ quan, tổ chức, cá nhân biết và thực hiện, đồng thời phải tổ chức tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân.

4. Xây dựng trung tâm lưu trữ các văn bản quy phạm pháp luật. Tại đây lưu trữ tất cả các văn bản quy phạm pháp luật bằng hồ sơ, máy vi tính... phục vụ công tác rà soát, hệ thống hoá, xây dựng văn bản và đáp ứng yêu cầu tìm hiểu, nghiên cứu của cán bộ và nhân dân địa phương.

5. Có tổ chức chuyên trách đảm nhiệm công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật, để theo dõi, tổng hợp, đề xuất các phương án xử lý văn bản với cơ quan có thẩm quyền, đồng thời có trách nhiệm nghiên cứu, hướng dẫn nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác rà soát, hệ thống hoá của các cơ quan ở các cấp, các ngành của địa phương./.

 

 

 

 

Vai trò của cơ quan tư pháp địa phương trong việc

giúp hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp

ban hành văn bản quy phạm pháp luật

 

Dương Bạch Long - Lê Thiều Hoa

Viện NCKH pháp lý

 

Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các cơ quan chính quyền địa phương có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng... Các cơ quan đó là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.

Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp được hình thành trên nguyên tắc phân chia lãnh thổ. Cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương cũng như cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương được tổ chức và hoạt động theo luật định - tạo thành một hệ thống thống nhất - hệ thống chính quyền địa phương.

Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình với 2 tư cách: trước hết, là những cơ quan Nhà nước, đóng tại địa phương, là bộ phận của quyền lực Nhà nước thống nhất không phân chia, thay mặt Nhà nước Trung ương giải quyết những vấn đề chung của Nhà nước ở địa phương; đồng thời, là những cơ quan đại diện cho cộng đồng dân cư ở cơ sở giải quyết những vấn đề có ý nghĩa địa phương và là những pháp nhân thực hiện quyền làmn chủ của nhân dân sống và làm việc trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ nhất định.

Điều 123 và 125 Hiến pháp 1992 quy định: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước và Nghị quyết Hội đồng nhân dân. Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình do pháp luật quy định có quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.

Để quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thì Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền ra quyết định, chỉ thị. Tuy nhiên, đây là hoạt động hết sức phức tạp, bởi lẽ một mặt hoạt động quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân các cấp là hoạt động quản lý rộng lớn bao trùm lên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của địa phương như chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; mặt khác, Uỷ ban nhân dân cũng là cơ quan chấp hành và điều hành, do vậy mọi quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân phải phù hợp với các văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp; và để quản lý Nhà nước bằng pháp luật thì các văn bản pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành văn bản, mọi sự sai sót đều ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của văn bản, tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý chung của nhà nước.

Do đó, để công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân được thực hiện tốt thì Thông tư số 12/TTLB ngày 26/7/1993 của Bộ Tư pháp - Ban Tổ chức, Cán bộ Chính phủ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan Tư pháp địa phương đã quy định:

Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cùng cấp có chức năng giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý Nhà nước về công tác tư pháp trong địa phương và chịu sự chỉ đạo về quản lý nghiệp vụ của cơ quan tư pháp cấp trên. Trong đó Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp có nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân như:

+ Chủ trì việc soạn thảo hoặc tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật theo sự phân công của Uỷ ban nhân dân;

+ Được Uỷ ban nhân dân Uỷ nhiệm xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý của các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác của Uỷ ban nhân dân soạn thảo trước khi trình Uỷ ban nhân dân quyết định ban hành;

+ Tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên;

+ Chỉ đạo và thực hiện công tác rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương theo thẩm quyền.

Ban Tư pháp có nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thực hiện quản lý nhà nước về các công việc tư pháp, giúp Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị để thi hành các quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh.

Trong chuyên đề này, tôi không đề cập đến tất cả các nhiệm vụ của cơ quan tư pháp trong trong việc giúp Uỷ ban nhân dân quản lý thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà chỉ tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm của công tác này cả về lý luận và thực tiễn. Từ đó tìm ra các giải pháp thích hợp nhằm phát huy vai trò tích cực của cơ quan tư pháp địa phương trong việc giúp Uỷ ban nhân dân quản lý thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.

1. Hoạt động soạn thảo hoặc tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp theo sự phân công của Uỷ ban nhân dân cùng cấp.

Hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hình thức hoạt động mang tính sáng tạo cao. Để quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện có các Sở, Phòng, Ban chuyên môn thực hiện nhiệm vụ này. Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ Trung ương đến cơ sở. Do vậy, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực chuyên môn (như tài chính, môi trường, văn hoá...) thì Uỷ ban nhân dân thường giao cho các cơ quan này soạn thảo. Bởi lẽ, các cơ quan chuyên môn là cơ quan hiểu rõ nhất lĩnh vực mình quản lý, biết được những quan hệ xã hội nào cần được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, cũng như các biện pháp, phương thức thích hợp nhất trong công tác quản lý của ngành mình. Đối với Sở, Phòng tư pháp thì chức năng của các cơ quan này là giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp (quản lý công tác thi hành án dân sự, luật sư, tư vấn, giám định, hộ tịch, ...). Do vậy, các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này Uỷ ban nhân dân sẽ giao cho cơ quan tư pháp soạn thảo.

Mặt khác, do yêu cầu quản lý nhà nước mà địa phương cần ban hành một văn bản điều chỉnh nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có liên quan đến hoạt động quản lý của ngành tư pháp.Trong trường hợp đó, cơ quan tư pháp được tham gia soạn thảo văn bản này.

Tuy nhiên, ngoài Thông tư 12/TTLB thì chúng ta chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về hoạt động soạn thảo hoặc tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan tư pháp địa phương, kể cả những vấn đề như: cơ chế phối hợp, trình tự thủ tục ban hành... cũng chưa được quy định trong pháp luật hiện hành. Trên thực tế, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương rất phức tạp. ở một số địa phương, Sở tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan lập được dự kiến Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương và thực hiện có kết quả tốt. Chương trình này được xây dựng trên cơ sở xem xét nhu cầu quản lý của Nhà nước, thực trạng kinh tế - xã hội và yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật ở đia phương, đã góp phần nâng cao chất lượng soạn thảo của từng văn bản, chủ động hơn trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của địa phương. Nhưng nhìn chung, hàng năm ở các địa phương thường không có dự kiến Chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nên khi cần thiết phải ban hành một văn bản để điều chỉnh một lĩnh vực nào đó mà Uỷ ban nhân dân chưa có cơ quan chuyên môn trong lĩnh vực đó thì việc soạn thảo thường được giao cho cơ quan tư pháp. Điều này làm cho cơ quan tư pháp rất bị động trong việc soạn thảo văn bản, tiến độ soạn thảo chậm hơn so với yêu cầu, chất lượng văn bản không đảm bảo.

Do vậy, để phát huy vai trò tích cực của cơ quan tư pháp trong việc giúp Uỷ ban nhân dân soạn thảo văn bản quy pham pháp luật (đặc biệt là cấp tỉnh) thì chúng ta cần sớm ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân, trong đó nên quy định rõ hàng năm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phải dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương trên cơ sở chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và căn cứ vào nhu cầu thực tế của địa phương.

2. Hoạt động xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đối với những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan khác của Uỷ ban nhân dân soạn thảo trước khi trình Uỷ ban nhân dân ban hành.

Đây là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của cơ quan tư pháp địa phương. Các văn bản quy phạm pháp luật trước khi được ban hành đều phải có ý kiến chính thức về mặt pháp lý của cơ quan tư pháp. Hoạt động này sẽ bảo đảm cho văn bản khi ban hành có tính thống nhất, hợp hiến, hợp pháp và hợp lý (không trái với văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, UBTVQH, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp trên, Hội đồng nhân dân cùng cấp, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương); phòng ngừa, hạn chế những vi phạm pháp luật trong công tác ban hành văn bản. Mặt khác, qua hoạt động này cơ quan tư pháp địa phương phát hiện được những văn bản chồng chéo, hết hiệu lực... để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung kịp thời.

Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12/ 11/ 1986 và Nghị định 101/CP ngày 23/9/1997 thì chức năng thẩm định văn bản quy phạm pháp luật ở Trung ương được giao cho Bộ Tư pháp. Đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, Thông tư 12/TTLB mới chỉ quy định Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp được Uỷ ban nhân dân Uỷ nhiệm xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý đối với những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác của Uỷ ban nhân dân soạn thảo trước khi trình Uỷ ban nhân dân ban hành. Tuy nhiên, văn bản này lại không quy định rõ thẩm quyền "có ý kiến về mặt pháp lý" như thế nào? Cơ quan tư pháp chỉ có quyền có ý kiến về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản hay cả về tính hợp lý (tính khả thi) của văn bản? Cơ chế có ý kiến về mặt pháp lý được thực hiện như thế nào? Nếu cơ quan soạn thảo không gửi dự thảo văn bản sang cơ quan tư pháp thì trách nhiệm của họ ra sao....

Tất cả các vấn đề trên chưa được giải quyết trong Thông tư 12/TTLB. Do vậy, cơ chế "có ý kiến về mặt pháp lý" của các cơ quan tư pháp địa phương còn nhiều lúng túng, chưa phát huy được vai trò tích cực của cơ quan tư pháp địa phương. Trên thực tế, mỗi địa phương thực hiện theo một cách khác nhau, theo quy trình khác nhau. Có một số địa phương đã ban hành Quyết định kèm theo Quy chế, Điều lệ...để quy định cụ thể về thủ tục, trình tự soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương (như tỉnh Nghệ An, Phú thọ, Kon Tum, Lai Châu, Yên Bái ...) trong đó quy định cơ quan tư pháp có nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân quản lý công tác này, thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan khác của Uỷ ban nhân dân được giao soạn thảo... Tuy nhiên, phạm vi thẩm định của cơ quan tư pháp ở các tỉnh này cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, theo Quyết định số ... ban hành kèm theo quy chế....... của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định thì tại Điều 5 của quy chế này quy định về nhiệm vụ thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan tư pháp nhưng cơ quan tư pháp không có nhiệm vụ thẩm định về tính hợp lý của văn bản. Trong khi đó ở một số tỉnh khác lại quy định cơ quan tư pháp có nhiệm vụ này. Quy trình soạn thảo văn bản ở các địa phương cũng rất khác nhau, có nhiều trường hợp văn bản quy phạm pháp luật do Văn phòng Uỷ ban nhân dân soạn thảo sau đó Chủ tịnh Uỷ ban nhân dân ký, ban hành mà không có ý kiến của cơ quan tư pháp, không được thảo luận quyết định theo đa số... Điều này, làm cho nhiều trường hợp văn bản được ban hành trái thẩm quyền, vi phạm pháp luật về nội dung, hình thức, trình tự ban hành...thậm chí nhiều trường hợp Uỷ ban nhân dân ban hành Công văn, Thông báo nhưng nội dung lại chứa đựng quy phạm pháp luật.

Từ thực tế nêu trên, thì việc chúng ta sớm ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và UBDN là hết sức cần thiết. Điều này sẽ tạo ra một cơ chế pháp lý thống nhất cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Nội dung của đạo luật này phải được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996, Nghị định 101/CP, trong đó quy định rõ chức năng thẩm định văn bản của cơ quan tư pháp địa phương. ở đây cần quy định rõ các cơ quan được giao soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải gửi hồ sơ yêu cầu thẩm định sang cơ quan tư pháp trong một thời hạn nhất định trước khi trình Uỷ ban nhân dân (hồ sơ gồm tờ trình, dự thảo văn bản, bản thuyết minh và các tài liệu cần thiết khác). Trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của cơ quan tư pháp, thì cơ quan soạn thảo có thể cử người sang giải trình những vấn đề cơ quan tư pháp yêu cầu. Về phạm vi thẩm định văn bản của cơ quan tư pháp cũng cần được quy định rõ như tại Điều 24 Nghị định 101/CP (23/9/1997).

Trong báo cáo "Phát huy vai trò tích cực của cơ quan tư pháp địa phương tham gia vào việc giữ vững ổn định trật tự xã hội" tại Hội nghị tổng kết ngành Tư pháp tháng 2/1999 đã có kiến nghị: "chỉ chính quyền cấp tỉnh mới có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cấp huyện và xã chỉ ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản của trung ương và của tỉnh". Đây là ý kiến cần được cân nhắc, xem xét khi xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạp pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

3. Vai trò của Ban Tư pháp cấp xã trong việc giúp Uỷ ban nhân dân soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị theo thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã.

Chính quyền cơ sở là nơi trực tiếp đưa pháp luật vào đời sống, nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn, tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật. Trong hoạt động quản lý thì đây là nơi "động chạm" trực tiếp đến nhiều đối tượng quản lý. Để quản lý Nhà nước thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn được phép ban hành quyết định, chỉ thị. Ngoài ra, ở cơ sở còn có một số văn bản như: nội quy, quy ước về bảo vệ môi trường, đường làng ngõ xóm, về an ninh trật tự, về thực hiện nết sống văn hoá trong việc cưới, việc tang; về hương ước làng xã... những văn bản này đều cần được Ban tư pháp góp ý kiến, giúp soạn thảo, hoặc giúp Uỷ ban nhân dân xem xét (có tính chất thẩm định) trước khi ban hành để đảm bảo không trái luật.

Trên thực tế, cũng như chính quyền cấp tỉnh, huyện, chúng ta chưa có quy định cụ thể về công tác quản lý việc ban hành văn bản ở cấp xã. Mặt khác, đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn còn có nhiều vấn đề phải bàn đến, đặc biệt là vấn đề năng lực chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp lý còn nhiều hạn chế. Mặc dù hiện nay theo Nghị định số 9/NĐ -CP ngày 23/1/1998 của Chính Phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường , thị trấn thì chúng ta đã có cán bộ tư pháp chuyên trách ở xã, nhưng với quy định của pháp luật và kiến thức pháp lý của cán bộ tư pháp xã như hiện nay, thì Ban Tư pháp xã nhiều nơi không thực hiện được nhiệm vụ của mình trong việc giúp Uỷ ban nhân dân xã ban hành văn bản. Trong tổng số 35.967 cán bộ tư pháp cấp xã (bao gồm cả cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm) của 52 tỉnh, thành thì số cán bộ chuyên trách có 14.050 người có trình độ học vấn hết cấp III; 3.922 người cấp II; và 782 người có trình độ phổ thông cơ sở. Đáng chú ý là chỉ có 102 người là cử nhân luật, 287 người qua đào tạo trung cấp pháp lý. Trong năm 1996-1997 chỉ có 4.401/35.967 cán bộ tư pháp xã được tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp xã.

Từ thực trạng trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có các biện pháp tích cực hơn nữa trong cải cách hành chính, trong đó cần coi trọng việc cải cách hành chính phải thực sự hướng về cơ sở trên cả ba lĩnh vực: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Đối với công tác tư pháp cơ sở thì việc đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức pháp lý của cán bộ được đặt lên hàng đầu, bên cạnh đó, cán bộ tư pháp (cũng như các chức danh chuyên trách khác) phải được coi là công chức và làm việc ổn định thì mới đáp ứng được yêu cầu của thực tế

 

* *

*

 

Như vậy, trong lĩnh vực giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý Nhà nước về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì hoạt động tham mưu cho Uỷ ban nhân dân (trực tiếp soạn thảo hoặc tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật hoặc cho ý kiến về mặt pháp lý đối với các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác của Uỷ ban nhân dân soạn thảo) có tác động trực tiếp đến công tác quản lý Nhà nước của Uỷ ban nhân dân các cấp nói chung. Nếu cơ quan tư pháp địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ này, thì tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương sẽ tốt hơn, hạn chế được tình trạng ban hành văn bản trái thẩm quyền, hình thức tuỳ tiện, không theo một trình tự, thủ tục nhất định; kiểm soát được tình hình ban hành văn bản quy pham pháp luật ở địa phương, từ đó phát hiện các văn bản chồng chéo, các văn bản hết hiệu lực, văn bản cần sửa đổi, bổ sung... góp phần tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước ở địa phương.

 

 

Kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

(Biên tập từ: Kỹ thuật lập pháp - Phan Mạnh Hân,

NXB Pháp lý Hà Nội năm 1985)

 

Dương Bạch Long

 

Viện NCKH pháp lý

 

I. Về hình thức và cơ cấu văn bản quy phạm pháp luật.

1) Về lựa chọn hình thức văn bản.

Vấn đề lựa chọn hình thức văn bản cần phải được xác định rõ ngay từ khâu lập kế hoạch, được xem xét, khẳng định lại ở việc hoạch định chính sách Pháp lý và khi bắt tay vào soạn thảo văn bản. Việc lựa chọn hình thức văn bản quy phạm pháp luật có tác động nhất định đến việc xác định cơ cấu và mức độ quy định của từng điều trong văn bản. Cụ thể hơn một mức nữa, tuỳ theo tính chất, nội dung của quan hệ xã hội cần điều chỉnh mà văn bản có thể được quy định dưới hình thức nào là phù hợp. Về hình thức văn bản của Hội đồng nhân dân, theo luật định là Nghị quyết; còn văn bản của Uỷ ban nhân dân thì tuỳ theo tính chất và nội dung của quan hệ xã hội cần điều chỉnh mà sử dụng hình thức Quyết định hay chỉ thị.

2) Xác định cơ cấu văn bản.

Thông thường một văn bản quy phạm pháp luật có ba bộ phận cấu thành: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết thúc văn bản.

Phần mở đầu: Cần có ít nhất 4 nội dung: tên văn bản; số văn bản; mục đích ban hành; căn cứ Pháp lý.

Trong quá trình biên soạn chúng ta chưa chú ý đúng mức đến việc thể hiện nhất quán nội dung các vấn đề trong phần mở đầu. Vấn đề đặt ra là cần phải mô hình hoá phần mở đầu hợp lý, thống nhất đối với từng loại văn bản cụ thể để tránh tuỳ tiện trong khi soạn thảo.

Phần nội dung: đưa ra các quy phạm pháp luật thể hiện dưới hình thức điều luật, các mục, các chương và phần của văn bản.

 

Tuỳ theo nội dung các vấn đề được quy định trong văn bản mà cách trình bày có thể chia ra nhiều phần cụ thể:

- Loại văn bản lớn, nhiều điều khoản có thể chia các phần, các chương, trong các chương bao gồm các điều, trong mỗi điều có thể gồm mục, trong các mục gồm các khoản.

- Loại văn bản vừa: khoảng vài chục điều có thể chỉ dừng lại ở việc chia ra các chương - mục - điều.

- Loại văn bản có ít điều khoản - có thể không cần chia thành chương mà chỉ quy định thành các điều cụ thể.

Phần kết thúc văn bản: Bao gồm điều khoản thi hành và các thủ tục kết thúc văn bản. Điều khoản thi hành cần xác định các nội dung cần thiết như: ai có trách nhiệm tổ chức thi hành; hiệu lực của văn bản; xác định việc còn hay hết hiệu lực của các văn bản quy định cùng một vấn đề đã được ban hành trước đó.

ở phần kết thúc văn bản, còn có một số nội dung về thủ tục xác định về việc thông qua, và chữ ký chứng thực của người có thẩm quyền.

Nội dung phần kết thúc văn bản cần xác định rõ một số vấn đề quan trọng sau đây :

- Quy định cụ thể ngày có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Đối với trường hợp văn bản quy phạm pháp luật không quy định ngày có hiệu lực cụ thể, cần xác định một thời hạn nhất định về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Việc quy định thời hạn này căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương và được xác định dựa trên nguyên tắc: bảo đảm cho nhân dân, những người phải thi hành có đủ điều kiện tối thiểu về thời gian để nhận được thông tin về việc công bố và nội dung của văn bản.

- Văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành quy định về hiệu lực của các văn bản pháp luật có liên quan đã ban hành trước đó cũng cần được quy định một cách cụ thể. Tình trạng hiện nay là các văn bản quy phạm pháp luật thường quy định chung chung theo cách "Những quy định trước đây trái với văn bản này đều bãi bỏ". Cách quy định này dễ cho người soạn thảo song lại là một sự đánh đố đối với người thực hiện. Cần phải xác định cụ thể trong văn bản quy phạm pháp luật mới những văn bản nào bị huỷ bỏ toàn bộ, những văn bản nào bị huỷ bỏ phần, điều khoản cụ thể nào.

 

II. Cách trình bày một quy phạm pháp luật.

1. Kỹ thuật diễn đạt một điều luật cụ thể :

ở đây cần xử lý tốt mối quan hệ giữa quy phạm pháp luật (gồm 3 yếu tố : giả định, quy định, chế tài) với hình thức diễn đạt nó là các điều luật. Có các phương pháp cụ thể để xử lý mối quan hệ này như sau:

- Phương pháp sử dụng hai yếu tố: (giả định, quy định) thường được sử dụng nhiều trong việc diễn đạt các quy phạm Pháp luật hành chính - Nhà nước, hôn nhân gia đình và nhiều ngành luật khác. Các điều luật được diễn đạt theo phương pháp này chỉ thể hiện 2 yếu tố giả định, quy định, còn chế tài thường được quy định riêng thành một số điều ở phần xử lý vi phạm.

- Phương pháp sử dụng đầy đủ cả 3 yếu tố của quy phạm pháp luật trong một điều luật. Phương pháp này thường được sử dụng để biên soạn các điều luật của văn bản pháp luật hình sự và một số lĩnh vực khác như hành chính, kinh tế.

- Phương pháp sử dụng một yếu tố trong điều luật thường chỉ nêu rõ quy định - còn giả định không được nêu rõ (ẩn) và chế tài được nêu riêng ở phần khác hoặc văn bản khác. Kỹ thuật này ít được sử dụng trong việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp chính quyền địa phương.

- Phương pháp tổng hợp nhiều quy định, giả định, chế tài của quy phạm pháp luật trong một điều luật. Thường được sử dụng trong trường hợp cần phân loại nhiều đối tượng, nhiều mức độ, nhiều hành vi và nhiều biện pháp xử lý (trong các lĩnh vực hình sự, hành chính, dân sự, kinh tế...).

Việc lựa chọn phương pháp diễn đạt tuỳ thuộc vào nội dung vấn đề cần điều chỉnh. Cùng với việc lựa chọn phương pháp xử lý quan hệ giữa quy phạm và điều luật, một yếu tố kỹ thuật quan trọng trong biên soạn văn bản quy phạm pháp luật là việc sử dụng thể văn, ngôn ngữ diễn đạt. Văn bản quy phạm pháp luật phải được viết bằng tiếng Việt phổ thông, sử dụng ngôn ngữ đơn giản, văn phong pháp lý rõ ràng, không dùng từ nhiều nghĩa, tối nghĩa. Đối với những thuật ngữ chuyên ngành hoặc thuật ngữ cần phải xác định rõ nội dung thì phải được định nghĩa cụ thể trong văn bản quy phạm pháp luật. Cần phân biệt thể văn pháp lý với các thể văn khác và tránh cách diễn đạt dài dòng, càng ít mệnh đề càng tốt, không dùng thổ ngữ, khẩu ngữ ít thông dụng. Một điều cần lưu ý trong quá trình biên soạn là không được tự ý thay đổi từ hay cụm từ đã được quy định ở văn bản cao hơn hoặc ở các văn bản cùng loại khác đã được ban hành trước đó nếu không có sự thay đổi về nội dung. Điều này rất quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất về cách diễn đạt, ngôn ngữ trong hệ thống văn bản của Nhà nước ta.

2. Hình thức bên trong và bên ngoài của quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật thường được định nghĩa là một quy tắc chung điều tiết một dạng quan hệ xã hội nhất định, có tính bắt buộc, khi cần thiết được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.

Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy:

- Quy phạm pháp luật là một quy tắc xử sự chung, có nghĩa là nó chỉ cho người ta phải xử sự như thế nào (làm gì, không làm gì, làm như thế nào, lúc nào, ở mức độ nào, dưới hình thức nào...), trong trường hợp này hay trường hợp khác. Nó là một quy tắc có tính cách chung, vì nó không nhằm vào một con người cụ thể, xảy ra ở một nơi hoặc một thời gian nhất định, mà nó chỉ buộc người ta phải hành động như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh đã dự định từ trước.

- Quy phạm pháp luật là một quy tắc bắt buộc phải tuân theo vì nếu đối tượng của nó không xử sự như quy định, hoặc xử sự trái với quy định thì nó đề ra biện pháp cưỡng bức thích hợp để ngăn chặn sự vi phạm, hoặc buộc người ta không được tiếp tục vi phạm.

Sự phân tích như trên cho thấy mỗi quy phạm pháp luật đều có một cơ cấu, hoặc hình thức cấu thành bên trong. Cơ cấu bên trong hoặc hình thức cấu thành bên trong của quy phạm pháp luật gồm có ba yếu tố sau; giả định, quy định và chế tài.

Quy định là bộ phận cấu thành các quy phạm pháp luật biểu hiện nội dung của bản thân quy tắc xử sự, nó chỉ ra cho những người tham gia quan hệ pháp luật thấy mình được làm gì, không được làm gì, có quyền hoặc nghĩa vụ như thế nào,...

Giả định là bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật định ra những điều kiện, những trường hợp cho pháp luật hoặc đòi hỏi thực hiện quy tắc biểu hiện bên trong phần quy định.

Chế tài là bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật có nhiệm vụ định trước những hậu quả bất lợi mà pháp luật để dành cho người vi phạm khi họ không thực hiện đúng quy tắc xử sự (quy định).

Với những bộ phận cấu thành như trên, ta có thể thấy cơ cấu của quy phạm pháp luật được xây dựng theo cấu trúc ngữ pháp "nếu......thì, nếu.....thì": Nếu gặp những trường hợp có những điều kiện như thế này thì phải xử sự như thế này, nếu thực hiện tốt quy tắc xử sự đã quy định thì được khen thưởng như thế này hoặc nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy tắc đã quy định thì sẽ bị phạt như thế này.

Mối quan hệ nói trên chỉ ra rằng bất cứ quy phạm pháp luật nào cũng gồm có ba bộ phận cấu thành (giả định, quy định và chế tài hoặc giả định, quy định và khen thưởng), và ba bộ phận đó liên kết với nhau. Chỉ với cơ cấu như vậy, ta mới có quy phạm pháp luật và quy phạm pháp luật không thể phát sinh hoặc có hiệu lực thi hành nếu không có đủ những bộ phận quy định được liên kết với nhau theo cấu trúc ngữ pháp trên "nếu....thì, nếu....thì".

Kết luận như trên đã có thời kỳ gây ra tranh luận. Một số tác giả cho rằng có thể và trong thực tế có nhiều quy phạm chỉ có hai bộ phận: quy định và giả định, hoặc quy định và chế tài. Những tác giả này đã lẫn lộn hình thức bên trong với hình thức bên ngoài của quy phạm.

Hình thức bên ngoài của quy phạm pháp luật là sự diễn đạt quy phạm pháp luật thành văn mà người ta đọc được. Với sự diễn đạt thành văn này, quy phạm pháp luật được biểu hiện dưới hình thức bên ngoài thành những điều luật trong văn bản quy phạm pháp luật. Hình thức bên ngoài của quy phạm pháp luật cần biểu hiện trung thành đầy đủ hình thức bên trong của quy phạm pháp luật. Nhưng trong thực tế, hiếm có trường hợp một điều luật chứa đựng và biểu hiện đầy đủ những yếu tố cấu thành một quy phạm pháp luật mà thường thấy những trường hợp một quy phạm được diễn đạt trong những điều khoản (nằm trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc có khi nằm trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật), hoặc ngược lại, một điều khoản chứa nhiều quy phạm pháp luật.

Giữa quy phạm pháp luật (hình thức bên trong) với điều khoản pháp luật (hình thức bên ngoài của pháp luật) không phải luôn luôn có sự phù hợp và khớp nhau. Giáo sư Kê-ri-mốp nói: "Để cho điều luật được ngắn gọn, khỏi phải nhắc đi, nhắc lại những điều quy định một cách không cần thiết, trong khi diễn đạt các quy phạm, nhà làm luật không nhất thiết phải nhắc lại như in hình thức bên trong của quy phạm pháp luật. Chỉ làm như vậy mỗi khi thấy thật cần thiết, mà như thế thì câu vẫn thường dài. Trong thực tiễn, người ta thường cân nhắc: Nếu sự diễn đạt dài dòng không làm rõ thêm sự nhận thức của người đọc, không làm lợi gì hơn cho sự quy định đúng đắn, quán triệt pháp luật so với sự hiểu biết của người ấy có thể có được một cách trực tiếp hay gián tiếp với những sự diễn đạt ngắn gọn, thì người ta nên hết sức tránh sự phát biểu dài dòng". Vì lẽ đó, trong một điều khoản, ít thấy cả ba yếu tố của quy phạm pháp luật được diễn đạt đầy đủ cùng một lúc; trong nhiều trường hợp, yếu tố này hay yếu tố khác tuy không viết ra nhưng được hiểu ngầm. Thí dụ: Trong Bộ Luật hình sự, những tội phạm quy định ở phần riêng thường không nhắc đến những điều kiện chung đã quy định ở phần chung của Bộ luật. Một người có thể được coi là có tội và được áp dụng quy tắc định ra trong điều luật ở phần riêng. (Trong trường hợp này, một phần của giả định đã không được viết ra và được hiểu ngầm). Trong những quy phạm pháp luật hành chính, quy định quyền hạn, nhiệm vụ, chế độ công tác của các cơ quan, cán bộ nhân viên Nhà nước, có những trường hợp ta không tìm thấy giả định hoặc không thấy cả chế tài.Vì sao vậy? Vì rằng trong những trường hợp nhất định nào đó, người đọc đã biết hoặc phải biết một cơ quan Nhà nước hoặc một cán bộ, nhân viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ công tác của mình trong những điều kiện quy định chung của Nhà nước. Nếu không làm đúng quy định, vi phạm nghĩa vụ theo pháp luật hoặc do cấp trên giao thì bị xử lý kỷ luật theo những trình tự và hình thức, biện pháp do pháp luật quy định chung từ trước rồi. (Do đó mà không cần va chạm cũng không thể nhắc lại trong từng quy phạm pháp luật hoặc điều khoản pháp luật.

3. ý nghĩa của các yếu tố cấu thành quy phạm pháp luật

* Yêu cầu của phần giả định

Về nguyên tắc, việc xây dựng phần giả định của một quy phạm pháp luật phải hết sức rõ ràng. Nếu quy định không rõ những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thì việc áp dụng phần quy định chắc chắn sẽ gặp khó khăn và dẫn đến sự vi phạm pháp chế hoặc vi phạm tính thống nhất của pháp chế.

Cần phân biệt những giả định tuyệt đối dứt khoát và những giả định tương đối dứt khoát. Giả định tuyệt đối dứt khoát chỉ thật rõ, thật chính xác những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể dẫn đến việc áp dụng quy tắc viết trong giả định. Giả định tương đối dứt khoát không chỉ rõ những đặc điểm cụ thể mà chỉ nêu lên những đặc điểm chung của các tình tiết, các sự việc.

Sự chấp nhận những giả định tương đối dứt khoát là tất yếu, nhà làm luật không thể nào quy định trước một cách tách bạch, đầy đủ mọi quan hệ pháp lý. Vả lại quy phạm pháp luật là quy tắc chung, mỗi quy tắc chung ít nhiều đều mang tính khái quát nhất định để có thể áp dụng vào những trường hợp riêng.

Thừa nhận khả năng tồn tại của những giả định không rõ ràng dứt khoát, ta phải thấy tính chất đặc biệt và có điều kiện của những giả định này. Chỉ trong những điều kiện khi mà nhà làm luật, căn cứ vào tình hình, đặc điểm thực tế xét thấy không thể đặt ra những giả định rõ ràng, dứt khoát thì mới làm theo cách này.

Ngoài việc phân chia các giả định thành tuyệt đối, tương đối và không dứt khoát, còn có thể phân các giả định thành giả định cụ thể và giả định trừu tượng. Giả định cụ thể thường có tính cách liệt kê một vài trường hợp riêng biệt nào đó. Giả định trừu tượng thì nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh có tính chất chung, có khả năng vận dụng rộng rãi vào nhiều trường hợp cụ thể khác nhau.

Có ý kiến cho rằng các giả định trừu tượng thể hiện một trình độ lập pháp cao, các quy phạm được đặt ra mang tính chất nguyên tắc. Đây là kết quả của công tác tổng kết kinh nghiệm khoa học sâu sắc, góp phần xây dựng một nền pháp chế ổn định, vững chắc, đơn giản. Chúng ta cần phải tán thành về căn bản ý kiến ấy. Nhưng phải thấy là trong những trường hợp nhất định vẫn cần đặt ra những quy phạm pháp luật có giả định cụ thể khi nhà làm luật cần đặc biệt nhấn mạnh đến việc tuân thủ những quy tắc riêng biệt nào đó. Cái chung không loại trừ cái riêng. Hơn nữa cũng phải thấy là trong thực tế có những trường hợp, những điều kiện, tình tiết cụ thể không nhiều, có thể liệt kê ra một cách ngắn gọn thì có lợi hơn là cố tìm cách tổng hợp thành những công thức trừu tượng, vừa mất công sức không cần thiết, vừa đem lại tác dụng hạn chế.

* Yêu cầu của phần quy định

Căn cứ vào tính chất và phương pháp tác động của pháp luật vào quan hệ xã hội, có thể phân các quy định thành nhiều loại: Quy định ngăn cấm, quy định giao quyền, giao nhiệm vụ, nghĩa vụ, quy định miễn giảm, quy định bắt buộc hành động....

Những sự phân chia nói trên chỉ có tính chất tương đối. Vì quyền hạn và nhiệm vụ tuy hình như đối lập với nhau, nhưng lại đòi hỏi và kết hợp chặt chẽ với nhau; có khi chính quyền hạn lại là nhiệm vụ và ngược lại. Mặt khác, trong một quan hệ pháp lý, quyền của bên này lại tương ứng với nghĩa vụ của bên kia. Quy định bắt buộc một số người làm một số việc gì đó cũng có nghĩa là công nhận việc không bắt buộc đối với những người hoặc việc không được kể ra. Vậy khi diễn đạt quy tắc xử sự (tức là khi viết phần quy định), trong những vấn đề luôn luôn có hai mặt (thậm chí có nhiều mặt), cần viết thư thế nào? Nhấn đều cả hai mặt hay chỉ nhấn mạnh một mặt nào đó?

Trả lời câu hỏi này, trong từng trường hợp phải căn cứ vào tính chất đặc điểm của loại quan hệ pháp luật được điều tiết đồng thời phải xuất phát từ mục đích chính trị, kinh tế thực tiễn của việc làm luật mà chọn lực hình thức diễn đạt thích hợp. Đây là một quy tắc cực kỳ quan trọng, nếu không nắm vững sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng và hiệu quả của quy định.

Có thể lấy một ví dụ điển hình, bằng các quy phạm pháp luật hình sự về định tộôi danh. Trong trường hợp rất khó nói chính xác quy phạm pháp luật nhằm đối tượng nào là chính: công dân, người can phạm, cơ quan điều tra xét xử? Nếu đối tượng là công dân thì quy phạm pháp luật chủ yếu khuyên người ta không nên làm điều mà pháp luật đã coi là tội, và như vậy thì tại sao quy phạm pháp luật lại không quy định những điều công dân nên làm, mà lại chỉ nhấn mạnh vào những điều mà công dân không được làm? Mặt khác quy phạm pháp luật hình sự có vẻ như chủ yếu nhằm vào đối tượng là kẻ bị can, những cũng có vẻ như nhằm vào cơ quan xét xử bằng cách chỉ ra rằng khi xét xử một bị can có những hành động ghi trong điều luật thì cơ quan xét xử có quyền và có nghĩa vụ xử phạt. Rõ ràng quy phạm pháp luật hình sự nhằm giáo dục và điều tiết hành động của cả công dân, người can phạm và người đại diện cơ quan xét xử. Tuy có đối tượng và mục đích đa dạng như vậy, nhưng quy phạm hình sự thường được diễn đạt một cách đơn giản, ngắn gọn nhất.

