• Thuộc tính
Tên đề tài Nghiên cứu xác điịnh nhu cầu phát triển pháp luật về môi trường đến năm 2010
Nội dung tóm tắt

I. CÁC THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẾN NĂM 2010

1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ chính trị đã được đặt ra tại Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ IX và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ X của Đảng. Nhà nước pháp quyền XHCN bao gồm nhiều đặc tính khác nhau trong đó các đặc tính cốt lõi là:

Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền được xây dựng và vận hành trên cơ sở pháp luật, tôn trọng và đảm bảo tính tối thượng của các đạo luật. 

Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải là đảm bảo cao nhất đối với các quyền con người, quyền công dân.

Thứ ba, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân.

Thứ tư, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải đặt mình trong mối quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau với các quốc gia khác trên thế giới; phải đề cao nguyên tắc tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế mà mình đã tham gia.

Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền với các đặc tính cụ thể nêu trên đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức cần phải vượt qua, đó là: (i) bảo vệ quyền con người được sống trong môi trường trong sạch; (ii) xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, khả thi với tư cách là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành độc lập của hệ thống pháp luật quốc gia; (iii) nâng cao hiệu lực thi hành của pháp luật môi trường trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền.

2. Xây dựng nền kinh tế thị trường và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi  trường

Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thể hiện quyết tâm cao trong việc từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chuyển hướng sang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Trong quá trình phát triển đó, ở những giai đoạn khác nhau, chúng ta đã có những nhận thức ở mức độ khác nhau về nền kinh tế thị trường, về những ưu và nhược điểm của mô hình kinh tế này, về sự phù hợp của mô hình kinh tế với định hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức như thách thức về việc hoàn chỉnh cơ cấu các thành phần kinh tế, thách thức về phát triển đồng bộ và ngày càng hoàn thiện các yếu tố thị trường, thách thức về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, v.v.

Với những thách thức chung có tính vĩ mô như vậy, quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức cụ thể hơn về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về môi trường.

Trước hết, pháp luật môi trường phải đảm bảo các thành phần kinh tế khác nhau đều có nghĩa vụ và quyền lợi trong việc tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường.

Thứ hai, pháp luật môi trường phải tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển thị trường các sản phẩm và dịch vụ môi trường.

Thứ ba, pháp luật môi trường phải là một công cụ góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc sử dụng pháp luật như một công cụ quản lý vĩ mô để chuyển dịch cơ cấu kinh tế (thông qua các quy hoạch phát triển, các biện pháp khuyến khích, các loại thuế, v.v..) theo hướng thân thiện với môi trường, hoặc ở mức độ cao hơn là góp phần cải thiện điều kiện môi trường là một yêu cầu đặt ra hết sức cấp bách đối với phát triển pháp luật về môi trường.

Thứ tư, pháp luật môi trường phải thực hiện đúng vai trò điều chỉnh vĩ mô đối với phát triển kinh tế thị trường nói chung và đối với bảo vệ, phát triển môi trường nói riêng, đảm bảo cho mọi chủ thể đều có cơ hội bình đẳng để cạnh tranh theo năng lực, đúng pháp luật, đảm bảo sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

3. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo quan điểm phát triển bền vững và thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

Khái niệm "phát triển bền vững" xuất hiện từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX. Phát triển bền vững được định nghĩa "là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau"1.

Phát triển bền vững được coi là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Điều này được thể hiện thông qua việc 179 nước tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển năm 1992 đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển, 166 nước tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững năm 2002 đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững, đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương2...

Chính phủ Việt Nam đã tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững. Quan điểm phát triển bền vững trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được khẳng định từ cuối những năm 1990 "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"3.. Quan điểm phát triển bền vững tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến năm 2020 là xây dựng nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp, có trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ và môi trường hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tạo lập sự phát triển bền vững trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội với bảo vệ môi trường với mức GDP tăng khoảng 2 lần cho mỗi thập niên.

Dựa vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, cũng như của các bộ, ngành và địa phương (tỉnh, thành phố) có thể khái quát một số  thách thức đối với pháp luật môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo quan điểm phát triển bền vững ở nước ta:

a) Thách thức của việc tăng trưởng với tốc độ cao

Chiến lược và các kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước cũng như của các ngành, các địa phương đều nhằm vào mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài, nhằm làm cho đất nước nhanh chóng phát triển, hoà nhập với nền kinh tế và khu vực. Tuy nhiên, nếu như trình độ công nghệ của sản xuất và cơ cấu sản xuất của nền kinh tế không được cải thiện nhiều thì sự tăng trưởng GDP của đất nước cũng có nghĩa là tăng khối lượng tài nguyên khai thác cho sản xuất và tăng lượng chất thải vào môi trường . Điều này tạo nên thách thức đối với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững .

b) Thách thức của việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế

Cơ cấu các ngành sản xuất sẽ chuyển dịch theo hướng tăng nhanh của tỉ lệ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Các phương án phát triển được đề xuất cả ở tầm vĩ mô (cả nước), cả ở tầm trung mô (ngành, địa phương) và vi mô (công ty, doanh nghiệp) đều có nét chung nổi bật là tốc độ tăng trưởng cao của sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ (khoảng 12-15%/năm) so với sản xuất nông nghiệp (khoảng 4-6%/năm). Sự tăng trưởng cao như vậy của các ngành công nghiệp, xây dựng nhất định sẽ dẫn đến các vấn đề môi trường cần quan tâm đặc biệt, bởi lẽ đằng sau mức tăng trưởng của sản xuất công nghiệp tàng ẩn sự gia tăng cao của khai thác và sử dụng môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cũng như của lượng chất thải.

c) Thách thức của việc phát triển các khu vực kinh tế trọng điểm

Sự tập trung phát triển kinh tế ở ba vùng kinh tế trọng điểm của đất nước (ở phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), ở phía Nam - thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu - Đồng Nai; và ở miền Trung - Đà Nẵng - Dung Quất - Chân Mây). sẽ kéo theo hệ quả tất yếu tập trung các nguy cơ, các nguồn gây ô nhiễm, tác động xấu tới chất lượng môi trường. Trong định hướng chiến lược phát triển các vùng kinh tế, nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tạo động lực cho sự phát triển của các vùng khác sẽ hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao). Hiện tại, có tới 84% tổng vốn đầu tư cơ bản và 80% các dự án nằm trong ba vùng tam giác phát triển công nghiệp này. Cùng với sự tập trung phát triển sản xuất công nghiệp ở ba vùng tam giác phát triển sẽ là sự tập trung các vấn đề môi trường cần được quan tâm chú ý.                          

d) Thách thức của việc tiếp tục phát triển nông nghiệp

Thâm canh trong sản xuất nông nghiệp sẽ tiếp tục ngày càng sâu rộng với xu hướng sử dụng ngày càng nhiều chất hoá học vô cơ, khó phân giải và độc hại, nếu không có những chính sách và biện pháp bảo vệ thích hợp và lâu dài thì với sự tăng cường sử dụng các loại phân bón hoá học, các chất vô cơ khó phân huỷ và độc hại thì nguy cơ ô nhiễm môi trường ở tất cả các thành phần môi trường (đất, nước, không khí, đa dạng sinh học,...) sẽ ngày càng tăng lên, đe doạ chính sự phát triển bền vững của sản xuất nông nghiệp và sức khỏe của con người.

e) Thách thức của việc phát triển thương mại dịch vụ

Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa và hoà nhập, vai trò của các hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ ngày càng tăng. Mức tăng trưởng hàng năm của hoạt động dịch vụ ở Việt Nam gần tương đương với mức tăng trưởng của công nghiệp.

Đứng trước những thách thức về bảo vệ môi trường do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra, ngày 17/8/2004 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (hay còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược về phát triển bền vững đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện để phát triển bền vững trong thế kỷ 21. Thực chất đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn và nó không bao hàm ý tưởng thay thế các chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch hiện có, mà là căn cứ để các cơ quan chức năng cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010, cũng như xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước.

4. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, hội nhập cũng đặt ra cho Việt Nam rất nhiều thách thức và trách nhiệm, trong đó có cả các trách nhiệm trực tiếp liên quan tới môi trường, cả các trách nhiệm gián tiếp.

Thứ nhất, thách thức về tính đồng bộ của pháp luật môi trường quốc gia với các quy định của pháp luật môi trường quốc tế

Một hoạt động quan trọng nhằm làm cho pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế là việc nội luật hoá các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Ở Việt Nam, vấn đề nội luật hoá chưa được quy định rõ ràng và giải quyết thoả đáng trong pháp luật cũng như trong thực tiễn. Chúng ta vẫn chưa thống nhất được về nguyên tắc quy phạm pháp luật quốc tế có hiệu lực trực tiếp hay gián tiếp ở Việt Nam. Pháp luật hiện hành mới chỉ có quy định giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình hội nhập nhưng chưa được điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa phù hợp trong pháp luật Việt Nam.

Do tính chất phức tạp của vấn đề, các tác giả không thể đi sâu vào các vấn đề lý luận cũng như thực tế đa dạng của việc nội luật hoá. Trong quá trình giải quyết những quan hệ cụ thể, cần xuất phát từ nhận thức về vai trò đóng góp tích cực của công tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam;4 và quan điểm dần dần phải coi các điều ước quốc tế là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật trong nước. Một mô hình thích hợp cho điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam phải tính đến bối cảnh nhu cầu gia nhập các công cụ pháp lý quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, môi trường ngày càng nhiều; có lẽ cũng phải cân nhắc để có phương thức áp dụng một cách kịp thời hơn các quy phạm pháp luật quốc trong các lĩnh vực này ở nước ta.

Thứ hai, thách thức về xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Trong hoạt động quản lý môi trường, tiêu chuẩn môi trường vừa là công cụ kỹ thuật, vừa là công cụ pháp lý giúp nhà nước quản lý môi trường. Ngoài ra, tiêu chuẩn môi trường còn là một căn cứ để con người thực hiện quyền được sống trong một môi trường trong lành. Thách thức về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế cần được xem xét ở hai khía cạnh: tính khả thi của các tiêu chuẩn môi trường,  phù hợp cam kết quốc tế liên quan đến môi trường và tính minh bạch của việc xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ ba, thách thức về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường trên phạm vi quốc tế

Chế tài môi trường áp dụng theo các nguyên tắc và quy định chung của công pháp quốc tế nên hiệu lực không mạnh như các chế tài thương mại. Thông thường, chế tài cao nhất là bồi thường thiệt hại, nhưng cách thức xác lập chế tài trong lời văn Công ước thường rất mềm dẻo, hoặc uỷ quyền lại cho các Nghị định thư cụ thể hoá, nhưng những Nghị định thư này thường khó hoặc rất lâu được thông qua5. Vì vậy, có thể thấy, yêu cầu về trách nhiệm đối với môi trường trong luật quốc tế, tuy còn mờ nhạt, nhưng là một vấn đề có thật mà chúng ta phải đối mặt và thông qua các quy định về chuẩn mực, cần nhanh chóng loại bỏ nguy cơ này.

II. CƠ SỞ ĐỊNH HƯỚNG NHU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẾN NĂM 2010         

1. Các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển pháp luật về môi trường

Nhận thức rõ nguy cơ tác động tiêu cực của suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường đối với sự tiếp tục tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm của nước ta đã được xây dựng theo quan điểm thể hiện ở Chỉ thị 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị và đường lối kinh tế của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới của thế kỷ 21. Như vậy, so với thập kỷ trước đây, yêu cầu về sự bền vững trong phát triển, đảm bảo bảo vệ và cải thiện môi trường cho phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững đã trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển của đất nước.

Phân tích tổng thể các văn kiện của Đảng cũng như một số chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội và phát triển bền vững cho thấy nhu cầu hoàn thiện pháp luật môi trường giai đoạn 2001-2010, định hướng đến 2020 được tập trung vào các vấn đề sau:

Về mục tiêu và nguyên tắc bảo vệ môi trường giai đoạn 2010, định hướng 2020:

Mục tiêu của phát triển ở Việt Nam là phải đảm bảo tính bền vững. Để đạt được mục tiêu này, xét từ góc độ môi trường, là phải bao gồm việc khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.

Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển, các văn kiện của Đảng đã quán triệt một hệ thống các nguyên tắc cơ bản như sau: (i) con người là trung tâm của phát triển bền vững; (ii) coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới; (iii) bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển; (iv) quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai; (v) khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước; (vi) phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và nhân dân; (vii) gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; (viii) kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Các định hướng lớn về bảo vệ và phát triển môi trường quốc gia 2010, định hướng 2020:

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra một số định hướng lớn đến năm 2010 là: hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm; cải thiện chất lượng môi trường; bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao; đáp ứng các yêu cầu về môi trường để hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hoá;

Đến năm 2020, cần đạt được các định hướng sau: ngăn chặn về cơ bản mức độ gia tăng ô nhiễm, phục hồi suy thoái và nâng cao chất lượng môi trường; phấn đấu đạt một số chỉ tiêu chính như: 80% cơ sở sản xuất, kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc Chứng chỉ ISO 14001; 100% đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải để tái sử dụng, phấn đấu 30% chất thải thu gom được tái chế; v.v..

Để thực hiện các mục tiêu và định hướng trên, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra một số nhiệm vụ và giải pháp lớn về: (i) Phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm; (ii) Khắc phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng; (iii) Bảo vệ và khai thác bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; (iv) Bảo vệ và cải thiện môi trường các khu vực trọng điểm; (v) Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học;

Đồng thời với việc xác định các nhiệm vụ cơ bản, Chiến lược bảo vệ môi trường cũng đề ra các giải pháp thực hiện các nhiệm vụ và định hướng bảo vệ môi trường như: Tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường; tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; tăng cường và đa dạng hoá đầu tư cho bảo vệ môi trường; tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về bảo vệ môi trường;đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.

Căn cứ vào các định hướng lớn nêu trên, các Chiến lược, chương trình đã xác định định hướng bảo vệ môi trường và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong một số lĩnh vực trọng điểm sau:

- Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.

- Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.

- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản.

- Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển.

- Bảo vệ và phát triển rừng.

- Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.

- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại.

- Bảo tồn đa dạng sinh học.

- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp phần phòng, chống thiên tai;

- Hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường.

2. Các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương cụ thể

Ngoài Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, còn bao gồm hàng chục Chiến lược, chương trình, mục tiêu quốc gia trên các lĩnh vực trọng điểm của quốc gia giai đoạn 2010, định hướng đến 2020. Ngoài ra còn có chiến lược hay kế hoạch tổng thể phát triển của các địa phương, đặc biệt là của các khu vực ,cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện định hướng môi trường. Định hướng chiến lược của Đảng đã nêu rõ trong 10 năm tới, phát triển vùng lớn tập trung vào những khu vực quan trọng sau: (1) Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; (2) Miền Đông Nam Bộ và các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; (3) Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; (4) Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc); (5) Tây Nguyên; (6) Đồng bằng sông Cửa Long. Đối với mỗi vùng, yêu cầu chung là phải có phương hướng phát triển kinh tế - xã hội để lấy đó làm cơ sở cho quy hoạch chung phát triển vùng.

Qua nghiên cứu gần 40 chương trình, quy hoạch, mục tiêu và chiến lược một số ngành, lĩnh vực, vùng, miền trọng điểm của quốc gia đến 2010, định hướng đến 20206 cho thấy gần như trên tất cả các ngành, lĩnh vực, vùng, miền, trọng điểm chúng ta đều đã có quy hoạch tổng thể. Mặc dù mục tiêu, định hướng, tầm nhìn của từng loại chiến lược, chương trình có sự khác nhau về cấp độ, về khả năng dự báo, song nhìn chung nội dung của các quy hoạch này về cơ bản phù hợp với yêu cầu của phát triển môi trường, các yêu cầu về bảo vệ môi trường đã được chú trọng đáng kể trong các định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, vùng, miền. Cụ thể là:

a) Đối với Nghị quyết của Đảng, của Bộ Chính trị (như Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 2001-2010, Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long... đến năm 2010) đã thể hiện khá rõ yêu cầu phát triển bền vững. Trong đó, các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng luôn luôn phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái luôn được lồng gép trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội.

b) Trong các Chương trình, Chiến lược liên quan trực tiếp đến bảo vệ các thành tố môi trường (Chiến lược quản lý hệ thống Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, Chiến lược quản lý chất thải rắn và khu đô thị công nghiệp đến 2020...) ngoài việc nêu lên các định hướng, yêu cầu cụ thể về bảo vệ môi trường, các Chương trình, Chiến lược này còn đề ra được các yêu cầu, định hướng, giải pháp cụ thể về hoàn thiện khung pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực đó.

c) Trong các Chương trình, Mục tiêu, Chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực trọng điểm quốc gia về kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ ban hành thì yêu cầu phát triển bền vững cũng đã được đặt ra như một nguyên tắc cơ bản. Đặc biệt trên một số lĩnh vực như: nuôi trồng thủy sản, ngành thép, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành vật liệu nổ công nghiệp... đều đã đưa ra các giải pháp kỹ thuật cần thiết nhằm bảo vệ và đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn về môi trường.

Nghiên cứu cũng cho thấy bên cạnh các chiến lược, quy hoạch hoặc kế hoạch tổng thể đã đề cập và giải quyết vấn đề môi trường, vẫn còn một số quy hoạch, chiến lược lại chưa chú trọng đúng mức đến yêu cầu bảo

vệ và phát triển môi trường nói riêng và bảo đảm phát triển bền vững nói chung. Chẳng hạn như Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sông Việt Nam đến 2020, Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến 2020,... là những ngành trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường, có khả năng và nguy cơ gây ô nhiễm lớn đến môi trường khí, môi trường nước, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học nhưng trong các quy hoạch này lại chưa tính đến các giải pháp công nghệ, các tiêu chuẩn về tiếng ồn, khí thải, chất thải của các phương tiện giao thông vận tải, các yêu cầu cụ thể về đánh giá tác động môi trường đối với các tuyến đường qua các khu sinh thái, khu bảo tồn thiên nhiên... Do vậy, yêu cầu bảo vệ và phát triển môi trường, phục vụ phát triển bền vững trong các quy hoạch này là chưa đảm bảo.

3. Các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã hoặc dự kiến sẽ ký kết, tham gia

Có thể tạm chia các Công ước Việt Nam đã ký kết và thực hiện tính đến thời điểm nghiên cứu thành sáu nhóm:

Nhóm thứ nhất gồm 02 Công ước liên quan đến hạt nhân và sự cố hạt nhân, đó là Công ước về thông báo sớm các sự cố hạt nhân (tham gia 29/9/1987); và Công ước về hỗ trợ trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu về phóng xạ (tham gia 29/9/1987).

Nhóm thứ hai gồm 03 Công ước liên quan đến môi trường không khí, cụ thể là Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn (tham gia 26/01/1994); Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn (tham gia 26/01/1994); và Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (tham gia 16/11/1994).

Nhóm thứ ba gồm 02 Công ước liên quan đến bảo vệ môi trường biển là Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL (tham gia 29/8/1991); và Công ước Liên hợp quốc về luật biển (tham gia 5/7/1994).

Nhóm thứ tư về môi trường đất, trước hết có Công ước chống sa mạc hoá (tham gia 8/1998) điều chỉnh trực tiếp các vấn đề liên quan đến chống suy thoái môi trường đất và sa mạc hoá đất. Ngoài ra, môi trường đất còn được điều chỉnh ở mức độ này hay mức độ khác ở các công ước khác về môi trường mà Việt Nam tham gia được liệt kê trong mục 2 này. 

Nhóm thứ năm gồm 04 Công ước liên quan đến bảo tồn, duy trì di sản, động thực vật quý hiếm và nguồn gen, cụ thể là Công ước liên quan đến bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên thế giới (tham gia 19/10/1982; Công ước về vùng đất ngập nước có tầm quan trọng trong quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim nước RAMSAR (tham gia 20/9/1989); Công ước về buôn bán quốc tế những loài động thực vật có nguy cơ bị đe doạ CITES (tham gia 20/01/1994); và Công ước về đa dạng sinh học (tham gia 16/11/1994).

Nhóm tứ sáu về chất thải nguy hại, cụ thể là Công ước về kiểm soát việc vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại và việc loại bỏ chúng BASEL (tham gia 13/3/1995).

Việc ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trên thể hiện nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước trong việc tham gia các hoạt động chung, mang tính toàn cầu về bảo vệ và phát triển môi trường7.

Khi tính toán việc ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế liên quan tới môi trường, cần có nhận thức rõ ràng rằng các công ước này đều có quy định về nghĩa vụ của các quốc gia trong việc sử dụng môi trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển của mình. Theo Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, có tổng cộng 6 nghĩa vụ chung về bảo vệ môi trường bao gồm: nghĩa vụ không gây hại cho môi trường, nghĩa vụ ngăn ngừa và giảm đến mức tối đa những tổn hại gây cho môi trường, nghĩa vụ đề phòng, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường, nghĩa vụ hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và nghĩa vụ thông tin.

Một khía cạnh quan trọng khác của vấn đề môi trường trong quan hệ quốc tế là khi đề cập tới các điều ước quốc tế liên quan tới lĩnh vực môi trường trong điều kiện toàn cầu hoá về thương mại hiện nay, một vấn đề nổi bật cần được quan tâm và giải quyết thấu đáo là vấn đề sử dụng các biện pháp thương mại vì mục tiêu môi trường. Hiện nay có xu thế dùng các biện pháp thương mại để đạt được mục tiêu môi trường, đặc biệt xu thế này được các nước phát triển ủng hộ. Theo quan điểm của những nước này, việc dùng những hạn chế và trừng  phạt thương mại là công cụ thích hợp ở những phạm vi nhất định để giải quyết mối lo ngại về môi trường. Điều này trái với mục đích của GATT/WTO, tuy nhiên lại được sự ủng hộ của một số nước nhất là các nước phát triển. Tuy vậy, mục tiêu môi trường ở đây, trong đại đa phần các trường hợp lại chính là vì lợi ích thương mại. Nói cách khác, vấn đề môi trường chỉ là cái vỏ bề ngoài để thực hiện các biện pháp thương mại vì mục đích thương mại. Thực tiễn quốc tế đã chỉ ra rằng trong một số trường hợp, các biện pháp thương mại tỏ ra là một công cụ kinh tế hữu hiệu trong việc giải quyết vấn đề bảo

vệ môi trường. Tuy nhiên, sự lạm dụng công cụ kinh tế này một cách thái quá sẽ gây ra sự cản trở trong thương mại và do đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Vấn đề đặt ra là phải kết hợp một cách hài hòa giữa tự do hóa thương mại với bảo vệ môi trường. Đây là một căn cứ quan trọng của việc đề ra các hiệp định thương mại đa biên trong tổ chức thương mại thế giới. Mặt khác, do Hiệp định chung về thuế quan và thương mại của GATT/WTO là nền tảng cho mọi hiệp định đa biên khác, nên trong việc đề ra các hiệp định của mình, các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực cũng phải căn cứ vào các vấn đề môi trường của GATT/WTO. Tuy nhiên, sự thể hiện của vấn đề môi trường trong các hiệp định thương mại đa biên ở cấp khu vực khác nhau được biểu hiện ở các mức độ khác nhau, điều đó phụ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi khu vực. Vấn đề môi trường trong hiệp định chung về thuế quan và thương mại của GATT/WTO cũng là cơ sở cho các hiệp định thương mại song phương, là cơ sở để kết hợp hài hòa giữa phát triển thương mại và bảo vệ môi trường trong việc hoạch định các chính sách thương mại của các quốc gia.

III. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI NHU CẦU PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

1. Yếu tố phát triển kinh tế - xã hội.

Sau gần 20 năm phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta tăng khá nhanh. Kinh tế các thành phần, các ngành, các vùng, miền, địa phương đều có bước phát triển khá so với trước. Việc phát triển văn hoá, xã hội và thực hiện các mục tiêu xã hội đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội cũng đã và đang tạo ra những áp lực to lớn đối với môi trường, cụ thể là:

1.1. Phát triển công nghiệp và môi trường.

Việc phát triển ngày càng nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao khiến chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng như gia tăng mức độ ô nhiễm các đô thị và khu công nghiệp, suy giảm tài nguyên tới mức báo động (do công nghiệp là ngành tiêu thụ năng lượng và nguyên liệu hoá thạch nhiều nhất ở Việt Nam và thải ra các chất độc hại như SO2, NO2, CO, CO2 và bụi). Việc tập trung phát triển các cơ sở công nghiệp nặng có thể gây ra những thảm họa môi trường nghiêm trọng cho các địa phương và đe doạ môi trường toàn cầu như sự nóng lên của trái đất và suy giảm ôzôn ở tầng bình lưu. Công nghiệp hoá với tốc độ nhanh sẽ gây ra áp lực mạnh mẽ đối với các nguồn tài nguyên, trước hết là tài nguyên đất, nước, không khí, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng, đồng thời ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Những hậu quả ô nhiễm môi trường thực tế do sản xuất công nghiệp gây ra là: nước thải gây ô nhiễm các nguồn nước; ô nhiễm không khí; ô nhiễm do chất thải rắn; môi trường lao động bất an toàn... Thêm vào đó, các chất thải nguy hại và độc hại từ hoạt động công nghiệp được chôn lấp tại các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh gây ra những tác động tiêu cực tới chất lượng môi trường và sức khoẻ cộng đồng.

1.2. Phát triển đô thị và môi trường.

Cùng với công nghiệp hoá, quá trình đô thị hoá ở Việt Nam đang diễn ra tương đối mạnh, đặc biệt là ở các vùng trọng điểm phát triển kinh tế quốc gia. Những áp lực và thách thức của quá trình phát triển đô thị đối với môi trường thể hiện:

- Quy hoạch và đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị ở hầu hết các đô thị Việt Nam đều chậm hơn so với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường, đặc biệt là tình trạng yếu kém và lạc hậu của hệ thống cấp nước, thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn, hệ thống giao thông. Tình trạng ô nhiễm môi trường và phá vỡ cân bằng sinh thái đô thị, cảnh quan thiên nhiên đang là mối lo ngại chung.

- Chưa lồng ghép quy hoạch bảo vệ môi trường với quy hoạch đô thị.

- Trong quá trình đô thị hoá, nhiều nhà máy gây ô nhiễm môi trường nặng, trước đây nằm ở ngoại thành, nay đã lọt vào giữa các khu đô thị hoá với dân cư đông đúc.

- Việc mở rộng không gian đô thị sẽ dẫn đến chiếm dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác để phục vụ xây dựng đô thị, ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực quốc gia nói chung và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân ngoại thành nói riêng.

- Dân số đô thị tăng nhanh thường gây ra quá tải đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, dân tăng cùng với mức sống nâng cao sẽ làm tăng các chất thải từ sinh hoạt và dịch vụ đô thị, đặc biệt làm tăng nước thải và rác thải. Vệ sinh môi trường suy giảm, làm tăng nhu cầu khai thác tài nguyên nước, làm suy thoái nguồn tài nguyên nước.

- Sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp tăng trưởng sẽ phát sinh nhiều chất thải ô nhiễm môi trường, trong đó tỷ lệ chất thải nguy hiểm và độc hại sẽ tăng lên.

- Phát triển đô thị làm bùng nổ phương tiện giao thông cơ giới trong đô thị, thải ra nhiều bụi, khí độc hại và tiếng ồn, gây ô nhiễm môi trường không khí và ô nhiễm tiếng ồn trầm trọng đối với đô thị.

- Đô thị hoá làm tăng dòng người di dân từ nông thôn ra thành thị, làm tăng sức ép về nhà ở và vệ sinh môi trường.

Các thách thức đối với môi trường rất lớn, nếu không có "đáp ứng" kịp thời và tương xứng thì có thể dẫn đến môi trường ở đô thị ngày càng bị ô nhiễm, phát triển đô thị sẽ không bền vững.

1.3. Phát triển giao thông vận tải và môi trường.

Trong thời gian gần đây, nhiều dự án nâng cấp và mở rộng các cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải đã được tiến hành, cùng với sự phát triển cơ sở hạ tầng, các phương tiện vận tải cũng ngày một phát triển.

Tuy nhiên, các cơ sở hạ tầng giao thông vận tải này đều gây tác động đến tài nguyên đất. Một diện tích nhất định của đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ngập mặn, đất định cư, đất hoang v.v... được biến thành đất chuyên dụng cho giao thông. Điều này làm cho mặt bằng sử dụng đất bị thay đổi, diện tích đất bị chiếm dụng cho giao thông ngày càng tăng lên. Đặc biệt đối với các đô thị việc phát triển và mở rộng cơ sở hạ tầng giao thông cả về đường xá và bến đỗ đã gây ra xáo động đáng kể giữa các chủ sở hữu đất. Chất lượng đất canh tác dọc theo các trục đường giao thông cũng bị ảnh hưởng. Ảnh hưởng này còn tiếp tục diễn ra trong quá trình khai thác đường, bởi các chất ô nhiễm thoát ra từ các phương tiện chạy trên đường. Bên cạnh đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng còn gây tác động đến việc tái định cư của nhiều hộ gia đình, việc di dời đền, chùa, mộ chí...

Những vấn đề môi trường gay cấn liên quan đến phát triển giao thông hiện nay và trong thời gian tới là tác động môi trường do các cơ sở hạ tầng giao thông được làm mới và ô nhiễm không khí, đặc biệt là ô nhiễm chì do giao thông tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

1.4. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và môi trường.

Trong những năm qua, kinh tế nông nghiệp và cuộc sống ở nông thôn đã có những thay đổi tiến bộ rõ rệt. Kéo theo việc nảy sinh những vấn đề môi trường phức tạp, bức xúc mà hậu quả không chỉ trước mắt mà còn về lâu dài. Có thể nêu lên một số vấn đề bức xúc về môi trường ở nông thôn Việt Nam như sau:

- Quỹ đất và chất lượng đất giảm sút. Hiện tượng thoái hoá, bạc màu đất canh tác khá phổ biến do sử dụng không hợp lý, độc canh cây lúa và sử dụng các phương tiện cơ giới.

- Chịu nhiều thiên tai như bão lũ, úng lụt. Hậu quả tác động tăng hơn khi đồng ruộng bị chia cắt nhỏ, manh mún, phương thức canh tác lạc hậu.

- Sâu bệnh, chuột phát triển mạnh, lây lan làm giảm năng suất cây trồng. Hệ thống thuỷ lợi đôi lúc không phát huy tác dụng tích cực, mà còn tác động xấu tới môi trường về lâu dài như gây cạn kiệt nguồn nước dự trữ ở một số khu vực khô hạn.

- Việc sử dụng nhiều phân bón hoá học và thuốc trừ sâu... ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái nông nghiệp và sức khoẻ cộng đồng.

- Vấn đề vệ sinh thực phẩm ở nông thôn hiện chưa được quản lý.

1.5. Phát triển du lịch và môi trường.

Tiềm năng du lịch của nước là rất lớn và phong phú. Ngành du lịch ngày càng đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng ngược lại cũng đã gây ra các tác động tiêu cực đến tài nguyên và môi trường. Các tác động tiêu cực của phát triển du lịch đối với môi trường có thể chỉ ra gồm:

- Xây dựng khách sạn, các công trình du lịch, xây dựng giao thông phục vụ du lịch, v.v.. có thể làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên, gây hư hại đối với di tích lịch sử, chiếm diện tích đất của các di sản lịch sử văn hoá.

- Tăng lượng chất thải ô nhiễm môi trường, đặc biệt là gây ô nhiễm biển ven bờ.

- Các hệ sinh thái đặc trưng, rừng nguyên sinh nhiệt đới, các đảo ngoài biển, các hang động, các rạn san hô .v.v.. rất hấp dẫn đối với khác du lịch, nhưng chúng rất nhạy cảm và rất dễ bị tổn thương do các hoạt động du lịch.

- Làm nảy sinh các tiêu cực, tệ nạn xã hội, gây ô nhiễm văn hoá địa phương (do xâm nhập văn hoá đồi truỵ) và lan truyền một số bệnh truyền nhiễm rất khó quản lý và phòng ngừa.

1.6. Phát triển năng lượng điện và môi trường

Năng lượng điện ở Việt Nam được tạo thành chủ yếu bởi nhiệt điện và thuỷ điện. Các nhà máy nhiệt điện ở miền Bắc chủ yếu chạy bằng than đá, ở miền Nam chủ yếu chạy bằng dầu FO và khí tự nhiên. Các nhà máy điện đốt than thường dùng than Quảng Ninh với độ tro A = 10-15%, hàm lượng lưu huỳnh S= 0,5%. Các nhà máy nhiệt điện đốt dầu thường dùng dầu FO với độ tro A = 0,01 - 0,5%, hàm lượng lưu huỳnh S = 2,7 - 3%. Vì vậy chúng đã thải ra lượng khí SO2 và bụi rất lớn, gây ra ô nhiễm môi trường không khí, tuy vậy, mức độ ô nhiễm không khí cũng mới có tính cục bộ. Cho đến nay, các nhà máy nhiệt điện ở Việt Nam mới chỉ tiến hành lọc bụi, chưa có thiết bị xử lý SO2.

1.7. Khai thác khoáng sản và môi trường

Hiện nay, trong phạm vi cả nước có trên 1000 mỏ đang hoạt động với trên 50 loại khoáng sản khác nhau. Khai thác khoáng sản đã phá hoạt môi trường đất, rừng, gây ô nhiễm môi trường nước và không khí rất lớn.

2. Yếu tố hài hoà hoá lợi ích

Nhìn dưới giác độ lịch sử, pháp luật môi trường hiện đại là một lĩnh vực pháp luật tương đối trẻ nếu so với các ngành hoặc lĩnh vực pháp luật truyền thống như pháp luật hình sự, pháp luật dân sự. Trong một thời gian rất dài của lịch sử, người ta đã quan niệm sai lầm rằng, các thành phần môi trường như nước, không khí và các thành phần khác có thể được sử dụng một cách thoải mái, miễn phí. Sự trong sạch của môi trường không được coi là một thứ hàng hoá khan hiếm (hàng hoá kinh tế). Tuy nhiên, cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá mạnh mẽ và phát triển kinh tế đã làm cho môi trường sống của con người không còn đủ khả năng chịu đựng, không còn đủ sức tiếp nhận những thứ độc hại mà con người sản sinh ra8 và môi trường, thiên nhiên đã quay trở lại gây ra tác hại cho con người. Tuy nhiên, người bị thiệt hại do ảnh hưởng của môi trường từ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp thường không phải là chính doanh nghiệp, mà lại là người không hưởng lợi trực tiếp từ hoạt động của doanh nghiệp - những người không hoặc ít gây tác hại cho môi trường. Ở đây đã có sự mất cân bằng về mặt lợi ích và chi phí. Chính vì thế, pháp luật môi trường được đặt ra để làm sao nguyên tắc nhân quả được pháp lý hoá với tinh thần, người gây thiệt hại thì phải gánh chịu hậu quả và phải có trách nhiệm khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra -  thường được gọi là nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Đồng thời, trong quá trình xây dựng các quy định pháp luật về môi trường, cần cân nhắc rất cụ thể lợi ích của các đối tượng liên quan bao gồm lợi ích của nhà nước, lợi ích của các doanh nghiệp và lợi ích của người dân.

Xét dưới giác độ sự vận hành bình thường của nền kinh tế thị trường thì Luật môi trường, hay các biện pháp can thiệp từ phía Nhà nước hoặc từ phía cộng đồng dân cư để bảo vệ môi trường là một bằng chứng rõ nét cho thấy sự bất lực của cơ chế thị trường trong việc giải quyết vấn đề môi trường. môi trường bị ô nhiễm, xuống cấp chủ yếu là sản phẩm của những hành vi ứng xử không văn minh của con người, nên pháp luật về bảo vệ môi trường muốn đạt được mục tiêu của mình là hạn chế những hành vi như vậy, thì cần phải có những biện pháp tác động trực tiếp tới khuynh hướng ứng xử của con người. Các biện pháp pháp lý mà pháp luật sử dụng có thể là những biện pháp kích thích, khuyến khích mang tính tích cực, hoặc là các biện pháp răn đe, phòng ngừa (xử phạt, cấm thực hiện hành vi, hạn chế quyền tự do hành nghề, tự do kinh doanh bằng cách rút giấy phép, hoặc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự). Xuất phát từ thực tế là pháp luật môi trường là lĩnh vực pháp luật ra đời sau các ngành, lĩnh vực luật truyền thống, nên các nhà làm luật về môi trường đã tận dụng những kinh nghiệm, kỹ thuật và nghệ thuật điều chỉnh pháp luật của các ngành, lĩnh vực pháp luật trước đó. Trong đó, phải kể đến việc áp dụng thủ tục hành chính để kiểm soát hành vi (chẳng hạn như các quy định về đánh giá tác động môi trường), việc xử phạt đối với người gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, việc bắt người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại (áp dụng luật dân sự), thậm chí dùng biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự (sử dụng công cụ hình phạt vào trong công tác bảo vệ môi trường). Tất cả những biện pháp đó, suy cho cùng đều là những biện pháp tác động tới hành vi của con người (thông qua việc tác động tới lợi ích của con người) để con người có cách ứng xử “thân thiện hơn với môi trường”.

Khi giải quyết vấn đề hài hoà hoá lợi ích phải luôn luôn nhằm tới hai mục đích tương đương với nhau. Mục đích thứ nhất là cân đối chi phí-lợi nhuận. Điều này đặc biệt quan trọng trong kinh tế thị trường. Khi đề cập tới yếu tố lợi ích trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về môi trường, cũng cần đề cập tới việc quy định về sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam, song song với các công cụ quản lý khác như mệnh lệnh và kiểm soát, tuyên truyền giáo dục nhận thức và các công cụ kỹ thuật.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật về môi trường của Việt Nam, các công cụ kinh tế đang được áp dụng trong quản lý môi trường bao gồm:

- Quỹ bảo vệ môi trường ở Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 82/2002/QĐ-TTg ngày 26/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ đóng vai trò của một tổ chức tài chính nhà nước để huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước nhằm hỗ trợ các chương trình, dự án, các hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Quỹ hỗ trợ cho các hoạt động bảo vệ môi trường theo các hình thức sau: cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay vốn cho dự án đầu tư bảo vệ môi trường khi vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác; tài trợ cho một số hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường được quy định tại Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ.

- Phí bảo vệ môi trường là một công cụ kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải đóng góp tài chính để khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường” và “ai hưởng thụ môi trường trong lành phải đóng phí cho công tác cải thiện môi trường”. Ở nước ta, ngày 13/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2003/NĐ-CP về thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Theo quy định của Nghị định này, các tổ chức, hộ gia đình có nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt thì phải nộp một khoản phí bảo vệ môi trường. Nguồn thu được từ phí bảo vệ môi trường thuộc về ngân sách nhà nước và được quản lý, sử dụng như sau: Thứ nhất, để lại một phần số phí thu được cho cơ quan, đơn vị trực tiếp thu để trang trải chi phí cho việc thu phí; Thứ hai, phần còn lại nộp vào ngân sách nhà nước và chia đều cho các cấp ngân sách là trung ương (để bổ sung vốn hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam) và địa phương (để sử dụng cho việc bảo vệ môi trường, đầu tư mới, nạo vét cống rãnh, duy tu bảo dưỡng hệ thống thoát nước tại địa phương).

- Ký quỹ cải tạo, hồi phục môi trường. Đây là hình thức buộc các tổ chức, cá nhân khi tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản phải có nghĩa vụ gửi một khoản tiền ,hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ trị giá được bằng tiền vào một tài khoản phong toả tại một tổ chức tín dụng của Việt Nam. Khoản tiền này nhằm để đảm bảo tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ phục hồi môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra.

Trong thời gian qua, các công cụ trên đã phần nào phát huy được hiệu quả trong việc nâng cao trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm về tài chính của các đối tượng hoạt động bảo vệ môi trường. Đồng thời, tạo một nguồn thu bổ sung cho Nhà nước để tài trợ cho một số hoạt động môi trường khác. Tuy nhiên, đối chiếu với thực tiễn sử dụng các công cụ kinh tế trong môi trường ở các quốc gia khác, có thể thấy rằng số lượng các công cụ kinh tế được sử dụng ở Việt Nam còn nghèo nàn, chưa tác động đến tất cả các đối tượng liên quan.

Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về môi trường, cần bổ sung các công cụ kinh tế mới để nâng cao hiệu quả và tác động của loại công cụ rất phù hợp với kinh tế thị trường này.

Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về "Bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" đã nêu rõ: Một trong những giải pháp chính để đạt được mục tiêu bảo vệ môi trường tại Việt Nam trong thời gian tới là “đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường”, bao gồm: i) Triển khai thực hiện nguyên tắc người gây thiệt hại đối với môi trường phải khắc phục, bồi thường; ii) Từng bước thực hiện việc thu phí, kí qũy bảo vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường; iii) Áp dụng các chính sách, cơ chế hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với bảo vệ môi trường; iv) Áp dụng cơ chế chuyển nhượng, trao đổi quyền phát thải và trách nhiệm xử lý chất thải phù hợp với cơ chế thị trường. Như vậy, rõ ràng khi đề ra chính sách về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta đã đề cập tới cả các biện pháp nâng cao trách nhiệm đối với môi trường của các đối tượng liên quan, nhưng cũng tính toán đến cả việc sử dụng các công cụ khuyến khích trong việc tuân thủ các quy định về môi trường, khuyến khích các hoạt động bảo vệ môi trường.

3. Yếu tố xã hội hóa

Thực tế cho thấy, mọi Nhà nước đều dành sự chú ý đặc biệt cho việc cải tiến cung ứng dịch vụ công nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân, đảm bảo sự ổn định chung của xã hội - đó chính là cơ sở để duy trì một Nhà nước vững mạnh. Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình Nhà nước chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thực hiện, hoặc huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào việc cung ứng các dịch vụ này.

Xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công ở Việt Nam có một số điểm đặc trưng, cụ thể là: (i) Xã hội hoá là quá trình Nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công, từng bước chuyển giao cho cá nhân và các tổ chức thực hiện; (ii) Xã hội hoá không phải Nhà nước buông lỏng quản lý hoặc từ bỏ chức năng quản lý thống nhất mà thực chất là tăng cường quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực liên quan; (iii) Xã hội hoá gắn liền với việc mở rộng dân chủ, phát huy vai trò tự chủ, tự quản, tự chịu trách nhiệm; (iv) Xã hội hoá là việc phát huy các nguồn lực xã hội vì lợi ích chung.

Tuy nhiên, do lĩnh vực môi trường tương đối độc lập và có nhiều đặc thù, xã hội hoá các hoạt động môi trường cũng có những đặc thù tạo nên sự khác biệt với các lĩnh vực khác. Các đặc thù đó bao gồm:

- Môi trường là một yếu tố gắn bó hữu cơ và trực tiếp tới chất lượng cuộc sống của mọi người dân và các thay đổi về môi trường là rất dễ dàng cảm nhận thấy.

- Môi trường vừa là đối tượng có thể được khai thác vừa là đối tượng cần phải được bảo vệ.

Bản chất xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường là việc Nhà nước từng bước chuyển giao các hoạt động liên quan tới bảo vệ môi trường đang do Nhà nước độc quyền thực hiện cho tư nhân và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý  nhà nước, đồng thời, nâng cao hiệu quả của các hoạt động môi trường trong đời sống xã hội, bằng cách tạo sự tham gia rộng rãi hơn của các đối tượng trong xã hội vào các hoạt động này, tạo động lực cho các đối tượng đó bằng việc chuyển giao cho họ tự quản lý những hoạt động mang lại lợi ích thiết thực cho chính họ.

Đương nhiên, việc xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường ở nước ta đã và sẽ gặp những cản trở không nhỏ, đó là:

- Tâm lý của các nhà quản lý chưa thật sự yên tâm, tin tưởng vào khả năng tham gia và trách nhiệm của xã hội vào các hoạt động trong lĩnh vực môi trường.

- Người dân đã quen với sự bao cấp của Nhà nước, ỷ lại vào sự bao cấp, bảo vệ, che chở của Nhà nước, sinh ra tâm lý không muốn "tự thân vận động". Mặt khác, cũng phải nhìn nhận một cách khách quan là so với việc thực hiện một số hoạt động mang tính dịch vụ công do Nhà nước chuyển giao trong quá trình xã hội hoá (như dịch vụ môi trường chẳng hạn), các hoạt động môi trường là mới mẻ và chưa hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích vật chất trước mắt cho các đối tượng tham gia các hoạt động này.

- Kinh tế thị trường Việt Nam được xây dựng và phát triển trên cơ sở một nền sản xuất nhỏ, sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và phát triển không đồng đều giữa các khu vực, vùng miền.

- Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về trách nhiệm cụ thể của các đối tượng trong xã hội (các tổ chức, công dân) trong lĩnh vực môi trường, nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp gây ra sự cố về môi trường ở các quy mô, tác động khác nhau nên chưa đảm bảo sự quan tâm thực sự từ phía xã hội.

Để đảm bảo tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực môi trường khi thực hiện xã hội hóa, Nhà nước phải xây dựng và thường xuyên hoàn thiện thể chế môi trường, đồng thời xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường đảm bảo cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường (thị trường bất động sản, vốn, khoa học - công nghệ, lao động, chứng khoán...), thúc đẩy các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển làm tiền đề cho sự phát triển môi trường. Đồng thời, Nhà nước phải có cơ chế hữu hiệu đưa pháp luật đi vào cuộc sống, đảm bảo cho quá trình xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường được thực hiện có kết quả, đáp ứng các yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật không phải là hạn chế các hoạt động môi trường, mà trên cơ sở pháp luật, đảm bảo cho hoạt động đó phát triển đúng định hướng. Đối với Việt Nam, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường.

Pháp luật cũng phải đảm bảo để xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường không tiến hành một cách nóng vội, đốt cháy giai đoạn, mà là một quá trình đồng thời với việc nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra khả năng của xã hội tham gia vào lĩnh vực môi trường, làm cho môi trường thực sự là công việc của xã hội, đồng thời, tạo ra nhu cầu đích thực của xã hội đối với hoạt động môi trường.

Pháp luật cũng phải đảm bảo kết hợp vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp trong xã hội hoá các hoạt động môi trường. Thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động cụ thể mà chỉ thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động môi trường.

Pháp luật cũng phải góp phần kiểm soát quá trình xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường, đảm bảo một mặt tăng cường năng lực và hiệu quả khai thác, bảo vệ môi trường đồng thời không làm tăng sự phân hóa giàu nghèo, giữ ổn định và công bằng xã hội. Mặt khác, Nhà nước thực hiện các nguyên tắc điều chỉnh và ưu tiên, có chính sách trợ giúp người nghèo, và những người thuộc diện chính sách xã hội khác.để họ có cơ hội tham gia thực hiện các nghĩa vụ và và hưởng thụ các lợi ích  từ quá trình xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường. Ở Việt Nam đây cũng là một trong các nguyên tắc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.

IV. NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG ĐẾN NĂM 2020

1. Mục tiêu phát triển pháp luật môi trường đến năm 2020

Pháp luât môi trường là một bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia. Mục tiêu phát triển pháp luật môi trường phải phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển hệ thống pháp luật quốc gia. nhưng  gắn với những định hướng, nội dung đặc thù của lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở phân tích các thách thức, các cơ sở định hướng và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển pháp luật môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020, có thể xác định mục tiêu tổng quát về phát triển pháp luật môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau: xây dựng và hoàn thiện pháp luật môi trường Việt Nam đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, hiệu lực thi hành cao, trọng tâm là bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong sạch và sự phát triển bền vững của đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Để đạt được mục tiêu tổng quát đó, việc xác định các nhu cầu và giải pháp phát triển pháp luật  môi trường được thực hiện trên 2 phương diện lớn:

- Nhu cầu, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường  đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch 

- Nhu cầu về nâng cao hiệu lực thi hành của pháp luật môi trường

2. Nhu cầu và giải pháp đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch của pháp luật môi trường trong việc thể chế hoá quan điểm phát triển bền vững thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2.1. Nhu cầu và giải pháp đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi minh bạch về nội dung của pháp luật môi trường

Pháp luật  môi trường là một hệ thống đồ sộ các văn bản quy phạm pháp luật rất khác biệt về thời điểm ban hành; về hình thức văn bản và thứ bậc hiệu  lực pháp lý  (từ các quy định trong Hiến pháp đến các luật, bộ luật, pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành luật như nghị định, nghị quyết của Chính phủ, các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân các cấp ban hành theo thẩm quyền..). Đặc biệt, đó là sự khác biệt, đa dạng về phạm vi và nội dung điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật môi trường. Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường,  Luật bảo vệ môi trường năm 2005 giữ vị trí trung tâm, là đạo luật quy định một cách tập trung, trực tiếp những vấn đề cơ bản  nhất trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, thể chế hoá khá đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường, về phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chính đặc trưng đa nguồn, đa ngành này của pháp luật môi trường làm cho nhu cầu đảm bảo để không chỉ Luật bảo vệ môi trường mà toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật môi trường phải thể chế hoá một cách đồng bộ, thống nhất, minh bạch quan điểm phát triển bền vững càng trở nên bức xúc, được coi là  yêu cầu số 1 trước mắt và lâu dài.

 Các giải pháp pháp lý chủ yếu:

- Xây dựng và thực thi cơ chế pháp lý đảm bảo thể chế hoá quan điểm phát triển bền vững trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, ngành,  lĩnh vực, địa phương, khu vực.

- Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và cân đối giữa các quy định về khai thác, sử dụng môi trường với các quy định bảo vệ và phát triển môi trường

-  Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch  trong các quy định pháp luật về xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn  môi trường.

- Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của các quy định về vi phạm pháp luật  bảo vệ  môi trường, về trách nhiệm pháp lý  và các chế tài áp dụng để xử lý các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường

- Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch trong việc xác lập và thực thi cơ chế pháp lý đảm bảo kích thích và hài hoà lợi ích cũng như trách nhiệm của nhà nước, tổ chức và cá nhân trong quá trình xã hội hoá các hoạt động bảo vệ môi trường theo quan điểm bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội.

2.2. Nhu cầu và giải pháp đổi mới hình thức văn bản và quy trình soạn thảo, ban hành văn bản để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch của pháp luật môi trường  và áp dụng pháp luật môi trường.

a) Luật phải giữ vị trí chủ yếu trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường

Để thực hiện yêu cầu này, cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây: (i) Hạn chế tình trạng soạn thảo và ban hành luật khung; (ii) Áp dụng rành mạch nguyên tắc ủy quyền xây dựng pháp luật; (iii) Áp dụng rộng rãi các kỹ thuật lập pháp hiện đại và phù hợp.

b) Đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch của quá trình xây dựng pháp luật môi trường, bằng cách: (i) Thu hút sự tham gia của các tổ chức, các nhà hoạt động môi trường vào quá trình lập pháp. (ii) Chú trọng công tác đánh giá tác động kinh tế xã hội của các dự án luật về môi trường.

c) Đảm bảo tính thống nhất, tính minh bạch, dễ tiếp cận và dễ tra cứu, sử dụng của hệ thống văn bản pháp luật môi trường thông qua việc: (i) Soạn thảo các văn bản hợp nhất; (ii) Rà soát, hệ thống hoá, tiến hành sắp xếp các quy định pháp luật môi trường theo một trật tự thống nhất, logic để thuận tiện cho việc tra cứu, tìm hiểu, nghiên cứu, áp dụng; (iii) Nghiên cứu xây dựng án lệ về môi trường.

3. Nhu cầu và giải pháp nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật môi trường

3.1. Nhu cầu và giải pháp kiện toàn các thiết chế thi hành pháp luật môi trường.

Thứ nhất, kiện toàn các thiết chế hành pháp gắn với đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về môi trường theo những định hướng đổi mới quản lý nhà nước về môi trường và bộ máy quản lý.

Thứ hai, kiện toàn và nâng cao năng lực của các thiết chế tư pháp và bán tư pháp, trong việc giải quyết các tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật môi trường, các tổ chức bổ trợ tư pháp trong việc hỗ trợ cá nhân, tổ chức tiếp cận hệ thống pháp luật và tư pháp về môi trường.

Thứ ba, sử dụng công cụ pháp luật để xây dựng và cập nhật hệ thống thông tin về môi trường.

Thứ tư, tăng cường các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật về bảo vệ môi trường trong toàn xã hội và phát triển các nguồn lực cần thiết để đảm bảo thi hành pháp luật về môi trường.

Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về môi trường.

Ngoài ra, trong điều kiện xã hội hóa các họat động về môi trường, việc các tổ chức, cá nhân tham gia họat động nghiên cứu, bảo vệ môi trường, ngăn ngừa các vi phạm về môi trường, thậm chí tham gia tích cực hơn vào quy trình lập pháp về môi trường là điều có thể dự đoán trước. Các tổ chức, cá nhân này cũng là những người hoặc vì lợi ích, hoặc vì tình nguyện mà tham gia họat động môi trường. Một thực tế đặt ra là trình độ chuyên môn đối với vấn đề bảo vệ và phát triển môi trường của họ rất không thống nhất. Do đó, vấn đề nguồn nhân lực của các đối tượng là chuyên gia của các tổ chức này cũng cần phải được pháp luật quy chuẩn. Đồng thời, pháp luật cũng phải quy định những chính sách hợp lý để khuyến khích các chuyên gia tham gia vào họat động của các tổ chức phi chính phủ, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn và hiệu quả họat động của các tổ chức.

3.2. Về nguồn lực tài chính

Một trong những khó khăn của việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về môi trường hiện nay là sự thiếu hụt kinh phí cả ở cấp trung ương và cấp địa phương. Do đó,  để các quy định được thực hiện tốt, pháp luật cần có quan điểm mở đối với việc huy động các nguồn vốn mới phục vụ cho môi trường. Tại thời điểm hiện nay, các nguồn vốn có thể huy động bao gồm:

- Chi ngân sách. Pháp luật Việt Nam đã có những quy định rất cụ thể về chi ngân sách nói chung và chi ngân sách cho môi trường nói riêng. Tuy nhiên, các quy định đó chưa gắn kết được một cách hữu cơ giữa chi và thu trong họat động môi trường. Do đó, cần bổ sung thêm các quy định tăng thu ngân sách từ các họat động về môi trường. Cụ thể là, cần tính toán đầy đủ chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh; xử lý các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất không có đầy đủ trang thiết bị, quy trình bảo vệ môi trường; yêu cầu nghiêm ngặt về thực hiện nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường đối với mọi dự án sản xuất, kinh doanh; có cơ chế pháp lý thực sự hữu hiệu và dân chủ để các tác nhân ngoài kênh Chính phủ tham gia vào việc phát hiện những dự án, kể cả dự án của Nhà nước, không đảm bảo yêu cầu về môi trường; thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền; đánh thuế tài nguyên thiên nhiên và môi trường - điều kiện tiên quyết đảm bảo tính bền vững của công tác bảo vệ môi trường.

- Đóng góp của các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước: Đây có thể là nguồn tài chính tương đối lớn phục vụ cho các mục tiêu bảo vệ, bảo tồn và phục hồi, cải thiện môi trường nói chung. Các nguồn đóng góp này có thể được thực hiện dưới hình thức thành lập hoặc đóng góp vào các quỹ cho các mục đích chi tiêu cụ thể. Chẳng hạn Quỹ phục hồi môi trường, v.v.. Hiện nay, pháp luật quy định về việc đóng góp của các tổ chức phi chính phủ trong và ngòai nước cho các quỹ trong nước chủ yếu được ban hành dưới dạng các quy chế kèm theo các văn bản cấp chính phủ hoặc cấp bộ. Hơn nữa, các hình thức quỹ hỗn hợp, trong đó có sự đóng góp kinh phí từ nhiều nguồn tài chính khác nhau, kể cả từ ngân sách

và từ các nguồn phi ngân sách cũng  chưa có quy định cụ thể. Đây là điểm pháp luật cần bổ sung.

- Đóng góp của các công dân. Đóng góp của người dân thể hiện cụ thể nhất là việc nộp phí môi trường cho việc vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những đóng góp nhỏ, trực tiếp phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống hàng ngày. Trong điều kiện xã hội hóa, việc huy động nguồn đóng góp tự nguyện trong nhân dân càng đóng vai trò quan trọng hơn. Tuy nhiên, do pháp luật còn chưa đủ chặt chẽ, người dân còn ngại

Tuy Luật bảo vệ môi trường 2005 đã bổ sung một số quy định về nguồn lực tài chính cho môi trường nhưng đó mới chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc, chưa thể áp dụng trong thực tế nếu không được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật khác.



1 Báo cáo "Tương lai chung của chúng ta" của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc năm 1987.

2 Nguồn số liệu: Theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17.8.2004 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.

3 Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

4 Xem “Chủ tịch nước Trần Đức Lương làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp về công việc ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế của CHXHCN Việt Nam”, Báo Nhân dân 10/4/2003.

5 Chẳng hạn, về trách nhiệm của các bên, Điều 12 Công ước BASEL về vận chuyển phế thải cũng chỉ dùng thuật ngữ “Tham khảo về các vấn đề trách nhiệm”; theo đó các bên sẽ hợp tác thông qua càng sớm càng tốt một Nghị định thư thiết lập các thủ tục thích hợp về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại do việc vận chuyển qua biên giới các chất thải nguy hiểm và các phế thải khác.

6 Các chương trình, quy hoạch, mục tiêu, chiến lược này được ban hành bởi Bộ Chính trị hoặc Thủ tướng Chính phủ.

7  Xem thêm Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Nhóm 4.

8 Xem “Treatise on environmental law” (Tập khảo luận về Luật môi trường), Matthew Bender & Company, Inc., 2002, mục 1.01. (tại www.lexis.com).

 

Nội dung toàn văn

BỘ TƯ PHÁP

VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ

 

 

 

 

 

 

BÁO CÁO TỔNG HỢP

 

NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH NHU CẦU PHÁT TRIỂN

PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẾN NĂM 2010

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hà Nội - 2006
BAN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

                    Chủ nhiệm:   TS Dương Thanh Mai

Thư ký:        ThS Cao Xuân Phong

                    CN Nguyễn Thị Thu Hương

 

DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN CỦA ĐỀ TÀI

 

1.     PGS TS Phạm Hữu Nghị

Viện Nhà nước và Pháp luật

2.     Nguyễn Bình

Vụ Pháp luật Dân sự-Kinh tế, Bộ Tư pháp

3.     KS Đặng Dương Bình

Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội

4.     TS Vũ Thu Hạnh

Trường Đại học Luật Hà Nội

5.     Ths Lưu Ngọc Tố Tâm

Trường Đại học Luật Hà Nội

6.     TS Phạm Duy Nghĩa

Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội

7.     Trần Đức Lưu

Cục Thuỷ lợi, Bộ Nông nghiệp và PTNT

8.     Nguyễn Hưng Thịnh

Cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường

9.     Nguyễn Văn Hiển

Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp

10. Nguyễn Văn Cương

Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp

11. Trung Tâm nghiên cứu Luật so sánh và PLQT, Viện KHPL

12. Ban Nghiên cứu pháp luật Dân sự Kinh tế, Viện KHPL

 

MỤC LỤC

Trang

 

 

 

I.

Các thách thức đặt ra đối với việc phát triển pháp luật về môi trường đến năm 2010

4

 

1.1

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về MT

4

 

1.2

Xây dựng nền kinh tế thị trường và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

6

 

1.3

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo quan điểm phát triển bền vững và thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

9

 

1.5

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

15

 

 

 

 

 

II.

Các cơ sở định hướng nhu cầu phát triển của pháp luật về môi trường đến năm 2010

22

 

2.1

Các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển pháp luật về MT

22

 

2.2

Các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương cụ thể

28

 

2.3

Các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã hoặc dự kiến sẽ ký kết, tham gia

32

 

 

 

 

 

III.

Các yếu tố tác động tới nhu cầu phát triển pháp luật về môi trường ở Việt Nam

46

 

3.1

Yếu tố phát triển kinh tế - xã hội

46

 

3.2

Yếu tố hài hoà hoá lợi ích

52

 

3.3

Yếu tố xã hội hoá

58

 

 

 

 

 

IV.

Nhu cầu và giải pháp phát triển pháp luật môi trường đến năm 2010

66

 

4.1

Mục tiêu phát triển pháp luật môi trường đến năm 2020

66

 

4.2

Nhu cầu và giải pháp đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch của pháp luật môi trường trong việc thể chế hoá quan điểm pháp triển bền vững thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

67

 

4.3

Nhu cầu và giải pháp nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật môi trường

87

 

PHẦN I

BÁO CÁO TỔNG HỢP

 

I. CÁC THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẾN NĂM 2010

1.1 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ chính trị đã được đặt ra tại Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ IX và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ X của Đảng. Nhà nước pháp quyền XHCN bao gồm nhiều đặc tính khác nhau trong đó các đặc tính cốt lõi là:

Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền được xây dựng và vận hành trên cơ sở pháp luật, tôn trọng và đảm bảo tính tối thượng của các đạo luật.  Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải thể hiện đúng đắn ý chí, nguyện vọng và tương quan lợi ích của các tầng lớp  nhân dân trong xã hội;  pháp luật  phải được  xây dựng theo các nguyên tắc dân chủ,  khoa học, công khai, minh bạch.. Pháp luật làm ra phải được chính các cơ quan, công chức nhà nước và mọi cá nhân, tổ chức tôn trọng và tuân thủ

Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải là đảm bảo cao nhất đối với các quyền con người, quyền công dân. Một trong các quyền con người cơ bản nhất  là quyền sống và quyền được sống trong môi trường trong sạch, không ô nhiễm. Quyền của công dân gắn liền với trách nhiệm của Nhà nước theo nguyên tắc quan hệ giữa nhà nước và công dân là quan hệ trách nhiệm pháp lý qua lại.

Thứ ba, trong Nhà nước  pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân. Hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước phải theo nguyên tắc phân công và phối hợp đồng thời chịu sự  giám sát, kiểm tra  của nhân dân, để  đảm bảo quyền lực không bị lạm dụng, tha hoá.. Người dân thực hiện quyền giám sát thông qua các đại biểu nhân dân hoặc bằng cách tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật

 Thứ tư, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải đặt mình trong mối quan hệ tác đông, ảnh hưởng lẫn nhau với các  quốc gia khác trên thế giới; phải đề cao nguyên tắc tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế mà mình đã tham gia.

Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền với các đặc tính cụ thể nêu trên đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức cần phải vượt qua.

Thách thức thứ nhất là việc bảo vệ quyền con người được sống trong môi trường trong sạch . Trong Nhà nước pháp quyền, quyền con người là một đối tượng quan trọng cần được bảo vệ. Quyền tự nhiên cơ bản nhất của con người là quyền được sống và trong bối cảnh phát triển hiện nay, quyền được sống đó phải được hiểu một cách cụ thể hơn là sống trong môi trường trong sạch. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nạn ô nhiễm môi trường đã làm cho cuộc sống của con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Rất nhiều căn bệnh làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ con người như ung thư, chậm phát triển trí não, một số bệnh dịch, v.v. đều xuất phát từ nguyên nhân là môi trường bị ô nhiễm. Với mục tiêu là xây dựng một nhà nước đảm bảo tốt nhất cho sự phát triển của con người, việc xây dựng nhà nước pháp quyền không thể không quan tâm tới các tác động có hại nêu trên của môi trường tới cuộc sống của con người. Và mục tiêu này chỉ có thể đạt được nếu nhà nước quan tâm tới việc nâng cao chất lượng môi trường, cũng đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng đời sống con người, đảm bảo cho con người không bị sống trong môi trường bị ô nhiễm, đảm bảo cho sự phát triển tự nhiên cân bằng và thuận lợi.

Cũng như quyền được sống trong môi trường trong sạch là một trong những quyền tự nhiên cơ bản của con người, quyền dân chủ của công dân thuộc về phạm trù các quyền chính trị của con người đã được ghi nhận trong các văn kiện của Liên Hiệp quốc mà Nhà nước Việt Nam đã tham gia.. Bảo đảm quyền dân chủ của công dân trong lĩnh vực môi trường cũng là thách thức đối với nhà nước pháp quyền. Từ góc độ phát triển xã hội nói chung, có thể nói bảo vệ môi trường là một nội dung dân chủ. Nó cho phép và tạo điều kiện cho người dân tham gia mạnh mẽ vào quá trình xây dựng các thể chế, thiết chế, cơ chế đảm bảo ở mức độ tốt nhất lợi ích của mình, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong sạch. Do đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền với mục tiêu đảm bảo các quyền dân chủ của công dân nói chung cũng đồng thời tác động tới việc đảm bảo các quyền dân chủ của công dân trong việc tham gia bảo vệ môi trường bằng việc thực hiện các quyền dân chủ của mình.

Thách thức thứ hai là việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, khả thi với tư cách là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành độc lập của hệ thống pháp luật quốc gia. Những khiếm khuyết chung của cả hệ thống pháp luật như sự thiếu thống nhất và đồng bộ, tính khả thi thấp và chậm đi vào cuộc sống;  những bất hợp lý trong quy trình xây dựng và sửa đổi pháp luật;  thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu, v.v. đồng thời cũng là những bất cập của pháp luật về môi trường. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là Nhà nước chậm ban hành một chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Ngay trong từng lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, đặc biệt là những lĩnh vực pháp luật có nhiều yếu tố mới, liên ngành gắn với quá trình phát triển kinh tế thị trường và phát triển khoa học- công nghệ, ví dụ như pháp luật về môi trường, Nhà nước cũng chưa đưa ra được bản thiết kế tổng thể, dài hạn  với những ưu tiên hợp lý cho từng thời kỳ. Vì vậy, thách thức đặt ra hiện nay là  để đáp ứng yêu cầu của xây dựng nhà nước pháp quyền, cần phải tiếp tục những cải cách, đổi mới mạnh mẽ hơn về cả nội dung lẫn quy trình, thủ tục soạn thảo và ban hành pháp luật về môi trường theo hướng  đảm bảo tầm nhìn chiến lược đối với sự phát triển của cả một lĩnh vực pháp luật quan trọng, đảm bảo cho các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường hợp thành một thể thống nhất, loại trừ mâu thuẫn, chồng chéo nội bộ đồng thời tạo nên sự tương thích, hài hoà với các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan trong cả hệ thống.

Thách thức thứ ba là phải nâng cao hiệu lực thi hành của pháp luật môi trường trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Hiệu lực thi hành thấp là một điểm yếu chung của cả hệ thống pháp luật và cũng là điểm yếu rất cơ bản của pháp luật môi trường. Hiệu lực thi hành của pháp luật môi trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:  chất lượng (tính khả thi) của chính các văn bản quy phạm pháp luật; hiệu quả hoạt động của các thiết chế thi hành pháp luật môi trường (bao gồm cả thiết chế nhà nước và thiết chế kinh tế, xã hội....); ý thức và thái độ chấp hành pháp luật của mỗi cá nhân, tổ chức, cộng đồng dân cư trong các ứng xử liên quan đến khai thác, sử dụng, bảo vệ môi trường. Ngoài ra, bộ máy kiểm tra, giám sát và cưỡng chế thi hành các quy định pháp luật về môi trường cũng là yếu tố quan trọng có tính chất sống còn của việc đảm bảo thi hành pháp luật môi trường. Do đó, thách thức này đặt ra yêu cầu giải quyết đồng bộ những vướng mắc, bất cập liên quan đến tất cả các yếu tố của cơ chế thi hành pháp luật môi trường .

1.2 Xây dựng nền kinh tế thị trường và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi  trường

Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới, để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nghèo đói, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thê rhiện quyết tâm cao  trong việc từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chuyển hướng sang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Trong quá trình phát triển đó, ở những giai đoạn khác nhau, chúng ta đã có những nhận thức ở mức độ khác nhau về nền kinh tế thị trường, về những ưu và nhược điểm của mô hình kinh tế này, về sự phù hợp của mô hình kinh tế với định hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã luôn luôn theo đuổi. Từ những phương hướng chủ yếu của công cuộc đổi mới đã được Đại hội VI của Đảng đề ra đến chủ trương "phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa"[1] được Đại hội VII xác định và được Đại hội IX phát triển thành chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là những bước tiến quan trọng trong quá trình tổng kết thực tiễn cách mạng, đổi mới tư duy kinh tế, vượt qua những quan niệm sơ cứng về mô hình phát triển kinh tế - xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, dù nhận thức có thay đổi, dù thực tiễn triển khai có lúc nhanh lúc chậm, lúc thành công lúc cần suy gẫm, mục tiêu đã và luôn luôn được xác định cho đến nay là xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều 15 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã quy định rõ “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Việc xây dựng nền kinh tế thị trường đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức như thách thức về việc hoàn chỉnh cơ cấu các thành phần kinh tế, thách thức về phát triển đồng bộ và ngày càng hoàn thiện các yếu tố thị trường, thách thức về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, v.v.

Với những thách thức chung có tính vĩ mô như vậy, quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức cụ thể hơn về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về môi trường.

Trước hết, đó là yêu cầu pháp luật môi trường phải  đảm bảo các thành phần kinh tế khác nhau đều có nghĩa vụ và quyền lợi trong việc tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường. Yếu tố cốt lõi trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận. Tất cả các quy luật vận động của nền kinh tế thị trường đều nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng là mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Tuy nhiên, do rất nhiều yếu tố tác động khác nhau, lợi nhuận có thể được phân bổ không đồng đều giữa các nhóm đối tượng khác nhau. Trong lĩnh vực môi trường, sự phân bổ không đồng đều này thể hiện ở chỗ vì lợi nhuận, môi trường có thể bị khai thác tới mức cạn kiệt, thậm chí các tài nguyên thiên nhiên có thể bị chiếm đoạt một cách phi pháp cũng vì mục đích lợi nhuận, và hậu quả là các đối tượng không tham gia trực tiếp vào quá trình khai thác môi trường sẽ bị buộc phải sống trong môi trường có chất lượng kém mặc dù đó không phải lỗi của họ.

Cho tới nay pháp luật đã có quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường của tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường. Tuy nhiên, phần lớn các quy định mới chỉ nhìn nhận vấn đề bảo vệ môi trường với tư cách là một nghĩa vụ của các thành phần kinh tế: khi tiến hành sản xuất kinh doanh thì phải có các phương án bảo vệ môi trường. Nói một cách khác, chúng ta chưa có quy định nào được ban hành dựa trên một nguyên lý coi bảo vệ môi trường là một lĩnh vực kinh doanh và cho phép hay khuyến khích (bằng pháp luật) để mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia và thu lợi từ các hoạt động môi trường đó.

Thứ hai, yêu cầu pháp luật môi trường phải tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển thị trường các sản phẩm và dịch vụ môi trường .Việc xây dựng nền kinh tế thị trường cũng yêu cầu chúng ta phải xây dựng và phát triển các thị trường khác nhau. Một trong những thị trường có thể có là thị trường các sản phẩm và dịch vụ môi trường. Trong thương mại quốc tế, các sản phẩm và dịch vụ môi trường tuy chỉ mới được quan tâm trong thời gian gần đây, nhưng đã trở thành một thị trường ngày càng quan trọng không chỉ góp phần mang lại lợi nhận cho các đối tượng kinh doanh mà còn góp phần giữ gìn và cải thiện môi trường thiên nhiên. Ở Việt Nam, do mới chỉ nhìn nhận môi trường như một loại đối tượng cần được bảo vệ, việc xây dựng các định hướng, chính sách xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ môi trường còn chưa được quan tâm thích đáng và việc ban hành các quy định pháp luật thể chế hoá các định hướng, chính sách này cũng là một nhu cầu và thách thức cần được quan tâm giải quyết trong thời gian tới.

Thứ ba, yêu cầu pháp luật môi trường phải là một công cụ góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc sử dụng pháp luật như một công cụ quản lý vĩ mô để chuyển dịch cơ cấu kinh tế (thông qua các quy hoạch phát triển, các biện pháp khuyến khích, các loại thuế, v.v.) theo hướng thân thiện với môi trường, hoặc ở mức độ cao hơn là góp phần cải thiện điều kiện môi trường là một yêu cầu đặt ra hết sức cấp bách đối với phát triển pháp luật về môi trường.

Thứ tư, yêu cầu pháp luật môi trường đảm bảo khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, đúng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ  môi trường,  sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

Trong nền kinh tế thị trường với xu hướng coi trọng lợi nhuận, yêu cầu đặt ra là chúng ta phải kết hợp hài hoà phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Tức là không những phải khuyến khích phát triển và bảo vệ môi trường, mà còn phải đặt ra các nghĩa vụ về môi trường phù hợp với điều kiện thực tiễn để đảm bảo tính khả thi cao, và phải xây dựng được cơ chế cưỡng chế thực hiện các nghĩa vụ đó trong trường hợp vi phạm. Có như vậy, phát triển kinh tế thị trường mới không dẫn tới hậu quả là khai thác đến suy kiệt môi trường tự nhiên vì mục tiêu lợi nhuận. Và công cụ để thực hiện việc này cũng chính là pháp luật.

Tạo điều kiện cho phát triển các hoạt động môi trường là cần thiết. Tuy nhiên, một yêu cầu khác cũng cần thiết không kém là phải tạo ra một sự cạnh tranh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Trong nền kinh tế thị trường vận hành theo đúng nguyên tắc cung – cầu với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, các biện pháp bao cấp, bảo hộ trong lĩnh vực môi trường không còn phù hợp. Mỗi chủ thể tham gia khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường đều có những năng lực, động cơ, lợi ích khác nhau. Để tạo động lực tự thân cho sự phát triển các hoạt động bảo vệ môi trường, yêu cầu đặt ra là pháp luật môi trường phải thực hiện đúng vai trò điều chỉnh vĩ mô đối với phát triển kinh tế thị trường nói chung và đối với bảo vệ, phát triển môi trường nói riêng, đảm bảo cho mọi chủ thể đều có  những cơ hội bình đẳng để  cạnh tranh  theo năng lực, đúng pháp luật.

1.3 Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo quan điểm phát triển bền vững và thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

Khái niệm "phát triển bền vững" xuất hiện từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX. Phát triển bền vững được định nghĩa "là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau"[2]. Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển (tổ chức tại Rio de Janeiro -Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (tổ chức ở Johannesburg -Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.

          Phát triển bền vững được coi là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Điều này được thể hiện thông qua việc 179 nước tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển năm 1992 đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển, 166 nước tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững năm 2002 đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững,đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương[3]...

          Chính phủ Việt Nam đã tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững. Quan điểm phát triển bền vững trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được khẳng định từ cuối những năm 1990 "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"[4].. Quan điểm phát triển bền vững tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".

          Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến 2020 là xây dựng nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp, có trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ và môi trường hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tạo lập sự phát triển bền vững trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội với bảo vệ môi trường với mức GDP tăng khoảng 2 lần cho mỗi thập niên.

Dựa vào Chiến lược phát triển KT - XH chung của đất nước, cũng như của các bộ, ngành và địa phương (tỉnh, thành phố) có thể  khái quát một số  thách thức đối với pháp luật môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo quan điểm phát triển bền vững ở nước ta ::

Thứ nhất, đó là thách thức của việc tăng trưởng với tốc độ cao.

Chiến lược và các kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước cũng như của các ngành, các địa phương đều nhằm vào mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài.

Nhằm mục tiêu chiến lược mà Đảng đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” (Văn kiện Đại hội IX), và rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước, của các ngành, địa phương đều định hướng vào tăng gấp đôi và hơn nữa GDP trong mỗi thập kỷ (10 năm) phát triển. Điều đó có nghĩa là phải duy trì một tốc độ tăng trưởng trong một thời gian dài hàng năm của GDP ở mức độ cao khoảng 7 - 8% /năm. Sự tăng trưởng cao như vậy là một điều cần thiết nhằm làm cho đất nước nhanh chóng phát triển, hoà nhập với nền kinh tế và khu vực. Tuy nhiên, nếu như trình độ công nghệ của sản xuất và cơ cấu sản xuất của nền kinh tế không được cải thiện nhiều thì sự tăng trưởng GDP của đất nước cũng có nghĩa là tăng khối lượng tài nguyên khai thác cho sản xuất và tăng lượng chất thải vào môi trường.

.Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới thì với mức tăng GDP của nền kinh tế Việt Nam như những năm qua (khoảng 7-8%/năm) , mức độ ô nhiễm môi trường bởi chất thải vào năm 2020 có thể gấp 4-5 lần  mức ô nhiễm hiện nay. Các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cũng ước đoán rằng nếu không có những biện pháp ngăn ngừa bảo vệ thích hợp thì ô nhiễm công nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ 2000 - 2010 sẽ tăng với chỉ số 3,8 tương đương với 14% tăng trưởng kinh tế. Tổn thất kinh tế do ô nhiễm công nghiệp tác động tới sức khoẻ của con người ước tính khoảng 0,3% GDP hiện tại của đất nước và tới năm 2010 sẽ tăng lên tới 12%. Nếu tính gộp cả các giá trị hưởng thụ bị mất đi, sự mất mát đa dạng sinh học,... thì tỷ lệ này còn lớn hơn gấp bội [5].

Trong khi đó, trên thực tế, quan điểm phát triển bền vững chưa được thể hiện một cách rõ rệt và nhất quán qua hệ thống chính sách và các công cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế-xã hội vẫn còn thiên về tăng trưởng nhanh kinh tế và ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.. Ngược lại,  các chính sách bảo vệ môi trường chỉ chú trọng việc giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường, mà chưa có những định hướng phát triển lâu dài nhằm đáp ứng những nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh  của đất nước. Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và quá trình xây dựng chính sách bảo vệ môi trường còn chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với nhau. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và có hiệu lực....

Thứ hai, thách thức của việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.

 Cơ cấu các ngành sản xuất sẽ chuyển dịch theo hướng tăng nhanh của tỉ lệ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Các phương án phát triển được đề xuất cả ở tầm vĩ mô (cả nước), cả ở tầm trung mô (ngành, địa phương) và vi mô (công ty, doanh nghiệp) đều có nét chung nổi bật là tốc độ tăng trưởng cao của sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ (thường được xác định khoảng 12-15% /năm) so với sản xuất nông nghiệp (thường được xác định khoảng 4-6% /năm). Sự tăng trưởng cao như vậy của các ngành công nghiệp, xây dựng nhất định sẽ dẫn đến các vấn đề môi trường cần quan tâm đặc biệt, bởi lẽ đằng sau mức tăng trưởng của sản xuất công nghiệp tàng ẩn sự gia tăng cao của khai thác và sử dụng môi trường và tài nguyên thiên nhiên cũng như của lượng chất thải.

Nếu như để ý rằng, ít ra trước thềm của thế kỷ 21, định hướng phát triển của công nghiệp Việt Nam sẽ nhằm vào các ngành mà đất nước hiện có lợi thế so sánh như: công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, dầu khí, điện năng, chế biến nông, lâm, hải sản, dệt, may, thì sẽ càng thấy tiềm ẩn nguy cơ lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải. Bởi lẽ các ngành công nghiệp nói trên đều thuộc danh mục các nguồn chất thải lớn nhất gây ô nhiễm môi trường.

Thứ ba, thách thức của việc phát triển các khu vực kinh tế trọng điểm.

Sự tập trung phát triển kinh tế ở ba vùng kinh tế trọng điểm của đất nước sẽ kéo theo hệ quả tất yếu tập trung các nguy cơ, các nguồn gây ô nhiễm, tác động xấu tới chất lượng môi trường.

Những tính toán quy hoạch phát triển theo vùng kinh tế đặt trọng tâm vào các lĩnh vực kinh tế sau:

·       Đồng bằng sông Hồng và vùng trọng điểm Bắc Bộ:

          - Công nghiệp chế biến.

          - Cơ khí đóng tàu, luyện kim, phân bón

          - Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường không), bao gồm hệ thống cảng sông, cảng biển và cảng hàng không.

·       Miền Đông Nam bộ và vùng trọng điểm phía Nam:

- Công nghiệp khai thác dầu khí.

- Công nghiệp phân bón, hoá chất từ dầu khí

- Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường không), bao gồm hệ thống cảng sông, cảng biển và cảng hàng không.

·       Duyên hải Trung Bộ và vùng trọng điểm miền Trung:

- Kinh tế biển

- Công nghiệp chế tác và dịch vụ

- Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường không), bao gồm hệ thống cảng sông, cảng biển và cảng hàng không.

·       Trung du và miền núi Bắc Bộ:

- Thuỷ điện

- Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông lâm sản

- Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ)

·       Tây nguyên:

- Công nghiệp chế biến nông lâm sản.

- Thuỷ điện.

- Giao thông vận tải.

·       Đồng bằng sông Cửu Long:

- Công nghiệp chế biến và dịch vụ.

- Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường không), bao gồm hệ thống cảng sông và hàng không.

Trong định hướng chiến lược phát triển các vùng kinh tế, nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tạo động lực cho sự phát triển của các vùng khác sẽ hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao). Trong đó đã xác định ba vùng kinh tế trọng điểm, hay vẫn được gọi là ba tam giác phát triển: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh (ở phía Bắc), thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu - Đồng Nai (ở phía Nam) và Đà Nẵng - Dung Quất - Chân Mây (ở miền Trung). Hiện tại có tới 84% tổng vốn đầu tư cơ bản và 80% các dự án nằm trong ba vùng tam giác phát triển công nghiệp này. Năm 1999 ba vùng kinh tế trọng điểm  này tạo ra 48% GDP và 69% giá trị gia tăng công nghiệp. Cùng với sự tập trung phát triển sản xuất công nghiệp ở ba vùng tam giác phát triển sẽ là sự tập trung các vấn đề môi trường cần được quan tâm chú ý.                            

Thứ tư, thách thức của việc tiếp tục phát triển nông nghiệp.

Thâm canh trong sản xuất nông nghiệp sẽ tiếp tục ngày càng sâu rộng với xu hướng sử dụng ngày càng nhiều chất hoá học vô cơ, khó phân giải và độc hại.

Trong cơ cấu GDP của một nước nông nghiệp, giá trị của nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn chiếm giữ một tỷ trọng tương đối lớn (khoảng 1/3). Ở phần lớn các tỉnh và địa phương tỷ lệ này có nơi chiếm tới 60 -70%. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp sẽ gắn liền với việc thâm canh ngày càng tăng trong sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi. Quá trình thâm canh hoá sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục gắn liền với việc tăng cường sử dụng các loại phân vô cơ, thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Từ năm 1976 đến nay, lượng phân bón hoá học sử dụng trong nông nghiệp tăng lên rất mạnh: năm 1990 lượng phân bón này dùng cho 1 ha gieo trồng so với năm 1980 tăng hơn 4 lần; con số này của năm 1995 là gấp gần 5,6 lần.[6] Rõ ràng là nếu không có những chính sách và biện pháp bảo vệ thích hợp và lâu dài thì với sự tăng cường sử dụng các loại phân bón hoá học, các chất vô cơ khó/ lâu phân huỷ và độc hại thì nguy cơ ô nhiễm môi trường ở tất cả các thành phần môi trường (đất, nước, không khí, đa dạng sinh học,...) sẽ ngày càng tăng lên, đe doạ chính sự phát triển bền vững của sản xuất nông nghiệp và sức khỏe của con người.

Thứ năm, thách thức của việc phát triển thương mại dịch vụ.

Các hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ được tăng cường, nhất là hoạt động kinh tế đối ngoại, bao gồm cả du lịch, sẽ được duy trì ở mức độ tăng trưởng cao.

Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa và hoà nhập, vai trò của các hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ ngày càng tăng và ráo riết. Mức tăng trưởng hàng năm của hoạt động dịch vụ ở Việt Nam gần tương đương với mức tăng trưởng của công nghiệp.

Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá trong tương lai gần tuy sẽ được cải thiện theo hướng giảm dần xuất nguyên liệu thô, nhưng sau năm 2003, khi Việt Nam hội nhập vào thị trường chung của khối ASEAN, thế mạnh hàng xuất khẩu (lợi thế so sánh) của Việt Nam có thể trong một số năm tiếp theo nữa vẫn là nông, hải sản và các nguyên liệu, khoáng sản khác.

Việc duy trì mức tăng trưởng cao hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy, sẽ có nghĩa là duy trì nhịp độ cao trong khai thác tự nhiên (đất đai, khai mỏ,...). Và cả hoạt động vận tải chắc chắn cũng sẽ tăng lên và khẩn trương hơn. Nếu như đặt sự khẩn trương này vào trong bối cảnh một loạt cảng biển và cảng biển nước sâu dọc theo 3200 km bờ biển của đất nước sẽ được xây dựng và phát triển gắn với công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí thì có thể dự báo về sức ép ngày càng lớn và tăng về chất thải đối với môi trường biển của các hoạt động vận tải.

Trong số các hoạt động dịch vụ có tác động tới chất lượng môi trường còn cần phải kể đến du lịch. Bản Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ1995 - 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 24/4/1995 cho thấy kế hoạch đón khách du lịch được hoạch định trong bản Quy hoạch này với mức tăng cao: khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2010 sẽ gấp 2,5 lần so với năm 2000. Lượng khách du lịch trong nước năm 2010 cũng sẽ gấp 2,5 lần so với lượng khách năm 2000. Một sự tăng trưởng cao như vậy của hoạt động du lịch chắc chắn sẽ đặt ra nhiều vấn đề về chất thải cũng như cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái như kinh nghiệm hoạt động du lịch của các nước xung quanh ta đã cho thấy.

Đứng trước những thách thức về bảo vệ môi trường do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra, ngày 17.8.2004 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (hay còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược về phát triển bền vững đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện để phát triển bền vững trong thế kỷ 21. Thực chất đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn và nó không bao hàm ý tưởng thay thế các chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch hiện có, mà là căn cứ để các cơ quan chức năng cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010, cũng như xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước.

          1.4. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đặt ra đối với phát triển pháp luật về môi trường

Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của xã hội hiện đại. Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đã lựa chọn con đường phát triển này. Gần đây nhất, việc Việt Nam đàm phán thành công với các quốc gia liên quan để tiến tới gia nhập WTO là một bước tiến mới trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, hội nhập cũng đặt ra cho Việt Nam rất nhiều thách thức và trách nhiệm, trong đó có cả các trách nhiệm trực tiếp liên quan tới môi trường, cả các trách nhiệm gián tiếp.

Thứ nhất là thách thức về tính đồng bộ của pháp luật môi trường quốc gia với các quy định của pháp luật môi trường quốc tế

          Một hoạt động quan trọng nhằm làm cho pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế là việc nội luật hoá các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Về mặt lý luận, nội luật hoá có nguồn gốc từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia - một trong những nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế. Theo nguyên tắc này, quyền làm luật và thông qua pháp luật để điều chỉnh các quan hệ của đời sống đất nước là thẩm quyền riêng biệt gắn với chủ quyền của mỗi quốc gia. Mọi ràng buộc về mặt pháp lý từ phía bên ngoài, do vậy, đều không có giá trị trong lãnh thổ quốc gia nếu như không có sự nhất trí của quốc gia đó.

Thông thường thì về nguyên tắc, một khi đã được các cơ quan có thẩm quyền công nhận bằng một hành vi pháp lý hợp thức và hợp pháp như phê duyệt, phê chuẩn, ký kết hay gia nhập, một điều ước quốc tế có liên quan sẽ có hiệu lực pháp luật tại quốc gia đã thực hiện hành vi pháp lý nêu trên. Tuy nhiên, thực tế lại không đơn giản như vậy. Ở đây phát sinh vấn đề về mối quan hệ giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế mà cách xử lý lại phụ thuộc rất nhiều vào việc một quốc gia theo hướng nào trong hai hệ thống quan điểm chủ yếu trong luật công pháp quốc tế.

Hệ nhị nguyên luận cho rằng pháp luật quốc tế và trong nước là hai hệ thống pháp luật tách biệt hẳn nhau và cùng tồn tại độc lập.[7] Theo cách hiểu này, có thể suy luận là quy phạm pháp luật quốc tế chỉ có hiệu lực ở pháp luật trong nước của một quốc gia nếu được chuyển hoá từ hệ thống pháp luật quốc tế vào trong nước bằng một hành vi mang tính quyền lực của quốc gia. Theo hệ nhất nguyên luận, pháp luật quốc tế và trong nước là một hệ thống pháp luật  thống nhất trong đó các quy phạm pháp luật quốc tế có hiệu lực ưu tiên và có giá trị áp dụng trực tiếp ở mỗi quốc gia.[8]

Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật quốc tế vào pháp luật trong nước phức tạp và đa dạng hơn nhiều so với các học thuyết nêu trên; và cách thức nội luật hoá của quốc gia cũng khá đa dạng.[9] Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh các quan hệ kinh tế-thương mại, quá trình toàn cầu hoá với yêu cầu các quốc gia phải cùng nhau giải quyết những vấn đề có tính quyền lợi chung, việc đơn thuần chỉ tuân thủ một cách máy móc quan điểm nhất nguyên luận hay nhị nguyên luận ngày càng tỏ ra bất cập trong việc xử lý các vấn đề phát sinh. Thực tế cho thấy hoặc các quốc gia kết hợp cả hai quan điểm, hoặc nếu vẫn theo một trong hai thì cũng không hoàn toàn nhất quán trong việc xử lý vấn đề có tính chất phức tạp này. Chẳng hạn, có thể quốc gia công nhận điều ước quốc tế có hiệu lực trực tiếp trong hệ thống pháp luật quốc nội trong một số trường hợp cụ thể, nhưng vẫn chưa tiến xa đến mức cho phép các bên tranh chấp là tự nhiên nhân và pháp nhân dẫn chiếu trực tiếp đến các điều khoản có liên quan của điều ước mà nước mình tham gia để bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức đó trước cơ quan giải quyết tranh chấp.[10]

Ở Việt Nam, vấn đề nội luật hoá chưa được quy định rõ ràng và giải quyết thoả đáng trong pháp luật cũng như trong thực tiễn. Chúng ta vẫn chưa thống nhất được về nguyên tắc quy phạm pháp luật quốc tế có hiệu lực trực tiếp hay gián tiếp ở Việt Nam. Pháp luật hiện hành mới chỉ có quy định giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình hội nhập nhưng chưa được điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa phù hợp trong pháp luật Việt Nam.

