• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán
Nội dung tóm tắt

Thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong những năm qua đã có những bước phát triển vượt bậc và thực sự trở thành một thị trường quan trọng trong hệ thống các thị trường cơ bản của nền kinh tế, có tác động to lớn không chỉ đến đời sống kinh tế mà cả đời sống xã hội. Tính đến năm 2010, tổng giá trị vốn hóa thị trường chiếm gần 40% GDP, có hơn 600 công ty niêm yết và khoảng 300.000 tài khoản nhà đầu tư[1].

Tuy nhiên, theo đánh giá chung, thị trường chứng khoán ở Việt Nam vẫn ở thời kỳ sơ khai và so với dân số cũng như tiềm năng của thị trường thì khả năng mở rộng của thị trường còn rất lớn. Vì vậy, hoàn thiện các thể chế cho sự phát triển lành mạnh của thị trường này là yêu cầu tất yếu để đảm bảo những tác động tích cực của thị trường lên đời sống kinh tế và xã hội. Luật Chứng khoán đã được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007, Chính phủ cũng đã ban hành các Nghị định hướng dẫn Luật này, trong đó có Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08/3/2007 về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán, Nghị định số 85/2010/NĐ-CP ngày 02/8/2010 về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán. Kể từ thời điểm ban hành, các văn bản này đã có tác động tích cực trong việc thiết lập một thị trường chứng khoán Việt Nam tương đối ổn định. Song, cũng phải thấy rằng mặc dù trong các quy định hiện hành, rất nhiều quy định về giám sát thị trường đã được đặt ra, nhưng chưa có một cơ chế đủ mạnh để đảm bảo thực thi các quy định này trên thực tế. Cơ quan duy nhất có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính hiện nay là Thanh tra Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã xử lý khá nhiều vi phạm, nhưng thường tập trung vào vi phạm của các công ty đại chúng và với những vi phạm dễ bị phát hiện như không công bố thông tin, làm sai lệch hồ sơ niêm yết, hồ sơ phát hành và ngay cả khi đã có rất nhiều trường hợp bị xử phạt, các vi phạm dạng này vẫn diễn ra phổ biến, thể hiện tính răn đe của các biện pháp xử lý chưa cao. Bên cạnh đó, nhiều hành vi vi phạm được coi là tiềm ẩn rất lớn trong những thị trường mới nổi như giao dịch nội gián, lũng đoạn thị trường… gần như không được phát hiện, xử lý. Điều này không chỉ cho thấy những bất ổn trong các quy định về xử lý vi phạm mà còn cho thấy cơ chế thực thi giám sát chưa có hiệu quả cao. Các tranh chấp trên thị trường chứng khoán được giải quyết tại các cơ quan giải quyết tranh chấp chính thống là tòa án, trọng tài cũng rất ít, theo thống kê cho đến nay mới chỉ có một vài vụ tranh chấp về chứng khoán được giải quyết tại toà án. Điều này, trên thực tế không thể hiện các tranh chấp về chứng khoán là hiếm gặp (phần lớn các chuyên gia cho rằng tranh chấp trên thị trường xảy ra tương đối nhiều nhưng chủ yếu được các bên tự giải quyết hoặc chấp nhận chịu thiệt), song lại cho thấy các cơ chế giải quyết chính thức hiện nay (chủ yếu là con đường toà án) chưa thực sự đáp ứng được mong muốn của các chủ thể tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư.

Trong bối cảnh thị trường còn sơ khai và đang có những tốc độ phát triển nhanh chóng, việc định hình một cơ chế phù hợp để giải quyết những vấn đề vốn được coi là mặt trái nhưng lại là tất yếu của quá trình tồn tại của thị trường chứng khoán sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và vững chắc của thị trường. Thực tế và lý luận đều cho thấy chứng khoán là một lĩnh vực có những đặc thù riêng và do vậy, những vi phạm cũng như tranh chấp trong lĩnh vực này đòi hỏi phải có một cơ chế phù hợp để giám sát, phát hiện, xử lý và giải quyết kịp thời, tránh những tác động xấu ảnh hưởng tới thị trường và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường.

Do đó, việc nghiên cứu “Cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán” một cách toàn diện về mặt lý luận và gắn với thực tiễn hiện nay của thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ góp phần củng cố các cơ sở khoa học toàn diện và đầy đủ hơn, phục vụ cho việc hoàn thiện cơ chế tranh chấp và xử lý vi phạm hiện nay, góp phần đảm bảo sự phát triển ổn định và lành mạnh của thị trường.

CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN KHI TIẾP CẬN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1. Tổng quan về thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán (TTCK) ra đời trong xã hội hiện đại và đã được coi là một phần không thể thiếu, một trong những loại thị trường căn bản của nền kinh tế thị trường. Đây là thị trường tương đối phức tạp với những đặc thù về đối tượng, chủ thể tham gia thị trường và cấu trúc của thị trường. Những điểm đặc thù này sẽ có tác động lớn đến những yếu tố cần có của một cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm hiệu quả trên thị trường.

1.1. Đối tượng của TTCK

TTCK là một thị trường đặc biệt vì nó lưu hành một loại hàng hoá đặc biệt: các chứng khoán. Ở TTCK, người ta không thể dùng tay hoặc mắt để kiểm tra trên tờ chứng khoán xem nó tốt hay xấu, tức là nó sẽ mang lại cho họ lợi nhuận hay làm cho số tiền của họ bị giảm giá trị. Phần đông công chúng không thể thành thạo trong việc phân tích mức độ rủi ro của mỗi loại chứng khoán để quyết định xem mua loại nào. Vì lợi ích thu được từ các chứng khoán này nhiều khi còn phụ thuộc vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Do vậy, không phải ai cũng xét đoán được chính xác khả năng và mức độ rủi ro của nó.

Mặt khác, bản thân chứng chỉ chứng khoán không hề có công năng, nó chỉ là một chứng thư mà nhìn vào nó người mua không có được một thông tin gì ngoài việc đảm bảo cho họ có một khoản lợi ích nằm ở đâu đó. Chính vì vậy, người ta có thể lợi dụng sự thiếu thông tin của người mua để “tống” cho họ những thứ “hàng” ế ẩm sau khi đã dùng những lời lẽ để làm cho họ tin rằng đó là hàng tốt. Đó là những lý do để khẳng định chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt và TTCK là một thị trường đặc biệt. Xem xét hoạt động của thị trường này càng khẳng định thêm điều đó.

Thông thường, trong khi bán, cái mà người bán thực tế nhượng đi là giá trị sử dụng của hàng hoá. Trong TTCK, cái mà người bán nhượng đi cũng chính là quyền sử dụng khoản tiền đó với tư cách sử dụng vốn và nhờ vào việc sử dụng số vốn đó, người mua thu được số lợi nhuận lớn hơn số lợi tức phải trả cho người bán. Như vậy, có thể nói rằng, thực chất đối tượng mua bán trên TTCK là mua bán quyền sử dụng vốn.

Giá cả của hàng hoá đặc biệt đó trên TTCK chính là số lợi tức mà người phát hành trả cho người mua. Tuỳ theo hình thức cụ thể mà giá cả của hàng hoá đó được thể hiện dưới hình thức lợi tức trái phiếu hoặc lợi tức cổ phần (cổ tức). Như vậy, giá cả của hàng hoá này có thể được xác định trước như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, có thể chưa được xác định như: cổ phiếu.

1.2. Chủ thể tham gia TTCK

Với sự tham gia của không chỉ người mua và người bán mà nhìn một cách tổng hợp, TTCK bao gồm các chủ thể sau:

a) Người phát hành: là những người muốn huy động vốn trên thị trường bằng cách phát hành và bán các chứng khoán. Bao gồm: Chính phủ, các công ty và chính quyền các địa phương.

b) Người đầu tư: là những người có vốn và muốn đầu tư bằng cách mua các loại chứng khoán trên TTCK. Nhóm chủ thể này rất đa dạng và chiếm số lượng đông nhất thị trường. Đó có thể là các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm, thậm chí cả các công ty, các ngân hàng thương mại… Căn cứ vào quy mô, mức độ tham gia thị trường và năng lực tham gia thị trường, nhóm này thường được chia thành nhà đầu tư thông thường và các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp.

c) Các nhà môi giới và các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán khác: là những tổ chức có chức năng cung cấp dịch vụ trên TTCK, được coi là những nhà trung gian thị trường, trong đó có hai nhà cung cấp dịch vụ chính là các công ty chứng khoán (CTCK) và công ty quản lý quỹ (CTQLQ).

d) Người tổ chức thị trường

Với mục đích tạo ra một địa điểm giao dịch ổn định và có được các phương tiện điều hành có hiệu quả, các CTCK (tổ chức của những người kinh doanh chứng khoán) thoả thuận với nhau để thành lập một công ty với chức năng là phục vụ cho các hoạt động giao dịch chứng khoán. Nhiệm vụ của công ty này là tìm địa điểm để đặt nơi giao dịch, mua sắm trang thiết bị phục vụ giao dịch và tổ chức các giao dịch. Tên của các công ty này thường được gọi là Sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK).

đ) Người điều tiết quản lý thị trường

Đây là người ban hành các luật lệ cho hoạt động của thị trường, tổ chức công tác giám sát, theo dõi mọi hoạt động của thị trường. Người hoạt động với tư cách người điều hoà này chính là nhà nước - trong đó có những cơ quan chuyên môn được nhà nước thành lập để thực hiện nhiệm vụ này. Chức năng của nhà nước trên TTCK được thể hiện trên hai mặt: một mặt, đặt ra luật lệ, tức là xác định xây dựng quy tắc cho trò chơi, mặt khác tổ chức kiểm tra giám sát các hoạt động trên thị trường kịp thời xử lý mọi hành vi vi phạm.

1.3. Cấu trúc TTCK

Dựa trên những tiêu chí khác nhau, người ta có những cách nhìn nhận cấu trúc TTCK khác nhau[2]:

i) Xét theo sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường:

TTCK có hai loại: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

- Thị trường sơ cấp hay còn gọi là thị trường cấp 1: là thị trường mà ở đó các công ty và nhà nước phát hành các loại chứng khoán nhằm thu hút các nguồn vốn tiết kiệm đầu tư - nên còn gọi là thị trường phát hành. Đó là TTCK lần đầu được phát hành ra nhằm tạo lập một doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp huy động thêm vốn, chính phủ, chính quyền địa phương phát hành chứng khoán mới.

- Thị trường thứ cấp còn gọi là thị trường cấp 2 là thị trường mua đi, bán lại các chứng khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp. Ở thị trường này, quyền sở hữu chứng khoán luôn được chuyển từ người đầu tư này sang người đầu tư khác. Do đó, nó tạo ra khả năng cho những người đầu tư muốn rút vốn ra trước hạn bằng cách bán lại chứng khoán cho người khác, tức là nó chuyển hoá được hoạt động đầu tư dài hạn sang ngắn hạn. Nhờ đó kích thích được những người có tiền để dành đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh hoặc cho nhà nước vay dài hạn để tìm kiếm lợi nhuận.

ii) Xét về phương thức tổ chức và giao dịch:

TTCK bao gồm:

- TTCK tập trung: là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua SGDCK, tại sàn giao dịch. Đây là thị trường được quản lý rất chặt chẽ bằng những quy định pháp luật. Không phải bất kỳ loại chứng khoán nào cũng được đem vào giao dịch ở SGDCK. Để chứng khoán được giao dịch ở đây, các công ty phải hội đủ các điều kiện theo quy định của SGDCK.

- TTCK bán tập trung: là loại TTCK “bậc cao”, ở đó, việc giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua hệ thống máy tính nối mạng giữa các thành viên của thị trường, còn gọi là OTC (over - the - counter). Đây là thị trường mà các công ty môi giới chứng khoán thực hiện các giao dịch qua hệ thống điện thoại và hệ thống vi tính đã được nối mạng giữa các thành viên khắp trong cả nước.

- Thị trường phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ 3, là hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán được thực hiện tự do phân tán, không qua SGDCK và cũng không qua thị trường OTC. Đây là tên gọi để chỉ tất cả hoạt động giao dịch, mua bán chuyển nhượng chứng khoán diễn ra ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào, có thể thông qua các nhà môi giới hoặc do chính người chủ sở hữu chứng khoán thực hiện. Đây là thị trường mà chứng khoán được lưu hành gần như không phải tuân thủ những ràng buộc hay kiểm soát nào nên cũng là thị trường tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.

1.4. Bối cảnh phát triển của TTCK Việt Nam

TTCK Việt Nam ra đời khá muộn so với các nước khác trên thế giới. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Nghĩa là cho đến năm 2010, TTCK nước ta mới được 10 năm tuổi.