Dựa vào quy tắc cơ bản nói trên, chúng ta đi vào phân tích một số trường hợp cụ thể trong việc xây dựng phần quy định.

a. Quy định ngăn cấm, bắt buộc và khuyến khích

Đối với những hành vi xấu, tiêu cực, có hại, ta dùng những quy định ngăn cấm ở mức độ khác nhau. Có những trường hợp cần viết không được làm, có trường hợp phải viết cấm hoặc nghiêm cấm. Thí dụ: Luật hôn nhân và gia đình quy định: Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng họ về trực hệ, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa anh chị em ruột,...

Luật pháp không chỉ ngăn cấm những việc xấu mà chủ yếu là khuyến khích những việc tốt. Khuyến khích những việc làm tốt cũng là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa những hành vi xấu. Vì vậy, nhà làm luật thường quy định những mặt tốt trước khi đề cập đến những mặt xấu cấn ngăn chặn, hoặc chủ yếu khuyến khích, phát triển những hành vi tốt; còn các hành vi xấu, nếu có nhưng không đáng kể thì sẽ tập trung vào các quy định khuyến khích những hành vi tốt mà không quy định hoặc chỉ quy định sơ qua việc ngăn chặn những hành vi xấu.

Những việc cần khuyến khích cũng có mức độ khác nhau: Có những hành vi bắt buộc phải thực hiện và những hành vi không bắt buộc, chỉ khuyến khích làm. Đối với những hành vi bắt buộc thì phải quy định rõ ràng cụ thể, khi cần thì phải có những quy phạm bổ sung để quy định chi tiết, cụ thể nội dung, hình thức và trình tự tiến hành. Đối với những hành vi không bắt buộc, nhưng cần khuyến khích thì không cần quy định tỉ mỉ. Trong trường hợp này, chế tài được thay thế bằng biện pháp khen thưởng.

b. Quy định giao quyền và quy định giao nhiệm vụ, nghĩa vụ

Có nhiều trường hợp quyền hạn cũng là nhiệm vụ (Đối với cơ quan, tổ chức, cán bộ có chức quyền) hoặc quyền lợi cũng là nghĩa vụ (đối với một công dân hay pháp nhân). Trong trường hợp này có thể quy định chung nhiệm vụ với quyền hạn hoặc quyền lợi với nghĩa vụ.

Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ (nhiệm vụ) vẫn là hai khái niệm khác nhau, cho nên trong pháp luật Nhà nước những quy định về giao quyền thường tách riêng với những quy định về giao nhiệm vụ. Bởi vì khi nói nhiệm vụ, nghĩa vụ là nói đến sự bắt buộc phải thực hiện, còn khi nói đến quyền là nói đến khả năng của người được giao quyền có thể không sử dụng quyền được pháp luật giao cho mình. Mặt khác, trong các quan hệ pháp lý có nhiều chủ thể tham gia, quyền của chủ thể này lại là cơ sở phát sinh nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Do đó, trong các quy định của quy phạm pháp luật, việc quy định có phân biệt quyền (quyền hạn, quyền lợi) với nhiệm vụ, nghĩa vụ là điều rất quan trọng. Đáng chú ý là ngay cả trong những trường hợp quyền và nghĩa vụ có vẻ như không phân biệt những vẫn có sự phân biệt tương đối giữa hai phạm trù này.

Ngay trong những trường hợp mà pháp luật quy định riêng rẽ từng quyền và từng nghĩa vụ, nhưng sự tách biệt cũng không phải là tuyệt đối mà chỉ là tương đối. Trong từng trường hợp cụ thể, theo sự phân tích, cân nhắc của mình, nhà làm luật có thể nhấn mạnh, làm rõ mặt quyền mà không nhấn mạnh mặt nghĩa vụ hoặc ngược lại. Nhưng cũng có những trường hợp vì lợi ích củng cố kỷ luật Nhà nước và trật tự pháp lý, từng loại quan hệ pháp lý đòi hỏi phải quy định rõ ràng dứt khoát những quyền hoặc nghĩa vụ (nhiệm vụ) cụ thể của một chủ thể. Ví dụ: trong chế độ hợp đồng, kinh tế và tuỳ theo từng loại hợp đồng, pháp luật phải quy định rõ quyền của từng bên tham gia hợp đồng (cung ứng, xây dựng, bao thầu, thu mua,...) và những nghĩa vụ tương ứng của họ trong việc thực hiện những cam kết ghi trong hợp đồng. Trong Luật hành chính chẳng hạn, phải quy định rõ quyền của các cán bộ thanh tra khi tiến hành thanh tra một đơn vị hành chính, kinh tế và nghĩa vụ của người thủ trưởng hoặc đại diện cơ quan đơn vị được thanh tra,...

c. Quy định tuyệt đối dứt khoát, tương đối dứt khoát và không dứt khoát

- Quy định tuyệt đối dứt khoát cần thiết để đảm bảo một kỷ luật, trật tự nghiêm ngặt trong những lĩnh vực hoạt động và công tác nhất định. Ví dụ: Điều lệ công văn giấy tờ (Nghị định 142-CP năm 1963) quy định mọi công văn giấy tờ của cơ quan Nhà nước đều phải có chữ ký của thủ trưởng hoặc người đại diện được uỷ quyền của cơ quan đơn vị.

- Quy định tương đối dứt khoát chỉ ra các quy tắc hành động tuân theo nhưng đồng thời cho đối tượng tự do lựa chọn cách hành động trong một phạm vi nhất định. Ví dụ: Điều 401 Bộ luật dân sự quy định về những nội dung chủ yếu của hợp đồng dân sự là những điều khoản mà thiếu những điều khoản đó, thì hợp đồng không thể giao kết được. Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:

a) Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm;

b) Số lượng, chất lượng;

c) Giá, phương thức thanh toán;

d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;

đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;

e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

Ngoài những nội dung chủ yếu nêu tại khoản này, trong hợp đồng có thể có các nội dung khác mà các bên thoả thuận.

Trong lĩnh vực pháp luật hành chính các quy định tương đối dứt khoát thường biểu hiện một trong hai hình thức: Hoặc cho phép xê dịch trong một giới hạn cho phép (từ mấy ngày đến mấy ngày, chậm nhất là đến ngày nào,...) thì cơ quan phải quyết định xét duyệt,... Quy định tương đối dứt khoát còn được thể hiện dưới hình thức cho đối tượng thi hành quyền giải quyết theo một trong những cách mà pháp luật quy định (có thể thế này, hay có thể cách khác, chọn một trong hay cách, hoặc cả trong hai cách...).

- Quy định không dứt khoát thường thấy nhiều trong pháp luật hành chính và một số ngành luật khác gần gũi với pháp luật hành chính như: (pháp luật Tài chính, Đất đai, Lao động...). Do tính chất linh hoạt, cơ động của các quan hệ pháp lý hành chính nên có khi nhà làm luật không thể định trước ngay được những cách cư xử cụ thể phải làm, mà chỉ để ra những yêu cầu, mục đích chung, có tính định hướng chung. Trong pháp luật hành chính, ta thường thấy những quy định kiểu này trong những cách viết như: "phải thi hành những biện pháp cần thiết để...", "phải có kế hoạch...", "phải đảm bảo việc này hay việc khác"....

- Trong khoa học pháp lý và thực tiễn lập pháp, lập quy của Nhà nước, còn có những quy định gọi là quy phạm tuỳ nghi hoặc quy phạm bổ khuyết mà nội dung và mục đích chủ yếu là đặt ra những quy tắc (quy định) chỉ dùng trong trường hợp cần bổ khuyết sự thiếu sót của các bên đương sự (đối tượng) trong việc quyết định những vấn đề nhất định có liên quan đến quy phạm. Các quy phạm tuỳ nghi được thấy nhiều trong lĩnh vực pháp luật dân sự và kinh tế điều tiết những quan hệ hợp đồng.

4. Yêu cầu của phần chế tài.

Chế tài là bộ phận cấu thành quan trọng thứ ba của quy phạm pháp luật. Nó chỉ ra những biện pháp mang tính chất cưỡng bức của Nhà nước để xử lý những trường hợp vi phạm quy tắc xử sự ghi trong quy phạm. ý nghĩa của chế tài trong chế độ xã hội chủ nghĩa là ở chỗ nó vừa có tác dụng giáo dục chung việc tuân theo pháp luật để bảo vệ trật tự pháp luật, vừa trừng phạt những người vi phạm pháp luật, ngăn ngừa việc tiếp diễn hoặc tái diễn các hành vi vi phạm pháp luật. Để đạt được mục đích ấy, Nhà nước đặt ra nhiều loại chế tài tương ứng với những tính chất và đặc điểm khác nhau của từng loại quan hệ pháp luật và lợi ích cần bảo vệ. Do đó cần phân biệt các chế tài hình sự, chế tài dân sự, chế tài hành chính, chế tài kỷ luật. Mỗi loại chế tài có tính chất, đặc điểm phạm vi và cách thức áp dụng riêng, nhà làm luật không thể không tính đến khi diễn đạt các chế tài trong quá trình xây dựng pháp luật. ở đây, chúng ta sẽ nghiên cứu một số vấn đề chung về kỹ thuật lập pháp liên quan đến các chế tài.

Tính rõ ràng, dứt khoát của chế tài có ý nghĩa to lớn. Về mặt này có thể phân biệt các chế tài tuyệt đối dứt khoát và các chế tài tương đối dứt khoát. Khác với giả định và quy định, các chế tài phải luôn luôn rõ ràng dứt khoát.

Chế tài tuyệt đối dứt khoát chỉ ra những biện pháp tác động cụ thể, nhất thiết phải được áp dụng khi quy phạm pháp luật bị vi phạm.

 

Chế tài tương đối dứt khoát chỉ ra những giới hạn tối đa và tối thiểu hoặc những biện pháp cụ thể của chế tài và dành cho cơ quan có thẩm quyền khả năng áp dụng biện pháp nào, ở mức độ nào xét thấy là thích đáng nhất (Ví dụ: Phạt tù từ bao lâu đến bao lâu, phạt tiền từ bao nhiêu đến bao nhiêu) hay đề ra những biện pháp xử lý khác nhau để lựa chọn (Phạt tù, phạt tiền, hạn chế hoặc bị tước bỏ một vài quyền lợi tinh thần, vật chất....).

Người ta thường dùng chế tài tương đối dứt khoát trong những trường hợp mà xét về mặt chất của sự phạm pháp, bản thân hành vi vi phạm pháp luật có ý nghĩa quyết định khác nhau tuyệt đối: khi xử lý, không cần cân nhắc nhiều về mặt lượng tức là những nhân tố, tình tiết về nhân thân, hoàn cảnh sinh hoạt, hoạt động của đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật. Những chế tài loại này thường thấy trong pháp luật dân luật, hành chính, lao động... Trong những trường hợp khác, khi xét đến những đặc tính về chất và những đặc tính về lượng của việc phạm pháp (mức độ lỗi, quy mô hậu quả, những thiệt hại gây nên, cũng như nhân thân và hoàn cảnh sinh hoạt cụ thể của người vi phạm...) đều phải được tính đến trong khi cân nhắc mức độ trách nhiệm của người vi phạm pháp luật thì cần đặt ra chế tài tương đối dứt khoát cho phép cơ quan áp dụng quyết định biện pháp và mức độ xử lý cụ thể thích hợp nhất trong từng trường hợp. Những tình tiết, yếu tố về chất và lượng, về khách quan và chủ quan càng đa dạng, phức tạp bao nhiêu thì chế tài càng phải linh hoạt bấy nhiêu và điều đó chỉ có thể thực hiện được khi chế tài được định ra trong những giới hạn đủ rộng để cho phép sự lựa chọn cần thiết của cơ quan xử lý.

Những việc mở rộng phạm vi, giới hạn của chế tài có thể gây nên những trở ngại nhất định, nó dễ dẫn đến tình trạng những việc phạm pháp giống nhau có thể có thể bị những cơ quan khác nhau áp dụng những chế tài nặng nhẹ khác nhau. Trong luật hình, người ta cố gắng khắc phục nhược điểm ấy bằng cách cụ thể hoá hơn nữa những giả định, những dấu hiệu và điều kiện của hành vi phạm pháp, hoặc xác định cụ thể hơn nữa để giúp cho sự nhận định thống nhất về những trường hợp tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Việc sắp xếp những tội phạm riêng biệt thành loại (trong những chương riêng) trên cơ sở xác định các dấu hiệu chung của khách thể tội phạm (tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, tội xâm phạm sở hữu của công dân, tội xâm phạm nhân thân, tội phạm về chức vụ...) cũng là một biện pháp bảo đảm việc xử phạt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, theo nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự.

Nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm đòi hỏi nhà làm luật phải rất coi trọng việc quy định chế tài sao cho có thể vận dụng và xử lý đúng đắn, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

5. Một số quy tắc chung về hình thức diễn đạt các quy phạm pháp luật.

5.1. Phương pháp quy định trực tiếp và phương pháp quy định gián tiếp.

Trong việc điều tiết các quan hệ xã hội, khi phải lựa chọn giữa hai phương pháp trình bày các điều khoản: Trình bày theo cách quy định trực tiếp hoặc trình bày theo cách quy định chỉ dẫn (gián tiếp).

Theo phương pháp quy định trực tiếp, nhà làm luật trực tiếp quy định nội dung của quy phạm, người đọc văn bản có thể tìm thấy ngay ở đó nội dung của quy tắc xử sự theo yêu cầu của pháp luật.

Trong phương pháp quy định chỉ dẫn (gián tiếp), các điều khoản được diễn đạt một cách ngắn gọn, thường chỉ nêu lên phần giả định, còn phần quy định thì viết làm theo quy định của một điều khoản khác hoặc chỉ nêu lên phần quy định còn chế tài thì chỉ dẫn là làm theo quy định ở một điều khoản khác. Quy định theo phương pháp gián tiếp hay chỉ dẫn sẽ tránh được những quy định trùng lặp, dài dòng rườm rà không cần thiết. Người đọc một quy phạm trình bày theo cách này, chỉ cần xem điều khoản được chỉ dẫn là có thể nằm được đầy đủ, cụ thể nội dung của quy định hoặc chế tài cần áp dụng.

5.2. Gộp nhiều quy định trong một điều luật hay một quy phạm rải ra trong nhiều điều luật.

Phần trên chúng ta đã nó là có những trường hợp một quy phạm pháp luật được diễn tả hoàn toàn đầy đủ trong một điều luật là lý tưởng, nhưng thực tế không nhiều. Trong đa số trường hợp, một điều luật có thể bao gồm nhiều quy phạm, hoặc một quy định có thể nằm rải rác trong nhiều điều luật là lý tưởng, nhưng thực tế không nhiều. Trong đa số trường hợp, một điều luật có thể bao gồm nhiều quy phạm, hoặc một quy phạm có thể nằm rải rác trong nhiều điều luật. Khi có những quy phạm pháp luật điều tiết những quan hệ xã hội cùng loại, giả định những điều kiện giống nhau cho việc áp dụng các quy phạm đó, thì không có thể nêu những điều kiện thuộc giả định chung ấy thành một điều luật riêng, mở đầu cho một số điều luật khác. Ví dụ: Trong các Bộ luật dân sự, thường thấy có những điều luật mở đầu cho mỗi chương quy định về một loại hợp đồng như điều luật mở đầu định nghĩa thế nào là hợp đồng thuê mướn chẳng hạn, tức là định ra những điều kiện làm phát sinh loại hợp đồng này. Trong những điều sau, quy định về những quyền và nghĩa vụ trong quan hệ thuê mướn của các chủ thể chỉ cần đi thẳng vào việc quy định các quyền và nghĩa vụ mà không cần nhắc lại các điều kiện chung này nữa, hoặc chỉ cần nêu lên những điều kiện bổ sung. cụ thể trong từng trường hợp mà thôi. Trong các Bộ luật hình, cũng có điều luật riêng có tính cách đặt ra những giả định chung. Ví dụ: Những điều luật quy định khái niệm tội phạm, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đều là những giả định chung cho tất cả các điều luật về những tội phạm cụ thể. Trong trường hợp nếu vi phạm nhiều quy phạm nói trong nhiều điều luật sẽ bị áp dụng những chế tài giống nhau thì người ta cũng có thể viết những chế tài trong một điều luật riêng. Trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật hành chính, chúng ta cũng có thấy những chương hoặc điều khoản riêng quy định việc khen thưởng, hoặc xử lý những vi phạm theo tinh thần ấy. Đa số những trường hợp nhiều quy phạm pháp luật được gộp chung trong một điều luật, tức là một điều luật có nhiều quy phạm pháp luật. Cần phải nghiên cứu, phân tích để thấy việc gộp như vậy là hợp lý hay không hợp lý. Ta thấy rõ làm như vậy là hợp lý khi nội dung quy định của các quy phạm về căn bản là trùng nhau, những lại khác nhau về những mặt chi tiết, thứ yếu. Trong luật hình chẳng hạn, một điều luật quy định về một tội danh, định ra chế tài chung, sau đó lại nêu lên những trường hợp điển hình và quy định chế tài riêng tương ứng đối với từng trường hợp.

Nhưng việc đưa nhiều quy phạm vào trong cùng một điều luật cần có giới hạn hợp lý. Một quan hệ pháp lý có những dấu hiệu riêng, quan trọng, cần làm nổi bật về ý nghĩa và vị trí thì nên quy định thành một điều luật riêng. Nếu hợp nhất các quy phạm khác trong một điều luật thì sẽ gò bó, không những làm cho điều luật quá dài, mà việc quy định sẽ không làm nổi được những quy phạm có đặc tính khác nhau. Một điều luật quá dài, đề cập đến quá nhiều khía cạnh, tình huống cụ thể, sẽ làm cho sự điều tiết pháp lý của văn bản trở lên kém chính xác, có khi còn rơi vào một khuyết điểm quan trọng khác là lẫn lộn điều khoản pháp luật với thể chế pháp lý, biến cả một chương, một tiết của văn bản thành một điều khoản dài dòng, phức tạp. Vì vậy, cần tránh lạm dụng việc đưa nhiều quy phạm vào một điều khoản. Nếu vì lý do thực tiễn nào đó, mà buộc phải chấp nhận những điều khoản dài dòng, phức tạp thì phải chú ý khắc phục bằng cách sắp xếp, đánh số và ghi dấu hợp lý những quy phạm được đưa vào điều luật. Không làm như vậy sẽ gây nhiều khó khăn cho việc sử dụng văn bản nói chung và cho việc dẫn các điều luật nói riêng.

Có người ngại làm tăng quá nhiều số điều khoản trong văn bản quy phạm pháp luật. Về vấn đề này, ý kiến chung của giới khoa học pháp lý là: tăng thêm một số điều khoản của một văn bản quy phạm pháp luật chỉ đáng ngại khi nó tăng thêm số điều kiện hoặc làm dài thêm văn bản một cách vô ích. Trái lại, số điều khoản có tăng thêm, văn bản có dài hơn chút ít nhưng lại làm cho văn bản đầy đủ, rõ ràng, sáng sủa, đơn giản dễ hiểu, dễ sử dụng hơn thì văn bản dù có dài vẫn đáng hoan nghênh.

5.3. Những quy phạm pháp luật đặc biệt

Phần trên, chúng ta đã nói đến những quy phạm pháp luật phổ biến, kinh điển là những quy tắc xử sự chung với cơ cấu bắt buộc phải có ba yếu tố: giả định, quy định và chế tài. Nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật, bên cạnh những quy phạm, quy tắc xử sự thông thường, còn có những quy phạm pháp luật mang tính chất, nội dung và mục đích khác. Có những quy phạm chỉ chứa đựng những nguyên tắc, những nguyên lý, những định nghĩa. Có những quy phạm chỉ khẳng định những đặc điểm và thuộc tính cơ bản của một chế độ chính trị - pháp lý, xác định vai trò và chức năng của nó trong một hệ thống xã hội - pháp lý. Về mặt cơ cấu bên trong, những quy phạm này không có giả định và cũng không có chế tài, nhưng nội dung hợp thành phần quy định của nó, với sức mạnh đảm bảo của Nhà nước phải được công nhận và tôn trọng tuyệt đối, không điều kiện. Khi cần bảo đảm sự tôn trọng cao quy định này bằng hình thức chế tài, thì nhà làm luật phải đặt ra những quy phạm - quy tắc để trừng phạt, xử lý một loại hành vi vi phạm riêng nào đó.

Do tính chất, đặc điểm như vậy, những quy phạm pháp luật đặc biệt loại này thường được coi là những quy phạm - nguyên tắc, dùng làm cơ sở xuất phát và tư tưởng chỉ đạo việc đặt ra và thi hành những quy phạm - quy tắc khác. Với ý nghĩa đó, những điều luật thể hiện những quy phạm này thường được sắp xếp ở chương hoặc phần đầu của mỗi văn bản quy phạm pháp luật hoặc để mở đầu cho từng phần hoặc chương riêng của một văn bản quy phạm pháp luật.

Có những quy phạm - quy tắc cũng được xếp vào loại quy phạm đặc biệt, đó là những quy phạm - hướng dẫn hay quy phạm - giới thiệu. Những quy phạm này có giả định và quy định, nhưng không có chế tài. Quy tắc xử sự không có tính chất bắt buộc, mà chỉ có tính chất gợi ý, giới thiệu. Sự tồn tại của những quy phạm này là một đặc điểm của pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện sự lãnh đạo, quản lý dân chủ, chống những hành động dập khuôn trong những trường hợp cần mở rộng quyền tự quyết định của các cơ quan cấp dưới nhất là trong lĩnh vực quản lý hành chính - kinh tế.

Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những quy phạm pháp luật hiện hành

Phần văn bản quy phạm pháp luật đã nói về quy tắc tuyên bố bãi bỏ những văn bản hoặc quy phạm pháp luật hiện hành, chỉ rõ những văn bản hoặc điều luật nào bị bãi bỏ, hết hiệu lực thi hành.

Một quy phạm pháp luật, một điều luật có thể bị bãi bỏ, nhưng có thể chỉ sửa đổi nội dung của nó. Có khi các điều luật đã có vẫn được giữ nguyên, nhưng cần đặt thêm những quy phạm pháp luật mới, viết thêm những điều khoản mới trong một văn bản quy phạm pháp luật hoặc thêm những ý mới vào một quy phạm pháp luật cũ. Trong những trường hợp trên cần theo một số quy tắc như sau:

Sửa đổi quy phạm pháp luật

Phổ biến có hai cách làm:

a. Cách thứ nhất

Nếu điều khoản cũ về căn bản vẫn còn giữ nguyên, chỉ cần thêm bớt một vài chữ, hoặc dấu chấm, dấu phẩy thì chỉ cần ghi rõ những chữ được thêm bớt ở phần, đoạn nào của điều luật hay của câu văn. Ví dụ: Nghị định của chính phủ Số 93-1998-NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 1998 Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12-CP ngày 26 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ.

 

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12-CP ngày 26 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ như sau:

1. Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 27 như sau:

Đối với người lao động hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 26 thì cách tính lương hưu như quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27, nhưng cứ mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi so với quy định tại các khoản 1, 2 Điều 25 thì giảm đi 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội...

2. Bổ sung vào cuối khoản 1 Điều 29 một đoạn như sau:

Riêng đối với người đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo các mức tiền lương thuộc công việc nặng nhọc, độc hại hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại đủ 15 năm trở lên mà chuyển sang làm công việc khác đóng bảo hiểm xã hội theo thang, bảng lương do Nhà nước quy định có mức lương thấp hơn thì khi nghỉ hưu được lấy các mức lương cấp bậc của 5 năm liền kề làm công việc nặng nhọc, độc hại để tính mức bình quân làm cơ sở tính hưởng lương hưu.

....

b. Cách thứ hai

Viết lại toàn bộ điều luật, hoặc một khoản, một đoạn.

Mỗi một cách có những ưu điểm và nhược điểm: Cách viết thứ nhất cho người đọc thấy pháp luật hiện hành về căn bản không thay đổi, chỉ sửa đổi ở một số chi tiết. Nhược điểm của nó là thường chỉ nhấn mạnh mặt hình thức, nên người đọc nhiều khi không dễ dàng hiểu ngay được những sửa đổi về thực chất là gì.

Bổ sung quy phạm pháp luật

Có những trường hợp phải đưa thêm vào văn bản quy phạm pháp luật những quy phạm mới, trong khi vẫn giữ nguyên những quy phạm và điều khoản đã sẵn có trong văn bản quy phạm pháp luật.

Có thể đưa thêm vào một hoặc nhiều điều luật mới ở phần này hay phần khác của văn bản, nhưng phải bảo đảm giữ vững tính lô gích và trật tự liên tục của văn bản.

Những điều khoản trong văn bản được bổ sung vốn đã được đánh số hoặc đánh dấu thứ tự, nên điều khoản mới được đưa vào cũng phải được đánh số, hoặc ghi dấu thứ tự theo nguyên tắc chung.

Quy tắc kỹ thuật đối với văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ

Văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ từng phần phải được xử lý một cách thích ứng, thể hiện những điều sửa đổi ấy. Đây không còn là công việc của nhà làm luật, mà là công việc của những cán bộ nghiệp vụ làm công tác pháp chế, công tác quản lý, xét xử hàng ngày.

Phải ghi chú vào văn bản những điều, khoản, đoạn, điểm câu chữ được sửa đổi, thêm bớt có chú thích vào văn bản quy phạm pháp luật nào đã quyết định những điều sửa đổi, bổ sung đó. Những điều khoản bị bãi bỏ phải được xoá đi, những điều, khoản, câu chữ được bổ sung phải được viết thêm vào với số hoặc dấu thứ tự quy định, những điều, khoản, đoạn đã được sửa đổi phải viết lại theo đúng hình thức và nội dung đã được sửa đổi.

Nên quy định trong pháp luật một nguyên tắc là khi một văn bản đã được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ từng phần thì các cơ quan Nhà nước khi công bố, viện dẫn tuyên truyền phổ biến nhất thiết phải được đưa ra những văn bản được trình bày dưới dạng đã được sửa đổi, bổ sung mà không được công bố, phổ biến, viện dẫn văn bản với những nội dung cũ, đã bị sửa đổi.

 

III. Một số điểm cần chú ý khi xây dựng văn bản

1- Cơ quan soạn thảo và ban hành văn bản phải bảo đảm nội dung và hình thức văn bản theo đúng pháp luật và đúng thẩm quyền.

 

Trường hợp cần bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật thì phải sử dụng văn bản quy phạm pháp luật tương ứng (nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị).

Nội dung các quy định trong văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân không được trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các quy định trong các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên. Các quy định trong văn bản của các quy định trong văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ngoài việc tuân thủ các quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh, văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, còn phải tuân thủ các quy định trong văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý ngành, lĩnh vực trong cả nước.

2. Để văn bản có hiệu lực, khắc phục được tình trạng sơ hở, chậm trễ (nội dung văn bản trái pháp luật, có mâu thuẫn chồng chéo, quy định không rõ ràng, thiếu đồng bộ v.v... khiến cho cấp dưới khó thực hiện hoặc hiểu và làm khác nhau), cơ quan soạn thảo văn bản để trình cấp trên ban hành hoặc tự mình ban hành cần phải :

a) Khi thực hiện việc soạn thảo văn bản, Thủ trưởng cơ quan chủ trì việc soạn thảo văn bản cần đích thân tổ chức hoặc chỉ đạo việc lấy ý kiến, bàn bạc với Thủ trưởng các cơ quan có liên quan để thống nhất ý kiến chỉ đạo và phối hợp hoạt động cho đồng bộ, không nên giao cho cán bộ dưới làm việc này; khi soạn thảo văn bản mà nội dung vấn đề cần được hướng dẫn thì cũng phải soạn thảo ngay văn bản hướng dẫn thi hành để nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong việc thực hiện quyết định.

b) Khi soạn thảo văn bản phải chú ý đến những văn bản hiện hành để bảo đảm tính nhất quán của chủ trương luật pháp. Nếu sửa đổi hoặc bãi bỏ những quy định của các văn bản trước, thì ghi rõ điều khoản của văn bản cần sửa đổi hoặc bãi bỏ, tránh ghi chung chung, gây khó khăn khi thi hành.

c) Những điều quy định trong văn bản cần thể hiện rõ ràng, cụ thể để các cơ quan, tổ chức và mọi người hiểu thống nhất, hết sức tránh đưa vào văn bản những quy định hoặc những từ ngữ khiến cho người thi hành có thể hiểu khác nhau.

d) Khi quy định thời hạn có hiệu lực của văn bản, cơ quan ban hành văn bản phải tính toán kỹ để vừa thực hiện đúng quy định của Chính phủ, vừa bảo đảm cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm thi hành có thời gian chuẩn bị điều kiện thực hiện.

 

IV. Ngôn ngữ, cách hành văn và tính lô gích của các văn bản quy phạm pháp luật.

Ngôn ngữ, cách hành văn và tính lô gích của văn bản quy phạm pháp luật là một bộ phận hợp thành quan trọng của kỹ thuật lập pháp. Cách dùng chữ, cách đặt câu và bố cục rõ ràng, mạch lạc là một yêu cầu cực kỳ quan trọng đối với công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật nhằm mục đích sáng tạo ra những văn bản quy phạm pháp luật gọn rõ, dễ hiểu, dễ thi hành.

1. Ngôn ngữ pháp luật

Yêu cầu về ngôn ngữ, ngữ pháp đối với công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật rất cao, bởi vì khó có thể tìm thấy một lĩnh vực nào (văn học hay trong đời sống xã hội) mà việc dùng chữ sai, câu văn dài dòng, sáo rỗng, ý tứ lủng củng... lại có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng như trong lĩnh vực soạn thảo pháp luật. Khi nói rằng: "phải rất thận trọng khi làm luật, phải soát đi, soát lại bảy lần", V.I Lê - nin không chỉ lưu ý người viết luật về ý tứ, nội dung, lập trường, quan điểm mà Người còn đề ra những đòi hỏi cao về mặt ngôn ngữ, cách hành văn trong văn bản. Hồ chủ tịch cũng rất chú ý đến cách nói và cách viết của cán bộ Đảng và Nhà nước (bao gồm cả cách viết pháp luật). Trong cuốn "Sửa đổi lề lối làm việc" Người đã dạy chúng ta: "Khi viết, khi nói phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được, làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm làm theo lời kêu gọi của mình. Bao giờ cũng phải tự hỏi: ta viết cho ai xem, nói cho ai nghe? chưa điều tra, nghiên cứu, chưa biết rõ chớ có nói, có viết. Trước khi nói phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận... Sau khi viết rồi phải xem lại ba, bốn lần, nếu tài liệu quan trọng phải xem lại tám, chín lần".

Trong lời dạy trên đây, Hồ Chủ tịch khuyên chúng ta: Muốn viết, muốn nói có kết quả tốt, phải chú ý bảo đảm một điều kiện tiên quyết là phải lập ý thật tốt, nắm chắc, nắm rõ điều cần nói, cần viết, nói gì, viết gì, nói cho ai nghe, viết cho ai xem, để nhằm mục đích gì. Lập ý tốt thì sẽ diễn đạt dễ dàng thành lời, thành văn điều mình định nói, định viết.

Ngôn ngữ pháp luật trước hết là phải tuân theo những quy tắc chung của ngôn ngữ và văn chương Việt Nam không thể nghiên cứu ngôn ngữ pháp luật tách rời ngôn ngữ thông thường của dân tộc. Pháp luật của nước ta là ý chí làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Nhân dân lao động sử dụng pháp luật để phục vụ và bảo vệ lợi ích của mình. Do đó, ngôn ngữ của pháp luật không thể nào không mang tính dân tộc và đại chúng.

Vậy thì điều chú ý đầu tiên là phải viết pháp luật bằng ngôn ngữ dân tộc, bằng tiếng nói của người Việt Nam. Cần hết sức tránh dùng trong văn bản pháp luật những từ ngữ mượn của ngôn ngữ nước ngoài khi ta có thể tìm thấy trong ngôn ngữ của dân tộc những từ ngữ cùng nghĩa có thể sử dụng được. Trong thực tế, có những từ ngữ thuộc tiếng nước ngoài đã được dùng quen thuộc, phổ biến trong ngôn ngữ Việt Nam thì cũng có thể coi như tiếng Việt để sử dụng trong văn bản pháp luật. Hiện nay, trong từ điển Việt Nam có nhiều từ ngữ khoa học và chính trị vốn là tiếng nước ngoài được Việt hoá. Ngôn ngữ dân tộc không chỉ đòi hỏi dùng những từ ngữ quen dùng của dân tộc, mà còn đòi hỏi nói, viết theo cách nói, cách viết của dân tộc. Những cách đặt câu, dùng chữ theo kiểu nước ngoài đem sử dụng vào tiếng Việt sẽ trở thành ngô nghê, khó hiểu.

Ngôn ngữ pháp luật phải tận dụng vốn ngôn ngữ thông dụng trong nhân dân, vì pháp luật làm ra để điều tiết những quan hệ xã hội phát sinh trong sản xuất và đời sống hàng ngày của nhân dân, chỉ có bám sát ngôn ngữ phổ thông, thì pháp luật mới có thể có tính chất đại chúng và dễ hiểu. Nhưng khi sử dụng ngôn ngữ phổ thông, chúng ta cần thấy rõ một số đặc tính và yêu cầu đặc biệt của ngôn ngữ pháp luật.

Ngôn ngữ pháp luật là ngôn ngữ của Nhà nước, dùng để diễn đạt chủ trương, chính sách mệnh lệnh của Nhà nước, nên có những ngôn ngữ trang nghiêm. Trong ngôn ngữ phổ thông, có những từ ngữ chỉ được dùng trong giới hạn riêng nhất định, không được dùng rộng rãi, công khai, nhất là trong pháp luật. Do đó, viết văn pháp luật cần chú ý chọn lọc cẩn thận các câu chữ và cách viết.

Ngôn ngữ phổ thông hết sức linh động, ngoài những từ cũ, cổ lỗ, ít dùng còn có những từ mới được đặt ra và được chấp nhận. Văn bản pháp luật phải tránh dùng những từ cũ, cổ lỗ, ít dùng mà phải coi trọng việc sử dụng những từ ngữ đã quen dùng, đã được chấp nhận trong thực tiễn.

Ngôn ngữ pháp luật là ngôn ngữ phổ thông để đặt ra những quy tắc xử sự áp dụng thống nhất cho cả nước (hoặc cho dân cư thuộc một vùng lãnh thổ, nếu là pháp luật địa phương). Nhưng trong cả nước hoặc một vùng lãnh thổ lớn có thể có những từ ngữ chỉ dùng cho một vùng nhất định, đó là những từ ngữ địa phương. Để đảm bảo cho mọi người hiểu và thi hành thống nhất quy phạm pháp luật, cần theo quy tắc: Sử dụng những từ ngữ phổ thông trong cả nước mà tiêu biểu là tiếng nói của nhân dân thủ đô, chỉ được phép dùng những từ ngữ địa phương trong những văn bản pháp luật của địa phương, và khi cầ thì có chú thích từ ngữ chính thức chung cho cả nước (chú thích trong ngoặạc đơn, chữ phổ thông sau chữ địa phương, chữ lạc sau chữ đậu phộng, chữ sắn sau chữ khoai mì,... trong văn bản của các địa phương Nam bộ).