Vấn đề đặt ra là ngoại trừ những trường hợp mâu thuẫn hoặc chưa được quy định nêu trên, liệu có phải tất cả các công cụ pháp lý quốc tế, trong đó có các công ước về môi trường mà Việt Nam tham gia, đều phải được chuyển hoá vào pháp luật trong nước của Việt Nam bằng một hành vi pháp lý của các cơ quan có thẩm quyền? Chẳng hạn, nếu Việt Nam tham gia Công ước về đa dạng sinh học thì để Công ước có hiệu lực trong pháp luật Việt Nam, cần phải có một văn bản, như luật do Quốc hội ban hành về đa dạng sinh học thì Công ước này mới có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam? Không hẳn như vậy. Theo chúng tôi, cách hiểu và làm này phát sinh hai vấn đề lớn. Một là, chúng ta đã vô tình vô hiệu hoá một hành vi pháp lý đã xảy ra trước đó, cũng do một cơ quan có thẩm quyền tiến hành, ví dụ Quốc hội hay Chủ tịch nước phê chuẩn. Hai là, sẽ xảy ra tình trạng lãng phí là lặp lại một hành vi pháp lý không cần thiết.

Do tính chất phức tạp của vấn đề, có lẽ chưa nên và cũng không thể đi sâu vào các vấn đề lý luận cũng như thực tế đa dạng của việc nội luật hoá. Trong quá trình giải quyết những quan hệ cụ thể, cần xuất phát từ nhận thức về vai trò đóng góp tích cực của công tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam;[11] và quan điểm dần dần phải coi các điều ước quốc tế là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật trong nước. Một mô hình thích hợp cho điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam phải tính đến bối cảnh nhu cầu gia nhập các công cụ pháp lý quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, môi trường ngày càng nhiều; có lẽ cũng phải cân nhắc để có phương thức áp dụng một cách kịp thời hơn các quy phạm pháp luật quốc trong các lĩnh vực này ở nước ta.

Thứ hai là thách thức về xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Trong hoạt động quản lý môi trường, tiêu chuẩn môi trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó vừa là công cụ kỹ thuật, vừa là công cụ pháp lý giúp nhà nước quản lý môi trường. Chỉ trên cơ sở hệ thống các tiêu chuẩn môi trường đã được xây dựng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể xác định được chất lượng của môi trường, xác định được mức độ ô nhiễm của từng thành tố môi trường trong những trường hợp cụ thể để từ đó có biện pháp phòng chống ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường, quy trách nhiệm cho người gây ô nhiễm...Ngoài ra, tiêu chuẩn môi trường còn là một căn cứ để con người thực hiện quyền được sống trong một môi trường trong lành. Khoản 5, Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa “Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường”. Hệ thống tiêu chuẩn được xem như là ngưỡng, là “giới hạn an toàn”. Các tổ chức cá nhân phải hoạt động và kiểm soát hành vi của mình ở trong giới hạn đó.

Thách thức về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế cần được xem xét ở hai khía cạnh

Một là tính khả thi của các tiêu chuẩn môi trường,  phù hợp cam kết quốc tế liên quan đến môi trường.

 Ô nhiễm, suy thoái môi trường, mất cân bằng sinh thái là những vấn đề đang trở nên ngày càng trầm trọng trong đời sống hiện đại của toàn thế giới, kể cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên, do mức độ phát triển khác nhau, mức độ gây ô nhiễm khác nhau, khả năng tài chính và kỹ thuật xử lý các sự cố môi trường khác nhau và chất lượng cuộc sống khác nhau mà các nước khác nhau đặt ra các chuẩn mực hoàn toàn không giống nhau đối với môi trường. Trong cùng một quốc gia hoặc khu vực, tiêu chuẩn về môi trường cũng thay đổi theo thời gian và theo mức độ phát triển của quốc gia đó. Do vậy, các tiêu chuẩn môi trường không phải là bất di bất dịch mà có thể thay đổi theo thời gian. Điều này cho phép mỗi quốc gia có sự chủ động của riêng mình khi đề ra các tiêu chuẩn về môi trường.

          Nhưng mặt khác, các quy định của luật pháp quốc tế cũng đặt ra nhiều tiêu chuẩn môi trường tối thiểu mà các quốc gia phải tuân thủ. Do các tiêu chuẩn này thường do các quốc gia phát triển xây dựng nên trong nhiều trường hợp, nó yêu cầu phải có những nỗ lực đáng kể của các quốc gia đang phát triển để có thể  tuân thủ đầy đủ. Tuy nhiên, do môi trường là vấn đề có tính toàn cầu, các quốc gia đang phát triển hầu như không có lựa chọn nào khác. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi vấn đề tiêu chuẩn môi trường còn được sử dụng như một công cụ “kỹ thuật” trong thương mại quốc tế buộc các quốc gia phải đáp ứng nếu không muốn bị phân biệt đối xử trong quá trình hội nhập và phát triển.

Nhận thức được thách thức này,  Luật bảo vệ môi trường 2005 đã xác định một nguyên tắc cơ bản trong việc  xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường là các tiêu chuẩn môi trường phải “ phù hợp với mức độ phát triển kinh tế- xã hội, trình độ công nghệ của đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”. 

Trong những năm vừa qua trách nhiệm xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn môi trường đã được giao cho Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) và một số Bộ ngành có liên quan khác (Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng Việt Nam) phối hợp cùng thực hiện. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay hệ thống tiêu chuẩn môi trường Việt Nam vừa thiếu về nội dung vừa thiếu về độ chính xác, chưa tính đến đầy đủ các yêu cầu tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Chính sự không hoàn thiện của hệ thống tiêu chuẩn môi trường là một phần nguyên nhân của hiện tượng pháp luật môi trường chỉ tồn tại trên giấy mà không thể thực hiện được, là nguyên nhân của sự tiềm ẩn những rủi ro cho hàng hoá Việt Nam trên thương trường quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng.

Hai là tính minh bạch của việc xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Liên quan đến các tiêu chuẩn môi trường còn một vấn đề khá bức xúc, thu hút được nhiều sự quan tâm của xã hội đó là tính minh bạch của các tiêu chuẩn môi trường, các chỉ số môi trường. Về mặt nguyên tắc, bất kỳ một người dân nào cũng đều có quyền được biết về điều kiện sống của họ, về mức độ ô nhiễm hay những đe doạ tới môi trường sống bình thường mà bằng các giác quan có thể họ không cảm nhận được. Dư luận xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua đã nhiều lần xôn xao vì hiện tượng ở một số địa phương sự ô nhiễm nguồn nước, không khí mặc dù đã trở nên nghiêm trọng và có khả năng ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ con người nhưng chính những người dân sống trong khu vực bị ô nhiễm lại không hề hay biết. Công khai hoá các thông số về môi trường sẽ là một biện pháp hữu hiệu nhằm tăng trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong việc bảo vệ môi trường sống của chính mình đồng thời định hướng hành vi cho người dân. Những lực lượng bảo vệ môi trường sinh thái sẽ có động lực để hoạt động tốt hơn, nếu họ có đầy đủ các thông tin về những hiểm hoạ sinh thái của cộng đồng.

Thực tiễn trong thời gian qua cũng cho thấy trong sản xuất công nghiệp, các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa, các tiêu chuẩn về khí thải, chải thải rắn, chất thải lỏng đã được ban hành rất nhiều nhưng không được thực hiện trên thực tế. Nguyên nhân có nhiều, trong đó có việc nhà nước chưa công khai, minh bạch hóa những thông tin về tác động môi trường,  về mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường trong hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là tác động đến môi trường từ các khu công nghiệp, từ các doanh nghiệp nhà nước có công nghệ lạc hậu.. Một lý do khác dẫn đến tình trạng  “bỏ qua” việc công khai, minh bạch về các tiêu chuẩn môi trường và đánh giá tác động môi trường chính là sự mưu cầu lợi ích cục bộ của một số chính quyền địa phương trong khi cạnh tranh thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài.

Thứ ba là thách thức về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường trên phạm vi quốc tế

Chế tài môi trường áp dụng theo các nguyên tắc và quy định chung của công pháp quốc tế nên hiệu lực không mạnh như các chế tài thương mại; thậm chí có trường hợp không quy định rõ chế tài. Thông thường, chế tài cao nhất là bồi thường thiệt hại, nhưng cách thức xác lập chế tài trong lời văn Công ước thường rất mềm dẻo, hoặc uỷ quyền lại cho các Nghị định thư cụ thể hoá, nhưng những Nghị định thư này thường khó hoặc rất lâu được thông qua.[12] Những vấn đề mang tính quan điểm như phát triển bền vững được sử dụng như là công cụ để hoạch định chính sách quốc gia và thể chế hoá vào pháp luật trong nước căn cứ vào tình hình cụ thể, điều kiện kinh tế xã hội và khả năng tài chính của mỗi quốc gia ký kết.[13] Quy định về môi trường dễ cam kết nhưng khó thực hiện do không bức xúc và gây hậu quả nhãn tiền như đối với các tranh chấp về thương mại, đầu tư.

          Tuy nhiên, những quy định về trách nhiệm môi trường trong các hiệp định thương mại và xu hướng sử dụng các biện pháp thương mại để đạt được mục tiêu môi trường chính là xu hướng đang được áp dụng hiện nay. Dù còn có nhiều tranh cãi về mục tiêu đích thực của việc áp dụng các biện pháp thương mại thì đó cũng là một thực tiễn mà chúng ta cần phải nhận biết và có các biện pháp để đối mặt với nó một cách có hiệu quả. Tuy chưa bị áp dụng các chế tài thương mại để thoả mãn các yêu cầu về môi trường nhưng chúng ta đã được cảnh báo trước về khả năng này, chẳng hạn cảnh báo về dư lượng kháng sinh trong tôm xuất khẩu. Do đó, có thể thấy yêu cầu về trách nhiệm đối với môi trường trong luật quốc tế, tuy còn mờ nhạt, nhưng là một vấn đề có thật mà chúng ta phải đối mặt và thông qua các quy định về chuẩn mực, cần nhanh chóng loại bỏ nguy cơ này.

 

 

 

II. CÁC CƠ SỞ ĐỊNH HƯỚNG NHU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẾN NĂM 2010      

2.1 Các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển pháp luật về môi trường

Sự phát triển pháp luật ở mỗi quốc gia đều chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau. Riêng đối với Việt Nam, có thể nói, những chủ trương, đường lối và quan điểm chung của Đảng đã từ lâu trở thành kim chỉ nam cho các hoạt động không chỉ của các cơ quan đảng mà còn cả của bộ máy nhà nước và toàn thể nhân dân. Do đó, có thể nói cơ sở quan trọng để xác định nhu cầu phát triển pháp luật về môi trường đến năm 2010 ở Việt Nam trước hết phải là các văn kiện của Đảng.

Nhận thức rõ nguy cơ tác động tiêu cực của suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường đối với sự tiếp tục tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của đất nước, Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm của nước ta đã được xây dựng theo quan điểm mà Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 25/6/1998 đã chỉ rõ là "Coi công tác bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành; là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Quan điểm này cũng đã được thể hiện trong đường lối kinh tế của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới của thế kỷ 21 là "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh”. Như vậy, so với đường lối kinh tế của giai đoạn cách mạng trong các thập kỷ trước đây, yêu cầu về sự bền vững trong phát triển, đảm bảo bảo vệ và cải thiện môi trường cho phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững đã trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển của đất nước.

Phân tích tổng thể các văn kiện của Đảng cũng như một số chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội và phát triển bền vững cho thấy nhu cầu hoàn thiện pháp luật môi trường giai đoạn 2001-2010, định hướng đến 2020 được tập trung vào các vấn đề sau:

Về mục tiêu và nguyên tắc bảo vệ môi trường giai đoạn 2010, định hướng 2020.

          Mục tiêu của phát triển ở Việt Nam là phải đảm bảo tính bền vững. Để đạt được mục tiêu này, xét từ góc độ môi trường, là phải bao gồm việc khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường. Từ nay đến 2010: hạn chế mức gia tăng ô nhiễm, khắc phục tình trạng suy thoái và cải thiện chất lương môi trường; giải quyết một bước căn bản tình trạng suy thoái môi trường ở các khu công nghiệp, các khu dân cư đông đúc ở các thành phố lớn và một số vùng nông thôn; cải tạo và xử lý ô nhiễm môi trường trên các dòng sông, hồ ao, kênh mương. Nâng cao khả năng phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi đối với môi trường; ứng cứu và khắc phục có hiệu quả ô nhiễm môi trường do thiên tai gây ra. Khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao, bảo tồn thiên nhiên và giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động thực hiện các yêu cầu về môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế, hạn chế các ảnh hưởng xấu của quá trình toàn cầu hoá đến môi trường nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm phát triển bền vững đất nước.

          Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển, các văn kiện của Đảng đã quán triệt một hệ thống các nguyên tắc cơ bản như sau: Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới. Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Các định hướng lớn về bảo vệ và phát triển môi trường quốc gia 2010, định hướng 2020.

Những định hướng lớn về bảo vệ và phát triển môi trường được nêu tập trung tại Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến 2010, định hướng đến 2020. Cụ thể là:

Định hướng từ nay đến 2010.

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra các mục tiêu, định hướng đến 2010 là hạn chế mức gia tăng ô nhiễm; cải thiện chất lượng môi trường; bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao và đáp ứng các yêu cầu về môi trường để hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hoá. Cụ thể là:

- Hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, định hướng đưa ra các chỉ tiêu cụ thể là: 100% các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường; 50% các cơ sở sản xuất kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc Chứng chỉ ISO 14001; 30% hộ gia đình, 70% doanh nghiệp có dụng cụ phân loại rác thải tại nguồn, 80% khu vực công cộng có thùng gom rác thải; 40% các khu đô thị, 70% các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, thu gom 90% chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ, xử lý trên 60% chất thải nguy hại và 100% chất thải bệnh viện; An toàn hoá chất được kiểm soát chặt chẽ, việc sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường được hạn chế tối đa;  xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

- Cải thiện chất lượng môi trường: cơ bản hoàn thành việc cải tạo và nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước mưa và nước thải ở các đô thị và khu công nghiệp. Phấn đấu đạt 40% các đô thị có hệ thống tiêu thoát và xử lý nước thải riêng theo đúng tiêu chuẩn quy định; cải tạo 50% các kênh mương, ao hồ, đoạn sông chảy qua các đô thị đã bị suy thoái nặng; giải quyết cơ bản các điểm nóng về nhiễm độc đi-ô-xin; 95% dân số đô thị và 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 90% đường phố có cây xanh; nâng tỷ lệ đất công viên ở các khu đô thị lên gấp 2 lần so với năm 2000; 90% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn lao động và có cây trong khuôn viên thuộc khu vực sản xuất; đưa chất lượng nước các lưu vực sông đạt mức tiêu chuẩn chất lượng nước dùng cho nông nghiệp và nuôi trồng một số thuỷ sản.

- Bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao: phục hồi 50% các khu vực khai thác khoáng sản và 40% các hệ sinh thái đã bị suy thoái nặng; nâng tỷ lệ đất có rừng che phủ đạt 43% tổng diện tích đất tự nhiên, khôi phục 50% rừng đầu nguồn đã bị suy thoái và nâng cao chất lượng rừng; đẩy mạnh trồng cây phân tán trong nhân dân; nâng tỷ lệ sử dụng năng lượng sạch đạt 5% tổng năng lượng tiêu thụ hàng năm; nâng tổng diện tích các khu bảo tồn tự nhiên lên gấp 1,5 lần hiện nay đặc biệt là các khu bảo tồn biển và vùng đất ngập nước; phục hồi diện tích rừng ngập mặn lên bằng 80% mức năm 1990.

Đáp ứng các yêu cầu về môi trường để hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hoá: 100% sinh vật biến đổi có sản phẩm xuất khẩu áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001; 100% sinh vật biến đổi gen nhập khẩu vào Việt Nam được kiểm soát; loại bỏ hoàn toàn việc nhập khẩu chất thải nguy hại.

Những định hướng lớn đến năm 2020:

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra một số định hướng lớn sau:

- Ngăn chặn về cơ bản mức độ gia tăng ô nhiễm, phục hồi suy thoái và nâng cao chất lượng môi trường, bảo đảm phát triển bền vững đất nước; bảo đảm cho mọi người dân đều được sống trong môi trường có chất lượng tốt về không khí, đất, nước, cảnh quan và các nhân tố môi trường tự nhiên khác đạt chuẩn mực do Nhà nước quy định.

- Phấn đấu đạt một số chỉ tiêu chính như: 80% cơ sở sản xuất, kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc Chứng chỉ ISO 14001; 100% đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải để tái sử dụng, phấn đấu 30% chất thải thu gom được tái chế; 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch; Nâng tỷ lệ đất có rừng che phủ đạt 48% tổng diện tích tự nhiên của cả nước; 100% sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu và 50% hàng hoá tiêu dùng trong nội địa được ghi nhãn môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14021.

Các nhiệm vụ và giải pháp cơ bản:

Để thực hiện các mục tiêu và định hướng trên, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra một số nhiệm vụ và giải pháp lớn là:

Thứ nhất: phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm. Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua các biện pháp như: thực hiện đồng bộ các biện pháp về phòng ngừa ô nhiễm môi trường; xây dựng kế hoạch kiểm soát ô nhiễm cấp quốc gia, ngành và địa phương; áp dụng công nghệ sạch và thân thiện với môi trường; xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn môi trường quốc gia và các tiêu chuẩn môi trường ngành và nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động quản lý chất thải.

Thứ hai: khắc phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng như: xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; thực hiện các dự án khắc phục và cải tạo các điểm, khu vực, vùng bị ô nhiễm và suy thoái nặng; khắc phục hậu quả suy thoái môi trường do chất độc hoá học sử dụng trong chiến tranh trước đây gây nên; ứng cứu sự cố môi trường và khắc phục nhanh hậu quả ô nhiễm môi trường do thiên tai gây ra.

Thứ ba: bảo vệ và khai thác bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên: khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản; khai thác hợp lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên nước và bảo vệ tài nguyên không khí.

Thứ tư: bảo vệ và cải thiện môi trường các khu vực trọng điểm bao gồm các đô thị và khu công nghiệp; biển, ven biển và hải đảo; các lưu vực sông và vùng đất ngập nước; nông thôn và miền núi; di sản tự nhiên và di sản văn hoá.

Thứ năm: bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học gồm: bảo vệ và phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia; phát triển rừng và nâng diện tích thảm thực vật; bảo vệ đa dạng sinh học.

Đồng thời với việc xác định các nhiệm vụ cơ bản, Chiến lược bảo vệ môi trường cũng đề ra các giải pháp thực hiện các nhiệm vụ và định hướng bảo vệ môi trường như: Tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường; tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; tăng cường và đa dạng hoá đầu tư cho bảo vệ môi trường; tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về bảo vệ môi trường;đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.

 Các định hướng pháp luật môi trường cần ưu tiên phát triển giai đoạn đến 2010, định hướng đến 2020[14]:

Căn cứ vào các định hướng lớn nêu trên, các Chiến lược, chương trình đã xác định định hướng bảo vệ môi trường và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong một số lĩnh vực trọng điểm sau:

- Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.

- Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.

- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản.

- Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển.

- Bảo vệ và phát triển rừng.

- Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.

- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại.

- Bảo tồn đa dạng sinh học.

- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp phần phòng, chống thiên tai;

- Hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường.

Cũng qua các phân tích trên, có thể thấy ngoài các định hướng lớn về môi trường, các văn kiện của Đảng luôn luôn đề cập tới các yếu tố liên quan để đảm bảo thực hiện các định hướng đó. Các yếu tố liên quan đó bao gồm yếu tố kinh tế, yếu tố công nghệ và yếu tố con người.

Từ góc độ xây dựng hệ thống pháp luật, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020  cũng đề ra những nội dung quan trọng làm nền tảng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và xây dựng khung pháp luật về môi trường nói riêng. Chiến lược đưa ra năm quan điểm chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó ba quan điểm sau đây có nhiều mối liên quan tới môi trường là: quan điểm thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh; quan điểm phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa; và quan điểm xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.

Riêng đối với vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật về môi trường, Nghị quyết đặt ra yêu cầu “Hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ, phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.”.

          Trong số các giải pháp được Chiến lược xác định , giải pháp đầu tiên Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hoàn thiện pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về môi trường. Chúng ta đều nhận thức được rằng tuy môi trường là vấn đề cấp bách, nhưng trong nhiều trường hợp, những hành vi gây tác động xấu tới môi trường lại thường chỉ có hậu quả lâu dài mà ít gây ra các hậu quả hoặc tác động trực tiếp và rõ ràng tới phát triển kinh tế, tới chất lượng cuộc sống. Do đó, việc xác định môi trường là một lĩnh vực trọng điểm để ưu tiên đầu tư thường bị trì hoãn hoặc thiếu quan tâm đúng mức. Việc chiến lược phát triển một số ngành, lĩnh vực hoặc địa phương chưa đề cập một cách thích đáng tới vấn đề môi trường và chưa đưa ra được các giải pháp bảo vệ và phát triển môi trường chính là một bằng chứng của nhận thức còn chưa rõ ràng về tính chất ưu tiên, trọng điểm của vấn đề môi trường. Mặt khác, ngay trong hệ thống pháp luật về môi trường, việc xác định các ưu tiên xây dựng mới hoặc sửa đổi, hoàn thiện cho từng nội dung, từng chế định liên quan đến những yếu tố môi trường khác nhau.( như phân tích ở trên) cũng  đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp phải có quan điểm rõ ràng, thống nhất.

2.2 Các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương cụ thể

Ngoài chiến lược tổng thể được thảo luận và biểu quyết thông qua tại Đại hội Đảng và được coi là văn kiện chính thức của Đảng nêu trên, trong giai đoạn phát triển  từ năm 1995 trở lại đây, song song với việc xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung cho từng giai đoạn hàng năm hoặc năm năm, việc xây dựng các chiến lược phát triển đã và đang dần dần trở thành một thói quen quản lý của các cơ quan nhà nước Việt Nam. Các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực; các chiến lược phát triển khu vực và địa phương đã lần lượt được xây dựng và ban hành. Ở các mức độ khác nhau, những chiến lược này đã thể hiện tương đối rõ định hướng phát triển dài hạn của ngành, lĩnh vực hoặc địa phương mình. Trong các chiến lược đó, yếu tố bảo vệ môi trường đang dần dần xuất hiện và trở thành một bộ phận không thể thiếu.

Các chiến lược quan trọng, có nhiều liên quan tới lĩnh vực môi trường đã được phê duyệt hoặc ban hành trong thời gian qua, ngoài Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, còn bao gồm hàng chục Chiến lược, chương trình, mục tiêu quốc gia trên các lĩnh vực trọng điểm của quốc gia giai đoạn 2010, định hướng đến 2020 như: Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020, Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2010, Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001-2010, Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến 2010, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp dệt, cơ khí, ô tô, thép Việt Nam, v.v. (xem phụ lục). Ngoài các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực kể trên, chiến lược hay kế hoạch tổng thể phát triển của các địa phương, đặc biệt là của các khu vực cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện định hướng môi trường. Định hướng chiến lược của Đảng đã nêu rõ trong 10 năm tới, phát triển vùng lớn tập trung vào những khu vực quan trọng sau:

1. Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

2. Miền Đông Nam Bộ và các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

3. Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm            miền Trung

4. Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc)

5. Tây Nguyên

6. Đồng bằng sông Cửa Long

Đối với mỗi vùng, yêu cầu chung là phải có Phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội để lấy đó làm cơ sở cho quy hoạch chung phát triển vùng.

Qua nghiên cứu gần 40 Chương trình, Quy hoạch, Mục tiêu và Chiến lược một số ngành, lĩnh vực, vùng, miền trọng điểm của quốc gia đến 2010, định hướng đến 2020[15] cho thấy gần như trên tất cả các ngành, lĩnh vực, vùng, miền, trọng điểm chúng ta đều đã có quy hoạch tổng thể. Mặc dù mục tiêu, định hướng, tầm nhìn của từng loại chiến lược, chương trình có sự khác nhau về cấp độ, về khả năng dự báo, song nhìn chung nội dung của các quy hoạch này về cơ bản phù hợp với yêu cầu của phát triển môi trường, các yêu cầu về bảo vệ môi trường đã được chú trọng đáng kể trong các định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, vùng, miền. Cụ thể là:

a. Đối với Nghị quyết của Đảng, của Bộ Chính trị (như Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 2001-2010, Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, Đồng bằng sông cửu Long... đến năm 2010) đã thể hiện khá rõ yêu cầu phát triển bền vững. Trong đó, các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng luôn luôn phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái luôn được lồng gép trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội.

b. Trong các Chương trình, Chiến lược liên quan trực tiếp đến bảo vệ các thành tố môi trường (Chiến lược quản lý hệ thống Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, Chiến lược quản lý chất thải rắn và khu đô thị công nghiệp đến 2020...) ngoài việc nêu lên các định hướng, yêu cầu cụ thể về bảo vệ môi trường, các Chương trình, Chiến lược này còn đề ra được các yêu cầu, định hướng, giải pháp cụ thể về hoàn thiện khung pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực đó. Chẳng hạn:

+ Chiến lược quản lý chất thải rắn và khu đô thị công nghiệp đến 2020 đề ra giải pháp hoàn thiện khung pháp luật là: Rà soát và ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn luật trong lĩnh vực quản lý chất thải rắn, nâng cao hiệu lực thi hành Luật Bảo vệ môi trường; Ban hành "Quy chế quản lý chất thải rắn" và "Quy chế quản lý chất thải nguy hại", cụ thể hoá việc thực hiện những điều khoản thuộc lĩnh vực quản lý chất thải rắn trong Luật Bảo vệ môi trường; Lập quy hoạch mạng lưới các cơ sở xử lý chất thải rắn y tế và chất thải rắn nguy hại phát sinh từ các khu công nghiệp trong toàn quốc, làm cơ sở để lập và phê duyệt các dự án đầu tư, tránh tình trạng chồng chéo, trùng lặp, lãng phí trong đầu tư; Ban hành tiêu chuẩn thiết kế bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh; đưa chỉ tiêu đất sử dụng để xử lý chất thải rắn vào quy chuẩn quy hoạch đô thị;

+ Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến 2010 đã đề ra yêu cầu xây dựng khung pháp lý về quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên là:Xây dựng khung pháp lý thống nhất về bảo vệ đa dạng sinh học và quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền và tăng cường thực thi các văn bản pháp qui về bảo vệ đa dạng sinh học và quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên đã ban hành. Rà soát và đề xuất bổ sung các văn bản dưới luật để thực thi có hiệu lực các luật về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã ban hành. Đơn giản hoá và tăng cường hiệu lực của các quy chế đã và sẽ ban hành. Nâng cao năng lực của các tổ chức thừa hành pháp luật và phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm lâm, lực lượng bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong việc thi hành các luật bảo vệ tài nguyên thiên nhiên đã ban hành.Rà soát các qui định về xử phạt hành chính để đề nghị sửa đổi mức phạt đối với các vi phạm về bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác nhau (như: rừng, nước, thuỷ sản, môi trường), tránh những chênh lệch, bất hợp lý về mức phạt đã quy định ở các lĩnh vực khác nhau. Xem xét các hình thức phạt phù hợp khác như là một giải pháp thay thế cho việc phạt tiền đối với người nghèo.Nghiên cứu cải tiến chế độ tiền lương và cơ chế bồi thường thương tật cho lực lượng thừa hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, nhất là ở các vùng có nhiều khó khăn.Hoàn thiện và hệ thống hoá các văn bản pháp qui đã ban hành và việc theo dõi tình hình thực thi các văn bản đó.

+ Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020 đã đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cụ thể như:Ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hoá (các cơ quan của Chính phủ trong phạm vi quyền hạn của mình cần sớm ban hành các chính sách liên quan về thủ tục cấp phép, về đất đai, về thuế, phí, lệ phí, tín dụng, bảo hiểm nhằm khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia phát triển cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn theo định hướng của Nhà nước); Hệ thống văn bản quản lý: trước năm 2005 cần hoàn thiện, bổ sung và xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật, các quy chế, quy định, tiêu chuẩn và hướng dẫn thực hiện Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân và các văn bản pháp luật khác; hình thành cơ chế, chính sách vừa đáp ứng nhu cầu của người dân, vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên xã hội của từng vùng: miền núi, đồng bằng sông Hồng, khu vực ven biển và các hải đảo, đồng bằng sông Cửu Long...; xây dựng hệ thống văn bản pháp quy để bảo vệ lợi ích của người sử dụng nước sạch và dịch vụ vệ sinh trong cơ chế thị trường.

c. Trong các Chương trình, Mục tiêu, Chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực trọng điểm quốc gia về kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ ban hành thì yêu cầu phát triển bền vững cũng đã được đặt ra như một nguyên tắc cơ bản. Đặc biệt trên một số lĩnh vực như: nuôi trồng thủy sản, ngành thép, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành vật liệu nổ công nghiệp... đều đã đưa ra các giải pháp kỹ thuật cần thiết nhằm bảo vệ và đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn về môi trường. Chẳng hạn, Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thép đến năm 2010 đã đề ra các định hướng phát triển công nghệ, sử dụng công nghệ hiện đại, tự động hóa ở mức cao, tiêt kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, điện năng, đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường, thay thế công nghệ lạc hậu, kém hiệu quả và tác động xấu đến môi trường. Quy hoạch tổng thể ngành Công nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam đến 2010 đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể nhằm giảm thiểu mức độ ô nhiễm môi trường như tổ chức lại sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng thủ công ở các địa phương, nhằm giảm tối đa sử dụng đất canh tác và xây dựng các lò gạch thủ công không theo quy hoạch gây ô nhiễm môi trường tại các vùng ven đô thị, thành phố, thị xã, thị trấn. Xóa bỏ việc sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công ở ven các đô thị trước năm 2005, các vùng khác trước năm 2010. Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020 đã đưa ra các chỉ tiêu kỹ thuật cụ thể (về tiêu hao điện năng, nguyên liệu, nồng độ bụi của khí thải, cường độ tiếng ồn...) đối với từng loại cơ sở sản xuất xi măng....

Nghiên cứu cũng cho thấy bên cạnh các chiến lược, quy hoạch hoặc kế hoạch tổng thể đã đề cập và giải quyết vấn đề môi trường, vẫn còn một số quy hoạch, chiến lược lại chưa chú trọng đúng mức đến yêu cầu bảo vệ và phát triển môi trường nói riêng và bảo đảm phát triển bền vững nói chung. Chẳng hạn như Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sông Việt Nam đến 2020, Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến 2020, Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến 2010 và định hướng phát triển đến 2020... là những ngành trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường, có khả năng và nguy cơ gây ô nhiễm lớn đến môi trường khí, môi trường nước, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học (đối với các quy hoạch phát triển đường bộ qua các khu sinh thái, khu bảo tồn thiên nhiên...) nhưng trong các quy hoạch này lại chưa tính đến các giải pháp công nghệ, các tiêu chuẩn về tiếng ồn, khí thải, chất thải của các phương tiện giao thông vận tải, các yêu cầu cụ thể về đánh giá tác động môi trường đối với các tuyến đường qua các khu sinh thái, khu bảo tồn thiên nhiên... Do vậy, yêu cầu bảo vệ và phát triển môi trường, phục vụ phát triển bền vững trong các quy hoạch này là chưa đảm bảo.

2.3. Các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã hoặc dự kiến sẽ ký kết, tham gia

Trong thời gian qua, Việt Nam đã ký kết và thực hiện nghiêm chỉnh các công ước quốc tế, đó là các công ước sau:

T/T

Tên công ước

Ngày                Việt Nam là thành viên

1.      

Công ước liên quan đến bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên thế giới

19-10-1982

2.      

Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân

29- 09 – 1987

3.      

Công ước về hỗ trợ trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu về phóng xạ.

29- 09 – 1987

4.      

Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cu trú của các loài chim nước, RAMSAR

20 - 09- 1991

5.      

Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL, 1973

29- 08 – 1991

6.      

Công ước về buôn bán quốc tế những loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa (Công ước CITES )

20- 01 – 1994

7.      

Nghị định thư Montereal về các chất làm suy giảm tầng ô zôn

26-01 – 1994

8.      

Công ước Viên về bảo vệ tàng ô zôn

26 - 4 – 1994

9.      

Công ước Liên hợp quốc về luật biển

05 - 7 – 1994

10.  

Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu

16 -11- 1994

11.  

Công ước về đa dạng sinh học

16- 11 – 1994

12.  

Công ước về kiểm soát việc vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại và việc loại bỏ chúng (Công ước Basel )

13 - 3 – 1995

13.  

Công ước chống sa mạc hóa

11- 1998

14.  

Tuyên ngôn quốc tế của Liên hợp quốc về sản xuất sạch hơn

22 -09 - 1999

15.  

Công ước Stockholm về các chất gây ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy

23- 01 - 2001

          Có thể tạm chia các Công ước này thành sáu nhóm.

Nhóm thứ nhất gồm 02 Công ước liên quan đến hạt nhân và sự cố hạt nhân, đó là Công ước về thông báo sớm các sự cố hạt nhân (tham gia 29-9-1987); và Công ước về hỗ trợ trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu về phóng xạ (tham gia 29-9-1987).

Nhóm thứ hai gồm 03 Công ước liên quan đến môi trường không khí, cụ thể là Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn (tham gia 26-1-1994); Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn (tham gia 26-1-1994); và Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (tham gia 16-11-1994).

Nhóm thứ ba gồm 02 Công ước liên quan đến bảo vệ môi trường biển là Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL (tham gia 29-8-1991); và Công ước Liên hợp quốc về luật biển (tham gia 5-7-1994).

          Nhóm thứ tư về môi trường đất, trước hết có Công ước chống sa mạc hoá (tham gia 8-1998) điều chỉnh trực tiếp các vấn đề liên quan đến chống suy thoái môi trường đất và sa mạc hoá đất. Ngoài ra, môi trường đất còn được điều chỉnh ở mức độ này hay mức độ khác ở các công ước khác về môi trường mà Việt Nam tham gia được liệt kê trong mục 2 này. 

Nhóm thứ năm gồm 04 Công ước liên quan đến bảo tồn, duy trì di sản, động thực vật quý hiếm và nguồn gen, cụ thể là Công ước liên quan đến bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên thế giới (tham gia 19-10-1982; Công ước về vùng đất ngập nước có tầm quan trọng trong quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim nước RAMSAR (tham gia 20-9-1989); Công ước về buôn bán quốc tế những loài động thực vật có nguy cơ bị đe doạ CITES (tham gia 20-1-1994); và Công ước về đa dạng sinh học (tham gia 16-11-1994).  

Nhóm tứ sáu về chất thải nguy hại, cụ thể là Công ước về kiểm soát việc vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại và việc loại bỏ chúng BASEL (tham gia 13-3-1995).

 

Việc ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trên thể hiện nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước trong việc tham gia các hoạt động chung, mang tính toàn cầu về bảo vệ và phát triển môi trường.[16]

Khi tính toán việc ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế liên quan tới môi tường, cần có nhận thức rõ ràng rằng các công ước này đều có quy định về nghĩa vụ của các quốc gia trong việc sử dụng môi trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển của mình. Theo Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, có tổng cộng 6 nghĩa vụ chung về bảo vệ môi trường bao gồm: nghĩa vụ không gây hại cho môi trường, nghĩa vụ ngăn ngừa và giảm đến mức tối đa những tổn hại gây cho môi trường, nghĩa vụ đề phòng, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường, nghĩa vụ hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và nghĩa vụ thông tin

Nghĩa vụ không gây hại cho môi trường.

Nghĩa vụ không gây hại cho môi trường là  một trong những nội dung quan trọng nhất của nghĩa vụ chung về bảo vệ môi trường. Nội dung cơ bản của nghĩa vụ này là các quốc gia phải  bảo đảm rằng các hoạt động trong  phạm vi quyền tài phán hoặc kiểm soát của mình không gây hại đáng kể cho môi  trường của các quốc gia khác hoặc cho môi trường của những vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia. Các hoạt động nói trên bao gồm cả các hoạt động của nhà nước và các hoạt động tư nhân.

Việc hình thành nghĩa vụ này gắn liền với vụ Trọng tài Trail Smelter giải quyết tranh chấp giữa  Canada và Mỹ về việc khí thải từ một lò luyện kim bên lãnh thổ Canada bay sang lãnh thổ của Mỹ, gây ra mưa a-xít ở bang Washington, làm  thiệt hại đáng kể tài sản và sức khoẻ của công dân Mỹ. Trên cơ sở phán quyết rằng "không quốc gia  nào có quyền sử  dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình gây hại bằng cách thải khí vào hoặc tới lãnh thổ của quốc gia khác, Toà án trọng tài trên đã buộc Canada phải bồi thường những tổn hại mà họ đã gây ra cho Mỹ."[17] Vụ này đã được trích dẫn nhiều lần và được coi như là một vụ điển hình trong lĩnh vực môi trường.

Nghĩa vụ không gây hại đáng kể cho môi trường đã được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế song phương, khu vực hoặc đa phương. Điều 3 của  Công ước năm 1992 của Liên  hợp quốc về  đa dạng sinh  học qui định  các quốc  gia thành  viên có  "trách nhiệm đảm bảo rằng các hoạt động trong  phạm  vi  thẩm  quyền  hay  kiểm soát của họ không làm phương hại đến  môi trường  của các  quốc gia  khác hoặc  các khu vực không thuộc quyền tài phán quốc gia". Điều 2.1 Công ước năm 1985 về bảo vệ tầng ô-zôn qui định: "Các quốc gia thành viên sẽ tiến hành những biện pháp thích hợp phù hợp với các điều khoản của  Công ước này và  của các Nghị định  thư có hiệu lực mà họ đã tham gia để bảo vệ sức khoẻ con  người và môi trường, chống lại những ảnh hưởng có hại phát  sinh hoặc có thể phát sinh  từ những hoạt động của con người làm thay đổi hoặc có thể làm thay đổi tầng ô zôn. Điều 6.3 của Công ước về việc bảo vệ  di sản văn hoá và tự nhiên của thế giới năm 1972 do UNESCO thông qua qui định: "Các quốc gia thành viên của Công ước  cam kết không dùng bất cứ biện pháp nào có thể phương hại trực tiếp hoặc gián tiếp  đến di sản văn hoá và tự nhiên nêu trong các điều 1 và 2, nằm trên lãnh thổ của các quốc gia thành viên khác".

Nghĩa vụ không gây hại cho môi trường đã được khẳng định nhiều lần trong các văn bản pháp lý quốc tế của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế. Trong Tuyên bố Stockholm của Hội nghị Liên  Hợp Quốc về Môi  trường con người năm  1972 (điều 21) và Tuyên bố Rio của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi  trường và Phát triển năm 1992 (điều 2) được tất cả các quốc gia tham dự thông qua, nghĩa vụ trên được thể hiện như sau: "Phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, các quốc gia có trách nhiệm bảo đảm rằng các hoạt động trong phạm vi quyền tài phán hoặc kiểm soát của mình không  được gây hại cho môi trường của các quốc gia khác hoặc của các khu vực nằm ngoài giới hạn của quyền tài phán quốc gia".[18]

Cần lưu ý là không một hoạt động nào của con người lại không có tác động đến môi trường và việc cấm gây ra mọi tổn hại về môi trường có thể cản trở không cần thiết đến các hoạt động phát triển của bản thân quốc gia đó và các quốc gia láng giềng. Do đó, luật pháp quốc tế về bảo vệ môi trường không yêu cầu loại bỏ mọi tổn hại cho môi trường mà chỉ ngăn chặn những tổn hại đáng kể cho môi trường mà thôi.

Nghĩa vụ ngăn ngừa và giảm đến mức tối đa những tổn hại gây cho môi trường.

Ngăn ngừa và làm giảm đến mức độ tối đa những tổn hại gây cho môi trường là hai nội dung quan trọng của nghĩa vụ chung về bảo vệ môi trường. Nghĩa vụ ngăn  ngừa tổn hại gây cho môi trường nhằm mục đích ngăn ngừa những tổn hại có thể nảy sinh từ việc làm thay đổi hoặc gây tác động có hại cho môi trường. Nghĩa vụ  làm giảm đến mức tối đa các tổn hại gây cho môi trường nhằm mục đích làm giảm đến mức tối  đa những tổn hại cụ thể đã xảy ra.

Nghĩa vụ ngăn ngừa ngày càng được công nhận rộng rãi trong các điều ước quốc tế về môi trường vì lý do là ngăn chặn tổn hại  gây ra cho môi trường hữu hiệu hơn và đỡ tốn kém hơn việc khắc phục những tổn hại đã gây ra cho môi trường. Các điều ước quốc tế thường yêu cầu các quốc gia cam kết thông qua các biện pháp ngăn ngừa và tiến hành đánh giá tác động môi trường. Nghĩa vụ này bao gồm việc  các quốc gia phải có trách nhiệm tiến hành những biện pháp thực tiễn để tránh không gây hại cho môi trường của các quốc gia khác. Điều 194 Công ước luật biển năm 1982 qui định: "Các quốc gia, dù là cá nhân hay tập thể, sẽ tiến hành mọi biện pháp cần thiết phù hợp với Công ước luật biển năm 1982 để ngăn chặn, giảm bớt hoặc kiểm soát ô nhiễm môi trường biển từ bất kỳ nguồn nào và tiến hành, vì mục đích này, những biện pháp thực tiễn mà họ có được và phù hợp với khả năng của họ". Tương tự như vậy, trong một cố gắng nhằm làm giảm ô nhiễm môi trường, Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và tiêu huỷ chúng yêu cầu các quốc gia phải "quản lý thích  hợp những chất thải độc hại và các chất thải  khác" (điều 2.8) và phải "tiến hành mọi biện pháp thực tiễn để bảo đảm rằng các chất thải độc hại hoặc các chất thải khác được quản lý sao cho không phương hại đến sức khoẻ của con người và môi trường."[19]  Điều 2.1 của Công ước Viên năm 1985 về chống suy giảm tầng ô-zôn qui định: "Các thành viên của Công ước sẽ tiến hành những  biện pháp phù  hợp với các  qui định của  Công ước này và của các Nghị định  thư đã có hiệu lực  mà họ đã tham gia  để bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường chống lại những ảnh hưởng có hại phát sinh hoặc có thể phát sinh  từ những hoạt động  của con người làm  thay đổi hoặc dễ làm thay đổi tầng ô-zôn.”

Cần lưu ý là các quốc gia không chỉ có nghĩa vụ ngăn ngừa và làm giảm đến mức tối đa những tổn hại đáng kể gây cho môi trường mà còn có nghĩa vụ ngăn ngừa rủi ro về môi trường có thể gây hại cho các quốc gia khác. Tất nhiên, luật pháp quốc tế không yêu cầu các quốc gia phải ngăn ngừa mọi rủi ro về môi trường mà chỉ ngăn ngừa những rủi ro có thể gây ra những thiệt hại đáng kể cho môi trường của các quốc gia khác hay môi trường của những vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia. Điều này đã được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế như Công ước Pari năm 1974 về ngăn chặn ô nhiễm  biển từ các nguồn từ đất liền; Công ước Barcelona năm 1976 về chống ô nhiễm Biển Địa Trung Hải; Hiệp định về Kế hoạch hành động cho việc quản lý tốt về mặt môi trường của hệ thống sông Zambezi;[20] và Các sửa đổi năm 1987 của Hiệp ước Rome của Cộng đồng châu  Âu và Công ước năm 1990 của Tổ  chức biển  quốc tế  (IMO) về việc sẵn  sàng ứng phó với ô nhiễm dầu.

Nghĩa vụ đề phòng.

Nghĩa vụ đề phòng là một trong những nghĩa vụ rất quan trọng để tránh những tổn hại đáng kể có thể gây cho môi trường nhằm đạt được sự  phát triển bền vững. Nội dung của nghĩa vụ này đòi hỏi các quốc gia phải tiến hành điều chỉnh việc sử dụng các chất hoặc việc tiến hành các hoạt động có thể gây tổn hại đáng kể cho môi trường ngay cả trong trường hợp không có chứng cứ rõ ràng là các chất hoặc các hoạt động đó có thể gây tổn hại đáng kể cho môi trường. Các quốc gia không được coi việc thiếu hiểu biết về môi trường là một lý do để không thực hiện các biện pháp đề phòng.

Nghĩa vụ đề phòng đã được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế và các văn bản pháp lý quốc tế của các tổ chức và hội nghị quốc tế. Điều 3.3 của Công ước khung của Liên hợp quốc năm 1992 về khí hậu biến đổi qui định: "Các thành viên Công ước phải thực hiện những biện pháp đề phòng để dự đoán trước, ngăn ngừa hoặc làm giảm những nguyên nhân dẫn đến khí hậu biến đổi và làm giảm nhẹ những ảnh  hưởng có hại của nó, ở những nơi có các mối đe dọa bị thiệt  hại nghiêm trọng hoặc không thể đảo ngược, việc thiếu sự chắc chắn về khoa học không được coi là  lý do để trì hoãn những biện pháp đó.” Công ước Bamako năm 1991 về việc kiểm soát các chất thải độc hại coi việc áp dụng những công nghệ sản xuất sạch như là một biện pháp đề phòng. Công ước qui định: "Mỗi quốc gia thành viên sẽ cố gắng thông qua và thực hiện cách tiếp cận ngăn chặn và phòng ngừa đối với các vấn đề môi trường trong đó có việc ngăn chặn đưa vào môi trường các chất có thể gây  hại cho con người hoặc môi trường mà không cần đợi đến lúc có được những chứng cứ khoa học về những nguy hại đó. Các quốc gia thành viên sẽ hợp tác với nhau trong việc tiến hành các biện pháp thích hợp để thực hiện nguyên tắc phòng ngừa nhằm ngăn chặn ô nhiễm qua việc áp dụng các công nghệ sản xuất sạch hơn.[21]

Nghĩa vụ đề phòng đã được ghi nhận trong một số văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế liên chính phủ và phi chính phủ như Các sửa đổi năm 1990 của Nghị định thư Montreal năm 1990; Tuyên bố của Cuộc họp cấp bộ trưởng của Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về khí hậu biến đổi năm 1990;[22] Quyết định số 15/27 của Hội đồng quản trị UNEP năm 1989.[23] Tuyên bố Rio của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển năm 1992 ghi nhận nghĩa vụ này như sau: "Khi có khả năng xảy ra những tổn hại nghiêm trọng hoặc không thể đảo ngược được cho môi trường,  việc thiếu chứng cứ khoa học không được coi là lý do cho việc trì hoãn thực hiện những biện pháp có hiệu quả để ngăn chặn sự xuống cấp về môi trường."[24]

Nghĩa vụ đánh giá tác động đối với môi trường.

Trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, đã xuất hiện một nghĩa vụ mới trong nhiều công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, đó là, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường. Nội dung của nghĩa vụ này là các quốc gia thành viên của các công ước nói trên phải tiến hành các quá trình  kiểm soát, nghiên cứu, trao đổi thông tin để nâng cao hiểu biết hơn về thực trạng môi trường và mức độ tác động của con người đối với môi trường  nhằm trên cơ sở đó tìm ra giải pháp làm giảm những tổn  hại mà tác động đó gây ra cho môi trường.

Tuy các quốc gia nhất trí chấp nhận nghĩa vụ về đánh giá tác động môi trường nhưng họ không nhất trí được nội dung của cụ thể của nghĩa vụ này. Một số nước phát triển muốn trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế áp đặt nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường  lên các nước đang phát triển trên cơ sở những tiêu chuẩn môi trường của họ (là các tiêu chuẩn  mà trong nhiều trường hợp không thích hợp với các nước đang phát triển). Trong khi đó, các nước đang phát triển cho rằng làm như vậy là can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và vi phạm chủ quyền quốc gia.

Nghĩa vụ đánh giá  tác động  môi trường là một  nội dung rất quan trọng của nghĩa vụ chung về bảo vệ môi trường. Ngày nay, số điều ước quốc tế ghi nhận nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường ngày càng tăng lên. Công ước của Liên hợp quốc năm 1992 về đa dạng sinh học qui  định các quốc gia thành viên phải "đưa ra những thủ tục thích hợp yêu cầu đánh giá về tác động môi trường đối với tất cả những dự án được hoạch định có thể có những tác động có hại đối với sự đa dạng sinh học nhằm mục đích tránh hoặc làm giảm đến mức tối đa những tác động đó, và khi thích hợp, cho phép công chúng tham gia vào quá trình này" (điều 14). Công ước năm 1991 về đánh giá tác động môi trường trong trường hợp liên quan đến hai hay nhiều quốc gia qui định khi tiến hành mỗi dự án phát triển các quốc gia thành viên phải đánh giá tác động môi trường của dự án đó đối với các quốc gia thành viên. Công ước luật biển năm 1982 cũng qui  định nghĩa vụ này như sau: “Khi các quốc gia có cơ  sở hợp lý để tin rằng khi việc tiến hành những hoạt động được hoạch định dưới quyền tài phán hay kiểm soát của họ có thể gây ra những ô nhiễm đáng kể hoặc những thay đổi có hại đáng kể cho môi trường biển, các quốc gia đó sẽ, trong khả năng cho phép, đánh giá những tác động có thể có của những hoạt động này đối với môi trường biển và sẽ phải báo cáo về các kết quả của những đánh giá đó" (điều 206). Luật của Cộng đồng châu Âu về nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường có quy định tương đối chi tiết về nghĩa vụ này. Chỉ thị của Hội đồng châu  Âu năm 1985 về đánh giá tác động của các dự án công cộng và tư  nhân đối với môi trường xác định rõ loại dự án nào cần đánh giá tác động môi trường và loại thông tin nào phải đưa vào báo cáo về đánh giá tác động môi trường.[25] Công ước Espoo về nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của Cộng đồng châu Âu năm 1991 còn qui định nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường không chỉ đối với các dự án mà cả đối với các chính sách, kế hoạch và các chương trình hành động của các quốc gia thành viên.

Nghĩa vụ hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường.

Hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo vệ môi trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì nếu không có sự hợp tác giữa các quốc gia thì không thể bảo vệ một cách hữu hiệu môi trường quốc tế. Nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia về việc bảo vệ môi trường bao gồm một số  nội dung chính sau đây :

- Hợp tác nhằm thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ môi trường theo các cam kết quốc tế của các quốc gia trong các điều ước quốc tế về môi trường mà các quốc gia đó là thành viên và các nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế nhằm: đạt được việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên thiên nhiên được hai hay nhiều quốc gia cùng chia sẻ; giảm đến mức tối đa các tác động bất lợi cho môi trường; ngăn chặn và giải quyết hoà bình các tranh chấp liên quan đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hoặc các tác động có hại cho môi trường.

- Hợp tác để trợ giúp lẫn nhau trong các trường hợp khẩn cấp. Điều 199 của Công ước luật biển năm 1982 quy định: “Trong các trường hợp (khẩn cấp) đã nêu ở điều 198, các quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng, theo khả năng của mình, và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền sẽ hợp tác với nhau đến mức cao nhất nhằm loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm và nhằm ngăn ngừa và làm giảm đến tối đa những tổn hại đáng kể cho môi trường. Nhằm mục đích này, các quốc gia cần cùng nhau soạn thảo và xúc tiến các kế hoạch để đối phó với tình trạng khẩn cấp.”[26] Một số điều ước quốc tế trong các lĩnh vực môi trường khác như môi trường nước trên đất liền, môi trường không khí, sử dụng năng lượng hạt nhân cũng có những quy định tương tự như điều 199 của Công ước luật biển năm 1982.

- Hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và quan sát có hệ thống môi trường. Nhiều điều ước về môi trường đã đưa ra những điều khoản đặc biệt quy định về việc hợp tác nghiên cứu khoa học và quan sát có hệ thống môi trường. Hợp tác thuộc dạng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc chống ô nhiễm môi trường biển, môi trường nước, trong việc nghiên cứu những thay đổi trong khí quyển và trong việc bảo tồn những di sản thiên nhiên và văn hoá.

- Hợp tác trong việc xây dựng những quy định pháp lý thống nhất về bảo vệ môi trường. Điều 197 của Công ước luật biển năm 1982 quy định: “Các quốc gia hợp tác trên phạm vi thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các quy tắc và các quy phạm pháp lý, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang tính chất quốc tế phù hợp với Công ước để bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, có tính đến các đặc điểm có tính chất khu vực.” Hợp tác trong việc xây dựng những quy định pháp lý thống nhất về môi trường là một biện pháp quan trọng để phối hợp có hiệu quả các hoạt động của các quốc gia. Nhiều điều ước quốc tế trong các lĩnh vực môi trường khác cũng có những quy định tương tự như trên.

- Hợp tác trong lĩnh vực thông tin là một nội dung quan trọng của nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực môi trường bởi vì không có trao đổi thông tin giữa các quốc gia thì không thể tiến hành hợp tác quốc tế (nội dung này sẽ được phân tích kỹ hơn trong Phần sau về nghĩa vụ thông tin).

Nghĩa vụ thông tin.

Nghĩa vụ thông tin là một nội dung rất quan trọng của nghĩa vụ chung về bảo vệ môi trường. Nghĩa vụ thông tin  là hệ quả của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia theo đó các quốc gia gây ô nhiễm phải tạo điều kiện để các quốc gia nạn nhân có cơ hội để kịp thời  tránh những thiệt hại sẽ gây ra chứ không phải chỉ đơn giản là gánh chịu các thiệt hại đó. Trong thực tế, nghĩa vụ trao đổi thông tin chủ yếu liên quan đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên do hai hay nhiều quốc gia cùng chia sẻ có thể mang lại những tác động có hại về môi trường. Nội dung của nghĩa vụ này là các quốc gia cùng sử dụng những tài nguyên thiên nhiên thuộc về hai hay nhiều quốc gia có nghĩa vụ phải cung cấp cho nhau những thông tin thích hợp và sẵn có về những tác động đó một cách nhanh chóng theo yêu cầu của quốc gia có thể bị tác động. Dưới đây là một số nội dung của nghĩa vụ thông tin được ghi nhận trong thực tiễn điều ước và thực tiễn quốc gia:

Nghĩa vụ trao đổi thông tin chung.

Nội dung của nghĩa vụ trao đổi thông tin chung bao gồm việc trao đổi các  thông tin  về: tình  trạng tự nhiên của nguồn tài nguyên thiên nhiên nói trên và tình trạng môi trường của biển, không khí v.v; bản chất và mức độ của những thiệt hại về môi trường đã thực sự xảy ra; các kế hoạch được hoạch định có thể kéo theo các rủi  ro về môi trường  (hay nói một cách  cụ thể hơn là những thông tin về việc đánh giá tác động môi trường); việc thực hiện các điều ước quốc tế về môi trường; và các tình trạng khẩn cấp v.v.

Năm 1973,  Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua một nghị quyết liên quan đến việc hợp tác trong lĩnh vực môi trường của các  nguồn tài nguyên thiên nhiên được chia sẻ  bởi hai hay nhiều quốc gia. Nghị quyết tuyên bố hợp tác quốc tế phải dựa trên cơ sở một hệ thống thông tin và tham khảo trước trong khuôn khổ các quan hệ giữa các quốc gia liên quan nhằm đạt được việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên này sao cho không làm thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các quốc gia  khác. Nghị quyết cũng yêu cầu Hội đồng quản trị của Chương trình Môi trường Liên  Hợp quốc (UNEP)  phải tuân thủ hoàn toàn khuyến nghị này và báo cáo cho Đại  hội đồng Liên hợp quốc về các biện pháp thực hiện nghị quyết. Hiến chương  của Liên hợp quốc về các quyền và nghĩa vụ kinh tế của các quốc gia cũng nhắc lại nguyên tắc này.[27]

Hầu hết các điều ước quốc tế về các lĩnh vực môi trường đều có những qui định chung yêu cầu các quốc gia thành viên hợp tác trong việc trao đổi những thông tin thích hợp trong đó có các thông tin liên quan đến việc thực hiện các điều ước quốc tế về môi trường. Trong lĩnh vực môi trường không khí, Công ước Viên năm 1985 về chống suy giảm tầng ô-zôn qui định các quốc gia có nghĩa  vụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi những tư liệu khoa học, kỹ thuật, kinh tế, xã hội và thương mại cũng như những thông tin về pháp lý.[28] Trong lĩnh vực môi trường biển,  một số điều ước quốc tế quan trọng như hai Công ước Luân Đôn năm 1972 và năm 1973 do Tổ chức biển quốc tế (IMO) soạn thảo có những qui định cụ thể về nghĩa vụ thông tin chung. Hai Công ước này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì chúng có phạm vi áp dụng trên phạm vi toàn cầu. Điều 8 của Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu được ký kết năm 1973 qui định các quốc gia có nghĩa vụ thông báo ngay lập tức tai nạn trên biển có liên quan đến các chất độc hại. Mục đích của qui định này là thông báo kịp thời cho các quốc gia có thể  bị tác động có hại do tai nạn nói trên nói trên gây ra. Công ước năm 1972 về việc thải các chất thải trên biển qui định các quốc gia có nghĩa vụ phải thông báo cho IMO và các quốc gia thành viên khác rõ bản chất và số lượng chất thải, việc cấp phép được thải, nơi thải và phương pháp thải. Công ước luật biển năm 1982 cũng có những qui định về nghĩa vụ trao  đổi thông tin chung liên quan đến ô nhiễm môi trường biển.[29] Trong lĩnh vực đa dạng sinh học, Công ước năm 1992 của Liên hợp quốc về đa dạng sinh học yêu cầu các quốc gia thành viên trao đổi những thông tin về việc giữ gìn và sử dụng bền vững sự đa dạng sinh  học.[30]

Nghĩa vụ thông báo trước.

Thông báo trước về các kế hoạch được hoạch định là một nội dung quan trọng của nghĩa vụ thông tin. Nghĩa vụ thông báo trước yêu cầu các quốc gia có kế hoạch tiến hành hay cho phép tiến hành các hoạt động có thể kéo theo các tác động  bất lợi hoặc rủi ro cho môi trường của các quốc gia khác phải cung cấp cho các quốc gia có thể bị gây hại tất cả những thông tin cần thiết để những quốc gia này có thể kịp thời ngăn chặn những tổn hại đó. Nghĩa vụ này có quan hệ mật thiết với  nghĩa vụ phải tiến hành đánh giá về tác động môi trường trong trường hợp có liên quan đến hai hay nhiều quốc gia cũng như nghĩa vụ phải có sự tán thành trước của  quốc gia có thể bị gây hại.

Nghĩa vụ trên đã được quy định trong nhiều điều ước quốc tế về môi trường. Trong lĩnh vực môi trường biển, Công ước luật  biển năm 1982 (điều 204) qui định các quốc gia cần tiến hành "quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích, bằng các phương pháp khoa học được công nhận, những rủi ro hoặc những tác động của ô  nhiễm môi trường biển".  Điều 206 của Công ước qui định khi các quốc gia có lý  do để tin rằng các hoạt động được hoạch định dưới quyền tài phán hoặc kiểm soát của mình có thể gây ra ô nhiễm đáng kể hoặc những thay đổi có hại đáng kể cho môi trường biển, họ sẽ "trong chừng mực thực tiễn cho phép, đánh giá những tác  động tiềm tàng của các hoạt động này về môi trường biển và sẽ thông báo các báo cáo về những đánh giá đó.” Điều 302 của Công ước qui định "trong khi thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia thành viên không phải tiết lộ những thông tin trái với lợi ích thiết yếu của mình về mặt an ninh".

Trong lĩnh vực môi trường nước trên đất liền, Định ước Niamey năm 1963  về hợp tác giao thông và kinh tế giữa các nước lưu vực sông Niger (Điều 4) qui định:  "Các nước ven sông cam kết thiết lập sự hợp tác chặt chẽ trong việc nghiên cứu và thực hiện bất kỳ dự án nào có thể có những tác động đáng kể đối với các đặc điểm của sông, các chi nhánh và tiểu chi nhánh của sông, khả năng giao thông của sông, việc khai thác công nghiệp và nông nghiệp, tình trạng nhiễm mặn của sông và các đặc điểm sinh thái của hệ động, thực vật".

Các nội dung tương tự cũng được ghi nhận trong các điều ước như Định ước Santiago về các đặc điểm sinh thái của hệ động, thực vật (điều 5); Hiệp định ASEAN năm 1985 về bảo tồn  tự nhiên và các tài nguyên thiên nhiên (điều 19.2.d và điều 20.3.b); Hiệp ước năm 1909 về biên giới trên các vùng nước giữa Canada và Mỹ; Công ước của Cộng đồng châu Âu năm 1979 về ô nhiễm không khí xuyên quốc gia (điều 8.b); Công ước năm 1974 về bảo vệ môi trường Bắc Âu (điều 5).

Nghĩa vụ thương lượng.

Thương lượng là một nội dung quan trọng của nghĩa vụ thông tin. Nghĩa vụ thương lượng yêu cầu các quốc gia  tiến hành các hoạt động có thể gây ra những tác động bất lợi đáng kể cho môi trường của quốc gia khác phải tiến hành thương lượng với quốc gia có thể bị gây hại, trên tinh thần thiện chí trong một thời gian thích hợp, nhằm tìm ra các biện pháp để tránh hoặc giảm những tác động có hại đáng kể cho  môi trường của quốc gia đó.

Nghĩa vụ trên đã được quy định trong nhiều điều ước quốc tế. Công ước Giơ-ne-vơ năm 1923 về sự phát triển thuỷ điện có tác động đến hai hay nhiều quốc gia quy định: “Nếu một quốc gia thành viên mong muốn tiến hành các hoạt động phát triển thuỷ điện có thể gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho bất kỳ quốc gia thành viên nào khác, các quốc gia liên quan sẽ phải thương lượng để đạt được các thoả thuận cho phép các hoạt động trên có thể được tiến hành.” [31]

Nghĩa vụ thông báo trong các trường hợp khẩn cấp.

Thông báo cho các quốc gia có thể bị tác động trong các trường hợp khẩn  cấp có ảnh hưởng qua biên giới quốc gia là một nội dung quan trọng của nghĩa vụ  thông tin. Thông báo trong trường hợp khẩn cấp là nhằm cho phép các quốc gia có thể bị tác động một cơ hội lớn nhất có thể để chuẩn bị và làm giảm những thiệt hại mà các tình trạng khẩn cấp có thể gây ra. Nghĩa vụ này bao gồm một số nội dung chính sau đây :

- Các quốc gia trong trường hợp khẩn cấp như  tai nạn môi trường nghiêm trọng, thiên tai đột ngột diễn ra phải nhanh chóng thông báo cho các quốc gia liên quan biết tình hình khẩn cấp có thể gây tác hại cho các quốc gia láng giềng;

- Các quốc gia liên quan có nghĩa vụ hợp tác để ngăn chặn và giảm đến mức tối đa những thiệt hại do tình trạng khẩn cấp có thể gây ra;

- Các quốc gia có nghĩa hợp tác để xây dựng những kế hoạch cần thiết để đối phó với các trường hợp khẩn cấp.

Nghĩa vụ trên được công nhận rộng rãi trong các điều ước quốc tế song phương, khu vực, đa  phương và trong các văn bản  pháp lý quốc tế của các tổ chức quốc tế liên chính phủ trong mọi lĩnh vực như ô nhiễm môi trường biển, ô nhiễm nguồn tài nguyên nước trên đất liền, ô nhiễm không khí, v.v. Điều 198 của Công ước Luật biển năm 1982 qui định: "Khi một quốc gia biết những trường hợp mà môi trường biển bị ô nhiễm đe doạ thiệt hại nghiêm trọng hoặc đang hoặc  đã bị ô nhiễm gây thiệt hại, quốc gia đó  sẽ phải thông  báo ngay cho các quốc  gia có  thể bị tác động bởi những thiệt hại đó cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền liên quan". Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và tiêu huỷ chúng, Công ước quốc tế Luân Đôn năm 1973 về ngăn chặn ô nhiễm từ các tàu, Công ước về những  tác động xuyên quốc gia của các tai nạn công nghiệp, Công ước năm 1986 về thông báo sớm tai nạn hạt nhân cũng có nội dung tương tự như trên.

Một khía cạnh quan trọng khác của vấn đề môi trường trong quan hệ quốc tế là khi đề cập tới các điều ước quốc tế liên quan tới lĩnh vực môi trường trong điều kiện toàn cầu hoá về thương mại hiện nay, một vấn đề nổi bật cần được quan tâm và giải quyết thấu đáo là vấn đề sử dụng các biện pháp thương mại vì mục tiêu môi trường.

Từ trước tới nay, chúng ta vẫn nghĩ rằng các vấn đề thương mại sẽ được giải quyết bằng các biện pháp thương mại. Tương tự, các vấn đề môi trường sẽ được giải quyết thông qua các biện pháp môi trường. Ở đây việc dùng những biện pháp thương mại trong những hiệp định môi trường đa phương lại cho thấy sự cần thiết. Những hiệp định môi trường đa phương (MEAS) không bao gồm những biện pháp bắt bụôc mà chủ yếu dựa vào nguyên tắc tự nguyện, do đó việc thực thi thường kém hiệu quả, còn trong hoạt động thương mại, biện pháp để thực hiện nội dung của các hiệp định là bắt buộc. Tính bắt buộc được hiểu thông qua các biện pháp hạn chế và trừng phạt thương mại. Vì vậy, hiện nay có xu thế dùng các biện pháp thương mại để đạt được mục tiêu môi trường, đặc biệt xu thế này được các nước phát triển ủng hộ. Theo quan điểm của những nước này, việc dùng những hạn chế và trừng  phạt thương mại là công cụ thích hợp ở những phạm vi nhất định để giải quyết mối lo ngại về môi trường. Điều này trái với mục đích của GATT/WTO, tuy nhiên lại được sự ủng hộ của một số nước nhất là các nước phát triển. Tuy vậy, mục tiêu môi trường ở đây, trong đại đa phần các trường hợp lại chính là vì lợi ích thương mại. Nói cách khác, vấn đề môi trường chỉ là cái vỏ bề ngoài để thực hiện các biện pháp thương mại vì mục đích thương mại.

Những hiệp định về môi trường quốc tế như là Công ước Basel và Nghị định như Montreal, cho phép sự hạn chế thương mại, hoặc cấm buôn bán đối với bên không tuân theo hoặc bên không ký kết. Việc dùng những cơ chế bắt buộc, trong các hiệp định môi trường đa phương (MEAs), làm nổi bật sự mâu thuẫn tiềm tàng với những chính sách thương mại và những nguyên tắc buôn bán công khai và tự do: Mục tiêu hoạt động của GATT/WTO là giảm thiểu những chính sách và biện pháp làm sai lệch hoặc can thiệp không hợp lệ vào thương mại quốc tế. Tuy nhiên, việc dùng những hạn chế thương mại là một phương tiện để đạt đến một mục tiêu về môi trường có thể đi ngược lại những mục tiêu nói trên. Đồng thời, những nguyên tắc buôn bán tự do có thể xung đột với những biện pháp bảo vệ môi trường, do những sự hạn chế thương mại có thể được sử dụng cho các mục tiêu môi trường khác nhau.

Những biện pháp thương mại sẽ đi cùng một hiệp định môi trường đa phương chỉ với điều kiện khi chính sách môi trường không chỉ đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện các mục tiêu môi trường đã đề ra. Những quy tắc thương mại đa phương là những phương tiện thuận lợi đối với việc hoạch định và thực thi các chính sách môi trường. Do để đáp ứng các mục đích của mình, nên các hiệp định về môi trường thường mâu thuẫn với các hiệp định về thương mại, vì vậy cần phải đề ra các biện pháp thích hợp để càng có ít hạn chế về hoạt động thương mại càng tốt, trên cơ sở phát triển bền vững.                     

Thực tiễn quốc tế đã chỉ ra rằng trong một số trường hợp, các biện pháp thương mại tỏ ra là một công cụ kinh tế hữu hiệu trong việc giải quyết vấn đề bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, sự lạm dụng công cụ kinh tế này một cách thái quá sẽ gây ra sự cản trở trong thương mại và do đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Vấn đề đặt ra là phải kết hợp một cách hài hòa giữa tự do hóa thương mại với bảo vệ môi trường. Đây là một căn cứ quan trọng của việc đề ra các hiệp định thương mại đa biên trong tổ chức thương mại thế giới mà chúng ta đã đề cập ở trên đây. Mặt khác, do hiệp định chung về thuế quan và thương mại của GATT/WTO là nền tảng cho mọi hiệp định đa biên khác, nên trong việc đề ra các hiệp định của mình, các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực cũng phải căn cứ vào các vấn đề môi trường của GATT/WTO. Tuy nhiên, sự thể hiện của vấn đề môi trường trong các hiệp định thương mại đa biên ở cấp khu vực khác nhau được biểu hiện ở các mức độ khác nhau, điều đó phụ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi khu vực. Vấn đề môi trường trong hiệp định chung về thuế quan và thương mại của GATT/WTO cũng là cơ sở cho các hiệp định thương mại song phương, là cơ sở để kết hợp hài hòa giữa phát triển thương mại và bảo vệ môi trường trong việc hoạch định các chính sách thương mại của các quốc gia.

 

III. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI NHU CẦU PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Định hướng phát triển đã được ghi nhận của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những tính chất quan trọng của nền kinh tế thị trường là mục tiêu lợi nhuận cao của mọi hoạt động. Trong điều kiện như vậy, lợi ích của công dân và lợi ích của các doanh nghiệp có thể bị hy sinh vì mục tiêu lợi nhuận của các doanh nghiệp. Xu hướng này rất bất cập trong lĩnh vực môi trường là lĩnh vực mà thiệt hại kể cả vật chất và tinh thần có thể rất lâu dài và khó nhận biết.

Do đó, việc cân nhắc các yếu tố liên quan và có tác động tới nhu cầu xây dựng pháp luật về môi trường ở Việt Nam là rất cần thiết. Hiện nay, có ba yếu tố chính, quan trọng nhất tác động lên nhu cầu này là yếu tố phát triển kinh tế-xã hội, yếu tố hài hoà hoá lợi ích của các bên liên quan trong bảo vệ môi trường và yếu tố xã hội hoá các hoạt động môi trường.

3.1 Yếu tố phát triển kinh tế - xã hội.

          Sau gần 20 năm phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta tăng khá nhanh. Trong ba năm gần đây, tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) hàng năm tăng bình quân 7,1% (Năm 2001 tăng 6,9%; Năm 2002 tăng 7,04%; Năm 2003 tăng 7,24%). Kinh tế các thành phần, các ngành, các vùng, miền, địa phương đều có bước phát triển khá so với trước. Việc phát triển văn hoá, xã hội và thực hiện các mục tiêu xã hội đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội cũng đã và đang tạo ra những áp lực to lớn đối với môi trường, cụ thể là:

          3.1.1. Phát triển công nghiệp và môi trường.

          Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 10 năm 2003, cả nước đã có hơn 100 khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao, phân bố ở trên 30 tỉnh, thành với các ngành sản phẩm mũi nhọn, có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Các khu công nghiệp đã thu hút hàng nghìn doanh nghiệp trong và ngoài nước với số vốn đầu tư hàng chục tỷ USD. Đóng góp của Công nghiệp vào GDP năm 2000 là 36,73% đã tăng lên 39% năm 2003. Các ngành công nghiệp, chế biến tăng tỷ trọng từ 79,7% năm 2000 lên 82,5% năm 2003.

          Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng như gia tăng mức độ ô nhiễm các đô thị và khu công nghiệp, suy giảm tài nguyên tới mức báo động (do công nghiệp là ngành tiêu thụ năng lượng và nguyên liệu hoá thạch nhiều nhất ở Việt Nam và thải ra các chất độc hại như SO2, NO2, CO, CO2 và bụi). Việc tập trung phát triển các cơ sở công nghiệp nặng có thể gây ra những thảm họa môi trường nghiêm trọng cho các địa phương và đe doạ môi trường toàn cầu như sự nóng lên của trái đất và suy giảm ôzôn ở tầng bình lưu. Công nghiệp hoá với tốc độ nhanh sẽ gây ra áp lực mạnh mẽ đối với các nguồn tài nguyên, trước hết là tài nguyên đất, nước, không khí, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng, đồng thời ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là: Công nghiệp chế biến bột ngọt; công nghiệp nhiệt điện; công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng; công nghiệp khai thác khoáng sản...

          Những hậu quả ô nhiễm môi trường thực tế do sản xuất công nghiệp gây ra là: nước thải gây ô nhiễm các nguồn nước; ô nhiễm không khí; ô nhiễm do chất thải rắn; môi trường lao động bất an toàn... Thêm vào đó, các chất thải nguy hại và độc hại từ hoạt động công nghiệp được chôn lấp tại các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh gây ra những tác động tiêu cực tới chất lượng môi trường và sức khoẻ cộng đồng.

3.1.2. Phát triển đô thị và môi trường.

          Cùng với công nghiệp hoá, quá trình đô thị hoá ở Việt Nam đang diễn ra tương đối mạnh, đặc biệt là ở các vùng trọng điểm phát triển kinh tế quốc gia. Nếu như dân số đô thị ở nước ta năm 1986 mới chiếm khoảng 19% tỷ lệ dân số cả nước, thì năm 1999, tỷ lệ này đã tăng lên 23,5%, dự báo đến năm 2010 tỷ lệ dân số đô thị sẽ tăng tới mức 33% dân số cả nước. Năm 1999, Việt Nam có 623 đô thị các loại, trong đó có 4 thành phố trực thuộc Trung ương, thì năm 2004, chúng ta đã có khoảng 650 đô thị các loại với 5 thành phố trực thuộc Trung ương. Những áp lực và thách thức của quá trình phát triển đô thị đối với môi trường thể hiện:

          - Một trong các thách thức hàng đầu là quy hoạch và đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị ở hầu hết các đô thị Việt Nam đều chậm hơn so với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường, đặc biệt là tình trạng yếu kém và lạc hậu của hệ thống cấp nước, thoát nước, thu gom và xử lý chất thải rắn, hệ thống giao thông. Tình trạng ô nhiễm môi trường và phá vỡ cân bằng sinh thái đô thị, cảnh quan thiên nhiên đang là mối lo ngại chung.

          - Chưa lồng ghép quy hoạch bảo vệ môi trường với quy hoạch đô thị. Cho đến năm 1998, đã có 86 thành phố, thị xã đã có quy hoạch chung được phê duyệt. Nhưng cho đến nay, chỉ có TP. Hà Nội và TP. Hạ Long là đã xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường tổng thể do JICA tài trợ, còn lại hầu như chưa có thành phố hay thị xã nào đã tiến hành lập báo cáo đánh giá tác động  môi trường đối với dự án quy hoạch đô thị như đã quy định trong Điều 9 của Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường. Thiếu sót này nếu không được khắc phục ngay thì sẽ gây ra các vấn đề môi trường đô thị lâu dài và khó khắc phục.

          - Trong quá trình đô thị hoá, thường xảy ra một vấn đề gay cấn về môi trường là nhiều nhà máy gây ô nhiễm môi trường nặng, trước đây nằm ở ngoại thành, nay đã lọt vào giữa các khu đô thị hoá với dân cư đông đúc. Vì vậy cần phải xử lý triệt để ô nhiễm của các nhà máy này, nhưng nhìn chung việc xử lý còn gặp rất nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, tiến trình thực hiện rất chậm.

          - Việc mở rộng không gian đô thị sẽ dẫn đến chiếm dụng đất nông nghiệp và các đất khác để phục vụ xây dựng đô thị, ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực quốc gia nói chung và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân ngoại thành nói riêng. Đô thị hoá sẽ dẫn đến tài nguyên đất bị khai thác triệt để, tỷ lệ diện tích cây xanh và mặt nước trong đô thị bị giảm, bề mặt đất thấm nước, thoát nước bị suy giảm, dẫn đến tình trạng úng ngập ở nội thành cũng như ở ngoại thành.

          - Dân số đô thị tăng nhanh thường gây ra quá tải đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, dân tăng cùng với mức sống nâng cao sẽ làm tăng các chất thải từ sinh hoạt và dịch vụ đô thị, đặc biệt làm tăng nước thải và rác thải. Vệ sinh môi trường suy giảm, làm tăng nhu cầu khai thác tài nguyên nước, làm suy thoái nguồn tài nguyên nước.

          - Sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp tăng trưởng sẽ phát sinh nhiều chất thải ô nhiễm môi trường, trong đó tỷ lệ chất thải nguy hiểm và độc hại sẽ tăng lên.

          - Phát triển đô thị sẽ làm bùng nổ phương tiện giao thông cơ giới trong đô thị, thải ra nhiều bụi, khí độc hại và tiếng ồn, sẽ gây ô nhiễm môi trường không khí và ô nhiễm tiếng ồn trầm trọng đối với đô thị.

          - Đô thị hoá sẽ làm tăng dòng người di dân từ nông thôn ra thành thị, làm tăng sức ép về nhà ở và vệ sinh môi trường. Một số dân di cư không tìm được việc làm và chỗ ở ổn định, cùng với một số người nghèo đô thị đã lấn chiếm đất công vô chủ, tạo thành các "xóm liều", "xóm bụi" là một điều rất nhức nhối ở nhiều đô thị hiện nay.

          Các thách thức đối với môi trường rất lớn, nếu không có "đáp ứng" kịp thời và tương xứng thì có thể dẫn đến môi trường ở đô thị ngày càng bị ô nhiễm, phát triển đô thị sẽ không bền vững.

          3.1.3. Phát triển giao thông vận tải và môi trường.

          Trong thời gian gần đây, nhiều dự án nâng cấp và mở rộng các cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải đã được tiến hành, cùng với sự phát triển cơ sở hạ tầng, các phương tiện vận tải cũng ngày một phát triển.

          Tuy  nhiên, các cơ sở hạ tầng giao thông vận tải này đều gây tác động đến tài nguyên đất. Một diện tích nhất định của đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ngập mặn, đất định cư, đất hoang v.v... được biến thành đất chuyên dụng cho giao thông. Điều này làm cho mặt bằng sử dụng đất bị thay đổi, diện tích đất bị chiếm dụng cho giao thông ngày càng tăng lên. Đặc biệt đối với các đô thị việc phát triển và mở rộng cơ sở hạ tầng giao thông cả về đường xá và bến đỗ đã gây ra xáo động đáng kể giữa các chủ sở hữu đất. Chất lượng đất canh tác dọc theo các trục đường giao thông cũng bị ảnh hưởng. Ảnh hưởng này còn tiếp tục diễn ra trong quá trình khai thác đường, bởi các chất ô nhiễm thoát ra từ các xe chạy trên đường. Bên cạnh đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng còn gây tác động đến việc tái định cư của nhiều hộ gia đình, việc chuyển dời đền chùa, mộ chí....

          Những vấn đề môi trường gay cấn liên quan đến phát triển giao thông hiện nay và trong thời gian tới là tác động môi trường do các cơ sở hạ tầng giao thông được làm mới và ô nhiễm không khí, đặc biệt là ô nhiễm chì do giao thông tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

          Việc làm mới một con đường, bến cảng, sân bay hoặc bắc một cây cầu qua sông cần được xem xét môi trường ngay trong giai đoạn phác thảo ý tưởng, chọn địa điểm xây dựng. Điều này là rất cần thiết không những phục vụ trước mắt đối với công trình mà về lâu dài nhằm mang lại sự hài hoà giữa công trình và môi trường. Nếu chỉ xem xét môi trường sau khi đã vạch tuyến, có thể vấp phải những vấn đề bất cập về môi trường (ví dụ như đường Hồ Chí Minh có những đoạn vạch tuyến qua các khu bảo tồn quốc gia đã buộc phải thay đổi phương án xây dựng để xem xét).

          Ở nước ta hiện nay số lượng xe máy lớn gấp 10 lần số xe ô tô vì hầu hết người dân Việt Nam dùng xe máy như một  phương tiện giao thông cá nhân. Gần như 100% xe máy ở nước ta là xe chạy xăng nên việc dùng xăng có chì gây phát thải bụi chì cả ở thành phố và các vùng nông thôn. Do nước ta còn nghèo, kinh tế chưa phát triển, nên đa số các phương tiện hiện đang được sử dụng thuộc các thế hệ cũ, quá thời gian sử dụng, có sự tiêu hao nhiên liệu lớn, lượng độc trong khí thải cao và gây tiếng ồn lớn. Thêm nữa, đội ngũ công nhân lái xe, sửa xe, khám xe mới đang được đào tạo để đạt trình độ theo đúng yêu cầu chuyên môn và việc sửa chữa, bảo dưỡng xe cộ chưa được tiến hành đầy đủ nên đa số xe cũ đang tận dụng luôn ở trong tình trạng kỹ thuật không đảm bảo. Do đó, các chất ô nhiễm, độc hại phát thải từ ô tô, xe máy gây ra ảnh hưởng đáng kể tới môi trường sống của con người.

          3.1.4. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và môi trường.

          Trong những năm qua, kinh tế nông nghiệp và cuộc sống ở nông thôn đã có những thay đổi tiến bộ rõ rệt. Chỉ tiêu về an toàn lương thực đã được thực hiện. Nhiều nghề sản xuất quy mô nhỏ và vừa được khôi phục và phát triển, phong trào cải tạo mạng lưới giao thông nông thôn, đưa điện về nông thôn, xã hội hoá giáo dục... đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Mặc dầu vậy, bên cạnh sự phát triển đáng khích lệ trong hoạt động nông nghiệp, cũng đang và sẽ nảy sinh những vấn đề môi trường phức tạp, bức xúc mà hậu quả không chỉ trước mắt mà còn về lâu dài. Có thể nêu lên một số vấn đề bức xúc về môi trường ở nông thôn Việt Nam như sau:

          - Quỹ đất và chất lượng đất giảm sút. Hiện tượng thoái hoá, bạc màu đất canh tác khá phổ biến do sử dụng không hợp lý, độc canh cây lúa và sử dụng các phương tiện cơ giới.

          - Chịu nhiều thiên tai như bão lũ, úng lụt. Hậu quả tác động tăng hơn khi đồng ruộng bị chia cắt nhỏ, manh mún, phương thức canh tác lạc hậu.

          - Sâu bệnh, chuột phát triển mạnh, lây lan làm giảm năng suất cây trồng. Hệ thống thuỷ lợi đôi lúc không phát huy tác dụng tích cực, mà còn tác động xấu tới môi trường về lâu dài như gây cạn kiệt nguồn nước dự trữ ở một số khu vực khô hạn.

          - Việc sử dụng nhiều phân bón hoá học và thuốc trừ sâu... ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái nông nghiệp và sức khoẻ cộng đồng. Theo các báo cáo, hàng năm nước ta sử dụng thuốc trừ dịch hại và bảo vệ thực vật ngày càng tăng, bình quân là 0,4 - 0,5kg a.i/ha gieo trồng. Lượng tồn dư các hoá chất này trong môi trường đất, nước đã gây ô nhiễm cục bộ, làm giảm đa dạng sinh học, làm xuất hiện một số loài sâu hại kháng thuốc.

- Một số mô hình về vệ sinh môi trường nông thôn như xây dựng hệ thống cấp nước, bể chứa nước mưa, xây dựng hệ thống cống thoát nước thải theo phương pháp xử lý bằng hồ sinh học, hầm ủ phân tạo khí sinh học (Biogas)... mới ở diện hẹp, ở hầu hết các địa phương, cả miền núi, trung du và đồng bằng, vấn đề hố xí hợp vệ sinh đã trở thành vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ môi trường.

- Vấn đề vệ sinh thực phẩm ở nông thôn hiện chưa được quản lý. Kết quả kiểm tra trên diện rộng ở một số tỉnh cho thấy hiện trạng là đáng lo ngại, ví dụ ở Nghệ An có 65,3% cơ sở đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn vệ sinh. Phần lớn các điểm giết mổ gia súc ở nông thôn và cả ở các thành phố trong cả nước không đảm bảo quy định an toàn vệ sinh thú y.

- Bên cạnh chương trình phân bố lại dân cư từ năm 1960 bằng cách đưa trên 2 triệu người chuyển cư lên vùng đồi núi phía Bắc và Tây nguyên làm tăng mật độ dân số miền núi lên 75 người/km2 (quá cao, khi diện tích đất trồng có hạn) tạo nên cạnh tranh đất đai (bình quân đất nông nghiệp trên đầu người dưới 1000m2), đẩy một bộ phận dân lùi sâu vào rừng và hậu quả là rừng tiếp tục bị phá. Đáng lo ngại nhất là rừng đầu nguồn ở miền núi Tây Bắc giảm thấp; rừng ở đầu nguồn Tây Nguyên, Nam Trung Bộ bị tàn phá khốc liệt (Sa Thầy, Tánh Linh...). Mất rừng, dẫn đến mất đa dạng sinh học, các loài thực vật, đồng thời cũng mất đi nơi sinh cư của hàng nghìn loài động vật rừng. Mất rừng là mất đi khả năng dự trữ và điều tiết nước ngọt, ở một số nơi thuộc Bình Thuận, Ninh Thuận đã gia tăng hiện tượng hoang mạc hoá.

3.1.5. Phát triển du lịch và môi trường.

Tiềm năng du lịch của nước là rất lớn và phong phú. Trong những năm gần đây nước ta đã rất coi trọng phát triển du lịch. Ngành du lịch ngày càng đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng ngược lại cũng đã gây ra các tác động tiêu cực đến tài nguyên và môi trường. Các tác động tiêu cực của phát triển du lịch đối với môi trường có thể chỉ ra gồm:

- Xây dựng khách sạn, các công trình du lịch, xây dựng giao thông phục vụ du lịch, v.v.. có thể làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên, gây hư hại đối với di tích lịch sử, chiếm diện tích đất của các di sản lịch sử văn hoá. Ví dụ như, Khu Thích Ca Phật Đài (Bà Rịa - Vũng Tàu) trước đây có diện tích 5 ha, nay chỉ còn 2,6ha.

- Tăng lượng chất thải ô nhiễm môi trường, đặc biệt là gây ô nhiễm biển ven bờ. Ví dụ, mức độ ô nhiễm môi trường nước biển Vịnh Hạ Long, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng gia tăng.

- Các hệ sinh thái đặc trưng, rừng nguyên sinh nhiệt đới, các đảo ngoài biển, các hang động, các rạn san hô .v.v.. rất hấp dẫn đối với khác du lịch, nhưng chúng rất nhạy cảm và rất dễ bị tổn thương do các hoạt động du lịch (gây ô nhiễm môi trường, làm mất yên tĩnh và xáo trộn nơi cư trú, sinh sản và kiếm ăn của các động vật hoang dã, có thể dẫn đến sự suy giảm số lượng, số loài đa dạng sinh học và sự di cư các động vật hoang dã).

- Làm nảy sinh các tiêu cực, tệ nạn xã hội, gây ô nhiễm văn hoá địa phương (do xâm nhập văn hoá đồi truỵ) và lan truyền một số bệnh truyền nhiễm rất khó quản lý và phòng ngừa.

3.1.6. Phát triển năng lượng điện và môi trường

Năng lượng điện ở Việt Nam được tạo thành chủ yếu bởi nhiệt điện và thuỷ điện. Tính đến năm 2001, tổng sản lượng điện của Việt Nam ước tính khoảng 30,266 tỷ Kwh, trong đó sản lượng thuỷ điện là 12,2 tỷ Kwh, chiếm tỷ lệ khoảng 40% và sản lượng nhiệt điện là 18,006 tỷ Kwh, chiếm tỷ lệ khoảng 60%. Các nhà máy nhiệt điện ở miền Bắc chủ yếu chạy bằng than đá, ở miền Nam chủ yếu chạy bằng dầu FO và khí tự nhiên.

Các nhà máy điện đốt than thường dung than Quảng Ninh với độ tro A = 10-15%, hàm lượng lưu huỳnh S= 0,5%. Các nhà máy nhiệt điện đốt dầu thường dùng dầu FO với độ tro A = 0,01 - 0,5%, hàm lượng lưu huỳnh S = 2,7 - 3%. Vì vậy chúng đã thải ra lượng khí SO2 và bụi rất lớn, gây ra ô nhiễm môi trường không khí, tuy vậy, mức độ ô nhiễm không khí cũng mới có tính cục bộ. Cho đến nay, các nhà máy nhiệt điện ở Việt Nam mới chỉ tiến hành lọc bụi, chưa có thiết bị xử lý SO2.

3.1.7. Khai thác khoáng sản và môi trường

Hiện nay, trong phạm vi cả nước có trên 1000 mỏ đang hoạt động với trên 50 loại khoáng sản khác nhau. Khai thác khoáng sản đã phá hoạt môi trường đất, rừng, ô nhiễm môi trường nước và không khí rất lớn. Khai thác mỏ than ở Quảng Ninh đến nay đã tồn đọng hơn 100 triệu m3 đất đá thải ra. Hàng trăm km2 diện tích mặt đất và rừng bị phá hoại chưa được phục hồi, gây ra hiện tượng xói lở, bồi lắng và ô nhiễm môi trường nước sông, suối trên đất liền và nước biển Vịnh Hạ Long. Ngành khai thác dầu khí ở Việt Nam trong thời gian qua đã phát triển mạnh. Kết quả quan trắc môi trường nước biển vùng khai thác dầu khí cho thấy hàm lượng dầu và kim loại nặng tăng lên.

Các hệ sinh thái biển và ven biển ở Việt Nam khá phong phú, đặc trưng cho biển nhiệt đới, có giá trị kinh tế và môi trường lớn. Trong những năm gần đây, do đô thị hoá, công nghiệp hoá, phát triển giao thông thuỷ nhanh ở các vùng ven biển đã làm tăng đáng kể số lượng và chủng loại chất thải vào biển, làm tăng ô nhiễm môi trường biển và làm suy thoái tài nguyên biển, đặc biệt là vùng biển ven bờ ở Bắc bộ và Nam bộ. Hàm lượng các chất ô nhiễm trong nước biển tăng lên. Nhiều rạn san hô đã bị chết trắng ở đảo Bạch Long Vĩ, đảo Cát Bà và một số đảo biển ở Quảng Ninh, Trung bộ và Nam bộ. Sản lượng cá ở biển ven bờ đã suy giảm rõ rệt.

