• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Quy chế Thẩm phán
Nội dung tóm tắt

Trong thời gian qua, công tác tư pháp đã có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt, với chất lượng có tiến bộ rõ rệt.

Tuy nhiên, công tác tư pháp cũng còn những hạn chế nhất định, trong đó có những vấn đề còn nhiều nhức nhối, như: số lượng án đưa ra xét xử rất chậm, chất lượng xét xử còn hạn chế, đặc biệt là tình trạng xét xử oan sai tuy không nhiều nhưng rất nghiêm trọng [1], trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của không ít Thẩm phán còn non yếu, các biểu hiện suy thoái đạo đức, tiêu cực, tham nhũng của một bộ phận Thẩm phán xảy ra khá phổ biến [2]...

Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có những nguyên nhân quan trọng xuất phát từ các quy định của pháp luật hiện hành về chế định Thẩm phán chưa đầy đủ, chồng chéo và khó thực hiện.

Do vậy, trước yêu cầu của thực tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan tâm đến khắc phục những hạn chế của cơ quan tư pháp. Các Nghị quyết Trung ương III, V, VI (lần 2), VII, VIII (khoá 8), Đại hội Đảng X và đặc biệt là Chỉ thị số 53-CT-TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị về “Một số vấn công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000” bên cạnh việc quan tâm kiện toàn hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, cũng nhấn mạnh đến việc tăng cường về số lượng và chất lượng Thẩm phán, xác định rõ các quyền và nghĩa vụ cụ thể của Thẩm phán, xây dựng một cơ chế hữu hiện bảo đảm cho Thẩm phán nói riêng và Toà án nói chung hoạt động độc lập và có hiệu quả. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng  khẳng định: “Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân. Từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án nhân dân huyện... Xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà án, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư... có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công vô tư, có nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh”. Nghị quyết trung ương III (khoá 8) xác định rõ “Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán toà án cấp tỉnh và toà án cấp huyện; đồng thời căn cứ vào tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay mà điều chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọ cho phù hợp để kịp thời bổ sung đủ Thẩm phán cho toà án cấp huyện và toà án cấp tỉnh...”, “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể... Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ; xử lý nghiêm những cán bộ tham nhũng tiêu cực”[3]. Văn kiện Đại hội Đảng IX tiếp tục xác định “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai... Tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng...” [4].

Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp với trách nhiệm của mình đã có nhiều đề tài nghiên cứu về chế định Thẩm phán, song bên cạnh những kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đã được đưa ra áp dụng trong cải cách tư pháp thì vẫn còn những vấn đề quan trọng đang để ngỏ, những đề tài đó chưa thể đi sâu xem xét, giải quyết một lúc tất cả các vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa rất quyết định trong chế định Thẩm phán như hế độ tuyển cử, điều động, khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán; các biện pháp bảo đảm cho Thẩm pháp, Hội thẩm thực thi nhiệm vụ; các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán; Cơ chế pháp lý bảo đảm cho Thẩm phán hoạt động có hiệu quả;...

Chính vì vậy, việc nghiên cứu để tìm ra các căn cứ, cơ sở lý luận cho việc tạo ra một cơ chế pháp lý thích hợp, hữu hiệu bảo đảm cho Thẩm phán hoàn thành tốt chức trách, để các cơ quan có thẩm quyền, nhân dân giám sát tốt hoạt động xét xử của Toà án là một vấn đề khoa học mà thực tiễn hiện nay đang đòi hỏi.

Song đây là một vấn đề có nội dung nghiên cứu tương đối rộng, nên trong khuôn khổ của đề tài cấp Bộ và thời gian hai năm, bằng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề trực tiếp liên quan đến chế định Thẩm phán như phương thức bổ nhiệm, thuyên chuyển, cách chức Thẩm phán, địa vị pháp lý của Thẩm phán, mà không đi sâu vào vấn đề quyền, nghĩa vụ của Thẩm phán trong quá trình tiến hành tố tụng, tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, các biện pháp bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán...

I. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA THẨM PHÁN TRONG HỆ THỐNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NHÀ NƯỚC

Trong bộ máy Nhà nước của Việt Nam, có rất nhiều loại công chức hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi loại cán bộ công chức đều có một vị trí riêng. Vị trí này được xác định căn cứ vào đặc thù nghề nghiệp của họ, tuy nhiên tất cả cán bộ công chức đều có những đặc trưng chủ yếu. Thẩm phán, theo quy định của Pháp lệnh về cán bộ công chức cũng là một loại công chức nhà nước, nhưng xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp mà họ có một vị trí đặc biệt trong hệ thống công chức Việt Nam, nên tính đặc thù của hoạt động nghề nghiệp cũng tạo nên những nét đặc thù trong công tác quản lý, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo... Vậy Thẩm phán có vị trí như thế nào trong hệ thống cán bộ, công chức của Việt Nam?

Thẩm phán - công chức hoạt động trong Toà án - với công việc chính là xét xử. Hay nói cách khác nghề của Thẩm phán là nghề xét xử. Nghề xét xử có những đặc thù chính sau:

a. Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật

- Đối với hoạt động xét xử thì Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật bằng cách xem xét một cách khách quan toàn bộ vụ án trên cơ sở thẩm vấn, tranh luận công khai và bình đẳng trước phiên toà công khai, để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Đây là điểm khác biệt căn bản đối với các hoạt động áp dụng pháp luật của bất cứ một cơ quan nhà nước  - hoạt động được thực hiện trên nguyên tắc quyền uy, phục tùng.

- Văn bản áp dụng của Toà án được thể hiện dưới hình thức là một bản án hoặc quyết định nhân danh Nhà nước. Đây cũng là điểm khác biệt với văn bản áp dụng của các cơ quan nhà nước khác không thể là bản án và cũng chỉ nhân danh cơ quan.

- Mục đích trực tiếp của hoạt động áp dụng pháp luật của Toà án là bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, khác với mục đích chung của các cơ quan nhà nước khác là thi hành pháp luật như cơ quan lập pháp áp dụng pháp luật để thực hiện quyền giám sát, cơ quan hành pháp áp dụng pháp luật để đưa pháp luật vào cuộc sống… Có nghĩa là chức năng của Toà án không phải là tố giác, buộc tội, mà chức năng của Toà án là xem xét một cách khách quan những tố giác, buộc tội của các cơ quan, cá nhân khác và phán xử sự việc cụ thể là có vi phạm pháp luật không? trên cơ sở đó khôi phục (khắc phục) tình trạng vi phạm pháp luật bằng chế tài nghiêm khắc đối với bên vi phạm thông qua bản án, quyết định nhân danh nhà nước.

Tính đặc thù nghề nghiệp này đã chi phối đến địa vị pháp lý của Thẩm phán trong hệ thống công chức nhà nước. Do việc áp dụng pháp luật của thẩm phán là sử dụng phương pháp tranh tụng bình đẳng nên đòi hỏi Thẩm phán phải hết sức vô tư khách quan trong việc xem xét ý kiến của các bên tham gia tranh tụng.

b. Tính độc lập cao trong nghề nghiệp

Chức năng của Toà án là xét xử, mà xét xử là bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý. Do đó, muốn bảo vệ được công lý đòi hỏi Toà án phải độc lập không bị lệ thuộc vào bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Chính vì vậy, nguyên tắc xét xử độc lập được coi là nguyên tắc xương sống trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.