Ngôn ngữ pháp luật còn có một đặc điểm quan trọng là tính đơn nghĩa. Mỗi từ, mỗi chữ dùng trong pháp luật phải được hiểu và chỉ được hiểu theo một nghĩa nhất định. Do đó, cách dùng chữ trong ngôn ngữ pháp luật phải bảo đảm hết sức chính xác. Đặc tính này làm cho ngôn ngữ pháp luật khác rất nhiều ngôn ngữ phổ thông. Trong ngôn ngữ phổ thông, chúng ta thấy có thể dùng nhiều từ hoặc cụm từ khác nhau để diễn đạt cùng một ý (Ví dụ: giao kèo, khế ước, hợp đồng), đồng thời có những từ ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, có những nghĩa chính xác và có cả những nghĩa bóng bẩy, xa xôi, mơ hồ. Để diễn đạt pháp luật, những quy tắc, mệnh lệnh bắt buộc cần được hiểu và thi hành thống nhất, với tính chính xác cao và đơn nghĩa, ngôn ngữ pháp luật không thể chấp nhận những cách dùng chữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa và linh hoạt như ngôn ngữ phổ thông. Để khắc phục tình hình đó, cần sử dụng các thuật ngữ pháp lý.

Thuật ngữ là những từ chuyên dùng trong một ngành khoa học, kỹ thuật nhất định để biểu thị một cách chính xác và cô đọng nhất những khái niệm. Những phạm trù là những bậc thang khác nhau trong quá trình nhận thức thế giới khách quan. Mỗi thuật ngữ khoa học nói chung và thuật ngữ pháp lý nói riêng chứa đựng trong nó một khối lượng tri thức nhất định có nội dung phong phú hơn những từ ngữ thông thường. Chính bằng cách sử dụng các thuật ngữ pháp lý, nhà làm luật có thể trình bày dưới dạng cô đọng, ngắn gọn, nhưng hết sức chính xác những nội dung phong phú và đa dạng của các quy phạm pháp luật và các quan hệ xã hội. Những thuật ngữ pháp lý ấy còn là cơ sở để các nhà luật học nghiên cứu, xây dựng và phát triển khoa học pháp lý. Những thuật ngữ pháp lý này được đặt ra bằng nhiều cách:

- Chọn trong số những từ cùng nghĩa, một từ ngữ nhất định và quy ước là từ ngữ chính thức và duy nhất được dùng để biểu thị một khái niệm, một phạm trù hay một khối tri thức nào đó. Ví dụ: giữa các từ giao kèo, khế ước, hợp đồng người ta chọn riêng từ hợp đồng để biểu thị chung cho mọi thoả thuận giữa những chủ trương ngang quyền về quyền và nghĩa vụ trong một vấn đề nào đó.

- Tiêu chuẩn hoá từ ngữ. Đối với những từ có nhiều nghĩa, chọn một nghĩa gần với nghĩa đen nhất và gắn vào đó những dấu hiệu nhất định, để trong ngôn ngữ pháp lý từ ngữ đó được dùng và hiểu theo đã được tiêu chuẩn hoá. Tiếng Việt của ta là tiếng đơn âm, cho nên để làm rõ và nhấn mạnh các dấu hiệu riêng (tiêu chuẩn), người ta có thể ghép thêm vào từ gốc một vài từ phụ để lập thành một cụm từ. Ví dụ: Tội vô ý làm chết người, tội giúp đỡ người tự sát.

Khi từ ngữ thông thường không có những nghĩa gần với nghĩa tiêu chuẩn, thì nhà làm luật có thể sáng tạo ra những thuật ngữ mới cũng theo nguyên tắc chung sau: Chọn một từ hay một cụm từ có nghĩa đen gần với khái niệm cần biểu thị nhất gắn thêm vào đó một vài từ phụ cần thiết. Sáng tạo những thuật ngữ mới này thường phải kèm theo những định nghĩa hoặc những chú thích để giúp người đọc hiểu đúng và làm đúng ý định của nhà làm luật.

Kinh nghiệm cho thấy, việc sáng tạo và định nghĩa thuật ngữ mới này cần phải cân nhắc và chỉ nên dùng một cách hạn chế. Vì trong một văn bản quy phạm pháp luật, nếu có quá nhiều những câu định nghĩa và chú thích xen vào giữa các quy định thì sẽ làm loãng và giảm tính liên tục và mạch lạc của văn bản quy phạm pháp luật.

Những điều trình bày trên cho thấy tính nghiêm túc, chính xác của ngôn ngữ pháp luật. Quán triệt nguyên tắc này, đòi hỏi nhà làm luật phải dùng từ ngữ thống nhất từ đầu đến cuối trong một văn bản quy phạm pháp luật và cả trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, không được tuỳ tiện thay đổi chữ dùng. Khi có lý do chính đáng, cần thay đổi, phải tuyên bố rõ trong văn bản của cơ quan có thẩm quyền.

Dùng từ ngữ nghiêm túc, chính cũng có nghĩa là không chấp nhận trong ngôn ngữ pháp luật những chữ dùng hoặc lối viết sáo rỗng, bóng bẩy, khoa trương, nhưng nội dung mơ hồ, không rõ ràng. Cách làm này không giúp gì cho việc nâng cao chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật, mà chỉ làm giảm tính trong sáng và tính chính xác của văn bản quy phạm pháp luật.

Việc sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, chính xác tiêu chuẩn hoá đặc biệt quan trọng trong phần quyết định của văn bản quy phạm pháp luật, tức là phần diễn đạt các quy tắc xử sự, các quy phạm pháp luật bắt buộc phải tuân theo. ở phần mở đầu của văn bản quy phạm pháp luật, cũng đòi hỏi tính nghiêm túc, chính xác, nhưng với tính chất và mục đích riêng là hướng dẫn người đọc nên có khi phải chú ý thích đáng đến tác dụng truyền cảm của nó. Nhằm mục đích ấy, kỹ thuật lập pháp cho phép dùng ở đây một vài từ ngữ hoặc cách hành văn mang tính chất truyền cảm, động viên, cổ vũ.

2. Cách hành văn của văn bản quy phạm pháp luật

Một yêu cầu cơ bản đối với các văn bản quy phạm pháp luật là ngắn gọn. Ngắn gọn và rõ ràng, là hai yêu cầu gắn bó mật thiết, quyết định lẫn nhau, văn bản pháp luật có ngắn gọn thì mới dễ hiểu, dễ thi hành.

Việc sử dụng đúng đắn các thuật ngữ, không những văn bản được chính xác, mà còn để cho văn bản được gọn và rõ ràng. Có những người, vì muốn cho văn bản được ngắn gọn đã tuỳ tiện dùng cách ghép chữ và rút ngắn các cụm danh từ tạo thành những từ vô nghĩa và không nghiêm túc như phối, kết hợp, nguyên, nhiên, vật liệu...

Cùng việc sử dụng đúng đắn các từ ngữ, phải chú ý đến cách viết văn, cách đặt câu, chấm câu... Phải hết sức tránh những câu dài lê thê, có quá nhiều mệnh đề. Nên cố gắng cân nhắc để ngắt đoạn các ý tứ và dễ đặt chúng thành những câu ngắn, không quá ba mệnh đề, đồng thời phải hết sức chú ý đến ngắt câu (dấu chấm, dấu phẩy và dấu chấm phẩy). Văn pháp luật là một lối văn chân phương, mộc mạc, hết sức tránh những thủ pháp cầu kỳ, những cách viết đảo ngược không cần thiết. Chính vì thế, nên viết thành những câu ngắn. Tính rõ ràng, chính xác của văn bản quy phạm pháp luật không chỉ tuỳ thuộc vào tính ngắn gọn của văn bản mà còn tuỳ thuộc phần lớn vào cách trình bày và sắp xếp rõ ràng, mạch lạc, hợp lý các ý tứ trong văn bản.

Một văn bản quy phạm pháp luật trình bày hợp lý, rõ ràng mạch lạc không những giúp người đọc nắm dễ dàng tinh thần, mục đích, những trọng tâm, trọng điểm của văn bản, mà nhiều khi còn giúp người đọc hiểu đúng nghĩa một câu chữ, đúng tư tưởng và ý muốn của nhà làm luật trong những trường hợp mà cách phân tích câu chữ theo nghĩa đen thông thường không cho phép đạt yêu cầu. Căn cứ vào sự sắp xếp lô gích các ý tứ, người ta có thể giải thích đúng đắn các văn bản quy phạm pháp luật.

3. Tính lô gích của các văn bản quy phạm pháp luật

Tính lô gích của văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi cách trình bày, xắp xếp các phần, các chương, các mục trong một văn bản quy phạm pháp luật; cách diễn đạt các quy phạm pháp luật (từng yếu tố cơ cấu của nó, rải quy phạm ra nhiều điều hay gộp quy phạm trong nhiều điều,...) phải đảm bảo tính hợp lý. Tất cả những điều đó không chỉ nói lên những yêu cầu của quy tắc kỹ thuật lập pháp mà còn phản ánh cả những yêu cầu của những quy tắc của phép lô gích trong việc biên soạn các văn bản quy phạm pháp luật.

Những quy tắc cơ bản của phép lô gích hình thức của công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:

a. Phân giải pháp lý: Phân giải tài liệu pháp luật thành những yếu tố đơn giản nhất, tìm ra những dấu hiệu chung hoặc riêng của từng nhóm quan hệ pháp lý. Chẳng hạn, từ hợp đồng (mua bán, thuê mướn, vận chuyển...) tìm ra những yếu tố hợp thành dấu hiệu chung nhất cho các loại hợp đồng và những dấu hiệu riêng của từng loại hợp đồng. Trong mỗi loại hợp đồng, lại có những khâu, những mặt khác nhau. Cũng phân giải như vậy, để tìm cái chung, phổ biến cho tất cả các khâu, các mặt và cái riêng của từng khâu, từng mặt.

b. Tập trung pháp lý: Quan hệ pháp lý cụ thể đều được điều tiết bằng những quy phạm, quy tắc tương ứng. Từ những quy tắc cụ thể, rút ra những quy tắc chung (theo mức độ nhất định nào đó) rồi tập trung chúng lại, trừu tượng hoá và khái quát hoá thành những nguyên tắc chung về mặt này hay mặt khác, ở những mức độ khác nhau.

c. Xây dựng cụ thể là khâu cuối cùng bao gồm tất cả những công việc viết và sắp xếp các ý, các từ vào các điều, các đoạn, các điểm, các khoản... của văn bản quy phạm pháp luật sao cho rõ ràng, mạch lạc. Trong khâu này cũng phải tuân theo những quy tắc lô gích và tiến hành những công tác phân giải và tập trung pháp lý trong khuôn khổ tương ứng.

 

Để hoàn thiện ngôn ngữ và văn phong trong công tác lập pháp, cần có sự đóng góp tích cực của các nhà luật học cũng như các nhà ngôn ngữ học. Việc quy định thành pháp luật một số nguyên tắc, quy tắc sử dụng ngôn ngữ trong các văn bản quy phạm pháp luật sẽ góp phần đảm bảo áp dụng thống nhất những quy tắc tiên tiến, khắc phục những hiện tượng tuỳ tiện trong việc xây dựng và ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật.

 

một số vấn đề khác về kỹ thuật soạn thảo

 

PTS. Lê Hồng Hạnh, Phó Hiệu trưởng

Trường Đại học Luật Hà Nội

 

Các văn bản pháp luật cần được soạn thảo với một ngôn ngữ có độ chính xác tối đa, nếu chưa thể đạt được giới hạn tuyệt đối. Các văn bản pháp luật được ban hành trước đây mắc không ít những sai sót về kỹ thuật soạn thảo, trong đó có cả cách diễn đạt. Cũng có không ít các ý kiến cho rằng các nhà soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cố làm phức tạp ngôn ngữ pháp lý. Chính vì vậy, việc soạn thảo văn bản pháp luật cần được chú ý không chỉ ở những vấn đề thẩm quyền, vấn đề thủ tục ban hành mà cả về kỹ thuật soạn thảo. Nội dung của văn bản sẽ không thể được chuyển tải đúng hoặc dễ dàng nếu cách thể hiện của chúng không chính xác, không khoa học. Các kỹ năng dưới đây sẽ giúp nhà soạn thảo có những văn bản chuẩn xác về ngôn ngữ và diễn đạt.

1. Sử dụng thời hiện đại, quá khứ và tương lai đúng nội dung và văn bản muốn thể hiện.

Các hành vi của chủ thể pháp luật xẩy ra ở những thời điểm khác nhau. Các quy phạm pháp luật phần lớn chỉ áp dụng đối với các hành vi xảy ra sau khi quy phạm pháp luật được ban hành có hiệu lực trừ rất ít những quy phạm có hiệu lực hồi tố. Vì vậy, khi diễn đạt một quy định pháp luật thì cần chú ý đến việc xác định thời điểm hành vi mà quy định chúng ta cần soạn thảo sẽ điều chỉnh. Điều này được thực hiện một cách chính xác nếu chúng ta sử dụng đúng các thời quá khứ, hiện tại, tương lai. Không ít các văn bản không chú ý đến vấn đề dễ dẫn đến sự hiểu sai và áp dụng sai các quy định được ban hành.

2. Bảo đảm độ chính xác cao nhất về chính tả và thuật ngữ

Cách diễn đạt một quy phạm pháp luật phải bảo đảm độ chính xác về chính tả và thuật ngữ. Sai sót chính tả có thể xử lý được dễ dàng bởi đội ngũ biên tập nhưng sai sót về thuật ngữ thì chỉ có các nhà soạn thảo có những tư tưởng riêng của mình nhưng phải cân nhắc nên dùng thuật ngữ nào cho phù hợp, phản ánh đúng nội dung các quy định cần soạn thảo.

Một số quy tắc sau đây cần được đặc biệt chú ý để cho văn bản soạn thảo đạt độ chính xác cao.

2.1. Trong văn bản pháp luật mức độ thể hiện tính nghiêm khắc trong đòi hỏi của pháp luật đối với chủ thể. Cần xác định mức độ đòi hỏi của pháp luật bằng cách thể hiện nó trong diễn đạt quy định pháp luật.

- Khi nêu các giả định trong các quy phạm pháp luật thì nên dùng các cụm từ thể hiện khả năng chứ không dùng các từ hoặc cụm từ biểu đạt một sự khẳng định tuyệt đối. Các từ, ngữ thích hợp nhất và được phổ biến nhất là: Nếu, Khi, Trong trường hợp, Hoặc, Hay v.v.. Việc sử dụng các từ, ngữ này cũng cần phải linh hoạt để tránh lặp lại trong cùng một quy định.

- Khi quy định những xử sự mà chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện thì dùng: Phải, có nghĩa vụ, cấm, không được.

- Khi quy định những xử sự mà chủ thể có thể lựa chọn thực hiện hay không thực hiện thì dùng: Có quyền, được, được phép.

 

- Khi quy định những xử sự mà chủ thể có thể lựa chọn thực hiện hay không thực hiện song pháp luật cần định hướng cho chủ thể thì dùng: nên, cần.

 

2.2. Tính phổ biến của thuật ngữ pháp lý được dùng trong các văn bản pháp luật

Đây là một đòi hỏi hết sức quan trọng có khả năng đảm bảo tính chính xác, hiệu quả của văn bản hay quy định cần soạn thảo. Tính phổ biến của thuật ngữ pháp lý đòi hỏi:

Thuật ngữ đó phải là thuật ngữ đã được dùng trong các văn bản pháp luật hay được dùng phổ biến trong luật học. Pháp luật được ban hành là để cho toàn thể xã hội hiểu, tuân thủ hoặc áp dụng. Vì vậy, việc người soạn thảo dùng những thuật ngữ mà mình mới sáng tạo ra, chưa từng được sử dụng trong các văn bản pháp luật trước đó hoặc chưa được công nhận rộng rãi để soạn thảo các quy định hay văn bản sẽ không tạo được cách hiểu thống nhất cho những người sẽ tuân thủ hay áp dụng chúng. Chưa nói đến các thuật ngữ mới, ngay cả thuật ngữ cổ, mặc dù đã được dùng trong các văn bản, nếu sử dụng không chọn lọc thì cũng đã gây nhiều khó khăn cho việc hiểu, tuân thủ và áp dụng pháp luật. Phải cần một thời gian dài hệ thống pháp luật nước ta mới bắt đầu sử dụng lại các thuật ngữ cổ như cáo tị, bãi nại, tống đạt v.v... Muốn sử dụng các thuật ngữ cổ hay thuật ngữ mới sáng tạo thì ít nhất phải tạo được cách hiểu thống nhất về thuật ngữ đó. Nếu không tuân thủ yêu cầu này thì văn bản soạn thảo sẽ khó hiểu, khó được áp dụng thống nhất. Ví dụ, khái niệm chứng thư được sử dụng trong Nghị định 17/HĐBT ngày 16-1-1990 là một khái niệm mới mà người soạn thảo đưa ra. Khái niệm này chưa có cách hiểu thống nhất. Bản thân khái niệm chứng từ theo cách hiểu trong tiếng Việt là văn bản xác nhận quyền tài sản và được sử dụng chủ yếu trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó trong hệ thống pháp luật của nước ta có khái niệm công chứng, chứng thực, xác nhận. Nghị định 17/HĐBT ngày 16-1-1990 quy định chứng thư là sự xác nhận việc các bên đã ký kết bản hợp đồng tại một cơ quan công chứng.

Khi pháp luật đã có các thuật ngữ pháp lý chính thức thì tuyệt đối phải sử dụng chúng. Nhiều người khi soạn thảo một số văn bản hướng dẫn về các biện pháp bảo đảm hợp đồng vẫn dùng khái niệm khế ước trong lúc Bộ luật dân sự và nhiều văn bản hiện hành khác đã dùng khái niệm hợp đồng.

c. Phải tuân thủ nội hàm của khái niệm cần sử dụng vào văn cảnh của quy định cần soạn thảo. Ví dụ người nước ngoài Việt Nam định cư ở nước ngoài không phải là một. Người nước ngoài là người mang quốc tịch một quốc gia khác hoặc người không mang quốc tịch của một quốc gia nào. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể là người nước ngoài nếu họ mang quốc tịch nước khác hoặc không mang quốc tịch nước nào, kể cả quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn là công dân Việt Nam nếu họ không từ bỏ quốc tịch Việt Nam để gia nhập quốc tịch nước khác. Chính vì vậy, việc dùng khái niệm người nước ngoài để chỉ cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài là không chính xác và có thể làm phát sinh nhiều vấn đề pháp lý phức tạp. Điểm 5.5 - Thông tư số 01/NH5/TT ngày 28/4/1995 là một ví dụ cho việc dùng không đúng thuật ngữ pháp lý. "Văn phòng đại diện phải đăng ký với Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở về số người nước ngoài làm việc tại văn phòng đại diện (bao gồm người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài) theo số lượng quy định tại Giấy phép".

 

Thuật ngữ pháp lý có ý nghĩa rất lớn đối với việc đạt mục đích và tính chính xác của các quy định, hay văn bản cần soạn thảo. Việc lựa chọn thuật ngữ phải được người soạn thảo cân nhắc kỹ càng. Chẳng hạn, không thể dùng khái niệm hậu quả pháp lý để chỉ tổn nguyên vật liệu, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại; (Điều 19 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế). Hậu quả pháp lý chính là trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên đối với những phí tổn, những thiệt hại đó chứ không phải bản thân chúng. Chúng chỉ là những sự kiện thực tế xảy ra.

2.3. Chỉ sử dụng tiếng Việt chuẩn, không sử dụng phương ngữ

Bên cạnh việc sử dụng chính xác các thuật ngữ pháp lý, việc sử dụng chính xác ngôn ngữ diễn đạt khác cũng là một yêu cầu đáng lưu ý. Người soạn thảo văn bản phải dựa vào tiếng Việt chính thống để soạn thảo. Không nên thay "rẽ trái" bằng "quẹo trái". Khi soạn thảo văn bản không được sử dụng phương ngữ. Trong báo chí, văn học việc sử dụng phương ngữ có thể làm cho tác phẩm sống hơn, gần với cuộc sống hơn, song điều này lại hoàn toàn không thích hợp trong văn pháp lý. Việc sử dụng phương ngữ không tạo ra được cách hiểu thống nhất các quy định cần ban hành.

Khi chọn và sử dụng các thuật ngữ, kể cả thuật ngữ pháp lý lẫn thuật ngữ thông thường, người soạn thảo nên đặt cho mình những câu hỏi mang tính kỹ thuật sau:

Các văn bản pháp luật, các bản án trước đây đã sử dụng thuật ngữ này chưa?

Các thuật ngữ này hiện nay có được tiếp tục sử dụng phổ biến không?

Các hiểu các thuật ngữ này có thống nhất không?

Pháp luật hay thực tế có yêu cầu sử dụng các thuật ngữ này theo một nội dung thống nhất không? Các thuật ngữ này có phải là một dạng phương ngữ không?

2.4.1. Sử dụng đúng kỹ thuật viện dẫn

Viện dẫn những quy định ở trong cùng văn bản hay từ các văn bản khác để soạn thảo văn bản là việc làm cần thiết. Đây là một trong những cách hiệu quả được dùng để loại bỏ sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản, các quy định, bảo đảm sự thống nhất của pháp luật. Tuy nhiên, việc sử dụng kỹ thuật viện dẫn không đúng có thể dẫn tới những hậu quả không tốt như việc áp dụng sai pháp luật, tình trạng mất thời gian khi tìm kiếm quy phạm được viện dẫn để áp dụng. Một trong những yêu cầu trước hết của viện dẫn là phải chỉ rõ quy định được viện dẫn. Nếu viện dẫn là một quy định đó chứ không nên viện dẫn tới toàn bộ văn bản để cho những người mà văn bản đó hướng tới phải tự tìm kiếm. Cách viện dẫn sau đây trong Bộ luật dân sự (BLDS) có thể được coi là một ví dụ. Điều 637 BLDS khi quy định về thừa kế quyền sử dụng đất đã viện dẫn đến Phần V của BLDS. "việc thừa kế quyền sử dụng đất được thực hiện theo các quy định cho phần V Bộ luật này". Phần V này gồm 5 chương và 54 điều gồm các Điều từ 590 đến 644. Sẽ chính xác và dễ áp dụng hơn nếu Điều 637 chỉ viện dẫn đến chương VI phần V của BLDS. Các chương còn lại của phần V BLDS không liên quan đến việc thừa kế quyền sử dụng đất.

Một yêu cầu khác của việc viện dẫn và quy định được việc viện dẫn. Một quy định xử phạt hành chính không thể viện dẫn đến một hình phạt quy định trong Bộ luật hình sự như là một chế tài cho bản thân nó.

2.4.2. Dùng câu ngắn với trật tự lôgic

Câu văn dài có thể gây sự khó hiểu và dễ mất đi tính chính xác. Nhiều người cho rằng pháp luật nước ta thường hay được diễn đạt dài dòng và khó hiểu. Điều này là thực tế và có cơ sở. Lý do chính là nhiều văn bản dùng câu quá dài. Quy định sau đây có thể là một ví dụ minh hoạ. "Đối với hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, các tổ chức hoặc cá nhân không được phép kinh doanh mà kinh doanh, hoặc được phép kinh doanh mà trong quá trình kinh doanh không thường xuyên đảm bảo các điều kiện quy định cho loại hàng hoá, dịch vụ đó, đều coi là hành vi kinh doanh trái phép, tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành". (Điều 15 Nghị định số 36-CP ngày 5 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ). Câu văn này dài và khó, có nhiều chỗ trùng lặp nhau có thể tránh. Trước hết cần tránh cụm từ kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ được lặp lại nhiều lần và sau đó có thể rút ngắn đoạn văn này như sau: "Việc kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ có điều kiện khi không được phép hoặc không đảm bảo các yêu cầu quy định đối với hàng hoá dịch vụ đó đều bị coi là hành vi kinh doanh trái phép và có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ theo mức độ vi phạm". Quy định này từ chỗ diễn đạt bằng 90 từ được rút ngắn còn 60 từ.

Sử dụng các câu ngắn, tránh các câu dài lê thê cũng là một phương pháp làm cho văn bản cần soạn thảo cô đọng, chính xác, các quy định ban hành ra dễ được hiểu đúng bởi các đối tượng mà chúng hướng tới. Có những lý do sau đây khiến chúng ta nên tránh các câu dài. Thứ nhất, về bản chất, các quy định pháp lý vốn rất khó. Vì vậy việc diễn đạt các quy định pháp lý bằng những câu văn dài càng làm cho chúng trở nên khó hiểu hơn nữa; Thứ hai, người soạn thảo khi dùng các câu dài thường vi phạm các quy tắc ngữ pháp một cách vô thức; Thứ ba, những đối tượng mà các quy định pháp luật hướng tới phần lớn không phải là các luật gia hay những đối tượng có trình độ am hiểu sâu về pháp luật. Vì vậy, các quy định pháp luật được thể hiện càng ngắn gọn thì càng có hiệu quả cao về khả năng tiếp nhận từ phía đối tượng.

Các quy định trong pháp luật hiện hành của nước ta thường được diễn đạt bằng các câu văn. Quy định sau đây trong Thông tư số 01-NH5/TT ngày 28/4/1995 có thể được coi là một ví dụ. "Văn phòng đại diện phải đăng ký với Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở về số người nước ngoài làm việc tại văn phòng đại diện (bao gồm người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài) theo số lượng quy định tại Giấy phép; số người Việt Nam làm việc tại văn phòng đại diện và có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho những người làm việc tại văn phòng đại diện thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp Thuế Thu nhập theo luật định". Quy định này có thể được diễn đạt chính xác hơn bằng các câu ngắn sau mà vẫn không làm thay đổi nội dung của nó.

* Văn phòng đại diện phải:

- Đăng ký với Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở, số người làm việc tại văn phòng, bao gồm cả người nước ngoài được quy định tại Giấy phép và người Việt Nam..

- Tạo điều kiện thuận lợi cho những người làm việc tại văn phòng đại diện thực hiện nghĩa vụ nộp Thuế Thu nhập theo luật định. Trên thực tế chúng ta rút quy định này từ 96 từ xuống còn 69 từ tức gần 1/3 mà nội dung của quy định không thay đổi.

2.4.3 Sử dụng tích cực kỹ thuật trình bày so le

Trình bày so le là cách phân các ý theo một trật tự hình thức mà mỗi ý, tuỳ theo vị trí của nó trong nội dung của quy định cần soạn thảo, sẽ được thể hiện bằng các ký hiệu riêng. Phương pháp trình bày so le giúp giảm bớt các từ ngữ thông thường, tăng khả năng hiểu của người đọc nhờ vào hình thức trình bày. Chính vì vậy, phương pháp trình bày so le được dùng khá phổ biến trong các văn bản. Trong Bộ luật dân sự phương pháp này cũng được sử dụng khá nhiều. Ví dụ, Điều 745 BLDS được trình bày như sau :

"Điều 745. Tác giả

 

Tác giả là người trực tiếp sáng tạo toàn bộ hay một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.

Những người sau đây cũng được công nhận là tác giả

Người dịch tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là tác giả của tác phẩm dịch đó;

Người phóng tác từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển thể tác phẩm từ loại hình này sang loại hình khác là tác giả của tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể đó;

c. Người biên soạn, chú giải, tuyển chọn tác phẩm của người khác thành tác phẩm có tính sáng tạo là tác giả của tác phẩm biên soạn, chú giải, tuyển chọn đó".

Trong soạn thảo văn bản pháp luật, khi gặp phải những vấn đề phức tạp, liên quan nhiều sự vật thì nên sử dụng phương pháp trình bày so le. Quy định sau đây của Luật Công ty (1990) có thể được trình bày ngắn gọn và dễ hiểu hơn bằng phương pháp nói trên. Điều 45 Luật công ty (1990) quy định: "Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấp giấy phép thành lập công ty; không cấp giấy phép, giấy đăng ký kinh doanh cho người, tổ chức đủ điều kiện thành lập công ty hoặc đăng ký kinh doanh; chứng nhận sai về số vốn gửi ở ngân hàng hoặc về giá trị tài sản bằng hiện vật của công ty, hoặc vi phạm các quy định khác của luật này, thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật". Nếu sử dụng phương pháp trình bày so le chúng ta sẽ có thể soạn thảo quy định đó như sau:

" Tuỳ theo mức nặng nhẹ, các hành vi sau đây sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự:

 

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn:

Cấp giấy phép thành lập công ty cho người, tổ chức bị cấm hoặc không được phép thành lập công ty;

Không cấp giấy phép thành lập hay giấy phép kinh doanh cho người, tổ chức đủ điều kiện thành lập công ty hoặc đăng ký kinh doanh;

Chứng nhận sai về vốn gửi ở ngân hàng hoặc giá trị tài sản bằng hiện vật của công ty.

b. Vi phạm các quy định khác của Luật công ty

".

 

2.4.4. Tránh lặp các từ, cụm từ hay thuật ngữ đồng nghĩa hoặc các cụm từ vô nghĩa.

Trong thực tế, nhiều nhà soạn thảo mang văn nói vào trong các văn bản pháp luật. Chính vì thế mà một số văn bản pháp luật chứa đựng những câu văn ít nghĩa nhưng lắm từ. Lý do chính là do những người soạn thảo nhiều khi không chú ý tránh lặp lại những khái niệm có cùng nội dung. Ví dụ, "Hợp đồng kinh tế là sự thảo thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến độ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác nhằm mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình". (Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế). Nếu biết cách tránh lặp lại các thuật ngữ có cùng nội dung sẽ rút ngắn được hình thức thể hiện quy phạm pháp luật và làm cho quy phạm trở nên chính xác và dễ hiểu hơn. Trong quy định nêu trên của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì thuật ngữ văn bản và tài liệu là thuật ngữ đồng nghĩa. Mặt khác, quy định này liệt kê các hoạt động song không thể liệt kê hết nên mức độ khái quát của nó không cao. Định nghĩa của BLDS về hợp đồng có mức độ khái quát cao và chính xác hơn. "Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự". (Điều 394 BLDS). Tính chất khái quát của Điều 394 BLDS thể hiện ở chỗ nó không liệt kê, không dùng các cụm từ đồng nghĩa để miêu tả một khái niệm pháp lý mà chỉ khái quát bản chất của khái niệm.

Điều 9 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động cũng có thể rút ngắn hơn bằng cách tiếp cận như vậy. Điều 9 Pháp lệnh quy định như sau: "Bản án, quyết định về vụ án lao động của toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân tôn trọng; người lao động, tập thể lao động, người sử dụng lao động và các cơ quan tổ chức, đơn vị có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành". Quy định này của Điều 9 Pháp lệnh có thể được diễn đạt như sau mà nội dung không hề bị thay đổi: "Bản án, quyết định của toà án phải được chấp hành nghiêm chỉnh bởi các đương sự thụ án và phải được tôn trọng bởi mọi tổ chức, cơ quan và cá nhân". Nếu diễn đạt theo cách này thì chúng ta rút gọn quy định được diễn đạt bằng 88 từ xuống còn 33 từ. Quy định được rút gọn này không liệt kê các đối tượng phải thụ án và các đối tượng có nghĩa vụ phải tôn trọng bản án, quyết định của toà án mà đưa ra những khái niệm có nội hàm lớn hơn, bao quát hơn. Chẳng hạn, khái niệm mọi tổ chức, cá nhân có thể bao hàm hết các chủ thể của pháp luật, kể cả những tổ chức, cá nhân nước ngoài. Chính vì lý do đó, phạm vi hiệu lực về chủ thể của quy định này rộng hơn nhiều so với bản thân quy định của Điều 9 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động.

Trong bất cứ ngôn ngữ của nước nào cũng chứa đựng các từ và thuật ngữ pháp lý đồng nghĩa. Vì vậy, nếu trong trường hợp cần diễn đạt một khái niệm nào đó nhiều lần thì người soạn thảo nên tìm cách sử dụng các từ, khái niệm pháp lý đồng nghĩa khác. Làm như vậy quy định cần soạn thảo vẫn không thay đổi nội dung song sẽ súc tích hay và mạch lạc hơn. Chẳng hạn, nếu như chúng ta thay một vài từ trong Điều 83 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động thì quy định của Điều 83 này mạch lạc hơn.

Trong bất cứ ngôn ngữ của nước nào cũng chứa đựng các từ và thuật ngữ pháp lý đồng nghĩa. Vì vậy, nếu trong trường hợp cần diễn đạt một khái niệm nào đó nhiều lần thì người soạn thảo nên tìm cách sử dụng các từ, khái niệm pháp lý đồng nghĩa khác. Làm như vậy quy định cần soạn thảo vẫn không thay đổi nội dung song sẽ súc tích hay và mạch lạc hơn. Chẳng hạn, nếu như chúng ta thay một vài từ trong Điều 83 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động thì quy định của Điều 83 này mạch lạc hơn. Điều 83 Pháp lệnh được diễn đạt như sau : "Việc hòa giải tự nguyện giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động được ưu tiên giải quyết trước khi Tòa án ra quyết định giải quyết cuộc đình công". Chúng ta thử thay một vài từ đồng nghĩa ở trong quy định bằng những từ đồng nghĩa khác và so sánh tính chính xác giữa quy định của Điều 83 mới và Điều 83 đã được sửa. "Việc tự nguyện hòa giải giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động được Tòa án ưu tiên xem xét trước khi ra quyết định giải quyết đình công". Theo chúng tôi, thuật ngữ xem xét và giải quyết ở trong chừng mực nhất định có nội dung tương đồng. Tuy nhiên, trong văn cảnh của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động và cụ thể là văn cảnh của Điều 83 thì việc thay giải quyết bằng xem xét vừa chính xác hơn, vừa làm cho diễn đạt của quy định này mạch lạc hơn do tránh lặp đi, lặp lại khái niệm giải quyết.

Một cách thức khác để nâng cao độ chính xác trong việc diễn đạt các quy định của pháp luật là tránh lặp lại những từ không cần thiết hoặc chọn những từ ngắn nhất để diễn đạt quy định cần soạn thảo. Ví dụ: Trong một số văn bản pháp luật đã ban hành các cụm từ sau đây thường được sử dụng: Khẳng định lại một lần nữa, tăng cường đẩy mạnh, đường quốc lộ I, vô hiệu và không có giá trị pháp lý v.v... Chẳng hạn, không nên dùng: "Trong những trường hợp khi các bên không thỏa thuận địa điểm thực hiện hợp đồng thì địa điểm thực hiện hợp đồng là kho của bên giao hàng"... mà nên dùng "Khi các bên không thỏa thuận địa điểm thực hiện hợp đồng thì địa điểm thực hiện hợp đồng là kho của bên giao hàng". Khái niệm trong trường hợpkhi có nội dung tương đồng nhau.

 

Về thẩm quyền và quy trình ban hành

văn bản quy phạm pháp luật

của các cấp chính quyền địa phương

 

Nguyễn Thạc Nhượng

Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh

 

Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật những năm gần đây được Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng, đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc và có hệ thống cho mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đặc biệt Quốc hội đã ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12-11-1996 nhằm thống nhất thẩm quyền và quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tạo ra một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất, đồng bộ và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn.

Tuy nhiên Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới dừng lại ở thẩm quyền và quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương. Đối với địa phương Luật chỉ xác định các nguyên tắc chung làm cơ sở để sau này xây dựng Luật (hoặc Pháp lệnh) ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp chính quyền địa phương. Vì vậy, chúng ta cần ngiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp.

 

I. Cơ sở lý luận

Trước tiên chúng ta xem xét về Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua tháng 11-1996.

Tại Điều 1: Nói về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật : "là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một thủ tục trình tự nhất định...".