3.2 Yếu tố hài hoà hoá lợi ích

Nhìn dưới giác độ lịch sử, pháp luật môi trường hiện đại là một lĩnh vực pháp luật tương đối trẻ nếu so với các ngành hoặc lĩnh vực pháp luật truyền thống như pháp luật hình sự, pháp luật dân sự. Trong một thời gian rất dài của lịch sử, người ta đã quan niệm sai lầm rằng, các thành phần môi trường như nước, không khí và các thành phần khác có thể được sử dụng một cách thoải mái, miễn phí. Sự trong sạch của môi trường không được coi là một thứ hàng hoá khan hiếm (hàng hoá kinh tế). Người dân, cộng đồng doanh nghiệp và cả nhà nước hầu như chưa quan tâm thực sự tới công tác bảo vệ môi trường trong một thời gian rất dài của lịch sử. Tuy nhiên, cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá mạnh mẽ, nhất là kể từ sự trỗi dậy của các quốc gia phát triển sau thế chiến thứ II, quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và phát triển kinh tế đã làm cho môi trường sống của con người không còn đủ khả năng chịu đựng. Môi trường đã không còn đủ sức tiếp nhận những thứ độc hại mà con người sản sinh ra[32] và môi trường, thiên nhiên đã quay trở lại trả thù con người. Điều trớ trêu là, người bị trả thù không phải là người đã gây ra tác hại cho môi trường (ví dụ, người bị thiệt hại về môi trường từ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp thường không phải là chính doanh nghiệp mà lại là người không hưởng lợi trực tiếp từ hoạt động của doanh nghiệp) mà lại là những người không hoặc ít gây tác hại cho môi trường. Ở đây đã có sự mất cân bằng về mặt lợi ích và chi phí. Chính vì thế, pháp luật môi trường được đặt ra để làm sao nguyên tắc nhân quả được pháp lý hoá với tinh thần, người gây thiệt hại thì phải gánh chịu hậu quả và phải có trách nhiệm khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra – nguyên tắc này có hệ quả của nó thường được gọi là “người gây ô nhiễm phải trả tiền” (“polluters pay” principle). Đồng thời, trong quá trình thiết kế các quy định pháp luật về môi trường, cần cân nhắc rất cụ thể lợi ích của các đối tượng liên quan bao gồm lợi ích của nhà nước, lợi ích của các doanh nghiệp và lợi ích của người dân.

Xét dưới giác độ sự vận hành bình thường của nền kinh tế thị trường thì Luật môi trường, hay các biện pháp can thiệp từ phía Nhà nước hoặc từ phía cộng đồng dân cư để bảo vệ môi trường là một bằng chứng rõ nét cho thấy sự bất lực của cơ chế thị trường trong việc giải quyết vấn đề môi trường. Có một sự thực trớ trêu là doanh nghiệp gây ô nhiễm nhiều có thể sẽ có sức cạnh tranh tốt hơn so với doanh nghiệp gây ô nhiễm ít bởi một lẽ rằng việc tuân thủ các điều kiện bảo vệ môi trường cao bao giờ cũng dẫn tới hệ quả tất yếu là chi phí cho hoạt động của doanh nghiệp tăng lên. Chính vì thế, cơ chế thị trường (cơ chế phân bổ nguồn lực trong xã hội bằng giá cả), tự nó đã mang trong mình sự mâu thuẫn với yêu cầu về bảo vệ môi trường. Luật môi trường phải ra đời để bổ sung trách nhiệm đối với các chủ thể gây ô nhiễm, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.

Do môi trường bị ô nhiễm, xuống cấp chủ yếu là sản phẩm của những hành vi ứng xử không văn minh của con người, nên pháp luật về bảo vệ môi trường muốn đạt được mục tiêu của mình là hạn chế những hành vi như vậy thì cần phải có những biện pháp tác động trực tiếp tới khuynh hướng ứng xử của con người. Các biện pháp pháp lý mà pháp luật sử dụng có thể là những biện pháp kích thích, khuyến khích mang tính tích cực hoặc là các biện pháp răn đe, phòng ngừa bằng việc đe doạ áp dụng các biện pháp bất lợi (xử phạt, cấm thực hiện hành vi, hạn chế quyền tự do hành nghề, tự do kinh doanh bằng cách rút giấy phép, hoặc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự). Xuất phát từ thực tế là pháp luật môi trường là lĩnh vực pháp luật ra đời sau các ngành, lĩnh vực luật truyền thống, nên các nhà làm luật về môi trường đã tận dụng những kinh nghiệm, kỹ thuật và nghệ thuật điều chỉnh pháp luật của các ngành, lĩnh vực pháp luật trước đó. Trong đó, phải kể đến việc áp dụng thủ tục hành chính để kiểm soát hành vi (chẳng hạn như các quy định về đánh giá tác động môi trường), việc xử phạt đối với người gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, việc bắt người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại (học từ luật dân sự), thậm chí dùng biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự (sử dụng công cụ hình phạt vào trong công tác bảo vệ môi trường). Tất cả những biện pháp đó, suy cho cùng đều là những biện pháp tác động tới hành vi của con người (thông qua việc tác động tới lợi ích của con người) để con người có cách ứng xử “thân thiện hơn với môi trường”.

          Đây chính là cách tiếp cận cần thiết để giải quyết vấn đề hài hoà hoá lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp và của các công dân. Các doanh nghiệp mong muốn có lợi ích lớn nhất là lợi nhuận cao và vì vậy không muốn gánh vác nghĩa vụ bảo vệ môi trường – mà việc thực hiện nó chắc chắn sẽ làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh và giảm lợi nhuận; hậu quả tất yếu là môi trường sẽ bị tổn hại. Trong khi đó, lợi ích của người dân lại là được sống trong môi trường trong sạch, an toàn. Và cuối cùng, lợi ích của Nhà nước là ở chỗ đáp ứng được nhu cầu của cả hai bên, cân bằng một cách tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Để làm được việc này, Nhà nước có trong tay một công cụ rất hữu hiệu là pháp luật. Do đó, pháp luật phải đóng được đầy đủ vai trò của nó trong việc điều tiết quyền và nghĩa vụ và đó phải là giải pháp để cân bằng lợi ích.

          Một điều quan trọng cần lưu ý khi giải quyết vấn đề hài hoà hoá lợi ích là quá trình này phải luôn luôn nhằm tới hai mục đích tương đương với nhau. Mục đích thứ nhất là cân đối chi phí-lợi nhuận. Điều này đặc biệt quan trọng trong kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do pháp luật không chỉ là một công cụ điều chỉnh của nhà nước mà còn là công cụ để đảm bảo công lý trong xã hội, hài hoà hoá cần đạt được mục đích thứ hai là đảm bảo công lý.  

Khi đề cập tới yếu tố lợi ích trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về môi trường, cũng cần đề cập tới việc quy định về sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam, song song với các công cụ quản lý khác như mệnh lệnh và kiểm soát, tuyên truyền giáo dục nhận thức và các công cụ kỹ thuật.

Hiện nay tại nhiều quốc gia trên thế giới, các công cụ kinh tế đã được sử dụng tương đối rộng rãi trong lĩnh vực môi trường. Ngay những nước láng giềng có trình độ phát triển không chênh lệch nhiều so với Việt Nam như Trung Quốc, Thái lan, Philippines hay Malaysia, việc áp dụng các công cụ kinh tế cũng đã được sử dụng tương đối phổ biến và có hiệu quả. Về mặt lý thuyết, việc áp dụng các công cụ kinh tế có các vai trò tất tích cực như sau:

- Tăng hiệu quả chi phí;

- Khuyến khích đổi mới

- Nâng cao khả năng tiếp cận và xử lý thông tin;

- Tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường

- Cho phép hành động nhanh chóng và mềm dẻo hơn.

Đó là về phía nhà nước. Đối với các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường rất phù hợp với logic của kinh tế thị trường: đó là nâng cao trách nhiệm của các đối tượng sử dụng môi trường đối với các hành vi của mình và quy các trách nhiệm liên quan tới môi trường thành các chi phí có thể tính toán được.

Trong lịch sử (kể cả trong thời đại hiện tại) không ít người cho rằng, những  thành phần căn bản của môi trường như không khí và nước là thứ hàng hoá phi kinh tế - thứ hàng hoá cho không, hàng hoá được dùng miễn phí. Họ quan niệm rằng, xã hội không cần phải trả tiền hoặc các nguồn lực khác để làm cho môi trường trong sạch. Cách quan niệm như vậy và sự thờ ơ của nhà làm luật đối với vấn đề môi trường trong lịch sử đã khiến cho bao thảm hoạ về môi trường đã từng xảy ra (ngay cả ở những nước phát triển trước đây). Quan niệm bớt cực đoan hơn nhưng lại thể hiện thái độ vô trách nhiệm của không ít người cho rằng, môi trường tuy là tài sản chung, có thể bị suy thoái do hành vi của con người, nhưng việc bảo vệ môi trường là của người nào đó chứ không hẳn là của chính mình. Trong quan niệm khoa học hiện đại, cách nhìn nhận về môi trường đã khác hẳn. “Môi trường trong sạch” hoặc “môi trường tốt” được coi là một thứ hàng hoá kinh tế - thứ hàng hoá mà không tự nhiên có (hoặc có thể đã có nhưng đã bị đánh mất) - một thứ hàng hoá không phải cho không. Về nguyên tắc, việc doanh nghiệp hay cư dân phát thải ra môi trường những chất độc hại chính là việc đã sử dụng “sự trong sạch của môi trường” vào quá trình sản xuất và đã đưa môi trường đến trạng thái kém trong sạch hơn. Để đưa “môi trường xấu” (một trạng thái môi trường) lên một “môi trường tốt” thì cần phải hy sinh những nguồn lực nhất định của xã hội (ví dụ như phải có những người dọn vệ sinh, môi trường v.v). Các thành phần môi trường như không khí (sạch), nguồn nước (sạch) v.v. không còn được mặc nhiên coi là thứ hàng hoá cho không, miễn phí nữa. Thay vào đó, muốn có một môi trường tốt, xã hội phải hy sinh bớt các nguồn lực của mình để phục vụ công tác bảo vệ, cải thiện môi trường sống. Để đưa môi trường từ “trạng thái xấu” lên “trạng thái tốt” hoặc để tránh cho môi trường từ “trạng thái tốt” xuống “trạng thái xấu”, các quốc gia cần có luật về vấn đề này – đó chính là Luật Bảo vệ môi trường.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật về môi trường của Việt Nam, các công cụ kinh tế đang được áp dụng trong quản lý môi trường bao gồm:

-        Quỹ bảo vệ môi trường.

Trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, chi phí cho các hoạt động bảo vệ môi trường như quản lý môi trường, xử lý chất thải, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường, v.v. rất lớn mà lại thường không tạo ra sản phẩm cũng như lợi nhuận trước mắt. Do đó kinh phí đầu tư cho những hoạt động này thường không được các nhà sản xuất quan tâm đóng góp. Trước thực tế đó, việc xây dựng một hệ thống các loại quỹ môi trường là nhằm hỗ trợ, khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hoạt động bảo vệ môi trường. Quỹ bảo vệ môi trường ở Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 82/2002/QĐ-TTg ngày 26/06/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ đóng vai trò của một tổ chức tài chính nhà nước để huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước nhằm hỗ trợ các chương trình, dự án, các hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Quỹ hỗ trợ cho các hoạt động bảo vệ môi trường theo các hình thức sau: cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay vốn cho dự án đầu tư bảo vệ môi trường khi vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác; tài trợ cho một số hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường được quy định tại Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ.

-        Phí bảo vệ môi trường

Phí bảo vệ môi trường là một công cụ kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải đóng góp tài chính để khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường” và “ai hưởng thụ môi trường trong lành phải đóng phí cho công tác cải thiện môi trường”. Phí bảo vệ môi trường có mục đích khuyến khích các nhà sản xuất, kinh doanh đầu tư giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi hành vi ô nhiễm theo hướng tích cực, có lợi cho môi trường. Ngoài ra phí bảo vệ môi trường còn có mục đích khác là tạo thêm nguồn thi cho ngân sách Nhà nước để đầu tư, khắc phục sự cố môi trường, cải thiện môi trường.

Ở nước ta, ngày 13 tháng 6 năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2003/NĐ-CP về thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Theo quy định của Nghị định này, các tổ chức, hộ gia đình có nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt thì phải nộp một khoản phí bảo vệ môi trường. Nguồn thu được từ phí bảo vệ môi trường thuộc về ngân sách nhà nước và được quản lý, sử dụng như sau: thứ nhất, để lại một phần số phí thu được cho cơ quan, đơn vị trực tiếp thu để trang trải chi phí cho việc thu phí; thứ hai, phần còn lại nộp vào ngân sách nhà nước và chia đều cho các cấp ngân sách là trung ương (để bổ sung vốn hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam) và địa phương (để sử dụng cho việc bảo vệ môi trường, đầu tư mới, nạo vét cống rãnh, duy tu bảo dưỡng hệ thống thoát nước tại địa phương).

Việc thực hiện thu phí bảo vệ môi trường đã, đang và sẽ mang lại cho ngân sách nhà nước một khoản thu lớn để đầu tư trở lại cho công tác bảovệ môi trường. Phí bảo vệ môi trường cũng là một hình thức gián tiếp huy động vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường từ các doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình.

 

-        Ký quỹ cải tạo, hồi phục môi trường.

Đây là hình thức buộc các tổ chức, cá nhân khi tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản phải có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ trị giá được bằng tiền vào một tài khoản phong toả tại một tổ chức tín dụng của Việt Nam. Khoản tiền này nhằm để đảm bảo tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ phục hồi môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra.

Tổ chức và cá nhân sẽ được quyền rút khoản tiền đã ký quỹ này khi thực hiện xong nghĩa vụ phục hồi môi trường và đã được cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường thẩm định và xác nhận. Trường hợp tổ chức và cá nhân đã ký quỹ nhưng không thực hiện việc phục hồi môi trường hoặc bị giải thể hay phá sản thì cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định cho phép sử dụng số tiền kỹ quỹ để phục hồi môi trường và lựa chọn (bằng hình thức đấu thầu) đơn vị thực hiện việc phục hồi môi trường bằng khoản tiền ký quỹ này. Trường hợp số tiền ký quỹ không sử dụng hết thì được trả lại cho đối tượng đã ký quỹ, nếu đối tượng ký quỹ đã bị giải thể hoặc phá sản thì nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước.

          Trong thời gian qua, các công cụ trên đã phần nào phát huy được hiệu quả trong việc nâng cao trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm về tài chính của các đối tượng hoạt động môi trường, đồng thời tạo một nguồn thu bổ sung cho Nhà nước để tài trợ cho một số hoạt động môi trường khác. Tuy nhiên, đối chiếu với thực tiễn sử dụng các công cụ kinh tế trong môi trường ở các quốc gia khác, có thể thấy rằng số lượng các công cụ được sử dụng ở Việt Nam còn nghèo nàn và vì vậy, chưa mang lại tác động rộng khắp đối với các đối tượng liên quan.

Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về môi trường, chúng ta cần bổ sung các công cụ kinh tế mới để nâng cao hiệu quả và tác động của loại công cụ rất phù hợp với kinh tế thị trường này.

Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị Ban Chấp hành TW Đảng đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày 25/2/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong hai văn bản định hướng quan trọng này đều nhấn mạnh đến yêu cầu tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam. Đó chính là các cơ sở cần thiết cho việc mở rộng sử dụng các công cụ kinh tế trong lĩnh vực môi trường. Cụ thể, Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về "Bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" đã nêu rõ: Một trong những giải pháp chính để đạt được mục tiêu bảo vệ môi trường tại Việt Nam trong thời gian tới là “đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường”, bao gồm: i) Triển khai thực hiện nguyên tắc người gây thiệt hại đối với môi trường phải khắc phục, bồi thường; ii) Từng bước thực hiện việc thu phí, kí qũy bảo vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường; iii) áp dụng các chính sách, cơ chế hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với bảo vệ môi trường; iv) áp dụng cơ chế chuyển nhượng, trao đổi quyền phát thải và trách nhiệm xử lý chất thải phù hợp với cơ chế thị trường. Như vậy, rõ ràng khi đề ra chính sách về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta đã đề cập tới cả các biện pháp nâng cao trách nhiệm đối với môi trường của các đối tượng liên quan, nhưng cũng tính toán đến cả việc sử dụng các công cụ khuyến khích trong việc tuân thủ các quy định về môi trường, khuyến khích các hoạt động bảo vệ môi trường.

3.3 Yếu tố xã hội hóa

Xã hội hóa là xu hướng chuyển giao một số công việc trước đây vẫn do nhà nước thực hiện sang cho khu vực phi nhà nước (tức là xã hội) thực hiện. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng này đang diễn ra tương đối mạnh mẽ ở một số nước, trong đó có Việt Nam.

Xã hội hoá xuất phát từ quan điểm coi Nhà nước có hai chức năng cơ bản: chức năng quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và chức năng phục vụ cho các tổ chức, công dân trong xã hội (chức năng xã hội).Chức năng quản lý nhà nước bao gồm các hoạt động quản lý và điều tiết đời sống kinh tế - xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật, chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát. Chức năng phục vụ bao gồm các hoạt động cung ứng các dịch vụ nhằm phục vụ cho các lợi ích thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tổ chức (cung ứng dịch vụ công).

Thực tế cho thấy, trên ý nghĩa nhất định, mức độ, hiệu quả thực hiện dịch vụ công quy định mức độ, hiệu quả thực hiện chức năng chính trị của giai cấp. Vì vậy, mọi Nhà nước đều dành sự chú ý đặc biệt cho việc cải tiến cung ứng dịch vụ công nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân, đảm bảo sự ổn định chung của xã hội - đó chính là cơ sở để duy trì một Nhà nước vững mạnh. Trong quá trình chuyển từ Nhà nước cai trị sang Nhà nước phục vụ, khả năng cung cấp, đảm bảo dịch vụ công được coi là một trong các tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực của chính phủ. Một chính phủ được coi là có năng lực khi ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ công cho xã hội.

Việc chuyển giao các dịch vụ công cho tư nhân, các tổ chức phi nhà nước cung ứng thực chất là quá trình "phi nhà nước hóa", hay xã hội hóa dịch vụ công, với mục tiêu hoàn thiện bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Như vậy, xã hội hóa dịch vụ công là quá trình Nhà nước chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thực hiện, hoặc huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào việc cung ứng các dịch vụ này.

Nói một cách khác, xã hội hóa dịch vụ công là việc Nhà nước giảm dần các biện pháp quản lý trực tiếp mang tính quyền uy, mệnh lệnh để tập trung vào các biện pháp quản lý mang tính vĩ mô, thông qua sử dụng các công cụ như pháp luật, chính sách, thuế, tài chính...; đồng thời phát triển các hình thức tự quản xã hội, kết hợp quản lý nhà nước với quản lý của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, phát huy tính tích cực, chủ động, năng động của xã hội, làm giảm gánh nặng công việc cho Nhà nước và làm cho Nhà nước gần với xã hội hơn.

Xã hội hóa dịch vụ công được tiến hành khi Nhà nước nhận thấy những vấn đề nhất định có thể để cho xã hội tự thực hiện và thực hiện có hiệu quả hơn; thu hẹp phạm vi can thiệp của Nhà nước đối với các quá trình xã hội. Xã hội hóa cũng có thể diễn ra khi việc can thiệp quá sâu vào việc cung ứng dịch vụ công vượt quá khả năng của Nhà nước, dẫn đến các hậu quả tiêu cực.

Các nguyên tắc đặt ra đối với việc xã hội hóa dịch vụ công ở các nước trên thế giới là:

· Những công việc nào mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm thì Nhà nước không nên làm.

· Nhà nước chỉ thực hiện những công việc nào mà khu vực tư nhân không thể đảm nhiệm nổi, hoặc nếu có đảm nhiệm thì sẽ dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong xã hội hoặc cung cấp không đầy đủ cho nhu cầu xã hội.

Với những nhận thức như vậy về dịch vụ công và xã hội hóa, điều chúng ta cần có kết luận là vậy xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam có các đặc điểm gì và có tác động như thế nào đối với việc xác định nhu cầu phát triển pháp luật về môi trường trong thời gian tới.

Thứ nhất, các hoạt động môi trường có phải là các hoạt động mang tính chất dịch vụ công hay không? Xét từ thực tiễn ở các quốc gia khác nhau, có thể nhận thấy rằng quan điểm của mỗi nước về dịch vụ công có khác nhau. Ở một số quốc gia phát triển, dịch vụ công được xác định theo nghĩa rộng, bao gồm các hoạt động của Nhà nước trong hầu hết các lĩnh vực (từ lập pháp, an ninh, quốc phòng cho đến giáo dục, y tế, thu gom rác thải, v.v. đều là hoạt động dịch vụ công). Ví dụ, ở Canada có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ an ninh, quốc phòng đến việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Tuy quan điểm của Việt Nam chưa hoàn toàn tương đồng với quan điểm của các quốc gia phát triển, nhưng cũng có thể nhận ra rằng trong những năm đổi mới gần đây, chúng ta đang nỗ lực tạo ra những chuyển biến để đưa nhà nước Việt Nam từ một nhà nước cai trị sang nhà nước phục vụ. Vì vậy, số lượng các dịch vụ từ trước tới nay do nhà nước cung cấp nay đang được tính toán chuyển giao cho xã hội ngày càng nhiều, trong đó có các dịch vụ liên quan tới môi trường như thu gom rác thải ở các đô thị, trồng rừng, v.v. Có thể nói, nhìn từ góc độ này, rất nhiều hoạt động liên quan tới môi trường có thể được coi là dịch vụ công và đều có thể thực hiện xã hội hóa.

Bản chất xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường là việc Nhà nước từng bước chuyển giao các hoạt động liên quan tới môi trường đang do Nhà nước độc quyền thực hiện cho tư nhân và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý  nhà nước, đồng thời, nâng cao hiệu quả của các hoạt động môi trường trong đời sống xã hội bằng cách tạo sự tham gia rộng rãi hơn của các đối tượng trong xã hội vào các hoạt động này, tạo động lực cho các đối tượng đó bằng việc chuyển giao cho họ tự quản lý những hoạt động mang lại lợi ích thiết thực cho chính họ.

Xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường ở nước ta là một tất yếu khách quan bởi các lý do sau:

Thứ nhất, sự chuyển đổi cơ chế quản lý từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Nội dung quan trọng của quá trình chuyển đổi là khắc phục chế độ quản lý quan liêu, bao cấp, Nhà nước bao biện, làm thay tất cả, để tạo ra một chế độ quản lý phù hợp: Nhà nước chuyển giao cho xã hội những công việc thuộc về xã hội mà xã hội có thể làm, để tập trung vào quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong quá trình này, Nhà nước có trách nhiệm tạo cơ chế pháp lý để người dân nhận thức được các quyền, nghĩa vụ của mình, chủ động bảo vệ quyền của mình cũng như thực hiện những gì thuộc về trách nhiệm của xã hội, thay vì sự ỷ lại, trông chờ, phó mặc cho Nhà nước. Đây chính là nội dung quan trọng của xã hội hóa dịch vụ công. Xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường không nằm ngoài nội dung này.

Thứ hai, sự phát triển của kinh tế thị trường làm cho nhu cầu về an toàn pháp lý của công dân và các tổ chức ngày càng cao, đồng thời làm tăng khả năng tham gia của xã hội vào hoạt động môi trường. Kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến sự ra đời và vận hành của các loại thị trường mới: Thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ, thị trường vốn..., kéo theo nó là khối lượng và quy mô các giao dịch ngày càng đa dạng; nhu cầu xã hội về phòng ngừa tranh chấp thông qua hoạt động môi trường ngày càng lớn. Sự phát triển mạnh mẽ nhu cầu về môi trường của công dân và các tổ chức là một trong các tiền đề quan trọng để xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường.

Mặt khác, kinh tế thị trường với sự tham gia của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân đã khơi dậy tiềm năng của xã hội trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra khả năng to lớn để xã hội tham gia vào nhiều hoạt động trong đó có các hoạt động liên quan tới môi trường, đó là:

- Khả năng tài chính.

- Nguồn nhân lực được đào tạo, có kiến thức chuyên môn, có kỹ năng, khả năng tổ chức và quản lý cao.

- Một bộ phận không nhỏ các tổ chức, cá nhân có tâm huyết và có trình độ trong việc tiến hành các hoạt động về môi trường.

Tóm lại, sự phát triển kinh tế - xã hội đã làm thay đổi cả về chất cũng như về lượng các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại làm tăng và đa dạng hoá nhu cầu của xã hội đối với môi trường, đồng thời, tạo ra khả năng để công dân và các tổ chức tham gia tổ chức và hoạt động môi trường. Đó chính là các tiền đề quan trọng để tiến tới xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường.

Thứ ba, do yêu cầu hội nhập quốc tế. Thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là xu thế tất yếu. Sự giao lưu, phát triển đan xen giữa các nước, các khu vực ngày càng mạnh mẽ. Ở các nước khác trên thế giới, hoạt động môi trường là hoạt động được sự hưởng ứng tích cực của rất nhiều tổ chức phi chính phủ và các nhóm công dân. Đồng thời, do tầm quan trọng và tính chất toàn cầu của vấn đề môi trường, các nghĩa vụ đặt ra cho các quốc gia rất lớn, không thể chỉ giải quyết bằng nguồn lực và những nỗ lực của nhà nước mà cần có sự tham gia rộng lớn của xã hội mới có thể giải quyết được vấn đề. Để tồn tại và phát triển trên cơ sở những chuẩn mực chung trên thế giới, xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường nhà nước là một tất yếu.

Đương nhiên, việc xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường ở nước ta đã và sẽ gặp những cản trở không nhỏ, đó là:

- Tâm lý của các nhà quản lý chưa thật sự yên tâm, tin tưởng vào khả năng tham gia và trách nhiệm của xã hội vào các hoạt động trong lĩnh vực môi trường. Mặt khác, "nhà nước hóa" trong môi trường là mô hình vẫn đang được thực hiện từ trước tới nay, nó không yêu cầu Nhà nước phải có sự thay đổi trong phương thức quản lý, đồng thời, quản lý nhà nước từ trước tới nay vẫn thường gắn liền với quyền lực và lợi ích, việc duy trì các hoạt động về môi trường trong tay nhà nước sẽ đồng thời duy trì được lợi ích đó cho các đối tượng thuộc khu vực nhà nước. Ngược lại, khi thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường, Nhà nước buộc phải có sự điều chỉnh cơ chế, phương pháp, cách thức quản lý, cần phải có một quá trình để nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Hơn nữa, xóa bỏ độc quyền Nhà nước không thể thực hiện trong một sớm một chiều vì nó động chạm đến lợi ích cục bộ của một bộ phận quan chức nhà nước.

- Người dân đã quen với sự bao cấp của Nhà nước, ỷ lại vào sự bao cấp, bảo vệ, che chở của Nhà nước, sinh ra tâm lý không muốn "tự thân vận động". Mặt khác, cũng phải nhìn nhận một cách khách quan là so với việc thực hiện một số hoạt động mang tính dịch vụ công do Nhà nước chuyển giao trong quá trình xã hội hoá (như dịch vụ môi trường chẳng hạn), các hoạt động môi trường là mới mẻ và chưa hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích vật chất trước mắt cho các đối tượng tham gia các hoạt động này.

- Kinh tế thị trường Việt Nam được xây dựng và phát triển trên cơ sở một nền sản xuất nhỏ, sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và phát triển không đồng đều giữa các khu vực, vùng miền. Chính vì thế, sau gần 20 năm đổi mới, mặc dù đã thu được không ít thành tựu về kinh tế - xã hội, song nước ta vẫn chưa hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường (thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ...). Hệ quả là mặc dù các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại đã có sự phát triển, song khối lượng, quy mô còn rất hạn chế, có sự chênh lệch lớn giữa các khu vực, vùng miền, gây khó khăn cho việc tiến hành xã hội hoá lĩnh vực môi trường trên diện rộng.

- Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về trách nhiệm cụ thể của các đối tượng trong xã hội (các tổ chức, công dân) trong lĩnh vực môi trường, nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp gây ra sự cố về môi trường ở các quy mô, tác động khác nhau nên chưa đảm bảo sự quan tâm thực sự từ phía xã hội. Sự thiếu đồng bộ trong các quy định pháp luật về kinh tế thị trường, pháp luật dân sự, pháp luật về bất động sản, v.v. cũng chưa thực sự tạo ra các bảo đảm về mặt pháp lý khuyến khích các đối tượng trong xã hội tham gia tích cực, có trách nhiệm và độc lập vào các hoạt động môi trường.

Xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công ở Việt Nam có một số điểm đặc trưng, cụ thể là:

Đặc trưng thứ nhất: Xã hội hoá là quá trình Nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công, từng bước chuyển giao cho cá nhân và các tổ chức thực hiện. Trước hết cần phải thấy, xã hội hoá là một quá trình lâu dài với những bước đi phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội; trình độ dân trí; quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội; năng lực quản lý của Nhà nước; khả năng của xã hội và nhu cầu của xã hội đối với các dịch vụ công. Vì thế, xã hội hoá chính là sự xóa bỏ độc quyền Nhà nước trong các lĩnh vực liên quan. Các hoạt động trong những lĩnh vực đó, từ chỗ chỉ có một chủ thể duy nhất là Nhà nước thực hiện được chuyển giao cho nhiều chủ thể thực hiện. Trong quá trình đó, Nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện. Nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người quản lý nhà nước, phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ. Nhà nước xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đây là một giải pháp quan trọng làm cho bộ máy nhà nước bớt cồng kềnh, tiết kiệm ngân sách nhà nước. Đồng thời làm cho các hoạt động cung cấp dịch vụ gắn bó thiết thực hơn với đời sống và lợi ích của người dân.

Đặc trưng thứ hai: Xã hội hoá không phải Nhà nước buông lỏng quản lý hoặc từ bỏ chức năng quản lý thống nhất mà thực chất là tăng cường quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực liên quan. Xã hội hoá không phải là xóa bỏ quản lý nhà nước mà Nhà nước chỉ thay đổi hình thức, nội dung, mức độ, cơ chế thực hiện sự quản lý. Nhà nước không trực tiếp thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ mà là người hoạch định chính sách, chiến lược, kế hoạch, định hướng phát triển, xây dựng thể chế, điều tiết, giám sát, v.v.. Khi thực hiện xã hội hoá, Nhà nước tự giải phóng mình khỏi những công việc ở tầm vi mô, tập trung vào hoạt động quản lý vĩ mô với việc phân định rõ ràng ranh giới trách nhiệm của Nhà nước và xã hội. Đó chính là điều kiện để tăng cường vai trò quản lý nhà nước.

Đặc trưng thứ ba: Xã hội hoá gắn liền với việc mở rộng dân chủ, phát huy vai trò tự chủ, tự quản, tự chịu trách nhiệm. Xã hội hoá tạo khả năng để công dân, tổ chức có đủ điều kiện do pháp luật quy định được tham gia tổ chức, hoạt động cung cấp dịch vụ. Đồng thời, xã hội hoá cũng tạo quyền chủ động, tự chủ để các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ có quyền tự quyết định trong việc lựa chọn, tuyển dụng, trả công lao động, tổ chức nội bộ, đảm bảo tính độc lập tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của các cá nhân, tổ chức liên quan.

Đặc trưng thứ tư: Xã hội hoá là việc phát huy các nguồn lực xã hội vì lợi ích chung. Xã hội hoá là biện pháp phát huy nội lực có hiệu quả, mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực trong xã hội; phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Đối với Việt Nam - một nước đang phát triển, khả năng của Nhà nước về mọi mặt (đặc biệt là vốn) hạn hẹp, trong khi đó nguồn vốn tồn đọng trong xã hội rất lớn, việc phát huy nội lực cho phát triển càng trở nên quan trọng.

Tuy nhiên, do lĩnh vực môi trường tương đối độc lập và có nhiều đặc thù, xã hội hoá các hoạt động môi trường cũng có những đặc thù tạo nên sự khác biệt với các lĩnh vực khác. Các đặc thù đó bao gồm:

- Môi trường là một yếu tố gắn bó hữu cơ và trực tiếp tới chất lượng cuộc sống của mọi người dân và các thay đổi về môi trường là rất dễ dàng cảm nhận thấy. Vì vậy, đây là lĩnh vực dễ thuyết phục người dân cùng đóng góp các nguồn lực để cải thiện môi trường. Đây là một tiền đề rất quan trọng cho việc thực hiện xã hội hoá các hoạt động môi trường.

- Môi trường vừa là đối tượng có thể được khai thác vừa là đối tượng cần phải được bảo vệ. Mỗi  chủ thể đều có thể vừa khai thác môi trường, vừa bảo vệ môi trường. Rõ ràng lợi ích và nghĩa vụ ở đây có sự đan xen một cách trực tiếp. Vì vậy nếu đặt ra và giải quyết tốt bài toán lợi ích, có thể tìm được ngay lời giải đối với nghĩa vụ, trách nhiệm đối với môi trường. Nói một cách khác, xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường là vấn đề xã hội hóa cả lợi ích và trách nhiệm và hai mặt này của vấn đề luôn đồng hành với nhau.

Trong bất kỳ lĩnh vực nào, nguyên tắc đảm bảo pháp luật cũng đều phải được tôn trọng. Do đó, xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường cũng phải đảm bảo tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật. Quản lý nhà nước bằng pháp luật là một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, dù Nhà nước trực tiếp hay không trực tiếp thực hiện đều phải có sự quản lý bằng pháp luật của Nhà nước. Pháp luật, một mặt, là công cụ quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho quá trình xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường đi đúng định hướng, quỹ đạo của Nhà nước; chống sự tùy tiện, tự do vô chính phủ gây mất ổn định, công bằng xã hội; mặt khác, là "bà đỡ" cho quá trình xã hội hóa, tạo môi trường pháp lý ổn định để các chủ thể yên tâm tham gia vào lĩnh vực môi trường; đồng thời, tránh được sự can thiệp tùy tiện, vô nguyên tắc của Nhà nước vào quá trình hoạt động của các chủ thể. Chỉ trên cơ sở pháp luật, mới đảm bảo quyền tự do hành nghề, quyền được làm những gì pháp luật không cấm của các chủ thể.

Để đảm bảo tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực môi trường khi thực hiện xã hội hóa, Nhà nước phải xây dựng và thường xuyên hoàn thiện thể chế môi trường, đồng thời xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường đảm bảo cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường (thị trường bất động sản, vốn, khoa học - công nghệ, lao động, chứng khoán...), thúc đẩy các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển làm tiền đề cho sự phát triển môi trường. Đồng thời, Nhà nước phải có cơ chế hữu hiệu đưa pháp luật đi vào cuộc sống, đảm bảo cho quá trình xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường được thực hiện có kết quả, đáp ứng các yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật không phải là hạn chế các hoạt động môi trường, mà trên cơ sở pháp luật, đảm bảo cho hoạt động đó phát triển đúng định hướng. Đối với Việt Nam, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường.

Pháp luật cũng phải đảm bảo để xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường không tiến hành một cách nóng vội, đốt cháy giai đoạn, mà là một quá trình đồng thời với việc nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra khả năng của xã hội tham gia vào lĩnh vực môi trường, làm cho môi trường thực sự là công việc của xã hội, đồng thời, tạo ra nhu cầu đích thực của xã hội đối với hoạt động môi trường.

Pháp luật cũng phải đảm bảo kết hợp vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp trong xã hội hoá các hoạt động môi trường. Thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động cụ thể mà chỉ thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động môi trường. Vì vậy, trên cơ sở pháp luật, cần tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng tiến hành các hoạt động môi trường; xây dựng mô hình tổ chức tự quản phù hợp, đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp giữa quản lý nhà nước và  tự quản.của các tổ chức, hiệp hội bảo vệ môi trường.

Pháp luật cũng phải góp phần kiểm soát quá trình xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường, đảm bảo một mặt tăng cường năng lực và hiệu quả khai thác, bảo vệ môi trường đồng thời không làm tăng sự phân hóa giàu nghèo, giữ ổn định và công bằng xã hội. Đây là một trong các yêu cầu quan trọng của pháp luật điều chỉnh quá trình xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường. Mặt khác, Nhà nước thực hiện các nguyên tắc điều chỉnh và ưu tiên, có chính sách trợ giúp người nghèo, và những người thuộc diện chính sách xã hội khác.để họ có cơ hội tham gia thực hiện các nghĩa vụ và và hưởng thụ các lợi ích  từ quá trình xã hội hoá trong lĩnh vực môi trường. Ở Việt Nam đây cũng là một trong các nguyên tắc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

IV. NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG ĐẾN NĂM 2020

4.1.Mục tiêu phát triển pháp luật môi trường đến năm 2020

Về mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm  2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.”

Pháp luât môi trường là một bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia. Mục tiêu phát triển pháp luật  môi trường phải phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển hệ thống pháp luật quốc gia. nhưng  gắn với những định hướng, nội dung đặc thù của lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở phân tích các thách thức, các cơ sở định hướng và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển pháp luật môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020,  có thể xác định mục tiêu tổng quát về phát triển pháp luật môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá  như sau:

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật môi trường Việt Nam đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, hiệu lực thi hành cao, trọng tâm là bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong sạch và sự phát triển bền vững của đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Để đạt được mục tiêu tổng quát đó, việc xác định các nhu cầu và giải pháp phát triển pháp luật  môi trường được thực hiện trên 2 phương diện lớn :

- Nhu cầu, giải pháp  xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường  đồng bộ, thống nhất, khả thi , công khai, minh bạch  (bao gồm  những nhu cầu về nội dung, hình thức văn bản quy phạm pháp luật và về quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật môi trường)

- Nhu cầu về nâng cao hiệu lực thi hành của pháp luật môi trường (bao gồm các nhu cầu về thông tin, phổ biến giáo dục pháp luật môi trường nhằm nâng cao ý thức và năng lực tiếp cận, sử dụng pháp luật môi trường của toàn xã hội; kiện toàn, nâng cao năng lực các thiết chế  thi hành pháp luật môi  trường và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng, thực hiện pháp luật môi trường)

4.2. Nhu cầu và giải pháp đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch của pháp luật môi trường trong việc thể chế hoá quan điểm phát triển bền vững thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

4.2.1 .Nhu cầu và giải pháp đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi minh bạch về nội dung của pháp luật môi trường

Pháp luật  môi trường là một hệ thống đồ sộ các văn bản quy phạm pháp luật rất khác biệt về thời điểm ban hành; về hình thức văn bản và thứ bậc hiệu  lực pháp lý  (từ các quy định trong Hiến pháp đến các luật, bộ luật, pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành luật như nghị định, nghị quyết của Chính phủ, các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân các cấp ban hành theo thẩm quyền..). Đặc biệt, đó là sự khác biệt, đa dạng về phạm vi và nội dung điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật môi trường.. Nếu xét từ góc độ học thuật và theo cách phân định các ngành luật đã được thừa nhận và áp dụng cho đến nay trong khoa học pháp lý Việt Nam thì  các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường thuộc về nhiều ngành luật khác nhau vì chúng điều chỉnh bằng các phương pháp khác nhau đối với các mối quan hệ xã hội có đặc trưng rất khác nhau nhưng có chung đối tượng tác động là môi trường (và các thành tố của môi trường); đó vừa là quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật dân sự- kinh tế (, quan hệ pháp luật hình sự.....Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường,  Luật Bảo vệ môi trường 2005 giữ vị trí trung tâm, là đạo luật quy định một cách tập trung, trực tiếp những vấn đề cơ bản  nhất trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, thể chế hoá khá đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường, về phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chính đặc trưng đa nguồn, đa ngành này của pháp luật môi trường làm cho nhu cầu đảm bảo để không chỉ Luật bảo vệ môi trường mà toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật môi trường phải thể chế hoá một cách đồng bộ, thống nhất, minh bạch quan điểm phát triển bền vững càng trở nên bức xúc, được coi là  yêu cầu số 1 trước mắt và lâu dài.

 Các giải pháp pháp lý chủ yếu

4.2.1.1. Xây dựng và thực thi cơ chế pháp lý đảm bảo thể chế hoá quan điểm phát triển bền vững trong các chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia, ngành,  lĩnh vực, địa phương, khu vực.

Pháp luật phải thật sự trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu đảm bảo kết hợp các mục tiêu phát triển kinh tế với mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường  nhằm bảo vệ quyền con người được sống trong môi trường trong sạch và sự phát triển bền vững của đất nước đúng như Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định, cam kết thực hiện trước quốc dân và cộng đồng quốc tế

Hiện nay, việc xây dựng các chiến lược, quy họach, kế họach, chương trình phát triển trung hạn và dài hạn đã trở nên phổ biến không chỉ đối với các ngành, các lĩnh vực mà còn đối với cả các địa phương, khu vực. Đây là một chuyển biến lớn, tích cực trong tư duy quản lý ở nước ta. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, trong các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của ngành, địa phương những mục tiêu, nội dung bảo vệ môi trường còn rất mờ nhạt, trong nhiều trường hợp chỉ được đề cập một cách hình thức.  Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định một nội dung  bắt buộc phải có trong các chiến lược, quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế- xã hội của ngành, địa phương là  lập bản Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược. .Với quy định này,  các nhà hoạch định chính sách  cũng như các nhà lãnh đạo cao nhất của các bộ, ngành, địa phương không chỉ có trách nhiệm đạo lý- nhân văn mà còn có  nghĩa vụ pháp lý phải xem xét, cân nhắc  mọi  chỉ tiêu, giải pháp phát triển kinh tế- xã hội  của ngành mình, địa phương mình từ góc độ bảo vệ môi trường chiến lược có tính đến tất cả các thách thức đặt ra từ nền kinh tế thị trường, từ quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế.. Việc không tuân thủ nghĩa vụ này dẫn đến hậu quả là các chiến lược, chương trình, quy hoạch phát triển ngành, địa phương thiếu hẳn  một nội dung quan trọng là đưa ra phương hướng, giải pháp tổng thể giải quyết các vấn đề môi trường trong quá trình thực hiện chiến lược, quy hoạch. Các chiến lược, quy hoạch thường được ban hành dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật. Nếu việc soạn thảo không tuân thủ đầy đủ các bước về trình tự hoặc các yêu cầu về nội dung thì dự thảo chiến lược, quy hoạch có thể không được thẩm định thông qua  theo Luật bảo vệ môi trường và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.  Đây chính là một trong các cơ chế pháp lý  để  bảo đảm thể chế hoá và thực thi  quan điểm  phát triển bền vững  của Đảng và Nhà nước. Do đó, cần khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn thi hành việc thẩm định Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược cũng như Báo cáo đánh giá tác động môi trường khi lập dự án công trình đầu tư, trong đó, không chỉ xác lập trình tự, thủ tục, hồ sơ thẩm định mà còn phải quy định cả chế tài (hành chính và vật chất) áp dụng đối với các cơ quan, cá nhân không thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm lập các báo cáo tác động môi trường cũng như không thực thi nghiêm túc trách nhiệm thẩm định, phê duyệt các báo cáo tác động môi trường .

4.2.1.2. Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và cân đối giữa các quy định về khai thác/sử dụng môi trường với các quy định bảo vệ và phát triển môi trường

Khi đề cập tới pháp luật về môi trường, các nhà lý luận và thực tiễn thường phân biệt các vấn đề thành hai mảng chính là mảng môi trường “xanh” và mảng môi trường “nâu”.

Mảng môi trường “xanh” bao gồm chủ yếu các vấn đề liên quan tới bảo vệ, phòng ngừa, cải thiện môi trường, các vấn đề liên quan tới môi trường sinh thái nói chung – tức là các vấn đề liên quan tới việc đảm bảo giữ màu xanh cho thiên nhiên. Mảng môi trường “nâu” là các vấn đề như ô nhiễm và kiểm soát ô nhiễm, chống suy thoái trong quá trình khai thác và sử dụng các thành tố của môi trường, xử lý và khắc phục sự cố môi trường – tức là các vấn đề liên quan tới việc khắc phục, xử lý các yếu tố làm cho môi trường mất màu xanh, biến thành màu nâu. Xét từ quan điểm phát triển bền vững thì dường như các quy định thuộc mảng ‘xanh” liên quan trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường, tiến bộ xã hội và tập trung ở Luật bảo vệ môi trường còn các quy định thuộc mảng “nâu’ liên quan trực tiếp tới việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, công bằng xã hội và được quy định tại các luật chuyên ngành về khai thác, sử dụng các thành tố môi trường (như Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật tài nguyên , Luật thuỷ sản..). Nhưng trên thực tế, không thể tách rời giữa các quy định thuộc hai mảng này cũng như không thể tách biệt giữa các mục tiêu  kinh tế, xã hội, môi trường. Chỉ khi nào các quy định “xanh” và “nâu” được xác lập đồng bộ, thống nhất và cân đối trong mỗi văn bản quy phạm pháp luật môi trường hoặc trong các văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một loại quan hệ pháp luật môi trường thì mới thực sự có được  sự phát triển bền vững.

Pháp luật môi trường hiện hành còn thiếu nhiều nội dung liên quan tới cả mảng “nâu” và mảng “xanh”, thiếu sự cân đối giữa các quy định phòng và chống ô nhiễm, suy thoái môi trường. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới suy thoái môi trường trầm trọng đối với một số thành phần môi trường cụ thể, đe doạ sự tồn tại bền vững của mái nhà chung trong đó, mọi dân tộc, mọi quốc gia đang sinh sống. .

Thực tiễn ở Việt Nam và nhiều nước cho thấy, các quy định điều chỉnh việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên  thường được ban hành sớm hơn, cụ thể, chi tiết và có tính khả thi cao hơn so với các quy định về bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường.  Với tầm nhìn hạn hẹp và mối quan tâm về những lợi ích trước mắt gắn với mưu sinh trong cuộc sống còn nhiều khó khăn, một bộ phận không nhỏ người dân và các doanh nghiệp  nhận thức chưa đầy đủ, rõ ràng về tác hại do khai thác cạn kiệt, huỷ hoại môi trường, đặc biệt là các tác hại tiềm ẩn, chỉ xuất hiện sau một thời gian dài, thậm chí sau một vài thế hệ con người; thiếu khả năng nhận biết những vấn đề có tính vĩ mô, những vấn đề môi trường liên vùng, quốc gia hay quốc tế. Do đó,  bằng công cụ pháp luật, Nhà nước phải định hướng nhận thức và  hoạt động bảo vệ môi trường của người dân ngay trong từng hoạt động sản xuất- kinh doanh  của họ, đưa các quy định về bảo vệ môi trường  ngang tầm với các quy định về khai thác, sử dụng môi trường. Sự ngang tầm, cân đối giữa các quy định “xanh” và “nâu” phải thể hiện ở cả số lượng lẫn chất lượng, mức độ cụ thể chi tiết và tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường.. Đây chính là giải pháp pháp lý cho việc gìn giữ, tái tạo lại và phát triển môi trường trong sạch không chỉ cho thế hệ ngày nay mà còn cho cả các thế hệ mai sau theo quan điểm phát triển bền vững.

4.2.1.3.  Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch  trong các quy định pháp luật về xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn  môi trường.

 Tiêu chuẩn môi trường là các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, là công cụ pháp lý quan trọng để Nhà nước và xã hội kiểm soát ô nhiễm, suy thoái môi trường. Với người dân, tiêu chuẩn môi trường tạo thành không gian pháp lý trong đó họ được phép tác động đến môi trường khi khai thác, sử dụng các thành phần môi trường, nếu vượt quá giới hạn đó thì sẽ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý tương xứng. Quy định về tiêu chuẩn môi trường mang tính phòng ngừa cao, là một trong những bộ phận quan trọng của mảng “xanh” trong pháp luật môi trường. Như đã phân tích ở chương I, tính đầy đủ, tính khả thi và tính minh bạch đang là những thách thức lớn trong việc xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các thách thức đó, Luật bảo vệ môi trường 2005 đã quy định 3 nguyên tắc xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường, đó là:

- Việc xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường phaỉ đáp ứng mục tiêu  bảo vệ môi trường; phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường;

- Các tiêu chuẩn môi trường phải được ban hành kịp thời, có tính khả thi, phù hợp trình độ phát triển kinh tế- xã hội, khoa học công nghệ của đất nước, phù hợp yêu cầu hội nhập quốc tế đồng thời có tính đến đặc điểm khu vực, vùng, ngành

- Các tiêu chuẩn môi trường bắt buộc áp dụng do nhà nước công bố                                                                         công khai,  rộng rãi  phải được mọi cá nhân, tổ chức tuân thủ.

Luật uỷ quyền cho Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành và công nhận, rà soát để điều chỉnh tiêu chuẩn môi trường quốc gia;  Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố hệ số vùng, miền, ngành cho việc áp dụng tiêu chuẩn môi trường quốc gia (điều 13)

 Trên cơ sở các nguyên tắc của Luật và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải khẩn trương xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn môi trường còn thiếu đồng thời rà soát để điều chỉnh các tiêu chuẩn môi trường đã có nhưng không còn phù hợp. Một vấn đề cần lưu ý là tiêu chuẩn môi trường vừa phải mang tính ổn định tương đối của quy phạm pháp luật (giới hạn pháp lý mà cá nhân, tổ chức không được vượt quá khi tác động đến môi trường) nhưng đồng thời lại mang trong nó tính động của các yếu tố kỹ thuật trong thời  đại mà khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ.. Do đó, việc quy định hình thức văn bản và thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật có chứa các tiêu chuẩn môi trường phải tính đến hai thuộc tính này để vừa đảm bảo gíá trị pháp lý cao của quy phạm tiêu chuẩn môi trường vừa đảm bảo sự linh hoạt, kịp thời trong việc ban hành mới hoặc điều chỉnh tiêu chuẩn môi trường.

Liên quan đến nguyên tắc thống nhất, phù hợp giữa tiêu chuẩn môi trường quốc gia với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế cũng cần lưu ý  đến vấn đề sau. Đối với những tiêu chuẩn môi trường được pháp luật quốc tế quy định “cứng”, không cho phép có xê dịch thì đương nhiên việc phải tuân thủ tuyệt đối là điều rất quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, rất nhiều chuẩn mực môi trường được quy định “mềm”, đặc biệt là trong các văn kiện của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Theo quy định của các Hiệp định của WTO, các quốc gia có quyền quy định các chuẩn mực môi trường chặt chẽ hơn chuẩn quốc tế nếu có thể lý giải cho các chuẩn mực đó. đồng thời đảm bảo thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử.  Điều này cũng có thể hiểu từ một góc độ khác là: các quốc gia đặt ra tiêu chuẩn môi trường thấp sẽ sản xuất ra những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn môi trường ở các quốc gia có tiêu chuẩn môi trường cao hơn và do đó, không thể bán sản phẩm tại các nước đó. Sức ép này buộc Việt Nam phải cân nhắc kỹ càng khi đưa ra các tiêu chuẩn môi trường, đặc biệt là các tiêu chuẩn liên quan tới việc sản xuất, chế biến các sản phẩm thương mại dành cho xuất khẩu.

          Để đảm bảo tính công khai, minh bạch của việc xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường cần chấm dứt tình trạng không tuân thủ quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật về việc đăng Công báo các văn bản ban hành tiêu chuẩn môi trường  (phải đăng tải đầy đủ cả văn bản ban hành lẫn danh mục các tiêu chuẩn môi trường).

Việc xây dựng một Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn môi trường là giải pháp  cần thiết và hữu hiệu để nâng cao tính công khai, minh bạch của việc xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn môi trường. Trong Cơ sở dữ liệu đó không chỉ có các dữ liệu về tiêu chuẩn môi trường được sắp xếp khoa học theo các tiêu chí, chỉ dẫn dễ hiểu, dễ tra cứu mà cần có cả những thông tin liên quan đến việc áp dụng và xử lý vi phạm tiêu chuẩn môi trường theo khu vực, miền, ngành....

4.2.1.4  Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của các quy định về vi phạm pháp luật  bảo vệ  môi trường, về trách nhiệm pháp lý  và các chế tài áp dụng để xử lý các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường

          Nếu quy định về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường thuộc mảng “xanh” thì các quy định về  vi phạm pháp luật môi trường,  các hình thức trách nhiệm pháp lý và các chế tài áp dụng để xử lý vi phạm pháp luật môi trường lại là bộ phận quan trọng thuộc mảng “nâu” của pháp luật môi trường. Tuy nhiên, các quy định này nếu được ban hành và áp dụng đúng đắn thì không chỉ có ý nghĩa chống mà cũng mang tính , phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung rất cao. Nhưng cho đến nay, thực tế cho thấy còn khá nhiều bất cập trong việc điều chỉnh pháp luật đối với mảng “nâu” này[33], đặc biệt là sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, tính khả thi, minh bạch thấp của các quy định hiện hành. Hệ quả là nhiều điều luật chỉ nằm trên giấy, không thể áp dụng trong thực tiễn (ví dụ như một số quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội về môi trường) trong khi các cơ quan bảo vệ pháp luật phải bó tay vì không có căn cứ pháp lý để đấu tranh với các vi phạm phổ biến, đôi khi rất nghiêm trọng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

          Các giải pháp pháp lý chủ yếu

Một là,  phân loại, rà soát, hệ thống hoá tất cả các quy định về những hành vi bị nghiêm cấm, những nghĩa vụ pháp lý trong Luật bảo vệ môi trường và các luật chuyên ngành mà các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật môi trường phải thực hiện. Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã quy định 15 nhóm hành vi bị nghiêm cấm và một điều khoản “quét” về “các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của pháp luật” (điều 7). Việc vi phạm những quy định cấm hoặc những nghĩa vụ pháp lý này là căn cứ để xác định trách nhiệm pháp lý của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vưc bảo vệ môi trường. Kết quả của hoạt động rà soát,  hệ thống hoá là những đề xuất cụ thể về huỷ bỏ các quy định chồng chéo, mâu thuẫn; về sửa đổi những quy định không còn phù hợp và bổ sung, ban hành mới các quy định còn thiếu. Đây có thể coi là việc làm quang sạch, thông thoáng hành lang pháp lý giúp cho cá nhân, tổ chức biết rõ họ phải làm gì, không được làm gì trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

          Hai là, hoàn thiện các quy định về thiệt hại và cách thức xác định thiệt hại về môi trường để áp dụng thống nhất trong việc xử lý các vi phạm, tranh chấp về môi trường.

Một trong những cơ sở rất quan trọng của việc xác định trách nhiệm pháp lý dù là trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực môi trường, là xác định thiệt hại – các dạng thiệt hại và mức độ thiệt hại môi trường. Việc xác định đúng và đủ thiệt hại môi trường là tiền đề quan trọng để xác định trách nhiệm cho các cá nhân, tổ chức có các hành vi vi phạm. Cho tới trước Luật bảo vệ môi trường 2005, do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, pháp luật môi trường vẫn để trống việc xác định thiệt hại môi trường, các tiêu chí và phương thức tính toán chi phí thiệt hại môi trường. Rõ ràng đây là một khiếm khuyết làm giảm đáng kể tính khả thi của các quy định về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với thiệt hại về môi trường.

Luật bảo vệ môi trường 2005 đã khắc phục bước đầu khiếm khuyết đó. Luật xác định 2 dạng thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường:

-Suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, các thành phần môi trường;

- Thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.

Luật cũng quy định về 3 mức độ của sự suy giảm (có suy giảm, suy giảm nghiêm trọng và suy giảm đặc biệt nghiêm trọng); cách xác định thiệt hại (giới hạn, phạm vi môi trường bị suy giảm, số lượng và mức độ thiệt hại của các thành phần môi trường bị suy giảm..) ; cách tính toán chi phí thiệt hại về môi trường (bao gồm cả chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài, chi phí xử lý cải tạo, phục hồi môi trường, giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại...). Riêng việc xác định các thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng, tài sản và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì theo quy định chung của pháp luật dân sự. Như vậy, Luật bảo vệ môi trường 2005 đã tính đến đặc thù của thiệt hại môi trường, đó là không chỉ có thiệt hại trực tiếp (suy giảm chức năng, tính hữu ích của các thành phần môi trường) mà còn có cả thiệt hại gián tiếp ( sức khoẻ, tính mạng con người, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức do sự suy giảm chức năng môi trường gây ra...), có thiệt hại hiện hữu, trước mắt và thiệt hại tiềm ẩn, lâu dài. Tuy nhiên, các quy định này cũng vẫn chỉ mang tính nguyên tắc, định tính, do đó, Luật giao cho Chính phủ hướng dẫn chi tiết việc xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường làm căn cứ áp dụng vào quá trình đánh giá, giám định thiệt hại và chi phí thiệt hại trong những trường hợp cụ thể, đối với mỗi một thành phần môi trường cụ thể.

Các quy định chi tiết xác định thiệt hại môi trường sẽ là một căn cứ khoa học để định lượng trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Ví dụ: cần xác lập mối tương quan  giữa các tiêu chí xác định thiệt hại môi trường (3 cấp độ suy giảm chức năng môi trường; phạm vi diện tích môi trường bị suy giảm; số lượng và mức độ các thành phần môi trường bị suy giảm)  với các tiêu chí định lượng khung hình phạt của các tội phạm môi trường như  “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng” và “đặc biệt nghiêm trọng”  trong pháp luật hình sự hiện nay. Việc định lượng hoá  mức độ nghiêm trọng của tội phạm trên cơ sở xác định mức độ thiệt hại môi trường sẽ làm cho các quy định về tội phạm môi trường khả thi hơn, việc áp dụng pháp luật để xét xử tội phạm về môi trường sẽ thống nhất, minh bạch hơn.

Ba là, hoàn thiện các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.

Trên cơ sở quy định của Luật bảo vệ môi trường 2005 về các hành vi bị nghiêm cấm, tiến hành rà soát, hệ thống hoá để:

- Bổ sung mới các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật môi trường chưa được quy định tại các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường cũng như trong các văn bản pháp luật chuyên ngành về khai thác, sử dụng các thành phần môi trường. Việc bổ sung các quy định về xử phạt vi phạm hành chính cũng phải được đặt trong mối liên hệ thống nhất với các quy định về tội phạm môi trường  trong Bộ luật hình sự để loại bỏ tình trạng “vênh” giữa các văn bản. Cụ thể, một số tội phạm về môi trường có dấu hiệu bắt buộc là người có hành vi vi phạm pháp luật trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính thế nhưng trong các văn bản pháp luật môi trường lại không quy định việc xử phạt hành chính đối với loại hành vi đó, do vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự

- Loại bỏ sự trùng lặp, mâu thuẫn trong các quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhất là những trường hợp cùng một hành vi vi phạm  nhưng lại được quy định các mức xử phạt khác nhau trong các văn bản khác nhau dẫn đến áp dụng pháp luật không thống nhất.

Việc rà soát, hệ thống hoá các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường sẽ thuận lợi hơn vì được tiến hành trong bối cảnh Chính phủ đang được giao soạn thảo Bộ luật xử phạt vi phạm hành chính. Ý tưởng của việc xây dựng Bộ luật này là sẽ thực hiện công tác pháp điển hoá đối với các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong mọi lĩnh vực nhằm làm cho pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trở nên đơn giản, rõ ràng, được ban hành đúng thẩm quyền và đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch, không trùng lặp và mâu thuẫn, dễ dàng và thuận tiện cho việc tra cứu, áp dụng. Vấn đề cần làm rõ là trong Bộ luật xử phạt vi phạm hành chính đó, những vấn đề về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực, ví dụ như lĩnh vực môi trường, được đề cập đến mức độ nào (các nguyên tắc đặc thù, phạm vi các loại hành vi vi phạm pháp luật môi trường có thể bị xử phạt..) còn những vấn đề nào để luật chuyên ngành quy định.

- Định lượng lại mức phạt theo mức độ thiệt hại do ô nhiễm thực tế đã xảy ra. Đa số quy định xử phạt vi phạm hành chính hiện nay ấn định mức phạt “cứng”. Mức phạt này có thể thích hợp với một số loại thiệt hại nhưng trong nhiều trường hợp lại không đủ để bù đắp dù là phần nhỏ cho các hoạt động khắc phục thiệt hại, sự cố. Điều này vừa làm mất ý nghĩa bồi thường cho các thiệt hại mà hành vi vi phạm pháp luật gây ra vừa hạn chế tác dụng răn đe và ngăn chặn của biện pháp phạt, dễ dẫn tới tình trạng “thà vi phạm mà bị phạt” của các đối tượng liên quan, gián tiếp làm giảm hiệu lực thực tế của pháp luật nói chung.

Bốn là , hoàn thiện các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự.

Việc hoàn thiện phải giải quyết được các bất cập trong các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự hiện nay là:

- Làm rõ hơn đối tượng tác động của các tội phạm về môi trường. Phù hợp với quy định của Luật bảo vệ môi trường 2005 về 2 dạng thiệt hai do ô nhiễm, suy thoái môi trường, đối tượng chịu sự tác động của hành vi phạm tội môi trường  không chỉ là môi trường và các thành tố của môi trường mà còn là  tính mạng, sức khoẻ , tài sản, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

- Nghiên cứu việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với các tổ chức, pháp nhân. Cho tới nay, pháp luật hình sự của Việt Nam mới chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân. Tuy nhiên các hành vi gây thiệt hại môi trường lại chủ yếu do các doanh nghiệp gây ra. Do đó, việc quy trách nhiệm cụ thể và áp dụng hình phạt rất khó thực hiện.

Định lượng lại khung hình phạt và mức phạt theo mức độ thiệt hại do ô nhiễm thực tế đã xảy ra,  đảm bảo tính “liên thông”, nâng cao của mức phạt hình sự so với mức phạt hành chính vì trong phần lớn trường hợp, người có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường  chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính nhưng không chấp hành các nghĩa vụ khắc phục thiệt hại theo quyết định xử phạt hành chính.

- Tiếp tục đổi mới cách thức quy định tội phạm về môi trường trong  các văn bản quy phạm pháp luật để nâng cao tính thống nhất, minh bạch của các quy định này. Trước mắt, từ góc độ thống nhất quan niệm về bảo vệ môi trường trong Luật bảo vệ môi trường 2005 và Bộ luật hình sự 1999, cần nghiên cứu việc tập hợp toàn bộ các quy định về tội phạm liên quan đến việc khai thác, sử dụng không hợp lý, lãng phí tài nguyên thiên nhiên (với tính chất là thành phần môi trường) vào Chương các tội phạm về môi trường của Bộ luật Hình sự. Hiện nay vẫn còn nột số tội phạm về thực chất là tội phạm môi trường nhưng lại được quy định ở các chương khác, ví dụ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng...được để ở Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

Tuy nhiên, về lâu dài, nên nghiên cứu việc quy định xử lý các vi phạm pháp luật về môi trường- từ xử phạt hành chính đến các tội phạm về môi trường ngay trong các luật chuyên ngành (chẳng hạn xử phạt hành chính các vi phạm pháp luật về rừng và các  tội phạm liên quan đến khai thác, sử dụng rừng sẽ được quy định trong Luật bảo vệ và phát triển rừng). Cách thức này sẽ góp phần đảm bảo tính hệ thống, toàn diện, thống nhất trong việc điều chỉnh mọi vấn đề liên quan đến bảo vệ một thành phần môi trường ngay trong một văn bản luật chuyên ngành (từ khai thác, sử dụng, xác định hệ tiêu chuẩn môi trường, khắc phục sự cố môi trường, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp môi trường...). Hướng tiếp cận này tạo sự tiện lợi trong tìm kiếm, tra cứu, áp dụng pháp luật cũng như trong việc cập nhật, sửa đôi nhanh chóng, kịp thời.

4.2.1.5 Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch trong việc xác lập và thực thi cơ chế pháp lý đảm bảo kích thích và hài hoà lợi ích cũng như trách nhiệm của nhà nước, tổ chức và cá nhân trong quá trình xã hội hoá các hoạt động bảo vệ môi trường theo quan điểm bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội.

Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Nhà nước không chỉ tham gia vào các quan hệ hành chính để  điều chỉnh các vấn đề môi trường thuộc cả hai mảng “nâu” và “xanh”- phòng và chống, kiểm soát ô nhiễm, suy thoái môi trường  bằng các phương pháp mệnh lệnh- kiểm tra- xử lý vi phạm. Các Nhà nước dân chủ, hiện đại còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển các quan hệ dân sự- kinh tế giữa nhà nước với các cá nhân, tổ chức cũng như giữa các cá nhân, tổ chức với nhau theo quan điểm bảo vệ môi trường là trách nhiệm, là quyền lợi và nghĩa vụ  của mỗi cá nhân, tổ chức, của nhà nước và của toàn xã hội.Trong các quan hệ bảo vệ môi trường theo chiều ngang đó, phương pháp điều chỉnh chủ yếu là sự thoả thuận bình đẳng nhằm đạt được sự hài hoà lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong các hoạt động bảo vệ môi trường.  Xây dựng và thực hiện đồng bộ các cơ chế pháp lý nhằm  kích thích sự quan tâm của các tổ chức, cá nhân đến các lợi ích kinh tế gắn với trách nhiệm thực thi các nghĩa vụ bảo vệ môi trường là nhu cầu khách quan, tất yếu đặt ra từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường trong một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân

Các giải pháp chủ yếu :

Thứ nhất, thể chế hoá đồng bộ, thống nhất, minh bạch quan điểm sử dụng các chính sách, biện pháp, công cụ kinh tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đồng thời với các biện pháp hành chính và các biện pháp khác

Luật bảo vệ môi trường 2005 đã thể chế hoá quan điểm sử dụng các chính sách, công cụ kinh tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường. Trên cơ sở các  chính sách khuyến khích phát triển, đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; chính sách ưu đãi đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính, khuyến khích nghiên cứu, áp dụng và chuyển giao thành tựu khoa học, công nghệ  cho các hoạt động bảo vệ môi trường, Luật đã xác lập tại chương XI các công cụ kinh tế chủ yếu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đó là :

- Thuế môi trường; áp dụng các mức thuế suất ưu đãi  đối với những tổ chức, dự án, công trình có các giải pháp bảo vệ môi trường hiệu quả ;

- Các loại phí bảo vệ môi trường áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có xả thải ra môi trường hoặc làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường (ví dụ phí đối với nước thải, phí rác thải đô thị, phí xăng dầu...)

- Các loại phí dịch vụ môi trường áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân có sử dụng các dịch vụ môi trường như dịch vụ cung cấp nước sạch, xử lý nước thải hay dịch vụ  thu gom rác thải, chất thải...

- Các loại quỹ bảo vệ môi trường : Quỹ bảo vệ môi trường quốc gia, ngành, lĩnh vực, địa phương do Nhà nước thành lập và quản lý; quỹ bảo vệ môi trường của cá nhân, tổ chức cũng được khuyến khích thành lập nhằm hỗ trợ cho các hoạt động bảo vệ môi trường;

- Ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiến hành  hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, quy định và việc áp dụng, thực hiện các quy định khuyến khích sử dụng công cụ kinh tế ở các ngành, lĩnh vực, địa phương còn nhiều bất cập. Ví dụ: còn thiếu các quy định về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong các hoạt động khai thác tài nguyên rừng, tài nguyên nước...; ngay trong khai thác tài nguyên khoáng sản thì cũng chỉ một bộ phận rất nhỏ các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ ký quỹ và một tỉ lệ thấp hơn nữa trong số đó những doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ cải tạo, khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây nên.

Như đã phân tích ở chương III, để đáp ứng tốt hơn yêu cầu hài hoà các lợi ích, trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong khai thác, sử dụng, bảo vệ môi trường, pháp luật cần bổ sung quy định về các công cụ kinh tế chủ yếu  sau:

- Quy định đầy đủ thuế sử dụng các thành phần môi trường

Thuế sử dụng các thành phần môi trường bao gồm nhiều loại, ứng với các thành phần của môi trường như: thuế sử dụng đất, nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng ...Việc phát triển và cải tiến các loại thuế sử dụng các thành phần môi trường giữ vai trò của một công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô việc khai thác, sử dụng các thành phần môi trường, góp phần hạn chế những nhu cầu không thật quan trọng, giảm tốc độ khai thác lãng phí các thành phần môi trường, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất,  tạo cơ chế quản lý, điều chỉnh các hoạt động kỹ thuật khai thác tài nguyên thiên nhiên gắn với  khả năng tái tạo, đảm bảo và khuyến khích những hoạt động hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Một trong những điểm mấu chốt quan trọng là phải xác định được các đối tượng nộp thuế và mức thuế phải phù hợp để vừa đảm bảo khai thác hợp lý các loại tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế, đáp ứng các nhu cầu dân sinh, vừa đảm bảo khả năng tái tạo đối với các loại tài nguyên tái tạo được và bảo vệ môi trường. Chính vì thế nhiêềuý kiến chuyên gia cho rằng tất cả các tổ chức kinh doanh không phân biệt ngành nghề, hình thức khai thác, hoạt động thường xuyên hay không thường xuyên, có địa điểm hay không có địa điểm cụ thể, sử dụng và khai thác các thành phần môi trường, tài nguyên thiên nhiên của đất nước đều phải nộp thuế nhưng mức thuế nên thay đổi theo hướng từ sản lượng thành phần môi trường được khai thác sang trữ lượng các thành phần môi trường được khai thác, có như thế mới khuyến khích các hoạt động khai thác, sử dụng các biện pháp tận thu, vừa tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên, vừa bảo vệ được môi trường.

- Ban hành đồng bộ quy định thu phí bảo vệ môi trường đối với tất cả  các nguồn xả thải, tác động xấu đến  các thành phần  môi trường như khí thải, tiếng ồn, v.v.

Pháp lệnh phí và lệ phí cùng văn bản hướng dẫn thi hành đã xác định  tương đối đủ các loại phí bảo vệ môi trường  như :phí bảo vệ môi trường đối với nước thải,  xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá và các loại nhiên liệu đốt khác; đối với chất thải rắn; đối với tiếng ồn và phí bảo vệ môi trường đối với sân bay, nhà ga, bến cảng;  đối với khai thác dầu mỏ, khí đốt và khoáng sản khác

Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay còn thiếu rất nhiều quy định cụ thể về các loại phí bảo vệ môi trường được nêu trong Pháp lệnh, do đó, cần khẩn trương khắc phục khiếm khuyết này để phát huy vai trò của phí bảo vệ môi trường, tạo nguồn thu cho Quỹ bảo vệ môi trường để đầu tư hỗ trợ trở lại cho các hoạt động bảo vệ môi trường

- Xây dựng và áp dụng các quy định về Nhãn sinh thái

Ở nhiều nước trên thế giới việc một sản phẩm bán ra trên thị trường được dán nhãn sinh thái (Ecolabel) là một sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất, không những thế các sản phẩm có nhãn sinh thái thường có sức cạnh tranh cao và giá bán cũng thường cao hơn các sản phẩm cùng loại. Việc mua, sử dụng các sản phẩm có nhãn hiệu sinh thái đã được nhận thức như là thể hiện trách nhiệm, tình yêu đối với môi trường. Chính vì thế, rất nhiều nhà sản xuất đang đầu tư phấn đấu để sản phẩm của mình được công nhận là sản phẩm xanh, được dán nhãn sinh thái và điều kiện để được dán nhãn sinh thái ngày càng khắt khe hơn.

Nhãn sinh thái thường được xem xét và dán cho các sản phẩm tái chế phế thải (nhựa, cao su, v.v..) các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm tác động xấu đến môi trường, các sản phẩm  có tác động tích cực đến môi trường hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó tác động tốt cho môi trường, v.v...

Ở Việt Nam vấn đề sử dụng nhãn hiệu sinh thái cho một số mặt hàng đã được nghiên cứu và cũng đã xuất hiện một số mặt hàng có thể xem xét để dán Nhãn sinh thái. Ví dụ sản xuất chè xuất khẩu của nước ta là một loại hình hoạt động thân thiện với môi trường. Quá trình sao, tẩm, sấy chè gần như không tác động đến môi trường, trong khi đó việc trồng chè có xen các loại cây góp phần phủ xanh đất trống đồi núi, cải thiện chất lượng đất, chống xói mòn, đồng thời tạo nên cảnh quan du lịch có giá trị kinh tế. Xét từ các yếu tố trên chè Việt Nam cũng có thể được xem xét, nghiên cứu cấp "nhãn xanh" (Nhãn sinh thái).

Tuy nhiên, để "nhãn xanh" được chấp nhận như một nhu cầu của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng, từ phía Nhà nước phải có một số chính sách ưu tiên cho các sản phẩm được dán “nhãn sinh thái", ví dụ như giảm thuế, ưu tiên điều kiện xuất khẩu, v.v... Ngoài ra, việc xem xét cấp "nhãn sinh thái" cũng phải được thực hiện theo đúng các qui định và thông lệ quốc tế. Việc luật hoá các chính sách khuyến khích sản xuất sản phẩm được cấp “nhãn sinh thái” cũng như quy định tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xem xét cấp Nhãn sinh thái là một biện pháp pháp lý hữu hiệu và khả thi nhằm khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, vừa hỗ trợ một số loại hình sản xuất có sản phẩm xuất khẩu dễ đến được với các thị trường thế giới vốn nhạy cảm với môi trường  hơn.

Gần đây, việc gắn kết môi trường vào tổ chức xem xét trao giải thưởng chất lượng Việt Nam, cũng như huy chương tại hội chợ quốc tế hàng công nghiệp là một cách tiếp cận theo hướng này. Cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng và phát huy các hoạt động đó..

- Xây dựng và áp dụng quy định quota gây ô nhiễm có thể chuyển nhượng

Đây là biện pháp sử dụng công cụ kinh tế để kiểm soát ô nhiễm đạt hiệu qủa cao và đã được nhiều nước áp dụng. Đi đầu trong lĩnh vực này là Mỹ, Canada. Tuy nhiên, để có thể sử dụng quota gây ô nhiễm như một công cụ kinh tế có mục đích kiểm soát ô nhiễm của một "phông môi trường" nhất định cần phải hội tụ nhiều yếu tố cơ chế thị trường đủ mạnh, khả năng trao đổi, giao lưu thông tin tốt, các phương tiện quan trắc các thông số môi trường đầy đủ và chính xác, v.v...

Việc sử dụng quota gây ô nhiễm như một công cụ kinh tế điều hoà mức phát thải của từng điểm nguồn và kiểm soát tổng lượng chất gây ô nhiễm, trong đó Nhà nước xác định khả năng chịu tải của môi trường và tổng lượng các chất gây ô nhiễm có thể cho phép tất cả các nguồn phát thải, sau đó phân bổ các nguồn phát thải bằng cách phát hành những giấy phép thải được gọi là quota gây ô nhiễm và chính thức công nhận quyền được thải ra môi trường một lượng chất gây ô nhiễm theo giá trị của cổ phần ô nhiễm.

Khi có được mức phân bổ quota gây ô nhiễm ban đầu, người gây ô nhiễm có quyền mua và chuyển nhượng quota gây ô nhiễm tuỳ thuộc vào cách phân tích chi phí giảm thiểu ô nhiễm : hoặc mua quota gây ô nhiễm hoặc đầu tư xử lý để đạt mức cho phép. Như vậy, sự khác nhau về chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm giữa các nguồn gây ô nhiễm khác nhau sẽ thúc đẩy quá trình chuyển nhượng quota gây ô nhiễm. Việc mua quota gây ô nhiễm sẽ tập trung vào những nguồn thải lớn mà chi phí xử lý ô nhiễm cao, ngược lại việc chuyển nhượng quota gây ô nhiễm sẽ tập trung vào các nguồn thải nhỏ mà chi phí xử lý ô nhiễm thấp. Nói chung, qua chuyển nhượng quota gây ô nhiễm cả người bán lẫn người mua đều chọn cho mình được phương án xử lý ô nhiễm với giá thấp hơn.

Việc sử dụng quota gây ô nhiễm để kiểm soát chất lượng môi trường có một số ưu điểm nhất định như :

- Qua chuyển nhượng, tổng lượng phát thải chất gây ô nhiễm không bị vi phạm trong khi người gây ô nhiễm có thể giảm mức chi phí xử lý ô nhiễm.

- Khi nguồn gây ô nhiễm tăng, Nhà nước có thể điều khiển bằng cách phát hành thêm số lượng quota gây ô nhiễm hoặc tăng giá quota gây ô nhiễm (nếu muốn đảm bảo chất lượng môi trường).

- Trường hợp thấy cần thiết có thể giảm số lượng hoặc tăng giá quota gây ô nhiễm để cải thiện chất lượng môi trường.

Tuy nhiên, để quota gây ô nhiễm có thể áp dụng được dễ dàng trong công tác quản lý môi trường thì việc thiết lập nội dung quota gây ô nhiễm một cách phù hợp là điều rất quan trọng. Nội dung của quota gây ô nhiễm phải đạt được các yêu cầu như :

- Tất cả các nhà đầu tư tham gia thị trường quota gây ô nhiễm phải dễ dàng nhận thấy tính ưu việt của việc sử dụng quota gây ô nhiễm cho việc giảm thiểu chi phí xử lý ô nhiễm.

- Sự chuyển nhượng quota gây ô nhiễm phải diễn ra thuận tiện, dễ dàng ở các phạm vi khác nhau.

- Kiểm soát  được nồng độ biến thiên theo mùa và theo giai đoạn, v...

Với tất cả các yêu cầu trên, nội dung của quota gây ô nhiễm bao gồm  những vấn đề sau :

1, Xác định khu vực chuyển nhượng quota gây ô nhiễm thích hợp.

2, Kiểm soát sự biến thiên của chất gây ô nhiễm theo mùa và theo giai đoạn.

3, Số lượng nguồn thải thích hợp trong hệ thống quota gây ô nhiễm.

4, Tổng lượng phát thải trong chương trình chuyển nhượng quota gây ô nhiễm.

5, Sự phân bổ quota gây ô nhiễm ban đầu cho mỗi nguồn thải.

6, Giám sát việc sử dụng và chuyển nhượng quota gây ô nhiễm, v.v...

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới sử dụng quota gây ô nhiễm để kiểm soát  chất lượng môi trường như kiểm soát chất lượng nước hồ chứa Dillon (Mỹ); kiểm soát sự phát thải chất CFC vào không khí (Mỹ) ; kiểm soát sự phát thải chất CO2 (Canada), v.v. cho thấy đây là một trong các công cụ kinh tế hữu hiệu để quản lý môi trường.

Ở Việt Nam hiện nay nhiều thành phố lớn, nhiều lưu vực sông đã bị ô nhiễm nặng nề, trong lúc đó các nguồn phát thải ngày một gia tăng dẫn đến nguy cơ vượt quá khả năng chịu tải của môi trường và không còn khả năng khắc phục. Để khắc phục tình trạng trên, Việt Nam cần phải sớm nghiên cứu áp dụng quota gây ô nhiễm để kiểm soát chất lượng môi trường ở các khu vực trên. Muốn đạt được mục tiêu đó, trước hết phải nghiên cứu, áp dụng thí điểm tại một số khu vực ví dụ như sử dụng quota gây ô nhiễm kiểm soát chất lượng nước sông Đồng Nai, sông Cầu, v.v... Sau đó, trên cơ sở kinh nghiệm rút ra từ thực tế có thể mở rộng áp dụng cho việc kiểm soát chất lượng môi trường ở một số địa bàn trọng điểm về ô nhiễm môi trường, ví dụ :

+ Sử dụng quota gây ô nhiễm cho các khu công nghiệp :

+  Sử dụng quota gây ô nhiễm cho một số lưu vực sông;

Các công cụ kinh tế kể trên đều là những công cụ đang được áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại. Do đó, việc mở rộng phạm vi sử dụng các công cụ đó sang lĩnh vực môi trường không phải là điều quá khó khăn và bất khả thi. Tuy nhiên, do việc áp dụng chúng sẽ tạo ra gánh nặng tài chính bổ sung cho các doanh nghiệp, phản ứng của các doanh nghiệp đối với các công cụ bổ sung đó không hẳn là thuận lợi. Vì vậy cần tuyên truyền để tạo một nhận thức chung về nghĩa vụ bảo vệ môi trường của mọi cá nhân, tổ chức, đặc biệt là các cá nhân, tổ chức có gây ô nhiễm môi trường .

Đồng thời với việc ban hành và áp dụng các công cụ kinh tế mới, công tác tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức chung của xã hội về sản phẩm thân thiện môi trường  có vai trò rất quan trọng. Nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm “nhãn xanh”, nhãn sinh thái tăng lên sẽ là đơn đặt hàng định hướng buộc  các cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh phải cân nhắc đến việc cân bằng giữa lợi nhuận với việc áp dụng các công nghệ thân thiện môi trường cũng như sử dụng các công cụ kinh tế thích hợp. Mặt khác, việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kiểm tra, kiểm soát và xử lý hành chính, hình sự sẽ tạo nên hiệu quả chung thực tế của các công cụ kinh tế mới được sử dụng.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định  bồi thường thiệt hại về môi trường

Theo Luật bảo vệ môi trường 2005, bồi thường thiệt hại về môi trường là trách nhiệm của cá nhân, tổ chức :

- Vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác;

- Lợi dụng chức vụ quyền hạn gây phiền hà, nhũng nhiễu cho tổ chức, công dân; bao che cho người vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; thiếu trách nhiệm để xảy ra ô nhiễm, sự cố môi trường nghiêm trọng, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân

Trên thực tế, việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại về môi trường mới chỉ áp dụng chủ yếu đối với loại chủ thể thứ nhất.

Trong 2 dạng thiệt hại do môi trường bị ô nhiễm, suy thoái thì thiệt hại đối với môi trường (suy giảm chức năng, tính hữu ích của thành phần môi trường) là thiệt hại trực tiếp do hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường gây ra còn thiệt hại đối với sức khoẻ, tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp của con người là hậu quả phát sinh từ loại thiệt hại thứ nhất (môi trường bị ô nhiễm, suy thoái).

Phương thức xác định thiệt hại và chi phí  bồi thường thiệt hại đối với mỗi thành phần môi trường, mỗi sự cố môi trường rất phức tạp và có những nội dung đặc thù so với quy định chung về bồi thường thiệt hại trong Bộ luật dân sự. Luật bảo vệ môi trường 2005 lần đầu tiên đưa ra được một cách khái quát 3 loại chi phí thiệt hại môi trường (khoản 4 điều 131). Trong đại đa số trường hợp, nếu tính theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thì chi phí thiệt hại về môi trường rất lớn (đặc biệt là chi phí khắc phục sự cố, cải tạo, phục hồi môi trường). Do đó, cần phải có những hướng dẫn cụ thể về các phương thức, tỉ lệ bồi thường hoặc bù đắp vật chất khác nhau để các bên – bên gây thiệt hại phải bồi thường (có thể gồm nhiều tổ chức, cá nhân cùng gây ra thiệt hại) và bên bị thiệt hại được bồi thường có thể thoả thuận lựa chọn (thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài, thậm chí thoả thuận ngay tại toà án).

Việc bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng, tài sản cho các cá nhân cũng rất phức tạp vì thông thường, một khi môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái hay xảy ra sự cố môi trường thì sẽ có một số lượng lớn, thậm chí rất lớn, chứ không chỉ là một vài cá nhân bị thiệt hại, cấp độ bị thiệt hại của mỗi cá nhân lại có thể rất khác nhau dẫn đến rất khó cá thể hoá một cách chính xác tỉ trọng bồi thường cho từng cá nhân.

Vì vậy, một trong những nhu cầu cấp bách hiện nay là phải cụ thể hoá quy định  tại điều 131 của Luật bảo vệ môi trường vào trong các văn bản hướng dẫn về cách tính toán chi phí thiệt hại cho từng loại sự cố môi trường, từng loại thiệt hại của mỗi thành phần môi trường làm căn cứ cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại một cách thống nhất, công khai, minh bạch. Chỉ có như vậy, chế tài bồi thường thiệt hại về môi trường mới  phát huy được một cách tốt nhất, hiệu quả nhất vai trò phòng ngừa, răn đe, đặc biệt là tác động về mặt lợi ích kinh tế, đối với các chủ thể đang khai thác, sử dụng các thành phần môi trường .

4.2.2. Nhu cầu và giải pháp đổi mới hình thức văn bản và quy trình soạn thảo, ban hành văn bản để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch của pháp luật môi trường  và áp dụng pháp luật môi trường.

4.2.2.1. Luật phải giữ vị trí chủ yếu trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường

Đây là nhu cầu thể hiện một đặc trưng của nhà nước pháp quyền- các quan hệ xã hội liên quan đến quyền cơ bản của con người (quyền được sống trong môi trường trong sạch), đến việc xử lý mối quan hệ giữa các yếu tố nền tảng của sự phát triển bền vững của đất nước (kinh tế, xã hội, môi trường) cần phải được điều chỉnh bằng luật do Quốc hội ban hành.Xét từ góc độ dân chủ và minh bạch của hệ thống pháp luật, Quốc Hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân cả nước, hoạt động lập pháp  của Quốc Hội phải tuân thủ các quy định về trình tự thủ tục rất cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng nên các đạo luật do Quốc Hội ban hành là thể hiện cao nhất bản chất dân chủ và thuộc tính công khai, minh bạch cần có của hoạt động lập pháp.

Trong lĩnh vực môi trường, Quốc Hội đã ban hành nhiều văn bản luật trong đó có các đạo luật được ban hành từ những năm đầu của công cuộc đổi mới và đã phát huy hiệu lực, vai trò to lớn trong việc tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước như Luật đất đai, Luật bảo vệ và phát triển rừng, luật bảo vệ môi trường 1993.... Đó là một thành công lớn. Tuy nhiên, các đạo luật đó còn quá ít ỏi trong cả một hệ thống đồ sộ các văn bản quy phạm pháp luật môi trường; nhiều vấn đề rất quan trọng mà theo thẩm quyền chỉ có Quốc hội được quy định hiện nay vẫn chưa có luật, ví dụ các nghĩa vụ tài chính về môi trường của cá nhân, tổ chức vẫn chưa được điều chỉnh bằng luật (Luật thuế môi trường mới đang được soạn thảo, các vấn đề về phí môi trường chỉ được quy định tại pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ). Các đạo luật về khai thác, sử dụng các thành phần môi trường cũng như Luật bảo vệ môi trường thường cũng chỉ là luật khung, chưa đủ cụ thể, chi tiết để có thể thực thi được ngay. Vì vậy, việc uỷ quyền lập pháp vẫn là một hiện tượng phổ biến trong công tác xây dựng pháp luậtnói chung, pháp luật môi trường nói riêng. Nhiều đạo luật dù đã được Quốc Hội ban hành kịp thời, đúng tiến độ nhưng không thể thi hành vì phải chờ  văn bản hướng dẫn thi hành. Việc uỷ quyền lập pháp dẫn đến các văn bản sẽ do các cơ quan hành pháp hoặc tư pháp soạn thảo, ban hành  theo một trình tự, thủ tục đơn giản, khép kín, ít công khai, minh bạch hơn nên khả năng sai sót và rủi ro cũng cao hơn.  Mỗi sai sót, rủi ro đó đều tác động trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung và đặc biệt là của các đối tượng được pháp luật trực tiếp điều chỉnh nói riêng.

Vì vậy, để đảm bảo pháp luật môi trường thật sự dân chủ và minh bạch, các quy định mang tính quy phạm trong lĩnh vực môi trường đều cần được “luật hoá” ở mức độ tối đa.

Các giải pháp chủ yếu

Thứ nhất, hạn chế tình trạng soạn thảo và ban hành luật khung. Xu hướng lập pháp, lập quy hiện nay ở Việt Nam là luật chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc, còn các quy định chi tiết hơn mang tính chất hướng dẫn thi hành lại được giao cho các văn bản dưới luật thể hiện . Trong nhiều trường hợp, văn bản hướng dẫn chỉ sao chép lại quy định của luật và bổ sung thêm một số tiêu chí, nội dung. Việc bổ sung này tưởng như là để làm cho các quy định của luật rõ ràng hơn nhưng nhiều khi lại dẫn tới sự lộn xộn vì không phù hợp với tinh thần hay ngôn từ của luật. Nguyên nhân chủ yếu là cơ quan được giao soạn thảo văn bản hướng dẫn  không căn cứ vào luật mà lại “nắn luật” theo ý chí, lợi ích của mình. Vì vậy, cần hạn chế tình trạng ban hành luật chung, luật khung. Những quy định quan trọng, có thể ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người dân cũng như tạo sự quan liêu, cửa quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước như quy trình, thủ tục, tiêu chí trong giao dịch giữa cơ quan nhà nước với người dân cần được luật quy định rõ ràng.

Thứ hai, Áp dụng rành mạch nguyên tắc ủy quyền xây dựng pháp luật. Trên thực tế, việc Quốc hội thông qua và ban hành pháp luật với các quy định chi tiết, cụ thể, có tính khả thi trực tiếp chưa thể thực hiện đồng loạt trên diện rộng. Vì vậy, đồng thời với việc ban hành luật, khi cần thiết cơ quan lập pháp vẫn có thể uỷ quyền quy định cụ thể chi tiết cho các cơ quan khác. Tuy nhiên, việc uỷ quyền lập pháp trong mỗi văn bản luật cần phải thật rõ ràng về đối tượng được uỷ quyền, giới hạn, phạm vi uỷ quyền và nội dung uỷ quyền, kể cả thời gian thực hiện uỷ quyền để tránh tình trạng dây dưa, nợ đọng văn bản hướng dẫn. Cơ quan được uỷ quyền chỉ được soạn thảo văn bản trong phạm vi uỷ quyền. Cần hạn chế tiến tới chấm dứt tình trạng luật nào cũng có điều khoản cuối cùng là “Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật này” một cách chung chung.