Nguyên tắc "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" đã được ghi nhận qua 4 Hiến pháp của nước ta. Nguyên tắc này cũng đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật tố tụng của nước ta hiện nay.

Khi xét xử, pháp luật dành cho Toà án một quyền đặc biệt là quyền độc lập. Tuy nhiên, cần phải hiểu rõ hai vế của nguyên tắc này: Khi xét xử, Thẩm phán được quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này chỉ được bảo đảm khi hai vế đó tồn tại trong sự kết hợp lẫn nhau. Nghĩa là Thẩm phán được quyền độc lập nhưng chỉ độc lập khi xét xử và hơn nữa độc lập trong sự tuân theo pháp luật.

Nguồn gốc của nguyên tắc này bắt nguồn từ đặc trưng của hoạt động xét xử. Người thẩm phán khi xét xử, phải khôi phục lại toàn bộ diễn biến, tình tiết của vụ án. Có thể nói, thẩm phán là người chứng kiến, người quay lại cuốn phim với tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án. Và như vậy, Thẩm phán có điều kiện nhất trong việc đưa ra một phán quyết đúng đắn đối với hành vi đó. Đó là một trong những lý do vì sao Thẩm phán được độc lập khi xét xử.

Phán quyết của Thẩm phán bao giờ cũng liên quan đến số phận, vận mệnh của con người. Không chỉ đương sự là người trong cuộc mới quan tâm, mà cả xã hội cũng quan tâm. Vì vậy, vấn đề đặt ra là để bảo đảm tính chính xác, phù hợp với pháp luật và phù hợp với thực tế khách quan đã diễn ra thì phải dành cho người Thẩm phán toàn quyền quyết định, người khác không có quyền can thiệp. Như thế, độc lập xét xử không chỉ đơn thuần là một quyền, một ưu thế của người Thẩm phán mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng của người Thẩm phán.

Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã chi phổ rất lớn đến vị trí của Thẩm phán trong hệ thống công chức, cũng như những yêu cầu cho mỗi Thẩm phán. Khi xét xử thẩm phán phải tôn trọng nguyên tắc đó. Vì vậy, đòi hỏi người Thẩm phán phải có một bản lĩnh, đại diện cho khát vọng xã hội, vì lợi chung của xã hội để đưa ra một phán quyết về tính chất của hành vi, trên cơ sở vận dụng qui định của pháp luật. Với yêu cầu như vậy, người Thẩm phán phải là người “chí công vô tư, phụng công thủ pháp”. Vậy thì cần phải hiểu, độc lập xét xử không chỉ là một quyền thuần tuý mà độc lập xét xử luôn đi liền với chỉ tuân theo pháp luật, nó đã trở thành nghĩa vụ đạo đức, một đòi hỏi về phẩm chất, một bản lĩnh của người Thẩm phán.

Trên thực tế, độc lập xét xử vẫn còn đang là vấn đề thời sự và phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan, khách quan của vấn đề.

Về mặt chủ quan: Để có thể độc lập khi xét xử, đòi hỏi người Thẩm phán một trình độ, một bản lĩnh, một năng lực vận dụng pháp luật và một lòng tự tin vào chính mình, đồng thời phải có một ý thức trách nhiệm rất cao. Cho tới hiện nay, không phải vị Thẩm phán nào cũng đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe như vậy.

Về mặt khách quan: Những yếu tố nào tác động đến tính độc lập của người Thẩm phán? Đó là sự tác động của môi trường xung quanh. Thử thách lớn nhất đối với người Thẩm phán phải chăng chính là ở chỗ này. Làm thế nào để vượt lên trên mọi sự tác động, không phải là để đưa ra một phán quyết theo ý muốn chủ quan của mình, mà chính là bảo đảm sự đúng đắn, công bằng là một yêu cầu của pháp luật. Muốn vậy, người Thẩm phán phải thực sự chí công vô tư. Tuy nhiên, không chỉ có chí công vô tư, mà quyết định của Thẩm phán còn thể hiện một thái độ rung cảm đối với cuộc sống.

Còn một vấn đề khác có liên quan rất lớn đến tính độc lập của Thẩm phán, đó là sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử. Tuy nhiên, phải trở lại tính đặc thù của công tác xét xử, thì về nguyên tắc, cấp uỷ không có quyền chỉ đạo Toà án trong việc xét xử, không được can thiệp vào các vụ án, không được đưa ra các mức án cụ thể. Song cũng có nhiều trường hợp phức tạp mà việc vận dụng pháp luật vào trường hợp đó đòi hỏi phải căn cứ vào tình hình chính trị của địa phương. Trong quyết định của người Thẩm phán không chỉ thể hiện tính chuyên môn đơn thuần mà phải thể hiện tính chính trị cao.

3. Tính hiệu lực tuyệt đối trong các phán quyết của Toà án

Khác với các quyết định của các cơ quan nhà nước khác, Bản án, quyết định của Toà án được nhân danh nhà nước. Do vậy, khi bản án, quyết định này đã có hiệu lực thi hành thì mọi cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ tôn trọng và tuyệt đối thi hành. Bản án này chỉ bị xem xét lại theo một trình tự tố tụng nghiêm ngặt và có thể bị huỷ bỏ bởi một bản án khác cũng nhân danh nhà nước. Chính điều này đặt ra yêu cầu, Thẩm phán khi ra các phán quyết phải hết sức thận trọng, vì phán quyết của Toà án trong nhiều trường hợp có ảnh hưởng quyết định đến quyền lợi nhân thân của cá nhân, các quyền và lợi ích về tài sản của cá nhân, tổ chức và Nhà nước, thậm chí trong nhiều trường hợp có thể tước đoạt đi sinh mạng của con người. Điều này đòi hỏi ở Thẩm phán nhiều phẩm chất về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức...

Như vậy, Thẩm phán là một loại công chức có vị trí, vai trò rất đặc biệt trong hệ thống cán bộ công chức. Vị trí này có được là do tính đặc thù của hoạt động xét xử quy định. Với đặc thù nghề nghiệp như vậy, đòi hỏi người thẩm phán phải có rất nhiều những phẩm chất cần thiết cho nghề nghiệp. Điều này cũng đồng nghĩa phải có một cơ chế đặc thù cho việc đào tạo, tuyển dụng, quản lý... Thẩm phán.

II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA THẨM PHÁN CẦN CÓ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT

Với xu hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì mọi hoạt động của cơ quan nhà nước trên mọi lĩnh vực phải có sự điều chỉnh cụ thể của pháp luật. Đối với hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán cũng vậy, vấn đề đặt ra là với hoạt động nghề nghiệp đặc biệt của Thẩm phán thì pháp luật cần điều chỉnh hoạt động này đến đâu và điều chỉnh như thế nào? Theo chúng tôi những vấn đề cơ bản sau cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật.

1. Tiêu chuẩn để tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán

Tiêu chuẩn Thẩm phán là điều kiện cần phải có của một người để làm căn cứ cho việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán. Ở các nước đều dựa trên các yếu tố cơ bản như quan điểm chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác, sức khoẻ. Các tiêu chuẩn này một mặt phải xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, mặt khác phải phù hợp với thực trạng chất lượng cán bộ hiện có.