Theo thống kê từ Ủy ban chứng khoán Nhà nước, quy mô TTCK Việt Nam năm 2010 được thể hiện qua các con số cụ thể như sau:

- Số mã chứng khoán niêm yết là 631 mã.

- Giá trị vốn hóa thị trường trên 700.000 tỷ VND (40% GDP).

- Số lượng công ty Đại chúng là 997 công ty.

- Số lượng công ty chứng khoán là 105 công ty.

- Số lượng công ty quản lý quỹ là 47 công ty (trong đó có 23  Quỹ đầu tư chứng khoán được lập).

- Số lượng văn phòng đại diện là 31 văn phòng.

- Số tài khoản giao dịch là trên 1 triệu tài khoản (trong đó có trên 4.000 tài khoản của  tổ chức).

TTCK nước ta đã đạt được những kết quả nhất định thời gian qua, tuy nhiên vẫn đang phát triển ở những bước đi đầu tiên. Do đó, TTCK nước ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong điều hành, quản lý thị trường cũng như không tránh khỏi những vấp váp. Về bối cảnh, TTCK Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động với những cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trên diện rộng và ảnh hưởng không nhỏ tới những động thái của thị trường. Tác động của thị trường tài chính thế giới là yếu tố không nhỏ gây ra những biến động trên TTCK Việt Nam thời gian qua.

Về mặt hàng hóa, sự hình thành và phát triển TTCK Việt Nam gắn liền với quá trình chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước mà chủ yếu là việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần. Cổ phiếu của các doanh nghiệp này đã và đang là hàng hóa chính của TTCK Việt Nam. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các công cụ tài chính dài hạn (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu ngân hàng và một số trái phiếu công ty) mặc dù khả năng chuyển đổi và các phương thức phát hành còn nhiều hạn chế nhưng đây là những công cụ ban đầu tạo hàng hóa cho TTCK.

Về các chủ thể tham gia thị trường: hiện nay, hoạt động chứng khoán sôi động nhất là hoạt động của các tổ chức phát hành cung cấp hàng hóa ra thị trường và hoạt động mua đi bán lại chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Điều này cũng có nghĩa là nhóm chủ thể hoạt động tích cực nhất trên TTCK Việt Nam hiện nay chính là nhóm các tổ chức phát hành, các CTCK và các nhà đầu tư.

2. Tranh chấp và vi phạm trên TTCK

2.1. Nhận diện các tranh chấp và vi phạm trên TTCK

2.1.1. Nhận diện tranh chấp trên TTCK

Các tranh chấp thường phát sinh trên TTCK khi một hoặc một số chủ thể cho rằng chủ thể cùng tham gia quan hệ về chứng khoán đã có hành vi xâm phạm lợi ích của mình. Tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán có thể xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán, xâm phạm trật tự quản lý nhà nước về chứng khoán hoặc có thể không xuất phát từ hành vi vi phạm hành chính hay hình sự mà chỉ là những bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên, khi một hoặc các bên cho rằng bên kia đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ để đảm bảo quyền lợi của bên còn lại trong quan hệ. Căn cứ vào chủ thể, tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán có thể bao gồm các loại sau: (i) Tranh chấp giữa các nhà đầu tư; (ii) Tranh chấp giữa nhà đầu tư với các tổ chức cung cấp dịch vụ, như tranh chấp về hợp đồng mở tài khoản giữa CTCK và khách hàng; tranh chấp về hợp đồng quản lý danh mục đầu tư; tranh chấp về hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán; tranh chấp về cầm cố chứng khoán; tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần; (iii) Tranh chấp giữa các tổ chức phát hành với các tổ chức khác: tranh chấp về việc thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành; tranh chấp liên quan đến tư vấn phát hành chứng khoán; (iv) Các loại tranh chấp khác: như tranh chấp về hợp đồng giữa tổ chức phát hành trái phiếu với đại diện người sở hữu trái phiếu; tranh chấp về hợp đồng mở tài khoản giữa thành viên lưu ký là ngân hàng với khách hàng; tranh chấp về các hợp đồng mà một bên tham gia là các tổ chức, cá nhân nước ngoài; tranh chấp giữa tổ chức phát hành với nhà đầu tư, tranh chấp giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ, tranh chấp giữa các thành viên giao dịch và nhà tổ chức thị trường.

2.1.2. Nhận diện vi phạm trên TTCK

Các vi phạm trên TTCK thường phát sinh trong trường hợp chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán. Trật tự được đặt ra với mục đích đảm bảo các giao dịch diễn ra trên cơ sở bình đẳng và phù hợp với lợi ích của các bên, từ đó bảo vệ sự lành mạnh chung của thị trường. Việc xâm phạm trật tự này sẽ làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường và lợi ích chung của thị trường.

Từ khái niệm chung về vi phạm pháp luật, chúng ta có thể hiểu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK như sau:  Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK là những hành vi trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của Nhà nước về chứng khoán, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật về chứng khoán xác lập và bảo vệ mà tùy vào tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính, dân sự hay truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp thiệt hại vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật[3].

Trên TTCK, các hành vi vi phạm rất đa dạng và có thể được nhận diện tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động hoặc đối tượng chủ thể. Nếu căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của TTCK, có thể có các loại vi phạm khác nhau như: vi phạm trong lĩnh vực phát hành chứng khoán; vi phạm trong lĩnh vực tổ chức thị trường, quản lý niêm yết chứng khoán; vi phạm các quy định về giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán; vi phạm quy định đối với người hành nghề kinh doanh chứng khoán; về đăng ký, thanh toán bù trừ, lưu ký chứng khoán; vi phạm các quy định về chế độ báo cáo, công bố thông tin, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra…

Xét về mặt chủ thể vi phạm có thể có: vi phạm đối với tổ chức phát hành, vi phạm đối với Trung tâm giao dịch và trung tâm lưu ký, vi phạm đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán, vi phạm đối với nhà đầu tư, vi phạm khác…

Các hành vi vi phạm này, tùy tính chất và mức độ có thể bị coi là vi phạm hành chính hoặc vi phạm hình sự hoặc vi phạm kỷ luật (trong trường hợp chủ thể vi phạm là thành viên của một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán).

2.2. Tình hình tranh chấp và vi phạm trên TTCK Việt Nam

2.2.1. Tình hình tranh chấp trên TTCK Việt Nam

Theo một khảo sát quy mô nhỏ do nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học pháp lý tiến hành đối với 203 cá nhân có tham gia thị trường ở các tư cách khác nhau[4] về thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp, khi được hỏi về mức độ tranh chấp trên TTCK, phần lớn các chủ thể đều nhận định là có tranh chấp với mức độ cụ thể như sau: 96/203 (47,3%) người cho rằng tranh chấp nhiều và mang tính phổ biến; 100/203 (49,3%) người cho rằng có tranh chấp nhưng không nhiều và chỉ 7/203 (3,4%) người cho rằng hầu như không có tranh chấp.

Đáng chú ý là đối với những người mới tham gia thị trường thì mức độ nhận định có tranh chấp thấp hơn so với những người tham gia thị trường thời gian lâu hơn. Cụ thể là 54,1% người tham gia thị trường từ 1 đến 2 năm và 55,2% người tham gia thị trường trên 2 năm nhận định là tranh chấp nhiều, mang tính phổ biến trong khi chỉ có 36,4% người mới tham gia thị trường nhận định như vậy.

Như vậy, có thể thấy rằng tranh chấp trên TTCK hiện nay là tương đối phổ biến. Về loại tranh chấp xảy ra trên TTCK, theo nhận định của các chủ thể thì tranh chấp rơi vào 3 loại chủ yếu là (i) tranh chấp giữa các nhà đầu tư với nhau, (ii) tranh chấp giữa các nhà đầu tư với các tổ chức trung gian thị trường (CTCK, CTQLQ) và (iii) tranh chấp giữa các nhà đầu tư với những người cung cấp hàng hóa cho thị trường là các tổ chức phát hành.

2.2.2. Tình hình vi phạm trên TTCK Việt Nam

Về tình hình vi phạm trên TTCK Việt Nam hiện nay, theo khảo sát của nhóm nghiên cứu, nhận định của các đối tượng được hỏi cho thấy tình hình vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán là tương đối phổ biến với phần lớn người được hỏi (92,1%) nhận định có vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán với các mức độ khác nhau. Có tới 48,8% cho rằng vi phạm nhiều và mang tính phổ biến, chỉ có 7,9% số người được hỏi cho rằng hầu như không có vi phạm.

Về chủ thể vi phạm, theo kết quả khảo sát thì tỷ lệ vi phạm cao tập trung vào hai đối tượng chủ yếu là CTCK và nhà đầu tư. Có tới 68,5% người được hỏi cho rằng các nhà đầu tư là những người thường có hành vi vi phạm; 62,1% người được hỏi cho rằng các CTCK thường xuyên vi phạm.

3. Cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK

3.1. Nhận diện cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK

Trong khuôn khổ của Đề tài nghiên cứu này, cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán sẽ được phân tích dưới giác độ là khái niệm được cấu thành bởi các yếu tố: các quy định về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, các thiết chế thực thi các quy định này và các điều kiện bảo đảm thực thi.

Các quy định về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm bao gồm hai bộ phận là các quy định về giải quyết tranh chấp và các quy định về xử lý vi phạm. Liên quan đến các quy định về xử lý vi phạm, pháp luật phải thể hiện chính sách: hành vi ứng xử nào trên TTCK được coi là vi phạm. Tuy nhiên, để đánh giá một cơ chế xử lý vi phạm thì không thể chỉ thuần túy nhìn vào các quy định về các hành vi vi phạm và các hình thức xử lý, và cũng sẽ không đầy đủ nếu đánh giá về cơ chế xử lý vi phạm mà không xét đến cơ chế giám sát thị trường. Đây là khâu quan trọng và có ý nghĩa quyết định hiệu quả của cơ chế xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán.

Đối với các thiết chế: các thiết chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK trước hết phải là các cơ quan nhà nước, bao gồm: Uỷ ban chứng khoán, Tòa án nhân dân là hai thiết chế chủ yếu. Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến các tổ chức tự quản, các nhà kinh doanh chứng khoán với tư cách là những chủ thể có vai trò hỗ trợ việc thực thi các quy định về xử lý vi phạm.

Về các điều kiện đảm bảo của cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán phải nói đến nguồn nhân lực vận hành cơ chế này, được đánh giá thông qua số lượng, trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ, các điều kiện cơ sở vật chất để giám sát thị trường, các công cụ và sự hỗ trợ của các chủ thể liên quan trong phát hiện và xử lý vi phạm. Ngày nay, công nghệ thông tin đã trở thành công cụ hỗ trợ tích cực cho các cơ quan quản lý trong giám sát và phát hiện các giao dịch nội gián hay hành vi thao túng thị trường. Căn cứ vào các tiêu chí giám sát, các hệ thống giao dịch có thể được thiết kế đảm bảo khả năng lưu giữ, tích hợp dữ liệu và đưa ra các cảnh báo về các trường hợp vi phạm hay các giao dịch đáng ngờ, hay những trường hợp có biến động bất thường về giá và các yếu tố khác, để các cơ quan quản lý có thể theo dõi và phát hiện các hành vi vi phạm. Việc hoàn thiện công cụ giám sát với sự ứng dụng của công nghệ thông tin cần có sự liên kết, phối hợp giữa các cơ quan có chức năng trong việc đảm bảo sự tương thích, hoàn thiện về công nghệ cũng như thể chế hóa các công cụ giám sát này.

3.2. Vai trò của cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK và các yếu tố để đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK

3.2.1. Vai trò của cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong việc đảm bảo một TTCK minh bạch, lành mạnh và vận hành có hiệu quả

Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm là một trong những khía cạnh điều tiết của nhà nước đối với TTCK, thể hiện sự can thiệp của nhà nước nhằm khắc phục những “khuyết tật” của thị trường. Vai trò của cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm được thể hiện qua các yếu tố sau:

Thứ nhất, khôi phục lại các quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham gia thị trường, cho phép các chủ thể bị vi phạm có khả năng áp dụng các biện pháp cần thiết để khôi phục quyền lợi cho mình.

Thứ hai, buộc các chủ thể tham gia thị trường phải ứng xử phù hợp với lợi ích chung, từ đó đảm bảo lợi ích của các chủ thể và đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường.