Luật bảo vệ môi trường 2005 tuy đã có những bước tiến bộ về tính cụ thể, khả thi của một số điều khoản nhưng vẫn chưa khắc phục được khuyết điểm này. Trong tổng số 136 điều của Luật đã có 8 điều quy định giao cho Chính phủ hướng dẫn thi hành; 12 điều giao cho các Bộ Tài nguyên, môi trường; Bộ Thương mại, Y tế, Xây dựng quy định chi tiết, nghĩa là khoảng 1/6 điều khoản của Luật sẽ phải chờ văn bản hướng dẫn cụ thể . Tuy nhiên, điều 136 lại tiếp tục uỷ quyền một cách chung chung “Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật này”. Điều đó có thể hiểu là ngoài 20 điều đã được giao cụ thể, trực tiếp trong Luật, Chính phủ có quyền hướng dẫn theo ý chí của mình đối với tất cả các điều khoản khác trong Luật, nguy cơ tạo ra những độ vênh giữa Luật với văn bản hướng dẫn sẽ cao hơn.  

Thứ ba, áp dụng rộng rãi các kỹ thuật lập pháp hiện đại và phù hợp.

Để đảm bảo tiến độ xây dựng luật và tính đồng bộ của hệ thống pháp luật môi trường, cần nghiên cứu áp dụng kỹ thuật ban hành một luật sửa nhiều luật. Trên thực tế, giữa các lĩnh vực chuyên môn ngày nay càng ngày càng có nhiều mối quan hệ đan xen chằng chịt. Điều này làm cho việc sửa đổi một văn bản pháp luật cụ thể sẽ dẫn tới việc phải sửa đổi, bổ sung một, một vài hoặc nhiều quy định có liên quan ở các văn bản pháp luật khác. Trong điều kiện đó, kỹ thuật một luật sửa nhiều luật giúp đẩy nhanh quá trình sửa đổi pháp luật, làm cho tất cả các quy định liên quan đều có thể được cân nhắc, điều chỉnh đồng thời, đảm bảo ở mức độ cao hơn tính đồng bộ trong áp dụng pháp luật, tránh tình trạng chỉ có một văn bản được sửa nên tính khả thi trong thi hành thấp, dễ tạo tình trạng các quy định liên quan không phù hợp với nhau.

Đặc trưng đa ngành của pháp luật môi trường tất yếu dẫn đến nhu cầu sửa đổi bổ sung đồng bộ các nội dung liên quan trong các luật chuyên ngành không còn phù hợp hoặc thiếu so với Luật bảo vệ môi trường 2005. Kỹ thuật một luật sửa nhiều luật  có thể  là một giải pháp đáp ứng nhu cầu này.

4.2.2.2. Đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch của quá trình xây dựng pháp luật môi trường

Thứ nhất, thu hút sự tham gia của các tổ chức, các nhà hoạt động môi trường vào quá trình lập pháp. Tính hiệu quả của pháp luật môi trường ở nhiều nước trên thế giới đã chứng tỏ rằng chất lượng của các đạo luật sẽ được cải thiện rất nhiều, tính khả thi của đạo luật được nâng lên đáng kể khi  thu hút được sự tham gia của các cá nhân, tổ chức hoạt động môi trường, tổ chức bảo vệ môi trường tự nguyện và phi chính phủ. Các chủ thể này có thể tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình xây dựng pháp luật: phát hiện nhu cầu , đề xuất xây dựng luật điều chỉnh một lĩnh vực môi trường; tham gia góp ý hoặc trực tiếp tham gia soạn thảo, thẩm định dự án luật môi trường...

Thứ hai, cần chú trọng công tác đánh giá tác động kinh tế xã hội của các dự án luật về môi trường. Nếu như việc lập Báo cáo môi trường chiến lược, Báo cáo đánh giá tác động môi trường là yêu cầu bắt buộc đối với các Quy hoạch, chiến lược, chương trình phát triển kinh tế- xã hội, các dự án, công trình kinh tế- xã hội thì việc yêu cầu đánh giá tác động kinh tế-  xã hội của các dự án luật môi trường cũng nhằm cùng mục tiêu là đảm bảo quan điểm phát triển bền vững, hài hoà lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà nước và xã hội, giảm thiểu những quy định bảo vệ môi trường không khả thi hoặc cản trở, tác động xấu đến sự phát triển kinh tế- xã hội một cách không hợp lý.

4.2.2.3. Đảm bảo tính thống nhất, tính minh bạch, dễ tiếp cận và dễ tra cứu, sử dụng của hệ thống văn bản pháp luật môi trường

Một thực tế hiện nay là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong bất cứ lĩnh vực nào, trong đó có pháp luật môi trường, đều chứa đựng nhiều sự chồng chéo, mâu thuẫn, rất khó tiếp cận, khó xác định được quy định nào còn hiệu lực, khó sử dụng ngay cả với chuyên gia trong từng lĩnh vực.Để khắc phục tình trạng đó cần áp dụng nhiều biện pháp trong quá trình soạn thảo văn bản , kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật.

- Thứ nhất, soạn thảo các văn bản hợp nhất. Bản chất của biện pháp này là ở chỗ các điểm sửa đổi, bổ sung vào một văn bản quy phạm pháp luật hiện hành phải được hợp nhất vào văn bản gốc để tạo thành một văn bản đã được cập nhật và ‘làm sạch” . Về mặt kỹ thuật, việc hợp nhất này phải đảm bảo cho người đọc thấy được cả nội dung gốc lẫn những lần sửa đổi bổ sung vào văn bản gốc. Biện pháp này nhằm mục đích tạo thuận tiện cho những đối tượng sử dụng pháp luật, đồng thời cũng giúp làm rõ được những điểm "vênh" của các lần sửa đổi, nếu có, làm giảm bớt rủi ro của việc sửa đổi pháp luật.

- Thứ hai, trên cơ sở rà soát, hệ thống hoá, tiến hành sắp xếp các quy định pháp luật môi trường theo một trật tự thống nhất, logic để thuận tiện cho việc tra cứu, tìm hiểu, nghiên cứu, áp dụng.

Như đã phân tích ở trên,  hệ thống pháp luật văn bản quy phạm pháp luật môi trường rất đồ sộ, đa ngành về nội dung điều chỉnh, đa tầng, đa cấp về thẩm quyền ban hành và giá trị pháp lý, đa dạng về hình thức văn bản. Điều này làm cho pháp luật môi trường trở nên phức tạp, khó tìm hiểu và áp dụng. Chính vì vậy, trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ xây dựng đề án rà soát, hệ thống hoá văn bản pháp luật môi trường. Để thực hiện đề án đó, công việc đầu tiên là phải xây dựng một hệ thống chỉ mục (index) cho pháp luật về môi trường để sắp xếp các quy định hiện hành (đã được rà soát loại bỏ mâu thuẫn, chồng chéo) về môi trường theo các trật tự logic, thuận tiện cho việc tra cứu và dễ dàng cho việc áp dụng. Đây là một cách  pháp điển hoá theo quan niệm của nhiêù nước có hệ thống pháp luật phát triển. Giải pháp này tuy không phức tạp, tốn kém nhưng chắc chắn mang lại hiệu quả rất thiết thực, góp phần nâng cao tính minh bạch của pháp luật về môi trường.[34]

Thứ ba, nghiên cứu xây dựng án lệ về môi trường

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi nước ta đang chuẩn bị gia nhập WTO, cần quan tâm tới một vấn đề là các án lệ trong lĩnh vực môi trường trên thế giới đóng một vai trò khá quan trọng trong việc giải quyết các tình huống mới phát sinh. Ở Việt Nam việc sử dụng án lệ với tư cách là một nguồn luật và các kỹ thuật liên quan còn đang là một điều tương đối mới mẻ. Do đó, khi đặt vấn đề hoàn thiện pháp luật về môi trường, chúng ta không thể bỏ qua nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu cách thức sử dụng, vận dụng các án lệ trong lĩnh vực môi trường để thực thi các nghĩa vụ quốc gia cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia, của các doanh nghiệp và các cá nhân có hoạt động liên quan tới môi trường quốc tế.

Mặt khác, pháp luật môi trường quốc gia còn chưa hoàn thiện, còn nhiiều khoảng trống chưa có pháp luật điều chỉnh, do vậy, việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng án lệ cũng có ý nghĩa bổ khuyết quan trọng cho quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật môi trường và áp dụng thống nhất pháp luật môi trường.

4.3.  Nhu cầu và giải pháp nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật môi trường

          Hiệu lực thi hành pháp luật môi trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố của cơ chế thực hiện pháp luật, trong đó quan trọng nhất là việc kiện toàn các thiết chế thi hành pháp luật, nâng cao năng lực của nguồn nhân lực thực thi pháp luật và đảm bảo các điều kiện thuộc cơ sở hạ tầng cho việc thực thi pháp luật môi trường

4.3.1. Nhu cầu và giải pháp kiện toàn các thiết chế thi hành pháp luật môi trường.

          Thứ nhất, kiện toàn các thiết chế hành pháp gắn với đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về môi trường.

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam, việc đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với các quá trình phát triển xã hội là một trong những nội dung quan trọng và cơ bản. Nhà nước phải chuyển dần từ cơ chế quản lý mang tính cai trị sang cơ chế quản lý mang tính phục vụ trên cơ sở pháp luật. Trong cơ chế đó, quan hệ giữa Nhà nước và công dân là quan hệ bình đẳng về quyền,  nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý. Những yêu cầu đó đặt ra những định hướng đổi mới quản lý nhà nước về môi trường  và bộ máy quản lý như:

- Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước tập trung làm tốt chức năng xây dựng các định hướng chiến lược, quy hoạch và lập các kế hoạch phát triển dài hạn về bảo vệ và khai thác môi trường theo hướng đảm bảo tính bền vững cho phát triển, đảm bảo môi trường không bị khai thác cạn kiệt và khả năng hồi phục cao. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm thẩm định các báo cáo môi trường chiến lược và báo cáo đánh giá tác động môi trường của các quy hoạch, chiến lược và các dự án, công trình đầu tư. Tổ chức thực hiện tốt các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đó;

Tiếp tục phân cấp mạnh mẽ và rõ ràng cho các cấp chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về môi trường; việc phân cấp phải gắn liền với việc chuyển giao các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện quyền hạn được giao.

Ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường; cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.

- Thứ hai, tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường, chủ yếu thông qua việc đầu tư thích đáng các nguồn lực, trong đó có nguồn lực con người và nguồn lực vật chất.

- Thứ ba, mở rộng xã hội hóa các hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công về môi trường trước đây do nhà nước trực tiếp cung cấp gắn liền với việc hoàn thiện các chính sách khuyến khích doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực môi trường, chế độ thu phí dịch vụ môi trường, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức đầu tư hoặc tham gia cung ứng dịch vụ môi trường.

- Thứ tư, mở rộng việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường;

- Thứ năm, thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình phát triển bền vững, xử lý các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

- Thứ sáu, hình thành và kiện toàn đồng bộ các thiết chế bảo vệ môi trường trên các lĩnh vực; đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn và quản lý môi trường tinh thông nghiệp vụ, có tư duy mở để có thể tiếp cận và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ tiên tiến, bao gồm cả khoa học quản lý, vào lĩnh vực môi trường trong quá trình hội nhập quốc tế.

- Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường; xác định cơ chế thích hợp để nội luật hoá các điều ước quốc tế về môi trường hoặc liên quan đến môi trường mà Việt Nam tham gia, nâng cao hiệu lực thi hành của các cam kết quốc tế về môi trường tại Việt Nam; có chiến lược hợp tác song phương và đa phương để huy động tối đa nguồn lực quốc tế cho sự nghiệp phát triển bền vững ở Việt Nam, góp phần bảo vệ môi trường khu vực và thực hiện Chiến lược phát triển bền vững toàn cầu

Những đổi mới về quản lý nhà nước nói trên cần phải được thể hiện một cách cụ thể và đầy đủ trong các quy định pháp luật. Rõ ràng đây không phải chỉ là quy định trong các văn bản trực tiếp liên quan tới môi trường mà còn cả trong các văn bản khác nữa như các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về phát triển kinh tế, v.v.

Thứ hai, kiện toàn và nâng cao năng lực của các thiết chế tư pháp và bán tư pháp, trong việc giải quyết các tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật môi trường, các tổ chức bổ trợ tư pháp trong việc hỗ trợ  cá nhân, tổ chức tiếp cận hệ thống pháp luật và tư pháp về môi trường.

          Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp về môi trường, cần chú trọng kiện toàn các thiết chế tư pháp hiện hành (toà dân sự, toà kinh tế, toà hành chính) và nâng cao năng lực của đội ngũ chức danh tư pháp hoạt động trong lĩnh vực môi trường (điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về môi trường; xét xử các vụ án dân sự kiện đòi bồi thường thiệt hại môi trường; các vụ án hành chính liên quan đến khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định, hành vi hành chính trong lĩnh vực môi trường).

          Đặc biệt cần có chiến lược khuyến khích phát triển các thiết chế bán tư pháp (trọng tài) hoặc các thiết chế giải quyết tranh chấp tự nguyện (hoà giải, trung gian) trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, vừa phù hợp với truyền thống dân tộc vừa hội nhập với quốc tế, khu vực.

          Tăng cường về số lượng, đặc biệt là nâng cao năng lực của các luật sư trong cả hai lĩnh vực- tư vấn và tranh tụng liên quan đến các hoạt động bảo vệ môi trường trong nước và quốc tế. Các tranh chấp thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam gần đây đều có những nội dung liên quan đến các khía cạnh khác nhau của môi trường, qua đó thấy rõ sự bất cập về hiểu biết pháp luật môi trường và kỹ năng xử lý các vấn đề môi trường trong thương mại không chỉ của các doanh nghiệp mà của chính đội ngũ luật sư Việt Nam.

          Việc xây dựng và phát triển đội ngũ giám định viên về môi trường cũng là một nhu cầu cấp bách bởi vì giám định thiệt hại môi trường là một trong những lĩnh vực giám định khó khăn, phức tạp nhất, có ý nghĩa rất quyết định đến việc ra quyết định, tài phán đúng đắn của các cơ quan hành chính, tư pháp.

Thứ ba, sử dụng công cụ pháp luật để xây dựng và cập nhật hệ thống thông tin về môi trường.

Cho tới nay có thể nói Việt Nam chưa công khai, minh bạch hoá thông tin tác động môi trường, đặc biệt là tác động huỷ hoại môi trường từ các khu công nghiệp, từ các doanh nghiệp nhà nước có công nghệ lạc hậu. Minh bạch thông tin sẽ góp phần định hướng hành vi của người dân. Những lực lượng bảo vệ môi trường sinh thái sẽ có động lực để hoạt động tốt hơn, nếu họ có thông tin đầy đủ về những hiểm hoạ sinh thái mà các dự án công nghiệp sẽ gây ra cho cộng đồng. Khi thông tin không được công bố, thì dư luận xã hội không hình thành; doanh nghiệp chưa phải đối mặt với thái độ lựa chọn của người tiêu dùng. Trong tương lai, cần tăng cường trách nhiệm của cộng đồng dân cư, các nhóm lợi ích, làng xã, tạo điều kiện hình thành hội hiệp bảo vệ môi trường. Làm được như vậy, là góp phần xã hội hoá bảo vệ môi trường, biến việc đó thành mối quan tâm của toàn xã hội, và tạo điều kiện cho các nhóm quyền lợi giám sát Nhà nước, giám sát các dự án công cộng và hoạt động của các doanh nghiệp có ảnh hưởng đến môi trường.

          Phân tích một ví dụ cụ thể có thể thấy rõ sự bất cập trong hệ thống thông tin môi trường hiện nay. Trong lĩnh vực môi trường nước, các thông tin cần được thu thập, quản lý và công bố là rất lớn và đang do nhiều cơ quan quản lý,  hiện tại chưa có bất kỳ thư mục dữ liệu quốc gia nào giúp cho người sử dụng xác định cơ quan quản lý thông tin.

Bảng:  Các cơ quan chính có trách nhiệm quản lý dữ liệu nước

LOI THÔNG TIN

CHI TIT

CƠ QUAN

T chc và pháp chế

 

Thông tin về pháp luật

Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành như Bộ NN&PTNT, Bộ Tư pháp

 

Thông tin về chức năng của các Bộ; HĐQGTNN; Tổ chức lưu vực sông; chức năng của các tỉnh.

Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành và UBND các tỉnh

 

Phổ biến thông tin về thể chế và pháp luật

Các Bộ, ngành, UBND tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, TW Đoàn TNCS, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, …

Hành chính

Sử dụng đất

Công tác quản lý hành chính về đất, lập bản đồ địa hình, bản đồ sử dụng đất, v.v…

Tổng cục địa chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Sử dụng nước

Cấp phép khai thác nước mặt,  nước dưới đất và xả nước thải

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài nguyên và Môi trường

Chất lượng nước

Các tiêu chuẩn về chất lượng nước

Bộ Khoa học và Công nghệ

Tài chính

Các đầu tư cho ngành nước và cung cấp tài chính

Bộ TC, Bộ Kế hoạch, các Bộ, ngành khác và UBND tỉnh

Quy hoạch

Quy hoạch phát triển ngành, các kế hoạch dự án cụ thể

Bộ KH&ĐT, các Bộ, ngành khác

Quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước quốc gia và lưu vực sông

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

K thut

Kinh tế xã hội

Các thông tin tổng quát về kinh tế xã hội

Tổng cục thống kê

Nguồn nhân lực, đói nghèo và việc làm

Bộ Lao động, thương binh và xã hội

Môi trường

Chất lượng nước

Bộ KH và CN, Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT

Các chỉ số môi trường chung

Bộ KH và Cá NhâN

Khí hậu, KTTV

Khí hậu, lượng mưa, dòng chảy mặt

Bộ TN&MT

Nước dưới đất

Khối lượng, chất lượng, mức độ khai thác, sử dụng

Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT

Lâm nghiệp

Dữ liệu về lâm nghiệp, các khu bảo tồn, khu vực bị ảnh hưởng, khai thác, các vườn ươm …

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Thuỷ điện

Quản lý các nhà máy thuỷ điện, hồ chứa, phát điện và quản lý

Bộ Công nghiệp

Nông nghiệp

Sản xuất cây trồng và vật nuôi, sản phẩm đầu vào, thị trường, quy định

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Thuỷ sản

Các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, nuôi cá nước ngọt, quản lý, quy định

Bộ Thuỷ sản

Y tế

Sức khoẻ cộng đồng

Bộ Y tế

Giao thông thuỷ

Giao thông thuỷ; cảng

Bộ Giao thông

Cấp nước và vệ sinh môi trường

Các hoạt động xây dựng, giá thành, cấp nước và nước thải (ở khu vực đô thị )

Bộ Xây dựng

Các hoạt động xây dựng, giá thành, cấp nước và nước thải (ở khu vực nông thôn)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Việc có quá nhiều cơ quan cùng có trách nhiệm mà không có một cơ quan đầu mối, chịu trách nhiệm chính về hệ thống thông tin như ví dụ trên đây cũng là tình trạng chung của các thông tin môi trường khác.

Vì vậy, trong tương lai, pháp luật không chỉ cần tạo điều kiện tốt hơn cho việc chỉ định cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm xây dựng, quản lý, cập nhật và cung cấp các thông tin về môi trường đối với từng thành tố môi trường cụ thể mà còn cần quy định ở mức độ khái quát khung thông tin và cấu trúc thông tin cần thiết cho từng loại thông tin cụ thể. Trong đó, việc chỉ định cơ quan đầu mối cũng là một trong những nội dung của đổi mới quản lý nhà nước về môi trường; còn quy định về thông tin lại có những đặc thù cụ thể, chủ yếu liên quan tới các quy định về xây dựng các cơ sở dữ liệu điện tử.

Trong điều kiện công nghệ thông tin đã tương đối phát triển ở Việt Nam hiện nay, việc đầu tư xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia về môi trường là điều hết sức cần thiết và hiệu quả. Về mặt kỹ thuật và công nghệ, việc xây dựng các CSDL là điều nằm trong năng lực của các chuyên gia tin học ở nước ta. Tuy nhiên, ngay đối với những vấn đề thuộc về kỹ thuật và công nghệ của việc xây dựng các CSDL quốc gia về môi trường, sự can thiệp của pháp luật cũng là cần thiết vì một số lý do. Trước hết, do hầu hết các cơ sở dữ liệu hiện nay là do nhà nước đầu tư xây dựng, phục vụ trước hết nhu cầu quản lý của các cơ quan nhà nước, tiếp theo là nhu cầu của các công dân, tổ chức liên quan nên nhà nước cũng cần có quy định về loại công nghệ để cho phép các cơ sở dữ liệu đều được xây dựng bằng các công nghệ và ngôn ngữ lập trình thống nhất, đảm bảo mối liên kết tương thích giữa các CSDL với nhau, tránh lãng phí và bất cập trong xây dựng, sử dụng, khai thác. Nhưng điều quan trọng hơn mà pháp luật cần can thiệp vào việc xây dựng các CSDL chính là về nội dung các CSDL. Tư duy quản lý phổ biến ở Việt Nam cho tới nay là rất nhiều thông tin được coi là bí mật nhà nước, hoặc bí mật quản lý của cơ quan chủ quản. Việc truy cập vào các thông tin đó thường rất khó khăn, ngay cả đối với các cơ quan nhà nước không trực tiếp quản lý thông tin. Riêng đối với lĩnh vực môi trường, điều này chỉ góp phần làm cho các thông tin môi trường trở nên khó tiếp cận hơn, không có lợi cho công tác bảo vệ môi trường, phòng ngừa và khắc phục sự cố, v.v. Ngay cả khi xây dựng các CSDL, cho tới nay vẫn chưa có các quy chế rõ ràng về việc cung cấp thông tin từ các CSDL đó cho các đối tượng có nhu cầu nên việc khai thác vẫn chỉ là vấn đề nội bộ. Để khắc phục tình trạng này, góp phần đưa đúng và đủ các thông tin môi trường cần thiết về môi trường vào các CSDL, nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng đối với các thông tin môi trường, pháp luật cần đưa ra các quy định khung về các hệ thống thông tin, CSDL nói chung và hệ thống thông tin, CSDL về môi trường nói riêng.

Thứ tư, tăng cường các giải pháp nâng cao ý thức pháp luật về bảo vệ môi trường trong toàn xã hội và  phát triển  các nguồn lực cần thiết để đảm bảo thi hành pháp luật về môi trường.

Việc hình thành và nâng cao ý thức cộng đồng đối với các vấn đề môi trường, đặc biệt là ý thức và thói quen tuân thủ pháp luật về môi trường có ý nghĩa quyết định sự thành công của việc thực hiện quan điểm bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội và chủ trương xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường,

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền PBGDPL về môi trường, trong đó tập trung vào việc.

- Xác định các đối tượng tuyên truyền PBGDPL về môi trường như: cán bộ, viên chức nhà nước, cán bộ quản lý và công nhân trong các doanh nghiệp, nông dân, thanh niên, sinh viên, học sinh, các tầng lớp nhân dân;

- Lựa chọn nội dung hình thức và biện pháp tuyên truyền PBGDPL về môi trường phù hợp với từng loại đối tượng;

- Kết hợp chặt chẽ đồng bộ tuyên truyền PBGDPL về môi trường với thi hành pháp luật về môi trường;

- Xây dựng và củng cố đội ngũ báo cáo viên pháp luật về môi trường. Đội ngũ cán bộ này thông qua hoạt động của mình, bằng kết quả công tác sẽ góp phần nâng cao vai trò của pháp luật về môi  trường, góp phần nâng cao ý thức  pháp luật về môi trường cho cán bộ, nhân dân;

- Đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cần thiết để đảm bảo hoạt động tuyên truyền PBGDPL về môi trường có hiệu quả;

- Trên cơ sở định hướng công tác tuyên truyền PBGDPL về môi trường ở đơn vị, địa phương đã được xác định, cơ quan chức năng dự thảo kế hoạch dài hạn và ngắn hạn để tuyên truyền PBGDPL về môi trường. Trong Kế hoạch phải xác định cụ thể đối tượng, nội dung, biện pháp, cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm thực hiện, tiến độ, thời gian thực hiện;

- Sử dụng tổng hợp các phương tiện, biện pháp tuyên truyền PBGDPL về môi trường.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí , đài phát thanh, truyền hình (xây dựng chuyên trang, chuyên mục, viết tin, bài...) Thông tin đại chúng là biện pháp được tiến hành phổ biến để nâng cao nhận thức cộng đồng về môi trường. Các thông tin về tình hình môi trường đều cần được báo, đài phát thanh, truyền hình, tờ tin... đăng tải tuyên truyền phổ biến đến nhân dân cả nước kể cả vùng sâu vùng xa. Nhiều chương trình phổ biến về môi trường và các vấn đề liên quan trên Đài phát thanh và truyền hình được cộng đồng ưa thích như: chương trình môi trường, chương trình bạn nhà nông, chương trình phổ biến khoa học và đời sống, v.v. đã đem lại hiệu quả lớn trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về sử dụng môi trường có hiệu quả. Hệ thống thông tin, cổ động, loa đài ở các làng xã đang phát triển là phương tiện hỗ trợ đắc lực để công chúng hiểu và làm đúng pháp luật nên cần được đầu tư duy trì và nâng cấp về mặt kỹ thuật và có chính sách đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ các cộng tác viên trong hoạt động này.

- Tăng cường phối hợp tổ chức công tác tuyên truyền PBGDPL về môi trường giữa các đơn vị, địa phương.

Đặc thù của công tác tuyên truyền PBGDPL là hoạt động có nhiều chủ thể, nhiều đối tượng, nhiều nội dung, nhiều biện pháp, nhiều hình thức...Vì vậy, cần phải có sự chỉ đạo thống nhất và có sự phối hợp lẫn nhau để không chồng chéo hay bỏ sót đối tượng địa bàn và nội dung giáo dục pháp luật nhằm đạt được hiệu quả chung cao nhất.

Sự phối hợp tổ chức tuyên truyền PBGDPL về môi trường được thực hiện bằng các loại hình thức sau đây:

- Phối hợp song phương, như phối hợp với Bộ giáo dục đào tạo để đưa pháp luật về môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân;

- Phối hợp đa phương là sự phối hợp của nhiều ngành, đoàn thể trên cơ sở một Chỉ thị, Kế hoạch do cơ quan có thẩm quyền ban hành, trong đó Công tác  tuyên truyền PBGDPL được tiến hành ở quy mô lớn, có tính chất xã hội hoá cao theo yêu cầu, nhiệm vụ chính trị từng đoạn. Ví dụ như phối hợp với Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Liên đoàn động...để tuyên truyền PBGDPL về môi trường cho các thành viên, đoàn viên, hội viên của các tổ chức này;

- Phối hợp theo chức năng, nhiệm vụ được quy dịnh trong các văn bản QPPL, như phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng xây dựng chuyên trang, chuyên mục trên báo, đài để tuyên truyền PBGDPL về môi trường cho cán bộ và nhân dân. Hoạt động này được chỉ đạo và quản lý theo hệ thống dọc. Nội dung phối hợp gắn với chuyên môn nghiệp vụ và chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.

Cần có những chính sách khuyến khích việc thu thập, kế thừa và phát triển kho tàng thơ, ca dao, tục ngữ dân gian; các hương ước, luật tục; các ca khúc, các tiểu phẩm sân khấu hiện đại về môi trường và bảo vệ môi trường, bảo vệ sự hoà hợp giữa môi trường thiên nhiên với con người. Chính những hình thức văn hoá, nghệ thuật này đã có tác dụng nâng cao nhận thức của cộng đồng rất có hiệu qủa. Trong đào tạo các nguồn nhân lực bảo đảm cho ban hành và thi hành pháp luật về môi trường ở Việt Nam,  cần phải kết hợp các hình thức đào tạo và các cấp đào tạo khác nhau. Vấn đề đào tại lại, đào tạo sau đại học, đào tạo nâng bậc và đặc biệt là đào tạo liên tục có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng liên quan tới các hoạt động bảo vệ môi trường. Các trường quản lý cán bộ của các ngành, các trường đại học chuyên ngành hàng năm cần tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý các lĩnh vực môi trường liên quan, cho đội ngũ cán bộ, doanh nghiệp, tổ chức hiệp hội hoạt động trong lĩnh vực môi trường .

Việc giáo dục về môi trường trong chương trình giáo dục phổ thông cũng cần được đặt ra một cách nghiêm túc. Ngành giáo dục phổ thông Việt Nam mỗi năm thực hiện chương trình giáo dục đối với trên dưới 20 triệu học sinh. Các nội dung giáo dục môi trường hiện đang được lồng ghép vào nhiều môn học khác nhau như  môn học địa lý, giáo dục công dân và một số môn xã hội khác...  Ngoài ra các chương trình ngoại khoá như tổ chức cho học sinh tham gia phong trào trồng cây, bảo vệ rừng, tham gia các phong trào xanh, sạch, đẹp, phong trào nước sạch và vệ sinh môi trường cũng cung cấp những kiến thức thực tế và xây dựng ý thức của học sinh đối với tài nguyên, môi trường.

Trong hệ thống các trường trung cấp, trường công nhân kỹ thuật thuộc khu vực công và dân lập, các nội dung giáo dục môi trường chưa thật sự được quan tâm đưa vào chương trình đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ  

Ngoài ra, trong điều kiện xã hội hóa các họat động về môi trường, việc các tổ chức, cá nhân tham gia họat động nghiên cứu, bảo vệ môi trường, ngăn ngừa các vi phạm về môi trường, thậm chí tham gia tích cực hơn vào quy trình lập pháp về môi trường là điều có thể dự đoán trước. Các tổ chức, cá nhân này cũng là những người hoặc vì lợi ích, hoặc vì tình nguyện mà tham gia họat động môi trường. Một thực tế đặt ra là trình độ chuyên môn đối với vấn đề bảo vệ và phát triển môi trường của họ rất không thống nhất. Do đó, vấn đề nguồn nhân lực của các đối tượng là chuyên gia của các tổ chức này cũng cần phải được pháp luật quy chuẩn. Đồng thời, pháp luật cũng phải quy định những chính sách hợp lý để khuyến khích các chuyên gia tham gia vào họat động của các tổ chức phi chính phủ, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn và hiệu quả họat động của các tổ chức.

Nguồn lực tài chính

Một trong những khó khăn của việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về môi trường hiện nay là sự thiếu hụt kinh phí cả ở cấp trung ương và cấp địa phương. Do đó,  để các quy định được thực hiện tốt, pháp luật cần có quan điểm mở đối với việc huy động các nguồn vốn mới phục vụ cho môi trường. Tại thời điểm hiện nay, các nguồn vốn có thể huy động bao gồm:

Chi ngân sách: pháp luật Việt Nam đã có những quy định rất cụ thể về chi ngân sách nói chung và chi ngân sách cho môi trường nói riêng. Tuy nhiên, các quy định đó chưa gắn kết được một cách hữu cơ giữa chi và thu trong họat động môi trường. Do đó, cần bổ sung thêm các quy định tăng thu ngân sách từ các họat động về môi trường. Cụ thể là, cần tính toán đầy đủ chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh; xử lý các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất không có đầy đủ trang thiết bị, quy trình bảo vệ môi trường; yêu cầu nghiêm ngặt về thực hiện nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường đối với mọi dự án sản xuất, kinh doanh; có cơ chế pháp lý thực sự hữu hiệu và dân chủ để các tác nhân ngoài kênh Chính phủ tham gia vào việc phát hiện những dự án, kể cả dự án của Nhà nước, không đảm bảo yêu cầu về môi trường; thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền; đánh thuế tài nguyên thiên nhiên và môi trường - điều kiện tiên quyết đảm bảo tính bền vững của công tác bảo vệ môi trường.

Đóng góp của các tổ chức phi chính phủ trong và ngòai nước: Đây có thể là nguồn tài chính tương đối lớn phục vụ cho các mục tiêu bảo vệ, bảo tồn vàphục hồi, cải thiện môi trường nói chung. Các nguồn đóng góp này có thể được thực hiện dưới hình thức thành lập hoặc đóng góp vào các quỹ cho các mục đích chi tiêu cụ thể. Chẳng hạn quỹ phục hồi môi trường, v.v. Hiện nay, pháp luật quy định về việc đóng góp của các tổ chức phi chính phủ trong và ngòai nước cho các quỹ trong nước chủ yếu được ban hành dưới dạng các quy chế kèm theo các văn bản cấp chính phủ hoặc cấp bộ. Hơn nữa, các hình thức quỹ hỗn hợp, trong đó có sự đóng góp kinh phí từ nhiều nguồn tài chính khác nhau, kể cả từ ngân sách và từ các nguồn phi ngân sách cũng chưa có quy định cụ thể. Đây là điểm pháp luật cần bổ sung.

Đóng góp của các công dân. Đóng góp của người dân thể hiện cụ thể nhất là việc nộp phí môi trường cho việc vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những đóng góp nhỏ, trực tiếp phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống hàng ngày. Trong điều kiện xã hội hóa, việc huy động nguồn đóng góp tự nguyện trong nhân dân càng đóng vai trò quan trọng hơn. Tuy nhiên, do pháp luật còn chưa đủ chặt chẽ, người dân còn ngại

Tuy Luật Môi trường 2005 đã bổ sung một số quy định về nguồn lực tài chính cho môi trường nhưng đó mới chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc, chưa thể áp dụng trong thực tế nếu không được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật khác.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN II

 

 

HỆ CHUYÊN ĐỀ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHU CẦU  PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ

TÀI NGUYÊN BIỂN ĐẾN NĂM 2010.

Trần Đức Lưu

Cục Thuỷ lợi – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

 

I. HIỆN TRẠNG TÀI NGUYÊN BIỂN VIỆT NAM.

Bờ biển Việt Nam dài 3260 km đứng thứ 27 trong tổng số 157 quốc gia ven biển, các đảo quốc và các lãnh thổ trên thế giới. Có  chỉ số tính biển (chiều dài bờ biển – diện tích đất liền ) là 0,01 đứng đầu Đông Dương. Biển Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên rất phong phú.

1. Tài nguyên sinh vật

a. Thực vật

* Thực vật cấp thấp :

- Thực vật bám đáy : hiện nay đã phát hiện 635 loài thực vật bám đáy trong vùng biển nước ta. Trong đó có 90 loài có giá trị kinh tế : 1 loài của tảo lam, 11 loài của rong lục, 26 loài của rong nâu, 52 loài của rong đỏ.

   Theo giá trị sử dụng chia ra :

          +) Rong làm nguyên liệu cho công nghiệp : 24 loài để sản xuất keo arge, alginate, carraageenan, iốt…..

   +) Rong làm nguyên liệu dược phẩm : 18 loài để sản xuất các loại thuốc giun, huyết áp, gây mê.

   +)  Rong làm thực phẩm 30 loài

   +) Rong làm thức ăn gia súc : 10 loài

   +) Rong làm phân bón hữu có : 8 loài.

Hiện nay các nhóm rong đang được khai thác là : rong mơ, rong câu, rong đông, rong kỳ lân, rong mứt, rong đá. Hàng năm sản lượng rong mơ của các tỉnh phía Bắc đạt trên 1000 tấn rong mơ khô ở các tỉnh phía Bắc, 35000 tấn tươi/năm ở các tỉnh phía nam.  Nhóm rong câu là nguyên liệu sản xuất keo agar dùng rong các ngành chế biến và bảo quản thực phẩm, dệt, dầu khí, y tế, mỹ phẩm; rong câu sống bám trên đáy bùn ở các tỉnh như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Nghệ An, Thừa Thiên – Huế, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Kiên Giang v…v…

- Nhóm thực vật nổi : là những giống loài thuộc ngành tảo là nguồn thực vật tươi sống, thức ăn cho nhiều giống loài.ở các vùng biển phía Nam phát hiện được khoảng 300 loài, trong đó hai phần ba là tảo silic.ở những vùng khơi xa thuộc trung tâm Biển Đông, các giống loài tảo cũng có thể đạt tới 125.800.000 tế bào/m3.

* Thực vật cấp  cao: Các vùng rừng ngập mặn ở Việt Nam là nguồn cung cấp gỗ, chất đốt, các sản phẩm làm nguyên liệu hoá học : ta nanh, cánh kiến đỏ, lie.., các cây dược liệu. ngoài ra còn là địa bàn cư trú của nhiều loài chim, bò sát, thú có vú… Trong đó có rừng ngập mặn Nam Bộ đứng thứ hai thế giới về số lượng giống loài, có nhiều lài thực vật phát triển, hiện nay rừng ngập mặn ở nam bộ còn trên 200.000 ha.

b. Động vật.

*  Động vật cấp thấp

- Động vật nổi : Khối lượng sinh vật nổi đạt từ 100 đến 200mg/m3 nước, ở vùng nông ven bờ thềm lục địa khối lượng có thể vượt con số trên từ hàng chục tới hàng trăm lần, gồm khoảng 770 loài trong 110 bộ của 13 ngành động vật không xương sống. Trong đó có mực thuộc ngành thân mềm là đối tượng khai thác của con người. ở các vùng biển nước ta có 37 loài mực thuộc 4 họ tập trung thành các ngư trường lớn ở Cái Chiên – Vĩnh Thực, quần đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Hòn Mê (Thanh Hoá), Hòn Mắt (Nghệ An), vùng biển Phan Thiết – Hàm Tân (Bình Thuận).

- Động vật đáy : gồm nhiều loài là nguồn thức ăn của các loài động vật có xương sống và không xương sống ở đáy. Một số loài là đối tượng khai thác của con người như tôm, cua, sò, hải sâm.  Nhóm các loài ốc có mặt hầu hết các vùng ven biển nước nông, trong đó bào ngư có giá trị kinh tế cao phân bố ở nhiều quần đảo Cô tô, Ba Mùn, Thượng Mai (Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ (Hải phòng), Hà Tĩnh, Quảng Trị, ốc làm thực phẩm và hàng mĩ nghệ. Nhóm trai, sò, hàu, vẹm có mặt khắp các vùng ven biển, các loài có giá trị kinh tế cao như trai ngọc, sò huyết, hàu. Nhóm tôm cua phong phú về giống loài và có số lượng lớn phân bố khắp các vùng ven biển trong đó có nhiều nơi có bãi tôm lớn như Quảng Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh v..v.. Sản lượng tôm của nước ta gần đay từ 50.000 đến 60.000 tấn /năm.

* Động vật cấp cao :

-  Cá : Vùng cá nối lớn nhất nằm ở phía đông - đông nam của miền Nam nước ta. Vịnh Bắc Bộ có tới 961 loài cá khác nhau trong 28 bộ cá; Trong đó thì 80 loài là đối tượng  I, 50 loài đối tượng II, 250 loài đối tượng III chỉ có một số loại không có giá trị kinh tế; trữ lượng cá đáy trong vịnh đạt 450.000 đến 500.000 tấn, cá nổi là 390.000 tấn. Trung bộ cá đáy có khoảng 50 loài, trữ lượng thấp, nhóm cá nổi phong phú với trữ lượng là 500.000 tấn, cá mòi, cá cơm, các nục, bạc má.v.v.. Đông Nam Bộ có khoảng 2000 loài cá trong đó có 100 loài là đối tượng khai thác chính với trữ lượng cá đáy là 698.307 tấn, cá nổi là 524.000 tấn. Tây Nam Bộ có khoảng 1000 loài cá đáy với trữ lượng 190.679 tấn, cá nổi đạt 316000 tấn.

- Bò sát :

+) Rùa biển : có 3 loại rùa biển không chỉ có giá trị cao về thực phẩm mà còn để sản xuất hàng mĩ nghệ là bà tam, vic, đồi mồi. Bà tam phân bố chủ yếu ở các vùng biển phía nam gần các đảo và quần đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Hoàng Sa, Trường Sa để khai thác trứng, làm thực phẩm, nấu cao và làm hàng mĩ nghệ. Đồi mòi là nguyên liệu để sản xuất các hàng mỹ nghệ, phân bố chủ yều ở Côn Đảo, Thổ Chu, Phú Quốc.

+) Rắn biển: Số lượng rất phong phú nhưng chưa được chú ý nghiên cứu và điều tra. Nọc rắn biển có thể dùng để sản xuất thuốc giảm đau, viêm thần kinh, hạ áp huyết, da dùng làm các loại mặt hàng như ví, túi xách, thắt lưng…

+) Chim biển : Vùng biển nước ta có khoảng 200 loài chim, trong đó có chim yến có giá trị kinh tế lớn, có khả năng dinh dưõng cao. Tai yến có 4 loại : yến huyết, yến quan, yến thiên, yến địa. Nha trang là nơi có sản lượng cao, và nghề khai thác có truyền thống lâu đời. Sản lượng yến trong vài năm gần đây đạt 1000 kg/năm.

+) Thú có vú : thường gặp các voi, cá heo, cá ông sư. v.. v

2. Tài nguyên khoáng sản.

a. Titan : Các điểm và mỏ quặng titan phân bố dọc theo đường bờ biển từ Móng Cái tới Nam Trung Bộ. Trữ lượng dự báo đạt 22 triệu tấn. Trữ lượng đã thăm dò, đánh giá là 16 triệu tấn, hiện nay có một số địa phương đã tiến hành khai thác inmenit và rutin để xuất khẩu như Hà Tĩnh, Quảng Trị.

b. Đất hiếm : là khoáng vật xenotin và monazit, phân bố dọc bờ biển từ Móng Cái đến Vũng Tàu.  Đất hiếm được khai thác để phục vụ cho các ngành công nghiệp : Sản xuất thuỷ tinh cao cấp, thực phẩm, sản xuất phân vi lượng, thuốc trừ sâu, thuộc da …ở trong nước. Trữ lượng của đất hiếm nằm trong sa khoáng ven biển nước ta đạt 300.879 tấn.

c. Cát thuỷ tinh : Dùng để sản xuất các mặt hàng thuỷ tinh dân dụng, cao cấp. Cát thuỷ tinh ở nước ta có hàm lượng Si02 cao, phân bố ở nhiều nơi các mỏ ở nước ta đều thuộc cỡ nhỏ và trung bình.

d. Dầu khí : tài nguyên dầu khí của nước ta phong phú. Hầu hết các diện tích chứa dầu đều nằm trên vùng thềm lục địa với độ sâu không lớn, thuận lợi trong công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí. Nước ta có 8 bể trầm tích Đệ Tam : Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Thổ Chu – Mãlai, Vũng Mây, Hoàng Sa và nhóm bề Trường Sa. Trong đó Bể Sông Hồng chủ yếu phát hiện khí, hàm lượng khí CO2 cao (60-90%), Bể Cửu Long chủ yếu phát hiện dầu, Bể Nam Côn Sơn và Thổ Chu phát hiện cả dầu và khí.

3. Tài nguyên muối.

 Nước ta có đường bờ biển dài 3260 km. Độ muối trong nước biển trung bình 2%, xấp xỉ độ muối bình quân ở địa dương. Muối có vai trò rất lớn trong đời sống của con người, năm 1995 nước ta cung cấp muối tiêu dùng cho các địa bàn dân cư trong nước lên tới gần nửa triệu tấn, cung cấp cho các nghành sản xuất là 275.000 tấn, xuất khẩu muối công nghiệp sang Nga, Hồng Công, Thái Lam, Singapo. Cả nước chia ra làm 3 khu vực sản xuất muối với tổng diện tích đồng muối là 11.454 ha với sản lượng 63.000 tấn vào năm 1995. Các tỉnh có năng suất muối cao là Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định, Bình Thuận, Ninh Thuận…

4. Tài nguyên du lịch.

Tài nguyên du lịch rất phong phú, chia thành 3 nhóm :

- Nhóm phục vụ nghỉ ngơi, an dưỡng, giải trí : Ven bờ biển nước ta có nhiều bãi cát rộng và sạch , nguồn hải sản phong phú là điều kiện để xây dựng các khu an dưỡng, giải trí : Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Đồng Châu – Tiền Hải (Thái Bình), Hải Thịnh – Hải Hậu (Nam Định), Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Khánh Hoà, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng tàu.

   - Nhóm phục vụ tham quan thiên nhiên và di tích lịch sử : là những vùng có cảnh quan thiên nhiên đa dạng, và có các di tích lịch sử

   - Nhóm phục vụ tham quan nghiên cứu khoa học

5. Hiện trạng môi trường và vấn đề bảo vệ môi trường biển đông Việt Nam.

Ô nhiễm môi trường biển là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ dộng vật, hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khoẻ con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một các hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển (Điều 1 khoản 4 Công ước của Liên hợp Quốc về Luật biển năm 1982).

Ô nhiễm môi trường biển có thể bắt nguồn từ các nguồn sau : Ô nhiễm bắt nguồn từ đất; ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, ô nhiễm do sự nhận chìm; ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra, ô nhiễm do tiến hành các hoạt động trong Vùng gây ra; ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển.

Cho tới nay, những kết quả nghiên cứu cho thấy hiện trạng môi trường biển Đông nói chung, trong đó có vùng biển thuộc chủ quyền nước ta chưa bị suy thoái đến mức báo động như một số vùng biển khác trên thế giới.

Tuy nhiên, ở nhiều nơi thuộc vùng ven bờ các khoang nước trong vịnh hoặc vùng biển các địa phương, môi trường có sự thay đổi đáng kể. Điều này được phản ánh qua sự giảm sút diện tích các dải rừng ngập mặn ven biển, giảm sút số giống loài sinh vật và chất lượng (kích thước, trọng lượng) cũng như sinh khối của chúng.

Sự giảm sút này có thể do các nguyên nhân sau :

+ Khai thác quá mức tài nguyên dẫn tới nhiều giống loài sinh vật không tái tạo kịp.

+ Kỹ thuật khai thác lạc hậu nên khai thác không hợp lí các vùng sinh sống và phát triển của sinh vật.

+ Chưa có những quy hoạch tổng thể về khai thác, bảo vệ và tái tạo các vùng ven bờ, vùng biển và hải đảo.

+ Các chất thải công nghiệp (các vật chất rắn, hợp chất hữu cơ, phênon, sunfat đồng, chì, kẽm), thuốc trừ sâu,v…v.. được nước trong lục địa đưa ra biển.

Hiện nay, tình trạng suy thoái môi trường biển nước ta được thể hiện rõ nét ở hai khu vực.

- Khu vực ven biển : ở khu vực này diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp, dẫn tới nhiều giống loài động vật giảm số lượng. Diện tích rừng ngập mặn thu hẹp do hai nguyên nhân chính :

+) Mở rộng diện tích trồng cây lương thực : Do không nắm vững quá trình diễn biến của đất nên sau khi chặt phá rừng đã dẫn tới giảm độ phì, tăng độ chua của đất; không trồng cấy được cây lương thực, đất bị bỏ hoang hoá.

+) Mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản : Do không hiểu hết vai trò của rừng ngập mặn đối với quá trình phát triển các loài rong tạp cũng như các bã mùn hữu cơ của rừng- nguồn thức ăn lâu dài cho cua, tôm nên khi mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản thường phát quang không để lại những khoảng rừng xen kẽ. Vì vậy chỉ sau vài năm sản lượng giảm, vùng nuôi trồng trở thành hoang hoá. Về mùa mưa, vùng triều bị xói lở, độ đục của vùng ven biển tăng, lượng ôxy trong nước và lượng ánh sáng giảm dẫn tới hàng loạt động vật bám đáy bị chết.

Số động vật bám đáy giảm thể hiện qua sản lượng của một số loài  ví dụ: Sản lượng trai nuôi ngọc ở các bãi biển Quảng Ninh, Thanh Hoá giảm từ 24-25 triệu con năm 1970 còn 1 triệu con vào năm 1987. Vẹm xanh ở Đầm Nha  (Khánh Hoà) sản lượng năm 1978 là 30 tấn đến năm 1982 còn 3 tấn. Tôm hùm ở Phú Yên và Khánh Hoà năm 1977 sản lượng 120 tấn đến năm 1980 còn 60 tấn/năm.

- Khu vực biển nông : Tài nguyên khai thác chủ yếu là các loài cá. Cá mối, cá trích, cá lầm, cá hồng giảm sút về số lượng và chất lượng(kích thước và trọng lượng). Nhóm cá mòi, cá chảy, cá ngựa, cá lưỡng tiêm, cá bò, cá nhám …có nguy cơ tuyệt chủng.

Ngoài ra một số loài cá giảm mức độ tập trung ở các vùng khai thác như cá chim, cá thu.

Sự ô nhiễm do dầu ở các vùng biển nước ta chưa nhiều. Song có thể dễ nhận thấy quá trình ô nhiễm này bắt nguồn từ dầu thải do các tàu chạy trên vùng biển nước ta hoặc các tàu chở dầu bị dò rỉ, bị đắm.

Các dàn khoan dầu khí ở bán đảo Lôi Châu, tây nam đảo Hải Nam của Trung Quốc và các vùng biển Đông Nam Bộ của Việt Nam chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới môi trường biển ở Việt Nam trong những năm tới.

Để bảo vệ môi trường Biển Đông, ngăn chặn việc suy thoái nguồn lợi thuỷ sản, nhà nước Việt Nam đã cấm dùng chất nổ để đánh bắt cá, cấm dùng các lưới có kích thước mắt lưới nhỏ hơn 7 mm để đánh bắt cá nổi, nhằm hạn chế đánh bắt cá con, cấm dùng các biện pháp đánh cá có tính chất huỷ diệt như dùng chất nổ, xung điện…v…v..

II. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA CÁC VÙNG BIỂN.

1. Nội thuỷ :

a. Định nghĩa.

- Nội thuỷ là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ

- Theo tuyên bố của Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12 tháng 05 năm 1977 : nội thuỷ của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm :

   +) Vùng biển nằm trong đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam gồm : các vùng nước cảng biển, vũng tàu, cửa sông, vịnh, vùng nước nằm kẹp giữa lãnh hổ đất liền và đường cơ sở.

   +) Vùng biển nằm ở phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các đảo và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

    +) Các vùng nước lịch sử của Việt Nam trong vịnh Thái Lan theo hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam- Campuchia.

- Trong nội thuỷ Việt Nam thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ. Các tàu thuyền nước ngoài hoạt động trong nội thuỷ Việt Nam phải tuân theo các thủ tục quy định tại Quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 30 – CP ngày 29 tháng 1 năm 1980 và Nghị định 55- CP ngày 1 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài vào thăm Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cụ thể hoá điều 4 của Nghị định 30-CP.

-  Vùng nước lịch sử :  Hiện nay Việt Nam chỉ có vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia.  Phần vùng nước lịch sử thuộc Việt Nam được đặt dưới chế độ nội thủy.  Vịnh Bắc Bộ hiện nay không phải là vùng nước lịch sử mà là vùng vịnh chung giữa hai nước.

2. Lãnh hải.

- Lãnh hải : là vùng biển nằm giữa vùng nước nội thuỷ và các vùng biển thuộc quyền tài phán. Theo Công ước Luật Biển 1982 thì chiều rộng lãnh hải không quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở.

   - Đường cơ sở theo Công ước 1982 có thể là đường cơ sở thông thường (là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn được quốc gia ven biển chính thức công nhận) hoặc đường cơ sở thẳng (là đường cơ sở nối liền các điểm thích hợp và được áp dụng ở những nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngang và chạy dọc theo bờ biển hoặc ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và do những điều kiện tự nhiên khác).

   Việc vạch đường cơ sở thẳng phải tuân theo 2 điều kiện: Một là tuyến đường cơ sở thẳng vạch phải đi theo xu hướng chung của bờ biển. Hai là  các vùng biển ở bên trong đường cơ sở này phải gắn bó với đất liền đủ đến mức đặt dưới chế độ nội thuỷ

- Chiều rộng của lãnh hải Việt Nam rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở trở ra. Lãnh hải ven bờ lục địa được tính từ hệ thống đường cơ sở thẳng ven bờ lục địa đã được công bố trong tuyên bố của Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam ngảy 12 tháng 11 năm 1982.  Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam được vạch ra vào ngày 12 tháng 11 năm 1982. Hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11 điểm . Trừ điểm A8 nằm trên mũi Đại Lãnh, các điểm còn lại đều nằm trên các đảo, còn tồn tại 2 điểm chưa xác định . Điểm 0 nằm trên giao điểm đường  nối liền quần đảo Thổ Chu (Việt Nam) và đảo Poulo Wai (Campuchia) và đường  phân định biên giới giữa hai nước trong vùng nước lịch sử. Điểm kết thúc của hệ đường cơ sở thẳng Việt Nam tại cửa Vịnh Bắc Bộ sẽ là giao điểm đường cửa Vịnh và đường phân định biển trong Vịnh Bắc Bộ. Đường phân định biển và đường cửa vịnh Bắc Bộ đã được xác lập. Tuy nhiên đường phân định trong biển mới là đường phân định lãnh hải (từ 1-9 ) hoặc đường phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước .

Hiện nay đường cơ sở thẳng của Việt Nam đang bị các nước phản đối vì đi không theo xu hướng chung của bờ biển.

Lãnh hải của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xác lập khi vấn đề chủ quyền được giải quyết.

- Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày 12 tháng 5 năm 1997 về các vùng biển Việt Nam “Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam  thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời phía trên, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải”.

Việt Nam thừa  nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam, các tàu ngầm khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh thổ Việt Nam phải đi ở trạng thái nổi và phải trêo cờ. Tuy nhiên trong Nghị định 30 – CP không thừa nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền quân sự nước ngoài trong lãnh thổ Việt Nam.

3. Vùng tiếp giáp lãnh hải.

- Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện các thẩm  quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài. Phạm vi của vùng tiếp giáp không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở.

- Vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải nhằm bảo đảm sự tuân thủ các quy định về y tế, di cư và nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.

-Vùng tiếp giáp lãnh hải đồng thời nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế nên nó còn chịu sự chi phối của vùng đặc quyền về kinh tế.

5. Vùng đặc quyền kinh tế :

 - Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh. (Điều 55 của Công ước  Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982).

- Theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 thì chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng đặc quyền kinh kế là vùng đặc thù trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích kinh tế.

Trong vùng đặc quyền kinh tế quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biến và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các hoạt động khác nhằm mục đích thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Cũng trong vùng đặc quyền kinh tế quốc gia ven biển có quyền tài phán trong việc lắp đặt, sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển và các quyền, nghĩa vụ khác.

 Trong vùng đặc quyền kinh tế các quốc gia có biển hay không có biển đều được hưởng quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, quyền tự do lắp đạt dây cáp và ống dẫn ngầm nhưng cũng phải tôn trọng các quy định mà quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước năm 1982. Các quốc gia không có biển hay bất lợi về địa lý được ưu tiên tham dự khai thác phần số dư đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển phát triển cùng khu vực hoặc tiểu khu vực.

 - Theo tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ Việt Nam quy định : Vùng đặc quyền về kinh tế của cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền với lãnh hải và có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Tại những khu vực mà vùng đặc quyền về kinh tế của Việt Nam chưa ra tới hết bề rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở mà đã gặp vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác ( như Malaysia, Indonexia, Thái Lan, Trung Quốc) thì ranh giới phân chia vùng đặc quyền về kinh tế giữa nước ta với các nước liên quan được quy định phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam rộng khoảng 210.600 hải lý vuông, gấp đôi diện tích lãnh thổ đất liền.

Trong vùng đặc quyền kinh tế của mình Nhà nước Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, có các quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế, có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế của Việt Nam, có thẩm quyền riêng biệt trong việc thiết lập, lắp đặt và sử dụng các công trình, các đảo nhân tạo, có thẩm quyền riêng biệt về bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường biển.

6. Thềm lục địa.

- Thềm lục địa theo công ước Luật biển năm 1982 là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng các gần hơn. Trong trường hợp khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng các 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển này có thể xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2500 mét một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý, với điều kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa trong Công ước luật biển năm 1982 và phù hợp với các kiến nghị của Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa .

Quốc gia thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào. Các tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa bao gồm các tài nguyên khoáng sản và các tài nguyên không sinh vật khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển như dầu khí, quặng sắt…v..v . Ngoài ra quốc gia ven biển có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học, có quyền đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình trên biển, quyền bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.

- Thềm lục địa của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Các đảo, quần đảo xa bờ thuộc chủ quyền Việt Nam đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa riêng.

Thềm lục địa Việt Nam  gồm 4 phần :

-              Thềm lục địa vịnh Bắc Bộ;

-              Thềm lục địa khu vực miền Trung;

-              Thềm lục địa khu vực phía Nam;

-              Thềm lục địa khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong đó tại khu vực miền Trung, thềm lục địa ra ngoài khoảng 50 km đã thụt sâu xuống hơn 1000 m. Tại đây chúng ta có thể vận dụng để kéo dài ranh giới thềm lục địa ra tới 200 hải lý.

7. Biển cả và Vùng – Di sản chung của loài người.

Biển cả là vùng biển nằm ngoài các vùng biển thuộc phạm vi chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù đó là quốc gia có biển hay không có biển. Trên vùng biển này tất cả các quốc gia đều có 6 quyền tự do theo công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 là : tự do hàng hải, hàng không, tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm; tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho phép; tự do đánh bắt hải sản và tự do nghiên cứu khoa học.

Vùng  là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm dưới biển cả và nằm bên ngoài các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia. Vùng và tài nguyên của Vùng bao gồm các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí  nằm ở đáy dại dương và trong lòng đất dưới đáy là di sản chung của nhân loại. Việc thăm dò, khai thác tài nguyên của vùng được tiến hành thông qua một tổ chức quốc tế, gọi là Cơ quan quyền lực quốc tế. Cơ quan này bảo đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng thông qua bộ máy của mình.

III. LUẬT BIỂN VIỆT NAM

          1. Nguồn của Luật biển.

Nguồn của Luật biển quốc tế có thể xuất phát từ các nguồn sau:

- Nguồn lịch sử .

- Các tuyên bố đơn phương và thực tiễn quốc gia.

- Các Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc.

- Các phán quyết của Toà án pháp lý quốc tế.

- Các hội nghị pháp điển hoá.

Như vậy, ngay từ những năm sau khi thống nhất nước ta đã có những văn bản pháp lý quan trọng để xác định các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, thuận lợi cho các hoạt động trên biển, khai thác và bảo vệ tài nguyên biển.  Đặc biệt ngày 23/06/1996 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về việc phê chuẩn điều ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Việt Nam trở thành thành viên thứ 64 phê chuẩn Công ước này. Những văn bản pháp lý của Việt Nam được đưa ra quy định về quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với các vùng biển đã tuân theo các quy định chung của Liên hợp quốc.

 Để thực hiện các quyền của mình đối với các vùng biển và thể chế hoá Công ước Luật biển 1982, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay gồm có một số các văn kiện pháp lý chính :

+) Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12 tháng 5 năm 1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam

+) Nghị định của Hội đồng Chính phủ số 30 ngày 29 tháng 1 năm 1980 về Quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+) Tuyên bố của Chính phủ của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12 tháng 11 năm 1982.

+) Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản ngày 25 tháng 4 năm 1989 của Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 2 tháng 5 năm 1989.

+) Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 437 – HĐBT, ngày 22 tháng 12 năm 1990 về Quy chế hoạt động nghề cá của người và phương tiện nước ngoài trong vùng biển nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+) Nghị định số 55 – CP ngày 1 tháng 10 năm 1996 của Chính Phủ về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài vào thăm nước Công hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+) Chỉ thị 01/1998/CT-TTG ngày 02/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về nghiêm cấm sử dụng chất nổ, xung điện độc hại để khai thác thuỷ sản.

+) Nghị định 36/1999 : Xử phạt vi phạm hành chính trong vùng lãnh hải.

Ngoài ra còn rất nhiều các văn bản pháp lý quan trọng khác điều chỉnh các lĩnh vực như dầu khí, bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, cảnh sát biển…v..v.

Việt Nam cũng đã tham gia ký kết, phê chuẩn một số điều ước quốc tế song phương và đa phương : Hiệp định vùng nước lịch sử chung Việt Nam – Campuchia ngày 07/07/1982; Hiệp định phân định biển trong vịnh Thái Lan giữa Thái Lan và Việt Nam ngày 09/08/1997. Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 25/02/2000. Ngoài ra Việt Nam còn ký bản ghi nhớ về khai thác chung trong vùng chồng lấn thềm lục địa trong vịnh Thái Lan giữa Việt Nam – Malaysia, giữa Việt Nam, Thái Lan và Malaysia.

Trên thực tế các quy định pháp luật, các tuyên bố về các vùng biển của Việt Nam vẫn còn bị nhiều nước phản đối. Một nguyên nhân quan trọng cũng là do các quy định của pháp luật về biển ở Việt Nam cũng còn nhiều thiếu sót và chưa hợp lý với tình hình thế giới ngày nay:

- Tuyên bố về đường cơ sở thẳng của Việt Nam bị nhiều quốc gia phản đối với lý do đường cơ sở thẳng đi quá xa so với xu hướng của bờ biển.

- Các quy định tại Nghị định số 30-CP của Chính phủ ngày 29 tháng 1 năm 1980 về quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của Việt Nam còn một số điểm không hợp lý:

+) Tại Điều 9 quy định “Tàu thuyền nước ngoài trong nội thuỷ Việt Nam phải đi nhanh chóng, liên tục, đúng tuyến đường và đúng hành lang quy định, không được vào khu vực cấm”, tuy nhiên Việt Nam lại chưa quy định các tuyến đường và hành lang nên các tàu thuyền nước ngoài vẫn đi theo tuyến đường hàng hải truyền thống. 

+) Việt Nam không công nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền quân sự nước ngoài trong lãnh thổ Việt Nam (điều 3.c). Điều này được quy định vào thời điểm nước ta bị cô lập, đe doạ nhưng nay tình hình đã khác nên quy định này không còn phù hợp và trái với Công ước Luật Biển 1982 mà Việt Nam tham gia vì Công ước này ghi nhận quyền đi qua không gây hại cho tất cả các tàu thuyền kể cả tàu quân sự.

+) Đối với tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân hoặc chuyên trở các  chất độc hại nguy hiểm khi qua lại trong lãnh hải phải có sự chuẩn y của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) (Điều 23 Luật Hàng Hải ) là không phù hợp với Công ước Luật biển 1982.

- Tuyên bố của Việt Nam ngày12 tháng 5 năm 1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa Việt Nam : kiểm soát cả với tàu thuyền nước ngoài trong vùng tiếp giáp lãnh hải là không hợp lý.

- Luật pháp nước ta chưa có quy định điều chỉnh quyền lợi của Việt Nam như một quốc gia ven biển đối với các hiện vật lịch sử và khảo cổ phát hiệt ra và trục vớt lên trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam. Điều này đã gây tổn hại không nhỏ cho quyền lợi của Việt Nam.

- Đối với vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản nhưng Việt Nam chưa triển khai ngay được việc xác định khả năng khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế, điều kiện cho phép phía nước ngoài khai thác số dư theo cơ chế 61, 62 của Công ước. Việc xác định khối lượng có thể đánh bắt được phải dựa trên rất nhiều thông số và chuyên gia có trình độ cao, đòi hỏi sự hợp tác quốc tế.

          2. Sự phát triển của pháp luật về Biển Việt Nam đến năm 2010.

Để đảm bảo quyền lợi của Việt Nam trong các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mình, đẩy mạnh việc khai thác và bảo vệ tài nguyên biển trong thời gian tới để phát triển kinh tế thì nhu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển là nhu cầu không thể thiếu. Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi xin đề nghị một số công việc cần làm trong thời gian tới :

- Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật đã có : Sửa đổi Bộ Luật Hàng Hải, Nghị định 30-CP ngày 29 tháng 1 năm 1980 về Quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thừa nhận quyền qua lại không gây hại cho tàu thuyền quân sự nước ngoài trong lãnh hải của Việt Nam để phù hợp với các quy định của Công ước luật biển 1982.

+) Nghiên cứu và đàm phán với các nước láng giềng có liên quan để hoàn thành hệ thống đường cơ sở hoàn chỉnh phù hợp với Luật pháp quốc tế, trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của Việt Nam vì đường cơ sở là yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định các vùng biển của Việt Nam. Đặc biệt là xác định được đường cơ sở để xác định nội thủy và các vùng biển trong vịnh Bắc Bộ, tạo điều kiện cho Việt Nam thực hiện quyền khai thác khoáng sản, đánh bắt cá.

+) Tiếp tục xây dựng các văn bản pháp luật quy định về các tuyến đường và hành lang cho các tàu thuyền nước ngoài hoạt động, về  quyền lợi của Việt Nam với tư cách là một quốc gia ven biển đối với các hiện vật lịch sử và khảo cổ phát hiện ra và trục vớt lên trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam.

+) Tiếp tục đàm phán và ký kết các hiệp định với các nước Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonexia, Campuchia để phân định các vùng biển bị chồng lấn trên cơ sở hợp tác, hữu nghị và cùng phát triển.

+) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tiếp tục khai thác các tiềm năng của các vùng biển Việt Nam, bảo vệ môi trường biển khỏi các ô nhiễm suy thoái đồng thời vươn xa đến khai thác các nguồn tài nguyên trong vùng và biển cả. Hợp tác trao đổi thông tin, chuyên gia, hợp tác nghiên cứu, thăm dò thuỷ sản, các hoạt động liên quan đến các đàn cá trong vùng chồng lấn. Có các biện pháp để kêu gọi đầu tư liên doanh, nâng cao khả năng đánh bắt tổng hợp. 

 

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

THỰC TIỄN VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT VỀ

MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM

------------------------------

 

 KS. Đặng Dương Bình

              Trưởng Phòng Quản lý môi trường khí tượng và thuỷ văn

 Sở Tài Nguyên Môi trường và Nhà đất Hà Nội

Hiện nay Việt Nam có 651 đô thị các loại, trong đó đã có 4 thành phố trực thuộc Trung ương, 21 thành phố trực thuộc tỉnh, 61 thị xã và 565 thị trấn. Tỷ lệ dân số đô thị trên tổng dân số cả nước có xung thế gia tăng liên tục trong những năm vừa qua:

Năm 1986 dân số đô thị chiếm 19% tổng dân số cả nước

Năm 1990 dân số đô thị chiếm 20% tổng dân số cả nước

Năm 1999 dân số đô thị chiếm 23% tổng dân số cả nước

Năm 2002 dân số đô thị chiếm 25% tổng dân số cả nước

Năm 2004 dân số đô thị chiếm 26% tổng dân số cả nước

Dự báo đến năm 2010 dân số đô thị sẽ tăng lên, chiếm 33% tổng dân số cả nước và đến năm 2020 sẽ là 45%. Phát triển xây dựng đô thị không theo kịp với phát triển dân số đô thị và dẫn đến hình thành nhiều “thôn làng”, “xóm bụi” trong đô thị, gây sức ép lớn đối với hạ tầng kỹ thuật đô thị và là nơi có điều kiện môi trường xấu nhiều tệ nạn xã hội làm mất mỹ quan đô thị.

1/ Hiện trạng môi trường ở các đô thị .

Môi trường ở các đô thị hiện nay hầu hết đều đang phải đối mặt với những thách thức không nhỏ về chất thải rắn, nước thải và khí thải do gia tăng dân số, giao thông đô thị, phát triển công nghiệp và dịch vụ.

Trung bình mỗi người dân đô thị hàng ngày thải ra từ 0,5 – 0,6 kg rác thải sinh hoạt và mức thải này đang có xu thế gia tăng theo nhịp độ phát triển kinh tế và mức sống của người dân. Đặc biệt trong những dịp lễ, tết lượng rác thải sinh hoạt ở các đô thị đều tăng mạnh, như ở Hà Nội trong các ngày Tết, lượng rác thải sinh hoạt tăng gấp 2 lần so với các ngày thường. Trong khi đó năng lực thu gom, vận chuyển và xử lý chôn lấp hợp vệ sinh còn nhiều hạn chế, trung bình chỉ đạt 60 – 70% yêu cầu, đặc biệt là chất thải rắn nguy hại hầu như chưa được thu gom, xử lý theo đúng quy định. Nguyên nhân là do kinh phí đầu tư chưa thoả đáng, quy hoạch đất để xây dựng các khu chôn lấp chất thải gặp trở ngại do người dân ở các khu vực dự kiến xây dựng khu chôn lấp chất thải phản ứng do sợ bị ô nhiễm môi trường. Cho đến nay chỉ có Hà Nội đã và đang đầu tư xây dựng, vận hành bãi chôn lấp chất thải sinh hoạt hợp vệ sinh ( khu liên hợp xử lý chất thải rắn Nam Sơn, huyện Sóc Sơn với quy mô 83,3 ha và Bãi chôn lấp Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm với quy mô 12,5 ha), lò đốt chất thải rắn y tế nguy hại Cầu Diễn và đang đầu tư, đồng thời bắt đầu đưa vào vận hành khu xử lý chất thải công nghiệp với quy mô 5,1 ha. Mặc dù trong gần 10 năm qua, Hà Nội đã tập trung đầu tư đáng kể cho công tác xử lý chất thải rắn, song mới chỉ nâng tỷ lệ thu gom rác từ 60% lên hơn 85% và vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Còn ở Hải Phòng mới đạt 73%, Hải Dương 60%,….vv.

Phát triển đô thị thường song hành với phát triển công nghiệp và dịch vụ, thương mại, giao thông. Các hoạt động này có xu thế làm gia tăng khí thải. Song trên thực tế chất lượng không khí ở các đô thị cuũng như ở các khu, cụm công nghiệp của nước ta trong những năm vừa qua chưa có biến động lớn, cá biệt có những nơi có chiều hướng giảm dần trong khi tốc độ đô thị hoá và phát triển công nghiệp tăng liên tục và đáng kể. Điều này được lý giải bởi kết quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát và quản lý nguồn khí thải công nghiệp ngày càng được tăng cường và có hiệu quả, cũng như đã có một một sự chuyển biến đáng kể về nhận thức và trách nhiệm của lãnh đạo các doanh nghiệp. Tuy nhiên, một hiện tượng ô nhiễm môi trường không khí bộc lộ rõ nét ở hầu hết các đô thị và ở mọi nơi là tình trạng ô nhiễm bụi khá trầm trọng . Kết quả quan trắc môi trường định kỳ về chất lượng không khí từ Hà Nội từ năm 1996, cũng như ở các đô thị do mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia tiến hành trong những năm vừa qua cho thấy nồng độ bụi ở hầu hết các các đô thị đều vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) từ 2 – 3 lần, các biệt có nơi , có lúc vượt TCCP tới 5 – 7 lần. Nguyên nhân là do các hoạt động xây dựng trên địa bàn thiếu sự quản lý về môi trường có hiệu quả. Ngoài ra cần lưu ý một biểu hiện mới, đó là nồng độ các chất ô nhiễm có trong khí thải của các phương tiện giao thông cơ giới có xu thế gia tăng đáng kể trong vài năm gần đây do mật độ giao thông đô thị tăng quá nhanh. Mặc dù mới chỉ vượt quá tiêu chuẩn cho phép tại các mút giao thông có mật độ lớn , nhưng nếu không có giải pháp kịp thời thì trong thời gian tới không xa, hiện tượng ùn tắc giao thông sẽ diễn ra thường xuyên và tại nhiều tuyến, đoạn đường và nút giao thông ở các đô thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, đông dân như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Ngoài tình trạng ô nhiễm khí thải hoạt động giao thông đô thị còn gây ô nhiễm tiếng ồn khá trầm trọng.

Trên toàn lãnh thổ nước ta, tổng lượng nước trong các dòng chảy trung bình hàng năm rất lớn, khoảng 880 tỷ m3, nhưng trong đó chỉ có 325 tỷ m3 ( xấp xỉ 37%) được tạo ra trong lãnh thổ, còn 63% tổng lượng nước đó lại được tạo ra từ các quốc gia láng giềng như Thái Lan, Trung Quốc. Tuy nhiên do còn hạn chế về các công trình trữ nước ( hồ chứa) và khả năng giữ nước kém (do đất dốc và rừng đầu nguồn bị tàn phá nhiều) nên việc đảm bảo có đủ nước ổn định và đảm bảo chất lượng là một thách thức lớn hiện nay đối với tất cả các địa phương cũng như các đô thị ở nước ta. Dân số tăng nhanh theo tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa đã gây áp lực lớn lên tài nguyên nước . Hiện nay hầu hết nước thải sinh hoạt bao gồm cả nước thải bệnhviện và dịch vụ ở các đô thị và 90% tổng lượng nước thải công nghiệp đều chưa được xử lý, xả trực tiếp vào kênh, mương, sông, hồ gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nước, có những nơi đang diễn ra khá nghiêm trọng gây ảnh hưởng xấu đến đời sống sức khỏe và sản xuất của nhiều người dân trên các lưu vực, sông hồ như ở các lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai, lưu vực sông Cầu và lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy …

Việc cấp nước sinh hoạt ở các đô thị cũng đang gặp nhiều thách thức do nguồn nước ( bao gồm cả nước ngầm và nước mặt) đang có xu hướng ngày càng bị ô nhiễm hoặc suy thoái, cạn kiệt , mực nước ngầm bị suy giảm có thể gây xâm nhập mặn ở nhiề uvùng đất ven biển. Hiện nay tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch mới đạt mức trung bình 70%.

Nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường do đô thị hóa là quy hoạch đô thị còn nhiều yếu kém. Quy hoạch đô thị ngày nay không còn giống như vài ba thập kỷ trước đây khi mà vấn đề môi trường đô thị còn chưa được đề cập tới. Chính vì vậy mà các đô thị ở nước ta, điển hình là Hà Nội đang gặp rất nhiều khó khăn trong giải quyết hậu quả của việc làm trước đây.

Về nguyên lý, sự phát triển đô thị phải dựa vào quy hoạch tổng thể phát triển không gian hay còn gọi là sự sắp xếp lãnh thổ khi xảy ra quy hoạch đô thị , yếu tố cân bằng xã hội, sự đảm bảo chất lượng môi trường phải được đạt ra cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế ngay từ giai đoạn soạn thảo dự án. Phải dự báo được sự biến động môi trường trong qúa ttrình đô thị hóa, nhất là khi dân số tăng nhanh và khả năng chịu tải hay khả năng tiếp nhận của môi trường lại có giới hạn để không vượt quá ngưỡng giới hạn của nó.

Có thể lấy Hà Nội là một trường hợp điển hình để phân tích, đánh giá. Trong những năm đầu của thập kỷ 60, Hà Nội đã trải qua mấy lần thay đổi về rang giới hành chính vùng ngoại thành và cũng đã mấy lần xây dựng và điều chỉnh quy hoạch mặt bằng tổng thể vùng nội thành mở rộng. Các hoạt động trên diễn ra trong bối cảnh Thành phố chưa có chiến lược phát triển dài hạn nên chưa xác định rõ được không gian mở rộng phát triển đô thị trong tương lai, cũng như chưa xem  môi trường là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xắp xếp, bố trí lãnh thổ. Vì lẽ đó mà một trong những yếu tố quan trọng của đô thị là nơi ưu tiên cho cuộc sống con người đã không được xem xét, giải quyết thoả đáng, có cơ sở khoa học và thực tiễn.

Những năm đầu của thập kỷ 60 do quy hoạch chưa dự báo đúng được hướng mở rộng, phát triển Thành phố nên nhiều Nhà máy, xí nghiệp và một số khu công nghiệp ( Khu công nghiệp Thượng Đình, khu công nghiệp Mai Động – Vĩnh Tuy, … ) khi xây dựng thuộc khu vực ven đô thì nay nằm lọt vào khu dân cư đông đúc, đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp phải giải quyết.

Theo dự báo trước đây thì đến năm 2005, dân số nội thành mới đạt khoảng 1,5 triệu người, nhưng mới đến nay đã vượt quá con số đó. Dân số tăng nhanh gây ra, làm nảy sinh nhiều khó khăn, thách thức và bất cập . Tại các khu vực đã được đô thị hóa ( từ làng, xã chuyển thành phường) hầu như chưa có phường nào có hạ tầng kỹ thuật đạt tiêu chí đô thị, kể cả các phường đã đô thị hóa trên dưới 40 năm như Tân Mai, Vĩnh Tuy, Kim Liên. Tại phường Kim Liên, Tân Mai tuy đã xây dựng một số công trình hạ tầng kỹ thuật, nhưng vào mùa mưa vẫn thường xuyên bị úng, ngập, đường sá bị tắc nghẽn, mùa hè vẫn thiếu nước sinh hoạt. Chính sự chênh lệch, khác biệt về cơ sở hạ tầng kỹ thuật này mà trong Thành phố còn tồn tại các “ Thôn”, “ làng” giao thông vẫn là đường làng, ngõ xóm chật hẹp. Xe cứu hỏa, xe thu gom rác không vào được, rác thải vẫn bị đổ xuống sông, mương, hồ hàng ngày . Tại phường Vĩnh Tuy đến nay số hộ được cung cấp nước sạch ( nước máy) đến tận nhà mới chỉ khoảng xấp xỉ 40% còn hơn 60% đang dùng giếng khoan hoặc giếng đào. Việc khoan giếng của dân diễn ra tự phát, chưa được quản lý chặt chẽ cùng với hàng ngàn lỗ khoan xây dựng móng nhà cao tầng đã chọc thủng các tầng chứa nước, phá vỡ tầng đất sét – màng bảo vệ tự nhiên của các tầng nước ngầm làm cho chất lượng nước ngầm ở nhiều khu vực bị suy thoái, ô nhiễm. Hiện tượng lún hóa nên đất cũng phát sinh, đặc biệt ở các vùng đất phía Nam Thành phố từ Hạ Đình – Văn Điển- Cầu Bươu – Cầu Mới đến ngã Tư Vọng – Pháp Vân và một dải đất từ Thành Công đến Ngô Sỹ Liên hàng năm bị lún trên 20 mm.

Những khó khăn , bất cập của Hà Nội và các đô thị hiện nay là hậu quả của quá trình đô thị hóa không được chuẩn bị kỹ ngay từ khâu xây dựng quy hoạch, cũng như trong quá trình quản lý quy hoạch.

Với hiện trạng chất lượng môi trường ở các đô thị như trên đã ảnh hưởng không nhỏ đên chất lượng cuộc sống của người dân đô thị cũng như tính bền vững của đô thị trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội , đòi hỏi Nhà nước và chính quyền các tỉnh, thành phố phải có những giải pháp phù hợp , trong đó các cơ sở pháp lý của những giải pháp đó hay nói cách khác là pháp luật về môi trường đô thị  cần phải được điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển.

2/ Thực tiễn điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực môi trường đô thị ở nước ta.

Trước tiên có thể khẳng định là từ năm 1993, khi Nhà nước ban hành Luật bảo vệ môi trường cho đến nay pháp luật về môi trường đô thị ở nước ta đã có nhiều chuyển biến , song chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật ( văn bản dưới luật) và mới tạo thành một khung pháp lý có liên quan đến quản lý và phát triển đô thị ở cấp độ quốc gia ( Bảng I)

Bảng I. Khuôn khổ pháp lý có liên quan đến quản lý và phát triển đô thị ở Việt Nam ( cấp quốc gia)

STT

Tên các văn bản cấp quốc gia

Các mục tiêu có liên quan đến quản lý và phát triển đô thị

1

Luật đất đai ( sửa đổi)(Quốc hội, 1998)

- Đất thành phố

 2

Nghị định 91/CP (1994)(Chính phủ, 1994)

- Quản lý và sử dụng đất đô thị

- Quy hoạch quản lý đô thị

3

Sắc lệnh về nhà ở và Nghị định 60/CP, 61/CP có liên quan ( Chính phủ, 1991 và 1994)

- Nhà ở và khả năng áp dụng ở các khu đô thị

  4

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 đến 2020 ( Quyết định 256/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ)

Bảo vệ môi trường ở các khu đô thị

  5

Định hướng quy hoạch tổng thể ở các khu đô thị đến năm 2020 ( Bộ XD, 2001)

Định hướng quy hoạch đô thị

  6

Định hướng cung cấp nước sạch ở các khu đô thị đến năm 2020 ( Bộ XD, 2001)

Cung cấp nước sạch ở các khu đô thị

  7

Định hướng thoát nước ở các khu đô thị đến năm 2020 ( Bộ XD 2001)

Thoát nước ở các khu đô thị

  8

Chiến lược quản lý chất thải rắn ở các khu đô thị và công nghiệp đến năm 2020 ( Bộ KHCN&MT,2000)

Quản lý chất thải rắn đô thị

  9

Chiến lược quốc gia về cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020 ( Bộ NN&PTNT,2000)

Cung cấp nước sạch ở các khu đô thị vùng phụ cận

 10

Chỉ thị 199 TTg (1997) về các biện pháp khẩn cấp quản lý chất thải rắn công nghiệp ( Chính phủ,1997)

Quản lý chất thải rắn đô thị ( công nghiệp)

  11

Quyết định 155/1999/QĐ-TTg về quản lý chất thải độc hại ( Chính phủ, 1999)

Quản lý chất thải độc hại đô thị

  12

Quyết định 2575/1999 về quản lý rác thải y tế ( Bộ y tế, 1999)

Quản lý chất thải y tế đô thị

  13

Quyết định 20/200/CT-TTg về việc sử dụng xăng không pha chì  (Chính phủ, 2000)

Kiểm soát ô nhiễm không khí đô thị

  14

Luật di sản văn hoá (Quốc hội, 2001)

Di sản văn hoá đô thị

  15

Sắc lệnh về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, di sản văn hoá và danh lam thắng cảnh  ( Chính phủ, 1994)

Di tích lịch sử, di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh đô thị

  16

Sắc lệnh về trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền và hội đồng nhân dân  ( Quốc hội, 1996)

Phân quyền cho chính quyền địa phương

  17

Quyết định 72/2001 về phân loại và quản lý đô thị ( Chính phủ, 2001)

- Cơ sở phân loại đô thị

- Những tiêu chí và đặc điểm của từng loại đô thị

- Chức năng và phạm vi của vừng phụ cận và ngoại thành

Khung pháp lý về quản lý và phát triển đô thị ở Việt Nam đã được xác lập nhưng cho đến nay vẫn manh mún. Những lĩnh vực chính đã được quản lý là: đất đô thị, cung cấp nước sạch, nhà ở , quy hoạch , quản lý chất thải, quản lý chất thải y tế và công nghiệp, di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh, di tích lích sử. Những vấn đề quan trọng có liên quan đến quản lý và phát triển đô thị, đặc biệt là môi trường đô thị vẫn còn thiếu hoặc chưa rõ ràng như việc phân cấp trong cải thiện điều kiện môi trường , đặc biệt là ở các khu dân nghèo, đưa khía cạnh môi trường vào quy hoạch đô thị, sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường đô thị, các chỉ thị về hợp tác giữa các hiệp hội của thành phố, cam kết đối với chính quyền địa phương về bảo vệ môi trường, …vv.

Ngoài ra, khung pháp lý về quản lý và phát triển đô thị về cơ bản đều dựa trên các điều khoản có liên quan của Luật bảo vệ môi trường năm 1993, nên các vấn đề pháp luật về môi trường đô thị cùng không tránh khỏi những tồn tại hiện nay của Luật bảo vệ môi trường. Cụ thể là:

- Vai trò của con người là yếu tố quyết định trong hoạt động bảo vệ môi trường, hay nói cách khác dân số và môi trường có mối quan hệ hữu cơ , mật thiết. Mặc dù dân số là vấn đề xã hội, nhưng các hoạt động và diễn biến của nó, nhất là tại các đô thị luôn có ảnh hưởng và tác động mạnh tới môi trường. Nếu biết định hướng và điều chỉnh ( trước hết là điều chỉnh bằng pháp luật) thì sẽ hạn chế các tác động tiêu cực và taọ ra các tác dụng tích cực đối với việc bảo vệ môi trường và ngược lại. Đối với vấn đề di dân tự do vào các đô thị đã cho thấy các tác động xấu đến bảo vệ môi trường, song chưa được xem xét, xác định đúng vai trò của nó trong hoạt động bảo vệ môi trường đô thị, cũng như chưa có một quy phạm nào điều chỉnh nội dung này, hầu hết mới chỉ ở dạng chính sách.

- Đến nay Nhà nước ta đã ban hành một số luật, pháp lệnh để quản lý từng phần môi trường hoặc tài nguyên cụ thể ( như Luật đất đai, luật tài nguyên nước, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật khoáng sản, Luật dầu khí, Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản,…), trong các luật này đều có những quy định về khai thác và bảo vệ. Do đó vẫn còn những nội dung trùng lặp, chồng chéo với Luật bảo vệ môi trường gây trở ngại cho việc thực thi pháp luật.

- Hoạt động của cộng đồng đối với bảo vệ môi trường có một vai trò to lớn. Điều đó thể hiện trong đường lối của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường, Đảng ta đã xác định bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội. Song trong Luật bảo vệ môi trường chưa được điều chỉnh, mới chỉ đề cập tới nội dung đó như một tuyên bố, tuyên ngôn ( tại Điều 6) chứ chưa tạo thành hành lang cho cộng đồng hoạt động bảo vệ môi trường trong từng làng, xã, cụm dân cư và ở các khu vực lãnh thổ.

 

3/ Thực tiễn thi hành pháp luật môi trường đô thị

Với thực trạng pháp luật như trên điều tất yếu xảy ra là thực tiễn thi hành pháp luật trên lĩnh vực môi trường đô thị còn nhiều hạn chế, lúng túng và kém hiệu quả nhất là trong điều kiện ý thức pháp luật và trình độ dân trí về pháp luật của những người dân đô thị ( có đăng ký hộ khẩu thường trúc tại các đô thị) vẫn còn chưa cao, còn nhiều hạn chế lại cộng thêm một số lượng không nhỏ những người di dân  tự do vào các đô thị  ( những người không có đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú dạng KT2, KT3) vẫn chưa có ý thức, dân trí và thói quen của nếp sống đô thị . Tình trạng này thể hiện rõ nét trên các mặt của quản lý đô thị : Trật tự cảnh quan và giao thông đô thị , đặc biệt ở các đô thị lớn như : Hà Nội , Thành phố Hồ Chí Minh,….

Thời gian qua, thực hiện các quy định của Luật bảo vệ môi trường và khung pháp lý về môi trường đô thị, việc xác định các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường được chiếu theo các quy định tại nghị định số 26/CP, ngày 26/4/1996 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường . Một số hành vi khác được xử phạt theo các quy định của Chính Phủ về xử phạt vi phạm hành chính thuộc các lĩnh vực khác như bảo vệ thực vật giao thông vận tải..vv. Bên cạnh đó, Bộ Luật hình sự sửa đổi năm 1999 đã quy định 10 tội phạm môi trường trong chương XVII.

Các hành vi vi phạm được phân nhóm gồm:

1/ Các hành vi vi phạm về phòng ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường

2/ Các hành vi vi phạm Tiêu chuẩn môi trường khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ

3/ Các hành vi vi phạm quy định về vận chuyển , xử lý chất thải .

4/ Các hành vi vi phạm quy định về khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học.

Sau khi Luật bảo vệ môi trường có hiệu lực, các cơ sở sản xuất kinh doanh đã ý thức được trách nhiệm pháp lý của mình và triển khai nhiều hoạt động theo quy định của Luật và văn bản hướng dẫn dưới Luật. Tuy nhiên nói chung, phần lớn các đối tượng này chưa tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của Luật bảo vệ môi trường.

Trong các năm từ 1996 đến nay, các cơ quan chức năng đã tổ chức các đợt thanh tra đột xuất, thanh tra định kỳ hoặc các đợt thanh tra diện rộng việc chấp hành các quy định của Luật bảo vệ môi trường . Kết quả cho thấy tỷ lệ cơ sở bị xử phạt trên số cơ sở bị thanh tra diễn biến theo xu hướng giảm. Năm 1997, trong số 9384 cơ sở được thanh tra có 4390 cơ sở bị xử phạt vi phạm hành chính ( chiếm khoảng 45%). Năm 1999, trong số 5100 cơ sở được thanh tra, số cơ sở bị xử phạt vi phạm hành chính là 1188 ( chiếm khoảng hơn 20%). Năm 2001, trong số 5903 cơ sở được thanh tra có 819 cơ sở bị xử phạt vi phạm hành chính ( chiếm khoảng hơn 15%).

Tuy nhiên, mặc dù tỷ lệ vi phạm có giảm về lượng nhưng tính chất phức tạp và phạm vi ảnh hưởng của vi phạm ở một số vụ việc có phần tăng.

Nhiều cơ sở đã bị xử phạt nhiều lần song vẫn không thực hiện các yêu cầu quy định pháp luật về bảo vệ môi trường như đầu tư lắp đặt và vận hành thường xuyên hệ thống xử lý nước thải . Lý do có thể là khó khăn về vốn đấu tư, công nghệ nhưng cũng có trường hợp  là ý thức bảo vệ môi trường kém, cố tình trốn tránh trách nhiệm bảo vệ môi trường.

Sau hơn 10 năm thực hiện Luật bảo vệ môi trường , các vi phạm pháp luật thông thường, đơn giản có giảm. Vi phạm thường gặp nhất trong những năm trước đấy là không lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Hiện nay, hầu hết các cơ sở hoạt động đều đã thực hiện quy định lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường, vì vậy vi phạm loại này hiện ít gặp. Các vi phạm còn tồn tại là những vi phạm ở mức yêu cầu cao hơn, ví dụ như không tuân thủ các yêu cầu của Quyết định phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường không đầu tư hoặc vận hành hệ thống xử lý chất thải..vv.

Nhận thức về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp cũng được cải thiện. Nếu như trong năm 1996, 1997 nhiều doanh nghiệp còn chưa biết hết các quy định của pháp luật về môi trường thì hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh đã nắm được các quy định bảo vệ môi trường liên quan đến cơ sở của mình quản lý.

Nhiều cơ sở đã chuyển từ nhận thức đến hành động, cụ thể như đầu tư vốn lắp đặt trang thiết bị xử lý chất thải. Kết quả là nước thải, khí thải đã đạt Tiêu chuẩn môi trường, góp phần nâng cao chất lượng môi trường .

Nhận thức về Luật bảo vệ môi trường trong cộng đồng cũng được nâng cao. Số lượng đơn thư khiếu nại tố cáo về môi trường ngày càng tăng. Nhiều địa phương đã đấu tranh tích cực đối với các cơ sở ô nhiễm buộc cơ sở phải đầu tư xử lý về môi trường cũng như bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên. Trước sức ép của cộng đồng, một số cơ sở ô nhiễm đã phải sửa chữa hành vi vi phạm của mình trước khi cơ quan thanh tra và kiểm tra đến xử lý.