Phù hợp với thực trạng chất lượng cán bộ ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, thì tiêu chuẩn Thẩm phán đòi hỏi phải có những nội dung sau:

1.1. Tiêu chuẩn về chính trị.

Tiêu chuẩn chính trị là những tiêu chuẩn về mặt quan điểm, tư tưởng chính trị của người Thẩm phán. Để đánh giá được tư tưởng, quan điểm, bản lĩnh chính chính trị vững vàng của Thẩm phán thì đòi hỏi cũng phải có những tiêu chuẩn cụ thể nhất định. Tiêu chuẩn ấy là kết quả của quá trình bồi dưỡng, đào tạo và tự rèn luyện và được đáng giá thông qua hệ thống văn bằng như trình độ lý luận chính trị sơ cấp, trung cấp, cao cấp.

1.2. Tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ.

Nghề Thẩm phán là nghề xét xử, muốn xét xử được đòi hỏi Thẩm phán phải có tiêu chuẩn cần thiết về chuyên môn và nghiệp vụ. Thước để đo về chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán chính là kết quả của hoạt động xét xử. Tuy nhiên, tiêu chuẩn chuyên môn và nghiệp vụ của Thẩm phán không chỉ được đánh giá thông qua chất lương xét xử mà còn phải được xem xét khi tuyển chọn Thẩm phán.

Tiêu chuẩn về chuyên môn chính là những kiến thức về pháp luật của Thẩm phán. Việc quy định tiêu chuẩn chuyên môn của Thẩm phán phụ thuộc vào hệ thống pháp luật hiện hành, chất lượng đào tạo chuyên ngành luật, mặt bằng hiểu biết pháp luật của người dân nói chung, tính phức tạp của hoạt động tố tụng...

Tiêu chuẩn về nghiệp vụ của Thẩm phán là kỹ năng, kinh nghiệm xét xử của Thẩm phán. Tiêu chuẩn về nghiệp vụ có thể được đánh giá thông qua một số hình thức như khả năng được đào tạo nghề, kinh nghiệm thực tiễn (thời gian công tác và vị trí công tác).

1.3. Tiêu chuẩn về đạo đức.

Đạo đức là một dạng hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội về điều thiện, điều ác, về danh dự, lương tâm, lẽ công bằng, vinh, nhục... Đối với người Thẩm phán thì ngoài việc đáp ứng các chuẩn mực đạo đức thông thường, thì còn phải đáp ứng các chuẩn mực đạo đức xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp như các tiêu chuẩn về công bằng, khách quan, vô tư trong hoạt động nghề nghiệp, các chuẩn mực giao tiếp, ứng xử khi xét xử, các chuẩn mực về lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp... Vậy pháp luật cần điều chỉnh phạm trù đạo đức đối với nghề xét xử ở mức độ nào và như thế nào? Theo chúng tôi, pháp luật cần điều chỉnh vấn đề đạo đức Thẩm phán ở phạm vi sau:

- Pháp luật sẽ không điều chỉnh ý thức đạo đức mà chỉ điều chỉnh các quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức.

- Pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.

- Các vấn đề khác thuộc phạm trù đạo đức như lương tâm, trách nhiệm, chuẩn mực giao tiếp, ứng xử... cần được điều chỉnh bằng các văn bản của Hiệp hội Thẩm phán (chẳng hạn như bản quy tắc đạo đức Thẩm phán).

1.4. Tiêu chuẩn về sức khoẻ

Xét xử là một nghề đòi hỏi ở người Thẩm phán phải tụ hợp nhiều yếu tố như chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức, sức khoẻ... Tiêu chuẩn sức khoẻ của Thẩm phán không chỉ thông thường như các nghề nghiệp khác, mà trên một phương diện nào đó lao động của Thẩm phán cũng là một lao động nghệ thuật - xét hỏi, thẩm vấn phải có nghệ thuật - vì vậy, tiêu chuẩn sức khoẻ của Thẩm phán cũng phải đáp ứng các điều kiện như một "ngành nghệ thuật" chuyên biệt, nghĩa là cũng phải có các tiêu chuẩn về hình thức, về ứng xử, giao tiếp.

- Về hình thức: phải có "vóc dáng của một vị quan toà" tức là phải đáp ứng các điều kiện về chiều cao, không có khuyết tật.

- Về tác phong: phải đi đứng đàng hoàng, đĩnh đạc, ngồi xét xử đúng tư thế.

- Về giao tiếp phải chuẩn mực.

2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Thẩm phán

Thẩm phán cũng là một công dân, một công chức. Do vậy, Thẩm phán cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một công dân, một công chức theo quy định của pháp luật hiện hành. Nghĩa là với tư cách một công dân thì họ được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, nhưng khi thi hành công vụ - với tư cách là một công chức - thì họ chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Bên cạnh đó, Thẩm phán còn phải có các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm xuất phát từ nghề nghiệp đặc thù mà pháp luật cần quy định. Cụ thể:

· Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong quan hệ tố tụng như: quyền và nghĩa vụ điều tra, thu thập chứng cứ trong các vụ án dân sự, kinh tế... quyền và nghĩa vụ trong việc thẩm vấn, xét hỏi, quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp khẩn cấp tạm thời...; các quyền và nghĩa vụ trong việc tuân thủ các nguyên tắc xét xử: độc lập xét xử, vô tư khách quan, bảo đảm các quyền tố tụng của các bên...

· Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm phát sinh từ quan hệ tố tụng như: quyền và nghĩa vụ từ chối không xét xử vụ án khi có các quan hệ, biểu hiện ảnh hưởng đến tính vô tư khách quan trong hoạt động xét xử, quyền được cấp trang phục xét xử, nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại khi xét xử oan sai...

· Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong quan hệ hành chính như: quyền và nghĩa vụ làm nhiệm vụ theo sư phân công của Chánh án, quyền và nghĩa vụ trong việc điều hành phiên toà (nếu là chủ toạ), ra các quyết định thi hành bản án...

·  Các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm khác mang tính đặc thù nghề nghiệp như: giữ bí mật công tác, không được tham gia các giao dịch kinh tế, dân sự có ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp, quyền được hưởng phụ cấp nghề nghiệp, được bảo đảm về an ninh trong trường hợp cần thiết...

3. Quản lý Thẩm phán

Xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp của hoạt động xét xử nên hoạt động quản lý Thẩm phán là một hoạt động quản lý hành chính nhà nước tương đối đặc biệt. Tính đặc thù này thể hiện cả ở chủ thể quản lý, nội dung quản lý và đối tượng quản lý.

· Về chủ thể quản lý, khác với các cơ quan hành chính, do tính đặc thù thì việc quản lý Toà án không thể do ngành Toà án thực hiện. Trong bộ máy Nhà nước ta, hoạt động quản lý là hoạt động chủ yếu thuộc ngành hành pháp, vì vậy, không thể tách quản lý tư pháp khỏi hoạt động quản lý nói chung. Nếu giao cho Tòa án nhân dân tối cao quản lý thì sẽ biến Tòa án nhân dân tối cao thành cơ quan xét xử đồng thời là cơ quan quản lý, trái với nguyên tắc Hiến pháp quy định tòa án chỉ là cơ quan xét xử. Hơn nữa, điều này trái với nguyên tắc bảo đảm quyền lực thống nhất. Do vậy, việc quản lý Toà án địa phương phải do một cơ quan của Chính phủ thực hiện.