3.2.2. Các yếu tố để đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK

Các mục tiêu mà cơ chế giải quyết tranh chấp tốt cần đạt được đó là:

- Cho phép các thành viên tham gia thị trường, đặc biệt là các đối tượng yếu thế hơn có khả năng sử dụng các biện pháp phù hợp trong trường hợp lợi ích bị vi phạm: các biện pháp phải trong phạm vi sử dụng về thời gian, về khả năng tiếp cận, về chi phí, về tính công bằng, không thiên vị;

- Đảm bảo khả năng khôi phục nhanh chóng và ở mức cao nhất các lợi ích bị xâm phạm: đây là yếu tố hàng đầu mà các chủ thể có tranh chấp quan tâm.

Để đạt được mục tiêu này, cơ chế giải quyết tranh chấp cần có:

- Các quy định về nội dung hoàn thiện: xác định rõ ràng, đầy đủ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên liên quan trong các mối quan hệ và tại các tình huống phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán;

- Hệ thống cơ chế giải quyết tranh chấp linh hoạt, đa dạng và cho phép các chủ thể tham gia thị trường lựa chọn; đồng thời đảm bảo sự thân thiện và có khả năng tiếp cận đặc biệt đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ.

- Bộ máy giải quyết tranh chấp vô tư, không thiên vị và đảm bảo tính chuyên môn.

CHƯƠNG II

CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN TTCK CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

1. Cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK của Trung Quốc

Là quốc gia có điều kiện chuyển đổi nền kinh tế giống như Việt Nam, song Trung Quốc đã xây dựng được một nền kinh tế thị trường tương đối phát triển. TTCK ở Trung Quốc cũng đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt ở hai trung tâm tài chính lớn của Trung Quốc là Hồng Kông và Thượng Hải. Pháp luật chứng khoán Trung Quốc cũng đã hình thành được một cơ chế tương đối đồng bộ về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK, thể hiện qua những nét cơ bản như sau:

1.1. Cơ chế xử lý vi phạm trên TTCK Trung Quốc

1.1.1. Quan niệm về các loại hành vi vi phạm trên TTCK

Căn cứ vào mức độ thì pháp luật về chứng khoán của Trung Quốc cũng chia vi phạm thành hai loại là vi phạm về hành chính và vi phạm về hình sự. Căn cứ vào hình thức vi phạm, các dạng hành vi vi phạm được quy định bao gồm: (1) Vi phạm quy định về chào bán chứng khoán; (2) Vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán; (3) Vi phạm quy định về kinh doanh chứng khoán; (4) Vi phạm quy định về đăng ký, lưu ký, niêm yết chứng khoán; (5) Vi phạm quy định về công bố thông tin, báo cáo.

Hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo Luật chứng khoán của Trung Quốc cũng bao gồm các dạng hành vi cơ bản như hành vi giao dịch nội gián, hành vi thao túng thị trường, hành vi vi phạm về đăng ký, lưu ký, niêm yết chứng khoán… Tuy nhiên, đối với mỗi dạng hành vi, pháp luật đều có quy định cụ thể về từng hành vi có thể bị coi là vi phạm, cho phép xử lý tương đối triệt để những hành vi có thể tác động xấu tới thị trường.

1.1.2. Các cơ quan giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm trên TTCK Trung Quốc

a) Cơ quan quản lý giám sát chứng khoán Quốc vụ viện

Theo quy định tại Điều 178, 179 Luật chứng khoán 2006 thì Cơ quan quản lý giám sát chứng khoán Quốc vụ viện có thẩm quyền giám sát đối với TTCK nhằm đảm bảo thị trường hoạt động hợp pháp và xử lý hành vi vi phạm về hành chính.

Đối tượng, phạm vi kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm được quy định cụ thể tại Điều 179 đến Điều 187 Luật chứng khoán 2006.

b) Các cơ quan có thẩm quyền xử lý hình sự

Theo quy định tại Điều 7 Luật Tố tụng hình sự của Trung Quốc, Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố - truy tố tội phạm. Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền đưa ra phán quyết một người là có tội và phải chịu trách nhiệm hình sự.

c) Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK)

SGDCK là nơi diễn ra hoạt động giao dịch, tổ chức và giám sát chứng khoán tập trung, là tổ chức có tư cách pháp nhân, tự chịu trách nhiệm. Quốc vụ viện là cơ quan có quyền quyết định thành lập hoặc giải thể SGDCK. Mọi thay đổi về Quy chế hoạt động của SGDCK đều phải được cơ quan quản lý giám sát chứng khoán Quốc vụ viện phê chuẩn.

d) Hiệp hội chứng khoán

Hiệp hội chứng khoán là tổ chức xã hội nghề nghiệp với các thành viên là các CTCK được thành lập hợp pháp dưới sự giám sát, điều hành tập trung thống nhất của nhà nước. Hiệp hội chứng khoán có tư cách pháp nhân. Về tổ chức, Hiệp hội chứng khoán có đại hội đồng. Đây là cơ quan quyền lực của hiệp hội do các thành viên của hiệp hội thành lập theo quy chế của hiệp hội. Khác với cơ quan quản lý giám sát chứng khoán Quốc vụ viện, Hiệp hội chứng khoán thực hiện quyền kiểm tra, giám sát chỉ đối với các thành viên của hiệp hội khi có hành vi vi phạm pháp luật, quy định hành chính hoặc quy chế của hiệp hội. Hình thức xử lý vi phạm mà hiệp hội áp dụng là kỷ luật (Điều 176 Luật chứng khoán).

1.1.3. Các hình thức xử lý vi phạm trên TTCK Trung Quốc

a) Xử lý hành chính

Pháp luật Trung Quốc quy định phạt tiền và cảnh cáo là hình phạt chính áp dụng đối với các hành vi vi phạm hành chính trên TTCK. Ngoài hình phạt chính, pháp luật nước này còn quy định các hình thức xử phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và các biện pháp khắc phục hậu quả nhất định.

b) Xử lý hình sự

Vấn đề xử lý về hình sự trong lĩnh vực chứng khoán được quy định tại các Điều 178, 179, 180, 181, 182, 197 Luật Hình sự Trung Quốc ngày 14/3/1997.

- Các hành vi bị xử lý hình sự trong lĩnh vực chứng khoán có thể kể đến như: giả mạo thay đổi giá chứng khoán; phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty không được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền; tiết lộ các thông tin giao dịch nội bộ; tạo, phổ biến, lan truyền các tin tức giả làm rối loạn TTCK; lừa dối các nhà đầu tư mua bán chứng khoán, ký kết hợp đồng mua bán tương lai; thao túng thị trường.

- Đối tượng bị áp dụng: cá nhân trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp tổ chức thực hiện hành vi phạm tội thì người quản lý hoặc người khác chịu trách nhiệm trực tiếp sẽ bị xử lý hình sự.

- Các hình phạt áp dụng đối với hành vi phạm tội:

Hình phạt chính: tù giam (mức phạt cao nhất là 10 năm), cải tạo không giam giữ, tạm giam ngắn hạn. Ngoài ra, người phạm tội có thể áp dụng hình phạt bổ sung cùng với hình phạt chính như: phạt tiền. Mức phạt tiền được quy định theo khung nhất định, tùy thuộc vào mức độ, tính chất của hành vi phạm tội.

1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trên TTCK Trung Quốc

Theo quy định của pháp luật Trung Quốc thì các tranh chấp về chứng khoán có thể được giải quyết bởi các phương thức là trọng tài, hòa giải hoặc tòa án và các chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp có thể là cơ quan trọng tài, hiệp hội chứng khoán hoặc tòa án nhân dân.

1.2.1. Giải quyết tranh chấp trên TTCK bằng phương thức hòa giải

Hoà giải là việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán theo phương thức hai bên cùng bàn bạc, thoả thuận với nhau về những vấn đề có liên quan đến nội dung của tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán với sự giúp đỡ của người thứ ba đóng vai trò trung gian hoà giải. Trong quá trình hoà giải, người trung gian sẽ phân tích, chỉ cho mỗi bên những lợi thế và điểm yếu của họ, cũng như nói rõ các quy định pháp luật có liên quan để các bên cân nhắc và tự tìm ra một phương án giải quyết chung.

Theo quy định tại Điều 176 của Luật chứng khoán 2006 thì Hiệp hội chứng khoán có thể làm trung gian hòa giải các tranh chấp phát sinh giữa các hội viên với nhau, giữa hội viên với các tổ chức, cá nhân khác.

1.2.2. Giải quyết tranh chấp trên TTCK  bằng phương thức trọng tài

Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán mà theo đó một trọng tài viên duy nhất hoặc một hội đồng trọng tài có thẩm quyền sẽ đứng ra giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán trên cơ sở những quy tắc nhất định theo sự thoả thuận hợp pháp của các bên tranh chấp hoặc theo quy định của pháp luật. Phán quyết trọng tài có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp.

Trọng tài giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán không được pháp luật Trung Quốc quy định riêng nên áp dụng các quy định của Luật trọng tài 1995. Theo quy định tại Điều 2, 3 Luật trọng tài 1995 thì khi phát sinh tranh chấp, các bên có thể yêu cầu Trọng tài giải quyết.

1.2.3. Giải quyết tranh chấp trên TTCK tại Tòa án

Đây là phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán bằng biện pháp tư pháp. Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền ra phán quyết mang tính quyền lực nhà nước để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán giữa các bên. Việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán tại Toà án được tiến hành theo thủ tục tố tụng chặt chẽ, với những thẩm phán chuyên trách có trình độ, các phán quyết được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.

Theo Điều 85 của Luật tố tụng dân sự Trung Quốc, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền hòa giải tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán nếu có yêu cầu của các bên trên cơ sở tự nguyện. Trường hợp hòa giải không thành hoặc các bên không tiến hành hòa giải thì Tòa án nhân dân sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Phần lớn các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán đều có thể được Tòa án thụ lý và giải quyết cho thấy Tòa án là thiết chế quan trọng trong giải quyết tranh chấp chứng khoán ở Trung Quốc.

2. Cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK của Hoa Kỳ

2.1. Cơ chế xử lý vi phạm trên TTCK Hoa Kỳ

2.1.1. Quan niệm về các loại hành vi vi phạm trên TTCK:

Các hành vi vi phạm trên TTCK theo pháp luật Hoa Kỳ bao gồm:

a) Hành vi vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán

Bao gồm các hành vi vi phạm sau: (i) Giao dịch nội gián; (ii) Gian lận trong giao dịch chứng khoán; (iii) Thao túng giá chứng khoán.

b) Hành vi vi phạm quy định chế độ công bố thông tin

Bao gồm hành vi:

- Cố ý đưa ra thông tin sai lệch về một thực tế quan trọng hoặc bỏ qua những vấn đề mà nhà nước quy định cần phải có trong một bản thông báo hoặc những thông tin cần thiết để bản báo cáo đó không bị hiểu lầm (Điều 24 Luật chứng khoán năm 1933).

- Vi phạm quy định về nộp thông tin bổ sung hoặc thông tin cần báo cáo định kỳ.[5]

- Vi phạm quy định về việc nộp tài liệu họp hội đại hội đồng cổ đông thường niên (proxy)[6] với Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (Điều 14 Luật giao dịch chứng khoán); vi phạm các quy định về báo cáo khi sở hữu trên 5% chứng khoán của công ty thông qua việc mua chứng khoán hoặc đấu giá.

- Vi phạm quy định về đăng ký giao dịch chứng khoán.

- Vi phạm quy định về đăng ký chứng khoán.

c) Hành vi vi phạm khác

Ngoài các quy định trên, pháp luật chứng khoán Hoa Kỳ còn coi là hành vi vi phạm đối với những tổ chức phát hành hoặc bất cứ công dân Hoa Kỳ nào là nhân viên, giám đốc, đại lý của tổ chức phát hành đại điện cho tổ chức phát hành thực hiện hối lộ bên ngoài Hoa Kỳ bằng những hành động biếu, trả tiền, hứa trả tiền hoặc đại diện trả tiền hoặc tặng hoặc hứa tặng hoặc ủy quyền cho một người tặng, hứa tặng những vật có giá trị cho những cá nhân tổ chức nêu trên không phân biệt phương thức sử dụng là thư điện tử hay phương thức khác nhằm tác động đến các giao dịch mua và bán chứng khoán.

2.1.2. Các cơ quan giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm trên TTCK Hoa Kỳ

a. Tòa án quận (United Stated district court)[7]

Tòa án quận là tòa án xét xử thuộc hệ thống tòa án liên bang. Theo thẩm quyền được quy định bởi Quốc hội và Hiến pháp, các tòa án cấp huyện có thẩm quyền xét xử gần như tất cả các vụ việc trong liên bang, bao gồm cả vụ việc về dân sự và hình sự. Mỗi ngày có hàng trăm người dân trên đất nước được lựa chọn để làm thành viên trong bồi thẩm đoàn và giúp đỡ trong việc đưa quyết định trong một số vụ việc.