Như vậy chủ thể của văn bản phải là "cơ quan nhà nước" nhưng tại Khoản 2 - Điều 1- Mục a, b, c lại ghi: Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật. Vậy Chủ tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có phải là cơ quan nhà nước hay không?

Có thể nói ngay tại Điều 1 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa phân biệt rõ khái niệm "cơ quan nhà nước" với khái niệm "người đứng đầu cơ quan nhà nước". Đây là 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau, độc lập với nhau. Để dẫn đến những quy định sau của Luật về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của "cơ quan nhà nước" và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan nhà nước có coi là quy phạm pháp luật hay không? Nếu đã khẳng định văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì văn bản do người đứng đầu cơ quan nhà nước ở trên không phải là văn bản quy phạm pháp luật.

Trong thực tiễn để điều hành hoạt động của cơ quan nhà nước ở Trung ương. Đặc biệt vai trò của Thủ tướng Chính phủ điều hành hoạt động của Chính phủ có rất nhiều Quyết định, Chỉ thị có chức đựng các quy phạm pháp luật trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng (ngay trên Công báo của Văn phòng Chính phủ đã thể hiện rất nhiều Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ là văn bản quy phạm pháp luật). Các văn bản đó đáp ứng kịp thời, điều hành hoạt động của đất nước trong công cuộc đổi mới.

Nhưng cũng tại Điều 1 và Điều 3 (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật) chỉ quy định nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân mới là văn bản quy phạm pháp luật (vì nó đúng nguyên nghĩa là cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Còn Quyết định, Chỉ thị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì Luật không ghi coi đó là văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy còn hạn chế tính năng động, sáng tạo, kịp thời sự điều hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp hay không? Trong khi Đảng và Nhà nước đang tăng cường vai trò lãnh đạo điều hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp (Điều 52 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân các cấp ngày 21-6-1994).

Trong thực tiễn thì Chỉ thị chỉ có Thủ tướng Chính phủ - Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ ban hành là văn bản quy phạm pháp luật. Còn Chỉ thị của Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương không có. Hoặc chỉ có Chỉ thị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, chứ không có Chỉ thị của của Uỷ ban nhân dân ban hành. Văn bản đó là sự chỉ đạo, điều hành, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân.

Từ những sự phân tích các xung đột về thẩm quyền ban hành văn bản ở trên có nên sửa lại Điều 1 để khẳng định văn bản quy phạm pháp luật là của "cơ quan nhà nước, Thủ trưởng cơ quan nhà nước" có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Có như vậy mới tạo sự thống nhất đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước.

 

II. tham gia xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HDND, Uỷ ban nhân dân các cấp

1. Về cơ sở lý luận

Hội đồng nhân dân được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương do vậy có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương mình. Trên cơ sở không được trái với văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên. vậy Hội đồng nhân dân có thẩm quyền ra Nghị quyết quy định trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng - trật tự an toàn xã hội ở địa phương cho phù hợp. Nhiệm vụ này được quy định tại Chương 2 - Mục 1 - Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ngày 21-6-1994 đã được Quốc hội khoá IX thông qua quy định tại Điều 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18 và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp.

Mặt khác, Điều 1 - Khoản 3 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật tháng 11-1996 có nêu Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân có chứa quy tắc xử sự chung, được ban hành theo một thủ tục, trình tự luật định. Đó là văn bản quy phạm.

Trong thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân đã phải bàn đến và có những quyết sách đối với các lĩnh vực đời sống xã hội ở địa phương mình. Như quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm hoặc quy hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn: 5 năm, 10 năm; phê duyệt dự toán ngân sách. Bàn các biện pháp, chủ trương lớn quản lý sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường..., Nghị quyết của Hội đồng nhân dân đã thực sự bám sát được đặc điểm, tình hình địa phương để ra chủ trương đúng đắn, phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội - thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước trên cơ sở nguyên tắc không trái với quy định của cơ quan nhà nước cấp trên.

Cũng từ đó nhiệm vụ quyền hạn của Uỷ ban nhân dân được quy định tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (1994) tại Điều 43 đã quy định rất rõ. Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành. Tổ chức thực hiện quản lý nhà nước ở địa phương - thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân - Các văn bản pháp luật của Nhà nước cấp trên. Do vậy, Uỷ ban nhân dân phải cụ thể hoá đường lối - chủ trương của Đảng và Nhà nước. Do vậy, Uỷ ban nhân dân ra nhiều văn bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội - giữ vững an ninh quốc phòng ở địa phương. Xây dựng bộ máy chính quyền... Những văn bản của Uỷ ban nhân dân ban hành đã thực sự có hiệu quả trong điều hành hoạt động đối với các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng - Nhà nước. Đặc biệt là trong lĩnh vực chấp hành pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên.

Do vậy, việc Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật khẳng định Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết. Uỷ ban nhân dân có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hoàn toàn đúng đắn.

Đồng thời cần phải có Luật quy định về thủ tục, trình tự, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp. Có như vậy mới tạo sự thống nhất và quản lý thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.

2. Thực tiễn công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương (Bắc ninh)

- Qua 2 năm (1997 - 1998) tiến hành tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Hà Bắc (cũ) ban hành từ 7-1976 đến 12-1996 theo Quyết định 355/TTg ngày 28-5-1997 của Thủ tướng Chính phủ.

- Ban chỉ tổng rà soát văn bản tỉnh Bắc Ninh đã phải rà soát toàn bộ số lượng văn bản của tỉnh Hà Bắn (cũ). Đến nay đã tổ chức tổng kết xong (22-10-1998.

Kết quả: Tổng số văn bản các loại của Hà Bắc ban hành trong năm là 43.041 văn bản.

Trong đó: phân loại 484 văn bản quy phạm pháp luật.

+ Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh: 26 văn bản;

+ Thông tư của Uỷ ban nhân dân tỉnh: 12 văn bản;

+ Chỉ thị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh: 85 văn bản;

+ Quyết định của Uỷ ban - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh: 314 văn bản;

+ Công văn - Thông báo: 47 văn bản.

Qua tổng kết thấy rằng tỷ lệ sai sót không nhiều, chủ yếu là về hình thức văn bản - thẩm quyền ra văn bản. Chỉ có 4 loại văn bản khoản mục trái với văn bản cấp trên. Nhưng khi ban hành đã được xem xét sửa.

Khi tỉnh Bắc Ninh tái lập thì năm 1997 vẫn áp dụng một số văn bản mới của tỉnh Hà Bắc cũ. Song Uỷ ban nhân dân tỉnh đã giao cho các ngành liên quan rà soát - soạn thảo văn bản mới để Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành mới để hợp pháp hoá.

Trong năm 1997 đã ban hành 37 văn bản quy phạm pháp luật trên một số lĩnh vực cấp bách. (Sở Tư pháp đã xuất bản tập văn bản trên vào cuối năm 1997 - trang bị trở lại cho các ngành, Uỷ ban nhân dân từ huyện đến xã để đưa vào tủ sách pháp luật). Năm 1998 tỉnh Bắc Ninh ban hành 40 văn bản quy phạm pháp luật (Sở Tư pháp đang tập hợp cho xuất bản).

Năm 1998 Sở Tư pháp đã tổ chức kiểm tra công tác xây dựng văn bản của 6 huyện, thị kết quả như sau:

Tổng số văn bản 6 huyện, thị ban hành: 7.863 văn bản.

Trong đó văn bản quy phạm pháp luật 57 văn bản, trong 57 văn bản này có 20 văn bản sai phạm = 35%

Sai phạm 3.009 văn bản = 38,7%, sai về nội dung 79 văn bản, sai hình thức là 2.960 văn bản.

Trong số sai sót về văn bản ở cấp huyện chủ yếu thì chủ yếu là sai lớn nhất là về hình thức văn bản, thẩm quyền hình thức, thẩm quyền về nội dung - văn bản quy phạm thiếu can cứ ban hành, hoặc căn cứ ban hành đã hết hiệu lực. Số văn bản trái thẩm (6 văn bản) chủ yếu cắt đất đắp đê theo chỉ tiêu trên giao (thẩm quyền này thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc Chính phủ).

Do việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương Bắc Ninh còn nhiều sai sót trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp phải có hướng dẫn quy trình soạn thảo thống nhất. Sau khi ngiên cứu, tham khảo, khảo sát thực tế Sở Tư pháp đã giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 91/QĐ-UB ngày 31-10-1998 quy định về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân các cấp.

Về quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương thì căn các vào Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp năm 1994 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 thì Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp được ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vậy thủ tục cần có quy định thống nhất - đẩm bảo chặt chẽ - thông thoáng - nhanh không rườm rà.

Cần qua ba giai đoạn sau đây:

Giai đoạn 1: Uỷ ban nhân dân giao nhiệm vụ cho một cơ quan hoặc thành lập Ban soạn thảo văn bản để trình Uỷ ban nhân dân. Cơ quan chủ trì soạn thảo hoặc Ban soạn thảo phải tập hợp văn bản làm căn cứ ban hành. Khảo sát tình hình thực tế về kinh tế - xã hội - an ninh... liên quan đến văn bản sẽ ban hành xây dựng dự thảo văn bản.

Giai đoạn 2: tham gia ý kiến xây dựng dự thảo văn bản. Cơ quan chủ trì hoặc Ban soạn thảo văn bản, nếu thấy cần thiết tổ chức lấy ý kiến trong nhân dân, hoặc cơ quan có liên quan hoặc tổ chức hội thảo, tham gia ý kiến.

Giai đoạn 3: Xem xét về mặt pháp lý văn bản quy phạm pháp luật. Phần này Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định khá chi tiết chặt chẽ, bởi lẽ ở Quốc hội có các cơ quan làm nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật.

Nhưng ở địa phương nên giao cho cơ quan Tư pháp (văn bản của Uỷ ban nhân dân) giao cho Ban pháp chế - kinh tế ngân sách - văn hoá xã hội cùng phối hợp nếu là Nghị quyết của hội đồng nhân dân.

Trong lĩnh vực này cơ quan Tư pháp địa phương với tư cách giúp Uỷ ban nhân dân quản lý công tác Tư pháp địa phương.

Tại Thông tư số 12/TTLB ngày 26-7-1993 liên Bộ Tư pháp - Ban tổ chức cán bộ Chính phủ thì quy định: Sở Tư pháp chủ trì hoặc tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân, đồng thời tham gia về mặt pháp lý của văn bản - Phòng Tư pháp và Ban Tư pháp cũng tương tự.

Theo tôi việc cơ quan Tư pháp địa phương chỉ nên làm nhiệm vụ xem xét về mặt pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân chứ không làm nhiệm vụ thẩm định văn bản. Bởi lẽ văn bản liên quan đến diện rộng - nhiều chính sách xã hội phức tạp mà ngành Tư pháp không thể với tới. Chỉ riêng có ý kiến về mặt pháp lý có thể văn bản sự thảo như:

+ Hình thức văn bản;

+ Tính hợp hiến, hợp pháp;

+ bố cục, từ ngữ pháp lý.

Như vậy trách nhiệm cơ quan Tư pháp địa phương rất nặng nề, vừa có thể chủ trì soạn thảo, vừa phối hợp soạn thảo. Đồng thời buộc phải có ý kiến về mặt pháp lý đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân.

Nhưng thực tế việc Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã chưa phải cấp chính quyền hoàn chỉnh, vậy có nên cho Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay không là điều cần phải cân nhắc. Mặt khác cán bộ Tư pháp xã có khả năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật như Thông tư 12 áp dụng hay không? Theo chúng tôi cán bộ Tư pháp xã chưa đủ sức làm nhiệm vụ này.

 

 

 

 

 

ban hành văn bản quy phạm pháp luật

ở địa phương Hải phòng

 

Nguyễn Năng Thính

Giám đốc Sở Tư pháp - Hải Phòng

 

Một trong những phương tiện quạn trọng, giữ vị trí hàng đầu trong hoạt động quản lý nhà nước là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Bằng cách đặt ra những quy tắc xử sự chung, điều chỉnh các loại quan hệ xã hội, được Nhà nước bảo đảm thực hiện, các văn bản quy phạm pháp luật tác động, có ảnh hưởng lớn trong việc thiết lập, duy trì trật tự và phát triển kinh tế - xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng được đưa vào đời sống xã hội chủ yếu bằng con đường thể chế hoá thành các văn bản quy phạm pháp luật. Do vị trí, tính chất quan trọng của văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước, thời gian qua hoạt động xây dựng pháp luật được Đảng và Nhà nước chú trọng, nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, là cơ sở để đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta bao gồm văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương và các cấp chính quyền ở địa phương ban hành. Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành thương có hiệu lực trêm phạm vi cả nước, có nhiều quy định mang tính chất quy định khung, nhiều vấn đề nẩy sinh trong thực tế, mang tính đặc thù của từng địa phương cụ thể, các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương không thể quy định chi tiết, không thể phản ánh đầy đủ các đặc thù đó. Văn bản quy phạm pháp luật do các cấp chính quyền ở địa phương ban hành là bộ phận quan trọng bổ sung, khắc phục những hạn chế nêu trên. Đặc trưng cơ bản của các quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương ban hành là: quy định biện pháp tổ chức thực hiện hoặc căn cứ tình hình thực tế ở địa phương chi tiết hoá các quy định tại văn bản pháp luật đã được cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành. Ngoài ra, các cấp chính quyền Nhà nước ở địa phương có nhiệm vụ ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hoá Nghị quyết của cấp Đảng uỷ địa phương. Với tính chất, đặc điểm đó, có thể khẳng định rằng văn bản quy phạm pháp luật do các cấp chính quyền địa phương ban hành là bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật của Nhà nước.

Trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương, nguyên tắc xuyên suốt là văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành không được trái Hiến pháp, Luật, các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên đã ban hành. Nguyên tắc đó nhằm bảo đảm tính thống nhất nội tại của hệ thống pháp luật. đảm bảo tính tập trung thống nhất trong hoạt động quản lý, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các cấp chính quyền Nhà nước ở địa phương phát huy tính chủ động, sáng tạo, phát huy hiệu lực của hệ thống pháp luật trong hoạt động quản lý.

Quán triệt nguyên tắc cơ bản trên, hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền Nhà nước ở Hải Phòng từng bước đi vào nề nếp và đạt được những thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên, do hoàn cảch lịch sử chung, mức độ quan tâm và kết quả đạt được trong công tác quản lý việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương trong từng giai đoạn có khác nhau. Qua công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật ở thành phố, đặc biệt qua hai đợt rà soát tập trung.

+ Đợt 1: Rà soát theo yêu cầu của Chỉ thị số 166/CT ngày 20-9-1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ);

+ Đợt 2: Tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật theo Quyết định số 355/TTg ngày 28-5-1997 của Thủ tướng Chính phủ.

Qua hai đợt rà soát văn bản quy phạm pháp luật cho thấy: hệ thống văn bản pháp quy được các cấp chính quyền Nhà nước ở địa phương ban hành có thể chia thành hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn có đặc điểm khác nhau nhưng thể hiện sự tiến bộ rõ rệt cả về kỹ thuật soạn thảo và chất lượng của văn bản pháp quy, vai trò của ngành Tư pháp địa phương nói chung, Sở Tư pháp Hải Phòng nói riêng từng bước được khẳng định. Quan trọng hơn cả là hệ thống văn bản pháp quy trong từng giai đoạn góp phần tích cực trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố.

Tính từ ngày 02-7-1976 đến hết ngày 31-12-1997 (thực hiện đợt tổng rà soát văn bản pháp quy theo Quyết định số 355/TTg của Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố đã ban hành 1.017 văn bản pháp quy.

+ Giai đoạn thứ nhất (từ ngày 02-7-1976 đến ngày 24-4-1993) ban hành tất cả là 677 văn bản;

+ Giai đoạn thứ hai (từ ngày 24-4-1993 đến ngày 31-12-1997) đã ban hành 340 văn bản.

Như vậy, tính trung bình mỗi năm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành khoảng 45 đến 50 văn bản pháp quy. Trong số văn bản nói trên, các văn bản phục vụ cho quản lý kinh tế chiếm từ 56% đến 63%, quản lý các hoạt động sự nghiệp chiếm khoảng 19% đến 21%, quản lý nhà nước, an ninh, quốc phòng... chiếm khoảng 18% dến 22%. Nhìn chung, tỷ lệ văn bản pháp quy của địa phương phục vụ quản lý các lĩnh vực như vậy là hợp lý, đáp ứng được nhu cầu quản lý ở địa phương. Dưới đây là một số nhận xét khái quát về tình hình quản lý việc ban hành văn bản pháp quy trong từng giai đoạn.

a. ở Giai đoạn thứ nhất: phần lớn các văn bản pháp quy được ban hành trong giai đoạn này phù hợp về thẩm quyền cả nđ lẫn hình thức, có chế tài phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo tính thống nhất của pháp chế. Văn bản pháp quy do địa phương ban hành đã góp phần tạo phương tiện, cơ sở pháp lý quan trọng trong hoạt động quản lý, khắc phục những hạn chế trong bối cảnh hệ thống pháp luật của Nhà nước còn thiếu, chưa đồng bộ. Tuy nhiên, việc ban hành văn bản pháp quy ở địa phương hầu như chưa được kế hoạch hóa, mang nặng tính "thời vụ" , "cần gì làm nấy", không tránh khỏi tình trạng văn bản được ban hành chồng chéo, phủ định lẫn nhau nhưng vẫn cùng tồn tại, làm cho hệ thống văn bản pháp quy ở địa phương thiếu tính thống nhất, còn "chắp vá".

Tình trạng ban hành văn bản pháp quy không đúng thẩm quyền, sai hình thức còn nhiều. Về nội dung, vẫn có văn bản được ban hành không đúng nguyên tắc pháp luật hoặc cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn bản pháp quy nhưng cứ ban hành và tổ chức thực hiện, điển hình là việc ban hành văn bản quy định về hành vi hành chính, hình thức và mức xử phạt, việc quy định chế tài áp dụng còn lẫn lộn giữa chế tài hành chính với chế tài kỷ luật, thậm chí cả chế tài hình sự hay dân sự. Về hình thức, nhiều văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật được ban hành dưới hình thức công văn, thông báo thậm chí dưới hình thức Thông tư, từ trình được phê duyệt đồng ý và cứ thế áp dụng. Rồi những vấn đề kỹ thuật soạn thảo, xác định hiệu lực của văn bản pháp quy, việc lưu trữ, tập hợp hệ thống các văn bản pháp quy, việc sà soát văn bản pháp quy đều bộ lộ những tồn tại cần khắc phục.

Do hoàn cảch lịch sử trong giai đoạn này ngành Tư pháp nói chung, Sở Tư pháp Hải Phòng nói riêng đối với việc quản lý công tác ban hành văn bản pháp quy còn mờ nhạt. Chỉ những năm sau năm 1982, khi Sở Tư pháp Hải Phòng được thành lập, trách nhiệm trong công tác quản lý văn bản pháp quy của Sở Tư pháp ở địa phương mới dần dần được khẳng định.

Trong giai đoạn này, ở Hải Phòng tuy chưa thành quy định những việc ban hành văn bản pháp quy thường tiến hành theo trình tự sau:

+ Đối văn bản pháp quy có đối tượng, phạm vi điều chỉnh rộng hoặc điều chỉnh những vấn đề quan trọng thì Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố thường giao cho một cơ quan chủ trì, thành lập một nhóm chuyên viên thực hiện soạn thảo, tuỳ theo yêu cầu có thể lấy ý kiến của một số ngành hữu quan hoặc lấy ý kiến của một bộ phận quần chúng nhân dân, sau đó làm thủ tục trình duyệt và ban hành.

+ Những văn bản đơn giản, ít quy phạm thường do chuyên viên Văn phòng Uỷ ban nhân dân soạn thảo, trình Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch phụ trách ký ban hành ngay. Tuỳ theo tính chất của từng văn bản, Sở Tư pháp có thể trực tiếp soạn thảo, tham gia soạn thảo hoặc tham gia ý kiến vào dự thảo. Nhưng vì chưa thành quy định nên không ít văn bản pháp quy được ban hành những Sở Tư pháp không được biết, khi phát hiện sai phạm thì mới tìm biện pháp khắc phục, thành ra hiệu lực của văn bản pháp quy thiếu tính thuyết phục. Trong thời kỳ này, Văn phòng Uỷ ban nhân dân thành phố thường giữ vai trò là người thẩm định trước khi trình ký, ban hành, do không có trình độ chuyên môn nên khó tránh khỏi những sai sót về nguyên tắc pháp luật. Mặc dù vậy, với hoàn cảch lịch sử lúc đó, nhìn tổng quát thì quy trình trên tương đối phù hợp.

Trên thực tế, quy trình đó cũng mới chỉ áp dụng ở cấp thành phố, còn ở các huyện, quận, thị xã, xã, phường, thị trấn việc quản lý xây dựng và ban hành văn bản pháp quy còn rất yếu. Phòng Tư pháp ở cấp huyện, Ban Tư pháp ở cấp xã đều mới được thành lập lại, cán bộ còn hạn chế về năng lực và trình độ nghiệp vụ, có nơi hoàn toàn buông lỏng quản lý nên việc ban hành văn bản pháp quy còn tuỳ tiện, thậm trí vi phạm pháp luật, vô hiệu hoá văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên mà không biết.

b. Giai đoạn thứ hai: Sau đợt rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật theo Chỉ thị số 166/CT ngày 20-6-1989, rút kinh nghiệm từ tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, trong lúc chờ Nhà nước ban hành Luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền ở địa phương, nhằm tăng cường công tác quản lý thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Sở Tư pháp Hải Phòng đã chủ động soạn thảo, tranh thủ ý kiến của Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan, trình Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành Quy chế quản lý thống nhất việc ban hành văn bản pháp quy ở địa phương (theo Quyết định số 947/QĐ-UB ngày 24-4-1993 của Uỷ ban nhân dân thành phố). Theo Quy chế này, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương phải đảm bảo 5 nguyên tắc:

Theo chương trình, kế hoạch đã được duyệt;

Đúng thẩm quyền và hình thức, thủ tục quy định;

Không trái với Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

Chỉ bị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản đó, hoặc bị huỷ hay bãi bỏ bằng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên;

Hiệu lực của văn bản phải được định rõ trong văn bản.

Những nguyên tắc đó là cơ sở pháp lý định hướng trong cả quá trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, là cơ sở để hình thành các nội dung quản lý, đưa công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương từng bước đi vào nề nếp.

Ngành Tư pháp ở địa phương được xác định là cơ quan chuyên môn, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý thống nhất việc ban hành văn bản pháp quy ở địa phương. Ngay từ khâu xây dựng chương trình, lập kế hoạch ban hành văn bản pháp quy cơ quan Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn các ngành, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc lập kế hoạch, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chương trình, kế hoạch đã được duyệt. Tuy nhiên, trong việc xây dựng chương trình, lập kế hoạch ban hành văn bản pháp quy ở địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Do văn bản pháp quy ở địa phương ban hành thường đề ra biện pháp tổ chức thực hiện hoặc quy định chi tiết việc thi hành văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương ban hành, trong khi đó ở chỉ Trung ương mới kế hoạch hoá được chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, địa phương chưa nhận được chương trình xây dựng pháp luật của Chính phủ, các Bộ và cơ quan nhà nước khác ở Trung ương. Vì vậy, khó có thể kế hoạch hoá được công tác ban hành văn bản pháp quy ở địa phương. Mặt khác, các cơ quan quản lý ngành ở địa phương chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng hồ sơ nguyên tắc của cán bộ quản lý, tình trạng cán bộ quản lý không nắm vững trong lĩnh vực quản lý ngành có bao nhiêu văn bản pháp luật điều chỉnh, văn bản nào còn hiệu lực, bị bãi bỏ, thay thế, vấn đề gì chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh... nên chưa lập được kế hoạch xây dựng văn bản pháp quy phục vụ cho hoạt động quản lý ngành. Thực tế, Sở Tư pháp Hải Phòng đã rất cố gắng, bằng cách thường xuyên rà soát các văn bản pháp quy do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành, cập nhập các văn bản được cơ quan nhà nước Trung ương ban hành và các thông tin khác, cũng mới chỉ dự kiến được chương trình ban hành văn bản pháp quy ngắn hạn (từng quý hoặc 6 tháng). Việc tổ chức thực hiện các kế hoạch ngắn hạn này cũng còn gặp nhiều khó khăn, từ việc bố trí cán bộ đến các khâu bảo đảm cho thực hiện kế hoạch, có nhiều việc không thực hiện đúng tiến độ, thời gian đã xác định.

Trong quá trình tổ chức soạn thảo và trình dự thảo văn bản để cơ quan có thẩm quyền ban hành được thực hiện theo nguyên tắc: Văn bản pháp quy điều chỉnh các quan hệ thuộc lĩnh vực quản lý của ngành nào thì ngành đó có trách nhiệm chủ trì soạn thảo và đảm bảo tính hợp lý của văn bản, văn bản điều chỉnh những quan hệ có liên quan đến nhiều ngành nhiều lĩnh vực thì giao cho một cơ quan chủ trì hay thành lập Tiểu ban soạn thảo. Riêng cơ quan Sở Tư pháp có trách nhiệm tham gia cả quá trình soạn thảo và đảm bảo tính hợp pháp của văn bản. Việc tổ chức lấy ý kiến tham gia thường căn cứ vào tính chất, phạm vi, đối tượng điều chỉnh của văn bản để tổ chức lấy ý kiến rộng hay hẹp, nhưng mọi dự thảo văn bản pháp quy nhất thiết phả có ý kiến của cơ quan Tư pháp cùng cấp. Khi trình ban hành gồm có từ trình, dự thảo và ý kiến của cơ quan Tư pháp về tính hợp của dự thảo. Văn bản pháp quy được ban hành phải chuyển về cơ quan Tư pháp cùng cấp để tập hợp, hệ thống hoá, theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch và phải gửi tới cơ quan Tư pháp cấp trên trực tiếp để thẩm định tính hợp pháp của văn bản.

Với chức năng giúp Uỷ ban nhân dân trong việc quản lý nhà nước đối với công tác ban hành văn bản pháp quy, cơ quan Tư pháp các cấp ở Hải Phòng có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc ban hành văn bản pháp quy, kịp thời phát hiện văn bản trái pháp luật, không phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền biện pháp xử lý thích hợp. Ngoài ra, cơ quan Tư pháp còn có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với các ngành hữu quan, thường xuyên rà soát, tập hợp và hệ thống hoá các văn bản pháp quy theo từng lĩnh vực.

Có thể khẳng định, từ khi quy chế hoá được ban hành văn bản pháp quy đến nay, việc xác định rõ chức năng của Sở Tư pháp Hải Phòng nói riêng, ngành Tư pháp ở địa phương nói chung, đã tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng văn bản pháp quy được ban hành, tăng cường hiệu lực quản lý, tạo cơ sở cho ngành Tư pháp địa phương hoàn thành nhiệm vụ. Với 340 văn bản pháp quy được Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành từ 24-4-1993 đến 31-12-1997, đã giảm hẳn tình trạng văn bản pháp quy được ban hành không đúng hình thức hoặc nội dung văn bản trái pháp luật hay không phù hợp với tình hình kinh tế xã hội. Tuy nhiên, do nhận thức, có một vài trường hợp, cơ quan quản lý ngành soạn thảo, trình Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành văn bản pháp quy không qua cơ quan Tư pháp để thẩm định tính hợp pháp, khi phát hiện những nội dung không phù hợp nguyên tắc pháp luật, Sở Tư pháp đều kịp thời phản ánh, kiến nghị với Uỷ ban nhân dân thành phố các biện pháp xử lý kịp thời. Thông qua hoạt động rà soát thường xuyên hệ thống văn bản pháp quy, việc tập hợp, hệ thống hoá và hàng quý in tập "văn bản pháp quy" do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố ban hành để phát hành đến cơ sở, Sở Tư pháp đã sàng lọc, kịp thời báo cáo Uỷ ban nhân dân thành phố loại bỏ những văn bản pháp quy đã lạc hậu, không phù hợp tình hình kinh tế xã hội ở địa phương, tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức ở địa phương có đầy đủ các văn bản đang có hiệu lực để tổ chức thực hiện.

ở các huyện, quận, thị xã; xã, phường, thị trấn đều có bước chuyển biến mới kể từ khi Quy chế quản lý thống nhất việc ban hành văn bản pháp quy được ban hành. Các phòng Tư pháp được tập huấn về nghiệp vụ soạn thảo văn bản, nắm chắc các nội dung quản lý, tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý công tác ban hành văn bản pháp quy ở địa phương mình. Cùng với việc tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản, xét điều kiện năng lực, trình độ pháp luật của cán bộ quản lý và tính chất của hoạt động quản lý cơ sở chủ yếu là tổ chức thực hiện các văn bản pháp quy của cơ quan nhà nước cấp trên, Hải Phòng thực hiện chủ trương tập trung việc ban hành văn bản pháp quy về cấp thành phố, nên trong giai đoạn từ 24-4-1993 đến nay đã hạn chế có hiệu quả tình trạng ban hành văn bản pháp quy có vi phạm pháp luật ở cơ sở. Hàng năm, Sở Tư pháp thường xuyên tổ chức kiểm tra công tác tư pháp, trong đó có công tác ban hành văn bản pháp quy, kịp thời chấn chỉnh những sai sót, lệch lạc trong hoạt động ban hành văn bản pháp quy của chính quyền Nhà nước cấp huyện và cấp xã.

Bên cạch việc tăng cường quản lý công tác ban hành văn bản pháp quy, Sở Tư pháp còn phối hợp chặt chẽ với ngành văn hoá - thông tin trong quản lý việc xây dựng và ban hành Hương ước ở các làng văn hoá. Mặc dù, chưa thành quy định nhưng cơ chế soạn thảo, thông qua, ban hành và phê duyệt các Hương ước làng đã hình thành. Ngay từ bước khảo sát, phát hiện và sàng lọc các phong tục, tập quán ở làng xã chưa được pháp luật quy định, đến quá trình soạn thảo, thông qua ở cộng đồng, báo cáo Uỷ ban nhân dân xã để trình Uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt đều có sự tham gia của các cán bộ Tư pháp xã và Phòng Tư pháp cấp huyện. Khi Hương ước được phê duyệt, chuẩn bị công bố đều gửi đến Sở Tư pháp để thẩm tra. Đến nay, ở Hải Phòng đã có 54 làng văn hoá với 54 Hương ước, tuy cách thể hiện đa dạng, phong phú, nhưng về cơ bản là phù hợp với pháp luật, phát huy cơ chế kết hợp giữa quản lý nhà nước của chính quyền Nhà nước ở cơ sở với tính tự quản của cộng đồng. Nếu không có cơ chế quản lý việc ban hành Hương ước, những văn bản mang tính quy phạm một cách chặt chẽ, sẽ dẫn đến tình trạng "lệ làng đè lên phép nước", vô hiệu hoá "phép nước". Để tránh tình trạng đó không thể thiếu vai trò của ngành Tư pháp.

Từ thực tế ở địa phương nêu khái quát như trên và kinh nghiệm rút ra từ hoạt động của ngành Tư pháp Hải Phòng, chúng tôi thấy một trong những yêu cầu bức xúc là sớm có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền Nhà nước địa phương. Về thẩm quyền ban hành văn bản pháp quy nên tập trung vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và cũng chỉ nên mở đến cấp huyện. Trong đó cần phân định rõ thẩm quyền về nội dung và hình thức. Để tránh tình trạng ban hành văn bản tuỳ tiện, chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau, không nên để cơ quan quản lý ngành ở địa phương và Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành văn bản pháp quy. Đối với cơ quan quản lý ngành ở địa phương nếu có thì cũng chỉ ban hành văn bản hướng dẫn và phải đảm bảo nguyên tắc: Văn bản hướng dẫn chỉ được làm rõ các quy định đã có, không được đặt ra các quy định mới. Một vấn đề khác đòi hỏi cũng cần được xử lý khi ban hành Luật này là quy định về hiệu lực của văn bản pháp quy do các cấp chính quyền Nhà nước ở địa phương ban hành. Đặc biệt là văn bản pháp quy ở địa phương quy định biện pháp tổ chức thực hiện hoặc quy định chi tiết văn bản của cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành đã có hiệu lực trong một thời gian (thậm chí thời gian có hiệu lực khá dài), địa phương mới có văn bản, nếu sử dụng công thức: Văn bản do địa phương có hiệu lực từ ngày ký (hoặc sau ngày ký) ban hành trái văn bản của cấp trên về hiệu lực thời gian. Trong thực tế đã xảy ra tình trạng văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên ban hành đã có hiệu lực nhưng cơ quan nhà nước cấp dưới chưa có văn bản triển khai thi hành hoặc chưa quy định chi tiết thì coi như chưa được thi hành. Đến khi cấp dưới ra văn bản thì cả khoảng thời gian từ khi văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên có hiệu lực đến khi cấp dưới ra văn bản tổ chức thi hành không biết xử lý như thế nào. Ngoài ra, những vấn đề về kế hoạch hoá công tác ban hành văn bản, trình tự, thủ tục từ khâu lập kế hoạch đến khi trình, ban hành, lưu trữ, rà soát, hệ thống hoá, vai trò của ngành Tư pháp, mối quan hệ phối hợp giữa ngành Tư pháp với cơ quan quản lý ngành hữu quan, trách nhiệm thẩm định tính hợp pháp của dự thảo, thẩm tra tính hợp pháp của văn bản do cấp dưới đã ban hành cần được xác định rõ.

Cùng với việc quản lý ban hành văn bản pháp quy của các cấp chính quyền Nhà nước địa phương, chúng tôi nghĩ nếu không có văn bản pháp luật quy định riêng thì trong Đạo Luật nêu trên cần quy định mang tính nguyên tắc về chế độ thẩm định các Điều lệ, Quy chế của các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng, các Hương ước làng, Quy ước các khu dân cư mà các cấp chính quyền Nhà nước ở địa phương phải phê duyệt.

Thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật để tăng cường hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, bằng kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn của ngành Tư pháp Hải Phòng, mong được góp một vài khía cạch tạo cơ sở lý luận trong việc xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền Nhà nước ở địa phương.

 

Thực trạng công tác xây dựng văn bản

quy phạm pháp luật của tỉnh thanh hoá

một số kiến nghị đổi mới

 

Lê Duy Kính

P. Giám đốc Sở Tư pháp - Thanh Hoá

 

Trong đời sống xã hội văn bản quy phạm pháp luật giữ vai trò rất quan trọng, là phương tiện để thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội, là phương tiện để nhân dân lao động thể hiện ý chí và thực hiện quyền làm chủ của mình, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Vì vậy, tại Nghị quyết 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã nhấn mạnh "Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật" và coi đó là một trong những quan điểm quan trọng cần quán triệt trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước Việt Nam.

Nhận thức sâu sắc vai trò, ý nghĩa của việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý nhà nước ở địa phương, những năm qua Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã rất chú trọng đến công tác này. Bởi lẽ làm tốt công tác soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật sẽ tạo điều kiện để thực hiện các mục tiêu công tác quản lý nhà nước, góp phần điều chỉnh những quan hệ xã hội mới nảy sinh trong thực tế cuộc sống ở địa phương mà pháp luật chưa quy định hoặc còn thiếu cụ thể. Bằng việc ban hành những văn bản quy phạm pháp luật quy định tới một số nguyên tắc trong quá trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã bước đầu thiết lập được một hành lang pháp lý đưa việc ban hành văn bản quy phạm l trên địa bàn tỉnh đi vào nề nếp pháp luật (đó là Chỉ thị 04/VP - UBTH ngày 21-12-1998 về việc tăng cường quản lý công tác văn bản pháp quy, Quyết định 74/UBTH ngày 27-01-1994 quy định tạm thời một số chế độ làm việc của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá, Chỉ thị 13/UBTH ngày 11-8-1997 về việc chấn chỉnh một số điểm trong quan hệ làm việc giữa Thủ trưởng các ngành và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp). Điểm nổi bật nhất trong các quy định trên là việc Sơt Tư pháp có ý kiến thẩm định về mặt pháp lý đối với các văn bản quy phạm pháp luật do các ngành hoặc văn phòng Uỷ ban nhân dân dự thảo trước khi trình Chủ tịch hoặc Uỷ ban nhân dân ban hành.