4. Các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường.

  Luật bảo vệ môi trường đã tạo hành lang pháp lý để Chính phủ thực hiện các chủ trương lớn, các giải pháp mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc. Đặc biệt ngày 26/05/1998, Bộ Chính trị ban hành chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đây là văn bản định hướng hết sức quan trọng, chỉ đạo xuyên suốt công tác bảo vệ môi trường nước ta trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu nề kinh tế mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với nhận định thực té khách quan là môi trường nước ta dang xuống cấp nghiêm trọng, Chỉ thị đề ra các mục tiêu cụ thể và 8 giải pháp quan trọng nhằm hạn chế tình trạng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trườngđang diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước. Bốn đề án quan trọng đã và đang được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện, đó là Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “ Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”; Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/04/2003 về việc phê duyệt “Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng“; Đề án về tăng cường năng lực hệ thống cơ quan quản lý môi trường từ Trung ương đến địa phương và đề án về tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường dang được thực hiện từng bước.

  Tiếp theo Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền 1991-2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Chiến lược đánh giá khách quan diễn biến ngày càng xấu của môi trường nước ta, nhận dạng 8 thách thức cơ bản và nêu quan điểm chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới. Với mục tiêu hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm vào năm 2010 và ngăn chặn về cơ bản vào năm 2020, Chiến lược đề ra các chỉ tiêu cụ thể cần phấn đấu, 5 nội dung cần thực hiện và 8 giải pháp hỗ trợ. Chiến lược cụ thể hoá bằng 36 chương trình, dự án cụ thể được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên tổ chức thực hiện trong giai đoạn từ nay đến 2020.

  Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đối giảm nghèo và đang trong quá trình xem xét  Bản định hướng phát triển bề vững ở Việt Nam.

  Bên cạnh các văn bản định hướng quan trọng nêu trên, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trước đây, nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trược thuộc Trung ương đã ban hành và tổ chức thực hiện một số chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hành động về môi trường, trong đó có: Kế hoạch hành động về đa dạng sinh học, Chiến lược quản lý chất thải rắn đô thị đến năm 2020,… (xem bảng I)

5. Đô thị bền vững trong chiến lược phát triển đô thị

  Năm 1992, các nguyên thủ của các quốc gia trên thế giới đã nhóm họp tại Rio de Janeiro để đánh giá hiện trạng môi trường thế giơí và xây dựng một văn kiện quan trọng được gọi là chương trình nghị sự 21, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề về môi trường có tính toàn cầu như hiệu ứng nhà kính, khủng hoảng lương thực, nhiên liệu, tài nguyên nước, nghèo đói, bệnh tật, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh,…hay nói cách khác đó là “chất lượng cuộc sống”. Để dật được chất lượng cuộc sống tốt hơn, đòi hỏi các cá nhân, các nhóm cộng đồng và Chính phủ phải có những thay đổi cơ bản ngay tại Quốc gia, tại địa bàn cư trú, hoạt động của mình. Do đó Chương trình Nghị sự 21 địa phương (LA21) ra đời và ý tưởng về đô thị bền vững là mối quan tâm nhạy cảm nhất.

  Tại nước ta, tháng 8 năm 2000 Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng chương trình Nghị sự Việt Nam 21với sự phối hợp của Bộ KHCN&MT và sự tài trợ của Chương trình phát triển của liên hiệp quốc UNDP và cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch DANIDA trong khuôn khổ dự án VIE 01/021. Trong chương trình Nghị sự đại phương 21 của Việt Nam, chủ đề đô thị bền vững (SCs) đã thu hút đợc rất nhiều sự quan tâm và đang trở thành mục tiêu trong chiến lược phát triển đô thị ở Việt Nam vì những quan niệm đúng đắn của nó.

a- Khái niệm đô thị bền vững

  Năm 1990 UNDP đã chỉ ra hiện tượng đô thị hoá nhanh không phải là khủng hoảng hay thảm kịch, nó chỉ là một thách thức đối với tương lai mà thôi. Quá trình đô thị hoa tạo ra nhiều thuận lợi và bất lợi cần được phân tích. Tuy nhiên đô thị hoá là con đường văn minh của loìa người bởi các đô thị là nơi chủ yếu tạo ra của cải vật chất cho con người. Được thu lợi nhiều từ việc đô thị hoá, song con người cũng phải trả giá khong kém cho những bất lợi của nó. Chỉ có một con đường duy nhất để tránh được thách thức này là tạo ra đo thị bền vững.

  Năm 2000 Ngân hàng thế giới đã nêu ra 04 tiêu chuẩn của một đô thị bền vững, đó là:

- Có khả năng cạnh tranh tốt

- Quản lý tốt

- Khu định cư lành mạnh

- Tài chính lành mạnh

b- Các tiêu chí thể hiện 4 tiêu chuẩn của một đô thị bền vững

- Khả năng cạnh trnah tốt của một thành phố: Là khả năng cân đối ngân sách thông qua việc tăng trưởng sản xuất, thu nhập bình quân đầu người, lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và giải quyết vấn đề nghèo đói, đặc biệt là nghèo đói ở các nhóm yếu. Khả năng cạnh tranh phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí đại lý văn hoá, trình độ nguồn nhân lực cao, cơ sở hạ tầng tốt…và có thể được đánh giá bằng các chỉ só (Indicator) như sau:

+ Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người (USD)

+ Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm nói chung và của từng ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.

+ Cơ cấu kinh tế.

+ Phần đóng góp của thành phố vào ngân sách quốc gia

+ Tổng giá trị vốn đàu tư nước ngoài

+ Tỷ lệ người sử dụng điện thoại và Internet trên 1000 dân

+ Tỷ lệ người lao động tốt nghiệp phổ thông trung học

+ Tỷ lệ người lao động tốt nghiệp đại học và dạy nghề

+ Số lượng trường đại học, viện nghiên cứu trong thành phố

Số lượng daonh nghiệp sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao được người tiêu dùng lựa chọn.

- Quản lý tốt là khả năng quản lý mọi mặt đời sống của Thành phố như: Kinh tế, chuyển giao công nghệ, trao đổi văn hoá, giảm thiểu tội phạm và tệ nạn xã hội, di dân Thành thị, nông thôn, ô nhiễm môi trường…Để đánh giá khả năng quản lý của Thành phố có thể dùng một số chỉ số sau:

+ Tỷ lệ lao động trên 1000 người

+ Tỷ lệ lao động tốt nghiệp đại học và trên đại học

+ Tỷ lệ đơn khiếu nại được giải quyết hàng năm

+ Số ngày để có được giấy phép đầu tư

+ Số vụ phạm pháp hàng năm

+ Số lượng tội phạm và tai nạn giao thông hàng năm

+ Đánh giá tình trạng tham nhũng, quan liêu, tính minh bạch, dân chủ trong quản lý

- Khu định cư lành mạnh: Các khía cạnh môi trường và xã hội. Một đô thị lành mạnh phải tạo ra những điều kiện tốt cho công dân của mình ở những khía cạnh như: Văn hoá, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, giáo dục, thu nhập, nhà ở, chất lượng môi trường, công bằng xã hội, dân chủ, dịch vụ giải trí… Có thể đánh giá một khu định cư lành mạnh bằng các chỉ số sau:

+ Chất lượng môi trường: Không khí, nước, đất, đa dạng sinh học, quản lý chất thải sinh hoạt, chất thải độc hại…

+ Diện tích nhà ở (m2) bình quân đầu người

+ Thu nhập bình quân đầu người

+ Tỷ lệ hộ được dùng điện và nước sạch

+ Số bác sĩ, giường bệnh trên 1000 người

+ Tỷ lệ trẻ em (từ 6-15tuổi) đi học

+ Số lượng tội phạm tính trên 1000 người

+ Tỷ lệ hộ nghèo

+ Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, tỷ lệ chất, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, tổng tỷ lệ sinh,…

+ Số lượng phương tiện giao thông các loại (ô tô, xe máy) trên 1000 người

+ Mật độ dân số của toàn thành phố và khu vực nội thành

- Tài chính lành mạnh được thể hiện ở sự cân đối ngân sách giữa thu và chi để có thể giảm hỗ trợ ngân sách của Trung ương và tăng thu ngân sách địa phương. Khả năng tài chính lành mạnh có thể được đánh giá qua các chỉ tiêu sau;

+ Cân đối thu chi

+ Tỷ lệ doanh nghiệp phá sản

+ Cơ cấu thu nhập xã hội dành cho tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư vào sản xuất

Tổng số nợ quá hạn hoặc số doanh nghiệp nợ quá hạn.

6. Yêu cầu quản lý để xây dựng đô thị bền vững

Để xây dựng đô thị bền vững với những tiêu chí đánh giá nêu trên, người ta đã xác định 5 nguyên tắc quản lý sau:

- Đô thị bền vững phải bắt đầu từ việc qui hoạch và thiết kế phù hợp với môi trường. Các khía cạnh môi trường phải được đưa vào trong thiết kế và qui hoạch đô thị. Việc qui hoạch và thiết kế hiệu quả phải định hướng cuộc sống của đô thị tới một mô hình nào đó tương tự như một hệ sinh thái tự nhiên.

a. Tạo nguồn thu cho Thành phố

Một thành phố không thể phát triển bền vững nếu nó phụ thuộc vào nguồn ngân sách hỗ trợ từ chính quyền trung ương. Có nhiều phương cách để chính quyền thành phố có thể tạo ra nguồn kinh phí cần thiết nếu cho phép khai thác các nguồn tạo thu nhập tại địa phương một cách hiệu quả

b. Xây dựng các chiến lược về nơi ở và cơ sở hạ tầng theo hướng xã hội hoá hơn nữa để tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia, đóng góp nhiều hơn

c. Cải thiện môi trường đô thị

Đô thị hoá nhanh nảy sinh những vấn đề môi trường mới đòi hỏi chính quyền thành phố và cư dân phải dành nhiều nhân lực và vật lực để giải quyết:

+ Chất thải (nước thải, chất thải rắn) tăng lên theo thời gian vượt quá khả năng quản lý của Thành phố

+ Khai thác nhiều nước ngầm có thể gây sụt lún, nhiễm mặn (ở khu vực gần biển)

+ Ô nhiễm không khí do khí thải từ nhiên liệu hoá thạch sử dụng trong giao thông, công nghiệp và sinh hoạt và do bụi, tiếng ồn, hơi nóng và điện từ trường

+ Gia tăng bệnh tật do điều kiện vệ sinh kém ở các khu ở của người thu nhập thấp

+ Tình trạng ngập úng do qui hoạch không phù hợp, hoả hoạn,…

d. Thúc đẩy các xu hướng phân cấp và cải thiện sự tham gia của cộng đồng vào các dịch vụ của thành phố. Sự tham gia của cộng đồng có thể mang lại nhiều sáng kiến, nhân lực và vật lực hữu ích để giải quyết

7. Yêu cầu điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực môi trường đô thị

  Như đã nêu và phân tích, đánh giá tổng quát khung pháp lý có liên quan đến quản lý và phát triển đô thị ở Việt Nam (Mục 2, Bảng I) và những bất cập, tồn tại hiện nay của Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, có thể đề xuất các yêu cầu về phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực môi trường đô thị như sau:

a. Phạm vi điều chỉnh của Pháp Luật môi trường nói chung và pháp luật trong lĩnh vực môi trường đô thị nói riêng phải đươcj xác định theo yêu cầu phát triển bền vững nói chung và yêu cầu phát triển đô thị bền vững nói riêng

b. Cần rà soát điều chỉnh để tránh sự trùng lắp về đối tượng điều chỉnh giữa luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và các Luật vèe Tài nguyên

c. Cần có sự điều chỉnh rõ ràng về các quan hệ trách nhiệm về quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt động bảo vệ moi trường nói chung và môi trường đô thị nói riêng, đồng thời qui định rõ việc đánh giá và kiểm soát các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường đô thị (như quản lý và xử lý chất thải, khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển các khu công nghiệp,…)

d. Cần có sự tham gia của pháp luật dân sự vào việc điều chỉnh các quan hệ về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trươngf

e. Cần có sự điều chỉnh các quan hệ về giải quyết tranh chấp môi trường

f. Sự điều chỉnh pháp luật đối với các hoạt động bảo vệ môi trường thông qua việc sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường

g. Cần có sự điều chỉnh pháp luật đến cơ chế đảm bảo quyền con người sống trong môi trường trong lành (các quyền được thông tin về tình hình môi trường, quyền tham gia vào các hoạt động thẩm định  và giám sát tác động môi trường,…) và các qui định tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng dân cư, các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội tham gia tích cực vào hoạt động bảo vệ môi trường.

h. Bổ xung các qui định điều chỉnh các hoạt động bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ các nguồn gen sinh vật và bảo vệ các vùng đất ngập nước

Việc xác định đối tượng điều chỉnh của pháp luật môi trường đô thị trong thời gian tới cần thực hiện theo 02 hướng:

- Khắc phục tính thiếu nhất quán, thiếu cụ thể, không xác định của pháp luật hiện hành trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực môi trường đô thị bằng cách sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành.

- Cần ban hành các văn bản mới để điều chỉnh các vấn đề các quan hệ hiện nay chưa được điều chỉnh hoặc đã có nhưng còn sơ sài, kém hiệu quả./.     

                                             

 

NHU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI ĐẾN NĂM 2010.

Trần Đức Lưu

Cục Thuỷ lợi – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

 

I. HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN ĐẤT ĐAI.

1. Tài nguyên đất Việt Nam.

Đất là tài nguyên cơ bản và là tư liệu sản xuất quan trọng, là nhân tố quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế – xã hội.

Việt Nam là nơi đất chật người đông. Dân số Việt Nam tính đến nay là khoảng 80 triệu người xếp hàng thứ 13 trên thế giới, trong khi tổng diện tích đất tự nhiên là khoảng hơn 33 triệu ha. Tính đến năm 1998, nước ta đã khai thác và đưa vào sử dụng khoảng 22.226.821 ha chiếm 76,57% tổng quỹ đất; 32,43% là đất chưa sử dụng(10.667.557 ha), trong khi đó đất đồi núi và đất đồng bằng chưa sử dụng là 8.215.190 ha. Bình quân đất đai theo đầu người ở nước ta rất thấp chỉ bằng 1/6 mức bình quân của thế giới (0,45 ha/đầu người) tương đương với một số nước trên thế giới như Anh, CHLB Đức, đứng thứ 9 trong 10 nước Đông Nam Á.

Trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá chúng ta phải chuyển đất từ đất sản xuất lương thực sang mục đích khác; quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá gây nhiều sức ép cho đất nông nghiệp. Tốc độ đô thị hoá (lấy tỉ lệ dân số đô thị trên dân số chung làm chỉ tiêu) của nước ta trong thời gian qua tăng theo ước lượng khoảng 0,8%/năm. Hiện nay, hàng năm chúng ta chuyển từ 20.000 đến 22.000 ha đất nông nghiệp sang mục đích khác. Đó là chưa kể đến sự mất mát do thiên tai, lũ lụt, xói mòn đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực dẫn đến làm giảm quỹ đất. Chúng ta có 4,2 triệu ha đất trồng lúa nước; dân số đông và gần 80% dân cư chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp, nên tài nguyên đất nông nghiệp nói chung và tài nguyên đất trồng lúa nói riêng không những có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển kinh tế và đảm bảo cho việc ổn định xã hội.

 Theo quy định của Luật đất đai mới ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003, tài nguyên đất được phân chia thành 3 loại : Đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.

*Đất nông nghiệp bao gồm các loại :

+) Đất trồng cây hàng năm : gồm lúa, đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác;

+) Đất trồng cây lâu năm.

+) Đất rừng sản xuất;

+) Đất rừng phòng hộ;

+) Đất nuôi trồng thuỷ sản;

+) Đất làm muối

+) Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính Phủ.

* Đất phi nông nghiệp bao gồm các loại :

+) Đất ở gồm đất tại nông thôn, đất ở tại đô thị;

+) Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp;

+) Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;

+) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm;

+) Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng các công trình công cộng khác theo quy định của Chính Phủ;

+) Đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng;

+) Đất có công trình là đền, đình, miếu, am, từ, đường, nhà thờ họ;

+) Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;

+) Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;

+) Đất phi nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ

* Đất chưa sử dụng gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng.

Trong tổng quỹ đất thực tế hiện nay của nước ta là 33.104.218 ha, thì diện tích sử dụng của các loại đất được thể hiện như sau :

* Đất nông nghiệp.

Trong vòng nhiều năm, diện tích đất nông nghiệp nước ta tăng từ khoảng 5,6 triệu ha đến khoảng 7,5 triệu ha. Nhưng do tốc độ tăng dân số quá nhanh, gấp nhiều lần so với tốc độ tăng quỹ đất nông nghiệp, từ đó diện tích bình quân tính theo đầu người liên tục giảm và giảm nhanh, từ 0,25ha năm 1943 xuống chỉ còn 0,1ha năm 1994, chỉ bằng khoảng 2/5 mức bình quân của thế giới. Nếu dân số cả nước bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu người thì bình quân diện tích đất nông nghiệp sẽ còn tiếp tục giảm, đặc biệt là đối với vùng đồng bằng.

Tuy nhiên đất trồng cây hàng năm đã không bị tiếp tục giảm mà ngược  lại, nhờ khai hoang, phục hoá, luân canh, tăng vụ, hệ số sử dụng đất tăng làm cho diện tích đất gieo trồng tăng. Năm 1994 tăng lên 1,62 lần. Mặc dù tiềm năng kinh tế không cao, nhưng do biết sử dụng hợp lý tài nguyên đất, nhờ biết áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, nên Việt Nam cũng là một trong những nước đạt được những thành tựu bước đầu trong việc sử dụng tài nguyên đất để giải quyết vấn đề an toàn lương thực quốc gia. Việt Nam  đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới

* Tài nguyên đất rừng và môi trường sinh thái : Năm  1945, nước ta có 14,3 triệu ha rừng (43% đất tự nhiên), đến năm 1990 chỉ còn 9,3 triệu ha (28%). Đến năm 1994, diện tích rừng tăng 9.915.100 ha gồm 8.910.815ha rừng tự nhiên và 1.004.214 ha rừng trồng chiếm 29,95 % diện tích rừng tự nhiên của cả nước. Năm 2000 cả nước có 11.575.429 ha đất lâm nghiệp có rừng.

  Diện tích rừng suy giảm có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là do dân số tăng quá nhanh. Tập trung ở một số nguyên nhân sau :

  - Phá rừng để làm đất nông nghiệp (đặc biệt là vào thời ký trước năm 1990).

  - Do du canh, du cư (hiện nay vẫn còn khoảng hơn 2 triệu người sống du canh, du cư) và di dân tự do, di dân không có tổ chức, họ đã phá rừng làm đất sản xuất nông nghiệp.

  - Do cháy rừng.

  - Do khai thác rừng quá mức dẫn đến suy giảm trữ lượng rừng.

  - Do chạy theo lợi ích kinh tế cục bộ, tự ý phá rừng nuôi tôm (ở đồng bằng sông Cửu Long), tự ý phá rừng trồng cà phê (Tây nguyên).

- Do chiến tranh.

Đặc biệt rừng bị giảm mạnh ở các vùng đất dốc, vùng đầu nguồn nên hậu quả để lại rất nặng nề gây ra lũ lụt, xói mòn với khối lượng rất lớn bị rửa trôi. ở Tây Bắc do mất rừng nên các trận lũ ống, lũ quét xảy ra liên tiếp tại Lai Châu, Sơn La gây thiệt hại lớn về người và của. Vùng duyên hải Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ, do phá rừng làm cho đất bị xói mòn nghiêm trọng, dẫn đến các bãi bồi ở cửa sông ngày càng cao, vùng ven biển ngày ngày xảy ra hiện tượng cát bay, cát lấp. Những trận đại hồng thuỷ xảy ra tại một loạt các tỉnh miền Trung vào những tháng cuối quý III, đầu quý IV năm 1999 là một trong những bằng chứng về tác hại khủng khiếp của tình trạng phá rừng. Tại đồng bằng sông Cửu Long cũng do phá rừng nuôi tôm không có quy hoạch nên hàng ngàn hecta ruộng lúa bị nhiễm mặn, tôm chết hàng loạt, nay phải đầu tư tốn kém để phục hồi tái sinh rừng, tái tạo môi trường, sinh thái vốn có.

* Quỹ đất làm đường giao thông, xây dựng, thuỷ lợi.

Quỹ đất sử dụng vào mục đích này là 1.122.184 ha chiếm 3,39% so với diện tích tự nhiên của cả nước. Trong đó, quỹ đất phục vụ xây dựng chiếm 10,5%; đất làm đường giao thông 19,8%; đất thuỷ lợi 32,8%. Từ năm 1990-1994, quỹ đất này mỗi năm tăng 37,498 ha.

Về giao thông, cả nước có 150.000 km đường bộ gồm 11.000 km quốc lộ; 16.000 km tỉnh lộ; 31.000 km đường huyện và 91.000 km đường xã, liên xã cùng với hệ thống 3.259 km đường sắt. Đất làm đường giao thông chiếm 255.205 ha. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn kém phát triển, mật độ đường giao thông vào loại thấp, mới đạt 1,5 km/100 dân và hiện còn 721 xã chưa có đường ô tô tới trung tâm xã; 5 huyện chưa có đường ô tô tới trung tâm huyện. Số thôn, bản chưa có đường ô tô tới còn nhiều. Trong thời gian qua do làm mới, mở rộng và nâng cấp đường bộ, đường sắt nên đất làm đường giao thông đã tăng bình quân mỗi năm trên 6000 ha.

Đất thuỷ lợi : Có 75 hệ thống thuỷ nông lớn, vừa và nhiều hệ thống nhỏ. Gần 650 hồ đập lớn và vừa, trên 3500 hồ, đập nhỏ; 1000 cống tưới và tiêu lớn; trên 2000 trạm bơm lớn, nhỏ. Diện tích thuỷ lợi bình quân mỗi năm tăng 6.751 ha. Tỉ lệ đất thuỷ lợi so với đất canh tác là 6,37%.

Đất xây dựng : Tính đến năm 1994, tổng số đất xây dựng công nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn hoá - giáo dục, nhà ga, bến cảng, sân bay là 117.460 ha; tăng 26.008 ha so với năm 1990, bình quân mỗi năm tăng 6.502 ha.

* Quỹ đất dùng cho các khu dân cư (Đất ở).

Đất ở các khu dân cư cả nước bao gồm gần 500 đô thị (5 thành phố trực thuộc trung ương; và gần 80 đô thị là thành phố, thị xã thuộc tỉnh, tỉnh lỵ; hàng trăm thị trấn, huyện thị ) và hàng vạn điểm dân cư nông thôn. Theo số liệu thống kê vào cuối năm 1998 diện tích đất ở có 447.470 ha , chiếm 1,36 % diện tích đất tự nhiên của cả nước.

* Tài nguyên đất chưa sử dụng : Nước ta có khoảng gần 11 triệu ha đất chưa sử dụng chiếm 32,43% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Trong đó đất đồi núi chưa sử dụng là  7505.562 ha chiếm 32,43% đất chưa sử dụng. Đất bằng chưa sử dụng 709.528 ha chiếm 6,65% đất chưa sử dụng.

  Những số liệu về diện tích các loại tài nguyên đất này thay đổi theo hàng năm.

2. Thoái hoá đất.

Thoái hoá đất là các quá trình thay đổi các tính chất hóa lý và sinh học của đất dẫn đến giảm khả năng của đất trong việc thực hiện các chức năng của mình.

Theo đặc điểm biến đổi các tính chất đất mà thoái hoá đất được phân ra thành nhiều quá trình khác nhau, trong đó đối với nước ta các quá trình sau đây là chủ đạo.

- Xói mòn và rửa trôi.

- Suy thoái hoá học : Mất chất dinh dưỡng khoáng và chất hữu cơ, chua đất, tăng cường dinh dưỡng khoáng và chất hữu cơ, ô nhiễm.

- Suy thoái vật lý : Mất cấu trúc, chặt nén, đóng váng, giảm tốc độ thấm nước và sức chứa ẩm.

Các nguyên nhân làm suy thoái đất có rất nhiều, trong đó phải kể đến tình trạng mất rừng do chiến tranh và phá rừng lấy đất canh tác nông nghiệp, việc sử dụng các hệ thống canh tác không phù hợp trên đất dốc, và thiếu một chiến lược bảo vệ khai thác đất một cách toàn diện. Nguyên nhân chủ yếu làm suy thoái là do hoạt động của con người.

* Xói mòn và rửa trôi là quá trình suy thoái đất quan trọng và gây nhiều ảnh hưởng mạnh nhất đến sản xuất nông nghiệp và môi trường sinh thái. Phần lớn đất thoái hoá tập trung ở phần phía Bắc của đất nước.Trên thực nghiệm nhiều năm ở Tây Bắc, Đông Bắc, Nghệ An, Tây nguyên…trên một ha đất canh tác không đúng kỹ thuật đất bị bóc mòn 0,5-1cm và lượng đất mất lên tới trên 100tấn/ha/năm. Vùng miền núi nước ta có những yếu tố thúc đẩy quá trình xói mòn như : lượng mưa lớn thường tập trung ở những khu vực núi cao chắn gió, độ dốc địa hình lớn và mức độ chia cắt cao.

Ngoài việc làm mất đất và làm giảm khả năng canh tác nông nghiệp, xói mòn va dòng chảy còn gây nhiều tác hại khác như : Sạt lở đất và lũ bùn, đá, lũ ống, lũ quét. Ở nước ta đã có hàng loạt vụ sạt đất cát ở Mường Khương, Bắc Hà, Vạn Bàn (Lào Cai). Hàng loạt cung trượt dài 1,5-3,5 km hoặc nhỏ hơn. Sạt lở đất gây trượt cả tầng đất mặt lẫn cây lúa, ngô non ở chân dốc, làm hư hỏng đường giao thông, công trình xây dựng. Những năm gần đây ở vùng Tây Bắc số vụ sạt lở các sườn dốc ngày càng tăng. Lũ bùn, đá, lũ ống, lũ quét xẩy ra nhiều lần với tần suất ngày càng lớn ở Lào Cai, Sơn La, Đăk Lăk…

* Rửa trôi: Khác với xói mòn, rửa trôi có mặt ở hầu khắp mọi nơi trên đất nước ta, kể cả ở các vùng đất bằng. Rửa trôi xảy ra mạnh mẽ ở nước ta là do đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa có lượng mưa lớn. Rửa trôi là nguyên nhân gây ra các quá trình bất lợi : Suy giảm chất dinh dưỡng, tăng độ chua và khả năng cố định lân ở tầng mặt. Các vùng mà rửa trôi thể hiện mạnh hơn và là nguyên nhân gây thoái hóa đất chủ yếu nằm trên các vùng thềm (vùng đồng bằng bóc mòn chân núi, vùng đồng bằng tích tụ, bào mòn, vùng thềm phù sa cổ), tập trung ở Trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và rải rác ở Duyên hải Trung và Nam Trung Bộ.

* Tăng độ chua : Đất bị rửa trôi các chất kiềm và kiềm thổ gây nên chua ở tầng mặt. Ở tầng dưới, nơi có hàm lượng Ca, Mg cao hơn độ chua được cải thiện đáng kể. Phần lớn đất ở nước ta, kể cả ở vùng núi và vùng đồng bằng đều chua, pH thường dao động trong khoảng 3,5 – 5,0 với giá trị hay gặp nhất là 4 –4,5 và có tỷ lệ nghịch với hàm lượng nhôm di động. Đất chua có pH dưới 5 ở tầng B chiếm 2,3 triệu ha. Đất chua hình thành ở những vùng có lượng mưa trên 1000mm (toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trừ vùng bán khô hạn Phan Rang).

* Ô nhiễm đất : Đất bị ô nhiễm ở nước ta phần nhiều do công việc khai khoáng và sản xuất công nghiệp.

  Một trong các tác nhân gây ô nhiễm đất là do các nguồn phóng xạ tại các vùng phân bố đất hiếm, không loại trừ mỏ phóng xạ. Đã phát hiện ở Phong Thổ (Lai Châu), ở Nậm Pung,  Y Tỉ (Lào Cai) nhiều khu vực đất bị ô nhiễm phóng xạ do các nguồn bức xạ tự nhiên ở trong lòng đất.

  Đất bị ô nhiễm do chất thải rắn, lỏng và các chất thải khác ở các khu công nghiệp, các nhà máy, bệnh viện, các bãi rác thải sinh hoạt ở tất cả các vùng trên cả nước.

II. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2003.

1. Nguyên tắc “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước làm đại diện”.

Luật Đất đai năm 2003 không chỉ khẳng định Đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà còn khẳng định Nhà nước là đại diện chủ sở hữu(Điều 5).

Nhà n­ước thực hiện quyền định đoạt với  4 nội dung :

+) Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

+) Quyết định việc giao đất, cho thuê đất, cho chuyển mục đích sử dụng đất và quyết định thu hồi đất.

Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế; tổ chức được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất; Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả; Người sử dụng đất cố ý huỷ hoại đất; Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền; Đất bị lấn, chiếm trong trường hợp chưa sử dụng hoặc không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm; Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; Người sử dụng đất cố ý không trả lại đất; Không được gia hạn khi hết thời hạn; Không sử dụng trong mười hai tháng liền đối với đất trồng cây hàng năm, mười tám tháng liền đối với cây lâu năm, hai mươi bốn tháng liền đối với đất trồng rừng, mười hai tháng liền đối với đất thực hiện dự án đầu tư, hoặc chậm hơn hai bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư.

+) Quy định về hạn mức giao đất, thời hạn sử dụng đất : Hạn mức giao đất được quy định đối với đất nông nghiệp, các loại đất khác giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ vào quỹ đất của địa phương và quy hoạch phát triển của địa phương. Thời hạn sử dụng đất được quy định cho từng loại đất khác nhau và từng đối tượng sử dụng

+) Quy định về khung giá đất.

2. Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất

 Theo quy định của Luật đất đai năm 2003 các hình thức sử dụng đất bao gồm được Nhà nước giao đất(trong đó có giao đất có thu tiền sử dụng đất và không thu tiền sử dụng đất) và thuê đất (bao gồm 2 hình thức cho thuê đất trả tiền một lần và cho thuê đất trả tiền hàng năm). 

Trong vấn đề này Luật đất đai năm 2003 có một số điểm mới như sau :

Thứ nhất : Về các đối tượng được giao đất, cho thuê đất

Thứ hai : Về thẩm quyền giao đất . Luật đất đai năm 2003 đã sửa đổi theo hướng phân cấp cho chính quyền địa phương. Chính phủ không thực hiện việc giao đất mà thẩm quyền giao đất được quy định cho :

- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đối với tổ chức, giao đất đối với cơ sở tôn giáo; giao đất, cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài; cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài.

- Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân; giao đất đối với cộng đồng dân cư.

- Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

  Thứ ba : Về chuyển mục đích sử dụng, khác với Luật đất đai 1993 và các Luật sửa đổi bổ sung Luật đất đai năm 1998, 2001 quy định mọi trường hợp chuyển mục đích sử dụng đều phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Luật đất đai năm 2003 chỉ quy định một số các trường hợp chuyển mục đích sử dụng mới phải xin phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền gồm :

  - Chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thuỷ sản;

  - Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào mục đích khác.

  - Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp.

- Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất.

- Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở.

Còn các trường hợp khác khi chuyển mục đích sử dụng, người sử dụng đất chỉ phải đăng ký với văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất.

3. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại Điều 49 đã quy định đầy đủ các trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điều 50 quy định chi tiết về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất, trong đó Khoản 1 quy định những  trường hợp được cấp giấy chứng nhận mà không phải nộp tiền sử dụng đất. Đây là sự kế thừa các Luật đất đai trước và bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn.

Về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất : Đã quy định cho phù hợp với tiến trình cải cách hành chính tương xứng với thẩm quyền giao đất, cho thuê đất :

- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc thành phố trực thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài.

- Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quyền uỷ quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

4. Về giá đất và tài chính về đất đai :

So với Luật đất đai năm 1993 có nhiều nội dung đã được quy định chi tiết  trong đó có một số điểm cần lưu ý :

- Trong các khoản thu về đất : thuế chuyển quyền sử dụng đất được thay bằng thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất.

- Thẩm quyền xác định giá đất : Chính phủ quy định phương pháp định giá đất cho từng vùng, theo từng thời gian, trường hợp phải điều chỉnh giá đất và việc xử lý chênh lệch giá đất giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định được công bố vào ngày 01/01 hàng năm để người sử dụng đất biết và thực hiện các nghĩa vụ tài chính.

5. Về quyền và nghĩa vụ của ngưòi sử dụng đất.

  Các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất của Luật đất đai năm 2003 đã xoá dần sự khác biệt về quyền sử dụng đất của người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cho họ có quyền lựa chọn các hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất khi đầu tư về Việt Nam

Luật đất đai năm 2003 đã bổ sung quyền tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê, bỏ các quy định về điều kiện hạn chế khi thực hiện quyền chuyển nhượng và quyền thừa kế quyền sử dụng đất nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển.

6. Thị trường bất động sản.

Luật đất đai năm 2003 lần đầu tiên quy định về thị trường bất động sản tại Mục 7, chương II. Tuy mới chỉ có 3 điều 61, 62 và 63 quy định về loại đất được tham gia thị trường bất động sản, điều kiện để đất tham gia thị trường bất động sản và sự quản lý của Nhà nước đối với đất đai trong việc phát triển thị trường bất động sản nhưng những quy định này là cơ sở để quản lý thị trường bất động sản, giải quyết được những vấn đề tồn đọng hiện nay.

7.        Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.

Tranh chấp đất đai được xử lý theo 2 trường hợp :

- Khởi kiện ra toà án nhân dân đối với trường hợp tranh chấp về tài sản gắn liền với đất hoặc tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc thuộc một trong các trường hợp sau :

+) Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có các giấy tờ : Giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Giấy chứng nhận quyền sở hữu tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính; Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắng liền với đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

+) Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ trên có ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất được Uỷ ban nhân dân xã, phường xác nhận là đất không có tranh chấp.

+) Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền  đã được thi hành.

- Khiếu nại  đến cơ quan quản lý hành chính nhà nước đối với những trường hợp không thuộc trường hợp trên :

+) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết, quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định giải quyết cuối cùng.

+) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng.

III. NHU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI ĐẾN NĂM 2010.

1.                  Đánh giá pháp luật đất đai.

Xuất phát từ vai trò của đất đai trong sự ổn định và phát triển của đời sống con người, trong lịch sử nước ta đã có nhiều chính sách về đất đai như cải cách ruộng đất năm 1953-1954, xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp năm 1960 –1963, khoán 100, khoán 10; Những chính sách này đã có những đóng góp đáng kể vào việc khai thác có hiệu quả tài nguyên đất. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển quan hệ hàng hoá nói chung thì quan hệ trao đổi, chuyển nhượng đất đai cũng diễn ra khá sôi động. Để có thể thực hiện được nguyên tắc “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý” nhà nước ta đã ban hành Luật đất đai được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ ba ngày 14 tháng 7 năm 1993. Luật này thay thế Luật đất đai năm 1987. So với Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993 đã quy định khá đầy đủ những vấn đề liên quan đến đất đai như : các hình thức giao đất, phân loại đất, thời hạn sử dụng, hạn mức đất, chuyển quyền sử dụng đất v.v… Luật đất đai năm 1993 ngày càng được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế, bằng hai Luật sửa đổi, bổ sung Luật đất đai năm 1998 và 2001. Quyền của người sử dụng đất ngày càng được mở rộng cho phù hợp với nhu cầu thực tế, chấm dứt những “kênh ngầm” về chuyển quyền sử dụng đất, góp phần ổn định kinh tế, chính trị- xã hội, trở thành động lực chủ yếu đưa nước ta vào nhóm những nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu nông sản, thuỷ sản.

Tuy nhiên vấn đề đất đai là một trong những vấn đề nhạy cảm và phức tạp, lại chịu nhiều ảnh hưởng của lịch sử để lại nên trong những thời gian gần đây Luật đất đai năm 1993 lại bộc lộ những thiếu sót:

- Theo quy định của Luật đất đai năm 1993 thì các thủ tục hành chính còn rườm rà và phức tạp thể hiện ở việc quy định của các điều về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Những quy định này gây khó khăn cho những người sử dụng đất.

- Luật đất đai năm 1993 chưa thể hiện được các mối quan hệ về kinh tế trong quan hệ đất đai. Giá đất được quy định khác xa so với thực tế của thị trường đất đai, tạo nên những cơn sốt đất chưa từng có từ trước đến nay; việc điều tiết lợi nhuận qua chuyển quyền sử dụng đất đã làm nhà nước thất thu một khoản thuế lớn trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai.

- Các quy định của Luật đất đai năm 1993 có nhiều điều dừng lại ở mặt nguyên tắc, quan điểm mà thiếu các văn bản quy định hướng dẫn như vấn đề bồi thường khi thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hoặc có rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai nhưng vẫn bỏ sót rất nhiều trường hợp xảy ra trong thực tế, gây lúng túng cho những người sử dụng đất và ngay cả cho các cán bộ địa chính, cán bộ toà án trong việc giải quyết tranh chấp về đất đai.

- Luật đất đai năm 1993 không giải quyết được những vấn đề do lịch sử để lại. Trong thời gian qua, do giá trị của quyền sử dụng đất ngày càng tăng vọt, có rất nhiều các vụ tranh chấp về đất đai, đòi lại quyền sử dụng đất trong khi thực hiện các chính sách nhà nước về đất đai, các vụ tranh chấp về chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xảy ra từ rất lâu mà không có giấy tờ chuyển nhượng..v.v. các vụ tranh chấp này đã phần nào ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.

Trước tình hình đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, Đảng đã vạch ra những hạn chế của pháp luật về đất đai trong thời gian qua, đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân và đề ra các biện pháp khắc phục. Luật đất đai năm 2003 ra đời thể chế hoá khá đầy đủ những quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết này.

2. Nhu cầu phát triển của pháp luật về đất đai đến năm 2010.

Luật đất đai năm 2003 trên cơ sở kế thừa những điểm hợp lý của Luật đất đai năm 1993 và đã thể hiện được những điểm tiến bộ so với Luật đất đai năm 1993. Cải cách thể chế hành chính được thể hiện một cách rõ nét thông qua việc thành lập “Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất”, thể hiện  được quá trình chuyển đổi kinh tế.

Để Luật đất đai năm 2003 nhanh chóng đi vào cuộc sống, trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai :

- Ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Đất Đai.

- Chính phủ ban hành văn bản quy định về hạn mức đất nông nghiệp đối với từng vùng trong cả nước.

- Ban hành văn bản quy định về phương pháp định giá đất cho từng vùng, từng thời gian làm cơ sở cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cụ thể hoá tại địa phương

- Rà soát và xây dựng lại quy hoạch về đất đai của tất cả các vùng, các miền trong cả nước trên cơ sở đảm bảo sự ổn định từ 30-50 năm.

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định về thị trường bất động sản, đảm bảo đất thực sự trở thành một loại hàng hoá khi tham gia vào thị trường này, phản ánh được giá đất so với tình hình thực tế.

- Hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm xử lý được các vấn đề về sử dụng đất do lịch sử để lại như các trường hợp nhà do chính sách cải tạo, chính sách cải cách đất đai, góp phần giải quyết và ngăn chặn những tranh chấp.

- Xây dựng quy hoạch và dành vốn đất cho đất đô thị, đất dùng cho việc xây dựng các công trình công cộng như giao thông, thuỷ lợi tương xứng với tốc độ đô thị hoá hiện nay, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Mở rộng tối đa các quyền cho người sử dụng đất trong quá trình sử dụng và chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giải quyết thoả đáng quyền lợi cho họ trong việc thu hồi đất để người sử dụng đất yên tâm đầu tư phát triển kinh tế.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THỰC TIỄN VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA 

ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM

ThS. Lưu Ngọc Tố Tâm

Trường Đại học Luật Hà Nội

 

I.                   KHÁI LƯỢC THỰC TIỄN VỀ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ

1.   Thực trạng về chất lượng môi trường không khí ở Việt Nam.

Không khí là một hỗn hợp khí gồm Nitơ chiếm 78,9%, ôxy chiếm 0,95%, Acgông chiếm 0,93%, Dioxit cacbon chiếm 0,32% và một số hiếm khí khác như Neon, Heli, Metan, Kripton… Trong điều kiện bình thường của độ ẩm tuyệt đối, hơi nước chiếm gần 1-3% thể tích không khí.

Ô nhiễm không khí theo cách nhìn tổng quan nhất, được hiểu là khi có sự biến đổi môi trường theo hướng bất lợi đối với cuộc sống của con người, của động vật và của thực vật, mà sự thay đổi đó chủ yếu lại do chính hoạt động của con người gây ra với quy mô, phương thức và mức độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm thay đổi mô hình, thành phần hóa học, tính chất vật lý và sinh học của môi trường không khí.

Giống như rất nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức lớn về nạn ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là tại các khu công nghiệp và ở các đô thị lớn. Đây chính là những khu vực mà môi trường không khí phải chịu rất nhiều sức ép từ các hoạt động của con người trong sản xuất kinh doanh.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 1998 nước ta có 617.805 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó có 669 cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến tháng 7/2000, cả nước có 68 khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao phân bố tại trên 27 tỉnh thành, với các sản phẩm mũi nhọn, có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Đóng góp của công nghiệp vào GDP luôn tăng, các ngành công nghiệp chế biến, khai thác mỏ có mức tăng trưởng cao nhất. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là sự gia tăng mức độ ô nhiễm các khu đô thị và công nghiệp (do công nghiệp là ngành tiêu thụ năng lượng và nguyên liệu hóa thạch nhiều nhất ở Việt Nam và thải ra các chất độc hại như CO, CO2, NO2, SO2, bụi…)

Cho đến nay, các khu công nghiệp mới ở Việt Nam chưa nảy sinh các vấn đề lớn về môi trường không khí do các báo cáo đánh giá tác động môi trường chỉ tính đến tác động của riêng từng dự án mà chưa xét đến các tác động của đồng thời nhiều dự án tới môi trường. Tuy nhiên, cũng cần phải thừa nhận rằng những tác động không nhỏ tới môi trường là do các hoạt động tại các khu công nghiệp này mang lại. Tại các khu công nghiệp và một số vùng lân cận, không khí hiện đang bị ô nhiễm nặng do khí thải từ việc sử dụng nhiên liệu đốt cho sản xuất của các nhà máy nằm trong khu công nghiệp. Ví dụ, tại khu công nghiệp Biên Hòa, ở tất cả các điểm đo đạc đều có nồng độ bụi lơ lửng vào mùa khô năm 1999 vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 8,2 đến 48,1 lần (chỉ tính cho một giờ), mặc dù nhiều xí nghiệp trong khu công nghiệp có chất thải khí đã trang bị hệ thống xử lý trước khi thải vào môi trường.

Có thể thấy một số ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam là:

-       Công nghiệp sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng

Đây là một trong những ngành phát triển mạnh nhất ở Việt Nam trong thời gian qua. Công nghiệp sản xuất xi măng tiêu thụ rất nhiều tài nguyên như đá vôi, đất sét, than… nên đây cũng là ngành tạo ra nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường. Như trong năm 1997, sản lượng xi măng cả nước là 8.019.000 tấn, nhưng đã tiêu thụ tới 705.640 tấn than, 4.080 tấn dầu. Đáng chú ý là nguồn gây ô nhiễm môi trường từ 60 nhà máy ximăng lò đứng là rất lớn như tại nhà máy xi măng Long Thọ (Huế), giá trị trung bình của nồng độ bụi các đợt đo trong năm từ 1995-1999 dao động trọng khoảng 0,34-0,72 mg/m3 và trung bình cả giai đoạn là 0,44 mg/m3, gấp 2,2 lần tiêu chuẩn cho phép. Bên cạnh đó, các xí nghiệp sản xuất gạch ngói, nung vôi phân tán ở các địa phương trong cả nước. Đây cũng là nguồn gây ô nhiễm đáng kể đối với môi trường không khí ở Việt Nam. Các số liệu điều tra về môi trường lao động của Viện bảo hộ Lao động, Viện Y học lao động… trong 5 năm qua cho thấy nồng độ bụi ở một số nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 20 đến 43,5 lần.

-       Công nghiệp nhiệt điện.

Tính đến năm 1999, sản xuất điện của nước ta đạt tới 23,806 tỷ kw/h, trong đó nhiệt điện chiếm trên 40%. Nhiên liệu đốt dùng cho nhiệt điện là than, dầu FO và khí tự nhiên. Theo tính toán sơ bộ, tổng lượng bụi chưa xử lý thải ra từ các nhà máy nhiệt điện khoảng từ 100 đến 280 nghìn tấn/năm (chủ yếu là các nhà máy cũ như Uông Bí, Ninh Bình, Phả Lại…), khí CO2 là 2 đến 3,5 triệu tấn/năm, khí CO từ 500 đến 1000 tấn/năm, khí SO2 là từ 12 đến 18 nghìn tấn/năm và lượng NOx là từ 6 đến 12 nghìn tấn/năm. Đâychính là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí rấtnghiêm trọng ở Việt Nam.

-       Công nghiệp khai khoáng

Có thể nói ngành công nghiệp khai khoáng đã có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển trong thời gian qua nhằm cung cấp nguyên nhiên vật liệu phục vụ nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 1999, sản lượng khai thác chính là than 9.097 tấn, dầu thô 15.000 tấn, quặng Apatit 603.000 tấn… Mặc dù có nhiều đóng góp cho nền kinh tế quốc dân nhưng công nghiệp khai khoáng đã làm suy kiệt các nguồn tài nguyên không thể khôi phục, suy thoái môi trường đất, nước, không khí… ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân trong vùng.

Theo các số liệu điều tra, đánh giá hiện trạng môi trường ở khu vực tiến hành khai khoáng cho thấy tình trạng ô nhiễm bụi là tương đối lớn, mà chủ yếu là do nổ mìn trong khai thác khoáng sản. Kết quả điều tra khảo sát vùng mỏ Quảng Ninh cho thấy mỏ đã trở nên nguy hại đối với người dân vùng này. Hiện tại đã phát hiện được gần 2000 người mắc bệnh bụi phổi chiếm 50% số người mắc bệnh trong toàn quốc, 80% số người đó là công nhân hầm lò. Tính trung bình tại các mỏ khai thác và chế biến khoáng sản như than, đá, apatit, cao lanh… nồng độ bụi vượt quá trị số tiêu chuẩn cho phép trung bình là 170 lần.

Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra tương đối nhanh. Năm 1990 mới có khoảng 500 đô thị lớn nhỏ, đến nay đã có khoảng 623 đô thị. Tỷ lệ dân số đô thị trên tổng số dân năm 1986 là 19%, năm 1999 đã là 23,5%. Chính quá trình đô thị hóa và sự gia tăng nhanh chóng của tỷ lệ dân số đô thị đã tạo ra một sức ép rất lớn đối với môi trường. Nơi đây chính là nguồn tạo ra các tác nhân tiêu cực cho chất lượng không khí.

Mặc dù công nghiệp hóa và giao thông vận tải của nước ta chưa phát triển mạnh, nhưng ô nhiễm đã xảy ra rất nghiêm trọng ở hầu khắp các khu vực. ở Hà Nội, tại khu vực Nhà máy dệt 8/3, Nhà máy cơ khí Mai Động, Khu Công nghiệp Thượng Đình, khu Công nghiệp Văn Điển, Nhà máy rượu…, không khí và một số nguồn tài nguyên khác đều đã bị ô nhiễm nặng. Ở Hải Phòng ô nhiễm đã xảy ra ở khu Nhà máy Xi măng, Nhà máy thủy tinh và Sắt tráng men… ở Việt Trì, ô nhiễm đã xảy ra xung quanh Nhà máy Super Phốt-phát và hóa chất Lâm Thao, Nhà máy Giấy, Nhà máy Dệt… ở Ninh Bình và Phả Lại, ô nhiễm nghiêm trọng đã xảy ra do Nhà máy nhiệt điện, các Nhà máy vật liệu xây dựng, lò vôi… Còn tại thành phố Hồ Chí Minh và cụm công nghiệp Biên Hòa, không khí bị ô nhiễm bởi nhiều nhà máy. Đặc biệt là tỉnh Bình Dương, một tỉnh có tốc độ đầu tư lớn nhất trong cả nước thì tình trạng ô nhiễm môi trường càng trở nên nghiêm trọng… Bên cạnh đó, từ năm 1994 đến nay đã xảy ra nhiều sự cố môi trường thiên nhiên và nhân tạo như cháy rừng, tràn dầu, rò rỉ hóa chất độc hại. Tất cả đều tăng sức ép cho môi trường.

Những số liệu thực tế trên đây cho thấy với công nghệ sản xuất phần lớn còn lạc hậu, lại không có thiết bị xử lý chất thải, cơ sở hạ tầng thấp kém đã làm cho các hoạt động công nghiệp ở Việt Nam trở thành một sức ép không nhỏ đối với môi trường không khí. Điều đó đòi hỏi cần sớm áp dụng các biện pháp có hiệu quả hơn nữa để bảo vệ chất lượng của môi trường không khí.

2.   Tốc độ phát triển và nguy cơ ô nhiễm

Trong thời gian vừa qua, do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, sự khai thác các nguồn tài nguyên cũng như các hoạt động gây xả thải đã tạo ra một sức ép lớn cho thiên nhiên, môi trường nói chung và chất lượng không khí nói riêng. Tuy nhiên, đó mới chỉ là bắt đầu vì sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng mạnh trong một tương lai rất gần. Mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 là đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng ít nhất là gấp đôi so với năm 2000; phấn đấu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 cũng nêu rõ phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Trước mắt, đến 2005, trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, các chỉ tiêu cụ thể cần đạt được là nhịp độ tăng GDP bình quân 7,5%/năm, tổng GDP năm 2005 tăng gấp hai lần so với năm 1995 [06]. Mục tiêu phát triển to lớn này buộc chúng ta phải tính đến vấn đề môi trường. Theo tính toán của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới WB, khi mà GDP của một nước đang phát triển tăng gấp đôi, thì ô nhiễm môi trường sẽ tăng gấp 4 lần.

Thực tế là với việc các khu công nghiệp sẽ mọc lên ở khắp nơi, đất nước sẽ có những thay đổi đáng kể về kinh tế xã hội, các nguồn tài nguyên sẽ được “huy động” một cách tối đa. Điều này đặt chúng ta trước một thách thức là làm sao vừa phát triển được kinh tế, lại vừa bảo vệ được môi trường. Trong một tương lai gần, tốc độ khai thác tài nguyên sẽ tăng mạnh, đặc biệt, việc khai thác và sử dụng các nguyên liệu hóa thạch có khả năng gây biến đổi khí hậu, ảnh hượng nghiêm trọng đến chất lượng không khí. Bên cạnh đó, hàng loạt các tác động khác của nền kinh tế đang phát triển như tốc độ đô thị hóa, sự phát triển của nền công nghiệp, sự gia tăng của hàng loạt các phương tiện giao thông… cũng là những nguy cơ ô nhiễm rất nghiêm trọng. Việc khai thác than ở Quảng Ninh đến nay đã để lại hơn 100 triệu m3 đất đá thải tồn đọng, hàng trăm km2 diện tích mặt đất và rừng bị phá hoại chưa được phục hồi. Ngành khai thác dầu khí phát triển với tốc độ nhanh, mạnh mẽ chứa đựng những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường không khí.

Một số ngành công nghiệp cũng sẽ tăng tốc trong tương lai gần để đạt được các mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra trong Đại hội IX. Điển hình là các nhà máy điện đốt than hay đốt dầu FO sẽ thải ra một lượng SO2, khí nhà kính và bụi rất lớn tạo nguy cơ gây ô nhiễm môi trường không khí cục bộ rất nghiêm trọng. Cho đến thời điểm này, các nhà máy nhiệt điện ở Việt Nam mới chỉ tiến hành lọc bụi mà chưa có thiết bị xử lý SO2 và các loại khí thải độc hại khác. Dự tính đến 2010, Việt Nam sẽ xả thải khoảng 140,67 triệu tấn CO2, và đến 2020 thì con số này sẽ là 233,28 (chỉ tính riêng các ngành năng lượng, công nghiệp, lâm nghiệp và nông nghiệp). Như vậy, tốc độ phát triển của Việt Nam sẽ tăng nhanh và tỷ lệ ô nhiễm cũng sẽ lũy tiến theo cấp số nhân. Nếu chúng ta không có một giải pháp hữu hiệu ngay từ bây giờ nhằm ngăn chặn các tác nhân gây hại, thì chính Việt Nam cũng sẽ góp thêm những nguy cơ vào quá trình tiếp tục tạo ô nhiễm không khí.

3.   Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật trong lĩnh vực này

Như vậy, với thực trạng môi trường không khí đang bị ô nhiễm, lại đứng trước nguy cơ tiếp tục bị ảnh hưởng với mức độ nghiêm trọng trong tương lai không xa, có thể thấy tính cấp bách của vấn đề này ở nước ta là:

- Hệ thống pháp luật môi trường không khí trong quản lý công nghiệp còn rất yếu, hệ thống tiêu chuẩn môi trường cho không khí còn thiếu ở nhiều khu vực như vùng sản xuất… nên việc giải quyết các vấn đề phát sinh từ hoạt động công nghiệp đối với môi trường không khí chưa đạt được hiệu quả thực sự;

- Hệ thống quan trắc và cập nhật số liệu ô nhiễm môi trường không khí còn chưa đồng bộ và ở mức độ rất khiêm tốn đã gây ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác ngăn ngừa ô nhiễm không khí;

- Phần lớn, các cơ sở công nghiệp của Việt Nam có công nghệ sản xuất cũ, lạc hậu, quy trình xử lý chất thải ở mức độ rất hạn chế nên lượng các chất gây ô nhiễm cũng như các chất độc hại thải vào không khí trong quá trình sản xuất là rất lớn.

- Nhận thức về vấn đề này từ phía người dân và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa hoàn toàn đúng đắn như việc thiếu nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong quá trình phát triển công nghiệp. Điều này là nguyên nhân dẫn tới việc phần lớn các cơ sở công nghiệp chỉ hoạt động vì lợi ích trước mắt mà không tính đến các lợi ích môi trường, trong đó có việc bảo vệ bầu không khí cho cả cộng đồng;

- Tại các cơ sở công nghiệp cũng như tại những nơi tiến hành các hoạt động sản xuất - đây chính là nguồn thải khí ô nhiễm, việc đổi mới cải tiến công nghệ sản xuất, công nghệ xử lý khí thải, kiểm soát ô nhiễm khí, cũng như kiểm toán nguồn thải khí còn chậm và chưa  được tiến hành một cách thực sự hiệu quả…

Không khí có vai trò quan trọng đối với sự sống, với sản xuất kinh doanh, và, xét trong một chỉnh thể toàn vẹn, thì không khí cũng rất quan trọng đối với các nguồn tài nguyên khác. Có thể thấy tình trạng ô nhiễm không khí ở Việt Nam đã và đang trở thành một vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Những vấn đề cấp bách nêu trên chỉ là đại diện trong số rất nhiều các vấn đề đang tồn tại. Chúng hoàn toàn có thể được giải quyết thông qua sự can thiệp của nhà nước bằng pháp luật. Do đó, bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết và tất yếu. Đây cũng chính là một đóng góp quan trọng cho quá trình bảo vệ môi trường bằng pháp luật ở Việt Nam.

II.                THỰC TIỄN BAN HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ

1.   Chủ trương đường lối chính sách của Đảng

Trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ như hiện nay, Việt Nam đang từng ngày từng giờ đổi mới. Mọi đổi thay của đất nước đều trên cơ sở chỉ đạo của Đảng. Những chủ trương, đường lối chính sách của Đảng chính là kim chỉ Nam cho mọi hành động của cả đất nước và dân tộc. Bắt đầu từ sự thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam chính thức chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn và phù hợp quyluật cũng như đặc điểm riêng của Việt Nam. Cũng từ thời điểm này, Đảng ta chủ trương Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ cao. Chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu lớn lao mà chặng đường hơn 15 năm đổi mới đã đạt được, nhưng đồng thời, sức ép lên môi trường và các nguồn tài nguyên cũng là rất lớn. Do đó, Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách để đảm bảo phát triển bền vững, nghĩa là vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ môi trường.

Điều này được thể hiện rất rõ ngay trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc của Việt Nam. Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nếu như những mặt làm được từ 1991 – 1995 mới chỉ là “Công tác bảo vệ môi trường, môi sinh được triển khai” thì phương hướng nêu ra từ 1996 – 2000, cũng trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã chỉ rõ cần sử dụng hợp lý tài nguyên, trong đó có không khí và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong đó, Đảng ta nêu trong 5 năm này, cần “giải quyết dứt điểm tình trạng suy thoái môi trường do các cơ sở sản xuất gây ra. Ngăn chặn tận gốc việc gây ô nhiễm môi trường, trước hết là nước và không khí trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Như vậy, Đảng ta đã nhận thấy tầm quan trọng của tài nguyên không khí trong quá trình phát triển của đất nước cũng như vai trò của nguồn tài nguyên này đối với các nguồn tài nguyên và các thành phần môi trường khác ngay từ Đại hhội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.

Đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta lại tiếp tục chỉ rõ: cần sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là một nội dung quan trọng của chiến lược, quy hoạch , kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế – xã hội. Cần tăng cường công tác quản lý ở tất cả các lĩnh vực, các vùng, thực hiện nghiêm Luật Bảo vệ môi trường. Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010, mục tiêu mà Đảng nêu ra là “Phát triển kinh tế xã hội phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên…” Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu này, Đảng chỉ rõ “Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân”. Thực tế là ở Việt Nam, môi trường đô thị, khu công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng. Cơ chế chính sách về môi trường còn thiếu đồng bộ, nhận thức về bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư còn nhiều hạn chế. Do đó, Đảng ta rất chú trọng tới việc chỉ đạo các hoạt động bảo vệ môi trường nói chung, trong đó có bảo vệ nguồn tài nguyên không khí.

Không chỉ được nêu ra trong các văn kiện Đai hội Đảng toàn quốc, vấn đề bảo vệ môi trường nói chung trong đó có bảo vệ nguồn tài nguyên không khí còn được đề cập đến trong một văn bản rất quan trọng. Đây được xem như là một văn bản xác định đường lối cũng như cách thức và biện pháp bảo vệ môi trường nói chung trong đó có bảo vệ môi trường không khí. Đó chính là Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính Trị “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tuy đây là một văn bản quan trọng, nhưng cũng cần thấy ngay là vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và một số nguồn tài nguyên đã được nhắc đến, đặc biệt là tài nguyên rừng, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và nguồn lợi thủy sản. Trong khi đó, môi trường không khí là một trong ba thành phần cơ bản của môi trường sống (bao gồm không khí, đất và nước) thì lại không hề được nhắc đến hoặc chú trọng riêng trong văn bản này. Do đó, đây cũng là mọt điểm khuyết thiếu cần được chú trọng và bổ sung. Tuy nhiên, môi trường không khí có thể được bảo vệ thông qua việc Chỉ thị 36/CT-TW xác định nhiệm vụ bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ các nguồn tài nguyên, trong đó có môi trường không khí.

Như vậy, việc bảo vệ môi trường không khí đã được xác định trong các văn kiện quan trọng của Đảng, thể hiện ngay tại đường lối chính sách, chủ trương của Đảng ta. Trên cơ sở những chủ trương, đường lối chính sách này của Đảng, nhà nước đã thể chế nó thành pháp luật, đưa nó vào trong thực tiễn cuộc sống của nhân dân ta.

Bên cạnh nững chủ trương đường lối chinha sách của Đảng, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 2001-2010. Mặt khác, chúng ta cũng ban hành Kế hoạch hành động môi trường Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Vấn đề bảo vệ và cải thiện môi trường không khí cũng đã được đề cập bước đầu ở trong các văn bản này. Tuy nhiên, vấn đề này không được đề cập một cách trực tiếp và cấp thết như nhiều nguồn tài nguyên khác.

2.   Một số nội dung cơ bản của pháp luật môi trường trong việc bảo vệ không khí.

Một thực tế là nếu như hệ thống pháp luật môi trường nói chung, hệ thống pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên nói riêng (như rừng, nước, khoáng sản, nguồn lợi thủy sản hay đất…) là tương đối đồng bộ và hoàn thiện, thì ngược lại, đối với môi trường không khí, chúng ta hầu như chưa có một văn bản pháp luật nào quy định riêng việc bảo vệ không khí như bảo vệ một nguồn tài nguyên, một thành phần môi trường. Việt Nam chưa có đạo luật về không khí sạch, ngay kể cả một văn bản dưới luật để điều chỉnh riêng vấn đề này cũng chưa được ban hành. Do đó, thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay còn rất thiếu và yếu, ví dụ thiếu các quy định khuyến khích phòng ngừa ô nhiễm không khí, thiếu các quy định cụ thể về nghĩa vụ làm sạch khí ô nhiễm trước khi thải vào môi trường, cũng như thiếu các quy định về giới hạn được phép phát thải các chất lỏng, chất rắn có hại cho môi trường không khí… Căn cứ chủ yếu để điều chỉnh các hành vi trong lĩnh vực này là hệ thống tiêu chuẩn môi trường. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có các quy định pháp luật hỗ trợ có liên quan như quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong việc Đánh giá tác động môi trường, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật môi trường không khí, giải quyết tranh chấp môi trường không khí, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc bảo vệ môi trường không khí cũng như trách nhiệm pháp lý đặt ra khi có các hành vi vi phạm pháp luật…

Do đó, việc bảo vệ môi trường không khí như bảo vệ một nguồn tài nguyên chỉ có thể được xác định thông qua các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan chứ không phải từ một văn bản riêng cho lĩnh vực này.

a, Các quy định có liên quan đến hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí.

Theo Điều 2 khoản 7 Luật Bảo vệ môi trường 1993, “tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mức, giới hạn cho phép, được pháp luật quy định làm căn cứ để quản lý môi trường”. Những chuẩn mức, giới hạn cho phép đó được hiểu là mức độ hoặc phạm vi chất ô nhiễm nhất định trong các thành phần môi trường mà nhà nước thấy có thể chấp nhận được vì nó chưa gây nguy hại đến sức khỏe, đến sản xuất kinh doanh của con người hoặc chưa tác động xấu đến thiên nhiên. Hệ thống này được xem như là ngưỡng, là “giới hạn an toàn”. Các tổ chức cá nhân phải hoạt động và kiểm soát hành vi của mình ở trong giới hạn đó.

Trong việc thực hiện các quy định pháp luật nhằm giảm thiểu tới mức tối đa sự tác động tiêu cực của con người vào không khí, hệ thống tiêu chuẩn môi trường giữ một vai trò rất quan trọng. Tiêu chuẩn môi trường cũng như bản thân pháp luật, có thể áp đặt một trật tự ứng xử của con người đối với môi trường. Muốn hạn chế sự tác động tiêu cực của những hành vi con người vào môi trường gây ô nhiễm không khí thì các cơ quan nhà nước cần xác định đâu là giới hạn cuối cùng mà con người có thể làm. Chỉ trên cơ sở của hệ thống tiêu chuẩn môi trường, các cơ quan hữu quan mới xác định được một cách chính xác mức độ xả thải cũng như chất lượng của môi trường, biết được một cách cụ thể hàm lượng chất có hại cho bầu khí quyển cũng như nguy cơ gây ô nhiễm không khí đang tăng hay giảm và ở mức độ nào, từ đó xác định các biện pháp điều tiết thích hợp. Theo Quyết định số 229/QĐ-KCM ngày 25/3/1995 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc ban hành tiêu chuẩn Việt Nam, hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí của Việt Nam hiện nay bao gồm:

-       Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh: Trong điều kiện trình độ khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế như Việt Nam hiện nay, chúng ta chưa thể loại trừ hoàn toàn các loại khí thải trong quá trình sản xuất cũng như các tác động vào môi trường. Do đó, các tiêu chuẩn môi trường không khí xung quanh được xác định trên cơ sở những kết quá nghiên cứu về vệ sinh y học cũng như các đảm bảo an toàn khác nhằm làm cho chất lượng môi trường không khí ở nước ta ở mức độ tương đối trong sạch. Tiêu chuẩn môi trường không khí xung quanh sẽ xây dựng một giới hạn an toàn buộc các hoạt động của các chủ thể muốn tác động vào môi trường không khí cần phải tuân thủ trong phạm vi giới hạn an toàn đó. Mức độ trong sạch của môi trường không khí được đánh giá bằng nồng độ chất độc hại chứa trong một đơn vị trọng lượng hay một đơn vị thể tích không khí. Việt Nam hiện nay chưa thể đưa ra mọt hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí trong sạch và có yêu cầu cao như một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, nhưng với việc xác định nồng độ các chất ô nhiễm có tổng 1 m3 không khí xung quanh thì điều đó có nghĩa là Việt Nam vẫn đảm bảo cho người dân của mình được sống trong một môi trường không khí đảm bảo an toàn và trong sạch phù hợp.

-       Tiêu chuẩn thải khí đối với nguồn thải tĩnh: Trong các tác động tiêu cực vào môi trường không khí, nguồn phát sinh khí thải là rất đa dạng. Có thể đó là nguồn thải động, như xe gắn máy hoặc các phương tiện giao thông, cũng có thể đó là nguồn thải tĩnh, như các cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là ống khói của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất… Tiêu chuẩn thải khí đối với nguồn thải tĩnh nêu ra quy định các đại lượng giưói hạn cho phép khí thải công nghiệp có tính độc hại đối với mỗi loại nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí. Đây là trị số mà các chất thải độc hại do nguồn thải đó gây ra, tớng hợp với các nguồn thải khác trong khu vực sao cho không vượt quá giới hạn nồng độ cho phép đối với khu dân cư cũng như các khu vực khác, không ảnh hưởng đến con người cũng như thiên nhiên. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn thải khí đối với nguồn thải tĩnh quy định giá trị nồng độ tối đa của các chất hữu cơ và vô cơ trong khí thải công nghiệp (mg/m3 khí thải) khi thải vào môi trường không khí xung quanh. Tiêu chuẩn này được chia ra cho hai loại đối tượng là các xí nghiệp đang hoạt động và xí nghiệp mới đầu tư xây dựng. Theo đó, giới hạn nồng độ của các chất vô cơ và bụi trong khí thải công nghiệp khi xả vào môi trường áp dụng cho những xí nghiệp đang hoạt động được quy định nới lỏng hơn. Như vậy đối với các nhà máy mới đầu tư xây dựng, nhà nước đòi hỏi yêu cầu khắt khe hơn, điều này cũng đồng nghĩa với việc các cơ sở mới hoạt động phải đầu tư cho dây chuyền thiết bị công nghệ phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường ở mức độ cao hơn.

b, Pháp luật về đánh giá tác động môi trường.

Theo Khoản 11 Điều 2 Luật bảo vệ môi trường 1993, “Đánh giá tác động môi trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo những ảnh hưởng đến môi trường của các dự án, của các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học kỹ thuật, y tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và các công tình khác, đề ra các giải pháp thích hợp về bảo vệ môi trường”. ĐTM được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau. Trong việc hạn chế những tác động tiêu cực của các dự án phát triển gây ô nhiễm không khí thì ĐTM đóng một vai trò rất quan trọng. ĐTM được tiến hành khi dự án chưa được thực hiện trên thực tế, tức là khi hậu quả chưa xảy ra. Do đó, có thể thực hiện các biện pháp ngăn chặn kịp thời. ĐTM có thể được tiếp cận dưới hai bình diện sau: Thứ nhất, hoạt động lập báo cáo ĐTM của các chủ dự án, chủ đầu tư, chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh; và thứ hai là hoạt động thẩm định báo cáo ĐTM của các cơ quan có thẩm quyền. Các quy định về ĐTM ở Việt Nam đã và đang rất được chú trọng. Tuy nhiên, chính bản thân những quy định này lại chưa dành một sự quan tâm đúng đắn đối với tài nguyên không khí trong quá trình tiến hành các hoạt động ĐTM. Có thể lấy đơn cử là vấn đề hạn chế sự phát thải các loại khí nhà kính và các chất gây ô nhiễm không khí vẫn chưa được chú trọng trong các khâu của quá trình ĐTM.

Điều này xuất phát từ một thực tế là Luật về Không khí sạch vẫn chưa được ban hành. Mặt khác, việc hạn chế nồng độ phát thải của các loại khí gây ô nhiễm chỉ dựa vào hệ thống tiêu chuẩn môi trường. Chủ dự án chưa thấy được hậu quả của việc thải các loại bụi và khí ô nhiễm này. Do đó, trong quá trình lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, chủ dự án coi nhẹ việc giảm thải khí ô nhiễm, hoặc thậm chí còn tránh né. Đối với những nhà thẩm định, các yếu tố luôn được ưu tiên xem xét là vị trí địa lý, công suất hoạt động, các tác nhân ảnh hưởng đến đất, nguồn nước hoặc không khí. Còn chính xác hàm lượng các loại khí thải cụ thể của từng dự án lại là yếu tố hầu như không được quan tâm đúng mức. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng là hoạt động ĐTM đối với việc hạn chế các tác động tiêu cực gây ô nhiêm không khí thường được tiến hành ở mức độ rất hạn chế. Có thể thấy một số ví dụ điển hình về các nhà máy đã gây ô nhiễm không khí cực kỳ nghiêm trọng do không được chú ý đúng mức trong quá trình lập báo cáo đánh giá tác động môi trường là nhà máy ximăng Hải Phòng, nhà máy điện Ninh Bình, điện Phả Lại, xi măng Hà Tiên I…

Mặt khác, hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám sát sau thẩm định ĐTM đối với việc hạn chế thải khí ô nhiễm không cao. Có thể nói, quy trình ĐTM đã được pháp luật quy định và liên tục được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Pháp luật cũng đã xác định trách nhiệm của các chủ thể sau ĐTM. Nhưng trên thực tế, khi báo cáo ĐTM được phê chuẩn, dự án đi vào hoạt động thì quá trình kiểm tra giám sát sau ĐTM lại không được đảm bảo bởi một cơ chế cưỡng chế hợp lý. Như đã phân tích ở trên, việc hạn chế các tác nhân gây khí nhà kính đã bị xem nhẹ ở khâu lập và thẩm định báo cáo ĐTM, đến khi cần phải kiểm tra việc thực hiện trên thực tế thì lại không có cơ chế cưỡng chế phù hợp. Việc kiểm tra giám sát sau ĐTM chỉ trông chờ vào hiệu quả của công tác thanh tra vốn đang gặp phải rất nhiều vấn đề như lực lượng mỏng, trình độ của các cán bộ ở mức độ chưa đủ đáp ứng với yêu cầu thực tế….

c, Pháp luật về giảm phát thải các chất độc hại gây biến đổi khí hậu.

Một trong những nguyên nhân cơ bản trong quá trình tác động của con người vào môi trường gây ô nhiễm không khí là sự phát thải quá mức các chất độc hại. Pháp luật của một số quốc gia có đề cập và điều chỉnh sự phát thải. Ở Malaysia, Chính Phủ đã lập ra danh mục 107 các loại chất thải nguy hại cần phải được quản lý. Mọi sự tác động, kiềm chế phát thải, hoặc ban hành văn bản pháp luật liên quan đều trên cơ sở của danh mục các chất độc hại này. Đối với Việt Nam, vấn đề này không tập trung trong một khuôn khổ như vậy. Chúng ta không có một danh mục cứng, mà trên cơ sở của những lĩnh vực hoạt động, của từng đối tượng mà pháp luật sẽ điều chỉnh các loại chất khác nhau. Tuy nhiên, những chất này có thể tác động trực tiếp, có thể tác động gián tiếp, tùy thuộc vào các hoạt động của con người sử dụng chúng như thế nào. Những lĩnh vực động chạm nhiều nhất đến các chất độc hại này được pháp luật đề cập đến là:

-   Trong lĩnh vực sản xuất, sử dụng, vận chuyển và xuất nhập khẩu các loại hóa chất độc hại… Rất nhiều các văn bản pháp luật đã đề cập đến việc sản xuất, vận chuyển cũng như xuất nhập khẩu các loại hóa chất và các loại hóa chất độc hại. Trong Danh mục hoá chất độc hại và sản phẩm có hoá chất độc hại xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện (Ban hành kèm theo Thông tư số 08 /2001/TT-BCN ngày 14 tháng 9 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp), một số hóa chất nguy hại có khả năng gây ô nhiễm không khí như methyl bromide, CO, NO…, chất hoạt động bề mặt Dodelyl benzen sunforic axit (DBSA) trong công nghiệp chất tẩy rửa tổng hợp… đã được đề cập tới. Ngoài ra, một số loại hóa chất như chất dẻo, sơn, cao su, chất màu… cũng được quy định cụ thể nhằm giảm bớt sự phát thải của các loại chất độc hại gây ô nhiễm không khí.

-   Trong lĩnh vực sử dụng và tiêu hủy các loại thuốc bảo vệ thực vật… Thuốc bảo vệ thực vật hiện nay đang được sử dụng một cách rộng rãi. Tình trạng lạm dụng thuốc để tăng năng suất, đẹp mẫu mã sản phẩm đã dẫn đến hậu quả là ngộ độc thức ăn, để lại những hậu quả tiềm tàng cho đất, nước, không khí… Mặt khác, trong quá trình tiêu hủy các loại chất này phải sử dụng các chất khí như CO2, NO2… mà khi tập trung với hàm lượng cao sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của các điều kiện khí hậu, tromg đó có tài nguyên không khí. Một số văn bản đã đề cập đến vấn đề này như Quyết định của Bộ trưởng Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường số 1972/1999/QĐ-BKHCNMT ngày 10 tháng 11 năm 1999 Về việc ban hành Quy trình công nghệ tiêu huỷ thuốc bảo vệ thực vật Clo hữu cơ tồn đọng cấm sử dụng; Quyết định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Số 193/1998/QĐ/BNN-BVTV ngày 02 tháng 12 năm 1998 về việc ban hành Quy định về kiểm định chất lượng, dư lượng thuốc BVTV và khảo nghiệm thuốc BVTV mới nhằm mục đích đăng ký tại Việt Nam… Theo quy định tại điều 3 phần I trong Quy trình công nghệ tiêu hủy thuốc bảo vệ thực vật Clo hữu cơ tồn đọng cấm sử dụng (Ban hành kèm theo Quyết định số 1972/1999/QĐ-BKCM ngày 10/11/1999), việc sử dụng, thu gom hay tiêu hủy chúng cần tuân theo một trình tự nghiêm ngặt, có những nguyên tắc và phương pháp tiêu hủy riêng, hạn chế đến mức tối đa sự thoát thải của loại thuốc này. Quá trình lấy mẫu kiểm định chất lượng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cũng cần phải tuân thủ theo những quy trình nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật (Điều 6 - Quy định ban hành kèm theo Quyết định 193).

Đối với những loại thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng, ngay khi phát hiện thấy chúng có nguy cơ gây hại cho môi trường thì cũng cần phải khảo nghiệm lại từ đầu như một loại thuốc bảo vệ thực vật mới. Tại Điều 1 khoản 3, điểm c trong Quy định về kiểm định chất lượng, dư lượng thuốc BVTV và khảo nghiệm thuốc BVTV mới nhằm mục đích đăng ký tại Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định 193 (2/12/1998) của Bộ NN và PTNT quy định “Thuốc thương phẩm đã có tên trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng hoặc hạn chế sử dụng ở Việt Nam, nhưng khi phát hiện thấy hoạt tính sinh học có ảnh hưởng xấu đến cây trồng và môi trường thì phải khảo nghiệm lại như thuốc BVTV mới”.

Đặc biệt, chúng ta cũng đã ban hành danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng, hạn chế sử dụng, cấm sử dụng ở Việt nam kèm theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ NN và PTNT Số 17/2001/QĐ-BNN-BVTV ngày 06 tháng 3 năm 2001. Trên cơ sở danh mục này, các tổ chức cá nhân muốn sử dụng các loại hóa chất bảo vệ thực vật phải nắm rõ loại nào được sử dụng, loại nào không được sử dụng hay muốn sử dụng chúng thì phải tuân theo những điều kiện cụ thể…

- Trong lĩnh vực xăng dầu, chất thải dầu khí… Do Việt Nam rất chú trọng đến các lĩnh vực này nên các văn bản về khai thác, kinh doanh, vận chuyển các sản phẩm từ dầu mỏ, tiêu hủy các loại chất thải dầu khí nhằm hạn chế gây biến đổi khí hậu liên tục được sửa đổi, bổ sung. Luật Dầu khí (sửa đổi bổ sung ngày 6/9/2000) đã điều chỉnh các hành vi của các chủ thể liên quan đến hoạt động xăng dầu nhằm bảo vệ môi trường. Các tổ chức cá nhân muốn khai thác tài nguyên dầu khí cần tuân thủ các yêu cầu về bảo vệ các nguồn tài nguyên khác được quy định trong Quyết định của thủ tướng Chính phủ Số 163 /1998/QĐ-TTg ngày 07 tháng 9 năm 1998 ban hành Quy chế khai thác tài nguyên dầu khí. Đặc biệt, quá trình đốt - xả khí để thông và làm sạch giếng cũng cần tuân thủ các yêu cầu về kỹ thuật, các biện pháp bảo vệ chống thoát thải các loại khí thải độc hại cho môi trường. Pháp luật hiện hành quy định trong một số trường hợp, “nhà điều hành có thể đốt khí trong quá trình thử vỉa không quá 48 giờ”. Đây là quy định vừa nhằm chống lãng phí, vừa hạn chế sự thoát khí gây hại cho môi trường.

  Ngoài ra, những vấn đề cụ thể hơn được quy định trong các văn bản dưới luật khác như Quyết định số 12/QĐ-BKHCNMT ngày 04/6/2001 của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và môi trường về việc ban hành “Quy định tạm thời về yêu cầu kỹ thuật đối với xăng không chì RON 83". Quyết định này đề cập các vấn đề liên quan đến yêu cầu kỹ thuật, các chỉ tiêu chất lượng tuân theo các TCVN về xăng, về sản phẩm dầu mỏ, về nhiên liệu lỏng… Quá trình vận tải, giao nhận, bảo quản, bán xăng dầu và các điều kiện khác được quy định cụ thể tại Thông tư số 14/1999/TT- BTM của Bộ thương mại ngày 07/7/1999 Hướng dẫn điều kiện kinh doanh xăng dầu. Theo các quy định trong văn bản này, các cơ sở kinh doanh xăng dầu cần tuân thủ điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị, thực hiện các biện pháp chống tràn vãi và bảo vệ môi trường. Cơ sở cần tuân thủ các quy định pháp luật về ĐTM, về phòng cháy chữa cháy, xử lý khí thải, thực hiện các biện pháp nhằm chống sự thoát thải xăng dầu gây ô nhiễm môi trường không khí. Các chủ thể muốn hoạt động trong lĩnh vực này cần phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu. Những người hoạt động trực tiếp phải có kiến thức tối thiểu về xăng dầu và môi trường…

3.   Chuẩn mực thế giới và mức độ đáp ứng của Việt Nam.

Nếu so sánh giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới trong việc bảo vệ tài nguyên không khí, có thể thấy một sự chênh lệch khá lớn trong phép so sánh này. Nếu như ở các nước này, việc ban hành một đạo luật về không khí sạch gần như là rất sớm trong hệ thống pháp luật về môi trường thì ở Việt Nam, hệ thống pháp luật về môi trường nói chung và bảo vệ các nguồn tài nguyên nói riêng gần như đã hoàn chính và tương đối đồng bô, nhưng chúng ta lại chưa có bất kỳ một văn bản nào riêng biệt về không khí sạch cả. So sánh đơn giản nhất là về hệ thống tiêu chuẩn môi trường có liên quan đến tài nguyên không khí.

Thực tế là việc ban hành một số tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam đã nới lỏng hơn so với một số tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới WHO. Lý do cơ bản là WHO quy định các tiêu chuẩn dựa trên nguyên tắc chỉ số tiêu chuẩn không gây ra tác động có hại đến sức khỏe con người do các chất ô nhiễm đó thấp hơn mức cho phép. Còn một số hướng dẫn về chất ô nhiễm của Việt Nam lại thể hiện mức yêu cầu thấp hơn so với các hướng dẫn chất lượng không khí của WHO. Mặt khác, ở Việt Nam, việc ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc khác nhau như “hệ thống tiêu chuẩn môi trường phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước”… Khi trình độ phát triển đang ở mức độ thấp, chúng ta cũng không thể ban hành một hệ thống tiêu chuẩn môi trường quá cao. Hay một nguyên tắc khác là “tiêu chuẩn môi trường phải đảm bảo sự tương xứng giữa khả năng kinh doanh, lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư với lợi ích về môi trường của đất nước”… Khi khả năng kinh doanh của các nhà đầu tư còn nhiều hạn chế, cơ hội cạnh tranh mà thấp thì chúng ta cũng không thể đưa ra một hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí ở mức độ quá khắt khe. Điều này dẫn tới việc một số tiêu chuẩn của Việt Nam đã quy định nới lỏng hơn so với quy định chung của WHO. Ví dụ như tiêu chuẩn Việt Nam cho phép lượng SO2 trong không khí lớn gấp 2 lần của WHO…

Chất ô nhiễm

Trong thời gian

TCVN

Tiêu chuẩn WHO

Bụi hô hấp

24 giờ

200 mg/m3

150 mg/m3

Sulfur Dioxide

24 giờ

300 mg/m3

125 mg/m3

Nitrogen Dioxide

24 giờ

100 mg/m3

150 mg/m3

Carbon Monooxit

8 giờ

100 mg/m3

100 mg/m3

 

(Nguån: TCVN vµ WHO)

Do đó, trong điều kiện và hoàn cảnh như Việt Nam hiện nay, chúng ta mới chỉ hy vọng về một hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở mức độ hoàn chỉnh theo trình độ phát triển của Việt Nam. Từ đó, việc hòa nhập và đáp ứng với thế giới mới có thể được đặt ra.

III.             YÊU CẦU ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ Ở VIỆT NAM

1. Những nội dung pháp luật bảo vệ không khí cần được thể hiện trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Hệ thống các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường Việt Nam thời gian qua chưa đề cập đến việc hạn chế những tác động tiêu cực gây ô nhiễm không khí ở mức độ hoàn chỉnh. Do đó, pháp luật cần chuyển tải cụ thể một số nội dung có liên quan đến bảo vệ không khí sau đây:

-   Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ không khí của Việt Nam cần xác định quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các tổ chức và cá nhân công dân trong việc hạn chế những tác động tiêu cực gây ô nhiễm không khí.

Pháp luật Việt Nam cần phải xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật về bảo vệ không khí. Pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và các quy định pháp luật về bảo vệ không khí nói riêng cần xác lập các hành vi xử sự thích hợp đối với môi trường, hạn chế gây ô nhiễm không khí. Trong môi trường sống chung, mỗi người cần nhận thấy trách nhiệm của mình trước cộng đồng, không thực hiện những hoạt động tiêu cực để bảo vệ cuộc sống của những người xung quanh và cũng là để bảo vệ cuộc sống cho chính mình. Nhưng không phải ai và lúc nào cũng có thể nhận thấy được trách nhiệm này. Do đó, pháp luật về bảo vệ không khí cần xác định cụ thể những việc “được làm”, những việc “phải làm” và những việc “không được phép làm”, sao cho sự tác động của các chủ thể gây ô nhiễm không khí ở mức độ nhỏ nhất. Pháp luật xác định các quyền nghĩa vụ của các chủ thể trong mối tác động qua lại với nhau và trong sự tác động vào môi trường.

Chủ thể cần được đề cập đến trong hệ thống pháp luật về bảo vệ không khí là các cá nhân, các tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp hay các cơ sở sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực bảo vệ không khí, sự tác động của các nhà máy, xí nghiệp trong sản xuất kinh doanh lớn hơn so với sự tác động của các cá nhân. Pháp luật về bảo vệ không khí sẽ điều chỉnh hành vi của các chủ thể này trong quá trình họ hoạt động. Việc thực hiện các quy định pháp luật của các chủ thể sẽ bị ràng buộc bởi một hệ thống các chế tài. Thông qua các trách nhiệm pháp lý như trách nhiệm Hình sự, trách nhiệm Dân sự, trách nhiệm Hành chính hay trách nhiệm Kỷ luật, pháp luật sẽ buộc các chủ thể phải tuân theo những điều đã được quy định. Việc cá nhân hay pháp nhân không thực hiện đúng những điều mà pháp luật về bảo vệ không khí quy định, sẽ bị coi là vi phạm pháp luật và chủ thể đó sẽ phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý này vừa có ý nghĩa trừng phạt những chủ thể vi phạm pháp luật về bảo vệ không khí, lại vừa có ý nghĩa răn đe đối với những chủ thể đang chuẩn bị thực hiện một hành vi vi phạm tương tự. Ví dụ: đối với cơ sở sản xuất kinh doanh phát thải khí ô nhiễm (như bụi hay COx) quá tiêu chuẩn cho phép, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ buộc họ phải khôi phục lại môi trường nếu gây thiệt hại, đồng thời sẽ phải nộp các khoản tiền phạt tương ứng. Những cơ sở lân cận nếu biết sẽ phải tự kiềm chế tốc độ xả thải của mình để tránh bị phạt như thế. Như vậy, việc quy định hệ thống tiêu chuẩn môi trường chính là việc xác lập khuôn mẫu xử sự cho các chủ thể trong xả thải khí ô nhiễm và việc quy định các loại trách nhiệm pháp lý sẽ rất có ý nghĩa trong việc buộc các chủ thể phải thực thi pháp luật về bảo vệ không khí.

-   Thứ hai, hệ thống pháp luật về bảo vệ không khí cần quy định cụ thể chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ cũng như cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Một trong những nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực nếu không có sức mạnh của Bộ máy nhà nước. Do đó, chúng ta cần phải có một bộ máy nhà nước đủ mạnh. Tuy nhiên, bộ máy nhà nước về bảo vệ không khí không thể hoạt động nhịp nhàng và có hiệu quả khi pháp luật về bảo vệ không khí chưa xác lập quyền hạn và nhiệm vụ của hệ thống cơ quan này. Vì vậy Bộ máy nhà nước có thẩm quyền sẽ được xác lập từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan có thẩm quyền chung cho tới các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn với các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể. Trên thực tế, việc xác lập quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cũng như các biện pháp pháp lý đối với những hành vi vi phạm sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có một bộ máy các cơ quan nhà nước vận hành và buộc các chủ thể phải thực thi chúng một cách đúng pháp luật.

Thông qua việc quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những nhiệm vụ cụ thể sẽ được phân định một cách rõ ràng: Cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm đánh giá hiện trạng việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ không khí, cơ quan nào sẽ có trách nhiệm giám sát hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh có nguy cơ gây ô nhiễm không khí, cơ quan nào sẽ có vai trò định hướng cho hoạt động phát triển sản xuất trong nước nhằm hạn chế việc phát thải khí ô nhiễm, hay chức năng thanh tra việc thực thi pháp luật về bảo vệ không khí sẽ thuộc về cơ quan nào…

Bên cạnh việc quy định một cách rất cụ thể trách nhiệm của từng loại cơ quan, thì pháp luật về bảo vệ không khí cần xác lập cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan đó. Các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ không khí sẽ không thể hoạt động có hiệu quả thực sự nếu không phối hợp với các cơ quan khác về bảo vệ môi trường nói riêng và các cơ quan khác trong các lĩnh vực khác nói chung. Trên thực tế thì không thể giao tất cả mọi nhiệm vụ cho một cơ quan thực hiện. Do đó, cơ chế thực hiện pháp luật của các cơ quan chức năng cần là một cơ chế liên ngành hay đa ngành thì mới có hiệu quả thực sự.

-   Thứ ba, việc xây dựng pháp luật về bảo vệ không khí phải gắn liền với việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên khác.

Chúng ta đều biết không khí là một lĩnh vực rất phức tạp. Nó chịu sự chi phối của rất nhiều các yếu tố môi trường, các nguồn tài nguyên khác nhau. Việc thực thi pháp luật về bảo vệ không khí sẽ không thể có hiệu quả đích thực nếu pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên không được xây dựng hoàn chỉnh. Có nhiều nguyên nhân tạo nên ô nhiễm không khí, như sự suy giảm của rừng, tốc độ khai thác mỏ với việc sử dụng các nguyên liệu hóa thạch, sử dụng lãng phí và gây ô nhiễm nguồn nước làm ảnh hưởng đến chu trình hoàn lưu nước trong tự nhiên… Muốn hạn chế ô nhiễm không khí, con người cần phải làm giảm những nguyên nhân của quá trình này, phải thực thi những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các nguồn tài nguyên có liên quan trực tiếp như rừng, nước hay khoáng sản… Vì vậy, các quy định về bảo vệ không khí cần phải được xây dựng trong một một hệ thống pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên hoàn chỉnh.

-   Thứ tư, pháp luật về bảo vệ không khí của Việt Nam cần quy định cụ thể các loại trách nhiệm pháp lý của các chủ thể khi họ thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

Các biện pháp chế tài luôn luôn là cần thiết khi thực hiện pháp luật về các lĩnh vực cụ thể. Do đó, muốn việc áp dụng hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí một cách thực sự hiệu quả, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần quy định cụ thể các loại trách nhiệm pháp lý. Giống như trong các lĩnh vực khác, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cần quy định bốn loại trách nhiệm pháp lý khi một chủ thể thực hiện hành vi vi phạm là trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm kỷ luật. Bên cạnh việc quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cần xác lập các loại trách nhiệm pháp lý này. Có như vậy pháp luật về bảo vệ môi trường không khí mới có thể được tuân thủ một cách nghiêm minh.

2. Những kiến nghị cụ thể.

·          Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường có liên quan đến bảo vệ môi trường không khí.