Có 94 Tòa án quận trong các liên bang, bao gồm ít nhất một quận trong mỗi bang, đặc khu Columbia and Puerto Rico. Ba vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ là quần đảo Virgin, Guam và quần đảo Bắc Mariana có các tòa án cấp huyện xét xử các vụ việc của liên bang.

Ủy ban chứng khoán sẽ điều tra các hành vi vi phạm và cân nhắc tùy theo trường hợp chuyển đến Tòa án để phạt tiền hoặc áp dụng biện pháp hình sự.[8]

b) Thẩm phán luật hành chính

Ủy ban chứng khoán có thể gửi vụ việc theo thủ tục tố tụng cho một thẩm phán luật hành chính xét xử, thẩm phán có tư cách độc lập với Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ. Thẩm phán sẽ tiến hành phiên tòa (hearing - phiên tòa đặc biệt không có hội đồng) xem xét các chứng cứ và quyết định biện pháp xử lý trong đó có hình phạt.[9]

c) Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ

Ủy ban chứng khoán có một cơ quan chịu trách nhiệm đảm bảo thực thi pháp luật, thực hiện nhiệm vụ điều tra các hành vi vi phạm và có quyền áp dụng quy trình cảnh cáo và yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm.

2.1.3. Các hình thức xử lý vi phạm trên TTCK Hoa Kỳ

Pháp luật Hoa Kỳ quy định khá cụ thể về biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Các biện pháp xử lý được áp dụng đối với người thực hiện hành vi vi phạm là xử lý hành chính (phạt tiền, tạm đình chỉ, chấm dứt hành vi vi phạm, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, cảnh cáo, phạt tiền dân sự, biện pháp khắc phục…), chịu trách nhiệm dân sự, xử lý hình sự. Đối với một số hành vi vi phạm, cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét tùy thuộc vào từng vụ việc để áp dụng cả hình thức xử lý hành chính (phạt tiền) và hình thức xử lý hình sự (phạt tù giam có thời hạn) hoặc xử lý hành chính.

2.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trên TTCK Hoa Kỳ

Ở Hoa Kỳ, giải quyết tranh chấp trên TTCK cũng bao gồm các hình thức giải quyết cơ bản đó là hòa giải, trọng tài và Tòa án.

Đặc biệt, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp về chứng khoán có lịch sử hình thành lâu đời ở Hoa Kỳ. Phương thức này được hàng nghìn nhà đầu tư tại Hoa Kỳ lựa chọn và đã đáp ứng được yêu cầu của họ. Bởi vì, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và đảm bảo được sự công bằng trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Hoa Kỳ gồm có: Cơ quan điều tiết ngành tài chính Hoa Kỳ (Financial Industry Regulatory Authority, gọi tắt là FIRA), Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA) và các cơ quan giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng khác.

3. Cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK của Australia

3.1. Quy định của pháp luật về hành vi vi phạm và biện pháp xử lý

Các văn bản pháp luật điều chỉnh hành vi vi phạm và biện pháp xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán của Australia bao gồm:

- Bộ luật hình sự 1995;

- Luật công ty 2001;

- Luật hiệp hội chứng khoán và đầu tư Australia.

Theo đó, pháp luật Australia quy định hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán có thể được phân loại thành hai dạng sau đây:

- Hành vi vi phạm quy định của pháp luật về giao dịch chứng khoán;

- Hành vi vi phạm quy định của pháp luật về công bố thông tin.

3.1.1. Vi phạm quy định của pháp luật trong giao dịch chứng khoán

Bao gồm các hành vi: (i) Giao dịch nội gián[10]; (ii) Thao túng thị trường[11]; (iii) Giao dịch gian dối và lũng đoạn thị trường[12]; (iv) Tiết lộ những thông tin về giao dịch vi phạm pháp luật[13]; (v) Cung cấp các thông tin giả tạo hoặc gây nhầm lẫn[14]; (vi) Xúi giục người khác tham gia giao dịch[15]; (vii) Hành vi không trung thực[16]; (viii) Hành vi gây nhầm lẫn hoặc lừa dối[17].

3.1.2.  Vi phạm quy định về chế độ báo cáo, thông tin

Công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động phải báo cáo cho Sở giao dịch chứng khoán Australia về các vấn đề như: thực hiện một dịch vụ mới trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, áp dụng các biện pháp kỷ luật đối với những người tham gia thị trường, những vấn đề liên quan đến thanh tra, giám sát nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định trong hoạt động thị trường... (Điều 792, 912 Luật công ty Australia năm 2001).

3.1.3. Vi phạm các quy định đối với tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán

Tổ chức thanh toán, bù trừ hoạt động nhưng đăng ký theo quy định của pháp luật (Điều 820A, 820B, 820D) hoặc Công ty chứng khoán hoạt động khi chưa được cấp giấy phép hoạt động.

Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán vi phạm các quy định về nghĩa vụ phải thực hiện như: nghĩa vụ đảm bảo tuân theo các quy định của pháp luật; báo cáo đầy đủ nguồn lực (tài chính, công nghệ, con người) để thực hiện các hoạt động chứng khoán; đại diện phù hợp với quy định của pháp luật; có hệ thống giải quyết tranh chấp, khiếu nại phù hợp với quy định của pháp luật; có hệ thống quản lý rủi ro… (Điều 912A Luật công ty Australia).

3.2. Thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm

3.2.1. Tòa án

Theo quy định của Luật công ty Australia, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính và xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm.

3.2.2. Ủy ban chứng khoán và đầu tư Australia

Ủy ban chứng khoán và đầu tư Australia là cơ quan độc lập với các cơ quan của Chính phủ Australia hoạt động như một cơ quan. Cơ quan này có vai trò thi hành và quy định các vấn đề liên quan đến chứng khoán nói riêng, thị trường tài chính nói chung nhằm bảo vệ khách hàng, nhà đầu tư.

Trong lĩnh vực chứng khoán, thẩm quyền của Ủy ban chứng khoán và đầu tư Australia: (i) Áp dụng biện pháp xử lý hành chính (phạt tiền) theo Lệnh do Tòa án ban hành; (2) Ban hành các lệnh tước giấy phép hoạt động tạm thời hoặc vĩnh viễn đối với hành vi vi phạm do không tuân thủ các quy định của pháp luật.

3.3. Các biện pháp xử lý

- Một người thực hiện hành vi vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc hình sự (không được xử lý hành chính về hành vi vi phạm đã được xử lý hình sự - Điều 1317M).

- Đối với biện pháp xử lý hình sự: ngoài hình phạt tù giam, người vi phạm còn bị phạt tiền. Pháp luật Australia quy định hình phạt mức cao nhất đối với hành vi vi phạm, bên cạnh đó còn có thể nộp phạt theo số lần thu nhập có được do hành vi vi phạm mà có.

 

CHƯƠNG III

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN TTCK VÀ VIỆC VẬN HÀNH CÁC CƠ CHẾ NÀY Ở VIỆT NAM

1. Thực trạng cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam

1.1. Thực trạng cơ chế giải quyết tranh chấp trên TTCK Việt Nam

1.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp trên TTCK Việt Nam

1.1.1.1. Thực trạng pháp luật về các hình thức giải quyết tranh chấp trên TTCK ở Việt Nam.

Cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp trên TTCK chính là các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia thị trường, được thể hiện trong các quy định điều tiết chuyên ngành là Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn; các quy định điều chỉnh các lĩnh vực dân sự, kinh tế như Luật dân sự, Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, các văn bản điều tiết các lĩnh vực liên quan như Luật các tổ chức tín dụng…

Pháp luật công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chứng khoán gồm: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.

a. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng

Như đã phân tích ở trên, những tranh chấp trên TTCK thuộc lĩnh vực dân sự. Căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự thì việc giải quyết tranh chấp thuộc quyền tự định đoạt của các bên. Như vậy, các bên hoàn toàn có thể quyết định lựa chọn phương thức thương lượng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán, ngoại trừ những trường hợp pháp luật không cho phép thương lượng. Căn cứ vào Điều 40 của Bộ luật dân sự thì có thể hiểu việc thương lượng bị cấm trong trường hợp làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.

b. Giải quyết tranh chấp bằng hòa giảiTrích từ: http://kilobooks.com

Hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp.

Việc giải quyết tranh chấp trên TTCK được quy định tại Điều 12 - Bộ luật dân sự. Theo đó, Điều luật này khuyến khích các bên tiến hành giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải. Tuy nhiên, các quy định này chưa cho phép phân biệt thương lượng (các bên tự thương lượng) với hòa giải (có bên thứ ba làm trung gian). Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thành lập các cơ quan hòa giải nói chung và trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng.

c. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Quy định của Luật trọng tài thương mại (được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010) thì những tranh chấp thuộc phạm vi giải quyết của Trọng tài mở rộng hơn rất nhiều so với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. Theo đó, Điều 2 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định các tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài thương mại bao gồm: “1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; 2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; 3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài”. Như vậy, Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp rất đa dạng phát sinh trong hoạt động thương mại, trong đó bao gồm cả các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán.

d. Giải quyết tranh chấp tại tòa án

Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những nhược điểm nhất định, ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông qua tòa án là: Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.

Theo quy định của Bộ luật dân sự thì tùy từng trường hợp tranh chấp có thể thuộc thẩm quyền của Tòa dân sự hoặc Tòa kinh tế.

Nếu muốn khởi kiện ra Toà thành công, điều cần đặc biệt lưu ý là phải xuất trình được các chứng cứ gốc về hành vi vi phạm cam kết của bị đơn như: bản gốc hợp đồng mua bán chứng khoán, đặt cọc, thoả thuận; bản gốc giấy biên nhận tiền hay chứng từ chuyển tiền qua ngân hàng... Sau khi có được chứng cứ, nhà đầu tư thực hiện các bước khởi kiện theo trình tự quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Theo đó, người khởi kiện phải làm đơn khởi kiện và gửi đến Toà án có thẩm quyền giải quyết (ví dụ là Toà kinh tế nơi cư trú của bị đơn đối với tranh chấp mua bán cổ phiếu, trái phiếu). Kèm theo đơn là tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, đồng thời nộp tiền tạm ứng án phí theo thông báo của Toà án (khi đó Toà đã chấp nhận thụ lý vụ kiện).

1.1.1.2. Thực trạng pháp luật về nội dung làm căn cứ giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam

Như đã đề cập, pháp luật về nội dung làm căn cứ giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán bao gồm pháp luật về dân sự, đầu tư, doanh nghiệp, chứng khoán, tín dụng ngân hàng và các quy định liên quan khác. Trong đó, pháp luật về dân sự và pháp luật về chứng khoán là các cơ sở quan trọng nhất của hoạt động này.

a) Bộ luật dân sự

Bộ luật dân sự bao gồm những quy định mang tính nền tảng đối với giao dịch dân sự, chủ thể của giao dịch dân sự, về quyền sở hữu, bảo vệ quyền sở hữu và quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong các giao dịch dân sự nói chung và giao dịch chứng khoán nói riêng. Tuy nhiên, các quy định trong Bộ luật dân sự còn một số điểm bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có tranh chấp nói chung và tranh chấp về chứng khoán nói riêng, cụ thể như sau:

Thứ nhất, vấn đề sở hữu trong Bộ luật dân sự chưa dựa trên sự phân định giữa quyền trực tiếp của chủ sở hữu đối với tài sản (vật quyền) và quyền tài sản có được thông qua hành vi của một chủ thể khác hay còn gọi là quyền yêu cầu (trái quyền).

Thứ hai, liên quan đến vấn đề tài sản trong Bộ luật dân sự: Bản chất của chứng khoán chưa được xác định rõ trong Bộ luật dân sự. Chứng khoán là tài sản hay chứng khoán chỉ là một loại chứng chỉ xác định quyền của người sở hữu chứng khoán?

Thứ ba, liên quan đến chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự: Bộ luật dân sự có những quy định chưa phù hợp hoặc chưa rõ khi quy định liên quan đến các tình huống có hiệu lực hoặc mất hiệu lực của hợp đồng (trường hợp do nhầm lẫn hay không tuân thủ quy định về hình thức…). Các hậu quả phát sinh trong trường hợp hợp đồng vô hiệu cũng chưa rõ và điều này cũng ảnh hưởng đến việc xác định quyền - nghĩa vụ các bên phát sinh từ các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực chứng khoán.