· Nội dung quản lý Thẩm phán, cũng bao gồm các nội dung chính của hoạt động quản lý cán bộ, công chức. Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc thù mà các nội dung cụ thể cũng có những điểm khác biệt. Tuỳ vào tình hình và đặc điểm của mỗi nước tuy có những khác nhau, nhưng tất cả các nước đều thống nhất quản lý Thẩm phán trên các vấn đề sau:

- Biên chế Thẩm phán trong toàn quốc;

- Quỹ tiền lương;

- Vấn đề tuyển dụng, sử dụng, thuyên chuyển, đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm Thẩm phán;

- Tiêu chuẩn Thẩm phán;

- Tiền lương, chế độ chính sách;

- Phương pháp đánh giá chất lượng Thẩm phán hàng năm;

- Khen thưởng, kỷ luật và cách chức.

- Thanh kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Thống kê Thẩm phán.

Để thực hiện các nội dung trên đòi hỏi phải có nhiều cơ quan khác nhau, trong đó mỗi cơ quan đảm nhiệm một khâu quản lý nhất định. Trong các nội dung kể trên, thì một số nội dung sau mang tính chất khá đặc thù của hoạt động quản lý Thẩm phán là:

- Tuyển chọn Thẩm phán;

- Thuyên chuyển Thẩm phán;

- Khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán

4. Các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán

4.1. Sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán hoạt động

Khi xét xử các vụ án, Toà án ra các phán quyết có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự, như tài sản, danh dự, sự tự do và thậm chí cả tính mạng của người có hành vi vi phạm. Chính điều này đã dẫn đến  nhiều nguy cơ Thẩm phán trở thành đối tượng của sự thù hằn, bị đe doạ trả thù. Mặt khác, các đối tượng có hành vi vi phạm thường lợi dụng kẽ hở của pháp luật, bằng mọi thủ đoạn nhằm cản trở hoạt động xét xử, ép buộc Thẩm phán thay đổi tính chất vụ án, ra các bản án có lợi cho họ, vô hiệu hoá bản án, quyết định của Toà án. Do vậy, Thẩm phán có thể có nguy cơ phải đối mặt với hành vi đe doạ, ép buộc...

Trên thực tế, để bảo vệ Thẩm phán cũng như những người nắm giữ công quyền khác, pháp luật của Việt Nam đã có những quy định tương đối cơ bản, xét xử nghiêm khắc bằng chế tài hình sự. Tuy nhiên, trước thực tế diễn biến của tội phạm ngày càng phức tạp, tính chất của tội phạm ngày càng nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, việc áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn cho Thẩm phán về tính mạng, sức khoẻ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Những biện pháp này cần có tính phòng ngừa từ xa, đảm bảo cho Thẩm phán được bảo vệ an toàn, giúp họ thực hiện tốt hơn chức trách quan trọng của mình, yên tâm công tác, đấu tranh vì sự công bằng, công lý. Như vậy, việc bảo vệ Thẩm phán xuất phát từ những yêu cầu sau đây:

- Do yêu cầu khách quan của việc thực hiện chức năng xét xử, do tính chất của nghề nghiệp Thẩm phán.

- Tạo điều kiện  cần thiết để thẩm phán yên tâm thực thi nhiệm vụ.

- Trực tiếp hoặc gián tiếp tăng cường cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

4.2. Phạm vi áp dụng các biện pháp bảo vệ Thẩm phán.

Việc nghiên cứu các biện pháp bảo vệ Thẩm phán trong điều kiện kinh tế xã hội của chúng ta hiện nay cũng cần phải cân nhắc, đảm bảo tính thực thi và đồng bộ. Tuy nhiên, khi nghiên cứu phạm vi áp dụng cần lưu ý các điểm sau:

a. Thực tế của hoạt động bảo vệ pháp luật theo nghĩa rộng còn có nhiều chức danh khác thực hiện chức năng công quyền cũng chịu rủi ro không ít. Song xuất phát từ tình hình thực tế của điều kiện kinh tế xã hội cũng như đòi hỏi khách quan của nghề Thẩm phán, trước mắt việc bảo vệ chỉ đặt ra đối với Thẩm phán mà chưa đặt ra đối với những chức danh khác.

b) Các biện pháp bảo vệ Thẩm phán có thể chưa áp dụng hoặc không áp dụng đối với mọi Thẩm phán, mà chỉ áp dụng đối với những Thẩm phán có chức vụ; được phân công phụ trách hồ sơ những vụ án nghiêm trọng có khung hình phạt cao như chung thân, tử hình; xét xử các vụ án về ma tuý, các loại tội phạm có tổ chức, tái phạm và đặc biệt khác...

c) Mục đích của các biện pháp bảo đảm là nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ và tài sản của Thẩm phán trách khỏi những rủi ro do tính chất  nghề nghiệp mang lại.

d) Tuỳ thuộc vào từng đối tượng của việc bảo vệ, tuỳ từng trường hợp cụ thể  mà các cơ quan có thẩm quyền áp dụng những biện pháp bảo vệ cho phù hợp.

đ) Trong những trường hợp cần thiết, các biện pháp này cũng có thể được áp dụng đối với thân nhân của Thẩm phán, và những người có ảnh hưởng.

e) Các quyết định về áp dụng biện pháp bảo vệ Thẩm phán phải có hiệu lực bắt buộc đối với các tổ chức, cơ quan có liên quan .

III. LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM PHÁN

Từ năm 1945 đến nay, hệ thống tư pháp nước ta trải qua những bước phát triển khác nhau phù hợp với nhận thức, mức độ phát triển của xã hội và đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối với từng giai đoạn lịch sử.

Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành một loạt Sắc lệnh về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Những nguyên tắc đề ra trong các Sắc lệnh sau đó đã được ghi nhận và nâng lên thành các quy tắc Hiến định của Hiến pháp 1946. Giai đoạn này, chức năng quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp bao quát một phạm vi rộng gồm toàn bộ các cơ quan, tổ chức tư pháp (Toà án, công tố, điều tra, luật sư, thi hành án, cảnh sát tư pháp và cả quản lý các trại giam) và gồm cả quản lý về nhân sự, về tổ chức và về hoạt động bảo đảm tính hệ thống và tính thống nhất nội tại của hệ thống tư pháp.

Năm 1958, Toà án nhân dân tối cao và Viện công tố Trung ương được thành lập và Toà án và Viện công tố được tách thành hai ngạch khác nhau thuộc Hội đồng Chính phủ và sau đó, theo quy định của Hiến pháp 1959 thành hệ thống riêng. Năm 1960, do những lý do quan hệ trực tiếp đến cuộc đấu tranh chống nhân văn giai phẩm, Bộ Tư pháp giải thể, các chức năng trước đây của Bộ Tư pháp được chuyển giao cho các cơ quan liên quan.

Do tình hình đòi hỏi, năm 1972 Uỷ ban pháp chế trực thuộc Hội đồng Chính phủ đã được thành lập nhằm bước đầu thống nhất trở lại công tác quản lý tư pháp của Chính phủ. Sau đó, đến năm 1981 Bộ Tư pháp được thành lập lại và được giao quyền quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức (Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân 1981).