Có thể nói, hệ thống tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam trong thời gian qua đã ban hành được rất nhiều quy định mới tiến bộ và phù hợp với quan điểm phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, rất khó có một hệ thống tiêu chuẩn môi trường hoàn chỉnh toàn vẹn - đặc biệt là trong bối cảnh là một nước đang phát triển như Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó, chúng tôi xin kiến nghị một vài điểm có liên quan đến tiêu chuẩn môi trường không khí như việc cần quy định tổng lượng thải và thời gian xả thải cũng như quy định vị trí địa lý và không gian áp dụng tiêu chuẩn môi trường. Đây chính là những điểm còn khuyết thiếu trong việc ban hành tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. Những điểm khuyết thiếu này gây khó khăn rất nhiều cho việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí. Mặt khác, cũng cần cụ thể hóa việc áp dụng các quy định tiêu chuẩn môi trường. Tính đến tháng 3/2003, Việt Nam đã ban hành tất cả hơn 8000 tiêu chuẩn khác nhau, trong đó có tới gần 300 tiêu chuẩn về môi trường. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn môi trường liên quan đến biến đổi khí hậu quá chuyên sâu về các yếu tố kỹ thuật. Đối với các doanh nghiệp nói riêng và người dân nói chung, nếu muốn tìm hiểu những quy định về vấn đề này là rất khó khăn. Do đó, nếu muốn hệ thống tiêu chuẩn môi trường về bảo vệ môi trường không khí mang tính phổ biến và được áp dụng rộng rãi trong công chúng thì các cơ quan hữu quan nên có một hình thức tuyên truyền hoặc ban hành phù hợp để quảng đại quần chúng dễ chấp nhận hơn, như có thể xuất bản các cuốn sách hoặc tờ rơi hướng dẫn cụ thể việc áp dụng tiêu chuẩn môi trường trong hạn chế ô nhiễm không khí cho thật đơn giản và dễ hiểu với các đối tượng tiếp nhận. Ngoài ra, cũng cần ban hành, công bố công khai cũng như cập nhật thường xuyên giới hạn các laọi khí thải được phép thải vào môi trường để những chủ thể có liên quan có thể nắm bắt và thực thi chúng một cách có hiệu quả.

Có thể nói hiệu quả của bảo vệ môi trường nói chung và hạn chế những tác nhân gây ô nhiễm không khí nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào việc thực thi các quy định về tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế, muốn nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định này, cần phải bắt đầu ngay từ khâu ban hành. Việc xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn này có mang tính khoa học, đồng bộ và hoàn thiện thì việc áp dụng nó trên thực tế mới đạt được hiệu quả cao.

·            Thứ hai, cần ban hành những quy định nhằm kiểm soát việc sở hữu cũng như sử dụng các thiết bị phát thải khíô nhiễm. Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh sự kiểm soát việc sử dụng những thiết bị đó. Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này. Có ý kiến cho rằng ban hành những quy định pháp luật nhằm kiểm soát việc phát thải, phân loại theo các đối tượng khác nhau như các doanh nghiệp, hay các cơ sở sản xuất kinh doanh… Nhà nước có thể kiểm soát bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này trong quá trình hoạt động. Nhưng quy định việc kiểm soát như vậy rõ ràng là không khoa học bởi sẽ có những doanh nghiệp sản xuất nhưng không phát thải khí ô nhiễm và cũng sẽ có những tổ chức cá nhân không sản xuất nhưng vẫn phát thải khí ô nhiễm. Việc phân loại điều chỉnh theo đối tượng tác động như vậy sẽ gặp khó khăn và rắc rối trong quá trình quản lý cũng như trong việc xây dựng các quy định để áp dụng. Do đó, dù là đối tượng nào có sở hữu hay sử dụng các thiết bị có phát thải khí ô nhiễm thì đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Kiểm soát phát thải là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nếu như chúng ta chỉ đơn thuần giảm cơ học việc tác động vào môi trường thì nguy cơ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nền kinh tế sẽ xảy ra. Cho nên vẫn giữ nguyên mức độ sử dụng, nhưng chúng ta sẽ buộc chủ sở hữu hay chủ sử dụng những thiết bị đó phải có các thiết bị xử lý khí thải đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường.

·  Thứ ba, cần ban hành các loại phí chất thải. Đây vừa là một quy định pháp luật, nhưng đồng thời lại là một công cụ kinh tế nhằm hạn chế phát thải. Pháp luật hiện hành đã có quy định phí áp dụng đối với rác thải, nước thải, nhưng chưa hề có phí áp dụng đối với khí thải. Những đối tượng là các cơ sở sản xuất chưa bị áp dụng các mức phí rác thải, nước thải và khí thải riêng. Do đó, trước mắt, cần ban hành một văn bản riêng về phí chất thải trong đó bao gồm các quy định pháp luật liên quan đến việc các đối tượng có sở hữu hay sử dụng các thiết bị phát thải phải trả tiền nếu muốn xả thải khí ô nhiễm hoặc các khí thải độc hại khác. Phí chất thải cũng chính là phí đánh vào nguồn phát sinh ô nhiễm. Cần khuyến khích các chủ thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm và sử dụng công nghệ không gây ô nhiễm.

·          Thứ tư, cần ban hành đạo luật về không khí sạch. Một thực tế là Việt Nam chưa có luật về không khí sạch, cũng như chưa hề có bất kỳ một văn bản độc lập nào quy định về bảo vệ không khí. Ngay từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc ban hành pháp luật để bảo vệ nguồn tài nguyên này cũng chưa được quan tâm thích đáng. Điều này đi ngược lại với quy luật của các nước phát triển. Vì ở các nước này, luật về không khí sạch bao giờ cũng được ban hành rất sớm, hơn cả pháp luật về bảo vệ các nguồn tài nguyên khác. Không khí có một đặc thù là khó kiểm soát, nếu ô nhiễm không khí đã xảy ra thì rất khó khắc phục, mặc dù phải tốn kém về tiền bạc, về thời gian cũng như về công sức. Nó khác với rác thải hay nước thải. Nếu một con sông bị ô nhiễm, chúng ta có thể chặn đầu hai dòng sông để phục hồi, hoặc đối với rác thải thì chúng ta có thể thu gom lại và có các hình thức xử lý phù hợp. Còn không khí, khi khí thải đã thoát ra khỏi nguồn thì không thể quản lý được. Đến lúc này thì chỉ còn trông chờ vào hiệu quả của các bể hấp thụ khổng lồ, đó là tài nguyên rừng. Không khí có một đặc trưng cơ bản là sự lan truyền bất định. Vì thế, việc kiểm soát ô nhiễm khí thải phải bắt đầu ngay từ nguồn, chính xác là kiểm soát trước khi nó được thoát ra ngoài không khí. Do đó, việc ban hành ra một đạo luật về không khí sạch là một yêu cầu cấp thiết. Nhu cầu phải ban hành đạo luật này đã xuất hiện ở Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn này, khi mà phát triển kinh tế đang trở nên một thách thức lớn đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường.

 

 

 

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Khoa học Môi trường, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

[2] Cục Môi trường (2001), Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam 2001, Hà Nội.

[3] Cục Môi trường, Tạp chí Bảo vệ Môi trường số 5/2001, Hà nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] Vũ Thị Duyên Thủy (2001), Pháp luật về bảo vệ không khí ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

[7] Nguyễn Tuyên, Nguyễn Đức Tuân (2001), Những thảm họa của thế kỷ 20, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.

[8] Lưu Ngọc Tố Tâm (2003), Việc thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

 

 

NHU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ

TÀI NGUYÊN NƯỚC ĐẾN NĂM 2010.

Trần Đức Lưu

Cục Thuỷ lợi – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

I.  HIỆN TRẠNG TÀI NGUYÊN NƯỚC

1. Lưu vực sông

Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc với 2360 sông có chiều dài trên 10 km và 9 lưu vực sông có diện tích lưu vực trên 10.000 km2. Các lưu vực sông lớn nhất gồm sông Hồng và sông Mê Công với tổng diện tích gần bằng nửa diện tích lãnh thổ Việt Nam.

Việt Nam có nhiều con sông quốc tế. Tổng diện tích các lưu vực sông có một phần thuộc lãnh thổ Việt Nam gần bằng 1,2 triệu km2 - khoảng 3 lần diện tích đất nước, 91% của lưu vực sông Mê Công và 57% lưu vực sông Hồng thuộc bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Việt Nam có tiềm năng rất lớn về nguồn nước nhưng 75% tổng lượng dòng chảy mặt lại xuất hiện chỉ trong ba tháng mùa lũ.

2. Tổng lượng dòng chảy : trung bình năm từ Việt Nam là 835 tỷ m3, trên 60% con số này chảy vào từ ngoài lãnh thổ. Lượng dòng chảy trong vòng 6 – 9 tháng mùa khô chỉ chiếm khoảng 15 – 30% tổng lượng dòng chảy năm. Tổng lượng dòng chảy mặt trung bình năm là 598 tỷ khối ở sông Cửu Long, 137 tỷ trên sông hệ thống Hồng – Thái Bình, 37 tỷ trên hệ thống sông Đồng Nai và dưới 30 tỷ trên các con sông khác. Tổng dung tích các hồ chứa nước ở Việt Nam mới chỉ khoảng 2% của tổng lượng dòng chảy năm. Tổng sản lượng nước ngầm tiềm năng trong các tầng chứa nước nông dự tính khoảng trên 1800m3/s. Nhìn chung chất lượng nước ngầm tương đối phù hợp cho sinh hoạt, nước uống và sử dụng trong công nghiệp. Tuy nhiên việc khai thác nước ngầm ở một số thành phố và vùng ven biển còn bị hạn chế do nguồn nước bị nhiễm mặn.

Hệ sinh thái nước ngọt cũng đang bị ảnh hưởng bởi quá trình phát triển. Nước thải sinh hoạt và công nghiệp đã gây ô nhiễm nguồn nước. Sự thay đổi trong sử dụng đất đã tác động đến cả số lượng và chất lượng nước mặt đặc biệt ở các khu vực trung lưu và hạ lưu. Hậu quả làm cho nhiều hệ sinh thái nước ngọt bị xuống cấp hay phá huỷ. Sự xuống cấp vùng thượng nguồn lưu vực cũng đang là một vấn đề nghiêm trọng. Trên quy mô quốc gia độ phủ rừng đã bị giảm xuống từ 70% ở đầu những năm 40 xuống còn dưới 30% vào năm 1991 do hậu quả của việc chặt phá rừng và làm nương rẫy.

Vùng cửa sông ven biển có ở 29 tỉnh thành. Vấn đề đáng lưu ý ở đây là sự xuống cấp của các rừng đước. Sự suy giảm của các rừng này đã tới xấp xỉ 40% tạo nên tổn thất về đa dạng sinh học, nhiễm mặn, xói mòn đê biển và bờ sông và làm tăng tác động ô nhiễm.

3. Sử dụng nước

Nhu cầu nước cho các lĩnh vực chính trong năm 2000 xấp xỉ như sau:

Tưới và  chăn nuôi 85%, công nghiệp và dịch vụ 9%, cấp nước 3%, thuỷ sản 3%. Vào năm 2010 tỉ lệ này dự kiến như sau: tưới và  chăn nuôi 69%, công nghiệp và dịch vụ 26%, cấp nước 3%, thuỷ sản 2%. Mặc dù tổng nhu cầu nước sẽ tăng trong thời kỳ này nhưng sẽ giảm dần trong các thời kỳ tiếp theo do sự tăng nhanh nhu cầu nước trong công nghiệp.

Các khu cần được tiêu nhất chủ yếu ở các vùng đồng bằng. Tổng diện tích tiêu hiện nay khoảng trên 990.000 km2, trong đó gần một nửa là do tiêu bằng động lực.

Nhu cầu năng lượng ở Việt Nam tăng từ 10-12% một năm và còn tăng với mức như vậy trong tương lai. 20% năng lượng tiềm năng của Việt Nam (khoảng 30.000MW) có thể được khai thác. Hiện nay có trên 500 trạm thuỷ điện với công suất khoảng 4 tỷ kwh, hoặc 7% tiềm năng kinh tế.

Trong các năm gần đây cấp nước đã được cải thiện một cách đáng kể. Tất cả 61 tỉnh thành đã có hệ thống cấp nước, 140 trong số 547 huyện lỵ có hệ thống cấp nước. Tuy nhiên các nhà máy cấp nước thường cũ và xuống cấp còn các nhà máy mới chưa hoạt động hết công suất thiết kế. 50 - 60% dân số đô thị đã được cấp nước sạch trong khi đó nhiều thành phố khác con số phục vụ trên thấp hơn. Nhiều thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và các thành phố khác đang gặp nhiều khó khăn về nguồn nước. ở Việt Nam số dân nông thôn chiếm xấp xỉ 75%. Hiện tại 40% số dân nông thôn này sử dụng nước chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Vùng núi phía Bắc là nơi khó khăn nhất trong vấn đề cung cấp nước này.

Giao thông đường thuỷ nội địa chiếm khoảng trên 25% tổng khối lượng của ngành. Sự tăng trưởng hàng năm trong giao thông thuỷ xấp xỉ 10%.

Ngành thủy sản đã phát triển và đa dạng hoá một cách đáng kể trong những năm qua. Nhiều khu vực đang chuyển đổi các khu đất thấp ngập nước sang nuôi tôm. Sản lượng thuỷ sản và nuôi cá nước ngọt đã tăng 20% trong vòng 2 năm qua. Hy vọng sự tăng trưởng này còn cao hơn nữa và điều đó làm gia tăng nhu cầu nước.

4. Các khía cạnh xã hội trong sử dụng nước

Tiêu chuẩn xử lý nước ở các thành phố và đô thị lớn nói chung là tốt nhưng ở các thị xã nhỏ còn chưa đạt tiêu chuẩn. Người dân nông thôn thường không có nguồn nước sạch. Để kiểm soát ô nhiễm nước và ngăn chặn sự lây lan của các bệnh về nước, nhiều chương trình vệ sinh quốc gia đã được khởi xướng và tiến hành.

Các tiến bộ trong ngành nước đã giúp làm giảm đói nghèo trên mọi miền đất nước thông qua tạo việc làm, trong các dự án xây dựng, trong các hoạt động vận hành và bảo dưỡng công trình. Nhiều việc làm đã được tạo ra nhờ việc phát triển các công trình tưới cho nông nghiệp và các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản và các lĩnh vực khác.

Phụ nữ tham gia rất tích cực trong mọi khía cạnh của ngành nước ở Việt Nam. Họ tham gia trong các vị trí khác nhau về quản lý, chuyên môn và kỹ thuật trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác. Phụ nữ cung cấp phần lớn lao động trong các hoạt động bảo dưỡng các công trình thuỷ lợi, tưới tiêu và canh tác. Vai trò của họ trong ngành nước cần được tăng cường hơn nữa thông qua các cơ hội ra quyết định, trong các chương trình giáo dục truyền thông.

Cộng đồng các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% tổng dân số và 26% dân số các khu vực miền núi. Số dân này thường không đủ nước dùng, thiếu đất canh tác và các dịch vụ xã hội. Mặc dù chính quyền địa phương đã rất cố gắng để giải quyết các vấn đề này nhưng vẫn cần phải quan tâm hơn nữa trong cấp nước nông thôn, tưới cho các vùng cao để cải thiện và ổn định đời sống của đồng bào dân tộc ít người.

5. Bền vững

Những cạnh tranh không thể tránh khỏi giữa các hộ sử dụng nước, thậm chí giữa các hệ thống cấp nước là một thực tế khách quan. Cạnh tranh trong quản lý các hồ chứa đa mục tiêu và các công trình thuỷ lợi khác có thể giảm đi ở một mức độ nhất định nếu như áp dụng các kỹ thuật quy hoạch, quản lý, vận hành tiên tiến. Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông với sự tham gia của các bên khác cũng có thể giúp xây dựng nhận thức và hiểu biết về các phương án quản lý và phát triển. Các quy hoạch tổng thể này sẽ rất cần thiết và được coi là cơ sở cho việc cấp phép sử dụng nước mặt và nước ngầm.

Việc sử dụng kỹ thuật quản lý để bảo toàn nguồn nước tốt hơn và làm tăng giá trị sử dụng nước còn rất hạn chế ở Việt Nam. Sử dụng một phần phí thu từ nước và đào tạo cho người sử dụng, nhưng hình thức này không được tiến hành một cách nhất quán. Cần xây dựng một chính sách quản lý nhu cầu bên cạnh các chính sách về phí nước và sự bền vững về tài chính.

Cùng với cách tiếp cận tổng hợp hơn như bảo vệ vùng thượng nguồn hoặc giữ nước mưa, cũng cần sử dụng các biện pháp thông thường để khai thác tốt hơn nguồn nước.

II. CƠ SỞ HẠ TẦNG NGÀNH NƯỚC

1. Đập và hồ chứa

Hầu hết các đập và hồ chứa ở Việt Nam được xây dựng để phục vụ đa mục tiêu, bao gồm chống lũ, tưới, thuỷ điện, cấp nước và điều tiết dòng chảy. Hầu hết đã được đưa vào sử dụng trong vòng 20 – 30 năm. Trên toàn quốc hiện có khoảng 3500 hồ chứa nước các loại, trong đó có 20% có quy mô vừa và lớn (có dung tích trên một triệu m3 và cao trên 10m). Bồi lắng do suy giảm vùng thượng nguồn đang làm giảm khả năng giữ nước hồ chứa. Một số hồ khả năng chứa chỉ còn khoảng 30% công suất thiết kế.

2. Hệ thống tưới tiêu

Bên cạnh các công trình thuỷ lợi lớn và vừa đã đề cập trên đây, Chính phủ đã đầu tư lớn cho việc xây dựng và củng cố các hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nước ta hiện có 75 hệ thống công trình thuỷ lợi trung bình và lớn phục vụ một diện tích tưới khoảng 3 triệu ha, tiêu cho 1,4 triệu ha ở miền Bắc; 700.000ha được bảo vệ khỏi nhiễm mặn và 1,6 triệu ha đất được cải tạo ở đồng bằng sông Mê Công. Trong năm 2000 tổng diện tích trồng lúa được cấp nước tưới là 7 triệu ha với 3 vụ. Tổng lượng nước tưới chiếm khoảng 85 – 90% lượng nước tiêu thụ trên cả nước. Sự cố gắng trong việc cấp nước tưới đó cùng các nỗ lực khác trong nông nghiệp đã làm tăng sản lượng lương thực lên 1,1 triệu tấn một năm trong suốt 10 năm qua.

3. Hệ thống công trình phòng, chống lũ

Hệ thống công trình phòng, chống lũ, lụt ở miền Bắc, bao gồm hệ thống đê, các công trình phân lũ và chậm lũ. Hiện có khoảng 2700km đê, bảo vệ cho một khu vực khoảng 1400 km2 và cho 17 triệu người. Nhiều con sông ở miền Trung thường ngắn và dốc, khu vực lại có ít công trình chậm lũ, lại bị ảnh hưởng bởi triều cường đã làm cho khu vực này rất hay bị ảnh hưởng bởi lũ. Tuy đã có nhiều khu vực chậm lũ nhưng vẫn cần có chiến lược giảm nhẹ tổn thất khi các khu vực này phải đưa vào sử dụng. Lũ ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long xảy ra hàng năm làm ảnh hưởng từ 1-2 triệu ha trong thời gian từ 3 - 6 tháng. Ở khu vực này chiến lược phòng, chống lũ quan trọng nhất là sống chung với lũ và áp dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm thiểu tổn thất về người và của.

4. Hệ thống cấp nước

Hầu hết các thành phố và thị xã ở Việt Nam đều đã có hệ thống đường ống cấp nước. 50 – 60% dân số đã được cấp nước sạch. Tuy nhiên phần lớn các hệ thống không vận hành đủ công suất vì tổn thất thường từ 40 – 50%. Tại các khu công nghiệp hầu hết các công ty lớn đều tự giải quyết lấy nguồn nước.

5. Vệ sinh môi trường và hệ thống xử lý nước thải

Các hệ thống thoát nước đô thị cũ phải vận chuyển cả lượng nước mưa và nước thải, bao bồm các mương hở, mương có nắp, hệ thống cống ngầm và các hồ điều hoà. Nước thải sinh hoạt một phần được xử lý sơ bộ trong khi đó xử lý nước thải công nghiệp thì hầu như chưa được chú ý. Chính vì vậy các tuyến dẫn thoát nước đô thị và các khu vực xung quanh thường bị ô nhiễm rất nặng, đặc biệt tại các thành phố lớn.

III. ĐÁNH GIÁ

1. Chính sách và thể chế

* Điểm mạnh:

Chính phủ đặc biệt quan tâm đến ngành nước, đến việc sử dụng bền vững và sự phân phối công bằng nguồn tài nguyên này. Luật Tài nguyên nước đã có hiệu lực là một công cụ cơ bản để điều hành các hoạt động liên quan đến tài nguyên nước.

Cho đến nay một số chính sách và văn bản quy phạm pháp luật đã được soạn thảo và công bố các văn bản này hướng dẫn việc thực hiện Luật tài nguyên nước, công tác quy hoạch và các hoạt động thực tế. Hệ thống các cơ quan pháp luật và công cụ pháp lý đã được thiết lập sẽ bảo đảm việc thực hiện Luật Tài nguyên nước và các hoạt động khác có liên quan.

Việt Nam đã xác định rõ những yếu điểm trong ngành nước và đang từng bước khắc phục các yếu điểm này.

* Hạn chế:

Các chính sách và văn bản hướng dẫn Luật Tài nguyên nước còn chưa hoàn thiện. Các vấn đề quan trọng cần được giải quyết bao gồm quyền về nước và phân bổ nước, sự bền vững về tài chính của các công trình thuỷ lợi, phòng, chống lũ, lụt và các vấn đề khác.

Tuy nhiên, trong Luật Tài nguyên nước vẫn còn một số điểm cần bổ sung. Luật này còn chưa đề cập các quy định về các vùng bảo hộ vệ sinh cũng như chưa đề cập một cách rõ ràng các yêu cầu về bảo vệ môi trường sinh thái.

Năng lực xây dựng các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật theo Luật Tài nguyên nước còn hạn chế. Điều này đòi hỏi sự phối hợp tốt hơn giữa các Bộ, ngành và các địa phương, cũng như việc tăng cường công tác đào tạo trong cách tiếp cận chiến lược về quản lý tổng hợp tài nguyên nước.

Nhận thức về Luật Tài nguyên nước, các văn bản dưới luật và phương thức thực hiện các vấn đề này đang còn ở mức thấp.

2. Cơ cấu thể chế

* Điểm mạnh

Theo quy định của Luật Tài nguyên nước thì trách nhiệm chính trong thực hiện chức năng quản lý tài nguyên nước là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Điều này cho phép quản lý các vấn đề về nguồn nước tập chung. Các vai trò quan trọng khác thuộc các Bộ, ngành liên quan.

Quá trình cải cách hành chính đang được thực hiện toàn diện trong Chính phủ, bao gồm cả Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Quá trình này sẽ giúp định ra được những vấn đề quan trọng như cơ cấu lại các cơ quan trong Chính phủ, loại bỏ những chức năng còn chồng chéo ở các cơ quan và hoàn thiện quy chế tuyển công chức, chế độ lương và phúc lợi.

Theo Luật tài nguyên nước Hội đồng Quốc gia về tài nguyên nước và các Ban quản lý quy hoạch lưu vực sông đã được thành lập và đang được củng cố và hoạt động năng động. Điều này đã tạo tiền đề cho việc phối hợp đưa ra các quyết định sau này ở cấp quốc gia cũng như cấp lưu vực.

Mối quan tâm của các nhà tài trợ và vấn đề phát triển ngành nước có một ý nghĩa lớn. Đã có nhiều nỗ lực nhằm trợ giúp hợp tác thông qua mạng lưới cộng tác vì nước, chính thức phân công công việc, trao đổi thông tin, cùng tài trợ và xây dựng chương trình.

* Hạn chế

Hiện nay theo cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa thực tương ứng đầy đủ chức năng của mình là cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Một số vấn đề cụ thể như: sự cần thiết tách quản lý nhà nước về nước từ quản lý tưới và các công trình thuỷ lợi; tăng cường và phối hợp các chức năng liên quan đến nước giữa các Cục, Vụ cần được làm rõ.

Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành còn yếu. Một số chức năng của các Bộ còn chồng chéo gây nên sự lãng phí nguồn lực và làm mất cơ hội.

Cần nâng cao năng lực của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước. Các thành viên Hội đồng cần nâng cao nhận thức. Văn phòng Hội đồng Quốc gia về tài nguyên nước cần được tăng cường về các lĩnh vực tổ chức, cán bộ, phối hợp làm việc giữa các Bộ, ngành.

Vai trò của cơ quan quản lý quy hoạch lưu vực sông còn chưa rõ ràng. Mức độ tham gia của tổ chức này trong việc đưa ra những quyết định, việc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn điều hành cơ quan quản lý lưu vực sông và đại diện các Bộ, ngành cũng như các tỉnh là những vấn đề cần phải được xem xét giải quyết dựa trên mô hình quốc tế và kinh nghiệm của Việt Nam.

3. Quản lý thông tin

Dữ liệu và thông tin về tài nguyên nước vẫn còn rất phân tán ở nhiều Bộ và nhiều ngành khác nhau. Việc tiếp cận nguồn thông tin dữ liệu này còn khó khăn, tốn kém và mất nhiều thời gian. Số liệu chưa được biên tập và trình bày cho dễ tiếp cận. Việc hình thành Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ hạn chế được tình trạng trên tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào việc phân công cụ thể của bộ cho từng lĩnh vực thuộc Bộ. Cơ chế trao đổi thông tin hiện đang được xây dựng và sẽ được triển khai thực hiện.

Mạng lưới giám sát ở các sông, giám sát nước ngầm còn hạn chế. Số lượng các trạm còn thiếu nhiều, chất lượng dữ liệu chưa tốt. Công tác giám sát và đánh giá chất lượng nước mặt, nước ngầm cần được tăng cường.

Mạng lưới quan trắc tài nguyên nước mặt và đặc biệt với nước ngầm còn chưa đủ, số trạm đo còn thiếu nhiều so với yêu cầu của tiêu chuẩn và chất lượng dữ liệu còn chưa tốt, mối liên kết giữa nước ngầm và nước mặt còn chưa được điều tra đo đạc.

Thông tin phục vụ dự báo cảnh báo lũ, lụt và phòng, chống lũ còn hạn chế.

4. Quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước

* Điểm mạnh

Luật Tài nguyên nước cung cấp một cơ sở pháp lý để thực hiện quy hoạch tổng hợp về tài nguyên nước ở mọi cấp. Một hệ thống các học viện quốc gia về quy hoạch tài nguyên nước đã được thiết lập ở cấp quốc gia.

Trợ giúp của các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế đang hỗ trợ để xây dựng năng lực cho các học viện này.

Quy hoạch chi tiết đã được thiết lập ở một số lưu vực. Các quy hoạch này đã tập trung vào việc phát triển tài nguyên nước thông qua quy hoạch tổng thể lưu vực sông và dự án quy hoạch.

* Hạn chế

Chưa có một chiến lược tổng thể riêng và chính thức về phát triển và quản lý tài nguyên nước ở cấp quốc gia. Cũng chưa có các quy hoạch tổng hợp về phát triển và quản lý tài nguyên nước lưu vực sông cho các lưu vực sông lớn.

Công tác lập quy hoạch chưa được thực hiện một cách chiến lược hoặc đạt mức chuyên nghiệp cao. Còn thiếu các công cụ quy hoạch hiện đại cũng như thiếu nguồn lực bao gồm các phần mềm tính toán, các cán bộ kinh nghiệm được đào tạo ở cấp cao và các hướng dẫn khác. Trong công tác lập quy hoạch lưu vực sông cần tăng thêm các khía cạnh về kỹ thuật, tư vấn và giải quyết tranh chấp. Tiêu chí và tiêu chuẩn về chống lũ cho hạ du chưa được xác định cho toàn lưu vực và chưa được hoạch định trên cơ sở luận chứng kinh tế kỹ thuật toàn diện.

5. Cơ sở hạ tầng

* Điểm mạnh

Chính phủ ưu tiên cao cho việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng thuỷ lợi trong một thời gian dài. Vì vậy một hệ thống cơ sở hạ tầng rộng khắp đã và đang được xây dựng ở mọi địa phương trong toàn quốc.

Nhiều dự án đa mục tiêu đã được xây dựng với sự tham gia liên ngành và những hộ dùng nước. Các hệ thống tưới được xây dựng trên quy mô toàn quốc để đáp ứng các nhu cầu cơ bản về nước.

Các lĩnh vực khác như thuỷ điện và cấp nước sinh hoạt đô thị và công nghiệp cũng được quan tâm xây dựng …

* Hạn chế

Mức độ bền vững về tài chính của các công trình thuỷ lợi tương đối thấp. Vì vậy hoạt động khai thác và bảo dưỡng của các công trình đó kém hiệu quả.  

Các biện pháp quản lý nhu cầu hiện nay còn chưa được nhân rộng và bổ sung hoàn thiện nên tình trạng sử dụng nước lãng phí còn phổ biến.

Phạm vi phục vụ về mặt địa lý của các hệ thống cấp nước tưới còn hạn chế và thiếu đều khắp, ở vùng xa xôi và vùng núi còn thiếu hệ thống tưới. Hệ thống đê sông còn chưa đủ vững chắc ở một số nơi.

6. Nguồn tài chính

Vốn cho quản lý và phát triển tài nguyên nước còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành, trong đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải, nặng về đối phó với thiên tai chưa tập trung trọng điểm, một số công trình xây dựng còn để kéo dài không phát huy hiệu quả từ đầu tư.

Thiếu chiến lược tài chính dài hạn bao gồm ngân sách nhà nước, tài trợ quốc tế, đầu tư tư nhân và phí sử dụng.

Khả năng đầu tư trực tiếp từ trung ương cho các công trình thuỷ lợi, nhất là các công trình cỡ vừa và nhỏ còn hạn chế. Trợ giá của nhà nước và thuỷ lợi phí còn chưa đủ đáp ứng phí vận hành và sửa chữa.

Trách nhiệm về ngân sách giữa trung ương và địa phương chưa được làm rõ. Thiếu năng lực tài chính ở cấp địa phương có nghĩa là một số đầu tư ở địa phương không thể tiến hành được.

Giá đền bù cho việc giải phóng mặt bằng và cơ chế của nó còn là vấn đề khó khăn tạo nên sự chậm trễ trong thực hiện đúng tiến độ xây dựng. Các vấn đề về đấu thầu và giá bỏ thầu quá thấp thường tạo nên chất lượng công trình thấp và làm chậm tiến độ thực hiện dự án.

7. Quy chế tài nguyên nước và giải quyết tranh chấp

* Điểm mạnh

Luật tài nguyên nước cung cấp một công cụ hữu hiệu cho các quy định về tài nguyên nước bao gồm việc phê duyệt dự  án, đăng ký và cấp phép sử dụng nước và xả nước thải, thanh tra và tăng cường hiệu lực.

Một số hoạt động giải quyết tranh chấp đang được tiến hành ở trung ương và cấp tỉnh, giải quyết tranh chấp hiện đang được xúc tiến ở mức độ nhất định đối với các vấn đề quốc tế thông qua các nỗ lực đa phương và song phương.

* Hạn chế

Thanh tra và tăng cường hiệu lực cũng như công tác giải quyết tranh chấp cần được tăng cường và phối hợp tốt hơn.

8. Đào tạo và nguồn nhân lực

* Điểm mạnh

Việt Nam có hệ thống các trường đại học, cao đẳng và các trường kỹ thuật cung cấp đào tạo ở mọi cấp học cho ngành nước.

Các cán bộ trẻ công tác trong ngành nước hiện nay đang ra sức tự đào tạo mình thông qua việc tự học tập nâng cao trình độ.

* Hạn chế

Mức độ nhận thức, năng lực của đội ngũ nhân viên ở mọi cấp về quản lý, quy hoạch tổng hợp và các vấn đề khác còn hạn chế đặc biệt ở cấp địa phương. Cần tăng cường hiểu biết và cam kết thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở các cấp trung ương.

Đào tạo trong quy hoạch và quản lý tổng hợp lưu vực sông cần có các kỹ thuật mới, phương pháp, mô hình mới kết hợp với việc tham vấn, đàm phán, và các kỹ thuật giải quyết tranh chấp.

Đào tạo và trợ giúp kỹ thuật cần được trang bị để động viên việc vận dụng quản lý tổng hợp tài nguyên nước đối với các lĩnh vực như phòng, chống và giảm nhẹ tác hại do nước gây ra.

Cần thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính để giải quyết các vấn đề cán bộ như tuyển chọn, lương và lợi ích.

Đào tạo ngành vẫn dựa trên các phương pháp truyền thống. Các khái niệm kỹ thuật mới cần được bổ xung vào chương trình đào tạo. Đào tạo ở cấp địa phương như tỉnh, huyện, xã còn rất hạn chế. Công tác tái đào tạo và đào tạo cho các đào tạo viên cần được cải tiến.

Các trường đại học và các loại hình trường khác cần giải quyết vấn đề nhu cầu nêu trên.

9. Giáo dục, nhận thức và tham vấn

* Điểm mạnh

Việt Nam đã hình thành các loại trường đào tạo trên các vùng của đất nước cung cấp các hoạt động giáo dục và đào tạo.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rất chú ý tăng cường chất lượng và mở rộng phạm vi các hoạt động giáo dục liên quan đến sử dụng nước, quản lý các công trình thuỷ lợi nhỏ …

Tham gia của người sử dụng nước trong quản lý và phát triển tài nguyên nước đang ngày càng được nhà nước động viên, khuyến khích. Việc tham vấn với người tham gia được thực hiện khá tốt.

* Hạn chế

Phối hợp và tham vấn giữa các bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương cần được cải thiện hơn nữa. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần nắm vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ tham vấn và phối hợp này.

Nâng cao nhận thức về tài nguyên nước còn nhiều hạn chế. Hầu hết các hoạt động này được tiến hành trong khuôn khổ các dự án và được dự án tài trợ. Các hoạt động tham gia của cộng đồng cần được xây dựng thành các phong trào quần chúng.

IV. CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LIÊN QUAN TỚI TÀI NGUYÊN NƯỚC

Kế hoạch và chiến lược quốc gia tổng quát nhất đã được xây dựng và trình bày trong “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010” là tài liệu tổng hợp bao gồm các chính sách quốc gia về phát triển bền vững tài nguyên nước. Thêm vào đó, hầu hết các bộ ngành cũng đã xây dựng chiến lược phát triển riêng của ngành mình.

Các kế hoạch phát triển tài nguyên nước do một số ngành xây dựng vào các thời điểm khác nhau, gồm có:

- Kế hoạch phát triển thuỷ lợi đến năm 2000 và định hướng đến năm 2010 (Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, 6/1998);

- Phương hướng, nhiệm vụ phát triển thuỷ lợi đến năm 2010 (Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, 9/1999);

- Tăng cường bảo vệ môi trường trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Chỉ thị 36/CT-TW, Đảng CSVN, 1998);

- Kế hoạch phát triển nông nghiêp, nông thôn 2001-2005 (Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn);

- Chiến lược quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn;

- Chiến lược quốc gia lần thứ hai và kế hoạch hành động quản lý và giảm nhẹ thiên tai ở Việt nam 2001-2020 (Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ban chỉ đạo phòng, chống lụt, bão Trung ương).

1. Tưới tiêu

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt nam 2001 - 2010 đã thiết lập các mục tiêu đảm bảo tưới tiêu an toàn và chủ động cho sản xuất nông nghiệp (bao gồm cả cây công nghiệp và thuỷ sản), bảo đảm đời sống cuả nông dân. Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thuỷ lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1999) đã đề ra các mục tiêu tưới, tiêu sau đây:

- Khu vực đồng bằng sông Hồng: khôi phục và nâng cấp 17 hệ thống thuỷ nông để nâng mức ổn định tưới lên 86 vạn ha, tăng 4,4 vạn ha và 6 vạn ha tiêu úng;

- Miền Trung: Xây dựng các hồ chứa ở khu vực thượng lưu, cải tạo và nâng cấp các hồ chứa hiện có để trữ nước tưới và chống hạn;

- Đồng bằng sông Mê Công: tới năm 2000 cung cấp nước tưới cho 2,9 triệu ha lúa và 380000 ha cây trồng khác, đảm bảo cấp nước cho các mục đích sinh hoạt và tưới tiêu.

- Miền núi Phía Bắc – tới năm 2000, đảm bảo nước tưới cho 270000 ha lúa, 30000 ha cây công nghiệp, nâng cấp và cải tạo các hệ thống thuỷ lợi, đặc biệt ưu tiên các công trình tưới nước nhỏ.

- Tây nguyên: hoàn thành xây dựng các công trình thuỷ điện qui mô lớn, xây dựng hệ thống kênh mương để phục vụ tưới.

- Đông Nam Bộ: nâng cao hiệu suất công trình Dầu Tiếng, chuẩn bị điều kiện để xây dựng các hệ thống tưới lớn. Tập trung đầu tư nâng cấp hiệu suất các công trình thuỷ lợi hiện có, nâng hiệu quả đạt 80% công suất thiết kế. Cho tới năm 2010, tiếp tục mở rộng đầu tư đảm bảo cấp nước 124,3 tỷ m3, trong đó 88 tỷ m3 nước sử dụng cho nông nghiệp.

Báo cáo về chiến lược phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 7/2000) đưa ra các mục tiêu sau đây:

- Tập trung đầu tư nâng cấp hiệu quả sử dụng các công trình thuỷ lợi hiện có, nâng hiệu qủa đạt 80% công suất thiết kế, tăng diện tích tưới;

- Tiếp tục đầu tư hoàn thiện các công trình phục vụ tưới và cấp nước;

2. Phòng chống lũ

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 cũng như các kế hoạch, chiến lược ngành đã nêu rõ đối với các vùng thường xuyên bị tác động của bào lũ cùng với các biện pháp giảm nhẹ thiên tai cần cơ cấu lại sản xuât và phân bố dân cư để thích nghi với đìều kiện tự nhiên. Nâng cao năng lực dự báo thời tiết và chủ động phòng chống thiên tai để hạn chế thiệt hại.

Các mục tiêu phòng chống lũ trình bày trong Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn 2001-2005 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 8-2000), bao gồm:

- Củng cố hệ thống đê sông Hồng và sông Thái bình; đảm bảo an toàn kết cấu đê để chống được mức lũ 13,30 tại Hà nội và 7,21 tại Phả lại. Đảm bảo hệ thống đê sông khu bốn cũ chống được các trận lũ lịch sử;

- Tăng cường hệ thống đê biển, đảm bảo chống được bão cấp 9, cấp 10; xây dựng hệ thống đê biển ở đồng bằng sông Mê Công để bảo vệ sản xuất lương thực;

- Xây dựng các qui định hướng dẫn vận hành hồ chứa và các nghiên cứu khả thi cho việc xây dựng các hồ chứa điều tiết lũ.

Tài liệu này cũng đề cập đến các kế hoạch liên quan khác như trồng rừng, các biện pháp phân lũ, tăng cường công tác dự báo lũ và các giải pháp khác.

Trong “Chiến lược quốc gia lần thứ hai và kế hoạch hành động quản lý và giảm nhẹ thiên tai ở Việt nam 2001-2020“ (Ban phòng, chống lụt, bão Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 12-2001)  giải pháp được nêu là đối với khu vực Bắc bộ, hệ thống đê sông sẽ được củng cố để chống được mức bảo vệ thiết kế.  Các giải pháp công trình và phi công trình sẽ được thực hiện để để phòng tránh lũ và giảm nhẹ tác động xấu.

Đối với khu vực miền Trung, hạn chế, phòng tránh và giảm nhẹ tác hại của lũ là hướng chủ yếu cùng với việc mở rộng đường thoát lũ  và dòng chảy để tạo thêm không gian thoát lũ. Ngăn chặn nhiễm mặn và kiểm soát xả nước ngọt sẽ là những ưu tiên trong chiến lược giảm nhẹ thiên tai và lũ lụt tại khu vực này.

Đối với khu vực sông Mê Công, chung sống với lũ sẽ là một tư tưởng chủ đạo trong các hoạt động phòng chống lũ lụt ở đây. Qui hoạch cơ cấu cây trồng cần phải phù hợp với điều kiện tự nhiên của khu vực.

3. Cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn

Mục tiêu quốc gia về cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn là cung cấp nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia cho mọi người dân ở mức 60 lít/ người/ ngày vào năm 2020 và sử dụng các hố xí hợp vệ sinh. Các nguồn vốn khác nhau sẽ được sử dụng để tăng số người và số lượng nước cấp tính theo bình quân đầu người. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu quốc gia cần phải tiếp tục đầu tư và huy động mọi nguồn vốn đặc biệt là đóng góp của các hộ gia đình.  Hoạt động này muốn có  tác dụng cần phải được hỗ trợ bởi chương trình giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức.

Theo Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước tới năm 2010 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 7-2000) thì mục tiêu cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn như sau:

- Lựa chọn các hình thức cung cấp nước sạch cho các khu vực cụ thể, ở khu vực đồng bằng cần tận dụng sự sẵn có nguồn nước mặt cho cấp nước nông thôn theo hình thức như cấp nước đô thị;

- Đối  với vùng cao và miền núi cần tăng cường sử dụng các bể chứa nước và các hình thức trữ nước khác để cung cấp đủ nước sạch cho người dân nông thôn;

- Đến năm 2005 phấn đấu đạt 80% hộ gia đình ở nông thôn được cấp nước sạch.

Chiến lược cung cấp  nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã nêu ra các mục tiêu sau:

- Đến năm 2020 cung cấp nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia cho toàn bộ người dân nông thôn ở mức 60 lít/ người/ ngày;

- Đến năm 2010, 85% người dân nông thôn có nước sạch với mức 60 lít/người /ngày và 70% gia đình sử dụng nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn.

4. Thuỷ điện

Phát triển thuỷ điện là một phần của chiến lược năng lượng nói chung. Việc phát triển thuỷ điện cần sử dụng hợp lý nguồn nước (kết hợp bảo toàn nguồn nước), khí ga và than để phát triển nguồn điện năng một cách cân đối. Do việc xây dựng các cơ sở thuỷ điện thường khó khăn có tính tới độ gia tăng nhu cầu phụ tải khoảng 13%/năm (tương đương mức đầu tư 1,5 tỷ đô la), trong tương lai dự kiến thuỷ điện sẽ có tỷ trọng nhỏ hơn mức hiện nay trong cân đối cung cấp năng lượng quốc gia (60% vào năm 2005, 40% vào năm 2010 và 28% vào năm 2020).

Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001-2010 đã đề cập tới một số định hướng về phát triển thuỷ điện cho các khu vực khác nhau như sau:

- Khu vực trung du và miền núi phía  Bắc xúc tiến nghiên cứu xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La. Các công trình bảo toàn nước qui mô nhỏ sẽ được xây dựng cùng với các nhà máy thuỷ điện nhỏ để cung cấp điện kết hợp với cấp nước cho nhân dân vùng cao;

- Khu vực Tây nguyên mục tiêu là xây dựng các nhà máy thuỷ điện vừa và lớn, cùng với các hồ chứa giữ nước.

Chiến lược chi tiết về phát triển thuỷ điện hiện đang được Bộ Công Nghiệp tiến hành (Tổng Công ty điện lực Việt Nam và các cơ quan khác) trong quá trình nghiên cứu kế hoạch phát triển thuỷ điện quốc gia. Dự thảo báo cáo cuối cùng đã được hoàn thành trong đó đã xác định các nhà máy thuỷ điện tiềm năng. Cần lưu ý rằng các giai đoạn thực hiện đã vạch ra chỉ mới là tổng quan vì chúng ta còn thay đổi tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển năng lượng tổng thể của quốc gia và các yếu tố quan trọng khác như quy mô cuối cùng của nhà máy thuỷ điện Sơn La trong hệ thống năng lượng.

5. Thuỷ sản

Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001-2010 đã đề cập đến các mục tiêu sau đây cần đạt được đối với ngành thuỷ sản:

“ Phát huy lợi thế về thuỷ sản ngư nghiệp, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nhất là nuôi tôm theo phương pháp tiến bộ, hiệu quả và bền vững về mặt môi trường... giữ gìn môi trường biển, sông, nước, bảo đảm cho sự tái tạo và phát triển nguồn lợi thuỷ sản”.

Chính sách đầu tư ngành thuỷ sản khuyến khích phát triển lợi ích của nông dân và ngư dân nghèo có khả năng lao động và có đất để nuôi trồng thuỷ sản. Vốn vay ưu đãi được giành cho các hộ vùng sâu vùng xa hoặc hải đảo theo quy định hiện hành. Chính sách đầu tư của Chính phủ cũng quy định về việc đầu tư cho sản xuất thuỷ sản với quy mô lớn hơn về các mặt như cấp vốn cho quy hoạch, xây dựng các kênh cấp thoát nước chính, cống lớn và các trạm bơm, cảng cá. 

Trong 5 năm tới, hệ thống công trình thuỷ lợi sẽ tiếp tục được hoàn thiện, bao gồm cả các công trình chống nhiễm mặn và phục vụ nuôi trồng thuỷ sản ở đồng bằng sông Cửu Long.

6. Giao thông

Theo quy hoạch tổng thể giao thông đường sông Việt Nam cho tới năm 2020, ưu tiên tăng tỷ lệ đóng góp của giao thông đường sông lên tới 25% - 30% tổng khối lượng và mật độ giao thông. Điều này có nghĩa là chính sách ngành đã lựa chọn giao thông thuỷ trở thành phương tiện quan trọng trong chiến lược phát triển. Để làm được điều này, ngành sẽ tập trung vào một số biện pháp như xây dựng cảng, nâng cấp kênh mương. Ngoài ra, chính sách đầu tư cũng chỉ ra các phương pháp huy động sự đóng góp của các bên tham gia hoặc đầu tư của Chính phủ cũng như tài trợ nước ngoài.

7. Bảo vệ môi trường

Chỉ thị của Đảng “Tăng cường bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước” đã cung cấp những định hướng về tăng cường hiểu biết, ý thức bảo vệ môi trường và thực hiện Luật Bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường sẽ là tiêu điểm quan tâm của rất nhiều cơ quan và tổ chức. Nhiều nguồn vốn sẽ được dành cho việc cải thiện cơ sở hạ tầng và kỹ thuật đánh giá môi trường và bảo vệ môi trường, sử lý chất thải.

Nhận thức rõ việc quá trình công nghiệp hoá và đô thị hóa sẽ tạo nên áp lực lớn hơn đối với môi trường, Chính phủ dự định:

- Tăng cường nhận thức và vai trò của các cơ quan Chính phủ để bảo đảm cho công tác bảo vệ môi trường sẽ được xem xét cẩn thận trong các quyết định phát triển kinh tế xã hội;

- Công nghệ sạch được phát triển để giảm lượng chất thải từ các hoạt động sản xuất;

- Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý môi trường ở mọi cấp để cải thiện công tác quan trắc và đánh giá môi trường;

- Tăng cường công tác truyền thông và nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường bao gồm việc đóng góp tự nguyện về nhân lực và vật tư để cải thiện môi trường.

8. Cơ chế chính sách về nước.

- Chính sách đầu tư cho xây dựng, nâng cấp công trình huy động các nguồn vốn trong, ngoài nước và sự đóng góp của dân trong vùng nhất là trong khôi phục, nâng cấp kiên cố hoá kênh mương. Tỷ lệ phân công vốn đầu tư 3/4/4 hoặc 4/4/2 (trong đó có kể đến đầu tư cho ứng dụng khoa học công nghệ).

- Chính sách tài chính về nước : quy định mức đóng góp (hay thuỷ lợi phí) đối với những người sử dụng nước, nhằm nâng cao trách nhiệm của họ trong việc sử dụng nước, giảm mức bao cấp của Nhà nước  và có vốn cho vận hành – bảo dưỡng được chủ động. Gắn chặt giữa công tác đầu tư xây dựng, khai thác sử dụng tài nguyên nước, phòng chống thiên tai lũ lụt với nghĩa vụ đóng góp tài chính của các hộ dùng nước.

- Chính sách ưu tiên cộng đồng : gắn công tác thuỷ lợi với các chính sách xã hội trong việc giải quyết nước tưới, sinh hoạt cho nhân dân, nhất là ở vùng cao, góp phần xoá đói giảm nghèo, định canh định cư, hạn chế nạn phá rừng.

- Chính sách phục vụ cho xã hội hoá về thuỷ lợi : Nhằm khuyến khích sự tham gia của người dùng nước từ khâu quy hoạch, xây dựng và quản lý để nâng cao hiệu quả đầu tư.

- Các văn bản về xử phạt hành chính: quy định việc thưởng, phạt khi có hành vi phá hoại công trình, gây ô nhiễm nguồn nước, nhằm không ngừng nâng cao trách nhiệm của người quản lý và hưởng lợi trong lưu vực.

9. Công tác quản lý tài nguyên nước và công trình thuỷ lợi

Tăng cường công tác quy hoạch phát triển tài nguyên nước để làm cơ sở cho quản lý thống nhất tài nguyên nước của các lưu vực sông, bao gồm :

- Tiến hành rà soát bổ sung các quy hoạch lưu vực và các tỉnh theo hướng khai thác, sử dụng tổng hợp, phát triển bền vững tài nguyên nước theo lưu vực sông như Luật Tài nguyên nước quy định;

- Kiểm kê đánh giá tài nguyên nước mặt, nước ngầm (cả về số lượng lẫn chất lượng), lập ngân hàng dữ liệu quản lý tài nguyên nước; lập mạng lưới tạm giám sát chất lượng nước, phòng chống ô nhiễm nguồn nước và khôi phục các nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt;

- Tiến hành công tác điều tra, thống kê các hộ dùng nước, thải nước làm cơ sở cho việc cấp phép khai thác sử dụng nước và thải nước; tiến hành cấp phép khai thác sử dụng và xả nước thải vào nguồn nước.

10. Các chiến lược khu vực liên quan đến tài nguyên nước

Cùng với các mục tiêu của ngành, chiến lược phát triển kinh tế vùng cũng được xây dựng. Đây là những chính sách toàn diện nhằm thúc đẩy các thế mạnh trong vùng, góp phần vào quá trình phát triển, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đảm bảo phát triển hài hoà giữa các vùng. Các chính sách này dựa trên các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và các nguồn tự nhiên ở mỗi vùng. Tài nguyên nước cũng là  một nhân tố quan trọng trong chiến lược quốc gia về phát triển toàn diện.

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 đã nêu rõ:

“Các khu vực kinh tế tập trung cần đảm bảo một mức tăng trưởng cao hơn mức trung bình, đóng góp to lớn hơn vào sự phát triển của toàn bộ đất nước,  giúp đỡ tích cực các khu vực khác, đặc biệt là các khu vực có khó khăn để cùng phát triển.”

“Các vùng và các khu vực cần tận dụng những lợi thế để phát triển, tạo nên sức mạnh riêng của từng vùng trong cơ cấu nền kinh tế mở có xét đến nhu cầu của thị trường tiêu dùng bên ngoài. Nhà nước sẽ tiếp tục thúc đẩy các khu vực kinh tế đóng vai trò đầu tàu của sự tăng trưởng nhanh chóng trong khi tạo điều kiện và đầu tư hơn nữa cho các vùng có khó khăn.”

Chiến lược này cũng nêu rõ một số vấn đề liên quan đến nước trong các khu vực cụ thể:

Vùng trung du và miền núi phía Bắc: Đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ ở những nơi có tiềm năng canh tác. Tăng cường việc tái trồng rừng ở vùng rừng thượng nguồn sông Đà đi đôi với việc ổn định đời sống đồng bào dân tộc thiểu số để họ bảo vệ rừng đầu nguồn. Xây dựng các công trình thủy điện qui mô lớn để đáp ứng nhu cầu của đất nước và và xây dựng các nhà máy thuỷ điện nhỏ để cung cấp điện cho các vùng sâu vùng xa.

Vùng Bắc Trung bộ: hoàn thiện xây dựng các công trình thuỷ lợi kết hợp với chức năng điều tiết lũ. Xây dưng một số công trình giảm lũ đồng thời với việc qui hoạch phòng lũ ở miền Trung. Tiến hành các giải pháp phòng, chống để chống đỡ với các hiện tượng lũ lụt hạn hán.

Tây nguyên:  Xây dựng các công trình thuỷ lợi, đặc biêt là các nhà máy thuỷ điện, đập cùng với việc xây dựng các hệ thống kênh dẫn.

Đồng bằng sông Cửu Long: Xây dựng và củng cố hệ thống đê biển cho vùng ven biển phía Đông và Tây và các công trình ngăn mặn và nuôi trồng thủy sản.

V. NĂNG LỰC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC

1. Cơ sở pháp lý

1.1 Luật Tài nguyên nước và các văn bản dưới luật

Luật Tài nguyên nước đã được Quốc Hội thông qua tháng 5/1998. Một số Nghị định cũng được xây dựng giúp thực hiện các điều khoản của Luật. Luật Tài nguyên nước ra đời khẳng định trách nhiệm của Chính phủ trong quản lý và bảo vệ tài nguyên nước, nó cũng chỉ ra rằng “Tài nguyên nước thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”, có nghĩa là tài nguyên nước là tài sản của quốc gia và bảo vệ tài nguyên nước là mối quan tâm chung của mọi người. 

Luật Tài nguyên nước đưa ra một phương pháp tiếp cận tổng hợp và toàn diện bao gồm cả số lượng, chất lượng nước mặt và nước ngầm. Luật cũng đưa ra một phương pháp tiếp cận theo lưu vực sông trong công tác quản lý và quy hoạch tài nguyên nước. Do vậy, ở cấp quốc gia, Luật TNN đã cắt ngang các ranh giới về quản lý hành chính và xuyên qua địa giới các tỉnh ở cấp địa phương. Luật đưa ra khái niệm các quyền về nước với ưu tiên dành cho cấp nước sinh hoạt. Nghĩa vụ tài chính của người sử dụng nước, kể cả bồi thường ô nhiễm nước cũng được quy định.

Điều 57 Luật tài nguyên nước đã quy định nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên nước, bao gồm:

- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về bảo vệ, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước;

- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn về tài nguyên nước;

- Phòng, chống và khắc phục hậu quả của lũ, lụt;

- Cảnh báo lũ lụt, hạn hán và các tác hại khác do nước gây ra;

- Quyết định phương thức biện pháp, huy động lực lượng, vật tư, phương tiện để phòng chống khắc phục hậu quả lũ lụt, hạn hán và các tác hại khác do nước gây ra;

- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào công tác quản lý tài nguyên nước;

- Quản lý công tác điều tra cơ bản về tài nguyên nước và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên nước;

- Cấp và thu hồi giấy phép về tài nguyên nước;

- Kiểm tra, thanh tra về việc chấp hành và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên nước;

- Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại liên quan đến tài nguyên nước;

- Tăng cường quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên nước; thực hiện điều ước quốc tế về tài nguyên nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Điều 58 quy định trách nhiệm của Chính phủ trong công tác quản lý tài nguyên nước, chỉ rõ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước, Bộ  Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng qủan lý tài nguyên nước. Các Bộ, Cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước theo sự phân công của Chính phủ. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước trong phạm vi địa phương.

Đơn vị quản lý và quy hoạch tài nguyên nước chủ yếu ở Việt Nam  được thiết lập ở Lưu vực sông. Điều 59 quy định: Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư đối với các công trình quan trọng quốc gia về tài nguyên nước; Chính phủ phê duyệt quy hoạch các lưu vực sông lớn và các dự án công trình quan trọng về tài nguyên nước; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt các quy hoạch lưu vực sông, quy hoạch hệ thống công trình thuỷ lợi theo sự uỷ quyền của Chính phủ.

Điều 63 là cơ sở thành lập Hội đồng Quốc gia về tài nguyên nước để tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề quan trọng liên quan đến tài nguyên nước, và thực hiện phối hợp cấp quốc gia về quy hoạch và quản lý tài nguyên nước giữa các Bộ, ngành. Điều 64 là cơ sở để thành lập các cơ quan quản lý quy hoạch lưu vực sông là cơ quan sự nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Ngoài Luật Tài nguyên nước, các văn bản dưới luật, bao gồm:

- Nghị định số 179/1999/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 30/ 12/ 1999 về hướng dẫn thi hành Luật Tài nguyên nước,

- Quyết định số 67/2000/QĐ-TTg ban hành ngày 15/ 6/ 2000 thành lập Hội đồng Quốc gia về Tài nguyên nước,

- Quyết định số 99/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Quốc gia về tài nguyên nước, ban hành kèm theo quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Quốc gia về Tài nguyên nước,

- Pháp lệnh 26/2000/PL-UBTVQH10 về phòng chống lụt bão ban hành ngày 24/ 8/ 2000,

Quyết định số 37, 38, 39/2001/QĐ/BNN-TCCB của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 9/ 4/ 2001 thành lập các Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông Cửu Long, Đồng Nai và sông Hồng - Thái Bình

Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thuỷ lợi số 32/2001/PL-UBTVQH10 ban hành ngày 4/ 4/ 2001, có hiệu lực ngày 1/ 7/ 2001.

1.2 Các luật khác

* Luật Bảo vệ Môi trường:

Luật Bảo vệ môi trường quy định việc bảo vệ môi trường, nhằm khẳng định và duy trì tầm quan trọng đặc biệt của môi trường đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại. Sau khi Luật Bảo vệ Môi trường được ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định 175/CP ngày 8/10/1994 quy định cụ thể về:

- Phân cấp quản lý nhà nước về môi trường giữa Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, các bộ, ngành thực hiện chức năng quản lý theo phạm vi ngành phụ trách, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan nhà nước và đoàn thể nhân dân hữu quan.

- Đánh giá tác động môi trường quy định rõ đối tượng dự án phải thực hiện đánh giá tác động môi trường, nội dung, quy mô, phương pháp, hồ sơ, trình tự thẩm định của báo cáo tác động môi trường.

- Phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường và sự cố môi trường.

Như đã quy định trong luật, bảo vệ môi trường bao gồm những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. 

Nói chung, các hoạt động quản lý nhà nước liên quan đến bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên nước quy định trong hai luật Bảo vệ Môi trường và Luật tài nguyên nước không có nhiều mâu thuẫn. Tuy vậy, vẫn cần phối hợp trong một số vấn đề giúp bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước và môi trường, chẳng hạn như công tác cấp phép xả nước thải vào nguồn nước.

* Luật Khoáng sản:

Luật Khoáng sản được Quốc hội thông qua tháng 3/1996. Phạm vi áp dụng của Luật là công tác quản lý, bảo vệ, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản, bao gồm khảo sát, thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản ở thể rắn, khí, nước khoáng và nước nóng thiên nhiên. Luật định nghĩa “khoáng sản là tài nguyên trong lòng đất, trên mặt đất dưới dạng những tích tụ tự nhiên khoáng vật, khoáng chất có ích ở thể rắn, lỏng, khí hiện tại hoặc sau này có thể khai thác được”.  Với định nghĩa trên thì các hoạt động khai thác và bảo vệ khoáng sản và các hoạt động liên quan đến tài nguyên nước cũng có thể cùng chung đối tượng, như hoạt động khai thác quản lý cát sỏi, đất tại bờ và đáy sông, suối...

* Luật Đất đai:

Luật Đất đai lần đầu tiên được Quốc hội thông qua tháng 7/1993. Đến nay, Quốc hội đã hai lần xem xét và sửa đổi Luật đất đai để kịp thời điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phù hợp với sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế, kể cả một số điều khoản liên quan đến đất sử dụng trong các công trình liên quan nước. Các sửa đổi đó được thể hiện qua Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Đất đai ngày 1/10/2001.

Luật Đất đai quy định những nguyên tắc cơ bản nhất về quyền sở hữu đất đai, các cam kết của Nhà nước liên quan đến quyền sở hữu quyền sử dụng đất hợp pháp của cá nhân, tổ chức, các loại đất và các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai. Luật xác định nội dung quản lý nhà nước về đất đai, thẩm quyền của Chính phủ và các uỷ ban nhân dân trong lĩnh vực điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa chính; quy định nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Ngoài ra, còn có các quy định về thẩm quyền giao và thu hồi đất, thời hạn giao đất, thẩm quyền và thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển đổi quyền sử dụng đất, cho phép thay đổi mục đích sử dụng đất ..; thẩm quyền trong việc thanh tra đất đai, giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất.

2. Quyền và nghĩa vụ trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước

Luật Tài nguyên nước đã cung cấp cơ sở cho việc thực hiện hệ thống cấp phép khai thác nước mặt và nước ngầm cũng như cấp phép xả nước thải. Luật Tài nguyên nước và một số các văn bản pháp lý khác đã có quy định về các ưu tiên trong cấp nước. Chẳng hạn như Điều 7 Nghị định số 179/1999/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật tài nguyên nước quy định:

“Khi xảy ra hạn hán, gây thiếu nước nghiêm trọng, tài nguyên nước được điều hoà phân phối theo nguyên tắc: đảm bảo nhu cầu nước sinh hoạt với định mức tối thiểu, nước cho chăn nuôi gia súc gia cầm và thuỷ sản, nước cho các hoạt động khoa học và công nghiệp, nước phục vụ cho chương trình an ninh lương thực và cây trồng có giá trị kinh tế cao và các mục đích khác. Các hướng dẫn này sẽ giúp thiết lập các quy tắc hoạt động của các  công trình thuỷ lợi.”

Hệ thống cấp phép quy định trong Luật tài nguyên nước vẫn chưa được triển khai do chưa có đầy đủ các văn bản pháp lý, đào tạo và cơ cấu thể chế. Bên cạnh đó, việc phân phối nước được thực hiện dựa trên một số tiêu chí và các quyền được quy ước ngầm. Trước tiên, việc cấp nước được thực hiện thông qua hệ thống công trình thuỷ lợi. Thiết kế công trình và quy định hay hướng dẫn vận hành sẽ quyết định việc cấp nước cho các bên hưởng lợi. Chẳng hạn như các đập và hồ chứa đa mục tiêu phục vụ phát điện, phòng chống lũ lụt và điều hoà dòng chảy xuống hạ lưu phục vụ các mục đích như tưới, giao thông, thuỷ sản và cấp nước sinh hoạt và công nghiệp. Nguyên tắc hoạt động của các công trình sẽ tạo nên các quyền về nước của một số bên hưởng lợi, mặc dù chúng không được đề cập đến như các quyền về nước và không có giá trị về mặt pháp lý.

Các thủ tục mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với các tranh chấp sử dụng nước cũng hình thành một loạt các quyền không chính thức về nước. Chẳng hạn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ ra rằng sẽ áp dụng hệ thống cấp phép sử dụng và xả nước thải một cách “hợp lý” khi xây dựng xong các hệ thống này đối với các mô hình sử dụng nước hiện có. Điều này sẽ giúp bảo vệ các hộ sử dụng nước  hiện tại so với những hộ sẽ sử dụng nước bởi cùng một nguồn nước. Bộ đã nhận thấy cần thống kê tất cả những hộ sử dụng nước hiện có, có thể cần tổ chức đăng ký một cách hệ thống đối với người sử dụng nước.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng chuẩn bị triển khai một số các quyền về nước được chấp nhận rộng rãi trong giải quyết các tranh chấp. Chẳng hạn như  người sử dụng đất ở hạ lưu không được phép gây thiệt hại đối với người sử dụng đất ở thượng lưu bằng cách chặn dòng chảy tự nhiên, hoặc người sử dụng nước không bị ảnh hưởng do các hoạt động của người sử dụng mới ở thượng lưu. Tuy nhiên những quy định được đông đảo chấp nhận có thể được sửa đổi khi các kế hoạch quản lý và phát triển tài nguyên nước được xây dựng và phê duyệt.

3. Phân phối nước và giải quyết tranh chấp

Như đã nói phần trên, khi tình trạng khan hiếm nước xảy ra gây thiếu nước nghiêm trọng, ưu tiên lớn nhất được dành cho nước sinh hoạt. Hiện tại nông nghiệp đang là ngành tiêu thụ nhiều nước hơn cả, tuy rằng các sử dụng đem lại giá trị cao hơn đang gia tăng. Chính phủ nhận thức rõ  yêu cầu cần có một phương tiện hợp pháp và công bằng nhằm tái phân bổ nước cho các sử dụng đem lại giá trị cao.

Cũng như nhiều nước khác, cạnh tranh giữa các ngành sử dụng nước là rất phổ biến. Ví dụ để tăng công suất phát điện, các hồ chứa cần được vận hành gần mức dung tích chứa thiết kế nhằm nâng cao đầu nước để đáp ứng được các yêu cầu phụ tải. Song đối với nông nghiệp, giao thông và thuỷ sản, cần điều tiết dòng chảy đảm bảo có đủ lượng nước trong mùa cạn. Vận hành hồ chứa được phối hợp, ưu tiên mục đích phòng lũ vào mùa mưa, dưới sự quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ưu tiên thuỷ điện vào những thời gian còn lại trong năm do Tổng Công ty Điện lực Việt Nam quản lý.  Công tác xây dựng và lập kế hoạch vận hành các công trình thuỷ lợi được thực hiện có tham khảo ý kiến của người dùng nước, tuy nhiên hiện vẫn chưa thực sự có quy hoạch lưu vực sông tổng hợp cũng như cơ chế nhận diện và giải quyết tranh chấp trong giai đoạn lập quy hoạch. 

Các quyền về nước vẫn chưa được quy định trong Luật. Nhìn chung vẫn chưa có cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập tuy rằng Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước và các Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông được giao trách nhiệm tư vấn cho Chính phủ trong việc giải quyết các tranh chấp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận được rất nhiều đơn thư khiếu kiện mặc dù thẩm quyền giải quyết thuộc về cấp tỉnh. Vai trò giải quyết tranh chấp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước và các cơ quan có thẩm quyền khác có nghĩa là những cơ quan này cần được tăng cường năng lực về mặt thông tin kỹ thuật, về kỹ năng đàm phán và giao tiếp, về mặt pháp lý cũng như các yêu cầu khác.

4. Đánh giá tác động môi trường.

Luật Bảo vệ Môi trường do Quốc hội thông qua vào năm 1993 quy định: 

Điều 2: Đánh giá tác động môi trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường của các dự án, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích hợp về bảo vệ môi trường.

Điều 17: Tổ chức, cá nhân quản lý cơ sở kinh tế, khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hoá, xã hội, an ninh, xã hội, an ninh, quốc phòng đã hoạt động từ trước khi ban hành Luật này phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường của cơ sở mình để cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường thẩm định.

Điều 18: Tổ chức, cá nhân khi xây dựng, cải tạo vùng sản xuất, khu dân cư, các công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, chủ dự án đầu tư của nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài, chủ dự án phát triển kinh tế – xã hội khác phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường để cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường thẩm định.

Hiện nay, đối với các dự án như xây dựng đường xá, bệnh viện, hồ chứa và các địa điểm du lịch, từ giai đoạn lập kế hoạch đến giai đoạn xây dựng bắt buộc phải có đánh giá tác động môi trường và phải được sự phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền. Đánh giá tác động môi trường bao gồm một phân tích tổng hợp các tác động về mặt tự nhiên và sinh học cũng như đánh giá về lợi ích kinh tế. Các dự án cần cân nhắc vấn đề về giới và dân tộc thiểu số cũng như các vấn đề xã hội khác. Bước cuối cùng trong giai đoạn đánh giá tác động môi trường là cấp giấy phép. Tuy vậy  vẫn cần có các loại giấy phép khác như giấy phép sử dụng nước và giấy phép xả nước thải trong tương lai do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp.

Đánh giá tác động môi trường là khía cạnh tương đối mới trong quy hoạch và phê duyệt các dự án ở Việt Nam. Năng lực thực hiện bao gồm cả việc cung cấp các chuyên gia có kinh nghiệm chưa cao. Hơn nữa, rất nhiều thay đổi đã  diễn ra trước khi có yêu cầu đánh giá tác động môi trường, do vậy nhiều dự án đã được thực hiện không hề có bất kỳ biện pháp xử lý chất thải nào hoặc có các thiếu sót về mặt thiết kế, gây tác động nghiêm trọng tới môi trường. Do vậy, trong vài năm gần đây, Nhà nước hết sức chú ý tới vấn đề này. Nhà nước đã đầu tư vào lĩnh vực cơ cấu thể chế, chẳng hạn như thành lập Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các cơ quan môi trường ở cấp trung ương và địa phương, ban hành Luật Bảo vệ Môi trường và các văn bản dưới luật khác.

5. Tăng cường tính hiệu lực

Công tác thanh tra sẽ kiểm tra việc thực hiện pháp luật và các văn bản pháp qui chẳng hạn như việc cấp phép sử dụng hoặc cấp phép xả nước thải. Hiệu lực hoá bao gồm việc thực hiện các bước như nhắc nhở, cảnh cáo, phạt tiền, thu hồi giấy phép,và các hình thức khác. Công tác thanh tra và hiệu lực hoá  cũng được quy định trong Luật Tài nguyên nước trong phần chức năng quản lý nhà nước.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiến hành thanh tra định kỳ và trả lời khiếu nại của người sử dụng nước. Khi hệ thống quy định cấp phép sử dụng nước và xả nước thải được triển khai, công tác thanh tra và xử phạt ngày càng trở nên quan trọng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xác định sự cần thiết phải có các văn bản pháp qui chi tiết hơn trong lĩnh vực này. Công tác đào tạo và tăng cường năng lực cũng hết sức cần thiết.

6. Cơ cấu thể chế

6.1 Các cơ quan về tài nguyên nước trung ương

Luật tài nguyên nước quy định thẩm quyền về quản lý tài nguyên nước thuộc về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Bộ hoạt động trong các lĩnh vực hoạch định chính sách ở cấp cao, ban hành các quy định và thủ tục, việc vận hành các công trình thuỷ lợi được giao cho các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ở các tỉnh, ngoại trừ các công trình có quy mô lớn, các công trình thuỷ lợi liên tỉnh và các công trình đa mục tiêu. Bên cạnh vai trò chủ chốt của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, rất nhiều cơ quan thuộc Chính phủ ngoài các Bộ liên quan cũng có ảnh hưởng tới quá trình ra các quyết định tác động tới ngành nước.

Bảng 2Các Bộ, ngành có trách nhiệm trong ngành nước

Quản lý nhà nước về tài nguyên nước

 

 

 

 

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

 Bộ NN&PTNT

 

Tưới

Tiêu

Phòng chống lụt bão

Cấp nước nông thôn và các thành phố nhỏ

Quản lý lưu vực (đất rừng)

Quản lý sử dụng đất (đất nông nghiệp)

Hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên nước

Lưu vực sông Mêkông: Uỷ ban Quốc gia sông Mêkông Việt Nam, Bộ NN&PTNT chủ trì, có các Uỷ viên đại diện cho các Bộ

Cấp thoát nước đô thị

Bộ Xây dựng

Thu thập các dữ liệu khí tượng thuỷ văn, nước mặt, nước ngầm, chất lượng nước

Tổng Cục KTTV

Bộ NN&PTNT

Bộ KHCN&MT

Bộ Công nghiệp

Các Bộ ngành khác

Chất lượng nước

Bộ KHCN&MT

Bộ NN&PTNT

Bộ Y tế

Thuỷ điện, vận hành các hồ chứa

Bộ Công nghiệp

Bộ NN&PTNT (vận hành các hồ chứa lớn trong mùa lũ)

Phân bổ ngân sách, quy hoạch, phân bổ đầu tư và phối hợp các hỗ trợ quốc tế

Bộ Tài chính

Bộ Kế hoạchvà Đầu tư

Đường sông và giao thông thuỷ

Bộ Giao thông

Các tiêu chuẩn và quy định đối với nước sạch

Bộ Y tế

6.2 Các cơ quan quản lý tài nguyên nước cấp tỉnh

Mỗi tỉnh đều có Sở Nông nghiệp và PTNT thuộc sự quản lý của tỉnh và do tỉnh cấp kinh phí hoạt động nhưng có mối liên hệ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về mặt kỹ thuật. Hầu hết các Sở Nông nghiệp và PTNT đều giám sát các doanh nghiệp tự hạch toán trong lĩnh vực quản lý và phát triển tài nguyên nước cho Uỷ ban nhân dân tỉnh. Cơ cấu này bao gồm các cơ sở về hành chính và kỹ thuật để quản lý tài nguyên nước ở cấp tỉnh.

Phần nhiều trách nhiệm quản lý cơ sở hạ tầng thuỷ lợi đã được chuyển giao cho các Công ty quản lý thuỷ nông. Theo ước tính, hơn 65% công tác thuỷ nông ở Việt Nam được quản lý theo kiểu này, đặc biệt ở các vùng đồng bằng lớn. Những công ty này dự kiến sẽ hoạt động như các doanh nghiệp tự hạch toán theo những quy định gần đây của Chính phủ. Tuy vậy, những công ty này vẫn thuộc sự kiểm soát của Uỷ ban nhân dân tỉnh (và cả Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và nói chung vẫn chưa thể tự lập về mặt tài chính. Các công ty quản lý thuỷ nông vận hành hệ thống phân phối nước (kênh mương và công trình, vận hành và duy tu bảo dưỡng) xuống các điểm phân phối nước của huyện.

Các cơ quan có trách nhiệm liên quan tới các khía cạnh của công tác quản lý tài nguyên nước được trình bày trong Bảng 1.

B¶ng 1. C¸c c¬ quan liªn quan ë cÊp tØnh

Tổ chức

Trách nhiệm

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương.

Ban hành các nghị quyết, quyết định, quy định đảm bảo thực thi luật tài nguyên nước tại địa phương.

Uỷ Ban nhân dân là cơ quan hành chính cao nhất của địa phương

 Quản lý nhà nước trực tiếp về thực hiện  Luật tài nguyên nước tại địa phương. UBND ra các nghị quyết, quyết định, chỉ thị và các văn bản khác nhằm đảm bảo thực thi  hiệu quả Luật Tài nguyên nước.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh (Sở NN&PTNT) - là cơ quan chuyên ngành thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh, chịu sự  hướng dẫn về chuyên môn và kỹ thuật từ Bộ NN&PTNT

Xây dựng và quản lý các Kế hoạch; chịu trách nhiệm bảo vệ và phát triển tài nguyên nước trong địa bàn tỉnh; trình các kế hoạch lên UBND tỉnh và Bộ NN&PTNT xem xét và thẩm định; tổ chức và giám sát  thực hiện sau khi các kế hoạch trên đã được thẩm định và phê duyệt,

Các Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở KHCN&MT; Xây dựng; Giao thông; Công nghiệp; Thuỷ Sản; Y tế và các Sở khác.

Chịu trách nhiệm hướng dẫn và thanh tra việc thực hiện các chức năng khác theo Luật Tài nguyên nước

Sở Văn hoá Thông tin tỉnh, các cơ quan báo chí, các Tổ chức thông tin đại chúng

Tuyên truyền và phổ biến về Luật Tài nguyên nước đảm bảo tất cả các cơ quan và cá nhân trong tỉnh đều thực thi luật tài nguyên nước theo đúng trách nhiệm

Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ Nữ, Hội Nông Dân và các Tổ chức quần chúng khác của tỉnh.

Tiến hành phổ biến, giáo  dục về Luật TNN cho các thành viên nhằm thực thi Luật Tài nguyên nước theo đúng trách nhiệm.

Thanh tra Nhân dân, Toà án; Cảnh sát và các cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh.

Giải quyết các vi phạm Luật Tài nguyên nước, đảm bảo thực thi hiệu quả Luật Tài nguyên nước tại địa phương.

Cùng với việc thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Sở Tài nguyên và Môi trường cũng sẽ được thành lập ở mỗi tỉnh. Trách nhiệm và thành phần của các Sở sẽ được quy định rõ nhằm thực thi các chức năng quản lý nhà nước về các nguồn tài nguyên ở cấp tỉnh, trong đó bao gồm cả tài nguyên nước.

6.3 Cơ chế phối hợp liên ngành

* Hội đồng Quốc gia về tài nguyên nước, cơ quan tư vấn và phối hợp cấp cao về tài nguyên nước được thành lập ngày 28/6/2001 theo Quyết  định của Thủ tướng Chính phủ. Quy chế hoạt động của Hội đồng Quốc gia về  tài nguyên nước đã quy định về chức năng, trách nhiệm và quyền hạn của Hội đồng và Văn phòng.

Chủ tịch Hội đồng Quốc gia về  tài nguyên nước là Phó thủ tướng. Các uỷ viên Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các Bộ, ngành có chức năng quản lý nước. Theo chức năng của Hội đồng, mục đích chính của Hội đồng là tăng cường quản lý tổng hợp tài nguyên nước thông qua việc tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề như chính sách và chiến lược, phê duyệt các quy hoạch lưu vực sông và các dự án phát triển tài nguyên nước lớn, tư vấn giải quyết tranh chấp trong ngành nước và các khía cạnh quốc tế trong phát triển tài nguyên nước. Hội đồng Quốc gia về  tài nguyên nước cũng đưa ra một cơ chế tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan đến công tác quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam.

Hội đồng Quốc gia về tài nguyên nước mới hoạt động một thời gian ngắn và hiện đang nhận hỗ trợ của Ngân hàng ADB, các Chính phủ Australia và Hà Lan. Hội đồng đã xác định một số vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới, bao gồm cả công tác xây dựng Chiến lược ngành nước quốc gia giúp thực hiện phương hướng tiếp cận phối hợp và tổng hợp trong quản lý tài nguyên nước của toàn ngành.

* Phối hợp cấp lưu vực sông: theo quy định của Luật tài nguyên nước, các Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông được thành lập nhằm quản lý quy hoạch lưu vực sông. Các Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông Cửu Long, Đồng Nai và sông Hồng - Thái Bình đã được thành lập theo Quyết định số 37, 38 và 39/2001/QĐ/BNN-TCCB ngày 9/4/2001 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông, bao gồm Trưởng ban là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các uỷ viên là đại diện của các Bộ, ngành và địa phương có liên quan.

Theo quy định của Luật tài nguyên nước chịu trách nhiệm:

- Lập, trình duyệt và theo dõi việc thực hiện các quy hoạch lưu vực sông, bảo đảm phối hợp quy hoạch lưu vực sông với địa bàn hành chính;

- Phối hợp với các cơ quan hữu quan của các Bộ, ngành và địa phương trong việc điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước; trong việc lập, trình duyệt và theo dõi việc thực hiện các quy hoạch cho các tiểu lưu vực trong từng lưu vực;

- Kiến nghị việc giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước trong lưu vực sông.

Mỗi Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông bao gồm Hội đồng lưu vực sông và Văn phòng hỗ trợ hay Ban thư ký. Các tỉnh trong lưu vực sông sẽ có đại diện tại Hội đồng, cùng lãnh đạo các Bộ, ngành có liên quan đến quản lý tài nguyên nước và các bên tham gia. Số lượng và mức độ kinh nghiệm của đại diện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Bộ, ngành và các địa phương là một vấn đề quan trọng trong hoạt động của Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông và năng lực của họ trong việc đại diện cho các lợi ích khác nhau và giải quyết các bất đồng.

Tuy nhiên, chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông đã được phê duyệt còn chưa hoàn chỉnh; việc chuẩn bị một quy định xác định các vấn đề quan trọng và cho phép các Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông đi vào hoạt động hiện đang được tiến hành. Cần phải có thêm thời gian và kinh nghiệm để xác định tính độc lập mà các Ban Quản lý quy hoạch lưu vực sông cần có và liệu các khả năng đó có dễ dàng được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành khác chấp thuận trong quá trình ra quyết định hay không.

6.4 Các tổ chức  phi chính phủ, khu vực tư nhân và cộng đồng

Hàng chục Tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế đang hoạt động và cung cấp các dịch vụ phát triển tài nguyên nước ở Việt Nam. Các tổ chức phi chính phủ trong nước đang cung cấp dịch vụ tư vấn, bao gồm cả việc tham gia vào quá trình quy hoạch, thẩm định và giám sát các giai đoạn của các dự án quy mô lớn. Các tổ chức phi chính phủ này cũng tư vấn cho Chính phủ trong quá trình quyết định. Nhiều tổ chức đăng ký hoạt động của mình trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tại Hiệp hội các tổ chức phi chính phủ, nhiều tổ chức là các Tổ chức nghiên cứu cũng cung cấp dịch vụ trong các lĩnh như tăng cường năng lực, điều tra kinh tế xã hội và đánh giá môi trường. Một số khác hoạt động như các tổ chức quần chúng hỗ trợ đắc lực trong các công việc mang tính chất tập thể như củng cố đê điều hay giảm nhẹ thiên tai. Ở cấp tỉnh hay cấp thấp hơn, hoạt động của các tổ chức phi chính phủ rất cần thiết trong việc thu thập ý kiến của người dân về các dịch vụ nước và giúp hiểu biết rõ ràng và toàn diện hơn về các vướng mắc tại cơ sở để các cấp có thẩm quyền cân nhắc và giải quyết.

Các tổ chức phi chính phủ quốc tế cũng góp phần hỗ trợ trong tăng cường và củng cố các dịch vụ ngành nước thông qua việc cấp vốn xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ, như trạm bơm, hồ chứa nhỏ phục vụ tưới tiêu, củng cố đê điều, xây dựng các kênh tưới, cấp nước và thuỷ điện nhỏ. Các tổ chức này thường tập trung ưu tiên của mình vào vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng chịu nhiều thiên tai bão, lụt. Họ thường làm việc với các dân tộc thiểu số, giúp xoá đói, giảm nghèo. Cùng với các đầu tư trong nước và quốc tế, các nỗ lực này góp phần đáng kể vào quá trình phát triển nền kinh tế đất nước và nâng cao mức sống của người dân Việt Nam.

Khu vực tư nhân khá năng động nhưng thường chỉ giới hạn ở các công ty nhỏ, không cạnh tranh trực tiếp được với các công ty lớn nói trên.  Các công ty nhỏ và các cá nhân cung cấp dịch vụ như cung cấp các thiết bị vệ sinh, đường ống dẫn nước, máy bơm cho cấp nước.  Một số nơi còn nhận khoan, đào giếng, lắp đặt các thiết bị cấp nước và vệ sinh đơn giản.  Các công ty tư vấn nhỏ cung cấp các dịch vụ thiết kế phát triển đô thị nơi nhu cầu cấp nước đang nổi lên. Việc xây dựng một khu vực tư nhân quy mô lớn hơn, quy củ hơn vẫn bị hạn chế bởi môi trường và cơ chế pháp lý đang dành nhiều ưu tiên và thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước.  Tuy vậy, rõ ràng là khu vực tư nhân đang có xu hướng phát triển mạnh và đóng vai trò đáng kể hơn trong tương lai. Để đạt được điều này các cơ chế chính sách mới và môi trường pháp lý thuận lợi cần được xây dựng.

Các tổ chức tư nhân đang có vai trò ngày càng tăng trong việc cung cấp các dịch vụ đào tạo và giáo dục phù hợp đối với ngành nước. Những tổ chức này bao gồm các công ty đào tạo về tin học và các công ty cung cấp các đào tạo trong các lĩnh vực về xây dựng, thiết kế công trình, giám sát xây dựng, quản lý vận hành và các lĩnh vực có liên quan.

Dân cư ở nhiều vùng Việt Nam, đặc biệt ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thường tự đầu tư và sử dụng lao động địa phương xây dựng kênh mương, quản lý các công trình tưới tiêu và phát điện nhỏ, đắp đập lấy nước tưới, chống lũ và nuôi cá. Một số hộ gia đình được chính quyền địa phương cho phép sẽ vận hành các công trình thuỷ lợi tại địa phương. Tuy vậy, sự tham gia của khu vực tư nhân trong công tác quản lý tài nguyên nước nhìn chung còn rất hết sức hạn chế trong những năm gần đây.

7. Quản lý thông tin

7.1 Các chương trình thu thập thông tin dữ liệu

Lượng thông tin tương đối lớn về xã hội, kinh tế và môi trường liên quan đến tài nguyên nước đã được thu thập. Tuy nhiên, các thông tin này do nhiều cơ quan quản lý và hiện tại chưa có bất kỳ thư mục dữ liệu quốc gia nào giúp cho người sử dụng xác dịnh cơ quan quản lý thông tin.

Bảng 2.  Các cơ quan chính có trách nhiệm quản lý dữ liệu

LOẠI THÔNG TIN

CHI TIẾT

CƠ QUAN

Tổ chức và pháp chế

 

Thông tin về pháp luật

Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành như Bộ NN&PTNT, Bộ Tư pháp

 

Thông tin về chức năng của các Bộ; HĐQGTNN; Tổ chức lưu vực sông; chức năng của các tỉnh.

Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành và UBND các tỉnh

 

Phổ biến thông tin về thể chế và pháp luật

Các Bộ, ngành, UBND tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, TW Đoàn TNCS, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, …

Hành chính

Sử dụng đất

Công tác quản lý hành chính về đất, lập bản đồ địa hình, bản đồ sử dụng đất, v.v…

Tổng cục địa chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Sử dụng nước

Cấp phép khai thác nước mặt,  nước dưới đất và xả nước thải

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài nguyên và Môi trường

Chất lượng nước

Các tiêu chuẩn về chất lượng nước

Bộ Khoa học và Công nghệ

Tài chính

Các đầu tư cho ngành nước và cung cấp tài chính

Bộ TC, Bộ Kế hoạch, các Bộ, ngành khác và UBND tỉnh

Quy hoạch

Quy hoạch phát triển ngành, các kế hoạch dự án cụ thể

Bộ KH&ĐT, các Bộ, ngành khác

Quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước quốc gia và lưu vực sông

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Kỹ thuật

Kinh tế xã hội

Các thông tin tổng quát về kinh tế xã hội

Tổng cục thống kê

Nguồn nhân lực, đói nghèo và việc làm

Bộ Lao động, thương binh và xã hội

Môi trường

Chất lượng nước

Bộ KH và CN, Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT

Các chỉ số môi trường chung

Bộ KH và Cá NHâN

Khí hậu, KTTV

Khí hậu, lượng mưa, dòng chảy mặt

Bộ TN&MT

Nước dưới đất

Khối lượng, chất lượng, mức độ khai thác, sử dụng

Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT

Lâm nghiệp

Dữ liệu về lâm nghiệp, các khu bảo tồn, khu vực bị ảnh hưởng, khai thác, các vườn ươm …

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Thuỷ điện

Quản lý các nhà máy thuỷ điện, hồ chứa, phát điện và quản lý

Bộ Công nghiệp

Nông nghiệp

Sản xuất cây trồng và vật nuôi, sản phẩm đầu vào, thị trường, quy định

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Thuỷ sản

Các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, nuôi cá nước ngọt, quản lý, quy định

Bộ Thuỷ sản

Y tế

Sức khoẻ cộng đồng

Bộ Y tế

Giao thông thuỷ

Giao thông thuỷ; cảng

Bộ Giao thông

Cấp nước và vệ sinh môi trường

Các hoạt động xây dựng, giá thành, cấp nước và nước thải (ở khu vực đô thị )

Bộ Xây dựng

Các hoạt động xây dựng, giá thành, cấp nước và nước thải (ở khu vực nông thôn)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

* Dữ liệu khí tượng thuỷ văn: Tổng cục khí tượng thuỷ văn có trách nhiệm cung cấp thông tin, dữ liệu và các dịch vụ liên quan đến khí tượng, thuỷ văn, khí quyển và môi trường nước trên toàn Việt Nam, bao gồm định kỳ dự báo khí tượng thuỷ văn, dự báo và cảnh báo các thiên tai như bão, lũ và hạn hán.

Để thực hiện công việc, Tổng cục khí tượng thuỷ văn duy trì một hệ thống trạm quan trắc khí tượng thuỷ văn và môi trường. Trách nhiệm thu thập và xử lý dữ liệu khí tượng thuỷ văn do 9 trung tâm ở các vùng thực hiện. Mỗi đài trạm có trách nhiệm duy trì các trạm quan trắc trong vùng, xử lý dữ liệu từ các trạm này và hàng năm chuyển các dữ liệu này về một trung tâm thông tin trung ương ở Hà Nội. Trung tâm này sẽ tiến hành đánh giá chất lượng và lưu trữ thông tin.

* Chất lượng nước mặt: Dữ liệu về chất lượng nước rất quan trọng đối với công tác quản lý tài nguyên nước của Việt Nam và sẽ càng quan trọng hơn trong tương lai. Hiện công tác thu thập dữ liệu đã được triển khai nhiều nhưng chủ yếu chỉ cho các mục đích cụ thể và chưa được phối hợp tốt. Những dữ liệu này được thu thập như là một phần của các dự án riêng lẻ, do nhiều bên tài trợ, khó thu thập và truy cập, nhất là một khi dự án đã kết thúc. Điều này không chỉ gây khó khăn cho người sử dụng dữ liệu trong việc xác định nguồn và lấy dữ liệu, có nghĩa dữ liệu này có thời gian thu thập rất ngắn và thường hạn chế trong một đợt lấy mẫu đơn lẻ. Chính vì thế hầu như không thể thực hiện các phân tích xu thế, thậm chí trong trường hợp đã có dữ liệu.

Có rất nhiều phòng thí nghiệm tiến hành phân tích những mẫu nước cho nhiều khách hàng, bao gồm các viện, trường đại học, các phòng và các dự án. Những phòng thí nghiệm này lưu giữ báo cáo phân tích nhưng hầu như chỉ sử dụng các phương pháp đơn giản như trên giấy hay các bảng trong máy tính. Nhìn chung, các công nghệ cơ sở dữ liệu máy tính còn chưa được sử dụng rộng rãi.

Tổng cục khí tượng thuỷ văn là cơ quan duy nhất đang có chương trình thu thập dữ liệu chất lượng nước. Cơ quan này duy trì một mạng lưới bao gồm 50 trạm quan trắc chất lượng nước sông và 60 trạm quan trắc chất lượng nước hồ chứa. Các thông số đo đạc là nhiệt độ, độ pH, độ dẫn, tính đục và độ mặn. Các hồ sơ lưu trữ thường là dữ liệu từ những năm 1975 về trước.

Bộ Khoa học và Công nghệ đã và đang thực hiện việc thu thập dữ liệu về chất lượng nước ở một số vị trí. Bên cạnh đó, Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh khác có các phòng thí nghiệm phân tích chất lượng nước. Những phòng thí nghiệm này cũng tiến hành lấy mẫu ở mức độ hạn chế để xác định chất lượng nước trong khu vực của mình.