Thứ tư, liên quan đến lãi suất cho vay: Bộ luật dân sự quy định lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Nhưng lãi suất cơ bản thường ở mức rất thấp, chỉ có tính chất định hướng chứ không có ý nghĩa như lãi suất tối thiểu. Cho nên các quan hệ tín dụng trong hợp đồng đầu tư chứng khoán luôn trong tình trạng vượt quá lãi suất tối đa cho phép và gây rủi ro lớn cho bên cho vay.

Thứ năm, những quy định chồng chéo trong Bộ luật dân sự.

b) Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn

Luật chứng khoán tập trung vào các quy định liên quan đến giao dịch chứng khoán, tranh chấp của các chủ thể tham gia thị trường làm cơ sở nhất định cho việc giải quyết tranh chấp nhưng các vấn đề liên quan đến xác định quyền của các bên mua - bán trong giao dịch chứng khoán vẫn phải căn cứ vào Bộ luật dân sự. Một số vấn đề liên quan đến các quy định về chứng khoán sẽ được nhóm nghiên cứu phân tích ở phần 1.2.1 dưới đây.

1.1.2. Các thiết chế giải quyết tranh chấp trên TTCK và phương thức sử dụng

a) Tòa án

Giải quyết tranh chấp tại tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp chính thống nhất cho bất kỳ loại tranh chấp xã hội nào. Đối với tranh chấp về chứng khoán, tùy từng trường hợp, các tranh chấp này có thể là tranh chấp dân sự hoặc tranh chấp liên quan đến kinh doanh, thương mại và được Tòa án giải quyết theo thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.

b) Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK)

Một trong những quyền hạn của Sở giao dịch là làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán. Cho đến nay, vai trò của SGDCK trong giải quyết tranh chấp cũng chỉ dừng lại ở hòa giải tranh chấp giữa các thành viên, không có vai trò trong giải quyết tranh chấp khác trong lĩnh vực chứng khoán, chẳng hạn tranh chấp giữa nhà đầu tư với các CTCK, hoặc giữa các nhà đầu tư với nhau.

c) Trọng tài

Trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp được các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ưa chuộng. Ở Việt Nam, từ những năm 1960 đã có tổ chức Trọng tài kinh tế Nhà nước được thành lập để giám sát và giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhà nước và bảo vệ việc thực hiện kế hoạch nhà nước. Các phán quyết của Trọng tài kinh tế Nhà nước có hiệu lực pháp lý cao và nếu các bên không thực hiện sẽ bị cưỡng chế thi hành. Tuy nhiên, vai trò của tổ chức này chỉ phù hợp trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trong cơ chế thị trường, hình thức trọng tài phi Chính phủ đã được hình thành. Đây là loại hình giải quyết tranh chấp thường được sử dụng nhiều trên thế giới.

d) Cơ quan quản lý nhà nước

Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán không phải là một cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vai trò quản lý của mình, cơ quan này thường xuyên nhận được các khiếu nại, kiến nghị của các chủ thể tham gia thị trường liên quan đến việc các chủ thể khác xâm phạm lợi ích của họ. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý nhà nước có thể đóng vai trò là người hòa giải giữa các bên tranh chấp hoặc những ý kiến, quan điểm của cơ quan này về sự việc xảy ra cũng sẽ là căn cứ để các bên có thể tự phân xử.

e) Các tổ chức hòa giải

Ngoại trừ Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam có chức năng hòa giải và có Bộ quy tắc hòa giải thì cho tới nay ở Việt Nam chưa có bất kỳ cơ quan hòa giải nào được thành lập và cũng chưa có cơ sở pháp lý nào cho việc thành lập các cơ quan hòa giải thương mại. Pháp luật chỉ mới quy định về hình thức hòa giải cơ sở với chức năng giải quyết các tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân.

f) Các tổ chức khác

Sự phát triển của TTCK với sự đa dạng của các thành viên tham gia thị trường đã dẫn đến sự hình thành của các hiệp hội khác nhau trong lĩnh vực chứng khoán. Ở Việt Nam hiện nay đã có một số các tổ chức được thành lập mà thành viên là các chủ thể tham gia TTCK như Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính... Các hiệp hội này có thể đóng vai trò tích cực trong việc giúp các thành viên giải quyết tranh chấp, bất đồng nảy sinh giữa họ. Bên cạnh đó, thị trường cũng có thể thành lập các tổ chức hòa giải chuyên làm nhiệm vụ hòa giải tranh chấp giữa các bên.

1.1.3. Các điều kiện đảm bảo cơ chế giải quyết tranh chấp trên TTCK Việt Nam

Hiện nay, khi hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp trên TTCK ở Việt Nam chưa được hình thành một cách đầy đủ và việc giải quyết tranh chấp chủ yếu dựa vào hai thiết chế cơ bản là tòa án và trọng tài, chưa phát huy được vai trò của các tổ chức, hiệp hội, cá nhân tham gia vào lĩnh vực chứng khoán thì ở một góc độ nhất định, tính chuyên môn của những người làm nhiệm vụ đưa ra phán quyết là chưa thực sự bảo đảm.

Một trong những yếu tố quan trọng để phát huy vai trò của Tòa án trong giải quyết tranh chấp chính là đảm bảo sự độc lập của Tòa án. Đây là đòi hỏi được đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp nói chung, điều này cũng đồng nghĩa với việc chưa có một cơ chế đảm bảo sự độc lập thực sự của Tòa án.

Đối với các thiết chế giải quyết tranh chấp khác sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, việc nâng cao năng lực cũng như giúp cho các thành viên tham gia thị trường biết đến các thiết chế này là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hiện nay các thiết chế này đều chưa thực sự sẵn sàng trong việc tham gia giải quyết tranh chấp trên TTCK.

Cơ chế trưng cầu giám định theo quy định của pháp luật cũng là một trong những biện pháp để đảm bảo các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp đảm bảo tính chuyên môn.

1.2. Thực trạng cơ chế xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam

1.2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam

Tuân thủ theo thông lệ chung về xây dựng các quy định xử lý vi phạm, các quy định về hành vi vi phạm và biện pháp xử lý trong lĩnh vực chứng khoán cũng được xác định dựa trên các quy định về điều tiết ngành, được quy định trong Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán, các văn bản pháp luật liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật thương mại, Luật giao dịch điện tử, Pháp lệnh ngoại hối… Căn cứ vào các yêu cầu quản lý và chính sách của nhà nước đối với phát triển lĩnh vực chứng khoán được xác định trong các văn bản này, Nhà nước ban hành quy định về xử lý vi phạm hành chính (xác định các hành vi vi phạm hành chính và biện pháp xử lý) và quy định về xử lý hình sự (xác định các hành vi vi phạm trên TTCK được coi là tội phạm và hình phạt tương ứng).

a) Hệ thống các quy định điều tiết ngành trong lĩnh vực chứng khoán

Các quy định điều tiết ngành hiện nay được quy định tại Luật chứng khoán năm 2006, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán. Các quy định trong pháp luật chứng khoán hướng tới tạo lập một thị trường lành mạnh, minh bạch, ngăn ngừa các hành vi có thể gây tổn hại tới sự minh bạch và lành mạnh của thị trường. Để đạt được mục đích này, pháp luật chứng khoán xác định 4 nhóm hành vi bị cấm[18], bao gồm: (i) Hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và TTCK; (ii) Hành vi công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục mua, bán chứng khoán hoặc công bố thông tin không kịp thời, đầy đủ về các sự việc xảy ra có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trên thị trường[19]; (iii) Hành vi giao dịch nội gián[20] và (iv) Hành vi tạo cung cầu giả tạo, thao túng giá chứng khoán.

Bên cạnh những hành vi bị cấm này, pháp luật về chứng khoán cũng thiết lập các chế định cần thiết để đảm bảo tính minh bạch và sự công bằng trên thị trường.

Để đảm bảo TTCK được tổ chức chặt chẽ, Luật chứng khoán cũng có những quy định về chủ thể được tổ chức thị trường, cơ cấu tổ chức, bộ máy, quy chế điều hành, hoạt động của các đơn vị tổ chức thị trường (cụ thể là SGDCK/Trung tâm giao dịch chứng khoán), quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.

Pháp luật về chứng khoán cũng dành nhiều quy định cho các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán (CTCK, công ty quản lý quỹ, các ngân hàng thanh toán, ngân hàng giám sát…).

Các đặc trưng rõ nét nhất của các quy định về điều tiết TTCK chính là:

- Nhấn mạnh yêu cầu công khai, minh bạch thông tin cũng như tính trung thực, đầy đủ và chính xác của thông tin.

- Đề cao trách nhiệm của các tổ chức trung gian thị trường và các tổ chức cung cấp dịch vụ cũng như thành viên của các tổ chức này, đặc biệt trong việc hành động cẩn trọng, trung thực vì lợi ích của  khách hàng.

- Các yêu cầu về an toàn tài chính cũng được đặt ra đối với các tổ chức tạo lập thị trường (sở giao dịch, trung tâm giao dịch, trung tâm lưu ký), các tổ chức cung cấp dịch vụ (CTCK, công ty quỹ, quỹ đầu tư) và cả với nhà đầu tư nhằm hướng tới sự bình ổn của thị trường.

- Quy định rõ ràng, chặt chẽ về vai trò và mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thị trường, đặc biệt là các đơn vị tổ chức thị trường (Sở giao dịch), các đơn vị tạo lập thị trường (TCPH) và các tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ (CTCK, công ty quỹ, ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát).

- Sự bất bình đẳng cố hữu giữa các chủ thể tham gia thị trường cũng đã được điều chỉnh để giảm thiểu nhằm đảm bảo sự công bằng ở mức cao nhất cho các nhà đầu tư tham gia thị trường.

- Mặc dù về cơ bản, các quy định điều tiết TTCK trong pháp luật chứng khoán của Việt Nam cũng đã tuân thủ các thông lệ chung về điều tiết TTCK. Tuy nhiên, một trong những tồn tại của hệ thống pháp luật hiện nay chính là sự chưa rõ ràng về quan điểm chính sách đối với một số đối tượng điều chỉnh.

Các đặc trưng của các quy định điều tiết thị trường nêu trên rõ ràng là có mối liên hệ chặt chẽ và tác động mạnh mẽ đến các quy định về xử lý vi phạm trên TTCK.

b) Quy định về hành vi vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên TTCK trong thời gian vừa qua đã liên tục được hoàn thiện cùng với quá trình hoàn thiện của pháp luật về chứng khoán. Chỉ riêng từ năm 2000 đến nay, Chính phủ đã bốn lần ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán. Cụ thể là các Nghị định sau: Nghị định số 22/2000/NĐ-CP ngày 10/7/2000 (được ban hành sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và TTCK), Nghị định số 161/2004/NĐ-CP ngày 7/9/2004 thay thế Nghị định số 22/2000/NĐ-CP (ban hành sau Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 23/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK), Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 18/3/2007 thay thế cho Nghị định số 161/2004/NĐ-CP (ban hành căn cứ vào Luật chứng khoán năm 2006) và gần đây nhất là Nghị định số 85/2010/NĐ-CP ngày 2/8/2010 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK thay thế cho Nghị định số 36/2007/NĐ-CP. So với thời điểm ban hành nghị định đầu tiên về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này, các Nghị định được ban hành về sau ngày càng có nhiều quy định cụ thể và phù hợp hơn.

Căn cứ vào Mục 2 Chương IX của Luật chứng khoán và Nghị định số 85/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK thì các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán được quy định bao gồm các nhóm hành vi sau: (1) Vi phạm quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng; (2) Vi phạm quy định về công ty đại chúng; (3) Vi phạm quy định về niêm yết chứng khoán; (4) Vi phạm quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán; (5) Vi phạm quy định về hoạt động kinh doanh chứng khoán và chứng chỉ hành nghề chứng khoán; (6) Vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán; (7) Vi phạm quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, về ngân hàng giám sát; (8) Hành vi vi phạm quy định về công bố thông tin và báo cáo; (9) Vi phạm quy định kiểm toán TCPH, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán; (10) Vi phạm quy định về thanh tra, kiểm tra.

Về các biện pháp xử lý, Nghị định xử phạt hiện hành cũng xác định các biện pháp xử lý chung theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, bao gồm các hình thức phạt cảnh cáo, phạt tiền với tư cách là các hình thức xử phạt chính. Bên cạnh các hình thức xử phạt chính còn có các hình thức xử phạt bổ sung tương ứng với loại hành vi vi phạm. Đáng chú ý là liên quan đến biện pháp phạt tiền, để đảm bảo tính răn đe đối với các hành vi vi phạm có tính chất trục lợi, Nghị định xử phạt hiện hành quy định mức xử phạt gắn với khoản thu nhập trái pháp luật.