Từ sau năm 1981 cho tới trước khi ban hành Hiến pháp 1992, tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp đã được kiện toàn và phát triển một bước quan trọng. Nhiều văn bản về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được ban hành thể hiện mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với các hoạt động tư pháp trong thời kỳ đổi mới.

Từ năm 1987 đến nay, tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân đã được củng cố và phát triển lên một tầm mới, một loạt văn bản pháp luật đã được ban hành về tổ chức và hoạt động của Toà án. Thực hiện các văn bản pháp luật đó, Nhà nước đã và đang thực hiện một bước cải cách lớn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó đã xác lập lại chế độ nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ 5 năm thay thế cho chế độ Hội đồng nhân dân bầu Thẩm phán cùng cấp được duy trì từ năm 1960 đến năm 1992. Các Toà án nhân dân được giao thêm thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế và giải quyết phá sản doanh nghiệp, giải quyết các tranh chấp lao động và các cuộc đình công, giải quyết các khiếu kiện hành chính. Vì vậy, ở Toà án các cấp đã thành lập thêm Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và ở các Toà án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cũng có các Thẩm phán chuyên xét xử về kinh tế, về lao động, về hành chính. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế đã có sự điều chỉnh phù hợp theo hướng bảo đảm số Thẩm phán nhiều hơn Hội thẩm nhân dân; đối với Thẩm phán, Nhà nước đã có quy chế Thẩm phán với tiêu chuẩn cụ thể, với mức lương và trợ cấp, thể hiện sự đánh giá lao động xét xử là một loại hình lao động cần có sự ưu đãi.

Cùng với việc kiện toàn tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp, Nhà nước ta cũng rất chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, từng bước tiêu chuẩn hoá tiêu chuẩn Thẩm phán. Đồng thời, cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng được Nhà nước quan tâm hơn.

Những đổi mới về mặt tổ chức nêu trên đã góp phần quan trọng làm cho hoạt động tư pháp đạt được những chuyển biến tích cực. Đặc biệt, tính nhân dân, mở rộng dân chủ, bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được thể hiện ngày một rõ nét hơn. Việc xét xử của Toà án có Hội thẩm nhân dân tham gia; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam tham gia vào quá trình tuyển chọn Thẩm phán, bầu Hội thẩm nhân dân; Luật sư được quyền tham gia vào các giai đoạn tố tụng; bảo đảm sự giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử cùng cấp.

IV. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THẨM PHÁN

Những quy định hiện hành điều chỉnh về chế định Thẩm phán nằm ở nhiều văn bản có hiệu lực khác nhau như Hiến pháp; Bộ luật, Luật, Pháp lệnh…và tập trung ở các vấn đề sau:

1. Về tiêu chuẩn Thẩm phán

Điều 4 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân quy định: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán, được bầu hoặc cử làm Hội thẩm.

Trên cơ sở đó các Điều 16, 17, 18 của Pháp lệnh này đã quy định cụ thể:

- Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ tám năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều này thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự trung ương.

- Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ sáu năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều này thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương.

- Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều này thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.

2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Thẩm phán

2.1. Quyền và nghĩa vụ nói chung

- Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án;

- Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

- Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán dựa vào cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình các tổ chức, cá nhân này có trách nhiệm tạo điều kiện để Thẩm phán làm nhiệm vụ.

- Thẩm phán có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định pháp luật tố tụng.

- Thẩm phán hưởng lương, phụ cấp và các quyền lợi khác theo quy định của Nhà nước.

- Thẩm phán được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét xử.

- Thẩm phán được cấp trang phục, giấy chứng minh Thẩm phán để làm nhiệm vụ.

- Khi tiến hành tố tụng, Thẩm phán trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.

- Thẩm phán phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi, nếu:

+ Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;

+ Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là điều tra viên, kiểm sát viên, thư ký phiên toà.

- Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ sai phạm và hậu quả mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

- Thẩm phán phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

- Thẩm phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án.

- Thẩm phán phải giữ bí mật công tác theo quy định của pháp luật.

- Thẩm phán không được tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.

- Cơ tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được quy định tại Điều 623 và Điều 624 của Bộ luật dân sự.

2.2. Quyền và nghĩa vụ của Chánh án, phó chánh án.

- Chánh án Toà án các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm.

- Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội.

- Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.

Ngoài những quyền và nghĩa vụ trên, pháp luật đã quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chức danh chán án, phó chánh án Toà án, cũng như Toà án quân sự các cấp.

3. Đạo đức của Thẩm phán

Hiện nay, các quy định về đạo đức của Thẩm phán được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp 1992, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh tổ chức toà án quân sự, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, Pháp lệnh cán bộ, công chức... Theo đó, Thẩm phán phải đáp ứng các yêu cầu về đạo đức của cán bộ, công chức nói chung. Ngoài ra, pháp luật còn có một số quy định riêng về đạo đức của Thẩm phán. Những người không đủ tiêu chuẩn đạo đức thì không được bổ nhiệm làm Thẩm phán.

4. Quản lý Thẩm phán

4.1. Về thẩm quyền quản lý Thẩm phán

Quản lý Thẩm phán là một vấn đề phức tạp trong pháp luật Việt Nam, do xuất phát từ tính đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán nên vấn đề quản lý Thẩm phán cũng có những đặc thù khác so với công tác quản lý cán bộ, công chức khác.

- Về chuyên môn, nghiệp vụ, theo quy định của pháp luật hiện hành, thì Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Toà án. Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự quân khu bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật tại toà án cấp mình và các Toà án cấp dưới .

- Quản lý về mặt tổ chức, theo Hiến pháp 1992, thì Chủ tịch nước có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân lại quy định Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm cả Thẩm phán, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.

Bên cạnh đó, Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân 1992 và Điều 16 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự còn quy định: Việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Việc quản lý các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ quốc phòng và Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Tiếp đó, theo Quy chế số 91 - TP/TA ngày 19-01-1994 của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao về việc quản lý về mặt tổ chức các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì việc quản lý các Toà án cấp huyện được phân cấp, uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh.

Như vậy, việc quản lý Thẩm phán được chia xẻ cho nhiều cơ quan quản lý gồm: Chủ tịch nước, Bộ tư pháp và Sở Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Toà án nhân dân tối cao và Toà án nhân dân cấp tỉnh.

4.2. Về bổ nhiệm Thẩm phán.

 Để giúp Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân, ở mỗi cấp đều có Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Ở Trung ương thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực; Ở cấp tỉnh thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thành phần, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp được quy định tại Điều 21, 22, 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân và Thông tư số 05/TTLN Liên ngành Toà án nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân.

Có thể tóm tắt quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo pháp luật hiện hành như sau:

- Thẩm phán cấp huyện, thì Ban cán sự Đảng Sở Tư pháp, Tòa án nhân dân tỉnh cùng Huyện ủy, thống nhất danh sách, hồ sơ đề nghị trình Hội đồng tuyển chọn cấp huyện. Đối với Thẩm phán cấp tỉnh Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao cùng Tỉnh ủy, Thành ủy thống nhất danh sách hồ sơ trình Hội đồng tuyển chọn cấp tỉnh.

- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh, trên cơ sở tiêu chuẩn của Thẩm phán, xét chọn người có đủ năng lực, trình độ đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực.

- Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện xét chọn, đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.

- Chủ tịch nước xem xét đề nghị, trên cơ sở đó ra quyết định bổ nhiệm thẩm phán.

4.3. Miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán.

Việc miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán do Chủ tịch nước quyết định và cũng phải qua một trình tự, thủ tục giống như trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán.

4.4. Thuyên chuyển công tác của Thẩm phán

Việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân này đến Tòa án nhân dân khác cùng cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện sau khi thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Cụ thể như sau:

- Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ tỉnh này đến tỉnh khác, trước khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán đang công tác và sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

- Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ huyện này đến huyện khác trong cùng một tỉnh thì cần phải có ý kiến của cấp ủy đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác, trước khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định. Trên cơ sở đó, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

- Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ huyện này đến huyện khác (không cùng một tỉnh) thì trước khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định thì cần phải có ý kiến thống nhất của cấp ủy Đảng, Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh nơi Thẩm phán đang công tác và nơi Thẩm phán sẽ chuyển đến.

4.5. Về đào tạo Thẩm phán.

Theo pháp luật hiện hành thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định quy hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, Bộ Tư pháp trao đổi ý kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án nhân dân khu vực (Điều 4, Điều 8 Quy chế phối hợp... Ban hành theo Nghị quyết số 46 - NQ/UBTVQH9 ngày 29-9-1994).

Trên thực tế công tác đào tạo Thẩm phán và đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ... do Bộ Tư pháp đảm nhận mà trực tiếp là Trường đào tạo các chức danh tư pháp thuộc Bộ Tư pháp.

4.6. Về khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán.

Pháp luật hiện hành chưa có một quy định cụ thể nào về các hình thức, trình tự, thủ tục khen thưởng và kỷ luật đối với Thẩm phán. Do vậy hình thức, trình tự, thủ tục khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán được thực hiện theo quy định chung của pháp luật về cán bộ và công chức. Riêng hình thức kỷ luật cách chức Thẩm phán được thực hiện theo một quy trình khác so với việc cách chức các công chức khác.

4.7. Chế độ chính sách đối với Thẩm phán

Chế độ chính sách đối với Thẩm phán theo pháp luật hiện hành gồm: chế độ tiền lương, phụ cấp, trang phục. Chế độ chính sách này do Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định.

5. Các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán

Pháp luật hiện hành chưa có một quy định cụ thể nào về các biện pháp bảo đảm đối với Thẩm phán.

V. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN Ở VIỆT NAM

Theo Báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, thì tính đến ngày 15/10/2001 cả nước có 3479 Thẩm phán, trong đó có: 97 Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự trung ương; 926 Thẩm phán cấp tỉnh; 2339 Thẩm phán cấp huyện; 67 Thẩm pháp Toà án quân sự cấp quân khu và 50 Thẩm phán Toà án quân sự cấp khu vực.

Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đã thực hiện khá nghiêm túc các quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, đặc biệt là các quy định về tiêu chuẩn Thẩm phán. Các Toà án nhân dân cấp tỉnh và các sở Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ trong việc chuẩn bị nhân sự, bảo đảm sự lãnh đạo của cấp Uỷ Đảng ở địa phương. Do đó, số người được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán đều bảo đảm về tiêu chuẩn chuyên môn và phẩm chất chính trị, đạo đức.

Liên tục từ năm 2000 cho đến nay, việc rà soát, phân loại đánh giá chất lượng Thẩm phán luôn gắn với yêu cầu của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khoá VIII). Trong năm 2000, 2001 nhiều lượt Thẩm phán, Thư ký toà án được cử đi học các lớp lý luận, chính trị, các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đến nay, trình độ và năng lực của Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương có trình độ đại học luật hoặc tương đương chiếm 86%. Trong số Thư ký Toà án cấp huyện thì trên 90% có trình độ đại học luật, trong đó có số lượng lớn đã và đang được đào tạo tại Trường Đào tạo các chức danh tư pháp[5].

Nhìn chung trình độ chuyên môn của Thẩm phán ngày càng được nâng lên về cơ bản thì không còn tình trạng "nợ" tiêu chuẩn, năng lực xét xử được nâng lên một bước cơ bản so với nhiệm kỳ trước, 92% số Thẩm phánToà án nhân dân địa phương đã được tái bổ nhiệm.

VI. NHỮNG VƯỚNG MẮC, HẠN CHẾ TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM PHÁN VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TẾ CỦA THẨM PHÁN

1. Những vướng mắc hạn chế của hệ thống pháp luật

1.1. Các quy định về Thẩm phán còn nằm rải rái trong nhiều văn bản pháp luật với hiệu lực pháp lý khác nhau, lĩnh vực điều chỉnh khác nhau... Đây là điều bất lợi cho việc xác định địa vị pháp lý của Thẩm phán cũng như trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán. Cụ thể là các quy định về Thẩm phán được quy định tại: Hiến pháp 1992; Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật tổ chức Toà án nhân dân 1992; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân 1995; Pháp lệnh về tổ chức Toà án quân sự 1993; Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993; các Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, lao động, kinh tế, hành chính; và rất nhiều văn bản dưới luật khác...

1.2. So sánh pháp luật thực định với các vấn đề lý luận đặt ra, có nhiều vấn đề thuộc về chế định Thẩm phán chưa được pháp luật Việt Nam quy định hoặc quy định không cụ thể, không rõ ràng và khó thực hiện. Cụ thể là:

- Chúng ta chưa có một quy định nào về các biện pháp bảo vệ đối với Thẩm phán khi xét xử những vụ án lớn, những vụ án phức tạp...

- Chưa có những văn bản quy định cụ thể về những việc Thẩm phán không được làm, những tiêu chuẩn đạo đức, xã hội và hành vi giao tiếp, ứng xử cần thiết đối với mỗi Thẩm phán...

- Mặc dù cũng đã quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, nhưng những quy định này còn rất chung chung, khó thực hiện. Chẳng hạn như: các văn bản này chưa có quy định về việc xác định cơ quan tiến hành tố tụng nào (Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án) có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; chưa có quy định cụ thể về trường hợp được bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần; chưa quy định cụ thể về cách thức xác định thiệt hại và mức bồi thường...

- Pháp luật chúng ta chưa có những quy định cụ thể về trang phục, giao tiếp hàng ngày của Thẩm phán.

- Cách giao tiếp, ứng xử, xưng hô tại phiên toà thế nào cho phù hợp cũng là một vấn đề đáng bàn[6].  

1.3. Các quy định của pháp luật về Thẩm phán vẫn còn nhiều chồng chéo hoặc không phù hợp với thực tế. Chẳng hạn:

- Các quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân về thẩm quyền bổ nhiệm, cách chức Thẩm phán của Chủ tịch nước vừa trái với Hiến pháp 1992 vừa không phù hợp với tình hình thực tế. Điều 38 Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định “Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án quân sự do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”. Trong khi đó, khoản 8 Điều 103 Hiến pháp 1992 chỉ quy định, Chủ tịch nước có thẩm quyền “Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao”.