Với tư cách là những người làm công tác thực tiễn, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thống nhất quản lý việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, chúng tôi xin được trình bày những vấn đề mà thực tiễn đang đạt ra trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.

 

I. Thực trạng công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hiện nay ở Thanh Hoá

1. Khái quát về số lượng văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành kể từ năm 1976 đến 1996

Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cùng với những thành tựu đạt được trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế ở địa phương, chính quyền các cấp đã rất quan tâm tới việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật trên địa bàn tỉnh.

Qua khảo sát ở một số huyện, thị trong tỉnh cũng như hệ thống hoá những văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành kể từ năm 19976 đến năm 1996 thấy rằng công tác ban hành văn bản đã được quan tâm đúng mức, có sự phát triển về số lượng, cũng như chất lượng ban hành và điều chỉnh trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Có thể minh họa cụ thể về số lượng văn bản được ban hành như sau:

- ở cấp tỉnh từ năm 1976 đến 1996 Hội đồng nhân dân Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành 38.442 văn bản, trong Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh là 37.507 văn bản và 911 Chỉ thị, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh là 24 văn bản. Qua phân loại đã có 825 văn bản là văn bản quy phạm pháp luật, còn lại là những văn bản cá biệt chỉ áp dụng cho những cá nhân nhất định hoặc những trường hợp riêng. Trong tổng số 825 văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, được phân loại như sau: Quyết định là 553 văn bản, Chỉ thị là 254 và công văn là 18 văn bản được phân biệt theo lĩnh vực ban hành như:

+ Lĩnh vực nông nghiệp 121 văn bản;

+ Lĩnh vực công nghiệp 126 văn bản;

+ Lĩnh vực tài chính thương nghiệp 153 văn bản;

+ Lĩnh vực văn phòng 9 văn bản;

+ Lĩnh vực an ninh quốc phòng 84 văn bản;

+ Lĩnh vực văn hoá xã hội 130 văn bản;

+ Lĩnh vực tổ chức 202 văn bản.

Tuy nhiên, nếu chỉ tính trong 5 năm trở lại đây (1992 - 1997) Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành 13.413 văn bản, trong đó những văn bản quy phạm pháp luật là 436 văn bản và tập trung chủ yếu ở hai hình thức văn bản Quyết định và Chỉ thị.

- Tình hình ban hành văn bản ở cấp huyện, xã thì theo báo cáo của các huyện, thị đại diện cho các vùng, miền trong tỉnh thì số liệu cho thấy được như sau:

+ Văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện Quan Hoá (huyện miền núi cao của tỉnh) ban hành từ năm 1992 đến năm 1997 (quý I) là 417 văn bản. Trong đó Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là 12 văn bản. Quyết định của Uỷ ban nhân dân là 327 văn bản và 33 Chỉ thị;

+ Văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện Hoằng Hoá (huyện miền biển) ban hành từ năm 1992 đến năm 1996 là 937 văn bản, trong đó Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là 21 văn bản, Quyết định của Uỷ ban nhân dân là 860 văn bản và 50 Chỉ thị.

Cũng qua khảo sát ở 48 xã thuộc huyện Hoằng Hoá thấy rằng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các xã đã ban hành 1990 văn bản, trong đó Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã là 142 văn bản, Quyết định của Uỷ ban nhân dân xã là 1728 văn bản và 120 Chỉ thị.

+ Văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện Thạch Thành ban hành từ năm 1992 đến 1997 là 1101 văn bản, trong đó Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là 21 văn bản, Quyết định của Uỷ ban nhân dân là 1037 văn bản và 43 Chỉ thị.

Cũng theo báo cáo chưa đầy đủ từ năm 1992 đến tháng 3-1997 các xã, thị trấn huyện Thạch Thành đã ban hành 1222 văn bản, trong đó Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là 440 văn bản, Quyết định của Uỷ ban nhân dân là 530 văn bản, Chỉ thị là 252 văn bản.

2. Thực trạng quy trình xây dựng và ban hành văn bản

Vấn đề trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm ppl, song thực tế ở địa phương (kể cả cấp tỉnh) còn thiếu những quy định cụ thể mang tính pháp lý về vấn đề này, dẫn đến quá trình xây dựng văn bản không có quy định cụ thể, không xác định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ trì trong việc soạn thảo, cơ quan có trách nhiệm phối hợp soạn thảo, cơ quan thẩm định, cơ quan ký ban hành văn bản, nên có thể thấy tình hình chung nổi lên xung quanh vấn đề này như sau:

- ở cấp huyện việc soạn thảo văn bản để trình Chủ tịch hoặc Uỷ ban nhân dân huyện thông qua ban hành thường Văn phòng Uỷ ban nhân dân hoặc các phòng chuyên môn dự thảo và trình trực tiếp. Các phòng không tự giác chuyển sang phòng Tư pháp thẩm định về tính pháp lý của văn bản trước khi trình ký, nên Phòng Tư pháp thẩm định khi có ý kiến của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp.

- ở cấp tỉnh thì thông thường văn phòng Uỷ ban nhân dân có tổ chức thư ký theo dõi các lĩnh vực, vì vậy khi văn bản do Chủ tịch hoặc Uỷ ban nhân dân ký ban hành có thể do chuyên viên thư ký trực tiếp dự thảo hoặc do ngành chuyên môn dự thảo và chuyên viên thư ký trình trực tiếp. Hiện nay, hầu hết những văn bản pháp quy do Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành đều có ý kiến thẩm định về mặt pháp lý của Sở Tư pháp. Song vì chưa có những quy định cụ thể, rõ ràng mang tính pháp lý bắt buộc nên không phải lúc nào, văn bản nào cũng được chuyển cho Sở Tư pháp thẩm định. Nên những văn bản khi phát hiện vi phạm hoặc chồng chéo đều thấy rằng không được thẩm định chặt chẽ về mặt pháp lý.

3. Những ưu điểm, tồn tại trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay ở địa phương

a. Những ưu điểm:

+ Hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp kể từ năm 1992 trở lại đây đã có sự phát triển tích cực, số lượng văn bản được ban hành ở mỗi cấp ngày càng nhiều, bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cùng với pháp luật của Nhà nước, văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành đã góp phần gữi gìn an ninh chính trị về trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân.

+ Căn cứ vào các văn bản pháp luật của Nhà nước, cũng như xuất phát từ tình hình thực tế ở địa phương, chính quyền các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình đã cụ thể hoá những quy định của pháp luật cho phù hợp tình hình thực tế ở địa phương, kịp thời điều chỉnh bằng pháp luật trên những lĩnh vực mà pháp luật của Nhà nước còn chưa đầy đủ hoặc còn thiếu cụ thể.

+ Các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành ngày càng đáp ứng được yêu cầu nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật. Tình trạng văn bản không có chữ ký của người có thẩm quyền, không đóng dấu, không có số, không đề ngày tháng ban hành ... đến nay đã được khắc phục.

+ Trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cấp chính quyền đã bước đầu chú ý việc gắn quá trình xây dựng văn bản với tổ chức việc thực hiện văn bản bằng các biện pháp tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương, cũng như đã chú ý hệ thống hoá thành những tập sách theo từng năm ban hành để gửi tới tận các cơ quan, đơn vị, các xã, phường, thị trấn trong tỉnh một năm thành bốn lần.

b. Những điểm tồn tại

Mặc dù những thành tựu trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp cơ quan địa phương trong tỉnh có những bước tiến đáng kể và đầy khích lệ. Tuy vậy, thực trạng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành đã và đang bộc lộ những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục kịp thời. Có thể nêu một cách khái quát như sau:

- Dù đã được chú ý khắc phục, cho đến nay các văn bản được ban hành có trường hợp còn thiếu sự thống nhất trên những phương diện về: tên loại văn bản và chức năng thực tế của chúng trong quản lý nhà nước.

+ Không hiếm trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính thông thường không được phân biệt rõ ràng khi soạn thảo. Vì vậy, đã dùng công văn thay cho Chỉ thị, dùng thông báo thay cho Quyết định (loại này thường bắt gặp trong khi các cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân). Như vậy trong trường hợp này là đã có sự vi phạm về hình thức khi ban hành văn bản, vì theo quy định tại Luật khiếu nại tố cáo của công dân, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải giải quyết bằng một Quyết định.

+ Bản thân thể thức trong một văn bản còn mẫu thuẫn và chưa phân biệt rõ thẩm quyền về hình thức cũng như về thẩm quyền nội dung khi ban hành văn bản (chẳng hạn là một Quyết định hoặc Chỉ thị nhưng trong thực tế một số địa phương chưa phân biệt được khi nào thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, mặc dù Điều 41 và 52 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đã quy định rõ thẩm quyền này). Vì vậy, khi kiểm tra quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương chúng tôi thấy vấn đề này còn nhiều vướng mắc.

+ Ngoài ra cũng phải thấy rằng hình thức ban hành văn bản ở Uỷ ban nhân dân các cấp (đặc biệt là cấp huyện và xã) chưa thật thống nhất mặc dù vấn đề này đã được quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; Thông tư 33b/BT ngày 10-12-1998 của Bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ và gần đây nhất là Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, theo các văn bản này thì Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành văn bản quy phạm pháp luật với hình thức văn bản là: Quyết định và Chỉ thị. Song trong thực tế có nơi, có lúc vẫn dùng nhiều hình thức khác nhau như là Quy chế, Quy định, Nội quy, Quy ước, Hướng dẫn, Kế hoạch... mà đáng ra loại này phải được ban hành kèm theo bởi một Quyết định.

+ Vẫn còn tình trạng văn bản được ban hành còn có sự chồng chéo về nội dung, cũng một vấn đề mà nhiều văn bản cùng điều chỉnh, quan rà soát văn bản chúng tôi thấy rằng trong một thời gian ngắn ở một lĩnh vực đã có tới 3 văn bản cùng quy định tình trạng này làm cho quá trình thực hiện văn bản gặp nhiều khó khăn. Ví dụ: Luật Ngân sách, Trung ương đã ban hành - tỉnh giao cho Sở Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn...

+ Đôi khi vì quá "hình thức" trong việc ban hành văn bản nên có lúc cấp Trung ương, cấp tỉnh có văn bản gì thì huyện, xã cũng ra văn bản theo đó để thực hiện, mà nội dung không có gì mới hoặc cụ thể hoá cho phù hợp với tình hình thực tế, mà ngược lại chỉ đơn thuần sao chép, sao chép thiếu hoặc nghiêm trọng hơn là sai lệch tinh thần văn bản của cấp trên.

+ Ngoài ra vẫn phải thừa nhận rằng có tình trạng ở nơi này hay nơi khác còn tự tiện đặt ra các văn bản không thuộc thẩm quyền được ban hành, hoặc ban hành văn bản có những quy định trái với pháp luật, gây phiền hà cho dân, cản trở đến sự thông suốt trong hoạt động của bộ máy Nhà nước (vi phạm nhiều nhất là trong lĩnh vực thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của dân)

- Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại trên đây là:

+ Nhà nước ta chưa có quy định rõ về thẩm quyền, thủ tục và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Mặc dù, đã có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhưng những quy định trong Luật này chỉ dừng lại và quy định mang tính nguyên tắc, còn trình tự, thủ tục phải chờ ở một Luật khác.

+ Nhiều nơi chưa xác định được tầm quan trọng trong việc soạn thảo và rà soát văn bản thường xuyên, theo định kỳ, chưa nhận thức hết tác dụng của việc bỏ rơi công tác này. Do vậy, chưa có một sự đầu tư thoả đáng trên hai phương diện chỉ đạo nghiệp vụ và xây dựng cơ sở vật chất cần thiết cho công tác soạn thảo, ban hành văn bản và rà soát văn bản.

+ Trình độ của cán bộ nghiệp vụ làm công tác soạn thảo văn bản ở cấp chính quyền còn yếu về nghiệp vụ, không thường xuyên được tập huấn về nghiệp vụ làm công tác soạn thảo và xử lý văn bản. Do vậy, có nhiều sai sót trong công tác văn bản có thể dễ dàng nhận thấy đó là do trình độ non yếu của cán bộ làm công tác nghiệp vụ.

 

II. Những đề xuất và kiến nghị

Xuất phát từ thực trạng công tác tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh, đến với Hội thảo này chúng tôi xin có một số đề xuất và kiến nghị sau:

+ Xin đề nghị Nhà nước cần sớm ban hành Luật quy định thẩm quyền, thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, nhằm đưa việc xây dựng và ban hành văn bản của các địa phương đi vào nề nếp pháp luật. Trong đó Luật cần quy định rất cụ thể về quy trình xây dựng văn bản, trách nhiệm của cơ quan chủ trì, trách nhiệm của cơ quan phối hợp, trách nhiệm của cơ quan thẩm định và đặc biệt là Luật cũng cần quy định về kinh phí đầu tư cho việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

+ Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương đề nghị chỉ nên quy định cấp tỉnh và cấp huyện được quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, còn đối với cấp xã thì không nên giao cho thẩm quyền này.

+ Đề nghị Chính phủ nên có hướng dẫn cụ thể nhằm quan tâm đến việc tạo điều kiện cơ sở vật chất, hướng dẫn nghiệp vụ để các địa phương từng bước nâng cao chất lượng soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

+ Đề nghị Bộ Tư pháp định kỳ có kế hoạch tổ chức tập huấn cho những cán bộ làm công tác văn bản ở địa phương (cấp tỉnh) về kỹ thuật soạn thảo văn bản, nhằm giúp anh chị em được học hỏi thêm những lý luận cũng như kinh nghiệm trong công tác soạn thảo văn bản.-.

 

Về thẩm quyền và quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương

Đoan Hùng - Trưởng phòng văn bản

Sở Tư pháp Hoà Bình

 

Đặt vấn đề:

Để từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật, kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của đảng, đáp ứng được yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của dân, do dân và vì dân. Trong những năm qua, công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước ta đã được đặc biệt chú trọng cả về chất và lượng.

Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn chúng ta chỉ tập trung chú trọng vào vj xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật (văn bản luật) quan trọng như: Hiến pháp, Đạo Luật, Bộ luật... là việc xây dựng tuân theo những quy trình "chuẩn" như khảo sát, đi thực tế, tổ chức lấy ý kiến, học tập kinh nghiệm... còn những văn bản dưới luật thì phần lớn được xây dựng và ban hành theo quy trình rút ngắn. Từ quy trình rút ngắn này đã nảy sinh không ít những sai phạm về thẩm quyền cũng như quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật đặc biệt là đối với các cấp chính quyền địa phương.

I. Thực trạng của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương

 

1. Thực tiễn hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật

 

Kể từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, công tác xây dựng pháp luật đã được quan tâm đúng mức, đặc biệt là các văn bản về quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực, trong những năm qua các cấp, các ngành đã có những cố gắng to lớn, khắc phục những thiếu thốn về vật chất những khiếm khuyết trong pháp luật, hạn chế về chuyên môn để hoàn thành tốt việc xây dựng pháp luật. Mặc dù vậy dưới góc độ khoa học pháp lý thì hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn bộc lộ những khuyết nhược điểm sau đây:

+ Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, thiếu tính chuyên môn hoá, có những văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành xong thiếu tính khả thi. Bản thâm các quy phạm pháp luật không trực tiếp đi vào cuộc sống mà phải có văn bản hướng dẫn thi hành nghĩa là tình trạng Luật chờ Thông tư hướng dẫn;

+ Văn bản cấp trên và cấp dưới, giữa ngành này với ngành khác còn mâu thẫu, chồng chéo gây ra tình vừa thiếu lại vừa thừa pháp luật, còn nhiều lĩnh vực pháp luật chưa được điều chỉnh đến.

Ví dụ: Săn bắt thú rừng, động vật quý hiếm Luật hình sự chưa điều chỉnh đến, do vậy hành vi này chưa bị coi là tội phạm hình sự.

+ Nhiều văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp, đã ban hành từ thời kỳ bao cấp điều chỉnh một lĩnh vực cụ thể những chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp 1992 trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay.

2. Công tác soạn thảo

Hiện nay chúng ta đã có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, song mới chỉ dành cho các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước ở Trung ương còn chính quyền địa phương lại chưa có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. Do đó công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chưa được quan tâm đúng mức, tuỳ tiện, và thiếu thống nhất, chất lượng chưa cao, nhiều nơi nhiều lúc còn có sự vi phạm và trái thẩm quyền.

3. Việc kiểm tra, rà soát và xử lý văn bản

Việc rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật chưa được thường xuyên và chưa có một bộ phận chuyên môn thực hiện công việc này do vậy các cơ quan nhà nước không kịp tìm ra những quy định lỗi thời, sơ hở, mâu thuẫn, chồng chéo và các khiếm khuyết khác nên chưa có những biện pháp hữu hiệu để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

Bên cạch đó, những văn bản quản lý nhà nước có nội dung trái pháp luật hoặc ban hành trái thẩm quyền thì việc xử lý không kịp thời, thậm chí không xử lý. Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân, trước hết phải kể đến đó là chưa có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Mặt khác, xét mối tương quan giữa hoạt động xử lý văn bản và những hoạt động khác thì công việc này bị coi là thứ yếu, đặc biệt là các cơ quan đã ban hành sai trái đều không muốn xử lý lại văn bản của chính mình đã ban hành.

Liên hệ thực tiễn với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Hoà Bình cho thấy:

Từ khi tách tỉnh đến nay (10-1991 đến 10-1998) các cơ quan nhà nước của tỉnh đã ban hành một khối lượng lớn văn bản trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc ban hành văn bản chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục. Từ khâu soạn thảo, lấy ý kiến nhân dân hoặc cơ quan hữu quan chưa được chú trọng, đến việc thẩm định văn bản và ký ban hành văn bản từ đó dẫn đến chất lượng văn bản thấp, nội dung trái pháp luật và vi phạm thẩm quyền.

Qua việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật của một huyện năm 1997 đã phát hiện tới hàng chục quyết định ban hành trái thẩm quyền về giao quyền sử dụng đất đô thị.

Các văn bản này hầu hết không qua cơ quan Tơtư pháp thẩm định trước khi ban hành. Mà chủ yếu là do các cơ quan chuyên môn xây dựng và trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành.

- Việc rà soát hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật chưa được chính quyền địa phương quan tâm đúng mức do vậy chưa xác định rõ đâu là văn bản còn hay hết hiệu lực văn bản nào còn sơ hở khiếm khuyết không phù hợp với thực tế cần phải bổ sung, sửa đổi.

- Công tác lưu trữ văn bản là một trong những khâu yếu nhất trong việc quản lý văn bản của chính quyền địa phương, tình trạng thất lạc văn bản còn phổ biến ở một số địa phương đơn vị gây khó khăn không ít cho việc nghiên cứu, tra cứu.

II. Nguyên nhân tồn tại

Sở dĩ có việc vi phạm các trình tự và thủ tục ban hành văn bản nêu trên trước hết phải kể đến các nguyên nhân cụ thể như sau:

+ Việc phân định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp chưa rõ ràng;

+ Còn có sự lẫn lộn giữa thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

+ Quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp chưa tuân theo một quy trình "chuẩn" còn tuỳ tiện và mang nặng ý chí chủ quan của chủ thể xây dựng văn bản.

+ Vai trò của cơ quan tư pháp các cấp trong quá trình xây dựng dự thảo văn bản các cấp chính quyền địa phương còn bị coi nhẹ chưa được chú trọng đúng mức.

III. Một số giải pháp cụ thể

Để có cơ sở khoa học cho việc xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cáp chính quyền địa phương trước hết chúng ta phải làm rõ các vấn đề cơ bản sau đây:

1. Phân định cụ thể thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

Theo quy định tại Điều 119, 120 Hiến pháp 1992, Điều 11 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994, Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 thì:

+ Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết;

+ Uỷ ban nhân dân ban hành Quyết định, Chỉ thị.

Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có sự lẫn lộn sai phạm về thẩm quyền giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, giữa cấp trên và cấp dưới. Ví dụ: Uỷ ban nhân dân xã ra quyết định cấp đất.

Hoặc có văn bản thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân thì Uỷ ban nhân dân lại ra Quyết định... hay cùng một cấp thẩm quyền nhưng vẫn có sự lẫn lộn giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật (cá biệt).

Vì vậy theo chúng tôi cần phải có sự phân định cụ thể về thẩm quyền ban hành văn bản của các cấp chính quyền địa phương như sau:

+ Hội đồng nhân dân các cấp có thẩm quyền ban hành Nghị quyết (là văn bản quy phạm pháp luật);

+ Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp có quyền ban hành Quyết định (là văn bản áp dụng pháp luật). Thuộc các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân. Ví dụ: Quyết định về việc xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

+ Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền ban hành Quyết định, Chỉ thị (là văn bản quy phạm pháp luật).

Văn bản áp dụng pháp luật và văn bản pháp quy độc lập.

Sở dĩ chúng tôi đặt vấn đề như vậy vì việc ban hành văn bản còn vướng rất nhiều ở khâu xác định và phân loại văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật cũng như văn bản pháp quy độc lập. Cho nên ở đây chúng ta cần xác định lại về mặt khái miện nên chăng cần lấy lại tên của Luật là: "Luật ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp" cho phù hợp với thực tiễn ban hành và thực hiện pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp vì thực tế Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân vừa có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, vừa có thẩm quyền ban hành văn bản áp dụng pháp luật.

2. Xác định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Đã từ lâu việc phân định này chưa được xác định rõ ràng giữa thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Theo quy định tại Điều 119 Hiến pháp 1992 thì "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương...".

Và theo quy định tại Điều 123 Hiến pháp 1992 thì "Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân...".

Về mặt quản lý nhà nước và về tổ chức quyền lực Nhà nước thì Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực còn Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành quyền lực của Nhà nước, Hội đồng nhân dân lãnh chỉ đạo bằng Nghị quyết với Uỷ ban nhân dân và Quyết định của thường trực Hội đồng nhân dân. Cho nên ở một chừng mực nào đó Hội đồng nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với Uỷ ban nhân dân trong lĩnh vực xây dựng pháp luật.

Hoặc Uỷ ban nhân dân trình đề án xây dựng pháp luật trước Hội đồng nhân dân những hoạt động xung quanh việc xây dựng pháp luật đó chính là thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước của Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân.

Còn về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì như phân tích ở trên cần có sự phân định rạch ròi.

+ Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết (văn bản quy phạm pháp luật);

+ Thường trực Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết (văn bản quy phạm pháp luật);

+ Uỷ ban nhân dân ban hành Quyết định, Chỉ thị (văn bản quy phạm pháp luật) và các văn bản quy định pháp luật và văn bản pháp quy đọc lập.

Trên cơ sở phân định như vậy sẽ xác định được phạm vi thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3. Xây dựng một quy trình ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp

Hiện nay chúng ta chưa có một quy trình ban hành văn bản đạt "chuẩn" thể hiện tính khoa học của hoạt động xây dựng pháp luật. Đặc biệt là ở các cấp chính quyền địa phương thì hoạt động này mang tính kép kín và gần coi như là việc riêng của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Việc tổ chức triển khai lấy ý kiến vào dự thảo văn bản nhiều khi chỉ mang tính hình thức và chất lương ý kiến thấp và kém hiệu quả. Mang nặng ý kiến chủ quan của chủ thể xây dựng pháp luật, kỹ thuật xây dựng văn bản thiếu đồng bộ. Thực trạng của hoạt động này của chính quyền địa phương cho thấy một quy trình cổ điển như sau:

+ Các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Hội đồng nhân dân thì chủ yếu do chuyên viên, thư ký của Hội đồng nhân dân tổng hợp soạn thảo, trình người có trách nhiệm thông qua sau đó ký ban hành. Đây là một chu trình kép kín. Không qua cơ quan chuyên môn thẩm định văn bản.

+ Các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Uỷ ban nhân dân thì phần lớn là các chủ thể xây dựng pháp luật đều thông qua hai hình thức sau:

- Các văn bản của cơ quan trực thuộc Uỷ ban nhân dân thì các đơn vị tự xây dựng sau đó thông qua "thư ký vụ" của Uỷ ban nhân dân kiểm tra, thẩm định, chỉnh lý sau đó trình người có trách nhiệm ký ban hành;

- Các văn bản của Uỷ ban nhân dân thì do chính "thư ký vụ" hoặc văn phòng xây dựng sau đó thông qua và trình người có trách nhiệm ký ban hành.

Chỉ có một số ít văn bản của Uỷ ban nhân dân được chuyển cho cơ quan chuyên môn thẩm định, sau đó mới ban hành. Đây là một quy trình khép kín cổ điển mà nhiều chính quyền địa phương còn áp dụng trong việc xây dựng văn bản pháp luật là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc vi phạm thẩm quyền và quy trình ban hành văn bản của các cấp chính quyền địa phương.

Theo chúng tôi việc xây dựng văn bản của các câp các chính quyền địa phương cần phải đổi mới và tuân theo quy trình "chuẩn" như sau:

+ Xây dựng chương trình ban hành văn bản;

+ Thành lập ban soạn thảo văn bản;

+ Tiến hành soạn thảo văn bản;

+ Tham gia ý kiến xây dựng dự thảo văn bản;

+ Thẩm định dự thảo văn bản;

+ Trình tự xem xét dự thảo văn bản;

+ Soạn thảo ký ban hành văn bản.

4. Vai trò của cơ quan tư pháp trong quá trình xây dựng dự thảo văn bản của các cấp chính quyền địa phương

Với vai trò là cơ quan tham mưu của Uỷ ban nhân dân trong việc quản lý công tác tư pháp. Những năm gần đây đặc biệt là sau khi có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 vai trò của cơ quan tư pháp đã được nâng lên rõ rệt trở thành cơ quan tham mưu đắc lực cho Uỷ ban nhân dân các cấp đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, một thực trạng không thể phủ nhận là số lượng văn bản pháp luật được các cấp chính quyền địa phương ban hành ngày càng nhiều, cộng với quy trình ban hành văn bản khép kín như đã nêu lên vai trò của cơ quan tư pháp trong quá trình xây dựng dự thảo văn bản pháp luật chưa được chú trọng đặc biệt là việc thẩm định văn bản. Đây là một khâu yếu nhất trong quá strình xây dựng pháp luật của các cấp chính quyền địa phương và cũng là căn do dẫn đến việc vi phạm thẩm quyền, quy trình ban hành văn bản. Vì vậy, chúng tôi thấy cần thiết trong quá trình xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cần phải có các quy định xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của cơ quan tư pháp trong việc thẩm định, xây dựng dự thảo văn bản pháp luật trên các lĩnh vực của các cấp chính quyền địa phương là một khâu quan trọng (bắt buộc) của quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, văn bản pháp quy độc lập của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.-.

 

 

 

thực trạng công tác xây dựng và ban hành

văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân

các cấp ở hà tĩnh

 

Phan Duy Phong

Giám đốc Sở Tư pháp Hà Tĩnh

 

Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân (Hội đồng nhân dân) có một vị trí và vai trò rất quan trọng đối với thực tiễn quản Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng thiết chế Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa và nền khoa học pháp lý của ta, vấn đề xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (văn bản quy phạm pháp luật) của Hội đồng nhân dân các cấp chưa được nghiên cứu và quy định đầy đủ tương xứng với vị trí và vai trò của nó. Vì vậy, việc tổ chức để nghiên cứu khoa học và thực tiễn của vấn đề này nhằm chuẩn bị cho Quốc hội ban hành luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp là hết sức cần thiết và do vậy là một chủ trương rất đáng được hưởng ứng và hoan nghênh.

Trong bài viết này, chúng tôi xin được trình bày về thực trạng về công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân các cấp ở Hà Tĩnh và một vài kiến nghị xuất phát từ thực trạng và yêu cầu của địa phương.

 

I. Một số vấn đề về nội dung và hình thức các nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp ở Hà Tĩnh

Hiện nay Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp đều ban hành một hình thức văn bản quy phạm pháp luật duy nhất, đó là Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Về nội dung, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân có thể phân chia làm 3 loại:

- Nghị quyết chung.

- Nghị quyết chuyên đề.

- Nghị quyết ban hành (hoặc phê chuẩn) các nội quy, quy chế. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân ban hành theo mỗi kỳ họp. Hàng năm Hội đồng nhân dân các cấp đều có Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương (NQ chung). Nội dung các Nghị quyết này chủ yếu đánh giá tình hình năm qua; đưa ra những mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các lĩnh vực chủ yếu trong năm tới; các biện pháp, giải pháp cần triển khai để thực hiện nhiệm vụ mục tiêu nói trên. Trong nhiệm kỳ hiện nay từ 1994 đến nay Hội đồng nhân dân mỗi huyện thị ra từ 15 - 19 Nghị quyết Hội đồng nhân dân mỗi xã, phường ra 6-7 Nghị quyết cơ cấu các loại Nghị quyết tương tự nhau.

Thí dụ: ở Hội đồng nhân dân thị xã Hà Tĩnh từ đầu nhiệm kỳ 1994 đến nay đã ra 16 Nghị quyết. Trong đó có 4 Nghị quyết chung về nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội hàng năm (năm 1994, 1995, 1996, 1997); 11 Nghị quyết chuyên đề, 1 Nghị quyết ban hành (thông qua) quy chế kỳ họp của Hội đồng nhân dân (trước khi có quy chế chung do Quốc hội ban hành).

 

Các Nghị quyết về nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Hội đồng nhân dân các cấp hầu hết ra hàng năm, chưa có các Nghị quyết dài hạn cả nhiệm kỳ hoặc cả hai ba năm. Ngoài Nghị quyết về phát triển kinh tế- xã hội hàng năm, có một số Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về phát triển kinh tế- xã hội 6 tháng (theo kỳ họp của Hội đồng nhân dân).

Trên cơ sở các Nghị quyết chung, Hội đồng nhân dân các cấp ra Nghị quyết chuyên đề. Một số chuyên đề thường được đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là: Tạo nguồn thu ngân sách địa phương; huy động sự đóng góp của nhân dân để phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, trường học, trạm xá, công trình văn hoá, điện, nước thành các quỹ; các khoản thu ở địa phương; phát triển kinh tế hộ gia đình.v.v. Nội dung các Nghị quyết chuyên đề thường xuất phát từ yêu cầu thực tế ở địa phương và để thực hiện các chủ trương, chính sách của cấp uỷ Đảng, kế hoạch Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân.

Các Nghị quyết chuyên đề chiếm một số lượng lớn trong toàn bộ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. ở địa phương nào mà kinh tế- xã hội phát triển mạnh, hoạt động của Hội đồng nhân dân có hiệu quả, chú trọng giải quyết những vấn đề thiết thực đáp ứng nguyện vọng của dân thì Hội đồng nhân dân phải nghiên cứu và quyết nghị nhiều vấn đề thông qua các Nghị quyết chuyên đề. Bên cạnh đó một số địa phương, Hội đồng nhân dân chỉ ra được một số Nghị quyết chung theo từng kỳ họp, không có nội dung cụ thể, ít có giá trị thực tiễn.

Loại Nghị quyết về thông qua nội quy, quy chế rất ít được sử dụng. Trước đây khi chưa có quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành, Hội đồng nhân dân các cấp ở Hà Tĩnh đã ra các Nghị quyết ban hành quy chế kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp mình nay không còn hiệu quả. Một số Hội đồng nhân dân ra Nghị quyết thông qua nội quy về trật tự trị an ở địa phương. Nội quy quản lý cán bộ, quy chế về gia đình văn hoá mới... ngoài ra các nội quy, quy chế khác áp dụng trong địa phương chủ yếu do Uỷ ban nhân dân ra quyết định ban hành.

Về hình thức, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp đều được ban hành theo một khuôn mẫu tương tự gồm: Phần tiêu đề có tên tỉnh, huyện, xã, nơi ban hành, thời gian ban hành Nghị quyết; Nghị quyết về vấn đề gì, các căn cứ để ra Nghị quyết.

Phần nôi dung có đánh giá tình hình, nêu lý do đi đến quyết nghị; ghi các nội dung mà Hội đồng nhân dân đã bàn và quyết nghị; nêu những giải pháp, phương pháp để thực hiện các nội dung của Nghị quyết. Và cuối cùng là phần ký ban hành Nghị quyết.

Nhìn chung Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cả 3 cấp đã đảm bảo được quy cách văn bản pháp quy; nhất là trong vài năm lại nay, chất lượng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Chỉ so sánh trong nhiệm kỳ 1994-1999 thì năm 1994 đầu nhiệm kỳ, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân còn rất yếu về nội dung và hình thức chưa đảm bảo được quy cách của một văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng đến nay thì nội dung và quy cách các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân đã nâng lên rõ rệt kể cả ở 3 cấp nhất là cấp tỉnh.

Tuy vậy, nhiều Nghị quyết của Hội đồng nhân dân bố cục thiếu chặt chẽ, kỹ thuật lập quy chưa cao, nhiều Nghị quyết thể hiện như một biên bản hội nghị hoặc là nặng về kêu gọi như là một quyết tâm thư mà chưa đưa ra được những quy phạm gãy gọn, chặt chẽ. Nhất là Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã, phường và một số huyện.

Kỹ thuật xây dựng pháp quy chưa được áp dụng đầy đủ khi soạn thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vì vậy Nghị quyết của Hội đồng còn mang tính chất là một văn bản hành chính, chưa thể hiện đúng vai trò là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất ở địa phương, nhất là Nghị quyết của các kỳ họp đầu khoá, khi mà các thư ký kỳ họp Hội đồng nhân dân chưa có kinh nghiệm và hiểu biết về quy cách soạn thảo VBPQ. Hình thức Nghị quyết Hội đồng nhân dân như thế nào là tuỳ thuộc vào khả năng soạn thảo thư ký kỳ họp và sự tu chỉnh của thường trực Hội đồng nhân dân các cấp. Vì vậy, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh có khá hơn về nội dung và hình thức song tính pháp quy chưa cao, chưa thể hiện được các quyết nghị của Hội đồng nhân dân thành những quy phạm, để Nghị quyết Hội đồng nhân dân đúng ý nghĩa là một văn bản quy phạm pháp luật.

 

II. Việc xây dựng, thông qua, phổ biến và tổ chức thực hiện Nghị quyết như thế nào

Quá trình và quy trình xây dựng một Nghị quyết Hội đồng nhân dân là tuỳ thuộc mỗi loại Nghị quyết, tuỳ thuộc vào nội dung của Nghị quyết và ở mỗi cấp vận dụng có khác nhau. Song nhìn chung để xây dựng một Nghị quyết Hội đồng nhân dân có thể nói phải qua một số công đoạn sau đây:

- Dự kiến các nội dung Nghị quyết.

- Khảo sát tình hình.

- Tham khảo ý kiến, nguyện vọng.

- xét điều kiện khả thi.

- Thống nhất ý kiến với Uỷ ban nhân dân, các ban Hội đồng nhân dân và các cơ quan liên quan.

- Soạn thảo văn bản Nghị quyết.

- Trình, thông qua Nghị quyết trước kỳ họp Hội đồng nhân dân.

- Hoàn chỉnh Nghị quyết (sau khi Hội đồng nhân dân thông qua.