* Dữ liệu về nước dưới đất: theo dõi nước dưới đất là trách nhiệm của Bộ Công nghiệp. Để thực hiện trách nhiệm này, Bộ đã duy trì một hệ thống quan trắc nước dưới đất trên toàn quốc với trên 800 giếng quan trắc.

Dữ liệu Bộ Công nghiệp lưu giữ không chỉ bao gồm dữ liệu về địa chất thuỷ văn mà còn những dữ liệu về địa lý, thuỷ văn và địa vật lý cần thiết cho việc mô hình hoá nước dưới đất. Công tác quan trắc mà Bộ tiến hành là cho cả số lượng và chất lượng nước dưới đất.

7.2 Nghiên cứu và phát triển

Mặc dù năng lực nghiên cứu chưa được phát triển như ý muốn nhưng giáo dục đã được đặc biệt chú trọng ở Việt Nam. Nhiều cán bộ đã được cử đi đào tạo ở nước ngoài và lực lượng cán bộ này được xem là đủ năng lực để thực hiện công tác nghiên cứu trong hầu hết các ngành liên quan đến nước. Tuy nhiên, hiện nay ngân sách và trang thiết bị cho các nghiên cứu này vẫn còn thiếu. Công tác nghiên cứu hiện nay mới chỉ tập trung vào mặt kỹ thuật và các vấn đề khác như thể chế, chính sách và luật pháp vẫn chưa được đề cập giải quyết một cách đầy đủ. Cơ chế cho việc thông tin các kết quả nghiên cứu vẫn còn hạn chế.

Viện Khoa học thuỷ lợi thực hiện nghiên cứu chi tiết về chỉnh trị sông, về động lực học sông ngòi và vùng ven, các phương pháp tưới tiêu. Viện Quy hoạch thuỷ lợi thiên về quy hoạch tài nguyên nước cho các lưu vực sông, giúp xây dựng các chiến lược phát triển và quản lý nguồn nước.

Việt Nam cũng hợp tác với các tổ chức quốc tế để tiến hành nghiên một số vấn đề trong phát triển tài nguyên nước.

Nghiên cứu đã góp phần cải thiện công thiện công tác thiết kế và xây dựng hàng loạt các công trình trên sông. Các nghiên cứu khác về tưới tiêu, quản lý đất, kế hoạch vận hành các công trình thuỷ lợi và các hệ thống công trình khác đã góp phần quan trọng cho bảo tồn và phát triển tài nguyên nước tại Việt Nam.

Hiện tại cần có một chương trình nghiên cứu được phối hợp tốt hơn để giải quyết những nhu cầu lớn về thông tin, bao gồm chất lượng nước và các vấn đề môi trường, các vấn để thể chế và luật pháp.

8. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

8.1 Các cơ quan nhà nước 

Nhân viên các cơ quan thuộc khu vực nhà nuớc có liên quan đến nước được đào tạo khá đầy đủ và cơ bản theo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ từ các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp Thuỷ lợi, các trường công nhân kỹ thuật. Hầu hết cán bộ kỹ thuật là kỹ sư, trung cấp, được đào tạo trong nước. Hàng năm được đào tại lại, đào tạo sau đại học, đào tạo nâng bậc đối với công nhân kỹ thuật. Hàng năm có tổ chức các lớp học, tập huấn ngắn ngày hoặc dài ngày, tổ chức hội thảo, tham quan học tập trong và ngoài nước. Các trường quản lý , trường đại học hàng năm đều tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý các lĩnh vực liên quan đến nước cho các cán bộ chủ chốt của trung ương và địa phương.

Các loại hình đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngành nước ở Việt Nam:

- Các trường Đại học: theo số liệu thống kê năm 1999 cả nước có 131 trường đại học và cao đẳng, với với tổng số sinh viên 734.900 người (trong đó hệ dài hạn 421.400 người, chuyên tu 12.800 người, tại chức 300.700 người), số sinh viên tốt nghiệp ra trường năm 1999 113.600 người.  Trong các trường nói trên nhiều trường kỹ thuật đào tạo các chuyên ngành về nước.  Nhiều Bộ có hệ thống trường đào taọ chuyên ngành riêng.

- Các trường Trung học chuyên nghiệp: theo số liệu thống kê năm 1999 cả nước có 246 trường học với tổng số học sinh 195.900 người (trong đó hệ dài hạn 143.400 người, Tại chức 50.800 người, hệ chuyên tu 1.700 người), số học sinh tốt nghiệp năm 1999 là 49.100 người.

- Các trường công nhân kỹ thuật: cả nước năm 1999 có 134.300 học sinh (Trong đó các trường trung ương quản lý 76.500 học sinh, địa phương quản lý 57.800 học sinh), số học sinh tốt nghiệp năm1999 là 88.700 người.

8.2 Đào tạo và nâng cao nhận thức về tài nguyên nước cho cộng đồng

Các hộ sử dụng nước và người hưởng lợi được đào tạo theo yêu cầu để tham gia vào quản lý tài nguyên nước thông qua hình thức tuyên truyền báo chí, sách, tờ rơi, đài phát thanh, truyền hình, các phương tiện truyền thông đại chúng.

Tổ chức các lớp tập huấn khuyến nông, khuyến thuỷ, kỹ thuật tưới tiêu nước tại các huyện, xã, hợp tác xã, tổ chức dùng nước, trạm thuỷ nông. Nội dung bao gồm các vấn đề về giống, kỹ thuật canh tác, quản lý khai thác và bảo vệ nguồn nước và công trình thuỷ lợi, phòng chống thiên tai...

Thông tin đại chúng là biện pháp được tiến hành phổ biến để nâng cao nhận thức cộng đồng về sử dụng nước. Các thông tin về tình hình nguồn nước, những mặt lợi, những tác hại của nước do nguồn nước bị cạn kiệt, ô nhiễm, lũ lụt, hạn hán đều được báo, đài phát thanh, truyền hình, tờ tin... đăng tải tuyên truyền phổ biến đến nhân dân cả nước kể cả vùng sâu vùng xa.

Trên Đài phát thanh và truyền hình nhiều chương trình phổ biến về nước và các vấn đề liên quan được cộng đồng ưa thích như: chương trình môi trường, chương trình bạn nhà nông, chương trình phổ biến khoa học và đời sống.... đã đem lại hiệu quả lớn trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về sử dụng nước có hiệu quả. Trong cuộc sống có nhiều bài hát, bài thơ, ca dao tục ngữ dân gian, các ca khúc, các tiểu phẩm sân khấu nói về nước đã có tác dụng tuyên truyền nhận thức của cộng đồng có hiệu qủa. Hệ thống thông tin, cổ động, loa đài ở các làng xã đang phát triển là phương tiện hỗ trợ đắc lực để công chúng hiểu và làm đúng pháp luật.

8.3 Giáo dục về tài nguyên nước ở các cấp học

Ngành giáo dục phổ thông Việt Nam bao gồm tất cả các trường phổ thông thu nhận các học sinh đến học tập theo chương trình giáo dục phổ thông (từ lớp 1 đến lớp 12). Trường phổ thông được phân theo 3 cấp học cơ bản: Trưởng tiểu học (Cấp 1) bao gồm từ lớp 1 đến lớp 5; Trường Trung học cơ sở, bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9; Trường trung học bao gồm từ lớp 10 đến lớp 12.

Theo số liệu của niên giám thống kê năm 2000 thì năm học 2000-2001 cả nước có 24.670 trường học, 509.700 lớp và 17.866.600 học sinh của cả 3 cấp học nói trên. Bao gồm: Cấp phổ thông tiểu học có 9.751.000 học sinh; Cấp  phổ thông cơ sở có 5.915.000 học sinh; Cấp Trung học có 2.199.800 học sinh.

Nhìn chung các cấp học phổ thông hiện nay chưa có chương trình đào tạo giáo dục riêng về nước, mà chỉ có trong các môn học địa lý, đạo đức, một số môn xã hội học khác... chủ yếu giới thiệu tài nguyên đất, nước như mạng lưới sông ngòi, bờ biển , khí hậu, thời tiết và ý nghĩa và tầm quan trọng của nước đối với sự sống, con người và động thực vật. Ngoài ra các chương trình ngoại khoá như tổ chức cho học sinh tham gia phong trào trồng cây, bảo vệ rừng, tham gia các phong trào xanh, sạch, đẹp, phong trào nước sạch và vệ sinh môi trường cũng cung cấp những kiến thức thực tế và xây dựng ý thức của học sinh đối với tài nguyên nước và các vấn đề liên quan.

 

 

 

 THỰC TIỄN VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG RỪNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

                                                   Nguyễn Hưng Thịnh

Cục Môi trường – Bộ Tài nguyên Môi trường

 

I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG RỪNG

1. Khái niệm về môi trường và môi trường rừng

Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ảnh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội ....

Theo nghĩa này, môi trường bao gồm các loại sau:

- Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn con người, nhưng ít nhiều cũng chịu sự tác động của con người. Đó là: ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước,... Môi trường tự nhiên mang lại cho con người không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho con người cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.

- Môi trường xã hội: là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau như: Liên hợp quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể... Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.

Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như: ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo...

Theo Điều 1, Luật Bảo vệ môi trường 1993 của Việt Nam thì: "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên".

Như vậy, khái niệm môi trường với tư cách là đối tượng cần được quản lý và bảo vệ chính là môi trường tự nhiên, bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất bao quanh và tác động đến con người. Đó là các yếu tố: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác (Theo khoản 1, Điều 2, Luật Bảo vệ môi trường 1993).

Với cách tiếp cận về khái niệm môi trường nêu trên thì rõ ràng rừng là một trong những thành phần của môi trường. Giá trị môi sinh của rừng thể hiện ở chỗ nó được mệnh danh là lá phổi của hành tinh, là một bộ phận cơ bản của hệ nuôi dưỡng sự sống trên trái đất. Bằng cách hấp thụ khí nóng và nhả ra hơi nước, rừng giữ vai trò chủ chốt trong việc điều hoà khí hậu, làm cho khí hậu trở nên ôn hoà, mát mẻ hơn. Rừng cũng điều hoà dòng chảy, giảm cường độ lũ vì nó giữ nước mưa, hạn chế tốc độ dòng chảy bề mặt, tăng độ thấm chuyển nước mặt thành nước ngầm, nhờ vậy tăng dòng chảy trong mùa khô. Bên cạnh đó, rừng giống như một tấm lá chắn làm giảm cường độ gió, giữ nhiệt độ cho các tầng mặt đất và các lớp khí quyển sát mặt đất, làm giảm sự thoát ẩm và thoát hơi nước của cây trồng, chống gió mạnh và chống rét cho con người cũng như các đàn gia súc. Ngoài ra, rừng còn là nơi phát triển và bảo tồn nhiều loại động vật quý hiếm như: voi, tê giác, bò xám, hươu xạ v.v. một yếu tố quan trọng bảo đảm cho sự đa dạng sinh học của trái đất.

Nói đến môi trường rừng chính là chúng ta đang đề cập đến rừng với đầy đủ các chức năng cơ bản của môi trường nói chung như: chức năng là không gian sống của các loài sinh vật, chức năng là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người, chức năng giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và các loài sinh vật, chức năng là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Còn khái niệm tài nguyên rừng dùng để chỉ rừng với một chức năng cơ bản, đó là chức năng cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người.

Điều 1, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 quy định: "Rừng được quy định trong Luật này gồm rừng tự nhiên và rừng trồng trên đất lâm nghiệp, gồm có thực vật rừng, động vật rừng và những yếu tố tự nhiên có liên quan đến rừng". Theo quy định này thì khái niệm rừng cũng đồng nghĩa với khái niệm môi trường rừng bởi nó không chỉ ra một chức năng cơ bản nào của rừng.

Do đó, bảo vệ rừng (hay bảo vệ môi trường rừng) chính là bảo vệ các yếu tố tự nhiên và vật chất có liên quan tới rừng như: động vật rừng, thực vật rừng, các hệ sinh thái động - thực vật rừng và đa dạng sinh học rừng.

Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 chia rừng thành 3 loại: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất.

- Rừng phòng hộ: là loại rừng được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, đất, chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Rừng phòng hộ đầu nguồn bao gồm: rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ chắc gió, chắn cát bay, rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển và rừng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.

- Rừng đặc dụng: là loại rừng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen động thực vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh, phục vụ nghỉ ngơi, du lịch. Rừng đặc dụng bảo gồm: rừng bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia và rừng văn hoá - xã hội, nghiên cứu - thí nghiệm.

- Rừng sản xuất: là loại rừng được sử dụng chủ yếu để sản xuất kinh doanh gỗ, các lâm sản khác, đặc sản rừng, động vật rừng và kết hợp phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái. Tuỳ theo giá trị và mục đích sản xuất, rừng sản xuất được chia thành: rừng đặc sản, rừng giống, rừng kinh doanh gỗ và các lâm sản khác.

2. Tổng quan hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường rừng

Cùng với Luật Bảo vệ môi trường 1993, Luật Đất đai 1993 và các Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai 1993, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo nên một hệ thống pháp luật về bảo vệ rừng ở nước ta. Có thể kể tới một số văn bản quan trọng như:

- Nghị định số 17-HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng;

- Nghị định số 77-CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản;

- Nghị định số 22/CP ngày 09/3/1995 của Chính phủ ban hành quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng;

- Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp;

- Nghị định số 11/2002/NĐ-CP ngày 22/1/2002 về quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu và quá cảnh các loài động vật, thực vật hoang dã;

- Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg ngày 21/12/1998 về thực hiện trách nhiệm quản lý của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp;

- Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11/1/2001 về việc ban hành Quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên;

- Quyết định số 47/1999/QĐ-BNN-KL về việc ban hành quy định kiểm tra việc vận chuyển, sản xuất, kinh doanh gỗ và lâm sản;

- Chỉ thị số 21/2002/CT-TTg ngày 12/12/2002 về việc tăng cường thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy rừng;

- Chỉ thị số 12/2003/CT-TTg ngày 16/5/2003 về việc tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng;

Có thể khái quát một số nội dung chính của hệ thống pháp luật về bảo vệ rừng như sau:

(1). Phạm vi điều chỉnh

Pháp luật về bảo vệ rừng điều chỉnh những quan hệ chủ yếu tác động trực tiếp đến môi trường rừng, các sản phẩm của rừng bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng. Rừng tự nhiên bao gồm: rừng gỗ và rừng tre, nứa ở các cấp tuổi khác nhau, kể cả rừng non đang được phục hồi. Rừng trồng bao gồm: rừng trồng bằng vốn của Nhà nước hoặc bằng vốn không phải của Nhà nước, do các tổ chức, cá nhân gây trồng trên đất lâm nghiệp.

Như vậy, phạm vi và đối tượng điều chỉnh của pháp luật bảo vệ rừng chỉ là những quan hệ chủ yếu có tác động một cách trực tiếp tới rừng và các sản phẩm của rừng. Đó là những quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân, quan hệ giữa các tổ chức và cá nhân với nhau trong các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, các sản phẩm từ rừng.

Pháp luật bảo vệ rừng cũng điều chỉnh cả những hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác các loại tài nguyên trong phạm vi đất lâm nghiệp. Đối với việc quản lý đất lâm nghiệp, chế biến, lưu thông tiêu thụ lâm sản, pháp luật bảo vệ rừng chỉ điều chỉnh khi có liên quan trực tiếp đến việc quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng.

Những dải cây, hàng cây, cây lâm nghiệp trồng tập trung hoặc trồng phân tán trên đất không phải là đất lâm nghiệp thì không nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảo vệ rừng.

(2). Một số nội dung cơ bản

Pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ rừng. Vai trò đó thể hiện ở trên nhiều phương diện, trong đó đặc biệt là việc quy định quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ rừng cũng như các biện pháp, chế tài xử phạt đối với những tổ chức, cá nhân vi phạm.

* Quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý nhà nước

Điều 8, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 quy định các nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ rừng, bao gồm:

- Thống kê, theo dõi diễn biến tình hình rừng, đất trồng rừng:

Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện việc điều tra, phúc tra, xác định các loại rừng, phân định ranh giới rừng, đất trồng rừng trên bản đồ tỷ lệ 1/10.000 và trên thực địa đến đơn vị hành chính cấp xã; theo dõi diến biến tình hình tài nguyên rừng trong cả nước và ở từng địa phương.

- Lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng và sử dụng rừng, đất trồng rừng trên phạm vi cả nước và từng địa phương:

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng chiến lược phát triển lâm nghiệp, quy hoạch các vùng lâm nghiệp, hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất, rừng giống trong phạm vi cả nước; lập kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn trình Chính phủ phê duyệt và tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch này.

Căn cứ vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển lâm nghiệp do Chính phủ ban hành, Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, sử dụng rừng, đất trồng rừng ở địa phương.

- Quy định và tổ chức thực hiện các chế độ, thể lệ về quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và sử dụng rừng, đất trồng rừng:

Đây là nội dung quan trọng nhất trong các hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng, trong đó thể hiện cơ bản ở các quy định về thẩm quyền giao và thu hồi rừng, đất trồng rừng, các chế độ bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.

(1) Giao rừng và đất trồng rừng: Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu của rừng và đất trồng rừng sẽ tiến hành giao rừng và đất trồng rừng cho các tổ chức, cá nhân khi xét thấy họ có đủ những điều kiện cần thiết. Thẩm quyền giao rừng và đất trồng rừng được trao cho Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân từ cấp huyện trở lên. Cụ thể là:

+ Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền xác lập và giao:

o   Các khu rừng phòng hộ, đặc dụng có tầm quan trọng quốc gia cho các Ban Quản lý thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hoặc các cơ quan khác của Chính phủ;

o   Các khu rừng sản xuất quan trọng cho tổ chức lâm nghiệp quốc doanh trong trường hợp cần thiết.

+ Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xác lập và giao:

o   Các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có tầm quan trọng quốc gia theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ;

o   Các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có tâm quan trọng địa phương cho các Ban Quản lý thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

o   Các khu rừng sản xuất ở địa phương cho tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, doanh nghiệp tư nhân theo quy hoạch của nhà nước.

+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định giao rừng sản xuất cho các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và cá nhân theo quy hoạch của tỉnh.

(2) Thu hồi rừng và đất trồng rừng: Về nguyên tắc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao rừng, đất trồng rừng nào thì có quyền thu hồi rừng và đất trồng rừng đó. Việc thu hồi rừng và đất trồng rừng được tiến hành trong các trường hợp:

o   Tổ chức bị giải thể, cá nhân là chủ rừng đã chết mà không có người tiếp tục sử dụng theo luật định;

o   Chủ rừng tự nguyện trả lại rừng, đất trồng rừng;

o   Trong 12 tháng liền, chủ rừng không tiến hành các hoạt động bảo vệ, chăm sóc, gây trồng rừng theo phương án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt mà không có lý do chính đáng;

o   Chủ rừng sử dụng không đúng mục đích hoặc vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, sử dụng rừng, đất trồng rừng;

o   Cần sử dụng rừng, đất trồng rừng do nhu cầu quan trọng của nhà nước, của xã hội, cho nhu cầu khẩn cấp của chiến tranh hoặc phòng chống thiên tai.

(3) Các quy định về bảo vệ rừng:

+ Đối với rừng đặc dụng: pháp luật nghiêm cấm các hoạt động gây ảnh hưởng tới môi trường sinh thái.

Đối với phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, nghiêm cấm:

o   Các hoạt động làm thay đổi cảnh quan tự nhiên, ảnh hưởng đến đời sống tự nhiên của các loài động, thực vật hoang dã;

o   Thả và nuôi trồng các loài động vật, thực vật đưa từ nơi khác tới mà trước đây không phân bố ở các khu rừng đặc dụng (trường hợp đặc biệt phải có ý kiến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn);

o   Khai thác các tài nguyên sinh vật và tài nguyên thiên nhiên khác;

o   Chăn thả gia súc;

o   Các hoạt động gây ô nhiễm môi trường;

o   Mang hoá chất độc hại, chất nổ, chất dễ cháy vào rừng, đốt lửa trong rừng và ven rừng.

Đối với phân khu phục hồi sinh thái, nghiêm cấm các hoạt động:

o   Khai thác các tài nguyên sinh vật và tài nguyên thiên nhiên khác;

o   Gây ô nhiễm môi trường.

+ Đối với rừng phòng hộ, Nhà nước cho phép các hoạt động khai thác tận dụng cây khô, chết, cây sâu bệnh, cây cụt ngọn, cây già cỗi, cây ở nơi mật độ quá dày, với cường độ khai thác không quá 20%, trừ các loại gỗ nhóm 1A quy định tại Nghị định số 18-HĐBT ngày 17/01/1992 của Hội đồng Bộ trường (nay là Chính phủ); cho phép tận thu cây gỗ gãy, gỗ nằm còn lại từ lâu năm để tạo điều kiện tái sinh tự nhiên; cho phép tận thu các loại lâm sản ngoài gỗ, tre, nứa mà không làm ảnh hưởng đến khả năng phòng hộ của rừng, trừ các loại lâm sản thuộc nhóm I. Song song với việc khai thác tận thu nói trên, chủ rừng phải quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bằng các biện pháp như: trồng rừng mới, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, làm giàu rừng.

+ Đối với rừng trồng là rừng tự nhiên, sau khi khai thác phải dọn vệ sinh và đóng cửa rừng; đưa rừng vào bảo vệ, nuôi dưỡng trong suốt luân kỳ tiếp theo.

(4) Các quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản:

Pháp luật về bảo vệ rừng quy định rõ mức xử phạt hành chính đối với các hành vi sau:

+ Phá rừng trái phép: là hành vi phá rừng với bất kỳ mục đích gì mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được phép nhưng làm không đúng quy định cho phép;

+ Khai thác rừng trái phép: là hành vi chặt cây rừng, lấy lâm sản không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc cho phép những đã vi phạm các quy định về quản lý, khai thác rừng;

+ Phát đốt rừng trái phép để làm nương rẫy: là hành vi phát đốt rừng để làm nương rẫy ra ngoài vùng quy định;

+ Vi phạm các quy định về phòng, trừ sâu bênh hại rừng: là hành vi của chủ rừng không chấp hành đầy đủ các biện pháp về phòng, trừ để dịch sâu bệnh gây thiệt hại đến rừng;

+ Săn bắt trái phép động vật rừng: là hành vi săn bắt động vật rừng, không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, hoặc được phép nhưng đã vi phạm các quy định về quản lý động vật rừng (loài cấm, khu vực cấm, mùa cấm, phương pháp và phương tiện sử dụng, sai chủng loại hoặc vượt quá số lượng cho phép);

+ Gây thiệt hại đất rừng: là hành vi vi phạm quy định về bảo vệ đất rừng như: đào bới, nổ mìn, làm mất lớp màu mỡ của đất rừng; đào đắp ngăn nguồn sinh thuỷ, tháo nước, xả chất độc hại vào đất rừng;

+ Vận chuyển, mua, bán trái phép lâm sản: là hành vi vận chuyển, mua, bán lâm sản không có nguồn gốc khai thác, mua, bán bất hợp pháp hoặc loại lâm sản không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép sử dụng;

+ Vi phạm các quy định quản lý nhà nước về chế biến gỗ và lâm sản;

+ Vi phạm các thủ tục về trình kiểm lâm sản: là hành vi vi phạm thủ tục trình kiểm lâm sản khi vận chuyển qua các Hạt, Trạm phúc kiểm lâm sản hoặc không trình kiểm khi nhập, xuất lâm sản trong hoạt động chế biến gỗ và lâm sản.

- Kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm việc chấp hành các quy định về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; giải quyết các tranh chấp về rừng, đất trồng rừng:

Đây là hoạt động quản lý nhà nước phổ biến trong mọi lĩnh vực, có tác dụng nâng cao ý thức pháp luật, ý thức trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường rừng. Việc kiểm tra, thanh tra do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chuyên môn về rừng chịu trách nhiệm thực hiện. Ngoài ra, ở các địa phương, việc kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng sẽ do uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện. Trong quá trình thành tra, các cơ quan nêu trên có quyền xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo thẩm quyền luật định.

So với các lĩnh vực khác, những tranh chấp về rừng và đất trồng rừng ít xảy ra hơn, nhưng không phải là không có. Do vậy, việc xác định cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này cũng được xác định để đảm bảo hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ rừng. Theo quy định hiện hành của pháp luật bảo vệ rừng, thẩm quyền này được phân định như sau:

o   Các tranh chấp về quyền sử dụng đất trồng rừng, đất có rừng mà người sử dụng đất đó không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ do Uỷ ban nhân dân cấp huyện trở lên giải quyết.

o   Các tranh chấp nêu trên mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các tranh chấp về thực vật rừng, động vật rừng, công trình kiến trúc, tài sản khác; tranh chấp việc đền bù thiệt hại, bồi hoàn thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất có rừng, đất trồng rừng do Toà án nhân dân giải quyết.

Bên cạnh những chế định quan trọng nêu trên, hệ thống pháp luật về bảo vệ rừng còn bao gồm một số chế định khác như: các quy định về phòng cháy và chữa cháy rừng, các quy định về quản lý và bảo vệ các động vật hoang dã v.v.

3. Đánh giá tổng quan hệ thống pháp luật hiện hành và hiệu quả áp dụng trong thực tiễn

Mặc dù Nhà nước ta đã có những quan tâm đặc biệt đến việc đến công tác quản lý, bảo vệ rừng bằng pháp luật, thể  hiện qua việc có hơn 100 văn bản pháp luật do Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan trung ương khác ban hành. Các văn bản này là công cụ quan trọng, giúp Nhà nước quản lý và bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên rừng của đất nước. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng quan về hệ thống chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này cho thấy nổi lên một số vấn đề bất cập như sau:

- Chúng ta chưa có chiến lược, chính sách lâu dài cho việc quản lý và bảo vệ rừng để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch hành động cụ thể. Một số chính sách tăng cường hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng như: chính sách xã hội hoá, chính sách khuyến lâm ... bước đầu được triển khai và đạt kết quả tốt, tuy nhiên chưa có điều kiện áp dụng trên diện rộng.

- Pháp luật bảo vệ rừng Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển khá sớm, song do rừng là một nguồn tài nguyên mang lại lợi ích nhiều mặt cho nhiều đối tượng nên các tác động tiêu cực đến tài nguyên rừng cũng xảy ra nhiều và phức tạp. Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 được ban hành vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới khi nền kinh tế thị trường mới bắt đầu vận hành nên những tác động tiêu cực của cơ chế này đến việc khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên nói chung, tài nguyên rừng nói riêng chưa bộc lộ rõ nét. Vì vậy, pháp luật chưa phản ánh hết những yêu cầu đặt ra của công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng cho những năm sau này. So với yêu cầu mới, Luật Bảo vệ và phát triển rừng đang bộc lộ những hạn chế nhất định.

- Chế độ quản lý, bảo vệ rừng được quy định trong các văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài các văn bản pháp luật về tài nguyên rừng còn có các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác như: pháp luật về đất đai, pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về tài nguyên nước, pháp luật về nguồn lợi thuỷ sản, pháp luật hình sự... Hơn nữa, tuyệt đại đa số các văn bản nêu trên là các văn bản dưới luật và chất lượng văn bản còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trong những năm gần đây, số lượng các văn bản này tăng nhanh, cũng như nội dung các văn bản thay đổi khá nhiều. Trong khi đó, công tác rà soát văn bản để phát hiện ra những văn bản hết hiệu lực cũng như sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản đạt kết quả chưa cao. Điều này dẫn đến tình trạng không ít văn bản đã hết hiệu lực áp dụng (toàn bộ văn bản hoặc một số điều khoản của văn bản) song vẫn được áp dụng trên thực tế. Ngược lại, có nhiều văn bản được sửa đổi, bổ sung hoặc được ban hành mới, song các cơ quan áp dụng pháp luật (chủ yếu là các cơ quan ở địa phương) không cập nhật kịp thời để thi hành.

- Những quy định pháp luật không rõ ràng, thiếu minh bạch, dẫn đến có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau trên thực tế. Các quy định về quyền hạn của các chủ thể quản lý, bảo vệ rừng đặc dụng chưa ngang tầm với nhiệm  vụ của họ.

- Cơ cấu tổ chức quản lý không thống nhất giữa các địa phương trên phạm vi cả nước. Vẫn có sự khác biệt về cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp giữa các địa phương dẫn đến tình trạng chồng chéo của một số văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các chủ thể quản lý. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành ở trung ương cũng như địa phương chưa đồng bộ, thiếu thông suốt nên việc ban hành các văn bản hướng dẫn, áp dụng pháp luật còn mang tính cục bộ, chứa đựng nhiều mâu thuẫn cần loại bỏ.

4. Những phân tích, đánh giá chi tiết về cơ chế và pháp luật hiện hành về quản lý và bảo vệ rừng so với quy định chung trên thế giới và so với thực tiễn của Việt Nam

4.1. Vấn đề phân loại rừng

a. Về thuật ngữ "rừng đặc dụng":

Thuật ngữ pháp lý "rừng đặc dụng" lần đầu tiên được quy định tại Quyết định số 1171-QĐ ngày 30/12/1986 do Bộ Lâm nghiệp ban hành Quy chế quản lý rừng đặc dụng, thay thế cho thuật ngữ "rừng cấm" trước đây. Hiện tại, thuật ngữ "rừng đặc dụng" được sử dụng thống nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng. Theo quy định này (Quy chế quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất là rừng tự nhiên ban hành kèm theo Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ), căn cứ vào đặc điểm, tính chất, mục đích sử dụng cụ thể của từng khu rừng đặc dụng, rừng đặc dụng được phân thành 3 hạng: (1) Vườn quốc gia; (2) Khu bảo tồn thiên nhiên; (3) Rừng văn hoá, xã hội, nghiên cứu thí nghiệm. Mặc dù, cách phân hạng này về cơ bản đã tiếp cận theo cách phân hạng của các khu bảo vệ của IUCN và có sự thay đổi nhất định cho phù hợp hơn với tình hình thực tế của công tác quản lý rừng đặc dụng Việt Nam, song với cách gọi tên và phân loại các loại rừng đặc dụng như hiện nay, làm nảy sinh một số vấn đề đáng lưu ý sau:

- Về tên gọi "Rừng đặc dụng": Theo nghĩa thông thường, khái niệm đặc dụng được hiểu là sử dụng vào những mục đích đặc biệt, trong khi nhiều khu rừng đòi hỏi phải được bảo tồn chứ không nhằm mục đích sử dụng. Vì vậy, tên gọi rừng đặc dụng không diễn tả được hết ý nghĩa của việc cần phải bảo vệ các loại rừng có giá trị đặc biệt này. Thuật ngữ đặc dụng dường như chỉ phù hợp với các loại rừng văn hoá - xã hội, nghiên cứu thí nghiệm mà chưa bảo quát được hết các khu rừng phải bảo vệ.

- Để nhấn mạnh hơn nhiệm vụ của các chủ thể trong việc bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hiện tại, một số quốc gia trong khu vực như Indonesia, Singapore cũng đã thay đổi cách gọi tên và phân hạng các loại rừng. Ví dụ, Luật Lâm nghiệp quốc gia Malaysia (sửa đổi) 1993 quy định "Rừng bảo tồn vĩnh cửu gồm rừng sản xuất gỗ có sản lượng bền vững; rừng bảo vệ đất; rừng đề phòng lũ lụt, rừng dành cho đời sống hoang dã; rừng phục hồi; rừng giáo dục, rừng nghiên cứu..." (Điều 10); Luật Lâm nghiệp Myanmar thiết lập hệ thống rừng thành Rừng dự trữ (rừng cấm) và Rừng phòng hộ công cộng (Điều 2); Luật Lâm nghiệp của Cộng hoà Indonesia chia rừng thành Rừng sản xuất, rừng phòng hộ và các khu bảo tồn (Điều 1), trong đó các khu bảo tồn gồm các loại như sau: Vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài, công viên giải trí, khu dự trữ săn bắn, Rừng bảo vệ. Đặc biệt ở Phillippines có Luật về hệ thống khu vực bảo vệ đồng bộ quốc gia (NIPAS, Luật Hành chính 25, 1992)...

- Theo cách gọi tên các loại rừng đặc dụng như hiện nay thì khu bảo tồn thiên nhiên chỉ là một trong ba loại rừng đặc dụng, trong khi theo IUCN thì hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên (hay hệ thống các khu vực được bảo vệ) là một khái niệm bao trùm (bao gồm các khu trên cạn, đất ngập nước, ven biển và trên biển), trong đó vườn quốc gia được xem là một trong những khu bảo tồn thiên nhiên, cùng với các khu bảo tồn khác (bảo tồn từng phần) như: khu bảo tồn loài, bảo tồn kỳ quan thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan... cấu thành nên hệ thống này.

- Chưa có sự thống nhất về cách gọi tên một số loại rừng đặc dụng trong các văn bản pháp luật. Ví dụ: rừng văn hoá, xã hội, nghiên cứu thí nghiệm trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng lại được gọi tên là rừng di tích lịch sử, văn hoá, cảnh quan, du lịch. Trong quy chế quản lý rừng đặc dụng ban hành kèm theo Quyết định 08/2001/QĐ-TTg, rừng này lại có tên là rừng văn hoá, lịch sử, môi trường hay rừng bảo vệ cảnh quan.

Để đảm bảo tính thống nhất trong cách hiểu và gọi tên các loại rừng nói trên, đồng thời để phủ hợp hơn với xu thế quốc tế hoá một số lĩnh vực pháp lý, trong đó có lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên, tại Việt Nam, thuật ngữ rừng đặc dụng cần được thay đổi thành rừng bảo tồn hoặc được giải nghĩa theo hướng này một cách rõ hơn trong các điều khoản giải thích Luật Bảo vệ và phát triển rừng. Theo đó, việc sử dụng thuật ngữ rừng bảo tồn sẽ có tác dụng nhấn mạnh tính chất, mục đích cũng như nhiệm vụ của việc xác lập loại rừng này là để bảo tồn mà mục đích chính không phải là để khai thác, sử dụng.

b. Về việc thành lập và giao các khu rừng đặc dụng

Xuất phát từ hai đặc điểm chính của rừng đặc dụng là: (1) hầu hết các khu rừng đặc dụng là rừng tự nhiên và (2) rừng đặc dụng có giá trị to lớn về nhiều mặt như: kinh tế, khoa học, môi sinh..., pháp luật về bảo vệ rừng của Việt Nam quy định tương đối đầy đủ việc thành lập và phân cấp quản lý các khu rừng đặc dụng. Tuy nhiên, vẫn có sự chưa rõ ràng và thiếu thống nhất giữa các văn bản pháp luật cũng như còn thiếu nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về vấn đề này, cụ thể:

- Nghị định số 17/HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng quy định: "Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) chịu trách nhiệm cùng các ngành, địa phương có liên quan quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng trong cả nước, bao gồm: Các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu rừng di tích, lịch sử, văn hoá, cảnh quan, du lịch... trình Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) phê duyệt, tiến hành việc xác lập và giao cho các tổ chức thuộc Bộ Lâm nghiệp hoặc ngành, địa phương có liên quan để quản lý, xây dựng theo thẩm quyền được quy định" (Điều 14). Song, tại Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ lại chỉ quy định: "Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có quyền đề xuất Chính phủ xác lập các vườn quốc gia, khu rừng bảo tồn thiên nhiên, khu rừng phòng hộ có tầm quan trọng quốc gia hoặc nằm trên lãnh thổ của nhiều tỉnh, các khu rừng giống quốc gia..." mà không đề cập đến quyền đề xuất Chính phủ xác lập các khu rừng văn hoá, lịch sử, môi trường có tầm quan trọng quốc gia hoặc quốc tế thuộc cơ quan nào.

- Điều 11 Luật Bảo vệ và phát triển rừng quy định: (1) Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) quyết định xác lập và giao các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có tầm quan trọng quốc gia cho các Ban Quản lý thuộc Bộ Lâm nghiệp hoặc các cơ quan khác thuộc Chính phủ; (2) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xác lập và giao các khu rừng đặc dụng có tầm quan trọng quốc gia theo uỷ quyền của Hội đồng Bộ trường  và các khu rừng đặc dụng có tầm quan trọng địa phương cho các Ban Quản lý thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Điều 3, khoản 4, điểm a Quy chế quản lý rừng đặc dụng 2001 quy định: (1) Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thống nhất với UBND tỉnh có rừng đặc dụng cùng các Bộ, ngành liên quan tổ chức thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập các Vườn quốc gia, xác lập các khu rừng đặc dụng khác nằm trong hệ thống các khu rừng đặc dụng; (2) Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập các khu rừng đặc dụng có tầm quan trọng thuộc địa phương sau khi có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Bộ NN&PTNT.

Trên thực tế, giữa các ngành cũng như các địa phương, do chưa thống nhất các tiêu chí chung để xác định tầm quan trọng của mỗi khu rừng đặc dụng làm căn cứ quy định thẩm quyền xác lập các khu rừng đó, nên đã nảy sinh một số vấn đề như sau:

- Có những diện tích rừng rất rộng thuộc phạm vi hai hoặc nhiều tỉnh, song do nhận thức khác nhau về tầm quan trọng của hệ sinh thái rừng nên có địa phương mong muồn xác lập khu rừng đó (phần nằm trên địa phận của tỉnh) thành khu bảo tồn thuộc tỉnh để quản lý, bảo vệ theo quy chế riêng, nhưng cũng có địa phương (các tỉnh lân cận) lại không mong muốn điều này. Vì vậy, đã dẫn đến tình trạng cùng một hệ sinh thái rừng nhưng lại bị chia cắt thành nhiều bộ phận khác nhau và mỗi bộ phận lại được áp dụng các cách thức quản lý, bảo vệ không giống nhau. Điều này ít nhiều làm ảnh hưởng đến hiệu quả bảo vệ hệ sinh thái rừng ở khu đó nói chung và trong khu bảo tồn nói riêng.

- Có những khu rừng đặc dụng nếu chỉ xem xét thuần tuý dưới góc độ tài nguyên rừng thì giá trị, tầm quan trọng không đáng kể (chỉ trong phạm vi địa phương). Song, xem xét dưới góc độ sinh thái học, môi trường học thì lại có tầm quan trọng quốc tế. Ví dụ: khu RAMSAR Xuân Thuỷ do Chính phủ Việt Nam đề xuất trong Công ước Ramsar vào năm 1989 với tổng diện tích 12.000 ha. Đây là vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, là nơi di trú của nhiều loài chim đang bị đe doạ ở mức độ toàn cầu. Hiện tại, khu RAMSAR được UBND tỉnh Nam Định quyết định giao cho Ban quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên rừng ngập nước quản lý, bảo vệ (Ban quản lý trực thuộc Chi cục Kiểm lâm, Sở NN&PTNT tỉnh Nam Định), nên việc đầu tư về cơ sở hạ tầng cũng như các điều kiện khoa học, kỹ thuật khác cho Ban quản lý còn nhiều hạn chế.

- Có địa phương do không nhận thức được một cách đầy đủ, lâu dài về tầm quan trọng của các khu rừng đặc dụng nên đã tự ý huỷ bỏ (hoặc từ chối) lập đề án thành lập khu bảo tồn thiên nhiên tại địa phương mình. Chính quyền địa phương cho rằng thực hiện theo quy chế bảo tồn là quá nghiêm ngặt, không có điều kiện phát triển, trong khi sử dụng khu rừng đó vào các mục đích khác có thể sẽ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Ví dụ: sử dụng vùng đất ngập nước (rừng ngập mặn) vào các mục đích nuôi trồng thuỷ, hải sản... chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với việc bảo tồn các khu vực này.

- Có những khu rừng đặc dụng đã được xác định là vườn quốc gia, song các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương lại cho rằng địa phương quản lý các khu rừng đó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn về mọi mặt. Ví dụ như trường hợp thành phố Hải Phòng và UBND huyện Cát Hải đã lập đề án đề nghị Bộ NN&PTNT giao lại Vườn quốc gia Cát Bà cho tỉnh và huyện quản lý, bảo vệ.

Từ thực trạng nêu trên cho thấy: Cần có sự thống nhất nhận thức rằng việc xác lập các khu rừng đặc dụng hoàn toàn mang tính lịch sử, có thể thay đổi theo thời gian. Nếu phát hiện ra các khu rừng có giá trị nhiều mặt (đặc biệt là giá trị sinh thái, giá trị khoa học) cần phải bảo tồn; cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xây dựng các quy hoạch, các đề án làm cơ sở xác lập mới các khu rừng đặc dụng hoặc thay đổi tên gọi, diện tích, ranh giới, phân hạng giữa các khu rừng đặc dụng. Ngược lại, nếu phát hiện ra những khu rừng đặc dụng hiện có không còn đủ tiêu chuẩn như diện tích bị thu hẹp, các giống loài sinh vật bị suy thoái, giá trị môi sinh không còn thì cần phải loại bỏ ra khỏi hệ thống.

Để loại trừ khả năng dẫn đến sự tuỳ tiện trong việc thành lập các khu rừng đặc dụng, điều cần thiết về mặt khoa học và pháp lý là Nhà nước cần xác định các tiêu chí cụ thể làm cơ sở để phân định một cách rõ ràng các nội dung để xác định: (1) Các khu rừng do trung ương quản lý, đầu tư cớ những khu rừng do địa phương quản lý, đầu tư; (2) Các khu rừng do ngành lâm nghiệp quản lý với các khu rừng do ngành văn hoá, thông tin quản lý; (3) Các điều kiện để được phép hoặc không được phép chuyển đổi mục đích, chức năng, nhiệm vụ đối với các khu rừng đặc dụng cụ thể; (4) Cơ chế phối hợp giữa UBND các tỉnh lân cận trong việc bảo tồn các hệ sinh thái rừng đặc dụng không cùng quy chế quản lý, bảo vệ; (5) Vai trò, trách nhiệm thẩm định của Bộ NN&PTNT đối với hệ thống các khu rừng đặc dụng; (6) Quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể quản lý và bảo vệ các loại rừng khác nhau.

4.2. Về thể chế quản lý và bảo vệ rừng

Thể chế quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng được quy định tương đối rõ ràng trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991. Theo đó, ngoài các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về rừng và đất trồng rừng như Chính phủ, UBND các cấp và các cơ quan thuộc ngành lâm nghiệp, tài nguyên rừng còn được quản lý và bảo vệ bởi các chủ thể sau:

- Ở mỗi khu rừng đặc dụng phải thành lập Ban quản lý.

- Kiểm lâm là lực lượng chuyên trách có chức năng quản lý và bảo vệ rừng, đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Bộ NN&PTNT, sự chỉ đạo, kiểm tra của cơ quan chính quyền địa phương.

Căn cứ vào các quy định trên, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành làm cơ sở cho việc thiết lập thể chế quản lý và bảo vệ rừng, bao gồm: (1) Các văn bản về quản lý và phân cấp quản lý nhà nước về lâm nghiệp nói chung, rừng và đất trồng rừng nói riêng và (2) Các văn bản về quản lý, bảo vệ rừng của lực lượng kiểm lâm.

Tuy nhiên, quá trình thực thi các văn bản này cho thấy: Thể chế quản lý, bảo vệ rừng ở Việt Nam có cơ cấu tương đối phức tạp và chưa thống nhất giữa các địa phương. Một phần nguyên nhân là do lịch sử để lại, do những thay đổi lớn về bộ máy nhà nước qua từng thời kỳ. Song, nguyên nhân chính phải kể đến sự chưa rõ ràng trong các quy định của pháp luật, trong việc phân định phạm vi, quyền hạn giữa các chủ thể cũng như sự hạn chế trong công tác tổ chức, trong thực tiễn áp dụng pháp luật tại địa phương. Điều đó thể hiện ở một số vấn đề sau:

- Theo các quy định về quản lý và phân cấp quản lý rừng đặc dụng thì hệ thống các khu rừng đặc dụng được Nhà nước quản lý  theo 2 cấp độ chính là cấp trung ương và cấp tỉnh. Tương ứng là 3 nhóm chủ thể có quyền quản lý nhà nước đối với rừng đặc dụng là: Bộ NN&PTNT, Bộ Văn hoá - Thông tin và UBND cấp tỉnh (trong đó bao gồm cả những khu rừng tỉnh giao cho huyện quản lý xây dựng và khai thác vào mục đích tham quan du lịch. Việc mở rộng phạm vi các chủ thể tham gia quản lý và bảo vệ rừng như trên là hoàn toàn phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các hình thức quản lý, bảo vệ và phát triển rừng hiện nay. Tuy nhiên, các quy định trên mới chỉ dừng ở việc đa dạng hoá các chủ thể quản lý nhà nước mà chưa thể hiện đầy đủ chủ trương xã hội hoá việc bảo vệ rừng. Việc đa dạng hoá chủ thể quản lý nhà nước trong việc bảo vệ rừng luôn tiềm ẩn nguy cơ chồng chéo nhiệm vụ, quyền hạn, tình trạng ỷ lại hoặc thờ ơ của nhiều cấp chính quyền (nhất là những nơi mà UBND các cấp muốn trực tiếp quản lý các rừng đặc dụng hiện đang do trung ương quản lý).

- Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 quy định: "ở mỗi khu rừng đặc dụng phải thành lập Ban quản lý" (Điều 33). Quy định này đã lỗi thời, không phù hợp với thực tế hiện nay bởi đối với những khu rừng đặc dụng có diện tích nhỏ, có giá trị và tầm quan trọng không lớn về kinh tế, khoa học và môi sinh thì việc nhất thiết phải thành lập ở mỗi khu rừng đặc dụng một Ban quản lý (với tư cách là một đơn vị sự nghiệp có thu) là điều không khả thi, không nhất quán với chủ trương hiện nay của Nhà nước là đa dạng hoá các hình thức quản lý trong công tác bảo vệ rừng.

- Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp quy định: "Sở NN&PTNT là cơ quan giúp UBND cấp tỉnh thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp" (khoản 2, điều 4), song cũng tại văn bản này, khoản 4, điều 4 quy định nhiệm vụ của Sở Địa chính (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường) như sau: "Sở Địa chính là cơ quan giúp UBND cấp tỉnh thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về đất lâm nghiệp". Với các quy định này, hai cơ quan áp dụng pháp luật là Sở NN&PTNT và Sở Địa chính sẽ rất khó khăn trong việc xác định phạm vi quyền hạn và nhiệm vụ của mình trong quản lý và bảo vệ đất lâm nghiệp.

- Do tài nguyên rừng luôn gắn liền với các tài nguyên khác như: đất đai, nguồn nước, hệ sinh vật, di sản ... nên việc quản lý, bảo vệ rừng không thể tách rời với việc quản lý bảo vệ các nguồn tài nguyên này. Trong khi đó, ở Việt Nam hiện nay, các nguồn tài nguyên khác nhau lại được quản lý bởi các ngành khác nhau. Cụ thể: (1) Quản lý nhà nước về tài nguyên rừng thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý nông, lâm nghiệp mà cơ quan đứng đầu là Bộ NN&PTNT; (2) Quản lý nhà nước đối với nguồn lợi thuỷ sản thuộc thẩm quyền của ngành thuỷ sản mà cơ quan đứng đầu là Bộ Thuỷ sản; (3) Quản lý nhà nước về đất đai, môi trường, đa dạng sinh học, khoáng sản thuộc thẩm quyền của ngành tài nguyên và môi trường mà cơ quan đứng đầu là Bộ Tài nguyên và Môi trường; (4) Quản lý nhà nước về các di sản thuộc thẩm quyền của ngành văn hoá thông tin mà cơ quan đứng đầu là Bộ Văn hoá - Thông tin. Để thực hiện công tác quản lý của mình, mỗi cơ quan nêu trên phải trực tiếp ban hành các văn bản pháp luật làm căn cứ cho việc thực hiện pháp luật về quản lý và bảo vệ các nguồn tài nguyên thuộc ngành mình quản lý. Điều không tránh khỏi là hiện tượng không thống nhất giữa các văn bản do các ngành nêu trên ban hành, khiến cho công tác áp dụng pháp luật trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Để tránh tình trạng thiếu thống nhất trong các quy định pháp luật nêu trên, điều cần thiết là phải nhận thức đầy đủ về các mối liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời giữa các yếu tố tự nhiên trong mỗi khu vực cần bảo vệ (như đất đai, nguồn nước, động thực vật hoang dã, nguồn lợi thuỷ sản...). Vì vậy, đối với hệ thống các khu bảo tồn cần loại bỏ quan điểm quản lý ngành (quản lý theo chiều) đối với các nguồn tài nguyên trong đó, mà cần phải tiếp cận quan điểm quản lý tổng hợp (quản lý theo diện) tất cả các yếu tố hợp thành khu bảo tồn (không phụ thuộc vào nguồn tài nguyên đó là gì và hiện đang do cơ quan nào quản lý). Điều này sẽ làm nảy sinh nhu cầu cần phải xây dựng hệ thống pháp luật, thể chế dành riêng cho việc quản lý, bảo vệ các khu bảo tồn thiên nhiên.

4.3. Về hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan kiểm lâm

Tính đến thời điểm hiện nay, lực lượng kiểm lâm đã hình thành và phát triển được gần 30 năm. Kể từ ngày được thành lập đến nay, lực lượng kiểm lâm đã trải qua nhiều giai đoạn thay đổi về tổ chức và nhiệm vụ. Những biến động lớn về mặt cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được xem là một trong những nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng đến năng lực thực thi pháp luật của lực lượng này.

Bên cạnh đó, chức năng, nhiệm của lực lượng kiểm lâm có nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu thống nhất trong các văn bản pháp luật, khiến cho quá trình tổ chức thực hiện gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ: tại điều 45 Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 quy định: "Kiểm lâm là lực lượng chuyên trách .... đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ NN&PTNT) và sự chỉ đạo, kiểm tra của cơ quan chính quyền địa phương". Nhưng trong văn bản hướng dẫn thi hành điều luật này - Nghị định 39/CP quy định: "UBND cấp tỉnh ... trực tiếp quản lý toàn diện và chỉ đạo, kiểm lâm ở địa phương" (Điều 1); hoặc tại điều 5, Nghị định 39/CP quy định: "Chi cục kiểm lâm là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng", trong khi tại Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước các cấp về rừng và đất lâm nghiệp lại quy định: "Chi cục kiểm lâm là cơ quan thực hiện trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về quản lý bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn tỉnh" (Khoản 3, điều 4)... Ngoài ra, còn chưa có các quy định cụ thể về phạm vi trách nhiệm, quyền hạn và sự phối hợp hoạt động giữa hạt kiểm lâm vườn quốc gia với hạt kiểm lâm huyện.

Qua những phân tích trên cho thấy: Có nhiều vướng mắc trong các quy định pháp luật về chức năng, quyền hạn của các lực lượng kiểm lâm. Sự chồng chéo này chính là biểu hiện của cố gằng nhằm đưa hết các cơ quan quản lý hành chính nhà nước vào việc bảo vệ rừng như đã nêu. Đây chính là một trong những hạn chế lớn đối với năng lực thừa hành pháp luật của lực lượng kiểm lâm.

4.4. Về thẩm quyền của các cơ quan quản lý trong xử phạt vi phạm pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng

Các quy định về thẩm quyền xử phạt hành chính của lực lượng kiểm lâm đang bộc lộ những bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và bảo vệ rừng. Điều đó thể hiện ở một số vấn đề sau:

- Các nguyên tắc xử lý trong trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hoặc nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm chưa được xác định cụ thể trong Nghị định 77/CP mặc dù nguyên tắc này đã được quy định rất rõ trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự và Thông tư 01/NN/KL/TT ngày 18/2/1997 của Bộ NN&PTNT. Việc Nghị định 77/CP không quy định cụ thể vấn đề này đã dẫn đến những sai sót phổ biến sau: (1) Không xử lý hết các hành vi vi phạm; (2) Không xử lý hết những người vi phạm; (3) Xử lý vượt thẩm quyền; (4) Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì lại "chia nhỏ" cho từng người để xử lý hành chính.

- Diện tích rừng bị xâm hại, khối lượng gỗ, giá trị lâm sản phạm pháp được coi là căn cứ xử phạt hành chính quá lớn, dẫn đến thực tế là số vụ vi phạm pháp luật thì hiều, thậm chí có vụ nghiêm trọng, nhưng số vụ việc được xử lý hành chính hay đưa ra xét xử về hình sự không nhiều. Điều này đã ít nhiều làm giảm tính nghiêm minh và hiệu quả răn đe của pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm hại rừng. Ngoài ra, còn có một số quy định không phản ánh đúng các hiện tượng thực tế. Ví dụ: Nghị định quy định mức xử phạt tiền cao nhất là 2.000.000 đồng đối với hành vi chăn thả trái phép gia súc vào rừng gây thiệt hại về diện tích rừng sản xuất 2 ha, rừng phòng hộ 1 ha, rừng đặc dụng 0,5 ha (Điều 9). Trên thực tế, gia súc không thể phá hoại rừng với diện tích lớn như vậy được.

- Một số hành vi chưa được quy định cụ thể trong Nghị định hoặc đã có quy định nhưng chưa chặt chẽ, dẫn đến việc lợi dụng pháp luật, đồng thời không tạo ra được cơ sở pháp lý để xử lý nghiêm. Ví dụ: Khoản 5 Điều 5 Nghị định 77/CP quy định phạt tiền từ trên 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái phép 25 m3 gỗ tròn ở rừng sản xuất hoặc 10 m3 gỗ tròn quý hiếm. Với quy định này thì để trốn tránh việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người vi phạm chỉ cần khai thác trái phép cả hai loại gỗ dưới mức tối đa nói trên; trong khi đó, nếu đem cộng cả hai loại gỗ thì đã vượt mức tối đa (25 m3) gỗ tròn ở rừng sản xuất.

- Một số văn bản có liên quan liên quan trực tiếp đến Nghị định 77/CP chưa được sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế. Nghị định số 18/HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trường quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ xuất hiện nhiều điểm bất cập so với thực tế, có một số loài động thực vật rừng cần phải được đưa vào danh mục các loài quý hiếm để bảo vệ nghiêm ngặt hơn trước sự suy giảm về số lượng cũng như chủng loại trên thực tế. Ngược lại, cần thiết đưa ra khỏi danh mục các loài động thực vật không còn thoả mãn các tiêu chuẩn đề ra.

- Tồn tại trong các quy định về xử lý vi phạm hành chính còn thể hiện ở mâu thuẫn trong chính sách xử lý về cùng một loại hành vi vi phạm được quy định trong pháp luật quản lý, bảo vệ rừng với pháp luật đất đai, pháp luật bảo vệ môi trường... Điều này đã ít nhiều gây lúng túng cho người thừa hành pháp luật nói chung và lực lượng quản lý, bảo vệ rừng nói riêng. . Ví dụ: Nghị định số 77/CP là một văn bản chuyên ngành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản, không có quy định riêng về hành vi vi phạm về bảo vệ đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên hay hành vi vi phạm về khai thác, kinh doanh động thực vật quý hiếm, thì trái lại, Nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường lại quy định các hành vi này một cách khá cụ thể với mức xử phạt rất nghiêm khắc. Điều này sẽ gây khó khăn, lúng túng cho nhân viên kiểm lâm hoặc Chủ tịch UBND cấp xã khi phát hiện có hành vi "săn bắt động vật rừng quý hiếm trái quy định của pháp luật, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự", những có nhiều tình tiết tăng nặng thì xử phạt theo điểm a, khoản 3 điều 10 Nghị định số 77/CP (với mức phạt từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng) hay phải xử phạt theo khoản 3, điều 8, Nghị định số 26/CP (với mức phạt từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng).

- Một hạn chế lớn khác trong các quy định về thẩm quyền xử phạt hành chính là không quy định cho cơ quan kiểm lâm có thẩm quyền khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng. Thẩm quyền này thuộc Trưởng Công an cấp huyện. Trường hợp nơi cất giấu là nhà ở thì phải được Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn. Các cơ quan kiểm lâm thường được thông báo về nơi cất giữ lâm sản phạm pháp. Nếu được quyền khám xét nơi cất giấu tang vật thì sẽ ngăn chặn được hiệu quả hơn các hành vi phá rừng, vận chuyên lâm sản trái phép.

- Thẩm quyền tố tụng hình sự của cơ quan kiểm lâm đã được quy định tương đối đầy đủ trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự. Tuy nhiên, có thể nhận xét rằng, các quy định này mới chỉ dừng lại ở mức xác định thẩm quyền mà chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện. Vì vậy, công tác điều tra, truy tố, xét xử các hành vi phạm tội theo quy định trong những văn bản này vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa đáp ứng với yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm xâm hại đến rừng.

Bên cạnh tình trạng thiếu cơ chế cụ thể cho việc thực hiện thẩm quyền của các cơ quan kiểm lâm trong việc khởi tố, điều tra là những bất cập của pháp luật thực định liên quan đến vấn đề này. Bao gồm:

- Tính đến thời điểm này mới chỉ có duy nhất một văn bản pháp luật đề cập đến một số vấn đề có liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan kiểm lâm nhân dân trong hoạt động điều tra hình sự. Đó là Thông tư số 16-LN/KL ngày 20/9/1989 của Bộ Lâm nghiệp. Tuy nhiên, Thông tư này chỉ là văn bản đơn hành do Bộ Lâm nghiệp (cũ) ban hành mà chưa có được sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan như Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Chính vì vậy, các cơ quan kiểm lâm gặp nhiều lúng túng trong việc xác định tội danh của các loại tội phạm này. Điều này lại càng bức xúc hơn kể từ khi Bộ luật Hình sự 1999 có hiệu lực thi hành (01/7/2000). Việc phân loại tội phạm theo các quy định mới của BLHS dẫn tới sự thay đổi cơ cấu của tội phạm được quy định trong Điều 181 BLHS 1985. Sự thay đổi này càng làm cho Thông tư nêu trên trở nên bất cập hơn. Mặc dù Điểm 2 Mục I Thông tư 01-NN/KL/TT ngày 18/2/1997 đã đề cập đến việc cần thiết phải thay thế Thông tư số 16-LN/KL ngày 20/9/1989 của Bộ Lâm nghiệp, song tính đến thời điểm này (tháng 10/2001) văn bản này vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung mặc dù có quá nhiều điểm bất cập so với thực tế.

- Bộ luật Hình sự 1999 đã có hiệu lực hơn 1 năm nhưng các văn bản pháp luật tố tụng chưa được sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ. Hiện tại, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 1989 vẫn chưa được sửa đổi và như vậy, về mặt pháp lý cơ quan kiểm lâm chỉ có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự đối với những hành vi phạm tội đã được quy định tại các Điều 181, 194, 216 BLHS 1985 (tương ứng là các Điều 175, 176, 189, 190, 191, 240, 272, BLHS 1999). Câu hỏi đặt ra là với tư cách là cơ quan chuyên trách có chức năng quản lý và bảo vệ rừng thì cơ quan kiểm lâm có thẩm quyền khởi tố điều tra một số tội mà BLHS 1999 mới bổ sung hay không như tội vi phạm chế độ bảo vệ đối với khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 190) hay tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển buôn bán hàng cấm (Điều 155). Thêm nữa, do pháp luật quản lý, bảo vệ rừng quy định: "Bộ Văn hoá - Thông tin trực tiếp quản lý và tổ chức xây dựng các khu rừng văn hoá, lịch sử, môi trường đã được xếp hạng cấp quốc gia hoặc được quốc tế công nhận để phục vụ cho các mục tiêu tham quan du lịch băn hoá, lịch sử" (khoản 2, điều 9, Quy chế Quản lý rừng đặc dụng) thì phạm vi thẩm quyền của lực lượng kiểm lâm trong việc khởi tố điều tra các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng cũng cần được giải thích rõ hơn.

- Như trên đã phân tích, do ranh giới của việc áp dụng trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự không rõ ràng trong các quy định của pháp luật nên trên thực tế đang diễn ra hai tình trạng gần như đối lập: (1) Hình sự hoá các vi phạm ở mức xử lý hành chính (dẫn đến kết cục là trường hợp ra quyết định khởi tố những không điều tra được); (2) Hành chính hoá các vụ vi phạm có dấu hiệu phạm tội để tránh sự rắc rối, phức tạp về thủ tục tố tụng.

II. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ RỪNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Hiện trạng và những áp lực tới môi trường rừng hiện nay

1.1. Một vài nét về tài nguyên rừng ở nước ta

Rừng ở nước ta phân bố khắp các vùng địa lý có đặc trưng nhiệt đới mưa mùa, từ vùng đất ngập mặn, ngập nước chua phèn, đồng bằng, đồi núi, trên các cồn cát và những dãy núi đá vôi. Rừng tạo nên những khu hệ sinh cảnh khác nhau, nhân tố quan trọng tạo lập các giá trị phong phú của đa dạng sinh học. Do nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 3/4 diện tích tự nhiên là đồi núi và 3.260 km bờ biển nên rừng có sự đa dạng về loại hình, phong phú về thành phần loài cây..

- Hệ thực vật và động vật rừng: Mặc dù rừng Việt Nam đã bị suy giảm liên tục trong nhiều thế kỷ nhưng thành phần thực vật, động vật vẫn còn phong phú và đa dạng, nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Theo số liệu điều tra do Viện Điều tra Quy hoạch rừng công bố thì Việt Nam có 12.000 loài cây, trong đó có khoảng 7.000 loài thực vật cá mạch, khoảng 1.000 loài cây đặc hữu đã được biết đến và ít nhất là 1.000 loài cây có kích thước lớn có thể cho gỗ thương phẩm, trong đó khoảng 100 loài chiếm ưu thế trong các lâm phần, 42 loài thực vật được coi là quý hiếm.

Trong số rất nhiều loài tre nứa có mặt tại Việt Nam có khoảng 40 loài có giá trị thương mại. Có khoảng 40 loài Song, Mây và hàng năm có thể khai thác được 50.000 tấn Song, Mây. Số liệu điều tra cho thấy ở Việt Nam có trên 1.800 loài cây thuốc, trong đó 2/3 số loài có thể tìm thấy ngoài tự nhiên. Đây thực sự là một kho thiên nhiên quý giá các loài cây thuốc. Các loài cây rừng thân thảo là một thành phần quan trọng của rừng nhiệt đới. Kết quả điều tra bước đầu cho thấy có 76 loài cho tinh dầu thơm, 600 loài chứa chất ta-nanh, 160 loài cho dầu và 260 loài cho dầu béo. Rất nhiều các sản phẩm phi gỗ này có nhu cầu rất lớn trên thị trường trong nước và xuất khẩu.

Theo GS.TS Đặng Huy Huỳnh tại Hội nghị quốc tế về Môi trường và phát triển bền vững, Việt Nam có 11.217 loài và phân loài động vật. Trong đó có 1009 loài và phân loài chim, 265 loài thú, 349 loài bò sát - lưỡng cư, hàng trăm loài cá và hàng ngàn loài tôm, cua, nhuyễn thể, thuỷ sinh vật. Động vật rừng Việt Nam không chỉ giầu về thành phần loài và còn có những nét độc đáo đại diện cho vùng Đông Nam Á, lại có nhiều loài đặc hữu quý hiếm có giá trị cao.

Hiện nay, số loài cây đặc hữu ngày càng giảm và nhiều loài đang có nguy cơ tiệt chủng.

- Rừng trồng: Hoạt động trồng rừng ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1955 và có thể chia ra 3 giai đoạn như sau:

·       Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975: đã trồng được khoảng 219 nghìn ha rừng. Trong những năm đầu của giai đoạn này, diện tích rừng trồng thường nhỏ và phân bố rải rác. Từ năm 1961, công tác trồng từng đã thực sự được đẩy mạnh và mỗi năm trung bình đã trồng được khoảng 50 nghìn ha.

·       Giai đoạn từ 1975 đến năm 1985: đã trồng được hơn 1 triệu ha rừng. Tốc độ trồng rừng hàng năm đã đạt khoảng 160.000 ha/ năm. Kế hoạch trồng rừng được đề ra cho từng vùng và cho từng mục đích khác nhau.

·       Giai đoạn rừng năm 1986 đến nay: khoảng 1,5 triệu ha rừng trồng đã được trồng trong khoảng thời gian này. Nhờ có quá trình đổi mới, chính sách kinh tế mở cửa và quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng mà công cuộc trồng rừng ở Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong công nghệ, quản lý và bảo vệ. Rừng được trồng với mục đích rõ ràng tính đến cả lợi ích kinh tế. Tập đoàn cây trồng cho từng vùng được nghiên cứu kỹ càng hơn và rừng được trồng tập trung hơn, mang tính thâm canh nhiều hơn. Tỷ lệ cây sống đã đạt cao hơn hẳn so với những giai đoạn trước đây.

Trong thời gian từ năm 1990 trở lại đây, diện tích rừng trồng tập trung và cây phân tán không ngừng tăng. Những vùng trồng rừng tập trung đạt hiệu quả đáng kể trong những nâm gần đây là vùng Trung tâm Bắc bộ, vùng Đông bắc bắc bộ, vùng Bắc trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Phần lớn rừng trồng có mục đích sản xuất, hai thác tập đoàn cây trồng mọc nhanh phục vụ gỗ gia dụng, gỗ trụ mỏ, gỗ nguyên liệu giấy. Rừng trồng khu vực phòng hộ chưa đạt yêu cầu bảo vệ môi trường, ở một số vùng diện tích rừng trồng phòng hộ cao hơn rừng sản xuất nhưng hiệu quả phòng hộ chưa cao.

Diễn biến trồng rừng tới nay cho thấy diện tích có tăng lên nhưng không đạt yêu cầu phòng hộ môi trường:

·       Rừng trồng tập trung và cây phân tán không bù lại được rừng bị mất đi hàng năm, gây mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng;

·       Hàng năm rừng trồng cũng bị khai thác một lượng đáng kể (ước tính khoảng 25% diện tích rừng trồng hiện có);

Trong trồng rừng phần lớn đều sử dụng các loài cây nhập nội, mọc nhanh, hiệu quả môi trường thấp.

1.2. Diễn biến môi trường rừng

Trong gần bốn thập niên đầu của nửa sau thế kỷ 20 (những năm "60" đến "90"), rừng của nước ta bị suy giảm nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân, đặc biệt do chiến tranh tàn phá huỷ diệt, sau đó là phá rừng lấy đất canh tác không bền vững (du canh du cư, khai hoang ồ ạt, khai thác gỗ bừa bãi). Trong thập niên cuối của thế kỷ 20, Nhà nước ta đã kịp thời có những giải pháp hữu hiệu, những chính sách thích hợp, hạn chế và ngăn chặn nạn xâm hại rừng, cứu vãn tình trạng rừng suy giảm, kiểm soát các thảm hoạ mất rừng gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Tỷ lệ che phủ rừng ở nửa đầu thế kỷ 20 là 43% trên đất đai lãnh thổ nước ta, sau đó giảm xuống tới mức báo động 27% vào năm 1991, và tăng lên 33,2% vào năm 2001 theo xu thế khả quan trên cơ sở thực hiện các biện pháp chiến lược của Nhà nước đối với bảo vệ và phát triển rừng.

Đặc điểm nổi bật của hiện trạng rừng trong năm 2000 và sang năm 2001 là tăng rõ rệt diện tích rừng, bao gồm rừng tái sinh phục hồi tự nhiên và rừng trồng. Những giải pháp hữu hiệu, những chính sách thích hợp của Nhà nước áp dụng phát triển lâm nghiệp ngay từ đầu những năm "90" đã dẫn tới hệ quả gia tăng diện tích rừng.

Diện tích rừng tăng lên vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, tán cây rừng che phủ đất đai tăng lên với xu thế tích cực, tuy nhiên mới ở bước đầu, hiệu quả môi trường của rừng phục hồi chưa đáng kể. Hiện trạng rừng ở thời kỳ này trên thực tế vẫn còn phân tán, dạng "da báo", chưa liền khoảnh trở thành những vùng rừng rộng lớn tập trung, chưa đủ các điều kiện phát huy khả năng phòng hộ môi trường. Xu thế diện tích rừng ở những năm 2000, 2001 là yếu tố đáng mừng đối với hiện trạng rừng trong các năm tới, diễn biến tích cực của rừng sẽ ảnh hưởng tốt với bảo vệ môi trường vào thời kỳ 2005 trở đi.

- Rừng đặc dụng, với ý nghĩa bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn sinh quyển có diện tích 1.524.868 ha, chiếm 14% tổng diện tích hiện trạng rừng toàn quốc.

- Rừng phòng hộ (đầu nguồn xung yếu, ven biển, cát di động...) có diện tích 5.350.668 ha, chiếm 49% tổng diện tích hiện trạng rừng toàn quốc.

- Rừng sản xuất có diện tích 4.040.056 ha, chiếm 37% tổng diện tích hiện trạng rừng toàn quốc, nhưng hầu hết là rừng trồng và rừng tự nhiên được khoanh nuôi phục hồi từ đối tượng đất rừng giao cho hộ gia đình và các chủ rừng cụ thể, thực hiện kinh doanh rừng theo quy hoạch bền vững.

Thành phần loại hình rừng chức năng ở thời kỳ đầu năm 2001 là 63% rừng đặc dụng bảo tồn thiên nhiên và phòng hộ, thể hiện tính hoạch định và biện pháp thực hiện chiến lược của Nhà nước ta đối với bảo vệ và phát triển rừng trong phát triển bền vững quốc gia

Như vậy, trong những năm 1990 xu thế diễn biến của tài nguyên từng Việt Nam đứng trên góc độ là tích cực, đã có dấu hiệu tăng dần. Tuy nhiên, điều nhận xét này không thể nói về chất lượng rừng. Rừng tự nhiên có giá trị cao về kinh tế và môi trường vẫn tiếp tục bị suy giảm, đặc biệt là các loại rừng có trữ lượng giầu và trung bình. Trong số diện tích rừng tự nhiên hiện còn chiếm ưu thế là các loại rừng có trữ lượng nghèo, chất lượng cây rừng kém và các loại rừng mới được phục hồi từ đất nương rẫy cũ, đất trống cây bụi và đất rừng bị khai thác kiệt. Trong khi đó, diện tích rừng trồng tăng lên rõ rệt.

2. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội và những vấn đề đặt ra đối với môi trường nói chung và môi trường rừng nói riêng

2.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010

Nhận thức tác động tiêu cực của suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường đối với sự tiếp tục tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của đất nước, Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm tới của nước ta đã được xây dựng theo quan điểm mà Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 25/6/1998 đã chỉ rõ là "Coi công tác bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành; là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Quan điểm này cũng đã được thể hiện trong đường lối kinh tế của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới của thế kỷ 21 là "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh”. Như vậy, so với đường lối kinh tế của giai đoạn cách mạng trong các thập kỷ trước đây, yêu cầu về sự bền vững trong phát triển, đảm bảo bảo vệ và cải thiện môi trường cho phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững đã trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển của đất nước.

Trên cơ sở đường lối kinh tế như vậy, định hướng phát triển trên các lĩnh vực kinh tế và xã hội trong Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm tới của đất nước (2001 - 2010) được xác định là như sau[35]:

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Mục tiêu cụ thể của Chiến lược là:

-        Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Tích lũy nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%.

-        Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn 1,1 - 1,2%. Xóa hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn (thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80-85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện.

-        Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa.

-        Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước.

-        Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả.

2.2. Những vấn đề đặt ra đối với môi trường nói chung và môi trường rừng nói riêng:

Những điều trình bày trên cho thấy trong thập kỷ tới (2001 - 2010) việc đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước đòi hỏi mức tăng trưởng kinh tế (GDP) cao (7-8%/năm). Sự tăng trưởng cao như vậy là một điều cần thiết nhằm làm cho đất nước nhanh chóng phát triển, hoà nhập với nền kinh tế và khu vực. Nhưng đồng thời cũng chính sự phát triển với nhịp độ tăng cao như vậy cũng có nghĩa là một khối lượng tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng được khai thác từ tự nhiên để chế biến và một khối lượng chất thải từ sản xuất và tiêu dùng ngày càng tăng được thải vào tự nhiên, gây ô nhiễm và sức ép đối với môi trường sinh thái.

Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới thì chỉ với mức tăng GDP của nền kinh tế Việt Nam như những năm qua (khoảng 7-8%/năm) thì mức độ ô nhiễm môi trường bởi chất thải vào năm 2020 có thể gấp 4-5 lần  mức ô nhiễm hiện nay. Các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cũng ước đoán rằng nếu không có những biện pháp ngăn ngừa bảo vệ thích hợp thì ô nhiễm công nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ 2000 - 2010 sẽ tăng với chỉ số 3,8 tương đương với 14% tăng trưởng kinh tế. Tổn thất kinh tế do ô nhiễm công nghiệp tác động tới sức khoẻ của con người ước tính khoảng 0,3% GDP hiện tại của đất nước và tới năm 2010 sẽ tăng lên tới 12%. Nếu tính gộp cả các giá trị hưởng thụ bị mất đi, sự mất mát đa dạng sinh học,... thì tỷ lệ này còn lớn hơn gấp bội [36]

Dựa vào Chiến lược phát triển KT - XH chung của đất nước, cũng như của các bộ, ngành và địa phương (tỉnh, thành phố) có thể nêu lên những nhận xét sau về những tác động và thách thức đối với môi trường trong phát triển bền vững ở nước ta trong thời gian tới:

a./  Chiến lược và các kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước cũng như của các ngành, các địa phương đều nhằm vào mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài.

Nhằm mục tiêu chiến lược mà Đảng đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” (Văn kiện Đại hội IX), và rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước, của các ngành, địa phương đều định hướng vào tăng gấp đôi và hơn nữa GDP trong mỗi thập kỷ (10 năm) phát triển. Điều đó có nghĩa là phải duy trì một tốc độ tăng trưởng trong một thời gian dài hàng năm của GDP ở mức độ cao khoảng 7 - 8% /năm. Nếu như trình độ công nghệ của sản xuất và cơ cấu sản xuất của nền kinh tế không được cải thiện nhiều thì sự tăng trưởng GDP của đất nước cũng có nghĩa là tăng khối lượng tài nguyên khai thác cho sản xuất và tăng lượng chất thải vào môi trường.

b./  Cơ cấu các ngành sản xuất sẽ chuyển dịch theo hướng tăng nhanh của tỉ lệ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Các phương án phát triển được đề xuất cả ở tầm vĩ mô (cả nước), cả ở tầm trung mô (ngành, địa phương) và vi mô (công ty, doanh nghiệp) đều có nét chung nổi bật là tốc độ tăng trưởng cao của sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ (thường được xác định khoảng 12 -15% /năm) so với sản xuất nông nghiệp (thường được xác định khoảng 4 -6% /năm). Sự tăng trưởng cao như vậy của các ngành công nghiệp, xây dựng nhất định sẽ dẫn đến các vấn đề môi trường cần quan tâm đặc biệt, bởi lẽ đằng sau mức tăng trưởng của sản xuất công nghiệp tàng ẩn sự gia tăng cao của khai thác và sử dụng môi trường và tài nguyên thiên nhiên cũng như của lượng chất thải.

Nếu như để ý rằng, ít ra trước thềm của thế kỷ 21, định hướng phát triển của công nghiệp Việt Nam sẽ nhằm vào các ngành mà đất nước hiện có lợi thế so sánh như: công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, dầu khí, điện năng, chế biến nông, lâm, hải sản, dệt, may, thì sẽ càng thấy tiềm ẩn nguy cơ lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải . Bởi lẽ các ngành công nghiệp nói trên đều thuộc danh mục các nguồn chất thải lớn nhất gây ô nhiễm môi trường.

c./  Sự tập trung phát triển kinh tế ở ba vùng kinh tế trọng điểm của đất nước sẽ kéo theo hệ quả tất yếu tập trung các nguy cơ, các nguồn gây ô nhiễm, tác động xấu tới chất lượng môi trường.

Những tính toán quy hoạch phát triển theo vùng kinh tế đặt trọng tâm vào các lĩnh vực kinh tế sau:

·       Đồng bằng sông Hồng và vùng trọng điểm Bắc Bộ:

-                  Công nghiệp chế biến.

-                  Cơ khí đóng tàu, luyện kim, phân bón

-                  Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường không), bao gồm hệ thống cảng sông, cảng biển và cảng hàng không.

·       Miền Đông Nam bộ và vùng trọng điểm phía Nam:

-                  Công nghiệp khai thác dầu khí.

-                  Công nghiệp phân bón, hoá chất từ dầu khí

-                  Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường không), bao gồm hệ thống cảng sông, cảng biển và cảng hàng không.

·       Duyên hải Trung Bộ và vùng trọng điểm miền Trung:

-                  Kinh tế biển

-                  Công nghiệp chế tác và dịch vụ

-                  Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường không), bao gồm hệ thống cảng sông, cảng biển và cảng hàng không.

·       Trung du và miền núi Bắc Bộ:

-                  Thuỷ điện

-                  Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông lâm sản

-                  Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ)

·       Tây nguyên:

-                  Công nghiệp chế biến nông lâm sản.

-                  Thuỷ điện.

-                  Giao thông vận tải.

·       Đồng bằng sông Cửu Long:

-                  Công nghiệp chế biến và dịch vụ.

-                  Kết cấu hạ tầng (giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường không), bao gồm hệ thống cảng sông và hàng không.

Trong định hướng chiến lược phát triển các vùng kinh tế, nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tạo động lực cho sự phát triển của các vùng khác sẽ hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao). Trong đó đã xác định ba vùng kinh tế trọng điểm, hay vẫn được gọi là ba tam giác phát triển: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh (ở phía Bắc), thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu - Đồng Nai (ở phía Nam) và Đà Nẵng - Dung Quất - Chân Mây (ở miền Trung). Hiện tại có tới 84% tổng vốn đầu tư cơ bản và 80% các dự án nằm trong ba vùng tam giác phát triển công nghiệp này. Năm 1999 ba vùng kinh tế trọng điểm  này tạo ra 48% GDP và 69% giá trị gia tăng công nghiệp. Cùng với sự tập trung phát triển sản xuất công nghiệp ở ba vùng tam giác phát triển sẽ là sự tập trung các vấn đề môi trường cần được quan tâm chú ý.                            

d./  Thâm canh trong sản xuất nông nghiệp sẽ tiếp tục ngày càng sâu rộng với xu hướng sử dụng ngày càng nhiều chất hoá học vô cơ, khó phân giải và độc hại

Trong cơ cấu GDP của một nước nông nghiệp, giá trị của nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn chiếm giữ một tỷ trọng tương đối lớn (khoảng 1/3). Ở phần lớn các tỉnh và địa phương tỷ lệ này có nơi chiếm tới 60 -70%. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp sẽ gắn liền với việc thâm canh ngày càng tăng trong sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi. Quá trình thâm canh hoá sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục gắn liền với việc tăng cường sử dụng các loại phân vô cơ, thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Từ năm 1976 đến nay, lượng phân bón hoá học sử dụng trong nông nghiệp tăng lên rất mạnh: năm 1990 lượng phân bón này dùng cho 1 ha gieo trồng so với năm 1980 tăng hơn 4 lần; con số này của năm 1995 là gấp gần 5,6 lần.[37] Rõ ràng là nếu không có những chính sách và biện pháp bảo vệ thích hợp và lâu dài thì với sự tăng cường sử dụng các loại phân bón hoá học, các chất vô cơ khó/ lâu phân huỷ và độc hại thì nguy cơ ô nhiễm môi trường ở tất cả các thành phần môi trường (đất, nước, không khí, đa dạng sinh học,...) sẽ ngày càng tăng lên, đe doạ chính sự phát triển bền vững của sản xuất nông nghiệp và sức khỏe của con người.

e./  Các hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ được tăng cường, nhất là hoạt động kinh tế đối ngoại, bao gồm cả du lịch, sẽ được duy trì ở mức độ tăng trưởng cao

Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa và hoà nhập, vai trò của các hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ ngày càng tăng và ráo riết. Mức tăng trưởng hàng năm của hoạt động dịch vụ ở Việt Nam gần tương đương với mức tăng trưởng của công nghiệp.

Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá trong tương lai gần tuy sẽ được cải thiện theo hướng giảm dần xuất nguyên liệu thô, nhưng sau năm 2003, khi Việt Nam hội nhập vào thị trường chung của khối ASEAN, thế mạnh hàng xuất khẩu (lợi thế so sánh) của Việt Nam có thể trong một số năm tiếp theo nữa vẫn là nông, hải sản và các nguyên liệu, khoáng sản khác.

Việc duy trì mức tăng trưởng cao hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy, sẽ có nghĩa là duy trì nhịp độ cao trong khai thác tự nhiên (đất đai, khai mỏ,...). Và cả hoạt động vận tải chắc chắn cũng sẽ tăng lên và khẩn trương hơn. Nếu như đặt sự khẩn trương này vào trong bối cảnh một loạt cảng biển và cảng biển nước sâu dọc theo 3200 km bờ biển của đất nước sẽ được xây dựng và phát triển gắn với công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí thì có thể dự báo về sức ép ngày càng lớn và tăng về chất thải đối với môi trường biển của các hoạt động vận tải.

Trong số các hoạt động dịch vụ có tác động tới chất lượng môi trường còn cần phải kể đến du lịch. Bản Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 24/4/1995 cho thấy kế hoạch đón khách du lịch được hoạch định trong bản Quy hoạch này với mức tăng cao: khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2010 sẽ gấp 2,5 lần so với năm 2000. Lượng khách du lịch trong nước năm 2010 cũng sẽ gấp 2,5 lần so với lượng khách năm 2000. Một sự tăng trưởng cao như vậy của hoạt động du lịch chắc chắn sẽ đặt ra nhiều vấn đề về chất thải cũng như cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái như kinh nghiệm hoạt động du lịch của các nước xung quanh ta đã cho thấy.

2.3. Những áp lực đối với rừng

Báo cáo Hiện trạng môi trường 2002 đã chỉ ra những áp lực đối với rừng như sau:

- Rừng đã bị tàn phá, huỷ diệt bởi chiến tranh trong suốt 30 năm (1945 - 1975), di hại nghiêm trọng đối với nhiều hệ sinh thái rừng.

- Nạn khai thác bừa bãi, không theo quy luật và không tuân thủ các biện pháp lâm sinh, không đảm bảo tái sinh rừng liên tục đã và đang làm cạn kiệt tài nguyên. Hệ thống các lâm trường quốc doanh, các hợp tác xã khai thác lâm sản cũng có thời gian đã tham gia thực hiện khai thác ồ ạt với khối lượng gỗ lớn, trồng cây công nghiệp, làm đường giao thông, phát triển đô thị, làm đập nước, thu hẹp nhanh nhiều diện tích rừng già.

- Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng không hợp lý cũng đã, đang và sẽ tiếp tục đe dọa tới môi trường rừng.

- Việc du canh du cư, phá rừng lấy đất làm nương rãy canh tác, đã gây ra nhiều vụ cháy rừng. Khai thác mở rộng các nông trường không có quy hoạch bền vững, cũng xâm hại mạnh tới tài nguyên rừng.

Những áp lực trên không chỉ làm tài nguyên rừng bị xâm hại về khối lượng lâm sản mà nhiều hệ sinh thái rừng bị tác động, làm suy thoái môi trường. Bên cạnh những áp lực nói trên, công tác quản lý và bảo vệ rừng còn phải đối mặt với những áp lực mang tính chủ quan như:

- Chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với lực lượng quản lý, bảo vệ rừng còn thấp, chưa hợp lý. Trang thiết bị làm việc của các cơ quan quản lý, bảo vệ rừng như: trụ sở cơ quan, phương tiện giao thông, phương tiện thông tin, khí tài... còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác tuần tra, thanh tra, truy quét, xử lý các vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng.

- Trình độ nhận thức, ý thức pháp luật, ý thức bảo vệ rừng của người dân còn thấp kém. Vẫn còn có những bộ phận dân cư có nguồn sống chủ yếu phụ thuộc vào rừng, trong khi điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên hiện tượng chặt phá rừng làm nương rẫy, khai thác rừng trái phép vẫn còn tồn tại trên thực tế. Những vi phạm pháp luật quản lý, bảo vệ rừng ở mức độ nghiêm trọng, phần lớn bắt nguồn từ các "đầu nậu", lái buôn. Những người này đứng đằng sau các vụ vi phạm, thuê dân nghèo chặt phá rừng, khai thác rừng, vận chuyển lâm sản để kinh doanh trái phép. Khi bị xử lý, chúng thường hoặc bỏ lại tang vật hoặc có thái độ phản ứng rất quyết liệt đối với cán bộ thi hành công vụ hay tìm mọi cách, kể cả mua chuộc, hối lộ để vô hiệu hoá lực lượng này.

3. Đề xuất hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường rừng

3.1. Các nguyên tắc chính

Từ những phân tích và đánh giá trong những phần trước của báo cáo, có thể thấy: hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành về quản lý, bảo vệ rừng nói chung, rừng đặc dụng nói riêng đang bộc lộ nhiều hạn chế cần được khắc phục. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành được thực hiện theo những hướng chính như sau:

- Tiến hành việc tổng kết việc thực hiện các chủ trương, chính sách, các văn bản pháp luật đã ban hành để xác định những yếu tố mang lại hiệu quả trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Trên cơ sở những kinh nghiệm thực tiễn thu được, từng bước xây dựng mới hoặc hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành, điều chỉnh chính sách tiền lương, tiền thưởng và các đãi ngộ khác đối với lực lượng quản lý, bảo vệ rừng.

- Luật hoá những quy định hiện hành trong các văn bản hướng dẫn thực hiện do Chính phủ, Bộ NN&PTNT và các Bộ có liên quan ban hành mà thực tế đã kiểm nghiệm là có hiệu quả. Điều này sẽ tránh được tình trạng quá nhiều văn bản dưới luật được ban hành với chất lượng không cao, hiệu quả áp dụng thấp, trong khi văn bản luật có giá trị cao lại chỉ dừng lại ở các quy định chung chung, khó giải thích và áp dụng.

- Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng phải bảo đảm tính thống nhất với các văn bản pháp luật trpng các lĩnh vực có liên quan như: pháp luật đất đai, pháp luật về môi trường, pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự... Vì vậy, việc tổng rà soát văn bản pháp luật phải được coi là bước đầu tiên trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng.

- Thực tế cho thấy: Hoạt động quản lý, bảo vệ rừng luôn gắn với hai nhóm chủ thể chính: (1) Nhóm chủ thể quản lý (hay còn gọi là chủ thể công quyền, bao gồm các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định) và (2) Nhóm chủ thể bị quản lý. Vì vậy, khi xây dựng các quy định về quản lý, bảo vệ rừng cần quán triệt phương châm: "Cơ quan công quyền, cán bộ, công chức chỉ được thực hiện những gì mà pháp luật cho phép, công dân được làm những gì mà pháp luật không ngăn cấm".

3.2. Các văn bản pháp quy cần sửa đổi

(1) Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991:

- Quy định lại các nội dung quản lý nước và trách nhiệm của các cơ quan có liên quan cho phù hợp với hệ thống tổ chức mới. Đặc biệt, thống nhất về phạm vi trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các Bộ/ ngành và địa phương trong công tác quản lý và bảo vệ rừng. Cụ thể là:

o   Khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thiếy rõ ràng trong các quy định về chức năng, nhiệm vụ chủ thể quản lý nhà nước;

o   Trả lại đúng vị trí "là người gác rừng" cho lực lượng kiểm lâm nhân dân theo hướng: Một mặt hạn chế bớt những nội dung công việc không phù hợp với chức năng chính của lực lượng này, mặt khác cần tăng thêm quyền lực thực tế để họ có thể loại trừ được mọi biểu hiện vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng.

- Thống nhất về cách gọi tên một số loại rừng đặc dụng với các văn bản dưới luật đã được ban hành.

- Sửa đổi các quy định cơ bản về quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất cho phù hợp với thực tế, tham khảo Quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên ban hành kèm theo Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11/1/2001.

- Quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của hệ thống cơ quan kiểm lâm.

(2) Sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường

Hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, sửa đổi. Phạm vi sửa đổi của Luật được đặt ra khá rộng, bao trùm nhiều vấn đề liên quan tới môi trường. Có ý kiến cho rằng cần thiết phải ban hành Bộ luật Môi trường, trong đó tích hợp nhiều đạo luật về quản lý, bảo vệ các dạng tài nguyên như: rừng, nước, khoáng sản, đất đai v.v. Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn và khó thực hiện trong bối cảnh của chúng ta hiện nay. Trong phạm vi chuyên đề này chỉ tập trung đề xuất một số nguyên tắc sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường với tư cách là Luật chung trong các quy định về bảo vệ và phát triển rừng.

Trên cơ sở những phân tích đã được trình bày ở trên, Luật Bảo vệ môi trường được sửa đổi bổ sung trên cơ sở quy định hững nội dung mang tính nguyên tắc sau:

- Quy định nguyên tắc chung là Luật chuyên ngành sẽ được áp dụng trong trường hợp có sự xung đột với Luật Bảo vệ môi trường. Quy định sẽ khắc phục những khó khăn trong công tác áp dụng pháp luật khi gặp phải sự xung đột, chồng chéo trong các quy định của Luật Bảo vệ môi trường và Luật chuyên ngành.

- Xác định các yêu cầu về bảo vệ môi trường ngay từ công tác lập quy hoạch, kế hoạch khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên.

- Xác định rõ ràng thẩm quyền ban hành và ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn về chất lượng các thành phần môi trường làm căn cứ chung để kiểm soát ô nhiễm môi trường và ngăn chặn sự suy thoái các nguồn tài nguyên.

- Xác định một số khu vực (một số vùng) có giá trị sinh thái đa dạng, tổng hợp và đặc thù cần phải bảo vệ theo chế độ riêng (quy chế bảo tồn)

(3) Nghị định sửa đổi Nghị định số 17-HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng

- Việc sửa đổi được thực hiện cho phù hợp với các nội dung được sửa đổi trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng.

(4) Nghị định sửa đổi Nghị định số 77-CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản;

- Thống nhất hoá với các quy định của Nghị định sửa đổi Nghị định số 26/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Sửa đổi các nội dung về thẩm quyền xử phạt hành chính của lực lượng kiểm lâm, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm.