- Các quy định về thẩm quyền quản lý Toà án nhân dân địa phương tại Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự không phù hợp với tình hình thực tiễn do pháp luật không xác định được cơ chế "phối hợp" giữa Bộ Tư pháp với Toà án nhân dân tối cao và Bộ quốc phòng;

- Theo quy định hiện nay, thủ tục thuyên chuyển thẩm phán rất phức tạp, qua nhiều công đoạn trung gian;

- Các quy định về hệ thống thang, bảng lương không cân đối, ngay trong hệ thống thang, bảng lương, mặt khác lại không phù hợp với nhiệm vụ nặng nề của Thẩm phán so với hệ thống thang, bảng lương của các công chức khác và không phù hợp với sự biến động của tình hình kinh tế xã hội....

2. Những vướng mắc, hạn chế trong việc tổ chức thực hiện

2.1. Về đội ngũ Thẩm phán

Mặc dù số lượng và chất lượng Thẩm phán được nâng lên một bước cơ bản so với nhiệm kỳ trước, nhưng so với yêu cầu của thực tế thì thực trạng đội ngũ Thẩm phán hiện nay vẫn còn thiếu về số lượng, có nhiền hạn chế về chất lượng.

- Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, so với biên chế được phân bổ thì cả nước còn thiếu 589 Thẩm phán. Trong đó, thiếu 130 Thẩm phán cấp tỉnh, thiếu 436 Thẩm phán huyện, đặc biệt có Toà án cấp huyện chỉ có 1 Thẩm phán. Thẩm phán toà án quân sự cấp quân khu và khu vực còn thiếu 23 Thẩm phán. Việc thiếu Thẩm phán mang tính cục bộ ở một số địa phương như các đơn vị hành chính mới chia tách, một số địa phương vùng sâu, vùng xa, hải đảo... Tình trạng thiếu nhiều Thẩm phán cấp huyện ở những địa phương này có nguyên nhân là do điều kiện địa lý xa xôi, khó khăn nhiều mặt. Mặt khác, chế độ chính sách, chế độ tuyển dụng, điều chuyển, đãi ngộ cán bộ từ miền xuôi lên hỗ trợ cho các vùng này chưa thoả đáng. Một số sinh viên tốt nghiệp đại học luật không tha thiết xin vào làm việc tại các Toà án, nhất là các đại phương vùng sâu, vùng xa. Trong tương lai, nếu tăng thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện thì tình trạng thiếu Thẩm phán càng trở bức xúc.

- Về chất lượng Thẩm phán cũng còn nhiều điều đáng bàn. Bên cạnh những Thẩm phán có trình độ chuyên môn tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sạch vẫn còn có những Thẩm phán yếu về chuyên môn nghiệp vụ, có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực... Cũng theo các Báo cáo của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao thì năm 1999 có 55 cán bộ Toà án bị kỷ luật, năm 2000 có 40 người, năm 2001 có 38 người. Trong đó có nhiều Thẩm phán giữ cương vị là Chánh án, phó chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, cấp...

Ngoài ra chất lượng Thẩm phán hiện nay không đều, nhiều Thẩm phán lâu năm nhưng lại chưa qua đào tạo cơ bản, số mới được bổ nhiệm tuy đã được đào tạo cơ bản về luật nhưng lại chưa được đào tạo về nghề Thẩm phán và ít có kinh nghiệm.

2.2. Về chất lượng xét xử.

Nhìn chung chất lượng xét xử trong thời gian qua đã được nâng lên một bước cơ bản. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều vụ việc mà dư luận và các phương tiện thông tin đại chúng phán ánh là chưa khách quan, chưa xét xử đúng pháp luật, hoặc phải qua xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nhiều lần gây phiền hà cho nhân dân, làm giảm uy tín của ngành Toà án.  Qua phân tính và tổng hợp các số liệu trong các Báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp cho thấy tỷ lệ sửa án, huỷ án án cũng còn ở mức độ đáng lưu ý, đặc biệt là Toà án nhân dân cấp huyện.

2.3. Về vấn đề bổ nhiệm Thẩm phán

Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Hội đồng tuyển chọn. Thực tế cho thấy có một số vấn đề chưa hợp lý là:

- Về thẩm quyền bổ nhiệm, thì tất cả các Thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm (trừ Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu). Một mặt, do số lượng Thẩm phán cần bổ nhiệm quá nhiều (hiện nay có 3479 Thẩm phán), mặt khác, Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia với rất nhiều việc quan trọng, nên việc bổ nhiệm như hiện nay khó tránh khỏi tính hình thức.

- Về Thành phần Hội đồng tuyển chọn, thì với quy định như hiện nay chưa phù hợp. Trong Hội đồng tuyển chọn có Hội luật gia là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, nhưng công tác của Hội luật gia lại ít liên quan đến công tác Tòa án. Trong khi đó, các Thẩm phán có kinh nghiệm, cấp Uỷ Đảng của địa phương lại không có trong thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.

- Do thủ tục xem xét, trình duyệt hoặc xử lý các vướng mắc về mặt thủ tục đối với các hồ sơ tuyển chọn Thẩm phán còn rườm rà, nên việc xử lý trên thực tế còn chậm, dẫn đến việc bổ nhiệm đối với một số trường hợp còn mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, việc quy hoặc, tạo nguồn Thẩm phán kế cận và việc giữ gìn đoàn kết nội bộ ở một số toà án địa phương làm chưa tốt. Một số Toà án cấp tỉnh và Sở Tư pháp làm chưa tốt Quy chế phối hợp nên việc chuẩn bị nhân sự còn bị động, lúng túng hoặc để xảy ra tình trạng tố cáo, khiếu nại.

2.4. Về thuyên chuyển, điều động Thẩm phán

Theo quy định hiện nay, để điều chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân nơi này đến Tòa án nhân dân nơi khác ít nhất cần 10 con dấu đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện; cần phải có 6 con dấu đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh. Trên thực tế người được thuyên chuyển điều động gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như: lương thấp, phải xa gia đình, bị san sẻ về thu nhập, nếu chuyển cả gia đình cùng đến nơi công tác mới thì vấn đề về nhà ở, công việc làm, việc học tập của vợ chồng và các con như thế nào?...

VII. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRƯỚC MẮT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH THẨM PHÁN

1. Về công tác xây dựng pháp luật

1.1. Trước mắt cần xây dựng Quy chế đạo đức Thẩm phán trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, ban hành. Trong Quy chế này cần quy định rõ về danh dự Thẩm phán, tiêu chuẩn đạo đức của người Thẩm phán. Tiêu chuẩn đó cần được quy định rõ ràng, phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của nghề thẩm phán trong xã hội và phải được công bố công khai để nhân dân tham gia giám sát, để tự mỗi một cán bộ cân nhắc và quyết định trước khi bước vào nghề thẩm phán.

1.2. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn về thủ tục, trình tự quy trình, hồ sơ bổ nhiệm thẩm phán theo hướng đơn giản, thuận tiện mà vẫn chặt chẽ đảm bảo tính nhanh nhạy của công tác tổ chức cán bộ và đáp ứng được yêu cầu xét xử.

1.3. Khẩn trương ban hành Quy chế hoạt động của các Toà án địa phương nhằm tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán và cơ quan quản lý trong việc theo dõi, giám sát, kiểm tra và giáo dục Thẩm phán. Có chế độ bắt buộc tự học tập để nâng cao trình độ, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của Thẩm phán.