Đánh giá chung về hệ thống các quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán có thể thấy:

- Việc xác định các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán hiện nay cũng đã căn cứ vào mục tiêu thiết lập một thị trường minh bạch, đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan. Các hành vi được xác định là vi phạm tương đối phù hợp với quan niệm chung về các hành vi vi phạm tại các TTCK phát triển trên thế giới;

- Các quy định về hành vi vi phạm là khá rõ ràng, cho phép xử lý các hành vi vi phạm khi được phát hiện;

- Quy định về hành vi vi phạm về cơ bản đảm bảo sự thống nhất với các quy định về điều tiết ngành trong Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành. Một số hành vi bị cấm nhưng không có hình thức xử lý trong các nghị định về xử phạt trước đây cũng đã được khắc phục;

- Các biện pháp xử lý nhìn chung là phù hợp với mức độ tác động xấu đến mục tiêu điều tiết thị trường của loại hành vi vi phạm. Các biện pháp xử phạt bổ sung, khắc phục hậu quả cũng phù hợp với đặc thù của hành vi;

- Quan niệm về xác định mức xử phạt trong Nghị định đã thể hiện tính đột phá khi gắn mức phạt với khoản thu nhập có được do hành vi vi phạm. Tuy nhiên, sự đột phá này chưa có đủ cơ sở pháp lý để triển khai trên thực tế, thiếu tính khả thi và còn cần nghiên cứu, cân nhắc thêm về sự cần thiết cũng như tính phù hợp.

Về hạn chế của các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán:

- Một số hành vi vi phạm đã được quy định nhưng rất khó xác định trên thực tế;

- Chưa có sự phân hóa rõ ràng giữa các hành vi vi phạm của tổ chức với các hành vi vi phạm của các nhân viên, người quản lý trong các tổ chức dịch vụ kinh doanh chứng khoán hoặc các TCPH;

- Trong bối cảnh thị trường mới phát triển, nhiều khía cạnh quản lý đối với các nghiệp vụ chứng khoán vẫn chưa được làm rõ, dẫn đến các quy định liên quan hiện vẫn còn để ngỏ và chờ hướng dẫn của cơ quan quản lý và do vậy, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi tương ứng cũng phải bỏ ngỏ và khó thi hành trên thực tế;

- Mặc dù về cơ bản, các quy định về các hành vi vi phạm trên TTCK đã bao quát tương đối đầy đủ các dạng hành vi vi phạm, song so với các quy định về điều tiết thị trường thì vẫn còn có những hành vi bị bỏ ngỏ;

- Các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán cũng chưa đáp ứng được yêu cầu điều tiết TTCK với tư cách là một lĩnh vực rất nhạy bén với những tác động không chỉ của chính sách vĩ mô mà còn cả những thông tin hay biến động kinh tế mang tính vi mô.

c) Quy định về hành vi phạm tội và hình phạt đối với các hành vi phạm tội trong lĩnh vực chứng khoán

Về hành vi vi phạm hình sự (tội phạm) trong lĩnh vực chứng khoán, hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2006 đã bổ sung các hành vi phạm tội đặc thù trong lĩnh vực chứng khoán. Cụ thể là Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a)[21], tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b[22]) và tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c[23]). Việc bổ sung ba điều luật quy định về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán là bước tiến quan trọng của cơ chế xử lý vi phạm pháp luật trên TTCK, làm tăng tính nghiêm khắc trong xử lý vi phạm. Ngoài các hành vi phạm tội mới được bổ sung, các hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực chứng khoán cũng có thể bị xử lý hình sự theo các điều luật khác trong Bộ luật hình sự. Có thể nói, các hành vi phạm tội có tính đặc thù trong lĩnh vực chứng khoán đã được quy định trong pháp luật hình sự, bên cạnh các hành vi có thể bị xử lý theo các điều luật đã có.

Việc áp dụng các quy định về xử lý hình sự cũng đòi hỏi sự phân định nhuần nhuyễn giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân với trách nhiệm hình sự của tổ chức nơi cá nhân làm việc và đây cũng là vấn đề chưa được giải quyết triệt để trong pháp luật hình sự của Việt Nam.

d) Quy định về xử lý vi phạm đối với thành viên của các SGDCK

Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSTC) và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HASTC) ban đầu được thành lập với tư cách là các đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, có chức năng tổ chức, quản lý, điều hành và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán. Sau khi Luật Chứng khoán được ban hành, các tổ chức này hiện nay đã chuyển đổi sang mô hình SGDCK với địa vị pháp lý là công ty TNHH một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước. Đây là sự chuyển đổi thích hợp nhằm hướng tới mô hình các tổ chức tự quản vốn đóng vai trò rất quan trọng trong cơ cấu thị trường, đặc biệt với vai trò tổ chức và giám sát thị trường.

Đối với các thành viên giao dịch (là các CTCK), căn cứ vào Điều 19 Quy chế thành viên giao dịch tại SGDCK Hà Nội (HNX) ban hành kèm theo Quyết định số 323/QĐ-SGDHN ngày 04/6/2010 và Điều 19 Quy chế thành viên giao dịch tại SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) (Ban hành kèm theo Quyết định số 98/2010/QĐ-SGDHCM ngày 26/10/2010 của Tổng Giám đốc HOSE) thì các thành viên giao dịch vi phạm các quy định trong hoạt động tại HNX phải chịu một hoặc một số hình thức kỷ luật sau: Nhắc nhở; Khiển trách; Cảnh cáo; Đình chỉ hoạt động giao dịch trên HNX; Buộc chấm dứt tư cách thành viên[24].

Đối với các thành viên niêm yết (các công ty niêm yết chứng khoán tại SGDCK), căn cứ vào Quy chế niêm yết chứng khoán tại HNX ban hành kèm theo Quyết định số 324/QĐ-SGDHN ngày 04/6/2010 của Tổng Giám đốc SGDCK Hà Nội và Quy chế niêm yết chứng khoán tại HOSE ban hành kèm theo Quyết định số 168/QĐ-SGDHCM ngày 07/12/2007 của Tổng Giám đốc SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh thì HNX và HOSE có quyền đưa ra hình thức xử lý vi phạm phù hợp với chức năng và quyền hạn của mình đối với các trường hợp vi phạm quy chế niêm yết. Các hình thức xử lý vi phạm bao gồm Nhắc nhở bằng văn bản; Cảnh cáo toàn thị trường; Báo cáo Ủy ban chứng khoán Nhà nước.

Đánh giá chung về hệ thống các quy định về xử lý vi phạm trên TTCK, có thể thấy hệ thống các quy định về hành vi và hình thức, mức độ xử lý vi phạm đã được hình thành tương đối đồng bộ (từ xử lý vi phạm hành chính, hình sự đến xử lý theo tư cách thành viên của các tổ chức tự quản) và có sự gắn kết giữa các hình thức xử lý và chủ thể có thẩm quyền xử lý. Các quy định về xử lý vi phạm cũng tương đối nhất quán với các quy định về điều tiết thị trường, song cũng đồng thời bị hạn chế bởi các quy định về điều tiết thị trường. Một vấn đề nữa đặt ra khi áp dụng các quy định về xử lý vi phạm là rất nhiều hành vi vi phạm, đặc biệt là các hành vi vi phạm hình sự rất khó bị phát hiện hoặc thậm chí khó xác định trên thực tế. Những quy định này nếu không gắn với một cơ chế giám sát hữu hiệu hoặc không được cụ thể hóa thành những loại hành động cụ thể sẽ làm giảm tính hiệu lực của cơ chế xử lý vi phạm.

e. Quy định về các biện pháp giám sát, phát hiện vi phạm

Vấn đề giám sát thị trường được quy định tại các văn bản pháp luật điều tiết ngành trong lĩnh vực chứng khoán. Đồng thời, để làm rõ cơ chế giám sát trên TTCK, ngày 31/12/2008, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 127/2008/QĐ-BTC ban hành Quy chế giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCK và ngày 23/7/2009 ban hành Thông tư số 151/2009/TT-BTC hướng dẫn công tác giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của SGDCK và Trung tâm lưu ký chứng khoán. Các văn bản pháp luật này xác định một cơ chế giám sát hai cấp, đó là giám sát bởi các trung tâm giao dịch chứng khoán, SGDCK và giám sát bởi Ủy ban chứng khoán.

Đánh giá chung: Cơ chế giám sát này đã bao quát tương đối đầy đủ phạm vi nội dung cũng như đối tượng cần thực hiện giám sát nhằm ngăn ngừa, phát hiện các hành vi thao túng, lũng đoạn thị trường. Cơ quan có trách nhiệm giám sát về cơ bản cũng đã được trao đầy đủ các quyền năng để có thể thực hiện hoạt động giám sát. Vai trò của cơ quan giám sát cấp I là SGDCK cũng ngày càng được quy định rõ hơn, thể hiện vai trò của tổ chức tự quản. Trách nhiệm của SGDCK trong việc chia sẻ trách nhiệm giám sát với UBCKNN được khẳng định bằng những quy định rõ ràng.

Tuy nhiên, cơ chế này cũng bộc lộ những hạn chế sau đây:

- Không phân định được rõ vai trò giám sát cấp I và cấp II của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các SGDCK, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Nội dung và đối tượng giám sát đối với các chủ thể giao dịch trên thị trường tập trung là tương tự nhau (diện đối tượng giám sát của UBCKNN so với SGDCK chỉ bổ sung thêm nhóm các chủ thể cung cấp dịch vụ không phải là thành viên của SGDCK).

- Chưa cho thấy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề trong việc giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức trung gian trong lĩnh vực chứng khoán và của những người hành nghề kinh doanh chứng khoán.

- Chưa làm rõ vai trò giám sát của các tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ, đặc biệt là các CTCK, công ty quỹ, ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát.

1.2.2. Các thiết chế giám sát và xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam

a) Bộ máy thực hiện giám sát của UBCKNN và SGDCK

Để thực hiện chức năng giám sát, UBCKNN có một Vụ phụ trách về công tác giám sát là Vụ Giám sát TTCK. Vai trò, nhiệm vụ của Vụ Giám sát TTCK được quy định tại Quyết định số 389/QĐ-BTC ngày 23/2/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tại các SGDCK cũng đều có Phòng giám sát thị trường để tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát thị trường. Việc thành lập một bộ máy chuyên trách về công tác giám sát trong cơ cấu của UBCKNN và các SGDCK cho thấy công tác giám sát là một mặt hoạt động quan trọng của UBCKNN. Bộ máy này là yếu tố quan trọng giúp UBCKNN và các Sở thực hiện vai trò giám sát của mình.

b) Thanh tra Chứng khoán

Theo Nghị định số 17/2000/NĐ-CP ngày 26/5/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra chứng khoán thì thanh tra chứng khoán là thanh tra nhà nước chuyên ngành về chứng khoán và TTCK, thuộc tổ chức bộ máy của UBCKNN, có con dấu riêng. Mục đích hoạt động của Thanh tra chứng khoán là góp phần đảm bảo cho hoạt động của TTCK được an toàn, công bằng, công khai, có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Thanh tra chứng khoán chỉ được thành lập ở cấp trung ương là UBCKNN, các địa phương không có tổ chức thanh tra chứng khoán. Các chủ thể được xác định là đối tượng của Thanh tra chứng khoán được quy định tại Nghị định số 17/2000/NĐ-CP.

c) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là các cơ quan tham gia vào quá trình tố tụng để thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các hành vi phạm tội, trong đó có tội phạm về chứng khoán. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan này được thực hiện theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về chứng khoán cũng tuân thủ các quy định chung của pháp luật tố tụng hình sự.

1.2.3. Các điều kiện đảm bảo cho việc giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam

a) Cơ chế phối hợp

Thông thường, việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm được thực hiện theo các quy định của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực đặc thù và mới nổi ở Việt Nam là chứng khoán, để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động xử lý vi phạm, nhiều văn bản quy định về công tác phối hợp cũng đã được ban hành. Chỉ thị số 20/2008/CT-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định trách nhiệm và sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong tăng cường quản lý, giám sát TTCK[25]. Đặc biệt, để thiết lập một quy trình phối hợp cụ thể giữa hai cơ quan chính có chức năng giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm về hành chính, hình sự trong lĩnh vực chứng khoán là Bộ Tài chính và Bộ Công an, ngày 11/3/2009, liên bộ Tài chính và Công an đã ban hành Thông tư liên tịch số 46/2009/TTLT-BTC-BCA hướng dẫn phối hợp xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK.