(5) Nghị định sửa đổi một số điều của NĐ 26/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT

- Bổ sung các hình thức vi phạm pháp luật BVMT mới cần bị xử lý hành chính

- Xem xét thẩm quyền, chế tài cho phù hợp với tình hình mới, đặc biệt cho phù hợp với Pháp lệnh xử lý VPHC sửa đổi

(6) Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước các cấp về rừng và đất lâm nghiệp

- Thống nhất hoá các quy định về phân định trách nhiệm quản lý nhà nước của hệ thống các cơ quan kiểm lâm, cơ quan tài nguyên và môi trường và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với những sửa đổi của Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành.

(7) Thông tư­ sửa đổi Thông tư số 2433/TT-KCM hư­ớng dẫn thi hành Nghị định 26/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT

- Hướng dẫn chi tiết các điểm sửa đổi, bổ sung của Nghị định thay thế Nghị định số 26/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

3.3. Các văn bản cần ban hành mới

(1) Nghị định của Chính phủ hư­ớng dẫn giải quyết tranh chấp môi trường

- Định dạng các hình thức tranh chấp môi trường chính, trong đó làm nội dung và các dạng tranh chấp tài nguyên rừng.

- Xem xét xây dựng cơ chế, thủ tục tố tụng, thẩm quyền của các bên liên quan trong việc giải quyết tranh chấp MT.

(2) Nghị định của Chính phủ về bồi thư­ờng thiệt hại về môi trường

- Định dạng các loại thiệt hại môi trường chính, trong đó làm rõ các dạng thiệt hại khi cháy rừng, rừng bị chặt phá trái phép v.v.

- Xem xét xây dựng cơ chế, cách xác định thiệt hại, thủ tục tố tụng, thẩm quyền của các bên liên quan trong việc giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về MT

(3) Nghị định của Chính phủ về quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên

- Xác định các hình thức khu bảo tồn thiên nhiên là đối tượng điều chỉnh của NĐ; Phân hạng các khu BTTN;

- Cơ chế phối hợp, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan liên quan trong việc quản lý, khai thác bền vững các khu bảo tồn thiên nhiên phù hợp từng hạng đã được xếp hạng.

(4) Thông tư­ liên tịch của TANDTC - VKSNDTC - Bộ Tư­ pháp - Bộ Công an và Bộ Tài nguyên và Môi trường hư­ớng dẫn thi hành chương XVII phần Các tội phạm về môi trư­ờng của Bộ luật Hình sự 1999

- Quy định chi tiết các tình tiết định tội, định khung hình phạt của các tội phạm về môi trường trong Chương XVII, BLHS 1999, trong đó có các tội phạm về phá hoại tài nguyên rừng;

- Cách thức xác định các tình tiết đó.

(5) Thông tư­ liên tịch của Bộ Tài nguyên và Môi trường - Bộ T­ư pháp hướng dẫn về hoạt động giám định môi trường

- Xác định vị trí của giám định môi trường trong khuôn khổ các hoạt động giám định nói chung (giám định tư pháp – giám định hàng hoá dịch vụ);

- Quy định về quản lý nhà nước với hoạt động giám định MT, trong đó có các hoạt động giám định chất lượng môi trường rừng, các thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng gây ra: điều kiện hoạt động, cơ quan quản lý.

- Các hình thức trưng cầu giám định: giám định độc lập, giám định theo yêu cầu.

- Các nội dung khác về hoạt động giám định môi trường.

3.4. Chính sách, chiến lược bảo vệ rừng

Như phần trên của báo cáo đã phân tích, Việt Nam hiện chưa có chiến lược, chính sách dài hạn và tổng thể cho việc quản lý và bảo vệ các khu bảo tồn. Chiến lược quản lý và bảo vệ các khu rừng cần thiết phải được hoạch định phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Phải luôn coi nhân tố con người là trung tâm của công tác bảo tồn và sự can thiệp, tác động tích cực của con người ở mọi cấp độ, mọi khía cạnh của nó là điều cần tính đến. Điều này có nghĩa là phải xem xét và giải quyết các vấn đề có liên quan đến yếu tố con người trong hoạt động bảo tồn, tổng kết và nhân rộng việc thực hiện chủ trương xã hội hoá các hoạt động lý, bảo vệ và phát triển rừng.

- Việc bảo tồn phải tập trung cả vào các giá trị rừng trên đất liền, trên đảo, ven biển, ven đảo (gồm các vùng đất ngập nước). Hiện ở Việt Nam, cơ chế bảo tồn các vùng đất ngập nước (các khu rừng ngập mặn), bảo tồn các hệ sinh thái vùng ven biển, vùng biển còn chưa rõ ràng.

- Tập trung bảo tồn bền vững, bảo tồn phòng ngừa, tránh tình trạng chỉ tập trung vào các loại quý hiếm và các khu vực bị nguy cấp (có những loại động vật, thực vật hoang dã hiện tại chưa quý hiếm, nguy cấp nhưng tương lai không xa sẽ trở thành nguy cấp, quý hiếm nếu không có kế hoạch bảo tồn hợp lý ngay từ giai đoạn đầu của việc hình thành chiến lược).

- Tăng cường năng lực quản lý và bảo vệ các khu rừng đặc dụng, trong đó tập trung vào vai trò của chính quyền địa phương trong chấp hành và điều hành, tổ chức thực hiện chính sắch và pháp luật về bảo tồn, đồng thời nâng cao vị thế, vai trò của lực lượng chuyên trách thừa hành pháp luật về bảo tồn.

4. Lộ trình xây dựng

STT

Tên văn bản

Cơ quan chủ trì

Thời gian thực hiện

 

CÁC VĂN BẢN DO QUỐC HỘI BAN HÀNH

1.      

Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi

Bộ TN&MT

2003 - 2005

2.      

Luật sửa đổi một số điều của Luật Bảo vệ và phát triển rừng

Bộ NN&PTNT

2004 - 2006

 

Các văn bản do Chính phủ ban hành

3.      

Nghị định sửa đổi một số điều của NĐ 26/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT

Bộ TN&MT

2003 - 2004

4.      

Nghị định của Chính phủ hư­ớng dẫn giải quyết tranh chấp môi trường

Bộ TN&MT

2004 - 2005

5.      

Nghị định của Chính phủ về bồi thư­ờng thiệt hại về môi trường

Bộ TN&MT

2004 - 2005

6.      

Nghị định của Chính phủ về quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên

Bộ TN&MT

2005 - 2006

7.      

Nghị định sửa đổi Nghị định số 17-HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng

Bộ NN&PTNT

2006 - 2007

8.      

Nghị định sửa đổi Nghị định số 77-CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản

Bộ NN&PTNT

2007 - 2008

 

Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành

9.      

Quyết định phê duyệt Chiến lược về bảo vệ và phát triển rừng đến năm 2020

Bộ NN&PTNT

2004 - 2005

10.   

Quyết định thay thế Quyết định số 245/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước các cấp về rừng và đất lâm nghiệp

Bộ NN&PTNT

2007

 

Các văn bản do Bộ, ngành ban hành

11.   

Thông tư­ sửa đổi Thông tư số 2433/TT-KCM hư­ớng dẫn thi hành Nghị định 26/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT

Bộ TN&MT

2004

12.   

Thông tư­ liên tịch của TANDTC - VKSNDTC - Bộ Tư­ pháp - Bộ Công an và Bộ Tài nguyên và Môi trường hư­ớng dẫn thi hành chương XVII phần Các tội phạm về môi trư­ờng của Bộ luật Hình sự 1999

Bộ TN&MT

2004 - 2005

13.   

Thông tư­ liên tịch của Bộ Tài nguyên và Môi trường - Bộ T­ư pháp hướng dẫn về hoạt động giám định môi trường

Bộ TN&MT

2005

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1.     Hiện trạng môi trường Việt Nam 2002, Bộ Tài nguyên và Môi trường - 2002;

2.     Báo cáo xem xét năng lực thừa hành pháp luật và xác định nhu cầu đào tạo cho công tác quản lý các khu rừng đặc dụng, Dự án Tăng cường công tác quản lý hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam, 2002;

3.     Đề tài nghiên cứu khoa học "Cơ sở lý luận và thực tiễn sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường", Cục Môi trường - 2002;

4.     Hỏi - Đáp về Môi trường, Cục Môi trường - 2002;

5.     Các quy định pháp luật về môi trường, các tập 1, 2, 3, 4, Cục Môi trường - 2001;

6.     Giáo trình Luật Môi trường, Trường Đại học Luật Hà Nội - 1999;

7.     Bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn, PGS. PTS Hoàng Hoè;

8.     Tư liệu của Chương trình Đánh giá diễn biến rừng (từ 1990 đến 1999), Trung tâm Tài nguyên và Môi trường Lâm nghiệp thuộc Viện Điều tra quy hoạch rừng;

9.     Báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình 327 - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1998;

10.  Đề tài nghiên cứu khoa học "Cơ sở khoa học và thực tiễn kết hợp vấn đề bảo vệ môi trường vào các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu phát triển bền vững", Cục Môi trường - 2001;

11.  Chương trình hoàn thiện các văn bản pháp luật về môi trường giai đoạn 2001 - 2005, Cục Môi trường - 2001.

 

 

 

 XÁC ĐỊNH NHU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG TRONG CÁC CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH, VÙNG, MIỀN CỦA VIỆT NAM

(Giai đoạn 2001 đến 2010, tầm nhìn đến 2020)

Nguyễn Văn Hiển

Nghiên cứu viên - Viện khoa học pháp lý

I. Mô hình phát triển bền vững và yêu cầu bảo vệ môi trường.

          Lịch sử thế giới hiện đại đã cho ra đời nhiều lý luận,quan điểm khác nhau về mô hình phát triển như: lý luận về hiện đại hoá, lý luận về sự phụ thuộc (Theory of Dependency), lý luận về hệ thống thế giới (Theory of World System), lý luận khuyếch tán (Theory of Diffusion)[38]... chúng lần lược thế chân nhau và tạo ra những cơ sở lý luận quan trọng giải thích về các mô hình về sự phát triển xã hội. Vào những năm 50,60 của thế kỷ XX quan điểm về phát triển của các nước đều cho rằng tăng trưởng là trên hết, tăng trưởng đồng nghĩa với tăng GDP, tích luỹ vốn, khai thác tài nguyên, công nghiệp hoá... tóm lại, quan điểm phát triển luôn lấy “vật” làm trung tâm, coi nhẹ yếu tố con người, yếu tố xã hội. Mặc dù các nước áp dụng mô hình này đã gặt hái được những thành quả to lớn về mặt tăng tưởng kinh tế, nhưng những mặt trái của nó như: sự phát triển lệch lạc, thiếu cân đối, thiếu bền vững, phân hoá giầu nghèo tăng mạnh, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiệm môi trường, mất đi tính đa dạng của nền văn hoá các dân tộc... là những hậu quả không dễ khắc phục.

          Chính vì vậy mà vào thập niên 70, 80 của thế kỷ XX đã xuất hiện các lý thuyết về “phát triển bền vững” về ”phát triển tổng hợp toàn diện”. Theo quan điểm phát triển mới thì mục tiêu của sự phát triển không chỉ đơn lẻ chỉ là sự tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng GDP mà còn bao hàm các yếu tố về sự phát triển con người, xã hội, môi trường sinh thái và coi chúng có vai trò quan trọng như nhau. Phát triển bền vững chính là sự bảo đảm phát triển cân đối, hài hoà các yếu tố trên, bảo đảm không chỉ đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống hôm nay mà còn bảo đảm cho sự phát triển của các thế hệ mai sau.

          Khái niệm "phát triển bền vững" xuất hiện từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX. Phát triển bền vững được định nghĩa "là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau"[39]. Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển (tổ chức tại Rio de Janeiro -Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (tổ chức ở Johannesburg -Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.

          Phát triển bền vững được coi là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Điều này được thể hiện thông qua việc 179 nước tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển năm 1992 đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển, 166 nước tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững năm 2002 đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững,đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương[40]...

          Chính phủ Việt Nam đã cũng đã tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững. Chúng ta cho rằng "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"[41]. Quan điểm phát triển bền vững tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".

          Như vậy, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và thực sự đang được thể chế hoá trong nhiều đạo luật của Nhà nước ta trong thời gian qua.  Chính vì vậy mà việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế, xã hội không thể không xet xét đến các yếu tố bảo vệ và cải thiện môi trường, ngược lại trong việc hoạch định chính sách, pháp luật về môi trường cần phải có cái nhìn tổng thể, cân đối, hài hoà với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

          Tuy nhiên trên thực tế, quan điểm phát triển bền vững chưa được thể hiện một cách rõ rệt và nhất quán qua hệ thống chính sách và các công cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế-xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh kinh tế và ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Trong khi đó, các chính sách bảo vệ môi trường chỉ chú trọng việc giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường, mà chưa có những định hướng phát triển lâu dài nhằm đáp ứng những nhu cầu tương lai của xã hội. Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và quá trình xây dựng chính sách bảo vệ môi trường còn chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với nhau. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và có hiệu lực....

          Chính vì những lý do nên trên, ngày 17.8.2004 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (hay còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược về phát triển bền vững đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện để phát triển bền vững trong thế kỷ 21. Thực chất đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn và nó không bao hàm ý tưởng thay thế các chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch hiện có, mà là căn cứ để các cơ quan chức năng cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010, cũng như xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước.

II. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật môi trường giai đoạn 2001-2010, định hướng đến năm 2020.

          Theo như phân tích trên thì nhu cầu hoàn thiện pháp luật môi trường giai đoạn 2001-2010, định hướng đến năm 2020 cần được xem xét trong mối quan hệ tổng thể giữa Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội liên quan.

          Trong thời gian qua, ngoài việc ban hành Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Đảng và Nhà nước ta còn ban hành hành chục Chiến lược, chương trình, mục tiêu quốc gia trên các lĩnh vực trọng điểm của quốc gia giai đoạn 2010, định hướng đến 2020 như: Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020,  Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2010, Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001-2010, Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến 2010, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp dệt, cơ khí, ô tô, thép Việt Nam...(xem phụ lục).

          Phân tích tổng thể các chiến lược, chương trình, quy hoạch nên trên cho thấy nhu cầu hoàn thiện pháp luật môi trường giai đoạn 2001-2010, định hướng đến 2020 được tập trung vào các vấn đề sau:

1. Về mục tiêu và nguyên tắc bảo vệ môi trường giai đoạn 2010, định hướng 2020.

          Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.  Từ nay đến 2010: hạn chế mức gia tăng ô nhiễm, khắc phục tình trạng suy thoái và cải thiện chất lương môi trường; giải quyết một bước căn bản tình trạng suy thoái môi trường ở các khu công nghiệp, các khu dân cư đông đúc ở các thành phố lớn và một số vùng nông thôn; cải tạo và xử lý ô nhiễm môi trường trên các dòng sông, hồ ao, kênh mương. Nâng cao khả năng phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi đối với môi trường; ứng cứu và khắc phục có hiệu quả ô nhiễm môi trường do thiên tai gây ra. Khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao, bảo tồn thiên nhiên và giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động thực hiện các yêu cầu về môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế, hạn chế các ảnh hưởng xấu của quá trình toàn cầu hoá đến môi trường nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm phát triển bền vững đất nước.

          Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển, Việt Nam quán triệt những nguyên tắc chính cơ bản là:Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững.Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới.Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.

2. Các định hướng lớn về bảo vệ và phát triển môi trường quốc gia 2010, định hướng 2020.

Những định hướng lớn về bảo vệ và phát triển môi trường được nêu tập trung tại Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến 2010, định hướng đến 2020. Cụ thể là:

2.1. Định hướng từ nay đến 2010.

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra các mục tiêu, định hướng đến 2010 là hạn chế mức gia tăng ô nhiễm; cải thiện chất lượng môi trường; bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao và đáp ứng các yêu cầu về môi trường để hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hoá. Cụ thể là:

- Về hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, định hướng đưa ra các chỉ tiêu cụ thể là: 100% các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường; 50% các cơ sở sản xuất kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc Chứng chỉ ISO 14001; 30% hộ gia đình, 70% doanh nghiệp có dụng cụ phân loại rác thải tại nguồn, 80% khu vực công cộng có thùng gom rác thải; 40% các khu đô thị, 70% các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, thu gom 90% chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ, xử lý trên 60% chất thải nguy hại và 100% chất thải bệnh viện; An toàn hoá chất được kiểm soát chặt chẽ, việc sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường được hạn chế tối đa;  xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

- Về cải thiện chất lượng môi trường: cơ bản hoàn thành việc cải tạo và nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước mưa và nước thải ở các đô thị và khu công nghiệp. Phấn đấu đạt 40% các đô thị có hệ thống tiêu thoát và xử lý nước thải riêng theo đúng tiêu chuẩn quy định; cải tạo 50% các kênh mương, ao hồ, đoạn sông chảy qua các đô thị đã bị suy thoái nặng; giải quyết cơ bản các điểm nóng về nhiễm độc đi-ô-xin; 95% dân số đô thị và 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 90% đường phố có cây xanh; nâng tỷ lệ đất công viên ở các khu đô thị lên gấp 2 lần so với năm 2000; 90% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn lao động và có cây trong khuôn viên thuộc khu vực sản xuất; đưa chất lượng nước các lưu vực sông đạt mức tiêu chuẩn chất lượng nước dùng cho nông nghiệp và nuôi trồng một số thuỷ sản.

- Về bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao: phục hồi 50% các khu vực khai thác khoáng sản và 40% các hệ sinh thái đã bị suy thoái nặng; nâng tỷ lệ đất có rừng che phủ đạt 43% tổng diện tích đất tự nhiên, khôi phục 50% rừng đầu nguồn đã bị suy thoái và nâng cao chất lượng rừng; đẩy mạnh trồng cây phân tán trong nhân dân; nâng tỷ lệ sử dụng năng lượng sạch đạt 5% tổng năng lượng tiêu thụ hàng năm; nâng tổng diện tích các khu bảo tồn tự nhiên lên gấp 1,5 lần hiện nay đặc biệt là các khu bảo tồn biển và vùng đất ngập nước; phục hồi diện tích rừng ngập mặn lên bằng 80% mức năm 1990.

-  Đáp ứng các yêu cầu về môi trường để hội nhập kinh tế quốc tế và hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hoá: 100% sinh vật biến đổi có sản phẩm xuất khẩu áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001; 100% sinh vật biến đổi gen nhập khẩu vào Việt Nam được kiểm soát; loại bỏ hoàn toàn việc nhập khẩu chất thải nguy hại.

2.2. Những định hướng lớn đến năm 2020:

Chiến lược bảo vệ mụi trường quốc gia đưa ra một số định hướng lớn sau:

- Ngăn chặn về cơ bản mức độ gia tăng ô nhiễm, phục hồi suy thoái và nâng cao chất lượng môi trường, bảo đảm phát triển bền vững đất nước; bảo đảm cho mọi người dân đều được sống trong môi trường có chất lượng tốt về không khí, đất, nước, cảnh quan và các nhân tố môi trường tự nhiên khác đạt chuẩn mực do Nhà nước quy định.

- Phấn đấu đạt một số chỉ tiêu chính như: 80% cơ sở sản xuất, kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc Chứng chỉ ISO 14001; 100% đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải để tái sử dụng, phấn đấu 30% chất thải thu gom được tái chế; 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch; Nâng tỷ lệ đất có rừng che phủ đạt 48% tổng diện tích tự nhiên của cả nước; 100% sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu và 50% hàng hoá tiêu dùng trong nội địa được ghi nhãn môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14021.

2.3. Các nhiệm vụ và giải pháp cơ bản:

Để thực hiện các mục tiêu và định hướng trên, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đưa ra một số nhiệm vụ và giải pháp lớn là:

Về nhiệmvụ cơ bản, Chiến lược đưa ra 5 nhiệm vụ cơ bản là:

Thứ nhất: phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm như: thực hiện đồng bộ các biện pháp về phòng ngừa ô nhiễm môi trường; xây dựng kế hoạch kiểm soát ô nhiễm cấp quốc gia, ngành và địa phương; áp dụng công nghệ sách và thân thiện với môi trường; xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn môi trường quốc gia và các tiêu chuẩn môi trường ngành và nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động quản lý chất thải.

Thứ hai: khắc phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng như: xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; thực hiện các dự án khắc phục và cải tạo các điểm, khu vực, vùng bị ô nhiễm và suy thoái nặng; khắc phục hậu quả suy thoái môi trường do chất độc hoá học sử dụng trong chiến tranh trước đây gây nên; ứng cứu sự cố môi trường và khắc phục nhanh hậu quả ô nhiễm môi trường do thiên tai gây ra.

Thứ ba: bảo vệ và khai thác bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên: khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản; khai thác hợp lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên nước và bảo vệ tài nguyên không khí.

Thứ tư: bảo vệ và cải thiện môi trường các khu vực trọng điểm bao gồm các đô thị và khu công nghiệp; biển, ven biển và hải đảo; các lưu vực sông và vùng đất ngập nước; nông thôn và miền núi; di sản tự nhiên và di sản văn hoá.

Thứ năm: bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học gồm: bảo vệ và phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia; phát triển rừng và nâng diện tích thảm thực vật; bảo vệ đa dạng sinh học.

Đồng thời với việc xác định các nhiệm vụ cơ bản, Chiến lược bảo vệ môi trường cũng đề ra các giải pháp thực hiện các nhiệm vụ và định hướng bảo vệ môi trường như: Tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường; tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; tăng cường và đa dạng hoá đầu tư cho bảo vệ môi trường; tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về bảo vệ môi trường;đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.

3. Các định hướng pháp luật môi trường cần ưu tiên phát triển giai đoạn đến 2010, định hướng đến 2020[42]:

Căn cứ vào các định hướng lớn nêu trên, các Chiến lược, chương trình đã xác định định hướng bảo vệ môi trường và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong một số lĩnh vực trọng điểm sau:

- Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.

- Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.

- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản.

- Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển.

- Bảo vệ và phát triển rừng.

- Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.

- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại.

- Bảo tồn đa dạng sinh học.

- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp phần phòng, chống thiên tai;

- Hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường.

3.1. Chống tình trạng thoái hóa đất, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất:

          Thoái hóa đất đang là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng rộng lớn ở Việt Nam, đặc biệt là vùng đồi núi, nơi tập trung hơn 3/4 quỹ đất. Các dạng thoái hoá đất chủ yếu là: xói mòn, rửa trôi, đất có độ phì nhiêu thấp và mất cân bằng dinh dưỡng, đất chua hoá, mặn hoá, phèn hoá, bạc màu, khô hạn và sa mạc hoá, đất ngập úng, lũ quét, đất trượt và sạt lở, đất bị ô nhiễm. Trên 50% diện tích đất (3,2 triệu ha) ở vùng đồng bằng và trên 60% diện tích đất (13 triệu ha) ở vùng đồi núi có những vấn đề liên quan tới suy thoái đất. Ở đồng bằng, thách thức về môi trường đất là nạn ngập úng, lũ, phèn hoá, mặn hoá, xói mòn và sạt lở bờ sông, bờ biển, ô nhiễm đất, vắt kiệt độ phì của đất để thu lợi ích ngắn hạn. Ở vùng miền núi chủ yếu do phương thức canh tác nương rẫy còn thô sơ, lạc hậu của các dân tộc miền núi; tình trạng chặt phá, đốt rừng bừa bãi. Sự suy thoái môi trường đất kéo theo sự suy thoái các quần thể động, thực vật và chiều hướng giảm diện tích đất nông nghiệp trên đầu người đến mức báo động.

          Để chống thoái hoá đất, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất, Việt Nam đã và đang thực hiện các chính sách, chương trình và dự án thích hợp như: giao đất khoán rừng cho hộ gia đình, trồng rừng, nông lâm kết hợp, phát triển cây lâu năm trên đất dốc, bảo tồn và sử dụng bền vững đất ngập nước, quản lý lưu vực sông và đới ven bờ... Một số hành động quốc tế nhằm chống thoái hoá đất cũng đã được thực hiện, song quy mô còn rất nhỏ.

          Những chính sách, pháp luật ưu tiên nhằm chống tình trạng thoái hóa đất, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất trong thời gian tới là:

          (1)Bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện hơn các chính sách và pháp luật về quyền sở hữu, sử dụng và quản lý nhà nước về đất đai. Xây dựng và sử dụng có hiệu quả hệ thống thông tin về tài nguyên đất.

          (2)Quy hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên đất đối với tất cả các đối tượng sử dụng đất.

          (3)Tiếp tục xây dựng và ban hành các chính sách, các quy định về quản lý đất dốc, đất lưu vực sông và đất ngập nước.

          (4)Lồng ghép tốt hơn nữa các chính sách quốc gia với các kế hoạch hành động quốc tế về việc chống thoái hoá và sử dụng đất bền vững.

Bên cạnh các giải pháp về chính sách pháp luật, Chiến lược phát triển toàn diện còn đưa ra các giải pháp về kinh tế, kỹ thuật và nâng cao nhận thức. Cụ thể là:

- Về kinh tế: điều hoà sự phân bố dân số và di dân giữa các vùng, miền nhằm giảm áp lực của dân số đối với tài nguyên đất; bảo đảm an ninh lương thực vùng núi, định canh định cư, bảo vệ và phát triển rừng, chống xói mòn đất; Xây dựng các chương trình tổng hợp nhằm bồi dưỡng, "trẻ hóa" đất nông nghiệp ở các vùng đồng bằng đông dân; Nghiên cứu và áp dụng các hệ thống sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp liên hoàn ở các vùng sinh thái khác nhau nhằm bảo đảm hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường);

- Về kỹ thuật: áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp (nông học, sinh học, hóa học, cơ học...) và đầu tư thâm canh sử dụng đất theo chiều sâu; thực hiện tuần hoàn hữu cơ trong đất; Quản lý lưu vực để bảo vệ đất và nước, phát triển thuỷ lợi, giữ cân bằng sinh thái và điều hoà các tác động lẫn nhau giữa đồng bằng và miền núi; tái tạo lớp phủ thực vật bằng cây rừng hoặc tổ hợp nông-lâm kết hợp);

- Về nâng cao nhận thức của người dân: nâng cao nhận thức cộng đồng về việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên đất; đào tạo và huấn luyện để nâng cao kiến thức của nhân dân về công nghệ, kỹ thuật sử dụng và quản lý đất; tổ chức tuyên truyền và phát động phong trào quần chúng áp dụng các mô hình tiên tiến về sử dụng bền vững tài nguyên đất...

3.2. Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước:

Việt Nam có nguồn nước mặt và nước ngầm tương đối dồi dào, song lượng mưa phân bố không đều giữa các mùa trong năm và giữa các vùng trong nước, gây ra lũ lụt về mùa mưa và hạn hán về mùa khô ở nhiều nơi. Địa hình núi non tạo ra tiềm năng đáng kể về thủy điện và dự trữ nước, đồng thời cũng làm tăng khả năng lũ lụt và xói mòn đất. Tài nguyên nước ngầm có thể được khai thác phục vụ yêu cầu sinh hoạt ở quy mô vừa và lớn ở một số vùng. Đối với các nguồn nước quốc tế mà Việt Nam cùng có chung với các nước láng giềng, cần thiết tăng cường sự phối hợp và hợp tác quốc tế trong việc sử dụng và bảo vệ, nhằm phục vụ lợi ích công bằng và hợp lý giữa các bên.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực xây dựng các chính sách, pháp luật, chương trình và dự án bảo vệ và sử dụng nguồn nước. Tuy vậy, công tác quản lý tài nguyên nước còn có những yếu kém như: chưa có những chiến lược dài hạn về quản lý tài nguyên nước ở quy mô quốc gia và ở từng vùng; các quy định về bảo vệ, sử dụng và quản lý tài nguyên nước còn thiếu hoặc chắp vá; vốn đầu tư cho các công trình thủy lợi còn thấp nên công trình chưa hoàn chỉnh; chưa chú trọng tới việc đầu tư các công nghệ xử lý nước thải. Còn thiếu các chương trình giáo dục cộng đồng về sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên nước. Việc quản lý, sử dụng và bảo vệ chưa tốt làm cho các nguồn nước đang bị suy thoái, nhiều nơi bị ô nhiễm trầm trọng. v.v.

Do vậy, định hướng chiến lược phát triển bền vững và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra các giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật cụ thể sau:

(1) Tiếp tục xây dựng các chính sách, văn bản pháp luật, các quy định và quy trình kỹ thuật về sử dụng, bảo vệ và quản lý nguồn nước;

(2) Có chính sách nâng cao năng lực cho các cơ quan chính quyền các cấp ở địa phương và cho cộng đồng dân cư trong việc quản lý và giám sát sử dụng nguồn nước;

(3) Có chính sách huy động sự tham gia rộng rãi của người thụ hưởng nước vào quá trình lập kế hoạch, vận hành và tài trợ cho các cơ sở hạ tầng về nước;

(4)Xây dựng chính sách, luật pháp quản lý tổng thể các nguồn nước quốc gia nhằm xem xét các nhu cầu khác nhau về nước như: tiêu thụ sinh hoạt của con người, tưới tiêu nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ hải sản, thủy điện, du lịch và giải trí để cân đối những nhu cầu này với tính lợi ích của nước tự nhiên và tiêu chí quản lý hệ sinh thái.

(5)Nghiên cứu nhu cầu và các phương án sử dụng nước lâu dài nhằm cân đối nguồn nước trên quy mô quốc gia và ở từng vùng. Đặc biệt chú ý quy hoạch tổng thể nguồn cung cấp nước cho các đô thị lớn, trung bình và các khu công nghiệp.

(6)Xây dựng các tiêu chuẩn môi trường quốc gia về: nước ngầm, các nguồn nước mặt như: sông, hồ, hồ chứa lớn và các vùng đất ngập nước khác.

(7) Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Rà soát lại các chức năng quản lý nguồn nước của các cơ quan khác nhau nhằm tránh chồng chéo, trùng lặp, đồng thời nghiên cứu hình thành bộ máy tổ chức quản lý tài nguyên nước nước mang tính thống nhất và liên ngành.

(8) Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho quản lý và bảo vệ tài nguyên nước.

(9) Có kế hoạch cải tạo, khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường trên các dòng sông, hồ ao, kênh mương;

(10) Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc sử dụng, quản lý và bảo vệ các nguồn nước dùng chung giữa Việt Nam và các nước láng giềng.

Đồng thời với hoàn thiện chính sách, pháp luật, định hướng chiến lược phát triển bền vững còn đề ra các giải pháp về kinh tế, kỹ thuật và nhận thức của người dân. Cụ thể là:

- Về kinh tế: xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án quản lý tổng hợp các lưu vực sông, các vùng đầu nguồn, nước ngầm; mở rộng và nâng cấp hệ thống thủy lợi các cấp, nâng cao hiệu quả sử dụng và tái sử dụng nước. Phải coi nước là một loại hàng hoá. Xây dựng các đơn giá về phí dịch vụ theo nguyên tắc "người sử dụng nước phải trả tiền" và "trả phí gây ô nhiễm". Tu bổ các sông ngòi và nâng cấp các hệ thống tưới tiêu bị xuống cấp trầm trọng.Khuyến khích công tác bảo vệ rừng tự nhiên và trồng cây gây rừng. Lồng ghép việc thực hiện các chương trình phòng chống thiên tai với các chương trình phát triển kinh tế-xã hội thích hợp với điều kiện cụ thể của các vùng.

-Về kỹ thuật: Đẩy mạnh áp dụng các công nghệ xử lý nước thải, khuyến khích sử dụng các công nghệ sạch trong sản xuất để giảm lượng chất thải, tái sử dụng nước thải.

-Về nhận thức: nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên nước. Khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường và tiết kiệm nguồn nước.

3.3.Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản:

Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là nội dung không thể thiếu trong chương trình phát triển bền vững của quốc gia, là một nội dung cần được đặc biệt ưu tiên, bao gồm các hoạt động về khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản, trong đó sử dụng tiết kiệm là chủ đạo. So với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam có những lợi thế quan trọng về tài nguyên khoáng sản. Nếu biết bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý, bền vững nguồn tài nguyên này thì chúng sẽ trở thành một lợi thế trong cạnh tranh quốc tế cả trong hiện tại và tương lai lâu dài.

Mặc dù khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo được[43], nhưng do quản lý chưa chặt chẽ nên tình trạng khai thác thiếu quy hoạch, rất bừa bãi đối với các mỏ nhỏ, đã gây ra tình trạng thất thoát tài nguyên khoáng sản, huỷ hoại môi trường đất, thảm thực vật và gây nhiều sự cố môi trường như sụt lở, sập hầm lò khai thác...Đặc biệt các mỏ nhỏ nằm phân tán ở các các địa phương không được tổ chức quản lý thống nhất, đồng bộ nên tình trạng thất thoát tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường càng trầm trọng hơn. Bên cạnh việc làm lãng phí tài nguyên do không tận thu được hàm lượng khoáng sản hữu ích, việc khai thác bằng công nghệ lạc hậu còn gây ra tình trạng mất rừng, xói lở đất, bồi lắng và ô nhiễm sông suối, ven biển. Phương thức khai thác, chế biến và sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng như phương thức tiêu dùng chúng hiện nay còn nhiều bất cập, chưa “thân thiện” với môi trường nên đã có tác động xấu đến môi trường ở nhiều vùng trong cả nước, đe dọa sự phát triển bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống xã hội hiện tại và tương lai.

Vì vậy việc bảo vệ và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng phải trở thành một mục tiêu quan trọng trong tất cả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch cũng như các dự án phát triển ở Việt Nam.

Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội và định hướng chiến lược phát triển bền vững đã đề ra các nhu cầu hoàn thiện chính sách, pháp luật cần được ưu tiên hoàn thiện trong thời giam tới là:

(1) Sử dụng các công cụ kinh tế, hành chính và chế tài pháp luật thực hiện Luật khoáng sản một cách kiên quyết và có hiệu quả hơn;

(2) Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý tài nguyên khoáng sản ở Trung ương và các địa phương;

(3) Đảm bảo sử dụng hợp lý tài nguyên, phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tiết kiệm và tiết chế sử dụng tài nguyên không tái tạo được. Tăng cường kiểm tra và giám sát môi trường trong từng dự án đầu tư và từng quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, các vùng lãnh thổ, áp dụng các công nghệ và quy trình sản xuất ít chất thải, ít gây ô nhiễm môi trường.

Định hướng chiến lược phát triển bền vững cùng nêu ra các giải pháp đồng bộ về kinh tế, kỹ thuật và nâng cao nhận thức của công chúng về vấn đề trên, cụ thể là:

- Về kinh tế: cần xây dựng quy hoạch thống nhất sử dụng các nguồn tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường. Tổ chức trình tự khai thác mỏ một cách hợp lý, tránh tình trạng mỏ dễ thì làm trước, mỏ khó thì bỏ lại, làm ảnh hưởng tới việc theo dõi, đánh giá và quy hoạch khai thác khoáng sản. Hạn chế và sớm tiến tới nghiêm cấm tình trạng khai thác mỏ một cách tự phát, bừa bãi. Đối với tài nguyên khoáng sản ở dưới lòng sông, cần khoanh khu vực khai thác, tránh làm sạt lở bờ và thay đổi dòng chảy. Tăng đầu tư cho khâu phục hồi, tái tạo và cải thiện môi trường sinh thái ở các địa bàn khai thác mỏ.

- Về kỹ thuật: Đổi mới công nghệ khai thác, sàng tuyển và chế biến nhằm tận dụng tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường. áp dụng các công nghệ tiên tiến để sử dụng các loại quặng có hàm lượng thấp. Thu hồi các chất hữu ích từ các bãi thải quặng để làm sạch môi trường và tránh lãng phí tài nguyên.Thực hiện bồi hoàn các dạng tài nguyên sau khai thác như: hoàn thổ, trồng cây xanh, khôi phục thảm thực vật, hệ sinh thái, tái sử dụng chất thải ở những vùng mỏ đã khai thác...

-Về nhận thức: Nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên khoáng sản. Khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động bảo vệ mỏ khoáng sản, đặc biệt đối với các mỏ nhỏ, phân tán và các loại khoáng sản có độ nhạy cảm cao về kinh tế, dễ gây ô nhiễm môi trường.

 

3.4.Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển:

Việt Nam có hơn 3.300 km bờ biển. Vùng đặc quyền kinh tế biển của Việt Nam rộng khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần lãnh thổ trên đất liền. Vùng ven biển là nơi tập trung cao các hoạt động kinh tế và xã hội, nơi đây tập trung gần 60% dân số, khoảng 50% đô thị lớn và quan trọng và hầu hết các khu công nghiệp lớn của cả nước. Chúng ta đã thực hiện một số chính sách và biện pháp nhằm bảo vệ môi trường biển như ban hành các Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Thủy sản v.v. đều chú ý tới vấn đề bảo vệ lâu dài nguồn lợi biển, cũng như bảo vệ môi trường biển. Một số thành phố ven biển đang và sẽ thực hiện các công trình xử lý nước thải và rác thải. Một số dự án quản lý tổng hợp vùng biển ven bờ đã được thực thi.

Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường biển vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: thiếu vốn đầu tư cho các công trình hạ tầng kỹ thuật và các hoạt động ngăn chặn tác hại của ô nhiễm môi trường, việc phát triển ngành thủy sản còn nhiều hạn chế về quản lý và sử dụng hợp lý nguồn lợi và bảo vệ môi trường, trình độ áp dụng khoa học công nghệ, nguồn vốn đầu tư, tổ chức sản xuất và kinh doanh còn thấp so với yêu cầu.... Vùng bờ biển chịu nhiều tác động xấu của thiên tai như bão, lụt, xói lở. Sức ép dân số và tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh ở các vùng ven biển gây ra nhiều hậu quả xấu đối với tài nguyên ven biển và trong lòng biển. Các thành phố, khu công nghiệp vùng ven biển đổ một lượng nước thải không qua xử lý và một phần chất thải rắn vào sông, biển, gây nên ô nhiễm môi trường nước. Đặc biệt, các trung tâm du lịch nằm ven biển cũng là những nguồn xả lớn nước thải và rác thải ra biển. Các cảng sông, cảng biển, công nghiệp khai thác dầu khí; các sự cố môi trường như tràn dầu, đắm tàu…và thiên tai thường xuyên xảy ra đều là những tác nhân gây ô nhiễm và làm suy thoái môi trường biển. Hậu quả là các hệ sinh thái biển và ven biển bị suy thoái nghiêm trọng. Đa dạng sinh học bị đe dọa và suy thoái, diện tích rất lớn rừng ngập mặn bị triệt phá để nuôi tôm, các rạn san hô ven bờ bị khai thác một cách hủy diệt, đưa Việt Nam vào danh sách của những vùng có mức độ đe dọa cao nhất thế giới. Nhiều nhóm động vật quý hiếm như thú biển, đồi mồi, chim biển, các thảm thực vật ven biển và dưới nước như san hô, cỏ biển bị thu hẹp dần. Chất lượng môi trường sống trong các hệ sinh thái bị suy giảm, bị thay đổi theo chiều hướng xấu; đa dạng loài và nguồn gen đặc hữu bị tổn thất hoặc suy thoái, có nơi đến mức nghiêm trọng.

Trên cơ sở đánh giá toàn diện vấn đề, định hướng chiến lược phát triển bền vững đã đề ra các giải pháp lớn về hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này là:

(1) Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và quản lý tài nguyên, môi trường biển theo quan điểm phát triển bền vững. Chiến lược này bao gồm các nội dung phân vùng chức năng biển và ven biển, quản lý tổng hợp các hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển, thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển, quy hoạch phát triển đô thị và dân cư ven biển, phát triển các ngành nghề đa dạng và cải thiện đời sống cho những cộng đồng dân cư ven biển, phòng ngừa và làm giảm tác hại của thiên tai ven biển, trước hết là bão, lụt, sạt lở, nước dâng, tăng cường năng lực quản lý môi trường biển và ven biển, phòng ngừa và ứng phó với các sự cố môi trường biển.

(2) Hình thành một thể chế liên ngành, thống nhất quản lý vùng biển và bờ biển. Cần đổi mới cách lập quy hoạch, kế hoạch phát triển và quản lý chủ yếu nhằm đạt được lợi ích kinh tế cục bộ của ngành mà ít chú ý đến vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Cần có chế tài buộc phải lồng ghép các vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường vào trong kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế của ngành. Trước mắt, các ngành khai thác dầu khí, giao thông vận tải thuỷ, thủy sản, lâm nghiệp, du lịch cần có chương trình phối hợp để cùng khai thác hợp lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và ven biển.

(3) Có chính sách tiến dần đến khoán, giao quyền sử dụng mặt biển trong phạm vi cho phép cho người sản xuất nhằm tạo điều kiện thúc đẩy nghề nuôi trồng hải sản.

(4) Tham gia và lập kế hoạch thực hiện các hiệp định và chương trình hành động quốc tế và khu vực về đánh cá, sử dụng bền vững và bảo vệ nguồn lợi biển, bảo vệ đa dạng sinh học biển.

 Định hướng chiến lược cũng đề ra các giải pháp về kinh tế và môi trường, cụ thể là:

- Về kinh tế: cần đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý. Phát triển mạnh ngành nuôi, trồng thuỷ sản trong nước lợ, nước mặn ven biển theo hướng hài hòa với môi trường. Phát triển hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá bao gồm các hoạt động cảng cá, sửa chữa và đóng tàu, ngư cụ, lưới, cung cấp các dịch vụ, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, hết sức chú trọng công tác thông tin liên lạc, cứu nạn, cứu hộ các ngư dân và tàu thuyền đánh cá. Phát triển và đa dạng hoá các ngành nghề để tăng khả năng tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống cho các cộng đồng ngư dân ven biển, giúp cho công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển và ven biển được tốt hơn.

- Về môi trường: cần thiết lập và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển và ven biển. Đẩy mạnh áp dụng các tiêu chuẩn môi trường ngành và quốc gia. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ bảo vệ môi trường biển và ven biển, công nghệ ứng cứu sự cố môi trường biển (tràn dầu, đắm tàu, ngập mặn...).

3.5.Bảo vệ và phát triển rừng:

Rừng ở Việt Nam có đặc trưng cơ bản là rừng nhiệt đới, rất phong phú chủng loài thực vật, động vật, giá trị sinh khối và đa dạng sinh học cao. Trong những năm cuối thế kỷ 20, các chính sách và biện pháp bảo vệ rừng và trồng mới đã đem lại kết quả tích cực. Tỷ lệ che phủ của rừng đã tăng từ 27% năm 1991 lên 33,2% năm 2000.

Tuy nhiên, rừng Việt Nam vẫn đang chịu những áp lực lớn như: chiến tranh lâu dài đã huỷ diệt nhiều hệ sinh thái rừng. Nhu cầu gỗ, củi của nền kinh tế và cho sinh hoạt, cùng với lợi nhuận siêu ngạch của việc khai thác trái phép gỗ đang dẫn đến tình trạng khai thác bừa bãi, cạn kiệt, không tuân thủ các nguyên tắc lâm sinh, gây thiệt hại tới vốn rừng, nhất là ở các khu vực rừng già, rừng đầu nguồn. Tình trạng du canh, phá rừng làm nương rẫy, tính cạnh tranh cao của sản xuất nông nghiệp so với duy trì rừng đang làm cho diện tích rừng thu hẹp lại, chất lượng rừng giảm sút. Tại các vùng ven biển, diện tích rừng ngập mặn bị phá để nuôi tôm ngày càng tăng. Nạn cháy rừng xảy ra thường xuyên, làm mất đi hàng chục nghìn ha mỗi năm. Công nghệ khai thác và chế biến gỗ còn lạc hậu, hiệu quả sử dụng gỗ thấp. Mặt khác, công nghệ chế biến các sản phẩm thay thế gỗ chưa đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, rừng tiếp tục là đối tượng chặt phá, khai thác, tuy diện tích rừng có tăng lên, nhưng không đạt yêu cầu phòng hộ môi trường.

 Chính vì vậy định hướng chiến lược phát triển bền vững đề ra mục tiêu là phải ổn định quỹ rừng với thành phần: rừng đặc dụng đạt 3 triệu ha, rừng phòng hộ 6 triệu ha và rừng sản xuất 10 triệu ha. Đồng thời định hướng chiến lược cũng đề ra các định hướng về thể chế, pháp luật trong lĩnh vực này là:

(1)Củng cố hệ thống quản lý nhà nước để hướng dẫn sử dụng bền vững và bảo vệ tài nguyên rừng, kết hợp với sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư.

(2)Tiếp tục đẩy mạnh việc giao đất khoán rừng cho các hộ gia đình và tập thể theo Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và phát triển rừng.

(3)Xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách, pháp luật nhằm thu hút đầu tư cho việc phát triển và bảo vệ rừng. Xây dựng, ban hành và hướng dẫn về miễn giảm thuế sử dụng đất, vay vốn với lãi suất ưu đãi cho việc đầu tư thành lập trang trại; ban hành các chính sách quản lý vùng đệm và vùng lõi rừng cùng các hướng dẫn thực hiện có liên quan.

Song song với các định hướng hoàn thiện thể chế, pháp luật, định hướng chiến lược còn đề ra các biện pháp về kinh tế, kỹ thuật và công nghệ như:

- Về kinh tế: cần hỗ trợ nhân dân trồng và bảo vệ rừng, sử dụng có hiệu quả đất rừng được giao khoán. Khuyến khích cải thiện đời sống thông qua sử dụng bền vững rừng và quản lý rừng theo các nhóm cộng đồng dân cư. Trao các hợp đồng bảo vệ rừng cho các cá nhân, hộ gia đình, các nhóm cộng đồng dân cư để bảo đảm công tác bảo vệ và quản lý phù hợp với các khu rừng phòng hộ.  Triển khai các chính sách chia sẻ lợi nhuận phù hợp trong việc bảo vệ rừng nhằm khuyến khích nhân dân địa phương tham gia vào công tác quản lý và bảo vệ rừng. Thúc đẩy phát triển nông-lâm nghiệp sinh thái, các loại hình trang trại nông-lâm nghiệp, đồng thời tăng cường các dịch vụ mở rộng nông nghiệp. Khuyến khích sử dụng bền vững các sản phẩm rừng phi gỗ. Phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu thay thế gỗ.Triển khai mạnh mẽ các dự án trồng cây thuốc.

-Về kỹ thuật và công nghệ: Nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất lâm nghiệp. Khuyến khích trồng các loài cây bản địa trong tất cả các hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng, áp dụng công nghệ khai thác và chế biến gỗ hiện đại, có hiệu quả sử dụng tài nguyên rừng cao. Khuyến khích sử dụng các loại nhiên liệu để thay thế gỗ củi như than, khí ga và thủy điện quy mô nhỏ...Nghiên cứu đánh giá để lựa chọn nhiên liệu thay thế gỗ củi và đề xuất việc sử dụng hữu hiệu các nguồn năng lượng mặt trời, năng lượng gió, khí ga tự nhiên hoặc năng lượng thủy điện. Nghiên cứu áp dụng các giải pháp kỹ thuật phòng và chống cháy rừng và các thảm họa môi trường liên quan tới việc mất rừng.

3.6.Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp:

Việt Nam là nước kém phát triển về công nghiệp; dân số ở đô thị, nhất là ở các đô thị lớn chưa cao. Môi trường không khí ở các vùng nông thôn về cơ bản là trong lành. Tuy nhiên, hiện tượng ô nhiễm không khí ở các khu công nghiệp tập trung và các đô thị đã xuất hiện với mức độ đáng báo động.

Các yếu tố gây ô nhiễm không khí hiện nay là bụi và khí thải từ sản xuất công nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, hoạt động xây dựng và đun nấu phục vụ sinh hoạt của nhân dân. Một số ngành công nghiệp gây ô nhiễm không khí nhiều nhất là nhiệt điện, sản xuất xi măng, gạch, ngói, vôi, luyện kim, hóa chất, khai thác khoáng sản. Với việc sản xuất bằng công nghệ còn lạc hậu và thiếu các thiết bị xử lý ô nhiễm bụi và khí thải, các cơ sở sản xuất thuộc các ngành công nghiệp nói trên đang gây ra những tác động xấu tới môi trường xung quanh. Ô nhiễm bụi trong không khí ở các khu công nghiệp thường vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5-3 lần. Nồng độ khí độc hại (SO2, NO2, CO) ở phần lớn các đô thị và khu công nghiệp đều nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép, tức là chưa có tình trạng ô nhiễm bởi các loại khí này. Song ở một số nhà máy và ở một số nút giao thông lớn trong đô thị, nồng độ các loại khí độc hại trên vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Trong khi mức độ ô nhiễm môi trường không khí ở các khu vực rộng lớn chưa đáng kể, thì ô nhiễm môi trường không khí trong nội bộ các cơ sở sản xuất (ô nhiễm môi trường lao động) là vấn đề đáng lo ngại. Những quan trắc gần đây cho thấy đã có các dấu hiệu của mưa axít ở một số khu vực thuộc cả miền Bắc và miền Nam.

Để giải quyết vấn đề này, định hướng chiến lược phát triển bền vững đã đề ra các định hướng hoàn thiện về thể chế, pháp luật cụ thể sau:

(1)Thực hiện đánh giá tác động môi trường bắt buộc đối với tất cả các dự án phát triển kinh tế-xã hội để có thể ngăn chặn từ trước những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí. Công tác lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường phải được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra thường xuyên và chặt chẽ, quá thời hạn quy định phải xin gia hạn hoặc cấp phép lại.

(2) Tiến hành đánh giá kỹ lưỡng và có kế hoạch kiểm soát ô nhiễm chặt chẽ đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, các phương tiện giao thông vận tải và các thiết bị sử dụng nhiên liệu phục vụ sinh hoạt. Buộc các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải tiến hành xử lý triệt để và khắc phục tình trạng ô nhiễm.

Định hướng chiến lược cũng đề ra các giải pháp về kinh tế, khoa học, kỹ thuật và nâng cao nhận thức của công chúng như:

- Về kinh tế: nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, hiệu quả phát điện của các nhà máy nhiệt điện và hiệu quả sử dụng điện của các thiết bị điện. Phát triển ngành công nghiệp nhiệt điện sử dụng nhiên liệu khí hóa lỏng và dầu nhẹ thay cho nhiên liệu than và dầu nặng có hàm lượng sun-phua lớn.Khuyến khích sử dụng các nguồn năng lượng sạch. Phổ cập việc sử dụng khí sinh học ở nông thôn làm nhiên liệu đun nấu. Phát triển rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, phát triển trồng cây xanh trong đô thị và dọc đường giao thông. Đẩy mạnh phát triển giao thông công cộng tại các đô thị lớn và trung bình. áp dụng nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền" đối với các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường không khí.

-Về khoa học, công nghệ: Khuyến khích sử dụng nguyên liệu và công nghệ sạch tại các cơ sở sản xuất. Nghiêm cấm nhập khẩu các công nghệ lạc hậu và nhanh chóng giảm dần quy mô vận hành các thiết bị đã cũ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

-Về nâng cao nhận thức: Tuyên truyền, giáo dục và đẩy mạnh công tác đào tạo để nâng cao trình độ nhận thức cho các chủ doanh nghiệp, công đoàn và công nhân về bảo vệ môi trường nói chung và môi trường lao động nói riêng.

3.7.Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại:

Tại các vùng nông thôn, các chất phế thải của sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp truyền thống (như thân lá cây, rơm rạ, vỏ hạt, phân gia súc...) hầu hết được sử dụng để đun nấu, làm phân bón hoặc chôn lấp. Những chất phế thải có nguồn gốc công nghiệp, như chất dẻo, nhựa, kim loại, dư lượng hóa chất khó phân hủy, tuy chưa trở thành vấn đề bức xúc, nhưng đang có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Vấn đề rác thải bắt đầu xuất hiện ở những vùng có mật độ dân số đông đúc. Tại các đô thị và khu công nghiệp, việc thu gom và xử chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp, chất thải nguy hại đang là vấn đề môi trường cấp bách. Năng lực thu gom chất thải rắn hiện nay ở tất cả các đô thị và khu công nghiệp ở Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 20-40%, riêng ở các thành phố lớn có thể lên tới 50-80%. Rác thải chưa được phân loại tại nguồn, được thu gom lẫn lộn và vận chuyển đến bãi chôn lấp. Công việc thu nhặt và phân loại các chất phế thải có thể tái chế hoàn toàn do những người nghèo sinh sống bằng nghề bới rác thực hiện. Việc ứng dụng các công nghệ tái chế chất thải rắn để tái sử dụng còn rất hạn chế, chưa được tổ chức và quy hoạch phát triển. Các cơ sở tái chế rác thải có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Mới chỉ có một phần nhỏ rác thải (khoảng 1,5-5% tổng lượng rác thải) được chế biến thành phân bón vi sinh và chất mùn với công nghệ hợp vệ sinh.

Biện pháp xử lý chất thải rắn hiện nay chủ yếu là chôn lấp, nhưng chưa có bãi chôn lấp chất thải rắn nào đạt tiêu chuẩn kỹ thuật vệ sinh môi trường. Các bãi chôn rác thải gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí nặng nề. Chất thải rắn của các khu công nghiệp cũ hiện đang được thu gom và xử lý chung với rác thải sinh hoạt đô thị. Lượng chất thải nguy hại (trong đó có chất thải bệnh viện) chỉ được thu gom với tỷ lệ khoảng 50-60%.Công tác quản lý chất thải rắn còn nhiều điểm yếu kém như: sự phân công trách nhiệm quản lý chất thải giữa các ngành chưa rõ ràng, cơ chế thực hiện dịch vụ thu gom và quản lý chất thải vẫn còn mang nặng tính bao cấp. Việc thu gom chất thải chủ yếu sử dụng lao động thủ công. Sự tham gia của cộng đồng và của khu vực tư nhân vào việc thu gom và quản lý chất thải chưa rộng rãi. Thiếu sự đầu tư thỏa đáng và lâu dài đối với các trang thiết bị thu gom, vận chuyển, phân loại, xây dựng các bãi chôn lấp đúng quy cách và các công nghệ xử lý chất thải. Chưa có các công nghệ và phương tiện hiện đại cũng như vốn đầu tư để tái chế chất thải đã thu gom. Nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường và an toàn sức khỏe liên quan tới việc thu gom, xử lý và quản lý chất thải rắn còn đang ở trình độ thấp....    

Để khắc phục tình trạng trên, định hướng chiến lược phát triển bền vững đã đề ra các giải pháp về hoàn thiện thể chế và pháp luật sau:

(1)Xây dựng và ban hành kế hoạch kiểm soát ô nhiễm cấp quốc gia, cấp ngành hoặc địa phương để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý, khắc phục và tiến tới kiểm soát được tình trạng ô nhiễm môi trường do các chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải nguy hại gây ra.

(2) Triển khai thực hiện tốt các nội dung của Chiến lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 và Quy chế quản lý chất thải nguy hại đã được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.

(3)Tiến hành nghiên cứu để xác định các cơ chế tăng cường hoàn trả chi phí liên quan tới thu gom, xử lý, tiêu huỷ chất thải rắn và chất thải nguy hại.

Định hướng chiến lược cũng để ra các giải pháp đồng bộ về kinh tế, công nghệ và nâng cao nhận thức của công chúng. Cụ thể là:

- Về kinh tế: xây dựng các bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh tại các thành phố lớn và trung bình. Đẩy mạnh việc áp dụng các công nghệ tái chế chất thải để tái sử dụng. Khuyến khích việc phân loại chất thải từ nguồn để phục vụ công nghệ tái chế, góp phần làm giảm diện tích các bãi chôn lấp rác thải và các hệ thống xử lý tốn kém. Khuyến khích khu vực tư nhân thành lập các công ty cổ phần, công ty tư nhân, hợp tác xã…để tham gia vào việc thu gom và xử lý chất thải rắn. Đẩy nhanh tốc độ lắp đặt hệ thống lò đốt rác thải ở các bệnh viện, trước hết tại các bệnh viện điều trị các loại bệnh truyền nhiễm.

- Về công nghệ: giảm lượng chất thải rắn thải ra ngay từ nguồn bằng cách khuyến khích áp dụng những quy trình công nghệ sản xuất sạch và thân thiện với môi trường. Khuyến khích các cơ sở sản xuất sử dụng các công nghệ tiên tiến, tiêu tốn ít nguyên, nhiên, vật liệu; giảm các vật liệu bao bì đóng gói sản phẩm gây lãng phí tài nguyên; thay đổi thói quen tiêu dùng của nhân dân theo hướng tiết kiệm và thải ít chất thải ra môi trường. Khuyến khích áp dụng các công nghệ tái chế chất thải để làm phân bón vi sinh, tạo chất mùn phục vụ sản xuất và giảm diện tích chôn lấp chất thải.

-Về nâng cao nhận thức: triển khai các chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng; khuyến khích nhân dân chủ động tham gia các hoạt động thu gom, xử lý và quản lý chất thải trong cộng đồng tại các thành phố lớn, trung bình góp phần ngăn chặn việc đổ rác thải, nhất là các chất thải nguy hại một cách bừa bãi ra đường phố. Hình thành các phong trào quần chúng về phân loại rác thải ngay tại nhà; chăm lo vệ sinh môi trường sống; sử dụng tiết kiệm tài nguyên và các sản phẩm.

3.8. Bảo tồn đa dạng sinh học:

Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới và được xem là một trong 10 trung tâm có mức đa dạng sinh học cao trên thế giới. Đa dạng sinh học Việt Nam được thể hiện ở độ phong phú về thành phần loài sinh vật, số loài đặc hữu cao, nhiều loài mới đối với thế giới, kể cả các loài thú lớn đã được phát hiện trong thời gian gần đây; ở độ đa dạng về các nguồn gen, đồng thời còn được thể hiện ở sự đa dạng các kiểu cảnh quan và các hệ sinh thái tiêu biểu. Chính phủ Việt Nam đã sớm đề ra các chính sách bảo tồn đa dạng sinh học: từ nằn 1958 đế nay chúng ta đã ban hành trên 60 văn bản pháp luật. Ngày 16 tháng11 năm 1994, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký phê chuẩn tham gia Công ước Đa dạng Sinh học và hiện nay Việt Nam đang là Thành viên của Công ước này.

Mặc dù vậy, đa dạng sinh học ở Việt Nam vẫn đang bị mất mát và suy giảm đáng kể bởi các nguyên nhân chính là: Suy giảm và mất đi nơi sinh sống do các hoạt động chặt phá rừng, chuyển đổi phương thức sử dụng đất, khai thác có tính chất hủy diệt của con người đối với động vật và do các yếu tố khác như cháy rừng, động đất, bão lụt, dịch bệnh...; sự khai thác quá mức tài nguyên sinh vật do áp lực tăng dân số và nạn đói nghèo; ô nhiễm môi trường đang phá hoại một số hệ sinh thái trên cạn, dưới nước và trong lòng đất; ô nhiễm sinh học do nhập các loài sinh vật lạ, ngoại lai không kiểm soát được, gây ảnh hưởng xấu tới các loài bản địa.

Ngày 22.12.1995 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 845/TTg về Kế hoạch hành động bảo vệ đa dạng sinh học của Việt Nam. Kế hoạch này đề ra các mục tiêu lâu dài là bảo vệ sự đa dạng, độ phong phú và đặc sắc của sinh giới Việt Nam trong khuôn khổ của sự phát triển bền vững, như: bảo vệ các hệ sinh thái đặc thù của Việt Nam, bảo vệ các thành phần của đa dạng sinh học đang bị đe doạ do khai thác quá mức hay bị bỏ lãng quên; phát huy và phát hiện giá trị sử dụng của các thành phần đa dạng sinh học trên cơ sở khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và phát triển bền vững các giá trị tài nguyên thiên nhiên...

Do vậy, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội và định hướng Chiến lược phát triển bền vững đã đề ra các giải pháp về chính sách, pháp luật và thể chế cho công tác này trong giai đoạn 2010, định hướng 2020 là:

(1)Hoàn thiện chính sách và pháp luật liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học.

(2)Thường xuyên xem xét, bổ sung và điều chỉnh lại Kế hoạch hành động đa dạng sinh học quốc gia nhằm bảo đảm sự phù hợp của kế hoạch này với các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.

(3)Xây dựng kế hoạch hành động đa dạng sinh học cho các vùng.Thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ môi trường: xây dựng vườn quốc gia, khu rừng cấm, trồng cây xanh, giữ gìn đa dạng sinh học, bảo tồn các nguồn gen di truyền, xây dựng các công trình làm sạch môi trường.

(3)Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về việc bảo tồn đa dạng sinh học.

(4)Củng cố và mở rộng hệ thống quản lý các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, đồng thời phân cấp mạnh về quản lý. Xúc tiến xây dựng hệ thống bảo tàng thiên nhiên, từ cấp quốc gia đến cấp cơ sở để phục vụ các hoạt động nghiên cứu khoa học, phổ biến kiến thức, thăm quan, học tập, tuyên truyền, giáo dục về lịch sử phát triển tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học.

(5) Đẩy mạnh công tác kiểm kê đa dạng sinh học, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên động, thực vật; xây dựng, ban hành và phổ biến rộng rãi các Sách đỏ Việt Nam về các giống, loài quí hiếm để có chính sách bảo tồn nghiêm ngặt.

(6) Đào tạo về bảo tồn đa dạng sinh học cho các cán bộ quản lý rừng và các khu bảo tồn, các nhà khoa học và các đối tượng có liên quan.

(7) Tiến hành nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ phục vụ việc khai thác và sử dụng bền vững các giá trị của đa dạng sinh học, đặc biệt trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và y tế. Khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng các tri thức bản địa trong việc sử dụng và bảo tồn đa dạng sinh học.

(8) Xây dựng và thử nghiệm một số đề án du lịch sinh thái.

(9) Khuyến khích các cộng đồng xây dựng và thực hiện những quy ước chung nhằm bảo vệ đa dạng sinh học tại địa phương.

(10) Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực bảo vệ đa dạng sinh học.

3.9.Thực hiện các biện pháp làm giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu, phòng và chống thiên tai:

Sự thay đổi khí hậu trên quy mô toàn cầu và ở các khu vực trên thế giới do hoạt động của con người đang và sẽ tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Định hướng chiến lược phát triển bền vững đã đề ra các giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật và thể chế trong giai đoạn 2010 là:

(1) Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến và nâng cao nhận thức của nhân dân nhằm thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia về loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-zôn và Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước khung cuả Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu.

(2) Tăng cường và nâng cao năng lực hoạt động khí tượng thủy văn, đặc biệt trong lĩnh vực điều tra cơ bản, quan trắc và dự báo nhằm bảo đảm đánh giá đầy đủ và chính xác hơn về tài nguyên khí hậu và các vấn đề môi trường có liên quan.

(3) Nâng cao chất lượng dự báo khí tượng thủy văn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, trước hết phục vụ có hiệu quả cho công tác phòng chống thiên tai. Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu để có được những dự báo dài hạn với độ tin cậy cao hơn.

3.10. Hợp tác quốc tế về môi trường để phát triển bền vững:

Chủ động và tích cực tham gia vào các hoạt động quốc tế về môi trường là yêu cầu khách quan của  phát triển bền vững. Vì vậy, định hướng chiến lược phát triển bền vững đã đề ra mục tiêu của hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nàylà: đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển và bảo vệ môi trường. Thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế về phát triển bền vững mà Việt Nam đã ký kết tham gia.Tăng cường thu hút những hỗ trợ của quốc tế về kỹ thuật, công nghệ và tài chính trong việc xoá đói giảm nghèo nhằm hướng tới phát triển bền vững.

Định hướng Chiến lược cũng đề ra các hoạt động ưu tiên trong lĩnh vực hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường để phát triển bền vững là:

(1) Tiếp tục thực hiện các chính sách đổi mới, thu hút sự tham gia của các cá nhân và tổ chức quốc tế trong việc thực hiện Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.

(2) Tăng cường hợp tác quốc tế trong các ủy ban của Liên hiệp quốc về phát triển bền vững.

(3) Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế, giáo dục-đào tạo, khoa học công nghệ, đặc biệt là chuyển giao các công nghệ sản xuất sạch và thân thiện với môi trường. Chủ động phổ biến những kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến đã được áp dụng thành công ở Việt Nam tới cộng đồng quốc tế, nhất là tới các nước đang phát triển.

(4) Thông qua đối thoại và trao đổi quốc tế, xác định cơ chế hợp tác quốc tế có hiệu quả nhằm bảo đảm duy trì sự hỗ trợ phát triển hiện có, đồng thời tìm kiếm sự giúp đỡ mới để Việt Nam tham gia một cách có hiệu quả vào các hoạt động quốc tế nhằm bảo vệ môi trường toàn cầu, bù đắp những thiệt hại về kinh tế mà Việt Nam phải gánh chịu từ việc thực hiện các nghĩa vụ bảo vệ môi trường thế giới.

(5) Tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ môi trường toàn cầu, mở rộng liên kết, hợp tác với cộng đồng quốc tế, đặc biệt về việc kiểm soát khí thải gây hiệu ứng nhà kính, sử dụng các chất thay thế cho những chất có thể gây nguy hại đến tầng ô-zôn, hạn chế sự ô nhiễm do hoá chất và chất thải nguy hại, kiểm soát sự vận chuyển chúng xuyên biên giới, bảo vệ môi trường biển và đa dạng sinh học.

(6) Tăng cường trao đổi với cộng đồng quốc tế các thông tin về phát triển bền vững và phổ biến những kinh nghiệm quốc tế tiên tiến trong lĩnh vực này.

(7) Tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và Đông Nam Á về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Chú trọng sự hợp tác nhằm phát triển bền vững lưu vực sông Mê-Công.

(8) Chủ động tham gia các hệ thống quan trắc môi trường và nghiên cứu khoa học quốc tế để thu thập các thông tin về môi trường và phát triển bền vững.

(9) Tìm kiếm sự hỗ trợ quốc tế cho công tác nghiên cứu, thu thập và xử lý dữ liệu môi trường, triển khai các dự án phòng chống thiên tai và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường.

(10) Hợp tác chặt chẽ với các nước tài trợ, các tổ chức quốc tế nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn viện trợ chính thức cho mục đích phát triển bền vững.

(11) Chú trọng động viên cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là các nhà doanh nghiệp và giới trí thức tham gia đóng góp vào việc xúc tiến và hỗ trợ sự phát triển bền vững ở Việt Nam.

III. Một số nhận xét, đánh giá.

Thông qua việc nghiên cứu nội dung của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia và các chiến lược liên quan về vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, chúng tôi rút ra một số nhận xét, đánh giá sau:

1. Về các yêu cầu hoàn thiện khung pháp luật môi trường trong Chiến lược bảo vệ môi trường và định hướng chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2010, định hướng 2020.

Nhìn chung Chiến lược bảo vệ môi trường và định hướng Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2010, định hướng 2020 đã đề ra được các định hướng mang tầm chiến lược cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường giai đoạn 2010, định hướng 2020. Trên cơ sở đánh giá, phân tích sâu sắc các tiền đề chính trị, kinh tế - xã hội, môi trường thực trạng và các dự báo về xu hướng phát triển của kinh tế - xã hội mà môi trường giai đoạn 2001-2020, các dự báo về hòan thiện pháp luật môi trường khá toàn diện và có tầm nhìn tổng thể, bao quát, nó được xem xét trên nhiều cấp độ (như: phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm; khắc phục ô nhiễm và suy thoái môi trường; khai thác, bảo vệ và phát triển bền vững; bảo vệ môi trường các khu trọng điểm...), với nhiều phương diện và thành tố quan trọng của môi trường trong mối quan hệ với yêu cầu phát triển bền vững (như: Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo vệ và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp; quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại; bảo tồn đa dạng sinh học; giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp phần phòng, chống thiên tai...). Trong đó, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia còn đưa ra các chỉ tiêu cụ thể trong từng giai đoạn, trên từng lĩnh vực vớI các giảI pháp thích hợp cho mỗI loạI chỉ tiêu…, định hướng Chiến lược phát triển bền vững còn chỉ ra những nộI dung, định hướng lớn trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về môi trường như: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và quản lý tài nguyên, môi trường biển theo quan điểm phát triển bền vững; xây dựng các tiêu chuẩn môi trường quốc gia về: nước ngầm, các nguồn nước mặt (như: sông, hồ, hồ chứa lớn và các vùng đất ngập nước khác).… Nhìn chung đây là các định hướng tốt, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc hoạch định chính sách, pháp luật về môi trường trong từng giai đoạn cụ thể.

Đăc biệt định hướng chiến lược phát triển bền vững nhấn mạnh "con người là trung tâm của phát triển bền vững" là nguyên tắc hàng đầu trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển bền vững. Người Trung Quốc trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của họ cũng như trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 đã chỉ ra rằng chiến lược phát triển mới trong thế kỷ XXI là chiến lược lấy “con người” làm trung tâm, là chiến lược phát triển lấy việc cải thiện điều kiện sống, nâng cao chất lương cuộc sống làm cốt lõi, mục tiêu của nó là tăng việc làm, tăng cường năng lực phát triển của con người, biện pháp của nó là ra sức khai thách nguồn lực con người, bảo vệ nền văn hoá dân tộc, thực hiện phát triển bền vững[44]. Tuy nhiên ở Việt Nam, ngày nay quan điểm này mới được chính thức nêu lên trong một định hướng chiến lược phát triển bền vững. Mặc dù vậy, đây vẫn là điểm rất mới, mang tính đột phá và là điểm nhấn quan trọng trong tư duy, nhận thức và hành động thực tiễn ở Việt Nam hiện nay trên cả phương diện phát triển kinh tế xã hội, xây dựng thể chế và bảo vệ môi trường.

Đồng thời với nguyên tắc coi con người là trung tâm của phát triển bền vững, định hướng chiến lược phát triển bền vững cũng đề ra một loạt các nguyên tắc khác, đáng chú ý là các nguyên tắc nguyên tắc  "người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn"; khi giải quyết xung đột giữa lợi ích phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường thì phải coi "mọi mặt: kinh tế, xã hội và môi trường đều cùng có lợi", "chủ động gắn kết và có chế tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế-xã hội, coi yêu cầu về bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá phát triển bền vững"... Tuy nhiên trong giai đoạn trước mắt thì nhiệm vụ phát triển kinh tế sẽ được chú trọng hơn với nguyên tắc "coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới".

Bên cạnh các ưu điểm nêu trên, Chiến lược bảo vệ môi trường cũng như định hướng Chiến lược phát triển bền vững vẫn còn những hạn chế nhất định. Mặc dù định hướng Chiến lược phát triển bền vững đã đề ra các yêu cầu hoàn thiện pháp luật trên 8 lĩnh vực môi trường trọng điểm, nhưng trong các định hướng này vẫn còn những nộI dung chưa phảI là những định hướng lớn, manh tính định hướng, chỉ đạo quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường (như một số nộI dung của định hướng 1, 3, 8..). NộI dung của mộI số định hướng này hoặc là vẫn chỉ là các giảI pháp trước mắt hoặc là còn quá chung chung, không có nộI dung cụ thể, không mang tính định hướng tư tưởng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường

2. Về tính toàn diện, đồng bộ của các lĩnh vực môi trường cần bảo vệ trong các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực, vùng, miền.

Qua nghiên cứu gần 40 Chương trình, Quy hoạch, Mục tiêu và Chiến lược một số ngành, lĩnh vực, vùng, miền trọng điểm của quốc gia đến 2010, định hướng đến 2020[45] cho thấy gần như trên tất cả các ngành, lĩnh vực, vùng, miền, trọng điểm chúng ta đều đã có quy hoạch tổng thể. Mặc dù mục tiêu, định hướng, tầm nhìn của từng loại chiến lược, chương trình có sự khác nhau về cấp độ, về khả năng dự báo, song nhìn chung nội dung của các quy hoạch này về cơ bản phù hợp với yêu cầu của phát triển môi trường, các yêu cầu về bảo vệ môi trường đã được chú trọng đáng kể trong các định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, vùng, miền. Cụ thể là:

2.1. Đối với Nghị quyết của Đảng, của Bộ Chính trị (như Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 2001-2010, Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, Đồng bằng sông cửu Long... đến năm 2010) đã thể hiện khá rõ yêu cầu phát triển bền vững. Trong đó, các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng luôn luôn phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái luôn được lồng gép trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội.

2.2. Trong các Chương trình, Chiến lược liên quan trực tiếp đén bảo vệ các thành tố môi trường (Chiến lược quản lý hệ thống Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, Chiến lược quản lý chất thải rắn và khu đô thị công nghiệp đến 2020...) ngoài việc nêu lên các định hướng, yêu cầu cụ thể về bảo vệ môi trường, các Chương trình, Chiến lược này còn đề ra được các yêu cầu, định hướng, giải pháp cụ thể về hoàn thiện khung pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực đó. Chẳng hạn:

+ Chiến lược quản lý chất thải rắn và khu đô thị công nghiệp đến 2020 đề ra giải pháp hoàn thiện khung pháp luật là:Rà soát và ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn luật trong lĩnh vực quản lý chất thải rắn, nâng cao hiệu lực thi hành Luật Bảo vệ môi trường; Ban hành "Quy chế quản lý chất thải rắn" và "Quy chế quản lý chất thải nguy hại", cụ thể hoá việc thực hiện những điều khoản thuộc lĩnh vực quản lý chất thải rắn trong Luật Bảo vệ môi trường;Lập quy hoạch mạng lưới các cơ sở xử lý chất thải rắn y tế và chất thải rắn nguy hại phát sinh từ các khu công nghiệp trong toàn quốc, làm cơ sở để lập và phê duyệt các dự án đầu tư, tránh tình trạng chồng chéo, trùng lặp, lãng phí trong đầu tư; Ban hành tiêu chuẩn thiết kế bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh; đưa chỉ tiêu đất sử dụng để xử lý chất thải rắn vào quy chuẩn quy hoạch đô thị;

+ Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến 2010 đã đề ra yêu cầu xây dựng khung pháp lý về quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên là:Xây dựng khung pháp lý thống nhất về bảo vệ đa dạng sinh học và quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền và tăng cường thực thi các văn bản pháp qui về bảo vệ đa dạng sinh học và quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên đã ban hành. Rà soát và đề xuất bổ sung các văn bản dưới luật để thực thi có hiệu lực các luật về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã ban hành. Đơn giản hoá và tăng cường hiệu lực của các quy chế đã và sẽ ban hành. Nâng cao năng lực của các tổ chức thừa hành pháp luật và phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm lâm, lực lượng bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong việc thi hành các luật bảo vệ tài nguyên thiên nhiên đã ban hành.Rà soát các qui định về xử phạt hành chính để đề nghị sửa đổi mức phạt đối với các vi phạm về bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác nhau (như: rừng, nước, thuỷ sản, môi trường), tránh những chênh lệch, bất hợp lý về mức phạt đã quy định ở các lĩnh vực khác nhau. Xem xét các hình thức phạt phù hợp khác như là một giải pháp thay thế cho việc phạt tiền đối với người nghèo.Nghiên cứu cải tiến chế độ tiền lương và cơ chế bồi thường thương tật cho lực lượng thừa hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, nhất là ở các vùng có nhiều khó khăn.Hoàn thiện và hệ thống hoá các văn bản pháp qui đã ban hành và việc theo dõi tình hình thực thi các văn bản đó.

+ Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020 đã đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cụ thể như:Ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hoá (các cơ quan của Chính phủ trong phạm vi quyền hạn của mình cần sớm ban hành các chính sách liên quan về thủ tục cấp phép, về đất đai, về thuế, phí, lệ phí, tín dụng, bảo hiểm nhằm khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia phát triển cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn theo định hướng của Nhà nước); Hệ thống văn bản quản lý: trước năm 2005 cần hoàn thiện, bổ sung và xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật, các quy chế, quy định, tiêu chuẩn và hướng dẫn thực hiện Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân và các văn bản pháp luật khác; hình thành cơ chế, chính sách vừa đáp ứng nhu cầu của người dân, vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên xã hội của từng vùng: miền núi, đồng bằng sông Hồng, khu vực ven biển và các hải đảo, đồng bằng sông Cửu Long...; xây dựng hệ thống văn bản pháp quy để bảo vệ lợi ích của người sử dụng nước sạch và dịch vụ vệ sinh trong cơ chế thị trường.

2.3. Trong các Chương trình, Mục tiêu, Chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực trọng điểm quốc gia về kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ ban hành thì yêu cầu phát triển bền vững cũng đã được đặt ra như một nguyên tắc cơ bản. Đặc biệt trên một số lĩnh vực như: nuôi trồng thủy sản, ngành thép, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành vật liệu nổ công nghiệp... đều đã đưa ra các giải pháp kỹ thuật cần thiết nhằm bảo vệ và đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn về môi trường. Chẳng hạn, Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thép đến năm 2010 đã đề ra các định hướng phát triển công nghệ, sử dụng công nghệ hiện đại, tự động hóa ở mức cao, tiêt kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, điện năng, đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường, thay thế công nghệ lạc hậu, kém hiệu quả và tác động xấu đến môi trường. Quy hoạch tổng thể ngành Công nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam đến 2010 đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể nhằm giảm thiểu mức độ ô nhiễm môi trường như tổ chức lại sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng thủ công ở các địa phương, nhằm giảm tối đa sử dụng đất canh tác và xây dựng các lò gạch thủ công không theo quy hoạch gây ô nhiễm môi trường tại các vùng ven đô thị, thành phố, thị xã, thị trấn. Xóa bỏ việc sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công ở ven các đô thị trước năm 2005, các vùng khác trước năm 2010. Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020 đã đưa ra các chỉ tiêu kỹ thuật cụ thể (về tiêu hao điện năng, nguyên liệu, nồng độ bụi của khí thải, cường độ tiếng ồn...) đối với từng loại cơ sở sản xuất xi măng....

 Tuy nhiên, bên cạch đó vẫn còn một số quy hoạch, chiến lược lại chưa chú trọng đúng mức đến yêu cầu phát triển bền vững. Chẳng hạn như Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sông Việt Nam đến 2020, Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến 2020, Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến 2010 và định hướng phát triển đến 2020... là những ngành trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường, có khả năng và nguy cơ gây ô nhiễn lớn đến môi trường khí, môi trường nước, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học (đối với các quy hoạch phát triển đường bộ qua các khu sinh thái, khu bảo tồn thiên nhiên...) nhưng trong các quy hoạch này lại chưa tính đến các giải pháp công nghệ, các tiêu chuẩn về tiếng ồn, khí thải, chất thải của các phương tiện giao thông vận tải, các yêu cầu cụ thể về đánh giá tác động môi trường đối với các tuyến đường qua các khu sinh thái, khu bảo tồn thiên nhiên... Do vậy, yêu cầu phát triển bền vững trong các quy hoạch này là chưa đảm bảo.



[1]  "Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 86

[2] Báo cáo "Tương lai chung của chúng ta" của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc năm 1987.

[3] Nguồn số liệu: Theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17.8.2004 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.

 

[4] Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

[5] Tài liệu Hội thảo Ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp. Tài liệu đã dẫn.

[6] Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000.

[7] Peter Malanczuk, Akerhurst’s Modern Introduction to International Law, London 1997, tr. 63.

[8] Theo Kelsen thì nguồn gốc và hiệu lực của mọi quy định pháp luật đều xuất phát từ pháp luật quốc tế. Quy phạm pháp luật quốc tế có hiệu lực cao hơn so với quy phạm trong nước trong trường hợp có mâu thuẫn; mọi quy định trong nước trái với quy định quốc tế đều mặc nhiên vô hiệu; quy định pháp luật quốc tế có hiệu lực trực tiếp ở mỗi quốc gia. H. Kelsen, Principles of International Law (1966), các tr. 553-588. 

[9] Về hình thức, có thể phân thành chuyển hoá chính thức và chuyển hoá tạm thời; về phương thức có thể phân thành chuyển hoá mặc nhiên và không mặc nhiên; về phạm vi, có chuyển hóa từng công ước cụ thể hay toàn bộ các văn bản quốc tế mà quốc gia tham gia; về kỹ thuật pháp lý có thể quy định thẳng tất cả công ước vào một văn bản pháp luật trong nước, hợp pháp hoá bằng một văn bản nhưng không nêu lại toàn bộ công ước, hay dẫn chiếu trược tiếp. Xem S. V. Chernichenko, Obectivnue granixu mejdunarodnovo prava i sootnosenie mejdunarodnovo prava i vnutrigoxudarstvenovo prava [Giới hạn khách quan của công pháp quốc tế và mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước], Sovietski Ejegodnik Mejdunarodnovo Prava 1984, tr. 81 et seq.   

[10] Kể cả trong trường hợp điều ước quốc tế mặc nhiên hay tự có hiệu lực thi hành trực tiếp (tức là không cần hành vi nội luật hoá) thì vẫn phát sinh vấn đề liệu mỗi cá nhân, tổ chức có thể trực tiếp dẫn chiếu đến quy định của điều ước đó trong các tranh chấp cụ thể trong nước của mình hay không. Tại Hoa kỳ, trong vụ DIGGS kiện RICHARDSON (555 F.2d 848, D. C. Cir 1976), nguyên đơn dẫn chiếu Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc kêu gọi các nước không quan hệ buôn bán với Nam Phi để bảo vệ quyền lợi của mình. Nguyên đơn cho rằng do Nghị quyết có tính chất tự thi hành nên Chính phủ Mỹ đã vi phạm Nghị quyết do đã tiến hành đàm phán về buôn bán với các quan chức Nam Phi tại Namibia. Chính phủ Mỹ lại cho rằng Nghị quyết không có hiệu lực bắt buộc. Khi vụ việc được đưa ra toà, Toà phán kể cả trong trường hợp có hiệu lực bắt buộc và trực tiếp tại Hoa Kỳ mà không cần phải có hành vi nội luật hoá thì bản thân Nghị quyết cũng không quy định quyền của công dân Mỹ được trực tiếp dẫn chiếu đến các điều khoản liên quạn trước toà nếu chưa có văn bản pháp luật trong nước nội luật hoá Nghị quyết đó.    

[11] Xem “Chủ tịch nước Trần Đức Lương làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp về công việc ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế của CHXHCN Việt Nam”, Báo Nhân dân 10-4-2003.

[12] Chẳng hạn, về trách nhiệm của các bên, Điều 12 Công ước BASEL về vận chuyển phế thải cũng chỉ dùng thuật ngữ “Tham khảo về các vấn đề trách nhiệm”; theo đó các bên sẽ hợp tác thông qua càng sớm càng tốt một Nghị định thư thiết lập các thủ tục thích hợp về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại do việc vận chuyển qua biên giới các chất thải nguy hiểm và các phế thải khác.   

[13] Xem Bruce Koppel, “Sustainable Development: Moving beyond the Accidental Consensus” – Presentation at International Symposium on Global Initiatives for Sustainable Development, Osaka, Japan, Nov. 28-29, 1991 in Report of the Symposium published by the Japanese Foundation for Advanced Studies on International Development, 1992, tr.16; LON L. FULLER, THE MORALITY OF LAW (rev. ed. 1969), passim, tr. 145-51; Axel Bree, Article XX GATT – QUO VADIS? The Environmental Exceptions After the Shrimp/Turtle Appellate Body Report, 17 Dick. J. Int’l L. 99, 109 (1998); Yoshiro Matsui, Some Aspects of the Principle of Common but Differentiated Responsibilities, a paper presented at the Seminar International Law and Sustainable Development: Principle and Practice, Amsterdam, Nov. 29 – Dec. 1, 2001; Paulo Canelas de Castro, The Judgment in the Case Concerning the Gabcikovo-Nagymaros Project: Positive Signs for the Evaluation of International Water Law,  in (1997) 8 Y. B. INT’L ENVT’L L., 21, 28  (J. Brunnee & E. Hey, eds., 1998).

[14] Các định hướng này được tóm tắt từ các văn bản sau: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến 2010; Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17.8.2004); Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số...); Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại văn bản số 2685/VPCP-QHQT ngày 21.5.2002);Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020; Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010;  và một số quy hoạch, chiến lược một số ngành, lĩnh vực trọng điểm quốc gia khác đến năm 2010, định hướng đến 2020.

[15] Các Chương trình, Quy hoạch,Mục tiêu, Chiến lược này được ban hành bởi Bộ Chính trị hoặc Thủ tướng Chính phủ.

[16]  Xem thêm Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Nhóm 4.

[17] US.v.Canada, III R.I.A.A. 1911, 1965.

[18] Nghị quyết số 2995 năm 1972 của Đại hội đồng Liên  Hợp Quốc về hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực môi trường (đoạn 1) nêu tương đối rõ ràng hơn: "Trong khi thăm dò khai thác và phát triển các nguồn tài  nguyên thiên nhiên của mình, các quốc gia không được gây ra những tác động có hại ở mức độ đáng kể cho môi trường ở các vùng nằm ngoài  quyền tài phán  quốc gia của mình". Nội dung này cũng  được khẳng định  trong Nghị quyết 3129 năm 1973 về hợp tác trong  lĩnh vực  môi trường  liên quan  đến các nguồn tài nguyên được chia sẻ bởi  hai hay nhiều quốc gia và Nghị quyết số 3281 năm 1974 trong đó chứa đựng Hiến chương về  các quyền và  nghĩa vụ kinh  tế của các quốc gia (điều 2,30, 32.2).

[19] Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và tiêu huỷ chúng.

[20] UNEP, Selected Multilateral Treaties in the  field of the Environmental  Law, Vol.2, p.389.

[21] Công ước Bamako năm 1991 về việc kiểm soát  các chất thải độc hại, điều 4.3.f.

[22] Yearbook of International Environmental Law, p.473, 1990.

[23] Official Records of the GA, 44th Session, Supplement No.25 - A/44/25.

[24] Nguyên tắc 15 Tuyên bố Rio.

[25] Official Journal, 1985 L 175/1.

[26] Điều 199, Công ước luật biển năm 1982.

[27] Nghị quyết 3281 năm 1974 của Đại  hội đồng Liên hợp quốc.

[28] Điều 4, Công ước Viên năm 1985 về chống suy giảm tầng ô-zôn.

[29] Điều 200, Công ước Luật biển năm 1992.

[30] Điều 17, Công ước của Liên hợp quốc năm 1992 về đa dạng sinh học; điều 4, Công ước Viên năm 1985 về chống suy giảm tầng ô-zôn.

[31] Nghĩa vụ thương lượng đã được ghi nhận trong nhiều điều ước khu vực hoặc song phương như Hiệp định Niamey năm 1964 liên quan đến Uỷ  ban sông Niger và  giao thông vận tải trên sông Niger (điều 12); Hiệp  định năm 1964 về  sử dụng  các nguồn  nước biên  giới giữa Ba Lan và Liên Xô (điều 6); Công ước Steckborn năm 1960 về bảo vệ  hồ Constance khỏi  bị ô nhiễm (điều 1); Hiệp định năm 1978 về  chất lượng nước hồ  lớn giữa Canada và  Mỹ (điều 6.1.1 và 6.10.1); Công ước châu  Phi năm 1968 về  bảo tồn  tự nhiên  và các nguồn tài nguyên thiên nhiên (điều 5.2 và 14.3); Hiệp  định ASEAN năm 1985 về bảo  tồn tự  nhiên và  các nguồn  tài nguyên thiên nhiên (điều 19.2.e và 20.3.c); Công ước Pari  về ngăn ngừa  ô nhiễm từ  các nguồn trên  đất liền (điều 9); Công ước của Cộng đồng châu Âu năm  1979 về ô nhiễm không khí  xuyên quốc gia (điều 5); Công ước năm 1974 bảo vệ môi trường Bắc Âu (điều 11); Qui định Montreal về ô nhiễm xuyên quốc gia (điều 18); Các nguyên tắc 6-7 của UNEP về các nguồn tài nguyên được các quốc gia chia sẻ; Nguyên tắc 7  của Các nguyên tắc  của OECD về ô  nhiễm xuyên quốc gia.

[32] Xem “Treatise on environmental law” (Tập khảo luận về Luật môi trường), Matthew Bender & Company, Inc., 2002, mục 1.01. (tại www.lexis.com).

[33]  Xem Báo cáo tổng hợp nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về môi trường.

[34]  Về chuyên môn, một số luật gia cho rằng đây là hoạt động pháp điển hoá, một số khác lại có ý kiến ngược lại. Trong Báo cáo này chỉ đề cập tới tính kỹ thuật của giải pháp mà không nêu và thảo luận các vấn đề cụ thể hơn.

[35] Nguồn: Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, H.2001.

[36] Tài liệu Hội thảo Ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp. Tài liệu đã dẫn.

[37] Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000.

[38] Xem “Trung Quốc- Những chiến lược lớn” - Nxb Thông tấn - HN, 2003.

[39] Báo cáo "Tương lai chung của chúng ta" của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc năm 1987.

[40] Nguồn số liệu: Theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17.8.2004 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.

 

[41] Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

[42] Các định hướng này được tóm tắt từ các văn bản sau: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến 2010; Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17.8.2004); Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số...); Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại văn bản số 2685/VPCP-QHQT ngày 21.5.2002);Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020; Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010;  và một số quy hoạch, chiến lược một số ngành, lĩnh vực trọng điểm quốc gia khác đến năm 2010, định hướng đến 2020.

[43] Các nguồn tài nguyên thiên nhiên được phân chia thành loại không tái tạo được và loại có thể tái tạo được, trong đó khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo được (theo thống kê, hiện nay cả nước có hơn 1.000 mỏ lớn nhỏ đang được khai thác). Việc bảo vệ và sử dụng tiết kiệm, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên cần được chú ý đối với cả 2 loại nói trên với những chính sách và biện pháp quản lý thích hợp đối với mỗi loại, nhưng loại tài nguyên không tái tạo được cần đặc biệt chú ý hơn.

[44] Xem “Trung Quốc- Những chiến lược lớn” - Nxb Thông tấn - HN, 2003; Hội thảo về kinh nghiệm xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và Trung Quốc.- Nxb Chính trị Quốc gia -HN,2004.

[45] Các Chương trình, Quy hoạch,Mục tiêu, Chiến lược này được ban hành bởi Bộ Chính trị hoặc Thủ tướng Chính phủ.

 

File đính kèm downloadTải về