Đây là các bước tương đối đầy đủ để xây dựng một Nghị quyết Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên tuỳ tùng nội dung của Nghị quyết mà áp dụng toàn bộ hoặc chỉ là một số công đoạn trên.

Trước khi bắt tay vào các công đoạn xây dựng Nghị quyết, thường trực Hội đồng nhân dân phải dự kiến các nội dung sẽ đưa ra kỳ họp Hội đồng nhân dân và Quyết nghị thông qua thành Nghị quyết. Công đoạn này có thể như là sự định hướng nội dung của kỳ họp Hội đồng nhân dân; định hướng nội dung của Nghị quyết Hội đồng nhân dân.

Khảo sát tình hình là công đoạn rất quan trọng để tiện lượng những nhu cầu, điều kiện thực tế của việc xây dựng Nghị quyết. Việc nắm chắc tình hình sẽ tạo điều kiện cho Nghị quyết có nội dung sát thực, phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tế. Đối với các Nghị quyết chung về phát triển kinh tế -xã hội hàng năm, 6 tháng thì việc khảo sát phải mở ra diện rộng toàn địa phương với tất cả các lĩnh vực và đối tượng liên quan đến nội dung Nghị quyết. Công tác này chủ yếu do Uỷ ban nhân dân cùng cấp và các ngành liên quan thực hiện.

Đối với các Nghị quyết chuyên đề thì cần khảo sát sâu ở một số lĩnh vực nhất định. Công việc này chủ yếu do các ngành hữu quan thực hiện rồi trình nội dung với Uỷ ban nhân dân và thường trực Hội đồng nhân dân. Một số địa phương giao dự thảo Nghị quyết cho các tổ đại biểu phối hợp cùng các cơ quan tổ chức lấy ý kiến góp ý của nhân dân. Hình thức này còn ít được sử dụng.

Công việc tiếp theo không kém phần quan trọng, là việc tham khảo ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, của các đối tượng phải thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân.

Thí dụ: để chuẩn bị cho Hội đồng nhân dân huyện Cẩm Xuyên ra Nghị quyết về huy động nguồn lực trong nhân dân để xây dựng giao thông nông thôn. Thường trực Hội đồng nhân dân cùng Uỷ ban nhân dân, UB Mặt trận, Hội nông dân tập thể tổ chức họp, nhân dân ở các xã theo từng xóm, đội sản xuất (cũ) để nghe dân nêu ý kiến về các vấn đề:

+ Chủ trương này có được đồng tình không, cần thiết không?

+ Huy động sức dân, tiền của dân theo phương thức nào?

+ Mức độ và đối tượng đóng góp ra sao.

+ Sau khi đóng góp thì đầu tư xây dựng những con đường nào, đường kiểu gì (có thể đóng góp để làm việc này thì dân đồng tình nhưng để làm việc kia thì dân không đồng tình).

+ Ai quản lý và quản lý như thế nào về các khoản thu của dân.

Sau khi khảo sát ý kiến của dân về các vấn đề trên được đa số nhân dân đồng tình thì tiến hành những công việckhác để đưa ra Hội đồng nhân dân quyết nghị. Tát nhiên bên cạnh nghe ý kiến của dân, cũng phải thuyết phục để dân nghe theo ý kiến của chính quyền. Từ đó việc ban hành Nghị quyết Hội đồng nhân dân mới được đồng tình ủng hộ và điều quan trọng là đảm bảo để Nghị quyết Hội đồng được thực hiện nghiêm túc sau khi ban hành.

Xét điều kiện khả thi Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là kiểm tra lại tính thực tiễn của các nội dung Nghị quyết. Đây là việc rất cần thiết trước khi đưa ra các nội dung bàn đình trong Hội đồng nhân dân. Để đảm bảo cho Nghị quyết của Hội đồng nhân dân triển khai thực hiện được trong thực tế thông thường trước khi chuyển nội dung sang cho thường trực Hội đồng nhân dân để soạn thảo Nghị quyết. Uỷ ban nhân dân và các cơ quan liên quan phải xem xét lại tính khả thi của các phương án. Tuy vậy trong thực tế cơ quan thường ít chú ý đến vấn đề này nên nhiều Nghị quyết của Hội đồng nhân dân không thực hiện được hoặc chỉ thực hiện được một phần, hiểu qủa thấp.

Trước khi bắt tay vào soạn thảo văn bản Nghị quyết, thường trực Hội đồng nhân dân cùng Uỷ ban nhân dân họp với các cơ quan liên quan để thống nhất các nội dung dự kiến đưa vào Nghị quyết Hội đồng nhân dân.

Sau khi thống nhất ý kiến với các cơ quan hữu quan, thường trực Hội đồng nhân dân soạn thảo văn bản Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Văn bản dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thường được chuẩn bị trước khi triệu tập kỳ họp Hội đồng nhân dân.

Tuy nhiên chỉ đưa ra lấy ý kiến về một số nội dung chính còn toàn văn Nghị quyết thì chỉ cần hoàn thiện trong quá trình họp Hội đồng nhân dân dưới sự chuẩn bị của Đoàn thư ký kỳ họp.

Những Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được chuẩn bị trước chu đáo thì khi đưa ra thong qua Hội đồng sẽ tạo thuận lợi cho đại biểu thảo luận và quyết nghị.

Khâu chuẩn bị dự thảo Nghị quyết trước khi trình thông qua Hội đồng nhân dân là rất quan trọng, quyết định chất lương Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; làm việc cho kỳ họp Hội đồng nhân dân diễn biến nhanh gọn; tập trung bàn định được những vấn đề cần thiết. Tránh được sự khó hiểu, thảo luận tản mãn, không làm rõ được những vấn đề cần bàn định và quyết định.

Qua kiểm tra một số Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các huyện, thị, xã phường trong tỉnh, thấy rằng một số địa phương do không chuẩn bị tốt dự thảo Nghị quyết hoặc không xác định rõ những nội dung cần bàn định nên khi đưa ra Hội đồng nhân dân không thể thảo luận được đầy đủ và quyết nghị tập trung được. Do vậy chất lượng của các nghị quyết này rất thấp. Thậm chí nhiều địa phương giao hẳn việc chuẩn bị và thông qua Nghị quyết cho thư ký Đoàn viết và thông qua ngay tại buổi họp như là biên bản một số cuộc họp bình thường làm cho Nghị quyết Hội đồng nhân dân không có giá trị pháp lý, không có ý nghĩa thực tế.

Việc trình để soạn thảo thông qua Nghị quyết Hội đồng nhân dân tại kỳ họp là khâu quyết định nội dung và tính pháp lý của Nghị quyết Hội đồng nhân dân. Từ khi Quốc hội ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân thông thường ở Hội đồng nhân dân các cấp, việc thông qua Nghị quyết chủ yếu theo phương thức: Đoàn thư ký đọc toàn văn dự thảo Nghị quyết để các đại biểu nghe một lược, sau đó Chủ toạ (TM đoàn chủ tịch) kỳ họp yêu cầu các đại biểu quyết thông qua toàn bộ Nghị quyết. Đối với những Nghị quyết có nhiều nội dung khác nhau hoặc các nội dung còn có ý kiến khác nhau của nhiều đại biểu thì chủ toạ kỳ họp trình bày lại từng vấn đề hoặc nhấn mạnh một số cần cân nhắc kỹ và xin biểu quyết từng vấn đề một. Qua kinh nghiệm thực tế chúng tôi thấy việc thảo luận và quyết nghị từng vấn đề một có nhiều ưu điểm hơn việc biểu quyết thông qua toàn bộ Nghị quyết một lần.

Sau khi Nghị quyết được thông qua chính thức tại kỳ họp, thường trực Hội đồng nhân dân hoàn chỉnh các nội dung và hình thức của Nghị quyết và Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký. Như vậy, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân chính thức được ban hành.

Công tác tiếp theo sau khi Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được ban hành đó là phổ biến và quán triệt Nghị quyết đó đến toàn dân; từ Hội đồng nhân dân tỉnh đến các huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn.

Việc tổ chức phổ biến Nghị quyết của Hội đồng nhân dân chue yếu giao cho Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban mặt trận, các đoàn thể và các tổ Hội đồng. Tuỳ theo nội dung của Nghị quyết của Hội đồng nhân dân mà đề ra yêu cầu triển khai thực hiện đến cấp đó.

Tuy nhiên thực tế hiện nay một số địa phương việc tổ chức chỉ đạo quán triệt Nghị quyết của Hội đồng nhân dân còn mang tính chất chiếu lệ; thường được triển khai kết hợp, tranh thủ với các hoạt động khác mà chưa có cơ chế rõ ràng trong việc phổ biến, tuyên truyền. Do vậy, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thường không được quán triệt đầy đủ đến tận nhân dân. Chỉ khi dân phải thực hiện nghĩ vụ thì mới biết có nghị quyết của Hội đồng nhân dân quy định như vậy. Còn cả quá trình bàn bạc, nhân dân không được tham gia, có nghị quyết rồi nhân dân không được phổ biến trước.

Trong nhiều năm qua việc phổ biến Nghị quyết Hội đồng nhân dân chủ yếu thực hiện trong đội ngũ cốt cán ở địa phương, nhân dân các thôn, xóm, tổ dân phố. Việc phổ biến Nghị quyết Hội đồng nhân dân trong các cơ quan xí nghiệp, các tổ chức xã hội chưa được quan tâm nhiều.

Tổ chức thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được sự đồng tình và thực hiện nghiêm túc. Nhất là những Nghị quyết về các vấn đề phúc lợi xã hội, xây dựng các công trình văn hoá phục vụ thanh thiếu niên, mở mang cơ sở hạ tầng, thực hiện chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.v.v ...

Nhìn chung các Nghị quyết Hội đồng nhân dân đưa ra đúng nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng thực thi ở địa phương đều được thi hành nghiêm túc, Tuy nhiên đối với bất kỳ Nghị quyết nào công tác vận động của các cấp ngành để thực hiện cụ thể luôn luôn đóng vai trò quan trọng, quyết định hiệu lực thực tế của Nghị quyết.

Bên cạnh những Nghị quyết được thực hiện đầy đủ, còn nhiều Nghị quyết của Hội đồng không được triển khai thực hiện hoặc thực hiện không có hiệu quả. Thậm chí có một số Nghị quyết không bảo đảm tính pháp quy. Ngay ở thị xã Hà Tĩnh trong 11 Nghị quyết chuyên đề thì có 2 Nghị quyết bị Viện kiểm sát nhân dân có ý kiến yêu cầu ngừng thi hành (Nghị quyết về huy động nguồn lực làm giao thông, Nghị quyết về thu phí lệ phí), hoặc một số xã, phường có các Nghị quyết về huy động các khoản đóng góp của dân, do thiếu sự bàn bạc, thăm dò chu đáo nên khi đưa ra thực hiện bị nhân dân phản đối, làm cho Nghị quyết của Hội đồng nhân dân không có hiệu lực hoặc thi hành dở dang.

 

III. Công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện Nghị quyết điều chỉnh, sửa đổi Nghị quyết Hội đồng nhân dân.

Theo khoản 1 Điều 22 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp thì thường trực Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm "....thi hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân". Do vậy, mặc dù việc thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân là trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân và các ngành, các cơ quan trong toàn địa phương và các cơ quan đó phải thực hiện việc kiểm tra thường xuyên để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Song việc đôn đốc, kiểm tra thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân là trách nhiệm chính của Thường trực Hội đồng nhân dân, chủ tịch Hội đồng nhân dân.

Trong thực tế, việc kiểm tra này đã có quan tâm thực hiện, song còn dừng lại ở mức độ nhất định.

ở Hội đồng nhân dân tỉnh công tác kiểm tra, năm tình hình thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân trong các năm qua đã được chú ý. Hàng tháng thường trực Hội đồng nhân dân họp cùng Uỷ ban nhân dân và một số ngành để đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Hội đồng và triển khai các công tác để đảm bảo hoạt động của Hội đồng nhân dân. Các ban của Hội đồng đã thường xuyên nắm bắt tình hình kịp thời, hàng năm làm việc với các ngành hữu quan để kiểm điểm đánh giá tình hình kết quả thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

ở Hội đồng nhân dân các huyện thị việc kiểm tra, nắm tình hình chủ yếu thông qua các kỳ họp của thường trực Hội đồng nhân dân thông qua làm việc giữa thường trực Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân, và các ngành.

ở xã, phường công tác kiểm tra chưa được thực hiện đầy đủ, Thường mỗi năm chỉ tổ chức kiểm tra, nắm lại tình hình một lần vào dịp cuối năm và cũng chỉ kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong năm đó để báo cáo trước kỳ họp cuối năm của Hội đồng nhân dân.

Việc kiểm tra, đôn đốc thường xuyên và trực tiếp của Thường trực Hội đồng nhân dân chưa thực hiện được.

Bên cạnh trách nhiệm của Thường trực Hội đồng nhân dân , các ban của Hội đồng, các tổ đại biểu, các đại biểu Hội đồng đều có trách nhiệm và quyền hạn kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Thực tế việc kiểm tra này mới thực hiện được ở tỉnh và một số huyện, thị còn đa số chưa được thực hiện được. Hàng năm các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh làm việc và nghe báo cáo của các ngành, huyện, thị, kiểm tra một số chuyên đề để đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Các tổ đại biểu và các đại biểu Hội đồng nhân dân chưa thực hiện được vai trò của mình trong việc đôn đốc, kiểm tra, phản ánh tình hình thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, nhất là các đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyên, xã. Công tác kiểm tra thực hiện Nghị quyết chưa được đặt đúng tầm của nó nên Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thực hiện như thế nào chủ yếu tuỳ thuộc vào công tác của Uỷ ban nhân dân và các ngành liên quan; còn nhiều những điều kiện cần thiết để thường trực Hội đồng nhân dân các đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện vai trò kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Mặc dầu quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân quy định "khi phát hiện có sai phạm trong việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc những sai phạm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân địa phương, Thường trực Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan nhà nước hữu quan khác ở địa phương xem xét, xử lý và báo cáo kết quả với thường trực Hội đồng nhân dân trong thời hạn do thường trực Hội đồng nhân dân quy định..." nhưng thực tế chưa thực hiện được nghiêm túc vấn đề này. Mặt khác trong công tác kiểm tra, thường trực Hội đồng nhân dân không có thẩm quyền xử lý mà chỉ yêu cầu các cơ quan khác xử lý nên rất hạn chế. Thực tế là thường trực Hội đồng nhân dân không có quyền lực thực tế nên việc đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân rất khó làm và hiệu quả tác dụng không cao. Do vậy nhiều địa phương Thường trực Hội đồng nhân dân ít quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết hoặc thực hiện trách nhiệm một cách hình thức.

Tuy vậy trong những năm gần đây Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp (nhất là tỉnh, huyện, thị) đã cố gắng kịp thời nằm bắt tình hình thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc. Nhiều địa phương đã phát huy được vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân.

Thí dụ: Hội đồng nhân dân huyện Can lộc một số huyện đã giao trách nhiệm cụ thể cho đại biểu trong việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và xem đây là một chỉ tiêu để đánh giá, khen thưởng đối với từng đại biểu.

Một số địa phương, hàng tháng, hàng quý Thường trực Hội đồng nhân dân họp đều đặn và đánh giá đúng tình hình cụ thể về việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác, không tránh khỏi những bất hợp lý khi đưa ra thực hiện, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Qua nghiên cứu thực tế, nhất là ở cấp xã, có nhiều Nghị quyết của Hội đồng nhân dân không đảm bảo về mặt pháp lý, thậm chí có những quyết nghị hoàn toàn trái pháp luật hoặc không phù hợp với văn bản của cấp trên. Đây là một mâu thuẩn dễ hiểu. Hội đồng nhân dân (mà chủ yếu là các cơ quan tham mưu cho Hội đồng nhân dân) thường bức xúc trước yêu cầu thực tế ở địa phương nên yêu cầu Hội đồng có Nghị quyết để pháp lý hoá một số các yêu cầu công việc bức xúc nên dễ nóng vội, thiếu nghiên cứu kỹ lượng, cộng với trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế vì vậy tham mưu cho Hội đồng nhân dân đưa ra những Nghị quyết "có vấn đề".

Do vậy việc thường xuyên điều chỉnh, sửa đổi Nghị quyết của Hội đồng nhân dân là vấn đề rất cần thiết; và sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung là nhằm bảo đảm để thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân chứ không phải là để làm trái, làm khác đi những nội dung mà Nghị quyết Hội đồng nhân dân đã quy định. Nhưng thực tế hiện nay Hội đồng nhân dân các cấp chưa thực hiện được việc điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi kịp thời đến với các Nghị quyết "có vấn đề". Một số thường trực Hội đồng nhân dân còn ngại sự sửa đổi Nghị quyết mà cho rằng Hội đồng nhân dân đã có Nghị quyết thì bắt buộc phải thực hiện hoặc Nghị quyết chỉ là phương án chung những chỉ tiêu định hướng, những quy định của toàn địa phương cho nên không thể chính xác mà thực hiện được đến đâu là tuy điều kiện cụ thể. Nhiều Nghị quyết đã đưa ra rồi vì không thực hiện được nên tự "đi vào quên lãng". Rất ít có trường hợp nghiên cứu kỹ thêm để đưa ra Hội đồng nhân dân điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi lại hoặc thay đổi các biện pháp để thực hiện Nghị quyết. Đấy là một tình trạng chung không phải riêng gì ở Hà Tĩnh.

Tuy nhiên, trong các năm qua các cấp Hội đồng nhân dân đã rất chú trọng tìm hiểu tình hình thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng, tìm hiểu các nguyên nhân đối với những Nghị quyết không được thực hiện nghiêm túc và đã có những biện pháp để chỉ đạo thực hiện bằng được Nghị quyết của Hội đồng hoặc cố gắng điều chỉnh trong quá trình thực hiện sao cho Nghị quyết vẫn được thực hiện mà không phải đưa ra Hội đồng nhân dân quyết định lại. Song vẫn còn rất nhiều Nghị quyết không được thực hiện triệt để hoặc không thể thực hiện được nhưng vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung, thay đổi kịp thời, nhất là ở nông thôn. Đây là một thực trạng cần phải khắc phục để nâng cao hiệu lực thực tế của Nghị quyết Hội đồng nhân dân.

 

IV. Một vài đánh giá và kiến nghị

Hội đồng nhân dân là cơ quan nhà nước cao nhất ở địa phương; là cơ quan quyết định các vấn đề cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước ở địa phương. Trọng trách và quyền hạn được pháp luật quy định rất lớn nhưng điều kiện, khả năng để thực hiện thì bất cập nên không đáp ứng được yêu cầu mong muốn; trong đó có cả việc không xây dựng và ban hành các Nghị quyết.

Nghị quyết Hội đồng nhân dân các cấp là một văn bản pháp lý rất quan trọng của địa phương nhưng trên thực tế công tác xây dựng các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân chưa ngang tầm với vị trí vai trò của nó. Phần lớn các Nghị quyết chỉ là bản kết luận một kỳ họp Hội đồng không khác mấy một biên bản cuộc họp. Cách thức để xây dựng và ban hành một Nghị quyết Hội đồng nhân dân bao năm vẫn áp dụng tương tự một kiểu mẫu, chưa có những nghiên cứu cải tiến lớn nên chất lượng nội dung và hình thức Nghị quyết còn hạn chế rất nhiều.

Tình trạng đó nhiều nguyên nhân, theo chúng tôi:

Một là: trong quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam từ sau cách mạng tháng tám, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân đã có nhiều thay đổi theo từng thời kỳ cách mạng.

Theo Hiến pháp 1946 Hội đồng nhân dân chỉ được tổ chức ở cấp tỉnh và xã (không có Hội đồng nhân dân huyện). Đến Hiến pháp1959 mới tổ chức đủ Hội đồng nhân dân ở 3 cấp nhưng phải nói rằng từ khi có luật tổ chức Hội đồng nhân dân 1989 thì tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân mới củng cố được một bước. Nhưng đến năm 1994 lại có những thay đổi. Qua những thay đổi này vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân ngày càng nâng cao nhưng lực lượng thường trực, thường xuyên giúp việc cho Hội đồng nhân dân lại chưa được cải thiện đúng mức. Hiện nay thường trực Hội đồng nhân dân thực tế chỉ có 2 người (Chủ tịch và Phó chủ tịch) trong khi đó lại kiêm nhiệm nhiều cương vị khác. ở cấp xã, phường không có thường trực Hội đồng nhân dân các ban của Hội đồng còn thiếu chuyên trách vì vậy việc chỉ đạo, đầu tư cho hoạt động thường xuyên của Hội đồng nhân dân còn hạn chế. Một quy định về cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân của thường trực và các ban của Hội đồng nhân dân chưa hoàn chỉnh, còn vướng mắc nhiều chổ cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những tồn tại trong hoạt động của Hội đồng nhân dân nói chung và công việc xây dựng, ban hành dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trước hết xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử của qúa trình xây dựng cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trong các năm qua.

Hai là: từ nhiều năm nay Nhà nước ta chưa chú trọng việc nghiên cứu để định hình các nguyên tắc, kỷ thuật xây dựng VBPQ ở địa phương. Chưa đặt vấn đề tổng kết lại tình hình để đúc rút kinh nghiệm mà đề ra những cải tiến sửa đổi kịp thời. Chậm ban hành các quy định về trình tự, thủ tục, cách thức xây dựng và ban hành VBPQ ở địa phương mà đặc biệt là các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Ba là: đội ngũ cán bộ viên chức trong các cơ quan thường trực Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân chưa được trang bị các kiến thức pháp luật và kỹ năng xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Bốn là: lực lượng chuyên trách để tham mưu thường xuyên cho các hoạt động của Hội đồng nhân dân quá ít. ở các cấp Hội đồng nhân dân bộ phận thường trực chuyên trách chỉ có 5-7 người, các ban của Hội đồng ngay ở tỉnh cũng chỉ một vài người. Ngoài ra không có một đội ngũ tham mưu chuyên sâu, thường xuyên để giúp thường trực Hội đồng nhân dân trong việc nghiên cứu xây dựng các Nghị quyết, kiểm tra, giám sát, đôn đốc, nắm tình hình thực hiện các Nghị quyết. Đại biểu Hội đồng mỗi năm chỉ họp mấy ngày không đủ thời gian và điều kiện để nghiên cứu thấu đáo mà quyết định những vấn đề lớn của địa phương.

Năm là: thiếu sự quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, soát xét và xử lý về công tác xây dựng ban hành VBPQ của Hội đồng nhân dân cấp trên đối với cấp dưới. Hàng năm, hàng mấy năm Hội đồng nhân dân cấp trên không nắm được hết tình hình ban hành và thực hiện Nghị quyết ở Hội đồng nhân dân cấp dưới. Không hướng dẫn về nghiệp vụ xây dựng VBPQ cho thường trực và đại biểu các Hội đồng. Không kịp thời phát hiện và xử lý các Nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới. Thiếu một sự quản lý thống nhất việc ban hành và thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp.

Từ suy nghĩ về những thực trạng và nguyên nhân nói trên chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau đây:

- Uỷ ban thường vụ Quốc hội cần sớm có chủ trương tổng kết lại trên toàn quốc công tác xây dựng, ban hành và thực hiện các VBPQ của Hội đồng nhân dân các cấp để đánh giá đúng thực trạng của vấn đề, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu và phổ biến những kiến thức về công tác xây dựng VBPQ nói riêng và hoạt động Hội đồng nhân dân nói chung. Để có tài liệu cho các đại biểu Hội đồng nhân dân và những người quan tâm học tập, tham khảo.

- Sớm ban hành luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, các văn bản quy định cụ thể và hướng dẫn công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Đối với Nghị quyết của Hội đồng nhân dân luật cần quy định rõ phạm vi các nội dung được phép đưa vào Nghị quyết của Hội đồng; còn những vấn đề nào thì thuộc nội dung Chỉ thị, Quyết định của Uỷ ban nhân dân. Hiện nay một số địa phương có xu hướng muốn đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân nhiều vấn đề cụ thể, bức xúc để bắt buộc thực hiện nên luật cần có hạn chế để Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tập trung vào quyết định những vấn đề lớn, chung nhất cả địa phương.

Ngoài luật cần có văn bản riêng quy định và hướng dẫn về quy cách xây dựng và ban hành các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Tổ chức các đại biểu Hội đồng nhân dân, các cán bộ chuyên trách giúp việc cho Hội đồng nhân dân nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ và kỹ năng xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Để đảm bảo cho hoạt động của Hội đồng nhân dân có hiệu quả, đảm bảo chuẩn bị chu đáo cho Hội đồng nhân dân ban hành các Nghị quyết cần phải tăng cường lực lượng chuyên trách giúp việc cho thường trực Hội đồng nhân dân bằng 3 phương pháp: Tăng số đại biểu chuyên trách hoạt động trong các ban của Hội đồng nhân dân; tăng số lượng các chuyên viên chuyên môn (không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân) giúp việc cho thường trực Hội đồng nhân dân; tổ chức một "Hội đồng tư vấn" cho thường trực Hội đồng nhân dân các cấp.

- Giao thẩm quyền và trách nhiệm cho thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc chỉ đạo, quản lý, kiểm tra, hướng dẫn, soát xét và xử lý việc xây dựng và ban hành VBPQ của Hội đồng nhân dân cấp dưới.

Để đảm bảo điều kiện cho thường trực Hội đồng nhân dân (tỉnh, huyên, thị) thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình một cách chủ động, chúng tôi đề nghị giao cho thường trực Hội đồng nhân dân thẩm quyền một loại hình thức VBPQ như: "Quyết định của thường trực Hội đồng nhân dân" hoặc "Quyết định của thường trực Hội đồng nhân dân". ý tưởng này đã có rất nhiều địa phương đề xuất, nhất là thường trực các huyện, thị xã.

 

 

một số suy nghĩ bước đầu về công tác

xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật

của chính quyền các cấp tại Quảng Trị

 

Nguyễn Đức Chính

 

P. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Trị

 

Nguyên Giám đốc Sở Tư pháp Quảng Trị

 

Cũng như Quảng Bình và Thừa Thiên Huế, Sở Tư pháp Quảng Trị được lập lại từ sau ngày tách tỉnh (1-7-1989), với đội ngũ cán bộ còn thiếu, cộng thêm việc các phòng tư pháp huyện, thị xã chưa được thành lập, các Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn hoạt động ít hiệu quả, cơ sở vật chất còn khó khăn đã làm hạn chế rất lớn đến kết quả công tác của ngành nói chung và công tác văn bản nói riêng. Trong điều kiện đó, Sở Tư pháp Quảng Trị đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành là phải tập trung tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước tại địa phương, nhằm thay thế các văn bản của tỉnh cũ đang còn có hiệu lực thi hành. Vì vậy, trong những năm 1990 - 1991 Sở Tư pháp đã tập trung lực lượng giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng hệ thống văn bản phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn. Trong hai năm sau ngày tỉnh được lập lại, Sở Tư pháp với trách nhiệm của mình đã trực tiếp soạn thảo, tham gia soạn thảo gần 60 văn bản quy phạm pháp luật trên nhiều lĩnh vực khác nhau như quản lý đất đai, quản lý quy hoạch đô thị, quản lý thị trường... quy chế làm việc của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan, Ban ngành và nhiều chỉ thị quan trọng khác để chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của tỉnh. Cùng với việc đó, Sở Tư pháp đã chủ động lập chương trình và tiến hành kiểm tra, rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã trong tỉnh. Sau đợt kiểm tra đã trình Uỷ ban nhân dân tỉnh cho ý kiến xử lý những văn bản không còn phù hợp với điều kiện quản lý của tỉnh mới và chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp huyện xử lý, huỷ bỏ những văn bản trái pháp luật, ban hành những văn bản mới. Kết quả của việc xây dựng hệ thống văn bản mới của tỉnh, huyện, thị xã sau khi đã tiến hành đợt rà soát đã tạo ra sự lành mạnh và thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn toàn tỉnh. Việc làm này đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng và ổn định một bước trật tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên phạm vi toàn tỉnh. Từ kết qủa trên, ngành Tư pháp bước đầu đã tạo dựng được niềm tin của Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân tỉnh, làm thay đổi tâm lý "có ngành tư pháp cũng được, không có cũng chẳng sao" của các ngành, các cấp, đặc biệt là văn phòng Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Đầu năm 1993, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ra chỉ thị về công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó quy định rõ "tất cả các ngành các cấp khi trình văn bản quy phạm pháp luật lên Uỷ ban nhân dân tỉnh đề nghị ban hành phải thông qua Sở Tư pháp để thẩm tra về mặt pháp lý"; "Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gửi văn bản về Sở Tư pháp để theo dõi và kiểm tra tính pháp lý". Chỉ thị nói trên đã tạo điều kiện cho ngành tư pháp bắt tay vào công việc một cách chủ động hơn với tư cách là một chủ thể không thể thiếu được trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương. Cùng với việc Chính phủ ban hành Nghị định 38/CP ngày 4-6-1993 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp và Thông tư Liên Bộ số: 12/TTLB, ngày 26-7-1993 của Liên bộ Bộ Tư pháp - Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan tư pháp địa phương, các Phòng tư pháp huyện, thị xã được lập lại, đội ngũ cán bộ của Sở được tăng cương hơn so với trước đã tạo thuận lợi quan trọng cho công tác giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc xây dựng và ban hành văn bản qui phạm pháp luật.

Phát huy những kết quả đã đạt được trong những năm trước, tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới, Sở Tư pháp đã tích cực củng cố lực lượng, đầu tư cán bộ chuyên sâu về công tác văn bản để nâng cao chất lượng về công tác tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Năm Trực tiếp soạn thảo Tham gia soạn thảo Thẩm tra văn bản

1990-1991 18 39 0

1992 14 30 25

1993 22 15 25

1994 45 25 15

1995 61 27 18

1996 25 35 45

Như vậy, từ năm 1990 đến 1996, Sở Tư pháp đã trực tiếp tham gia soạn thảo 185 văn bản, tham gia soạn thảo 171 văn bản pháp quy, thẩm tra về mặt pháp lý 128 văn bản pháp quy. Một khối lượng công việc tuy không lớn, song với đặc điểm của một đơn vị lực lượng cán bộ còn thiếu, cán bộ chuyên trách về mặt công tác văn thư chưa có nhiều kinh nghiệm thì việc hoàn thành khối lượng công việc như đã nêu là một cố gắng lớn.

Đối với các phòng tư pháp huyện, thị xã: Từ khi các phòng tư pháp được lập lại (5/1993) dưới sự chỉ đạo của Sở, nhiều phòng tư pháp đã có nhiều cố gắng trong việc tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp về công tác xây dựng và ban hành văn bản. Từ năm 1993 đến nay, 9 phòng tư pháp huyện, thị trong tỉnh đã trực tiếp soạn thảo: 250 văn bản pháp quy, tham gia soạn thảo và thẩm tra về mặt pháp lý 425 văn bản.

Ngoài ra để nâng cao kiến thức xây dựng văn bản cho cán bộ tư pháp, văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Sở Tư pháp đã phối hợp với văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức nhiều lớp tập huấn về kỷ thuật soạn thảo văn bản, kỷ năng xem xét, thẩm tra các văn bản quy phạm pháp luật cho cán bộ tư pháp và Văn phòng Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã trong tỉnh. Việc làm này đã tạo điều kiện cho cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng và ban hành văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp huyện có điều kiện để tự nghiên cứu và chủ động hơn trong công tác tham mưu cho Uỷ ban nhân dân về công tác văn bản.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện công tác tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân xây dựng ban hành văn bản còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc nhất định.

Cán bộ ngành vừa thiếu, lại vừa yếu về kiến thức pháp luật và thực tiễn công tác, chưa bao quát được công việc, đôi khi còn thụ động, lúng túng trong việc tham gia soạn thảo, thẩm định các văn bản quy phạm do Uỷ ban nhân dân tỉnh giao, đặc biệt là các văn bản thuộc lĩnh vực kinh tế; chất lượng ý kiến thẩm định chưa đạt yêu cầu mong muốn.

Quá trình tham gia văn bản do thiếu tài liệu để tra cứu, đối chiếu, so sánh nên chất lượng thẩm định còn thấp, cá biệt còn có trường hợp không phát hiện được những quy định được đặt ra trong văn bản dự thảo trái với các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên.

Nhiều văn bản trong quá trình dự thảo được chỉnh lý, chuẩn bị khá kỷ về nội dung, hình thức, nhưng đến khâu chỉnh lý cuối cùng trước khi trình ký (tại văn phòng Uỷ ban nhân dân) bị sửa đổi, bổ sung một cách tuỳ tiện thiếu căn cứ pháp luật dẫn đến những sai sót không đáng có.

Vẫn còn có văn bản quy phạm các ngành trình văn bản bằng cách đặt ra những quy định tạo quyền lực và lợi thế cho ngành mình, mặc dù đã có ý kiến tham gia của ngành tư pháp, nhưng không thuộc Uỷ ban nhân dân chấp nhận. Có văn bản còn bỏ qua khâu thẩm định về mặt pháp lý trước khi ban hành nên sau khi văn bản có hiệu lực đã phát hiện ra những chồng chéo, thậm chí trái với các quy định của các văn bản khác.

Công tác xây dựng và ban hành văn bản là mặt công tác rất quan trọng của Uỷ ban nhân dân các cấp, nhưng chưa được quan tâm tổng kết rút kinh nghiệm một cách tương xứng như các lĩnh vực khác thuộc trách nhiệm của chính quyền các cấp.

Cơ quan tư pháp địa phương được giao trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân về mặt công tác này, nhưng quá trình hoạt động còn thiếu sự hướng dẫn giúp đỡ của cơ quan tư pháp cấp trên. Ngoài quy định về chức năng, nhiệm vụ được nêu trong các văn bản về tổ chức của ngành chưa có một văn bản nào của Chính phủ hoặc Bộ hướng dẫn quy trình, thủ tục, trình tự và trách nhiệm cụ thể của cơ quan tư pháp trong lĩnh vực tham gia xây dựng, thẩm định các văn bản quy phạm ở địa phương.

* Những kinh nghiệm rút ra từ công tác này:

- Công tác xây dựng và ban hành quy phạm pháp luật là một mặt công tác rất quan trọng của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, chất lượng công tác này sẽ có tác động rất lớn đến hiệu quả quản lý nhà nước tại địa phương. Vì vậy, nếu nơi nào cơ quan tư pháp thực hiện tốt việc tham mưu giúp Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp về mặt công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quản lý tốt việc ban hành văn bản của chính quyền cấp dưới, thì vai trò, vị trí của cơ quan tư pháp sẽ được nâng lên rõ rệt.

- Để làm tốt công tác tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trước tiên phải chuẩn bị một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ, am hiểu sâu về kỷ thuật lập quy có kinh nghiệm thực tiễn, mới có khả năng tham gia tốt vào việc thẩm định hoặc tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Điều này đòi hỏi ngành phải tập trung lực lượng cán bộ có năng lực cho bộ phận giúp việc về công tác văn bản, thường xuyên tập huấn về nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác này. Cùng với việc tham mưu cho Uỷ ban nhân dân trong công tác xây dựng văn bản cần phải chủ động đề xuất với Uỷ ban nhân dân để làm tốt công tác quản lý việc xây dựng và ban hành văn bản của chính quyền cấp dưới thông qua công tác kiểm tra.