Về phương thức phối hợp trong quá trình đấu tranh phát hiện và xử lý vi phạm, Thông tư liên tịch số 46/2009/TTLT-BTC-BCA cũng đã làm rõ các trường hợp chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về chứng khoán và TTCK, cách thức xử lý hồ sơ và thông tin lẫn nhau giữa hai cơ quan trong quá trình này, đảm bảo không bỏ sót hành vi không bị xử lý và tránh trường hợp một hành vi vừa bị xử lý về hành chính, vừa bị xử lý về hình sự. Thông tư này cũng đã lưu ý đến tính chuyên ngành của lĩnh vực chứng khoán, vì vậy, để đảm bảo các quyết định xử lý phản ánh đúng bản chất của các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán.

b) Về đảm bảo nguồn lực và phương tiện cho hoạt động giám sát và xử lý vi phạm

Thiết lập công cụ giám sát sử dụng công nghệ thông tin là một trong những định hướng quan trọng để nâng cao năng lực giám sát và để từ đó, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm. Công nghệ thông tin đang được sử dụng như một công cụ quan trọng của các cơ quan có trách nhiệm giám sát trên TTCK. Tuy nhiên, hệ thống này còn thiếu các tính năng sàng lọc giao dịch để đưa ra các cảnh báo cần thiết về các hành vi vi phạm của tất cả các chủ thể, hay cảnh báo về những hành vi đáng ngờ.

Về nguồn lực của Thanh tra chứng khoán và sự phối hợp với các đơn vị khác trong UBCKNN: Thanh tra chuyên ngành về chứng khoán hiện nay chỉ được tổ chức ở một cấp duy nhất là UBCKNN và với biên chế khoảng hơn 20 người. Cách thức tổ chức này chỉ hiệu quả trong điều kiện có một cơ chế giám sát toàn diện, hiệu quả và có những công cụ kỹ thuật cần thiết để phát hiện các hành vi vi phạm xảy ra trên thị trường. Nếu không có sự hỗ trợ của một cơ chế giám sát như vậy thì mức độ phát hiện và xử lý hành vi vi phạm xảy ra trên thị trường sẽ rất khiêm tốn.

1.3. Các quy định pháp luật khác tác động đến cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam

Tranh chấp và vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán mang đặc trưng chuyên ngành và trong phần lớn trường hợp, sự phân định quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các bên để từ đó có cơ sở kết luận hành vi vi phạm cũng như để giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào những hiểu biết về kiến thức chuyên ngành trong lĩnh vực chứng khoán. Điều này đòi hỏi việc sử dụng các kiến thức chuyên môn về chứng khoán trong quá trình giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm là hết sức cần thiết để đảm bảo tính chính xác, khách quan của kết quả giải quyết. Các cơ quan giải quyết tranh chấp, do vậy, phải là những chủ thể có chuyên môn trong lĩnh vực chứng khoán hoặc phải có cơ chế cần thiết để sử dụng được kiến thức chuyên môn của các chuyên gia về lĩnh vực này. Hiện nay, việc giám định trong lĩnh vực chứng khoán phục vụ cho hoạt động giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán được thực hiện theo cơ chế giám định chung và tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự và Pháp lệnh giám định tư pháp. Bên cạnh đó, một vụ việc trong lĩnh vực chứng khoán thường có sự giao thoa giữa các lĩnh vực chuyên môn khác nhau như pháp luật, kinh tế, tài chính. Sự phân tách giữa các lĩnh vực chuyên ngành này là hết sức quan trọng để xác định giới hạn có thể trưng cầu giám định đối với chuyên gia. Đây là vấn đề thực sự khó khăn nhưng rất cần phải làm bởi nếu không xác định được ranh giới của vấn đề chuyên ngành để trưng cầu giám định thì sẽ dẫn đến chuyên gia trong một lĩnh vực sẽ phải cho ý kiến cả về những vấn đề không thuộc lĩnh vực của mình, ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan của kết luận giám định và từ đó, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ việc.

2. Thực trạng vận hành cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam

2.1. Thực trạng vận hành cơ chế giải quyết tranh chấp trên TTCK Việt Nam

Mặc dù Tòa án và trọng tài là hai thiết chế cơ bản để giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế nói chung và tranh chấp về chứng khoán nói riêng, song dường như trái ngược với một TTCK hết sức sôi động, con số các vụ tranh chấp về chứng khoán được giải quyết tại các cơ quan này là hết sức khiêm tốn. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức ra đời từ năm 2000 nhưng phải tới 2007 mới có vụ tranh chấp đầu tiên liên quan đến chứng khoán được phân xử tại Tòa[26]. Chánh toà kinh tế, Toà án nhân dân TP. Hà Nội, ông Phạm Tuấn Anh cho biết, năm 2010, cơ quan này chưa thụ lý và đưa ra xét xử vụ nào liên quan đến tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán, còn trước đó cũng chỉ có rất ít vụ liên quan đến chứng khoán được đưa đến Tòa[27]. Thực tế này trái ngược với đánh giá của các đối tượng đã được nhóm nghiên cứu khảo sát khi kết quả cho thấy đa phần nhận định tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán là khá phổ biến hiện nay.

Trong khi các phương thức giải quyết tranh chp cơ bản nhất là tòa án và trọng tài ít được sử dụng thì việc khảo sát cho thấy các chủ thể tham gia thị trường đã tìm đến những phương thức giải quyết tranh chấp khác là tự giải quyết, khiếu nại với cơ quan quản lý hoặc nhờ nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán làm trung gian cho họ, mặc dù cũng không thực sự hài lòng với các phương thức này.

Như vậy, có thể thấy, tranh chấp trên TTCK là khá phổ biến và đã có nhiều biện pháp giải quyết tranh chấp được sử dụng, song lại chưa có một cơ chế hữu hiệu và đáng tin cậy để giúp các chủ thể tham gia thị trường giải quyết thỏa đáng tranh chấp xảy ra và điều này, rõ ràng là đe dọa đến tính ổn định của thị trường.

2.2. Thực trạng vận hành cơ chế xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam

Thực tiễn xử lý vi phạm về chứng khoán trong vòng 3 năm trở lại đây cho thấy việc xử lý các vi phạm về chứng khoán trên thị trường phần lớn đều là xử lý hành chính và do Thanh tra UBCKNN thực hiện. Trong năm 2008 (tính đến ngày 02/12/2008), Thanh tra UBCKNN đã xử lý 124 trường hợp vi phạm, năm 2009 là 160 trường hợp và 2010 là 232 trường hợp. Có thể khái quát các hành vi vi phạm điển hình trên TTCK tập trung trong thời gian qua chủ yếu ở 03 nhóm vi phạm cơ bản sau:

- Vi phạm các quy định về công ty đại chúng, chào bán chứng khoán ra công chúng; vi phạm quy định về chế độ báo và công bố thông tin của công ty đại chúng, công ty niêm yết.

- Vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán như giao dịch giả tạo; thao túng thị trường; thực hiện giao dịch chứng khoán mà không báo cáo của các cổ đông nội bộ công ty niêm yết.

- Vi phạm các quy định về hoạt động kinh doanh chứng khoán của các CTCK; vi phạm quy định về chế độ báo cáo và công bố thông tin của CTCK.

Đề tài đã liệt kê số liệu về các trường hợp vi phạm đã bị xử phạt trong các năm 2009 - 2010 và đánh giá của các chủ thể về tình hình phát hiện và xử lý vi phạm.

Về việc xử lý hình sự, mặc dù ba hành vi phạm tội đặc thù trong lĩnh vực chứng khoán mới được bổ sung vào Bộ luật hình sự và cho đến nay chưa có bất kỳ hành vi phạm tội nào bị xét xử theo các tội danh này (ngoại trừ hành vi thao túng giá chứng khoán xảy ra tại Công ty Cổ phần dược Viễn Đông hiện đang trong quá trình điều tra) song một số hành vi phạm tội trong lĩnh vực chứng khoán cũng đã được xử lý hình sự theo các tội danh khác, chủ yếu là lừa đảo do mua bán cổ phiếu trên thị trường OTC. Những vụ việc được khởi tố phần lớn là những vụ có giá trị phạm tội lớn, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của các nhà đầu tư khác cùng tham gia thị trường.

Như vậy, cũng giống như việc xử lý hành chính, xử lý hình sự trên TTCK Việt Nam hiện nay cũng tương đối khiêm tốn và những vi phạm bị xử lý cũng chủ yếu cũng là những hành vi rõ ràng, có người bị hại tố cáo.

CHƯƠNG IV

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ XỬ LÝ VI PHẠM TRÊN TTCK VIỆT NAM

1. Yêu cầu hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam hiện nay

Việc hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán sẽ dựa trên các yêu cầu như sau:

1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về điều tiết thị trường - điều kiện tiên quyết để hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK

Cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý chỉ có thể được hoàn thiện và vận hành hiệu quả nếu có được một hệ thống pháp luật điều tiết thị trường hoàn thiện. Các quy định điều tiết thị trường cần đảm bảo tính đầy đủ, không có những lỗ hổng về mặt pháp lý đối với những vấn đề cần được điều tiết, đáp ứng được yêu cầu thể chế những chính sách của nhà nước trong quản lý thị trường và đảm bảo tính khả thi. Các quy định điều tiết thị trường đáp ứng được các yêu cầu này sẽ là cơ sở pháp lý cần thiết để xây dựng các quy định về giải quyết tranh chấp, xử lý các hành vi vi phạm cũng như tạo thuận lợi cho các thiết chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm áp dụng các quy định này trong giải quyết những vụ việc nảy sinh trên thực tế.

1.2. Yêu cầu hoàn thiện đối với cơ chế giải quyết tranh chấp trên TTCK

Một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả nói chung và trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng phải đáp ứng được những yêu cầu sau đây: (1) Đảm bảo khả năng tiếp cận một cách bình đẳng của tất cả các đối tượng tham gia thị trường; (2) Đảm bảo tính công bằng, không thiên vị; (3) Đảm bảo tính chuyên môn.

1.3. Yêu cầu hoàn thiện đối với cơ chế xử lý vi phạm trên TTCK

Theo Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) tình trạng vi phạm pháp luật về chứng khoán phát triển mạnh, có những loại vi phạm pháp luật trở nên phổ biến công khai và đã nhiều lần gây bất ổn cho TTCK non trẻ của chúng ta. Để đáp ứng yêu cầu về xử lý kịp thời, hiệu quả, đảm bảo tính răn đe của cơ chế xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, việc hoàn thiện cơ chế này cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán trên cơ sở đảm bảo sự đồng bộ và hỗ trợ cho các quy định về điều tiết thị trường, đảm bảo việc thực hiện các hành vi bị pháp luật cấm hoặc không thực hiện hành vi pháp luật buộc phải thực hiện đều bị coi là vi phạm và được thể hiện bởi những quy định rõ ràng, có những chế tài thích hợp, đảm bảo tính răn đe.

- Nâng cao năng lực giám sát, phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường chứng khoán để có thể phát hiện nhanh chóng, đầy đủ và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán là một trong những yêu cầu quan trọng đảm bảo tính hiệu quả của cơ chế xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán.

- Xác định các cơ chế cần thiết để đảm bảo tính chuyên môn cho hoạt động xử lý vi phạm của các cơ quan quản lý (như giám định, hỏi ý kiến của cơ quan quản lý v.v..).

2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trên TTCK Việt Nam hiện nay

2.1. Hoàn thiện pháp luật điều tiết TTCK

Để hoàn thiện pháp luật về điều tiết thị trường, các quy định pháp luật về chứng khoán cần được rà soát để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; tránh những quy định không rõ ràng hoặc thiếu văn bản hướng dẫn thực thi.

Các quy định điều tiết thị trường cũng cần khắc phục tình trạng không rõ ràng về chính sách đối với một số sản phẩm, công cụ trong lĩnh vực chứng khoán. Bên cạnh đó, pháp luật điều tiết thị trường chứng khoán hiện nay cần giải quyết được mối quan hệ giữa mục tiêu quản lý, điều tiết thị trường với khả năng giám sát của cơ quan quản lý: đây là vấn đề được đặt ra đối với những thị trường chứng khoán mới nổi như Việt Nam.

Để đảm bảo phát huy vai trò điều hành thị trường của UBCKNN trong những trường hợp cần thiết, pháp luật cần làm rõ phạm vi của các biện pháp điều hành này, hệ quả pháp lý của việc áp dụng các biện pháp điều hành và trách nhiệm của các chủ thể trong trường hợp không tuân thủ sự điều hành của UBCKNN.

2.2. Hoàn thiện pháp luật về dân sự tạo cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp trên TTCK

Các quy định của Bộ luật dân sự cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng xác định cụ thể hơn các quyền năng của chủ sở hữu; vấn đề xác định quyền đối với các lợi ích phát sinh từ tài sản khi mà quyền sở hữu đối với tài sản đã được chuyển giao nhưng người nhận chuyển giao chưa hoàn tất thủ tục cần thiết để trở thành chủ sở hữu chính thức. Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của các bên trong các giao dịch chứng khoán đặc thù như hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng mua bán kỳ hạn… cần được dự liệu đầy đủ hơn trong các quy định của Bộ luật dân sự.

2.3. Hoàn thiện pháp luật, nâng cao năng lực của các thiết chế và các điều kiện bảo đảm nhằm phát huy vai trò của cơ chế xử lý vi phạm trên TTCK

Đối với pháp luật về xử lý vi phạm, cần khắc phục một số quy định về hành vi vi phạm không rõ ràng, khó xác định bằng cách cụ thể hóa và có những mô tả bằng những hành vi cụ thể hơn, chẳng hạn như hành vi sử dụng thông tin ngoài bản cáo bạch để thăm dò thị trường. Cần quy định tội danh cụ thể, tương ứng với từng tội danh là những hình phạt thích đáng. Đảm bảo tính nhất quán giữa các quy định điều tiết thị trường với các quy định xử lý vi phạm, tránh tình trạng có hành vi bị cấm nhưng không có hình thức xử lý (chẳng hạn như giao dịch ký quỹ), hoàn thiện các khái niệm cơ bản (chẳng hạn như khái niệm tổ chức thị trường: phân biệt với hoạt động môi giới, khái niệm ủy thác…).

Phải định những tội danh nguy hiểm đối với hoạt động của TTCK để từ đó có những chế tài mạnh nhằm ngăn chặn những vi phạm nguy hiểm xảy ra với TTCK.

Đối với các chế tài xử lý vi phạm: cần khắc phục điểm “vênh” giữa các mức xử lý và thẩm quyền xử lý khi mà mức phạt tiền cao nhất hiện nay trong lĩnh vực chứng khoán có thể vượt qua mức phạt tiền cao nhất mà cơ quan nhà nước có thể áp dụng (5% số tiền huy động được hoặc 5 lần khoản thu trái pháp luật theo quy định của Điều 122 Luật Chứng khoán).

Về cơ chế giám sát, cần phát huy vai trò của tất cả các thành viên thị trường trong hoạt động giám sát, gắn với vai trò và vị trí của từng chủ thể tham gia thị trường. Để tăng cường các hoạt động giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm, cần phát huy vai trò của các tổ chức Hiệp hội trong việc giám sát và thúc đẩy vai trò giám sát thị trường của các thành viên Hiệp hội.

Về các công cụ giám sát: cần đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giám sát và phát hiện vi phạm, xây dựng một hệ thống giám sát tự động và có thể bao quát được toàn bộ các giao dịch trên thị trường tập trung. Cần xây dựng một hệ tiêu chí làm căn cứ cho việc giám sát của các chủ thể và là cơ sở để tự động hóa hoạt động giám sát thị trường.

Đối với các thiết chế xử lý vi phạm, cần nâng cao năng lực tổ chức, nhân lực và các phương tiện cần thiết cho các cơ quan Thanh tra, Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án nhằm đảm bảo năng lực phát hiện và xử lý vi phạm phù hợp với sự phát triển của thị trường. Hoàn thiện cơ chế về sử dụng cơ quan giám định trong giám định các vấn đề kinh tế - xã hội, xây dựng cơ chế sử dụng ý kiến chuyên gia trong quá trình xử lý vi phạm.

2.4. Đa dạng hóa cơ chế giải quyết tranh chấp trên TTCK, nâng cao năng lực của các thiết chế giải quyết tranh chấp trên TTCK nhằm xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp đa dạng, hữu hiệu và dễ tiếp cận

Để đa dạng hóa cơ chế giải quyết tranh chấp, bên cạnh nâng cao năng lực của Tòa án, cần phát triển hệ thống các tổ chức có khả năng thực hiện vai trò trung gian, hòa giải, trọng tài trong lĩnh vực chứng khoán. Trong giai đoạn đầu, các cơ quan nhà nước, đặt biệt là UBCKNN cần phối hợp với các cơ quan nhà nước khác để thúc đẩy sự hình thành của các cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng trong lĩnh vực chứng khoán. Các biện pháp này có thể là phối hợp với các hiệp hội ngành nghề trong lĩnh vực chứng khoán, các tổ chức tự quản để định hướng thành lập các cơ quan giải quyết tranh chấp trong tổ chức này, hỗ trợ xây dựng các quy trình và thủ tục giải quyết tranh chấp phù hợp với đặc thù của lĩnh vực chứng khoán. Đồng thời có các biện pháp thông tin, tuyên truyền và khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp này. Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu, cơ quan nhà nước cũng cần có những uốn nắn và định hướng cần thiết, tránh trường hợp các tổ chức hòa giải, trọng tài này quá phụ thuộc vào các nhà kinh doanh chứng khoán, gây bất lợi cho công chúng đầu tư hoặc chỉ là đại diện của công chúng nhà đầu tư và vì vậy, đặt các nhà chuyên nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán vào vị thế bất lợi.

 



[1] Thông tin trên Đài truyền hình Hà Nội - Chương trình Thương hiệu chứng khoán uy tín, ngày 11/10/2010.

[2] Nguồn: Điều kiện pháp lý cho sự hình thành TTCK ở Việt Nam - Tạ Thị Tài - Luận văn tốt nghiệp, 1996.

[3] Nhận diện vi phạm và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm trên TTCK - UBCKNN - 2003, tr.11.

[4] Bao gồm 92 nhà đầu tư, 68 người là nhân viên CTCK; 33 người là nhân viên SGDCK và 9 người là nhân viên tổ chức phát hành.

[5] Theo quy định tại Điều 15 (d) Luật giao dịch chứng khoán thì tổ chức phát hành đã nộp thông tin đăng ký để bắt đầu hoạt động theo quy định trước ngày 20/8/1964 hoặc tổ chức phát hành đã nộp bản đăng ký mà sau ngày Luật chứng khoán năm 1933 có hiệu lực có sửa đổi thì phải có trách nhiệm nộp cho Ủy ban những thông tin, tài liệu, báo cáo bổ sung trong năm tài chính.

[6] Proxy statements được hiểu là các thông tin về tình hình quản trị công ty và phải nộp hàng năm cho Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ trước mỗi cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên. Tài liệu này cung cấp cho các cổ đông và nhà đầu tư tiềm năng thông tin quan trọng của công ty, những vấn đề thảo luận trong các cuộc họp đại hội đồng cổ đông thường niên, danh sách các thành viên hội đồng quản trị, cổ đông lớn của công ty.

Theo http://www.investopedia.com/terms/p/proxy.asp

[7]http://www.uscourts.gov/FederalCourts/UnderstandingtheFederalCourts/DistrictCourts.aspx

[8] Theo http://www.sec.gov/about/whatwedo.shtml

[9] Theo http://www.sec.gov/about/whatwedo.shtml

[10] Điều 1043A Luật công ty Australia năm 2001.

[11] Điều 1041A Luật công ty Australia năm 2001.

[12] Điều 1041B, 1041C Luật công ty Australia năm 2001.

[13] Điều 1041D Luật công ty Australia năm 2001.

[14] Điều 1041E Luật công ty Australia năm 2001.

[15] Điều 1041F Luật công ty Australia năm 2001.

[16] Điều 1041G Luật công ty Australia năm 2001.

[17] Điều 1041H Luật công ty Australia năm 2001.

[18] Quy định tại Điều 9 Luật Chứng khoán năm 2006.

[19] Hành vi thứ nhất và thứ hai có thể được phân biệt ở điểm: hành vi thứ nhất có thể thực hiện bởi mọi chủ thể tham gia thị trường trong khi hành vi thứ hai chỉ có thể thực hiện bởi các chủ thể có trách nhiệm công bố thông tin.

[20] Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình hoặc cho người khác; tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.

[21] Hành vi phạm tội theo quy định tại điều luật này là “cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng”. Hình phạt được áp dụng là “phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm”. Các trường hợp có tổ chức, thu lợi bất chính lớn, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Các hình thức xử phạt bổ sung được áp dụng là phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

[22] Hành vi phạm tội được quy định là “biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính lớn”. Hình phạt được áp dụng là “phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”, các trường hợp có tổ chức, thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn, gây hậu quả nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Các hình phạt bổ sung bao gồm phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

[23] Hành vi phạm tội được quy định là thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo hoặc giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán. Hình phạt được quy định là “phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Các trường hợp có tổ chức, thu lợi bất chính lớn, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Các hình thức xử phạt bổ sung được áp dụng là phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

[24] Các trường hợp buộc chấm dứt tư cách thành viên bao gồm: được chấp thuận làm thành viên mà không triển khai hoạt động sau 60 ngày kể từ ngày được chấp thuận; Thành viên không tổ chức các hoạt động giao dịch liên tục trong vòng 30 ngày; Thành viên bị thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định của Luật chứng khoán; Không còn đáp ứng các điều kiện quy định về thành viên của HOSE, HNX; Vi phạm các quy định về thành viên của HOSE/HNX một cách cố ý, hoặc vi phạm có hệ thống, hoặc hành vi vi phạm ảnh hưởng đến uy tín của SGDCKHN; Các trường hợp khác mà HOSE/HNX cho rằng phải chấm dứt tư cách thành viên.

[25] Căn cứ vào Chỉ thị này thì Bộ Tài chính ngoài trách nhiệm đề xuất hoàn thiện pháp luật về chứng khoán, tăng cường quản lý và giám sát đối với thị trường còn có trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán, TTCK. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm quản lý phát hành chứng khoán riêng lẻ của các ngân hàng thương mại cổ phần; chỉ đạo các ngân hàng thương mại cổ phần đủ tiêu chuẩn đăng ký công ty đại chúng, giám sát luồng ngoại tệ vào, ra của các nhà đầu tư nước ngoài theo quy định về quản lý ngoại hối; quản lý, giám sát việc cho vay đầu tư chứng khoán của các tổ chức tín dụng nhằm hỗ trợ nhu cầu đầu tư nhưng phải đảm bảo an toàn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan đăng ký kinh doanh tăng cường giám sát việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ; hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là pháp nhân Việt Nam thành công ty cổ phần.

[26] Theo http://vietbao.vn/Kinh-te/Lan-dau-tien-phan-xu-tranh-chap-ve-chung-khoan/65095761/91/ ngày 20/06/2007. Vụ việc được tóm tắt như sau: Ông Giang Tấn Long sở hữu 5.000 cổ phiếu của Ngân hàng Đại Á. Ông Long đã bán cho ông Lý Quốc Hoàng với giá 120 triệu đồng. Trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu có thỏa thuận: Ngay khi ký kết giấy chuyển nhượng, ông Hoàng có toàn quyền sở hữu số cổ phiếu; các quyền lợi liên quan đến số cổ phiếu giao dịch sẽ thuộc về ông Hoàng, ông Long có trách nhiệm làm thủ tục chuyển nhượng theo chỉ định của ông Hoàng khi cổ phiếu của Ngân hàng Đại Á được phép chuyển nhượng. Nếu Ngân hàng Đại Á phát hành cổ phiếu ưu đãi cho những cổ đông đang nắm giữ cổ phiếu thì ông Long phải dành quyền mua đó cho ông Hoàng theo số lượng cổ phiếu mà ngân hàng quy định. Tuy nhiên, sau đó, khi Ngân hàng Đại Á đã có một đợt tăng vốn, ông Long đã không thông báo cho Ngân hàng Đại Á biết việc ông đã chuyển nhượng 5.000 cổ phiếu trên và cũng không thông báo việc phát hành cổ phiếu ưu đãi của ngân hàng này cho ông Hoàng, mà trực tiếp làm các thủ tục để thụ hưởng quyền lợi được mua cổ phiếu ưu đãi và nhận cổ phiếu thưởng. Biết chuyện, ông Hoàng đã yêu cầu ông Long trả lại quyền mua cổ phiếu ưu đãi và nhận cổ phiếu thưởng, nhưng hai bên không dàn xếp được và phải đưa nhau ra toà.

[27] Theo Đầu tư chứng khoán (Thứ bảy ngày 14 tháng 8 năm 2010).

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về