- Quá trình thực hiện công tác này phải có sự đầu tư về mặt thời gian để nghiên cứu khảo sát, trao đổi kỷ với các cơ quan chuyên ngành ở địa phương, không vì áp lực về thời gian mà tham gia qua loa, sơ sài. Những vấn đề tham gia phải được thuyết trình rõ ràng đủ sức thuyết phục. Đồng thời phải có lập trường và kiên quyết đấu tranh để bảo vệ ý kiến của mình khi phát hiện thấy văn bản dự thảo vượt thẩm quyền hoặc đề ra những quy định trái pháp luật, không vì bất cứ lý do gì mà dẫn đến việc thảo hiệp, hoặc thụ động chấp nhận những quy định không đúng đắn của dự thảo. Nếu không có sự đấu tranh để bảo vệ hoặc bảo lưu ý kiến về những vấn đề không đúng của văn bản, khi văn bản có hiệu lực phát hiện có sai lầm sẽ không phân định được trách nhiệm của các cơ quan tham gia vào quá trình chuẩn bị dự thảo (tại Quảng Trị đã có trường hợp ý kiến của cơ quan Tư pháp trái ngược với ý kiến của cơ quan chuẩn bị dự thảo, văn phòng Uỷ ban nhân dân dẫn đến việc Uỷ ban nhân dân tỉnh phải tổ chức họp để xem xét, cuối cùng phải làm văn bản xin ý kiến của Chính phủ, văn bản trả lời của Chính phủ đã thống nhất với ý kiến của cơ quan Tư pháp và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã quyết định không ban hành văn bản).

- Khi tham gia một số quy phạm pháp luật cần phải sưu tầm đủ các văn bản pháp luật có liên quan đến những vấn đề mà dự thảo đặt ra để đối chiếu, so sánh, nếu bỏ qua khâu này dễ dẫn đến những sai sót nghiệm trọng tạo ra sự thiếu thống nhất về mặt pháp chế.

* Những kiến nghị và đề xuất.

- Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới yêu cầu phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng vừa phải bổ sung sửa đổi những văn bản pháp luật hiện hành vừa phải xây dựng những văn bản pháp luật mới, nhằm tạo ra hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng cho sự phát triển của đất nước. Trong điều kiện hiện nay, ngoài những văn bản pháp luật của các cơ quan Nhà nước Trung ương, không thể không tính đến vai trò của các văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên, trình trạng thiếu trật tự, vi phạm nguyên tắc pháp chế trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương đang là vấn đề phải được quan tâm xử lý. Vì vậy, cùng với việc ban hành "Luật văn bản quy phạm pháp luật" cần sớm ban hành "luật văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương". Theo thiết nghĩ của chúng tôi, nhiệm vụ của luật là phải quy định rõ trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp; phân định rõ trách nhiệm của chính quyền các cấp, trách nhiệm của các ngành tham mưu, đặc biệt là ngành Tư pháp nhằm tạo điều kiện cho cơ quan Tư pháp các cấp có đủ cơ sở pháp lý để tham gia vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương với tư cách là một chủ thể không thể thiếu được; xác định rõ trách nhiệm kiểm tra giám sát của cơ quan chính quyền cấp trên đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan chính quyền cấp dưới, tránh tình trạng văn bản của cấp nào thì cấp ấy biết; quy trình huỷ bỏ, sữa đổi, bỏ sung các văn bản sai pháp luật hoặc có chứa quy phạm trái với văn bản của cấp trên thiếu cụ thể rõ ràng.

Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Thực tiễn cho thấy các văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền cấp cơ sở (Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân) ban hành thường có nhiều quy định trái pháp luật, nhất là trong lĩnh vực thu phí và lệ phí, đặt ra những quy định xử phạt vi phạm hành chính và các quy định khác trái pháp luật, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân. Vì vậy, không nên quy định cho chính quyền cấp cơ sở có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; nếu xét thấy cần thiết chỉ cho phép chính quyền cấp cơ sở ban hành một cách có hạn chế các văn bản quy phạm pháp luật để phục vụ cho công tác quản lý tại địa phương, nhưng có quy định: văn bản có hiệu lực sau khi được phê duyệt của cơ quan quản lý cấp trên. Có như vậy mới có thể quản lý tốt được công tác xây dựng và ban hành văn bản của các cơ quan chính quyền cấp cơ sở, hạn chế được những sai phạm tác động xấu đến sự ổn định ở các địa phương.

- Đề nghị Chính phủ có chương trình bồi dưỡng cán bộ làm công tác tham mưu giúp chính quyền các cấp trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thường xuyên cung cấp cho lực lượng này những thông tin pháp lý cần thiết phục vụ cho công tác tham mưu xây dựng ban hành văn bản.

- Đề nghị Bộ sớm có chương trình hệ thống hoá (bằng tin học) các văn bản quy phạm pháp luật (Luật các văn bản dưới luật) để giúp các cơ quan làm nhiệm vụ tham mưu về văn bản có điều kiện tra cứu, đối chiếu để làm tốt việc thẩm định về mặt pháp lý các văn bản quy phạm pháp luật.

- Đề nghị Chính phủ có chủ trương tổng kết về công tác xây dựng và ban hành văn bản để rút kinh nghiệm trong quá trình quản lý, nhằm thực hiện tốt hơn công tác xây dựng và ban hành văn bản của chính quyền địa phương.

- Chính phủ cần phải có chương trình kiểm tra thường xuyên công tác xây dựng và ban hành văn bản của các địa phương, để kịp thời phát hiện những văn bản có sai sót, vi phạm; Quy định rõ trách nhiệm kiểm tra, giám sát và ban hành văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp trên đối với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp dưới.

 

Thực trạng

công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

hiện nay của tỉnh Quảng Bình. Một số đề xuất, kiến nghị

 

Trà Đình Xuân

Giám đốc Sở Tư pháp - Quảng Bình

 

Hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hình thức hoạt động quan trọng, cơ bản nhất, quyết định hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của mình. Đặc biệt trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, một xã hội văn minh dân chủ hiện nay, đòi hỏi tất cả các quan hệ xã hội đều phải được điều chỉnh bằng pháp luật thì công tác đó càng cần thiết và quan trọng hơn.

Những điều mà chúng tôi quan tâm hơn đó là làm thế nào để tất cả các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền các cấp nói riêng, ban hành đúng về nội dung, hình thức, không trái thẩm quyền, có hiệu lực pháp lý cao, có tính khả thi trong thực tế. Vừa đảm bảo cụ thể hoá các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên vừa phù hợp với tình hình đặc điểm của địa phương mà Nhà nước chưa quy định. Những yêu cầu đòi hỏi trên rất khó thực hiện. Càng khó hơn khi hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thực tiễn hoặc những tài liệu có tính chất tham khảo chứ chưa có những quy định cụ thể có tính chất pháp lý cao làm cơ sở. Vì vậy, có những thiếu sót tồn tại trong công tác này là điều tất nhiên, khó có thể tránh khỏi. Nhưng chúng tôi tin rằng ít nhiều làm cơ sở cho việc đi đến một quyết định đúng đắn sau này của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đó là việc Quốc hội xem xét và thông qua Luật về thẩm quyền trình tự và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Một đạo luật mà hơn ai hết, có lẽ chúng ta là những người mong đợi và cần thiết nhất.

Chúng tôi xin được trình bày với 3 vấn đề chính sau đây:

1- Những kết quả đã đạt được và một số tồn tại trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Quảng Bình.

2- Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương Quảng Bình.

3- Một số đề xuất, kiến nghị.

1- Những kết quả đã đạt được và một số tồn tại trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Quảng Bình.

Xuất phát từ vị trí, vai trò và mục đích của việc soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước. Thời gian qua, các cấp chính quyền ở tỉnh Quảng Bình đã rất chú trọng, quan tâm đến công tác này. Sau nửa năm (kể từ ngày tách tỉnh), Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ thị 01/CP-UB ngày 06-01-1990 "về việc tăng cường chỉ đạo công tác, xây dựng ban hành và lưu trữ văn bản pháp quy". Trong đó, nhấn mạnh việc quy định cho Uỷ ban nhân dân các cấp, các ngành chỉ được ban hành văn bản theo đúng thẩm quyền đã được quy định tại thông tư số 02/TT ngày 11-01-1982 của Bộ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Bộ trưởng. Đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân trước tập thể lãnh đạo và trước cơ quan cấp trên về tính đúng đắn của văn bản đã ký cả về nội dung lẫn hình thức.

Gần đây, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành quyết định 1074/QĐ-UB ngày 01-9-1997 "về thẩm quyền ký các văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh".

Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước bằng pháp luật ở địa phương, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 3 cấp ở tỉnh Quảng Bình đã ban hành một số lượng tương đối lớn văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.

Theo số liệu nắm được qua việc rà soát, hệ thống hoá và theo số liệu báo cáo của các huyện thị trong tỉnh thì số lượng văn bản được ban hành của chính quyền các cấp trong những khoảng thời gian cụ thể như sau:

- Từ 1-7-1989 đến hết tháng 11-1997, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành 34 Nghị quyết. Hội đồng nhân dân của 5/7 huyện thị đã ban hành 143 Nghị quyết; Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành 355 Chỉ thị và 275 Quyết định có chứa đựng các quy phạm pháp luật (trong thời gian từ 1/7/1989 đến 31/12/1996).

- Theo số liệu báo cáo của các huyện, thị thì số lượng văn bản do Uỷ ban nhân dân các huyện, thị ban hành không đồng đều. Điều đó được thể hiện bằng các số liệu cụ thể sau đây:

+ Uỷ ban nhân dân huyện Quảng trạch trong thời gian từ năm 1992 đến hết tháng 11/1997 đã ban hành 6528 văn bản (gồm 214 chỉ thị và 6314 quyết định), trong đó có 188 quyết định và chỉ thị có tính quy phạm.

+ Cũng trong khoảng thời gian trên, Uỷ ban nhân dân huyện Bố trạch đã ban hành 880 văn bản (gồm 763 quyết định, 117 chỉ thị).

+ Uỷ ban nhân dân thị xã Đồng Hới đã ban hành 664 văn bản (gồm 662 quyết định và 42 chỉ thị).

+ Uỷ ban nhân dân huyện miền núi Tuyên Hoá đã ban hành 98 văn bản (gồm 69 chỉ thị và 29 quyết định).

+ Uỷ ban nhân dân huyện Quảng Ninh đã ban hành 1362 văn bản (gồm 1204 quyết định và 158 chỉ thị).

Riêng ở cấp xã thì số lượng văn bản được ban hành ít hơn so với cấp huyện cấp tỉnh, Có thể nêu một vài số liệu minh hoạ như sau:

+ Từ tháng 1-1994 đến tháng 9-1996, Uỷ ban nhân dân huyện Lương Ninh (Quảng Ninh) đã ban hành 137 văn bản, Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh Ninh (Quảng Ninh) đã ban hành 68 văn bản (gồm 11 chỉ thị và 57 quyết định).

Từ tháng 1-1995 đến tháng 12-1997 Uỷ ban nhân dân phường Hải Định (thị xã Đồng Hới) đã ban hành 10 quyết định, 9 chỉ thị; Hội đồng nhân dân phường Hải Định đã ban hành 7 Nghị quyết. Uỷ ban nhân dân phường Hải Thành đã ban hành 20 quyết định, 11 chỉ thị; Hội đồng nhân dân phường Hải Thành đã ban hành 7 Nghị quyết. Uỷ ban nhân dân xã Bảo Ninh đã ban hành 22 quyết định, 14 chỉ thị; Hội đồng nhân dân xã Bảo Ninh đã ban hành 8 Nghị quyết.

Các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật do chính quyền các cấp ở Quảng Bình ban hành đã kịp thời cụ thể hoá các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên. Hoặc kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh ở địa phương mà chưa có văn bản pháp luật nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên quy định. Vừa phối hợp với tình hình, đặc điểm và điều kiện của địa phương. Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ giữa văn bản pháp luật của địa phương với văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương ban hành.

Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã tuân thủ đúng quy định thẩm quyền về hình thức (Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định và Chỉ thị). Các văn bản được ban hành cơ bản đã tuân thủ đầy đủ, đúng quy tắc về căn cứ lựa chọn hình thức về cơ cấu, bố cục, về ngữ và thể văn pháp luật. Tính mục đích và tính khả thi của văn bản được chú trọng, đề cao. Chỉ ban hành văn bản trong những trường hợp cần thiết. Quan niệm cấp trên ban hành văn bản quy định vấn đề gì thì cấp dưới phải có văn bản quy định vấn đề đó dần dần được khắc phục. Văn bản thiếu trích yếu hoặc trích yếu thiếu chính xác, văn bản sai căn cứ pháp lý để ban hành, thiếu nơi nhận "quên" ghi ngày tháng năm ban hành dần dần được loại bỏ. Càng về sau, các văn bản ban hành càng ít sai sót hơn, văn bản ở cấp tỉnh ít sai sót hơn văn bản do cấp dưới ban hành.

Có thể nói, hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc quản lý nhà nước ở địa phương trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, tổ chức cán bộ, biên chế lao động, tiền lương, tổ chức thực hiện thu chi ngân sách tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp công dân.

Điều đó thể hiện sự quan tâm chỉ đạo kịp thời trực tiếp các cấp uỷ Đảng, sự cố gắng của chính quyền và vai trò tham mưu tích cực của cơ quan tư pháp các cấp, của các chuyên viên, tổ chức pháp chế ngành và những người trực tiếp soạn thảo trước khi trình ký ban hành.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà chủ yếu là nguyên nhân khách quan, vì vậy, công tác này trong thời gian qua vẫn có một số tồn tại, thiếu sót (nhất là văn bản ở cấp huyện và cấp xã). Chúng tôi mạnh dạn nêu lên tại cuộc hội thảo này để chúng ta cùng tham khảo. Trên cơ sở đó mong có những giải pháp hữu hiệu nhất từ cơ quan nhà nước cấp trên (trực tiếp là Bộ Tư pháp) để các văn bản do các cấp chính quyền trong toàn quốc, 6 tỉnh miền trung nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng ban hành được đúng đắn hơn, ít sai sót hơn, phát huy hiệu lực thực hiện cao hơn trong thực tế. Một số tồn tại đó là: Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song các văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương (nhất là ở cấp xã) chưa được đảm bảo thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật. Một số văn bản ban hành trái thẩm quyền về nội dung (quy định cả những vấn đề không thuộc thẩm quyền của mình). Một số văn bản chưa nêu bật được những căn cứ để thể hiện nội dung của văn bản, Uỷ ban nhân dân một số cấp xã đã căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ làm căn cứ trao quyền để ban hành quyết định thuộc thẩm quyền các mình. Tồn tại tương đối phổ biến là hình thức văn bản không phù hợp với nội dung văn bản. Nghĩa là, văn bản có nội dung truyền đạt mệnh lệnh yêu cầu, có chứa đựng các quy phạm pháp luật nhưng lại được ban hành bằng hình thức thông báo hoặc công văn hành chính thông thường. Ngược lại, có những văn bản ban hành bằng hình thức chỉ thị, quyết định (trừ các quyết định, chỉ thị mang tính chất áp dụng quy phạm pháp luật) nhưng không đạt ra các quy phạm pháp luật hoặc chỉ sao chép đơn thuần quy định của cấp trên. Thiếu sự cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương, của từng đối tượng hoạt động. Vì vậy giá trị pháp lý, hiệu lực thực hiện đối với những loại văn bản này thường thấp. Ngoài ra có một số thiếu sót khác như văn bản không ghi số thứ tự, ký hiệu hoặc có ghi nhưng không theo thứ tự. Mà có địa phương (cấp xã) đã quan niệm "hên" "xui" trong việc chọn số văn bản. Nên đã chọn các số cho "đẹp" . Dẫn đến tình trạng tuỳ tiện trong việc đánh số thứ tự, nhiều văn bản trùng số, gây khó khăn trong việc rà soát, hệ thống hoá và trong việc áp dụng. Trừ cấp tỉnh, việc phân chia thẩm quyền ký các loại văn bản chưa thống nhất, chưa cụ thể. Nhiều văn bản còn dùng từ địa phương. Nhiều thiếu sót tồn tại trên ít nhiều đã ảnh hưởng đến hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.

2. Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở tỉnh Quảng Bình.

Như ở phần trên của bản tham luận đã đề cập, là hiện nay chúng ta chưa có một văn bản pháp lý nào quy định trình tự, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Cũng như có văn bản nào quy định rõ nội dung của Nghị quyết Hội đồng nhân dân quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân quy định những vấn đề gì. Vì vậy, chính quyền các cấp ở Quảng Bình cũng nằm trong tình trạng chung như trên trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thiếu cơ quan chủ trì trong việc tham mưu cho Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân cùng cấp về việc xây dựng chương trình kế hoạch ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Tuy vậy, qua tham khảo và qua theo dõi tình hình cụ thể ở địa phương nhận thấy: việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thực hiện theo quy trình: Các ngành, lĩnh vực chuyên môn soạn thảo văn bản, thẩm tra tính đúng đắn của văn bản. Nếu xét thấy đảm bảo nội dung yêu cầu và thể thức thì ghi ý kiến nhận xét và đề xuất vào phiếu trình giải quyết công việc (theo mẫu). Sau đó trình Chủ tịch (Phó Chủ tịch) ký vào bản gốc và đánh máy, bản đánh máy phải được soát xét kỹ. Người soát xét và Chánh (Phó) văn phòng ký vào bản đánh máy mới được đóng dấu.

Trường hợp cần thiết thì ngành lĩnh vực chuyên môn cùng phối hợp với Sở Tư pháp ngay trong giai đoạn soạn thảo và cùng trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành. Hoặc ngành, lĩnh vực chuyên môn chủ động soạn thảo, trình Uỷ ban nhân dân. Nếu thấy cần phải có ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp thì văn phòng Uỷ ban nhân dân chuyển cho Sở Tư pháp để có ý kiến tham gia. Sau đó chỉnh lý và trình Uỷ ban nhân dân ký ban hành.

Đối với văn bản quy phạm pháp luật quy định những vấn đề có tính tổng hợp, liên quan đến nhiều ngành nhiều lĩnh vực khác nhau thì chuyên viên văn phòng Uỷ ban nhân dân soạn thảo và trình Uỷ ban nhân dân ký ban hành.

ở cấp huyện, xã quy trình trên không thống nhất. ở một số huyện thì việc soạn thảo văn bản giao cho các ngành chuyên môn. Sau đó gửi bản dự thảo đến Chánh văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện xem xét, chỉnh lý, tiếp đến chuyển văn bản đã được xem xét về cho ngành trực tiếp soạn thảo trình Uỷ ban nhân dân ký tắt. Tiếp theo là chuyển lại cho Chánh Văn phòng để cho đánh máy. Khi đánh máy xong ngành soạn văn bản trực tiếp trình Chủ tịch (hoặc Phó Chủ tịch) Uỷ ban nhân dân ký ban hành. ở một số huyện, thị thì trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật thường là các ngành trực tiếp soạn thảo và trình Chủ tịch (hoặc Phó Chủ tịch) Uỷ ban nhân dân huyện, thị ký ban hành. Sau khi đã có ý kiến thẩm định của phòng tư pháp.

Trong thực tế nhận thấy rằng nếu văn bản quy định về lĩnh vực chuyên môn nào do ngành, lĩnh vực chuyên môn đó soạn thảo thì có ưu tiên là: Quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn, do am hiểu hơn về lĩnh vực chuyên môn, nhưng thường "thiên vị" hơn, quy định có lợi hơn cho ngành lĩnh vực đó. Mặc khác, kỷ thuật lập quy thường không được đảm bảo, các thuật ngữ pháp lý được dùng thường không chính xác, thiếu chặt chẽ. Nếu giao cho ngành trung gian hoặc cơ quan Tư pháp soạn thảo thì thường không am hiểu hết các lĩnh vực chuyên môn, Các thuật ngữ khoa học thuộc lĩnh vực chuyên môn. Các thuộc ngữ khoa học thuộc lĩnh vực chuyên môn không được sử dụng đúng. Tuy nhiên, kỹ thuật lập quy được đảm bảo. Vì vậy, một số văn bản quy phạm pháp luật ban hành đúng đắn thì cần phải có sự kết hợp giữa các cơ quan chuyên môn và cơ quan Tư pháp trong quá trình soạn thảo văn bản.

3. Một số đề xuất và kiến nghị:

Trước hết đề nghị Bộ Tư pháp cần tham mưu do Chính phủ sớm trình dự án "Luật thẩm quyền, trình tự và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân". Trong đó cần quy định rõ thẩm quyền, trình tự ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Quy định bố cục, cơ cấu của mỗi loại văn bản, quy định người nào có thẩm quyền ký loại văn bản nào. Cần quy định rõ việc xử lý đối với văn bản ban hành sai thẩm quyền, sai hình thức. Về phạm vi nội dung của từng loại văn bản cần được quy định rõ. Nên chăng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân dùng để thông qua các phương hướng, kế hoạch, quyết toán ngân sách địa phương, quyết định những vấn đề về phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội, an ninh quốc phòng, hướng dẫn việc vận dụng các chính sách pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảnh của từng địa phương. Quyết định của Uỷ ban nhân dân dùng để ban hành các chủ trương, biện pháp cụ thể để thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân dùng để truyền đạt mệnh lệnh và chỉ đạo thực hiện các chủ trương chính sách của cấp trên các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định của Uỷ ban nhân dân cùng cấp.

- Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật: nên để Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cả 3 cấp đều có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó Hội đồng nhân dân có thẩm quyền ban hành Nghị quyết, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị.

- Để cơ quan tư pháp thực hiện tốt nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc quản lý thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân. Đề nghị Luật cần quy định rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan tư pháp trong việc xây dựng, ban hành văn bản.

Mặt khác cần tăng cường củng cố, ổn định về mặt tổ chức đối với cơ quan tư pháp để đủ sức đảm nhiệm vụ nặng nề và khó khăn nêu trên. Bộ Tư pháp cần thực hiện tốt nhiệm vụ bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý chung và trình độ, kỷ năng xây dựng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật nói riêng cho cán bộ tư pháp địa phương.

Đồng thời đề nghị Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân tỉnh cần quan tâm hơn nữa công tác xây dựng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật để công tác này ngày một tốt hơn, tiến độ hơn. Trước mắt cần bố trí số chuyên viên xây dựng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh có đủ số lượng biên chế và trình độ nghiệp vụ để tham mưu cho Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cùng cấp.

 

Cơ sở phân định thẩm quyền ban hành

văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp

 

Đỗ xuân Nhĩ - Giám đốc

Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương

 

Hải Dương là tỉnh mới được tái lập từ 1-1-1997. Ngay sau khi được chia tách, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã triển khai nhiểu nhiệm vụ đảm bảo cho sự quản lý thống nhất và phát triển toàn diện đời sống nhân dân, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Uỷ ban nhân dân tỉnh ra văn bản chỉ đạo các ngành, các cấp tiến hành rà soát các văn bản quản lý của từng địa phương và của cấp tỉnh ban hành. Tiến hành tu chỉnh những nội dung không phù hợp để đảm bảo cho việc thực hiện ở địa bàn tỉnh mới được tái lập.

Thực hiện sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh đã tích cực, khẩn trương tiến hành rà soát văn bản của tỉnh Hải Hưng trước đây nay không còn phù hợp. Đã kịp thời tu chỉnh, xác định các văn bản còn hiệu lực thành văn bản của tỉnh Hải Dương đảm bảo cho việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn được thống nhất, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Tuy nhiên, việc soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền nhất là ở cấp huyện và cấp xã còn nhiều bất cập, lúng túng trong công tác soạn thảo và ban hành văn bản, còn đặt ra những lệ làng trái phép nước mà những nội dung này cần phải được khắc phục đảm bảo tính thống nhất trong thực hiện pháp luật của Nhà nước là văn bản cấp dước không được trái với văn bản của cấp trên.

Để làm rõ về thẩm quyền ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp, trong chuyên đề này xin được đề cập đến các nội dung sau:

 

I. Thực trạng công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Hải Dương trong những năm qua.

1. Tình hình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Trong những năm qua, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Hưng trước đây và tỉnh Hải Dương hiện nay, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh luôn được quan tâm và đi vào nề nếp; nhiều văn bản luật, pháp lệnh, văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, ngành cần được thể chế hoá kịp thời cho phù hợp với đặc điểm chính trị, kinh tế - văn hoá xã hội của địa phương. Những văn bản được ban hành đều có tính khả thi, đảm bảo việc giải quyết các yêu cầu công việc của công dân và tổ chức được thuận tiện, đơn giải góp phần nâng cao năng lực quản lý điều hành của cơ quan nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương được đi vào chiều sâu và bề rộng. Nhiều thủ tục hành chính trước đây gây phiền hà cho giải quyết công việc. Song hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh đã kịp thời giải quyết, tháo gỡ vướng mắc như thủ tục thành lập doanh nghiệp tập trung ở Sở Kế hoạch - Đầu tư, thủ tục cấp đất tập trung vào Sở Địa chính và các thủ tục về cấp phép xây dựng, thu phí, lệ phí công chứng, hộ tịch... đều được xác định rõ cơ quan đầu mối đảm bảo cho yêu cầu giải quyết công việc được thuận tiện. Sở dĩnh các văn bản của tỉnh ban hành được nhân dân, xã hội chấp nhận và việc giải quyết công việc được thuận tiện hơn đó là việc chấp hành tuân thủ Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp được thực hiện nghiêm chỉnh và đặc biệt Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được các cơ quan, tổ chức thực hiện triệt để, tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng quy định.

Tóm lại, văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành trong những năm qua đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới của đất nước; phù hợp với đặc điểm của địa phương. Nhiều quy định chưa được đề cập hoặc đề cập chưa đầy đủ thì văn bản của chính quyền cấp tỉnh đã kịp thời khắc phục các văn bản đó đảm bảo việc thực hiện pháp luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên được kịp thời, các văn bản đó được ban hành theo chức năng được pháp luật quy định đó là: văn bản quy định về việc chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương về phát triển kinh tế - xã hội... Những vấn đền này đều được Hội đồng nhân dân xem xét và có chủ trương, biện pháp để thực hiện. Để triển khai thực hiện các văn bản luật, pháp lệnh, nghị định, các văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, ngành và nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức thực hiện các văn bản trên được kịp thời trong địa bàn tỉnh. Hàng năm ở Hải Dương banhành khoảng từ 80 đến 100 văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản này đã phát huy tác dụng tích cực trong việc tổ chức thực hiện chấp hành pháp luật ở địa phương trong toàn tỉnh.

Bên cạnh đó, việc ban hành văn bản của cấp huyện và xã còn tồn tại nhất định, mặc dù đã được hướng dẫn và tổ chức việc rà soát để kịp thời phát hiện những vi phạm để khắc phục. Trong những năm qua, nhiều huyện, xã, muốn được đề cao vai trò và tính nghiêm minh của pháp luật, muốn khẳng định mình trong quản lý xã hội vẫn còn ban hành văn bản trái thẩm quyền, hoặc thậm chí nhiều nơi như ở cấp xã do không nắm vững quy định của pháp luật do vậy hàng năm không ban hành một văn bản quy phạm pháp luật nào mà việc triển khai chủ yếu thông qua tập thể bằng nghị quyết cuộc họp của Uỷ ban nhân dân với các trưởng thôn để tổ chức thực hiện trong phạm vi địa bàn.

Những tồn tại trong công tác soạn thảo ban hành văn bản của các cấp chính quyền cụ thể là việc đặt ra những khoản thu phí, lệ phí trái quy định của pháp luật, ra nghị quyết bán đất cho nhân dân làm nhà ở thu tiền xây dựng điện, cơ sở hạ tầng như Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng ngày 10-7-1990 quy định: "Thu lệ phí đất 1 lần của các hộ có đơn mở quán, hộ kinh doanh để có kinh phí nâng cấp chợ" hoặc các quy định về phạt hành chính trái thẩm quyền như quy định của Uỷ ban nhân dân xã Tân Trường ngày 28-11-1991 có ghi: "Người nào có hành vi trộm cắp... lừa đảo, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản tập thể, tài sản XHCN, tài sản riêng của công dân và người nào chứa chấp tài sản trộm cắp bắt được đều bị xử lý theo điều 10 của Pháp lệnh, phạt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng và thu toàn bộ tang vật trộm cắp, nếu tái phạm có thể phạt tới 500.000 đồng; Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã Cẩm Đoài ngày 24-4-1992 quy định xử lý các trường hợp tảo hôn phạt 50kg thóc, việc sai về thẩm quyền ban hành văn bản còn xảy ra cả ở cấp huyện như Quyết định số 87/QĐ ngày 12 tháng 8 năm 1994 của Uỷ ban nhân dân huyện Gia Lộc quy định: "Giao cho đội quản lý để phối hợp với Uỷ ban nhân dân các xã có đê tổ chức lập chốt Barie ở những vị trí thích hợp để thường xuyên quản lý mặt đê (kể cả mùa khô và mùa mưa) chế độ chi bồi dưỡng cho lực lượng canh gác Barie được trích một phần từ nguồn thu phí xe đi trên đê".

2. Nhận xét về công tác soạn thảo văn bản qui phạm pháp luật

Các văn bản qui phạm pháp luật của các cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây về cơ bản đã đảm bảo tuân thủ các qui định của pháp luật, cùng với việc ban hành văn được tổ chức rà soát văn bản để kịp thời khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản, đảm bảo cho văn bản được ban hành đáp ứng tình hình chính trị địa phương và quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật: văn bản được ban hành đúng về hình thức cho mỗi nội dung văn bản, từ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. Những văn bản được ban hành có sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, sự cố gắng của chính quyền và vai trò tham mưu của cơ quan Tư pháp. Nhiều văn bản của các ngành soạn thảo được Sở Tư pháp tham gia xây dựng ngay từ giai đoạn đầu, tham gia góp ý nhiều nội dung do vậy hạn chế nhiều trong công tác ban hành văn bản.

Mặc dù vậy, tình trạng ban hành văn bản không thuộc thẩm quyền như đã nêu trên đặt ra những quy định thu phí, lệ phí thuộc thẩm quyền của Chính phủ, hoặc ra các thông báo về việc bảo vệ đồng ruộng, nội dung chứa đựng các quy phạm pháp luật như cấm chăn trâu, chăn bò ngoài ruộng đồng, ra các quy định cấp đất, bán đất trái pháp luật .v.v...

Đặc biệt, trong việc ban hành văn bản của cấp huyện, cấp xã còn lúng túng, không xác định rõ cho tên mỗi loại văn bản, có nội dung chứa đựng các qui phạm nhằm đôn đốc, tăng cường việc thực hiện pháp luật lại ra quyết định, hoặc ra các thông báo, công văn thay cho hình thức quyết định, còn chỉ thị thì cho là nên hầu như các xã không ban hành loại văn bản này, hoặc khi ban hành văn bản muốn khẳng định thêm vai trò của địa phương nên đã ra những hình thức văn bản có nội dung thuộc thẩm quyền của cấp trên như ra lệnh (như lệnh gọi nhập ngũ); hoặc ra hình thức thông báo nhưng quy định những hành vi hành chính để nhân dân thực hiện; mặt khác một số xã do không nắm vững quy định của pháp luật nên khi thực hiện hành vi thuộc thẩm quyền nhưng không làm đầy đủ thủ tục theo pháp luật qui định như bắt giữ người theo thủ tục hành chính nhưng không ra quyết định mà chỉ có biên bản bắt giữ người và tang vật của Phó công an xã hơn thế nữa do không hiểu pháp luật nên những người bắt giữ còn đánh đập người bị bắt giữ làm ảnh hưởng sức khỏe của người bị bắt giữ.

3. Những ảnh hưởng của công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật của Nhà nước

- ảnh hưởng tích cực:

 

Văn bản được ban hành đúng thẩm quyền cho hình thức của nội dung mỗi văn bản có tác dụng tích cực trong đời sống xã hội. Hầu hết các văn bản của cấp tỉnh đã kịp thời thể chế hoá các nội dung, chính sách và pháp luật vào đặc điểm của địa phương, đảm bảo phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, tạo môi trường thuận lợi để nhân dân chấp hành tốt pháp luật trong đời sống xã hội, các văn bản của cấp huyện, cấp xã đã kịp thời truyền tải thông tin và tổ chức thi hành pháp luật ở cơ sở đạt hiệu quả.

- ảnh hưởng tiêu cực: Nhìn chung, những văn bản ban hành trái thẩm quyền như đặt ra các khoản thu phí, lệ phí, về xử phạt hành chính, về cấp đất, về cấp đăng ký kinh doanh do qui định không đúng với đường lối chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước dẫn đến mỗi địa phương nhất là cấp xã có những qui định riêng trở thành "lệ làng" điều đó là thực hiện chưa nghiêm quy định của pháp luật là văn bản quy phạm của cơ quan nhà nước ban hành, vi phạm đến pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đồng thời những văn bản sai trái còn là những sơ hở trong quản lý nhà nước gây thiệt hại về kinh tế, quyền tự do dân chủ của nhân dân, giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, pháp luật của Nhà nước và đặc biệt điều quan trọng hơn là làm cho cán bộ dễ dẫn đến vi phạm pháp luật. Những tồn tại trong công tác ban hành văn bản do nguyên nhân:

+ Nguyên nhân khách quan: Do chưa có quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định cụ thể cho các cơ quan có thẩm quyền ban hành chính thức cho mỗi nội dung văn bản quy phạm; Công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn về nghiệp vụ công tác soạn thảo xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự được quan tâm thường xuyên.

+ Nguyên nhân chủ quan: Nhận thức của các đồng chí lãnh đạo, cán bộ chuyên môn trong việc giúp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân để soạn thảo xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy đủ, thiếu sự nghiên cứu quy định của pháp luật đảm bảo cho công tác soạn thảo văn bản.

 

II. Những giải pháp cho công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

Theo quy định của Hiến pháp, luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 21/6/1994 và pháp lệnh về nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Hội đồng nhân dân được ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân được ban hành quyết định, chỉ thị. Với những hình thức cho mỗi nội dung văn bản này được bảo đảm đúng quy trình, thủ tục pháp luật quy định sẽ cùng với hệ thống pháp luật của Nhà nước tạo nên sự đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Văn bản quy phạm pháp luật của địa phương ban hành phù hợp với pháp luật sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Để khắc phục những bất cập trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương cần có một văn bản của cấp có thẩm quyền quy định chặt chẽ thẩm quyền cho mỗi cấp ở địa phương được ban hành chính thức mỗi loại văn bản cụ thể là:

- Cấp tỉnh: Là nơi tổ chức thực hiện văn bản của Trung ương và thể chế hoá các quy định của Trung ương cho phù hợp với đặc điểm của địa phương, do vậy được ban hành văn bản quy phạm pháp luật một cách đầy đủ nhất nhằm thể chế hoá quy định của pháp luật mà những quy định đó chưa cụ thể hoặc chưa quy định và chỉ đạo tổ chức thực hiện văn bản quy phạm của Trung ương và của cấp tỉnh trên địa bàn.

- Cấp huyện: Là cấp hành chính cũng có chức năng quản lý nhà nước thuộc mọi lĩnh vực trên địa bàn do đó việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn nên giao thẩm quyền được ban hành nhưng cần quy định cụ thể chỉ trong trường hợp nào, điều kiện nào thì ban hành để tránh tình trạng dàn trải cấp trên có văn bản nào thì cấp huyện cũng ban hành văn bản tương ứng là không cần thiết.

- Đối với cấp xã: Là nơi tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến mọi đối tượng thuộc địa bàn và là một đơn vị hành chính cấp cơ sở. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết để quy định những biện pháp, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra các địa bàn dân cư thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Nếu công tác ban hành văn bản của cấp xã thực hiện tốt, tạo điều kiện để nhân dân nắm vững các quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công chức nhà nước và cán bộ xã, sẽ góp phần thực hiện tốt cuộc đấu tranh chống tham nhũng, phòng chống các loại tội phạm và thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước và qua đó pháp luật của Nhà nước ta sớm đi vào cuộc sống góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới của đất nước, tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

 

Phần III:

Phụ lục tham khảo

 

Bộ Tư pháp

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Viện NCKH Pháp lý

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

 

---------------------

 

Hà nội, ngày 09 tháng 01 năm 1999

 

 

biên bản Toạ đàm khoa học

"Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về trình tự, thủ tục,

thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật

của các cấp chính quyền địa phương"

(Bộ Tư pháp, 9-1-1999)

 

Để góp phân vào việc xây dựng dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, chính quyền địa phương sẽ được thông qua vào năm 2000; để triển khai đề tài nghiên cứu khoa học năm 1998, Ban chủ nhiệm đề tài: "Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp chính quyền địa phương" tổ chức Toạ đàm khoa học về Thẩm quyền và quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.

 

Với sự chủ trì của Thứ trưởng Uông Chu Lưu, chủ nhiệm đề tài

Và với sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng văn bản của Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan. Tham gia với Tọa đàm còn có các đồng chí lãnh đạo của các Sở Tư pháp các tỉnh: Hải Phòng, Hải Dương, Ninh Bình, Hoà Bình, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tây và các chuyên viên của Vụ pháp luật hành chính, hình sự, Viện NCKH pháp lý và trường Đại học Luật Hà Nội - Bộ Tư pháp.

Đồng chí Nguyễn Thành Trì - Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp giới thiệu thành phần tham dự cuộc toạ đàm.

Đồng chí Uông Chu Lưu - Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ nhiệm đề tài khai mạc cuộc Toạ đàm:

Với tư cách là chủ nhiệm đề tài, tôi xin cám ơn các đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, các đồng chí ở Văn phòng Chính phủ, các đồng chí chuyên viên các Vụ đã về tham dự cuộc Toạ đàm của chúng ta ngày hôm nay.

Đây là cuộc Toạ đàm bàn về những vấn đề bức xúc trong thực tiễn ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương để chuẩn bị cơ sở thực tiễn và lý luận ban đầu cho việcnghiên cứu, xây dựng dự án xây dựng luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của UBND và HĐND các cấp. Cuộc tọa đàm này là bước khởi động cho những hội thảo có qui mô hơn.

Như chúng ta đã biết, trong chương trình xây dựng luật của Quốc hội khoá X dự kiến thông qua Luật ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân vào năm 2000. Việc Viện NCKH pháp lý đăng ký nghiên cứu đề tài "Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương" là chủ trương đúng đắn, được Lãnh đạo Bộ Tư pháp đồng tình, ủng hộ.

Mục đích của đề tài:

Thứ nhất, là đánh giá thực trạng ban hành vbqppl của các cấp chính quyền địa phương đã đạt được những thành tựu gì, nhất là từ khi ban hành Luật ban hành VBQPPL 1996 (Luật 1996); đồng thời vạch ra những tồn tại, hạn chế của các cấp chính quyền địa phương trong việc ban hành VBQPPL ở địa phương mình.

Vấn đề thứ hai là tìm ra cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc ban hành văn bản qppl - đây là sự trăn trở của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp và còn có nhiều ý kiến tranh luận về thẩm quyền của địa phương cả về nội dung và hình thức.

Vấn đề này cũng đã được đặt ra từ những năm 1995, khi chúng ta đang xây dựng dự thảo của Luật ban hành văn bản qppl của các cơ quan ở Trung ương. Khi đó chúng tôi đã gửi phiếu lấy ý kiến đến từng đại biểu Quốc hội về việc này nhưng ý kiến thống nhất chưa cao.

Thực trạng hiện nay.

- Phân định thẩm quyền về nội dung: chúng ta thấy hiện nay có sự mâu thuẫn, chồng chéo lấn sân chính là ở chỗ chưa làm rõ sự phân định thẩm quyền. Ví dụ với vấn đề kinh tế: cấp tỉnh có quyền gì, cấp xã có quyền gì. Việc phân cấp thẩm quyền phải dựa trên những lý giải mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

- Phân định thẩm quyền về hình thức: hiện nay ở nơi này nơi khác dùng Thông báo, Công điện, Biên bản để đề ra qppl. Có những ý kiến cho rằng có quá nhiều hình thức văn bản, có cơ quan có đến ba hình thức văn bản qppl, vì vậy để đảm bảo tính thống nhất thì mỗi cơ quan chỉ nên ban hành một loại văn bản mà thôi.

- Thủ tục và trình tự: nhiều địa phương, các Sở Tư pháp, với tư cách là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân, đã chủ động tham mưu, giúp đỡ cho Uỷ ban trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, từ đó tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc ban hành văn bản qppl ở địa phương. Nhưng cũng tồn tại ở nhiều địa phương, cơ quan nào được Uỷ ban giao cho phụ trách lĩnh vực nào thì xây dựng dự thảo văn bản qppl trong lĩnh vực đó. Thậm chí, có địa phương còn giao cho thư ký UBND phụ trách lĩnh vực đó soạn thảo, rồi trình Chủ tịch Uỷ ban ký. Vì vậy, văn bản được ban hành thiếu thống nhất và chồng chéo. Chúng ta cần xác định cho được việc ban hành văn bản qppl ở địa phương phải theo những nguyên tắc nào, những yêu cầu gì, phải qua những bước nào và vai trò của cơ quan tư pháp.

- Những điều kiện đảm bảo cho việc ban hành văn bản qppl: Trong hội nghị tại Quảng Bình, đã có nhiều ý kiến đề cập đến những điều kiện về cán bộ, kinh phí.

Qua hoạt động Tổng rà soát của Chính phủ, chúng tôi có về dự hội nghị tổng kết ở địa phương, chúng tôi mới thấy rõ giá trị, tầm quan trọng của hoạt động này. ở Thành phố Hồ chí Minh tổng rà soát 7.200 văn bản và kiến nghị bãi bỏ được 4.000 văn bản.

Nếu không có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền, thì hậu quả xảy ra là nghiêm trọng. Đề nghị các đồng chí lãnh đạo các Sở Tư pháp, Lãnh đạo các Vụ, Trưởng các Ban pháp chế, với những kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu, giảng dậy, kiến nghị về những vấn đề mà chúng ta đã nêu.

 

Phần trao đổi, thảo luận

1. Đồng chí Nguyễn Năng Thính - Giám đốc Sở Tư pháp Hải Phòng:

Hải Phòng là nơi đã có cố gắng để đưa công tác ban hành vbqppl vào nề nếp. Ngay từ giai đoạn đầu, chúng tôi đã cố gắng giúp HĐND và UBND quản lý việc ban hành vbqppl ở địa phương. Chúng tôi đã có những đề xuất với UBND về vấn đề này nhưng trên thực tế, nhận thức về vấn đề này của các đồng chí Lãnh đạo cũng không phải là hoàn toàn đồng nhất, thậm chí còn có sự tranh luận rất nhiều về thế nào là văn bản qppl, văn bản pháp quy. Ngay tại trên Bộ, khi chuẩn bị ban hành Luật ban hành văn bản qppl ở Trung ương đã có nhiều các cuộc hội thảo, mà theo đó cũng không đi đến thống nhất. Vì lẽ đó, việc nhận thức không giống nhau về vấn đề này tại địa phương, theo tôi, là lẽ bình thường.

Có rất nhiều văn bản qppl ở địa phương ban hành không theo một trình tự, thủ tục nào cả, hình thức thì tuỳ tiện. Những hạn chế, tồn tại phổ biến trong việc ban hành văn bản qppl ở địa phương là:

+ Ngay trong báo cáo cũng chứa các quy phạm pháp luật, ví dụ: "Báo cáo về vụ chiêm..."

+ Dạng thứ hai là có những văn bản được ban hành rất nhiều lần mà nội dung hoàn toàn giống nhau, như về phòng bệnh mùa hè, cấm đốt pháo...; hơn nữa các văn bản này lại không thay thế lẫn nhau, mà cùng tồn tại.

+ Dạng thứ ba: Một thói quen ở địa phương là dù các văn bản qppl ở Trung ương đã được ban hành song nếu địa phương chưa có văn bản hướng dẫn thì chưa thi hành. Điều này làm ảnh hưởng đến vấn đề thời hiệu của văn bản.

+ Một dạng khác là văn bản ở Trung ương qui định như thế nào thì địa phương lặp lại y nguyên. Như thế là sự vi phạm thẩm quyền về chức năng và nhiệm vụ của chính quyền địa phương; bởi lẽ có những quy phạm chỉ có cơ quan Trung ương mới được ban hành.

Đến nay tình trạng đó vẫn còn tồn tại, mặc dù chúng tôi đã tiến hành tổng kết, báo cáo rất nhiều lần. Nguyên nhân là do nhận thức và do trình tự, thủ tục chưa được quy định nhất quán.

ở đây, chúng tôi chỉ xin tập trung vào thông tin những mặt chưa được trong công tác này tại Hải Phòng để chúng ta có thể thấy rõ hơn sự cần thiết phải ban hành Luật ban hành văn bản qppl cho chính quyền địa phương cho thời gian sắp tới.

Chúng tôi đã tiến hành Tổng rà soát, lựa chọn trong số trên 11 vạn văn bản các loại được ban hành trong 21 năm, để lấy ra 7000 văn bản mà chúng tôi nghi là có chứa qppl. Kết quả cuối cùng là chúng tôi chọn được 1017 văn bản có chứa đựng qppl. Như vậy, trong mỗi năm ở cấp thành phố ban hành từ 45 đến 50 văn bản pháp quy. Chúng tôi đã dự nhiều hội nghị tổng kết và được xem các triển lãm của các địa phương điển hình, thì có những tỉnh báo cáo là ban hành được hàng ngàn văn bản qppl. Tôi cho rằng như thế đã có sự nhầm lẫn.

- Trong 1017 văn bản:

+ Các văn bản phục vụ quản lý kinh tế chiếm 59-63%

+ Các văn bản phục vụ quản lý sự nghiệp chiếm 19%

+ Các văn bản về an ninh - quốc phòng chiếm 18-22%

- Trong tổng số 1017 văn bản:

+ Có trên 80% số văn bản phải bãi bỏ vì các lý do: hết hiệu lực, lạc hậu... Trong số này thì có trên dưới 10% văn bản sau khi bãi bỏ xong thì phải xây dựng mới, hoặc gộp lại; còn lại gần 20% số văn bản còn tiếp tục thì hành, phần lớn là những văn bản được ban hành trong thời gian gần đây.

ở Hải Phòng, những văn bản được ban hành thường mang tính chất đốc chiến, ít có văn bản mang tính dài hơi, thường chỉ tồn tại trong một nhiệm kỳ của HĐND và UBND.

* Có nhiều dạng vi phạm:

- Vi phạm về thẩm quyền ban hành: kể cả những văn bản mới nhất của UBND Thành phố, ví dụ: việc ban hành các văn bản thực hiện NĐ80 về ... điện, Nghị định này mặc dù rất lạc hậu nhưng vẫn chưa bị bãi bỏ nên ở địa phương vẫn áp dụng việc xử lý theo văn bản này. Cũng đề nghị Ban chỉ đạo Tổng rà soát bãi bỏ từng phần Nghị định 80 để phù hợp với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Tất nhiên là ở Pháp lệnh có quy định việc bãi bỏ những văn bản trái với quy định của Pháp lệnh, nhưng lại không có sự liệt kê rõ ràng dẫn đến tình trạng kín về lý nhưng lại hở trong thực tiễn.

- Một dạng khác của vi phạm về thẩm quyền là đưa ra những chế tài không phù hợp, ví dụ văn bản của một huyện quy định: Cấm đăng đó vó chài, nếu vi phạm thì phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình.

Thứ trưởng Uông Chu Lưu: Xin hỏi đồng chí Thính là văn bản đó ở Huyện nào và đã ban hành lâu chưa.

Đồng chí Nguyễn Năng Thính: Thưa đồng chí, đó là huyện ....Liên, nhưng văn bản đã được ban hành lâu rồi.

- Một hình thức biến tướng khác nữa là văn bản qppl do các cơ quan không có thẩm quyền ban hành, ví dụ: Công ty Môi trường đô thị cũng tiến hành xử phạt hành chính.

Như vậy, mới thấy rằng công tác kiểm sát văn bản ở địa phương còn chưa được chặt chẽ. Và vấn đề đặt ra là nên chăng mỗi một cấp có một hình thức ban hành văn bản nhất định nhằm giúp cho qúa trình tổng rà soát văn bản được thực hiện dễ dàng hơn.

Kiến nghị: Từ thực tiễn ban hành văn bản qppl ở địa phương, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:

- Bộ Tư pháp cần quan tâm hơn đến việc chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc ban hành văn bản qppl ở các cấp.

- Bộ Tư pháp cũng nên xem xét quan tâm đến việc tổng rà soát văn bản pháp luật ở trung ương để cho việc tổng rà soát ở địa phương được thực hiện chặt chẽ hơn.

- Các văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương sau khi ban hành phải được gửi ngay về các cơ quan tư pháp nhằm thực hiện một chế độ báo cáo định kỳ, thường xuyên.

- Cần xem xét, có nên để cấp cơ sở có thẩm quyền ban hành văn bản qppl không?

Tôi nghĩ rằng, xã còn có thể được xem xét nên ban hành văn bản qppl loại nào, nhưng phường, thậm chí quận thì không cần thiết.

2. Đồng chí Nguyễn Thạc Nhượng- Giám đốc Sở Tư pháp Bắc Ninh:

Chúng tôi rất vinh dự được cùng các đồng chí đến dự buổi toạ đàm này. Tôi xin đóng góp một số ý kiến sau:

Theo quy định tại Luật ban hành văn bản qppl 1996, thì hệ thống văn bản qppl được quy định tại Điều 1. Bên cạnh những quy định tại khoản 1, khoản 2, của điều Luật, ở điểm b - khoản 3 còn quy định rằng: quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cũng là văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, điều chúng tôi băn khoăn ở đây là tại sao lại không quy định văn bản qppl bao gồm cả Quyết định, chỉ thị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, trong khi phần lớn các quyết định, chỉ thị được ban hành ở địa phương đều là của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.?

Cũng trong Điều 1 có quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành...". Vậy cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở đây có bao hàm cả cá nhân (người đứng đầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) không? Tôi nghĩ đây là một vấn đề xung đột ở trong điều luật. Nếu Luật đã quy định, ở cấp Trung ương, Bộ trưởng cũng có thẩm quyền ban hành văn bản qppl thì cũng nên quy định thẩm quyền đó cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.

Để cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được quyền ban hành văn bản qppl là đúng. Nhưng, theo tôi, cấp xã, phường chưa phải là cấp chính quyền hoàn chỉnh, năng lực chuyên môn của cán bộ chưa được đào tạo cơ bản, đầy đủ. Vì thế không nên để cho cấp xã phường có thẩm quyền ban hành văn bản qppl.

Thực tiễn công tác xây dựng pháp luật ở Bắc Ninh được căn cứ vào việc tổng rà soát văn bản có chứa qppl. Qua rà soát cho thấy, các văn bản được ban hành còn nhiều sai sót về hình thức, nội dung, căn cứ ban hành, nhất là các văn bản được ban hành ở huyện, xã. Ví dụ, ở huyện, có nhiều văn bản được ban hành chỉ căn cứ vào kết luận của cuộc họp, ý kiến kết luận của các đồng chí lãnh đạo hoặc căn cứ vào những văn bản đã hết hiệu lực. Năm 1998,qua kiểm tra ở huyện thì có 57 văn bản qppl (chiếm 23%) sai, thậm chí trái thẩm quyền. Đối với cấp xã, số văn bản sai chiếm tới 50%, có nơi sai đến 90%. Đây thực sự là một vấn đề bức xúc ở địa phương.

Kiến nghị: Chúng tôi xin đề xuất ý kiến sau:

ở địa phương, công tác xây dựng văn bản pháp luật nên chia thành ba giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Uỷ ban nhân dân giao cho một cơ quan có chuyên môn về vấn đề đó soạn thảo.

- Giai đoạn 2: Tham gia ý kiến xây dựng văn bản (Do cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với cơ quan chuyên ngành).

- Giai đoạn 3: Thẩm định văn bản (chủ yếu thẩm định về mặt pháp lý). Nhưng không nên để cho cấp cơ sở thẩm định.

Đồng chí Uông Chu Lưu: Đề nghị các đồng chí cho ý kiến về các vấn đề cụ thể đã được đặt ra. Ví dụ như, vấn đề thẩm định văn bản ở đây là thẩm định cả về mặt pháp lý và nội dung hay chỉ về mặt pháp lý.

 

3. Đồng chí Thái Vĩnh Thắng- Đại học luật Hà Nội:

Về vấn đề đã được đặt ra là: Khái niệm "cơ quan Nhà nước có thẩm quyền" có bao hàm cả cá nhân (người đứng đầu cơ quan Nhà nước) hay không, tôi nghĩ rằng, cơ quan Nhà nước có thể hiểu là bao hàm cả cá nhân và tập thể. Việc không quy định: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền ban hành văn bản qppl là một khiếm khuyết của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Luật ban hành văn bản qppl chia 3 loại văn bản:

- Văn bản của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;.

- Văn bản của cơ quan Nhà nước Trung ương;

-Văn bản của cơ quan địa phương.

Hiện nay, việc ban hành văn bản qppl của các cơ quan nhà nước địa phương có tình trạng lạm phát và không thống nhất. nhưng đây cũng là hiện tượng xảy ra trong công tác xây dựng pháp luật ở cấp Trung ương.

Việc phân định thẩm quyền ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân còn chưa rõ ràng.

Về thẩm quyền ban hành văn bản ở cấp cơ sở thì cấp xã nên được quyền ban hành một số loại văn bản quy phạm pháp pháp luật vì....

Còn ở cấp quận, phường thì không cần thiết.

4. Đồng chí Phạm Tuấn Khải- Văn phòng chính phủ:

Khi nói rằng cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản thì phải hiểu là bao hàm cả cá nhân (người đứng đầu cơ quan Nhà nước) cũng có thẩm quyền ban hành. Song cũng nên quy định rõ là người nào được ban hành. Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ của từng loại cơ quan cũng chưa được phân định rõ. Và khi nói đến thẩm quyền ban hành văn bản thì đồng thời phải phân định rõ:

- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong việc ban hành văn bản qppl.

- Chức năng quản lý Nhà nước với các chức năng khác (Sản xuất kinh doanh; hành chính sự nghiệp)

Kiến nghị:

- Cần nâng cao trình độ của cán bộ trong cơ quan chuyên môn.

-Văn bản qppl bên cạnh tính hợp hiến, hợp pháp,tính thống nhất thì tính khả thi (hợp lý với thực tiễn) cũng cần được coi trọng. Điều đó có nghĩa là, khi thẩm định một văn bản qppl thì cần phải xem xét cả về mặt nội dung lẫn hình thức.

- Trước khi xây dựng một văn bản qppl cần có một quá trình tổng kết, rà soát văn bản. Chúng ta cần phải coi trọng vai trò của công tác này.

- Để tránh hiện tượng chồng chéo về nội dung của Văn bản qppl, cần phải có quy định hết sức cụ thể về hiệu lực của văn bản.

- Trong Luật cũng cần quy định rõ thẩm quyền ban hành văn bản qppl của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.

- ở một số địa phương có đề xuất ý kiến cần thành lập lại Thường trực Hội đồng nhân dân. Vấn đề là ở chỗ, phải quy định rõ thẩm quyền riêng của cá nhân và thẩm quyền chung của tập thể.

5. Đồng chí Lê Hồng Sơn- Vụ Pháp luật Hành chính- Hình sự:

Vấn đề được đặt ra ở đây là: Có nên quy định thẩm quyền ban hành văn bản qppl cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân không? ý kiến này đã được thảo luận rất nhiều trước khi ban hành Luật ban hành văn bản qppl. Song đây không phải là khiếm khuyết từ Luật mà chính là khiếm khuyết từ Hiến pháp (Điều 124 của Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền ban hành văn bản qppl của Uỷ ban nhân dân)

Nếu có ý kiến cho rằng cần giao thêm thẩm quyền cho Thường trực Hội đồng nhân dân và Giám đốc Sở Tư pháp thì cũng cần phải trao đổi, bàn bạc thêm.

Và khi quy định thẩm quyền thì bao giờ cũng phải căn cứ vào thẩm quyền quản lý Nhà nước.

Để có cơ sở bổ sung những khiếm khuyết như đã nói trên cần phải có sự sửa đổi từ Hiến pháp nhằm tránh việc ban hành văn bản qppl không đúng thẩm quyền.

6. Đồng chí Nguyễn Văn Quang - Trưởng phòng văn bản pháp quy Sở Tư pháp Hà tây:

Hiện nay do vấn đề phát triển đô thị, các văn bản của Trung ương ban hành chỉ sau một thời gian ngắn là không còn phù hợp.

Về hình thức văn bản : Đa số văn bản đều được ban hành đúng thẩm quyền.

Cấp tỉnh và thành phố thì nên quy định thẩm quyền ban hành một số loại văn bản qppl, nhưng cấp huyện, xã thì cần hạn chế thẩm quyền ban hành.

Trong quá trình xây dựng, soạn thảo Luật ban hành văn bản qppl của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân nên đưa vào một quy định về tổ chức đào tạo cán bộ Tư pháp.

Vấn đề bãi bỏ văn bản sai trái, theo Hiến pháp thì chỉ có cơ quan cấp trên mới có thẩm quyền bãi bỏ, nhưng theo Luật thì lại là chính cơ quan ban hành văn bản đó bãi bỏ. Như vậy, có sự mâu thuẫn trong vấn đề này.

7. Đồng chí Trưởng phòng văn bản của Tỉnh Hải Dương:

Qua việc rà soát văn bản qppl, có thể thấy rõ các cấp chính quyền địa phương rất lúng túng trong việc xác định thẩm quyền ban hành văn bản. Do vậy, cần quy định rõ, thẩm quyền ban hành văn bản qppl của cơ quan có thẩm quyền chung.

ở cấp xã, phường cũng nên được quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Đồng chí Uông Chu Lưu tóm tắt các ý kiến :

Trên thực tế, thực trạng ban hành văn bản qppl còn có rất nhiều vướng mắc và tồn tại. Qua cuộc toạ đàm, chúng ta cần lưu ý đến một số vấn đề sau:

-Cần xác định cấp nào của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được ban hành văn bản qppl? Vấn đề này còn có hai ý kiến:

+ ý kiến1: Tất cả các cấp đều có thẩm quyền ban hành văn bản qppl.

+ ý kiến 2: Không nên để cấp cơ sở có thẩm quyền ban hành văn bản qppl (Cấp xã, phường).

- Mỗi cấp cần có phạm vi, thẩm quyền ban hành riêng như thế nào?. Chúng ta phải tìm được nguyên tắc, tiêu chí cho việc phân định thẩm quyền.

- Nội dung và hình thức ban hành văn bản qppl cần phải phù hợp, thống nhất với nhau.

-"Cơ quan nhà nước có thẩm quyền" có bao hàm cả cá nhân (người đứng đầu cơ quan nhà nước) hay không?

- Cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân có được ban hành văn bản qppl hay không?

- Trình tự, thủ tục ban hành văn bản qppl: Những năm gần đây, với sự cố gắng của Sở Tư pháp, việc ban hành văn bản qppl không đúng trình tự thủ tục hầu như đã được khắc phục một cách cơ bản.

- Tuỳ thuộc vào từng địa phương, vai trò thẩm định văn bản qppl của cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân tỏ ra rất quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là văn bản qppl chỉ nên được thẩm định về mặt pháp lý hay còn được xem xét về nội dung? Theo tôi, chúng ta nên theo hướng thẩm định cả nội dung lẫn hình thức, nhưng trước hết văn bản qppl phải đảm bảo tính hợp hiến và hợp pháp.

- Về vấn đề bãi bỏ văn bản, nên quy định chỉ có cơ quan nhà nước cấp trên mới có thẩm quyền bãi bỏ hay cả cơ quan ban hành cũng có thẩm quyền đó?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bộ Tư pháp

Viện NCKH pháp lý

Đề tài

Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương

 

Từ ngày 24-28/9/1999

 

Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát

tại Hà tĩnh, Nghệ an, thanh hoá

 

Thực hiện kế hoạch nghiên cứu, triển khai đề tài: "Một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm quyền, thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương", Ban chủ nhiệm đề tài đã tổ chức đi khảo sát thực tế tại một số địa phương để trao đổi, thảo luận và tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn về một số vấn đề cơ bản sau đây:

- Cơ sở xác định thẩm quyền ban hành nghị quyết có chứa quy phạm của Hội đồng nhân dân các cấp? So sánh với thẩm quyền của Hội đồng nhân dân được quy định tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp và Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp?

- Cơ sở xác định thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị có chứa quy phạm của Uỷ ban nhân dân các cấp? So sánh với thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân được quy định tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp và Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp?

- Các kiến nghị về thẩm quyền (hình thức và nội dung) ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Có nên để cả ba cấp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản quy phạm pháp luật không? hay chỉ để Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh? hoặc Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện?

- Trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của địa phương hiện nay đang áp dụng như thế nào? Vai trò của Văn phòng Uỷ ban nhân dân và của các cơ quan tư pháp?

- Trong những trường hợp đặc biệt cần ban hành gấp văn bản thì trình tự, thủ tục áp dụng như thế nào?

Tại mỗi địa phương, Đoàn đã tổ chức các buổi toạ đàm với sự tham gia của đại diện: Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Ban pháp chế Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc tỉnh, Sở Văn hoá, thông tin, Ban Nội chính tỉnh và các chuyên gia pháp luật của Sở Tư pháp tỉnh.

Trong các buổi Tọa đàm, Đoàn đã trực tiệp trao đổi, thảo luận và tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn của từng địa phương trong việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh; cũng như việc chỉ đạo UBND cấp huyện xây dựng và ban hành văn bản.

 

Nội dung chính của các buổi toạ đàm như sau

 

Tại tỉnh Hà Tĩnh

1.1. Về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND.

Đa số các ý kiến đề cho rằng: Cơ sở để xác định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND phải dựa trên các quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND do pháp luật quy định. Ví dụ: thẩm quyền quản lý và bảo vệ cảnh quan, môi trường có ở cả 3 cấp à UBND cấp xã có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

- Thực tế hiện nay, việc sớm ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND là hết sức cần thiết.

- Thự trạng hiện nay do trình độ dân trí nhất là về pháp luật của nhân dân còn rất thấp. Do vậy, cơ sở để xác định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hình thước và nội dung của các cấp chính quyền địa phương cần chú ý đến kết cấu dân cư - trình độ văn hoá, trình độ pháp lý của nhân dân địa phương.

- Nên để cả ba cấp chính quyền địa phương có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bởi vì theo nguyên tắc cơ quan nhà nước được trao quyền quản lý - có thẩm quyền ban hành.

- Về trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật:

+ Của HĐND: Văn phòng của HĐND xây dựng dự thảo à lấy ý kiến của mọi thành viên của Hội đồng à Ban pháp chế HĐND thẩm định à trao đổi, thảo luận à thông qua

+ Của UBND: Cơ quan được giao chủ trì soạn thảo à Văn phòng UBND tham gia (bắt buộc) à lấy ý kiến của các cơ quan, ban ngành có liên quan (nếu có) à chỉnh lý, bổ sung à Sở Tư pháp thẩm định à Văn phòngUBND trình. Trong trường hợp khi trình UBND mà còn có ý kiến khác nhau, thì UBND triệu tập họp liên ngành + Ban soạn thảo để trao đổi, thống nhất ý kiến à trình ký ban hành.

- Về quy trình cần được quy định cụ thể về thời gian cho từng giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến ..... thông qua. Cần xây dựng mẫu thống nhất cho từng loại hình thức văn bản quy phạm pháp luật.

- Về quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật "tắt" của tỉnh như sau: trong trường hợp do yêu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh gấp một lĩnh vực nào đó, UBND triệu tập các chuyên gia của các cơ quan có liên quan (thành phần bắt buộc gồm: đại diện cơ quan chuyên ngành, đại diện Vămn phòng UBND, Sở Tư pháp) tập trung xây dựng - trình UBND ban hành Quyết định hoặc chỉ thị tạm thời.

- Về hình thức của văn bản:

+ Cần xác định rõ loại, lĩnh vực nào thì Nghị quyết của HĐND có chứa đựng quy phạm pháp luật;

+ Cần phân biệt rõ quyết định có chứa quy phạm pháp luật và quyết định áp dụng pháp luật; Cần khẳng định rõ thẩm quyền của Chủ tịch UBND và thẩm quyền của UBND trong việc ban hành quyết định và chỉ thị.

Kiến nghị: Cần xây dựng quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật chung, thống nhất trong đó quy định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ trì, cơ quan tham gia phối hợp, cơ quan thẩm định, Văn phòng Uỷ ban nhân dân và thủ tục trình ký. Cần xác định rõ chức năng, thẩm quyền, cơ chế giám sát, kiểm tra tình hợp hiến, hợp pháp và tính đồng bộ của văn bản quy phạm pháp luật cũng như cơ chế, quy trình xử lý văn bản quy phạm pháp luật không hợp hiến, hợp pháp. Cần quy định rõ thời gia cho từng công đoạn, quy trình soạn thảo, thông quan, ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

 

Tại tỉnh Nghệ An

Thực trạng việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Nghệ An theo quy trình được quy định tại Quyết định số 1588/QĐ-UB ngày 29 tháng 4 năm 1997. Nội dung như sau:

- Về xây dựng chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của UBND. Hàn năm vào tháng 12, UBND tỉnh có công văn đề nghị các cơ quan, đơn vị trong tỉnh đề xuất việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật - Giao cho Văn phòng UBND tỉnh cùng Sở Tư pháp làm đầu mối, lập dự kiến chương trình ban hành văn bản hàng năm trình UBND tỉnh. Trong đó quy định rõ: theo đề nghị của cơ quan, ban, ngành nào; tính khả thi của văn bản - đề cương dự án; tiến độ, thời gian thực hiện. Thực tiễn trên cơ sở Chương trình hàng năm UBND tỉnh đã tổ chức, chỉ đạo thực hiện tốt tỷ lệ đạt 98%.

- Về quy trình soạn thảo: UBND tỉnh giao cho cơ quan, ban, ngành có đề nghị chủ trì việc xoạn thảo; các cơ quan có liện quan có trách nhiệm tham gia (trong trường hợp dự thảo văn bản lớn có liên quan đến nhiều ngành thì UBND tỉnh thành lập ban soạnt hảo liên ngành. Trong đó Văn phòng UBND tỉnh và Sở Tư pháp trực tiếp tham gia vào cả quy trình (tham gia trực tiếp hoặc góp ý bằng văn bản).

Việc tham gia soạn thảo được quy định chặt chẽ về thời gian phải có ý kiến bằng văn bản.

Sở Tư pháp phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh (Phòng kiểm sát văn bản) kiểm tra trước khi trình UBND

Đăng công báo địa phương (theo quý - phát miền phí đến tận cấp xã).

- Đặc thù của Ngệ An: khi nhận được văn bản yêu cầu thẩm định, Sở tư pháp tham khảo ý kiến của Viện kiểm sát nhân dâm tỉnh; lưu bản gốc (bản dự thảo gửi lấy ý kiến thẩm định) lập tờ trình liên ngành có chữ ký trình của cơ quan chủ trì soạn thảo và Sở Tư pháp trình UBND. Trường hợp còn có ý kiến khác nhau thì nêu rõ trong tờ trình. trong trường hợp đó, UBND triệu tập họp liên ngành để thống nhất trước khi xem xét ký, thông qua.

Kiến nghị:

- Về thẩm quyền ban hành: Cần phân biệt, làm rõ trách nhiệm, thẩm quyền giữa Chủ tịch UBND và UBND. Theo chúng tôi quy định theo hướng:

+ Đề án phải trao đổi, thảo luận tập thể (trình ra UBND)

+ Sau khi UBND phê duyệt đề án - UBND giao cho cơ quan có liên quan chủ trì soạn thảo và trình. Trường hợp dự thảo văn bản lớn (liên quan đến nhiềm ngành - trình UBND), văn bản đơn giản trình Chủ tịch UBND ký ban hành.

Cần quy định cho cả 3 cấp chính quyền địa phương có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng đối với cấp huyện, xã cần quy định rõ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên những lĩnh vực quản lý cụ thể nào; lĩnh vực nào thì không được quyền ra văn bản quy phạm pháp luật.

+ Về thẩm quyền nội dung, theo hướng:

. NQ của HĐND có chứa QPPL khi quyết nghị về: Phí, lệ phí; chương trình kinh tế - xã hội lớn; phân công, phân cấp ngâng sách hành năm. Còn lại NQ của HĐND chỉ đề ra chủ trương, chính sách.

. UBND tỉnh có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên tất cả các lĩnh vực quản lý theo thẩm quyền.

 

Tại tỉnh Thanh Hoá (Có báo cáo của Sở Tư pháp kèm theo)

Tại tỉnh Thanh hoá chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật do vậy, trách nhiệm của cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, việc tham gia ý kiến và thẩm định còn chưa rõ ràng. ở cấp huyện, quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật thường do Văn phòng UBND hoặc các phòng chuyên môn soạn thảo và trình trực tiếp. Phòng tư pháp chỉ có ý kiến (thẩm định) khi có yêu cầu của Chủ tịch UBND. ở cấp tỉnh, hiện tồn tại 4 cách soạn thảo và trình ký vănbản như sau:

- Văn phòng Uỷ ban nhân dân soạn thảo à trình chủ tịch (hoặc Phó chủ tịch xem, cho ý kiến) à chỉnh lý lại à trình ký ban hành (cơ quan chuyên môn chỉ biết khi được hỏi ý kiến hoặc khi dự thảo được đưa ra cuộc họp của UBND thảo luận thì Lãnh đạo cơ quan chuyên môn mới được biết);

- Cơ quan chuyên môn soạn thảo à chuyên Văn phòng Uỷ ban nhân dân à trình ký ban hành (Chánh văn phòng ký nháy khi trình);

- Cơ quan được giao soạn thảo (Văn phòng Uỷ ban hoặc cơ quan chuyên môn) à chuyên cơ quan Tư pháp thẩm định (hình thức, nội dung, tính pháp lý) à cơ quan soạn thảo chỉnh lý à trình ký ban hành (quy trình hiện đang áp dụng tại cấp tỉnh);

- Cơ quan chuyên môn chủ trì soạn thảo (phối hợp với Văn phòng Uỷ ban và cơ quan tư pháp ngay từ giai đoạn bắt đầu soạn thảo) à chuyên cơ quan Tư pháp thẩm định (hình thức, nội dung, tính pháp lý) à cơ quan soạn thảo chỉnh lý à trình ký ban hành.

Kiến nghị: Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương cần được tăng cường ở tất cả các công đoạn của quá trình soạn thảo từ khâu tham gia - lấy ý kiến - chỉnh lý - thẩm định...

Để việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cần làm rõ được vai trò và trách nhiệm của cá nhân Chủ tịch UBND và chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND. Nên quy định cho Chủ tịch UBND có thẩm quyền ra văn bản quy phạm pháp luật (cả về thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung).

Cần quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn trong từng khâu, từng công đoạn của quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương.

Về thẩm quyền ban hành đề nghị chỉ nên quy định cho HĐND và UBND hai cấp tỉnh và huyện có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhưng nên quy định thẩm quyền hạn chế trên từng lĩnh vực cụ thể ở mỗi cấp.

Đề nghị cần sớn ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hộ đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.

 

 

 

File đính kèm downloadTải về