1.4. Nghiên cứu ban hành các văn bản quy định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng, từng cá nhân (trong đó có Thẩm phán) trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Trong đó, xác định rõ:

· Xác định rõ cơ quan có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường theo các giai đoạn tố tụng.

· Xác định rõ các trường hợp được bồi thường thiệt hại.

·  Về bồi thường các thiệt hại về vật chất: quy định cụ thể căn cứ, tiêu chí xác định mức bồi thường đối với thiệt hại về tài sản, thu nhập thực tế bị mất...

·  Về bồi thường các thiệt hại về tinh thần: cần quy định trình tự giải quyết bồi thường cụ thể, đơn giản và hiệu quả, bảo đảm công khai và bình đẳng theo nguyên tắc: cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường (bên bồi thường) chỉ ra quyết định bồi thường sau khi bên bồi thường và bên được bồi thường thống nhất ý kiến về mức bồi thường.

·  Thủ tục tố tụng đặc biệt: cần quy định thủ tục rút gon và không nhất thiết phải mở phiên toà khi Toà án giải quyết các yêu cầu bồi thường do hành vi gây thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.

·  Nguồn kinh phí bồi thường thiệt hại: kinh phí bồi thường thiệt hại đã được quy định sử dụng từ ngân sách Nhà nước, tuy nhiên cần có cơ chế phù hợp trong quản lý sử dụng để chủ động kinh phí chi trả kịp thời cho người được bồi thường.

2. Về tiêu chuẩn Thẩm phán

Tiêu chuẩn để bổ nhiệm Thẩm phán trước mắt cần phải quy định bổ sung một số vấn đề :

2.1. Cần bổ sung thêm tiêu chuẩn chính trị của Thẩm phán. Người được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải có tiêu chuẩn lý luận chính trị trung cấp trở lên. 

2.2. Sửa đổi lại quy định về tiêu chuẩn chuyên môn của Thẩm phán.

Hiện nay, chúng ta không còn trường Cao đẳng Toà án, mặt khác do yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi ngày càng cao, nêu cần quy định rõ trong pháp luật: người được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải có bằng tốt nghiệp đại học luật trở lên. Ngoài ra các khái niệm "có trình độ Đại học Luật" (Điều 16, 17 và 18 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân) là không chính xác, mà cần thay bằng khái niệm "có bằng tốt nghiệp Đại học Luật". 

a) Cần bổ sung thêm tiêu chuẩn về nghề nghiệp của Thẩm phán. Người được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải có bằng tốt nghiệp của trường Đào tạo Thẩm phán.

b) Sửa đổi lại quy định về thời gian công tác pháp luật của Thẩm phán.

c) Cần quy định cụ thể tiêu chuẩn năng lực xét xử của Thẩm phán.

d) Tiêu chuẩn về hình dáng (ngoại hình) của Thẩm phán trước hết phải đàng hoàng, chững chạc. Theo chúng tôi pháp luật cần quy định cụ thể một số vấn đề như: chiều cao tối thiểu, không có dị hình trên khuôn mặt.

đ) Về tác phong và giao tiếp của Thẩm phán.

·  Cần phải có trang phục đặc thù.

· Tác phong phải chững chạc, đường hoàng.

· Thẩm phán phải biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp với từng loại phiên toà và từng đối tượng giao tiếp.

Những chuẩn mực giao tiếp có tính văn hoá của Thẩm phán tại phiên toà cần được quy định thành những nguyên tắc chung để làm căn cứ tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán.

3. Về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán

Các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong pháp luật hiện hành còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ hoặc quy định chưa rõ ràng như: vấn đề Thẩm phán có được tham gia các giao dịch kinh tế, dân sự, thương mại với đương sự không? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác trong trường hợp xét xử oan sai... Do vậy, trong thời gian tới pháp luật cũng cần quy định cụ thể những vấn đề này.

Ngoài ra, Hội nghị lần thứ 7 của Liên Hợp Quốc tổ chức tại thành phố Milan (Italia) từ ngày 26/8 đến 6/9/1985 đã đưa ra bản "các nguyên tắc cơ bản của độc lập xét xử đối với các cơ quan Tòa án trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm". Văn bản này quy định những nguyên tắc sau đây:

· Không được can thiệp bất hợp pháp và không đúng thẩm quyền vào quá trình xét xử và thông qua bản án;

· Nguyên tắc độc lập của cơ quan Tòa án, cho phép cơ quan Tòa án có quyền đòi hỏi sự xét xử công minh, chính nghĩa và bảo đảm quyền lợi của các bên;

· Mỗi Nhà nước thành viên có nghĩa vụ bảo đảm cho các cơ quan Tòa án các phương tiện cần thiết để thực hiện tốt công việc của mình;

· Trên cơ sở tuyên truyền chung về quyền con người; các thành viên của cơ quan Tòa án cũng như mọi công dân khác cần sử dụng quyền tự do ngôn luận, tín ngưỡng, hội họp... Thẩm phán cần phải nghiêm chỉnh nhằm bảo đảm sự kính trọng đối với chức vụ của mình và bảo đảm sự vô tư và độc lập của các cơ quan Tòa án;

· Những cá nhân được tuyển chọn vào chức vụ Thẩm phán cần phải có những phẩm chất đạo đức cao cả và được đào tạo tốt trong lĩnh vực pháp luật. Bất kỳ sự tuyển chọn Thẩm phán nào cũng phải bảo đảm hợp pháp và không có sự phân biệt chủng tộc, màu da, dân tộc, tín ngưỡng, thành phần xã hội, tài sản... và Thẩm phán phải là công dân chính nước đó;

· Nhiệm kỳ Thẩm phán, việc bảo đảm độc lập của Thẩm phán, an ninh, lương bổng, điều kiện làm việc, chế độ nghỉ hưu... cần phải được quy định trong pháp luật;

· Thẩm phán phải được bảo đảm các mặt suốt nhiệm kỳ công tác cho đến lúc nghỉ hưu hoặc hết thời hạn nhiệm kỳ;

· Thẩm phán có thể phải tạm nghỉ công việc hoặc bị nghỉ hẳn nếu như không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của người Thẩm phán hoặc đạo đức của Thẩm phán không xứng đáng với chức vụ của họ.

Như vậy, việc tuân thủ nguyên tắc nêu trên là cần thiết. Theo chúng tôi, trong điều kiện mới pháp luật của chúng ta cần phải hòa nhập với những tinh hoa của pháp luật trên thế giới và vì vậy cần phải sớm nghiên cứu và thể chế hóa đưa vào pháp luật của chúng ta những nguyên tắc nêu trên.

4. Về công tác quản lý Thẩm phán.

4.1. Về phân định thẩm quyền quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương.

Pháp luật quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp phải phối hợp, trong đó có nhiều vấn đề phải thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức là chưa hợp lý (trong đó có quản lý Thẩm phán). Bởi lẽ, một mặt quyền hạn và trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong lĩnh vực công tác này bị hạn chế, ràng buộc bởi vai trò ý kiến của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, do đó, rất khó phát huy được tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm trong công tác của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Mặt khác, Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử, không phải là chủ thể quản lý hành chính Nhà nước, nhưng theo quy định của pháp luật và trên thực tế lại hoạt động giống như một đồng chủ thể quản lý đối với các Toà án địa phương là vừa trái với nguyên tắc phân công, phân nhiệm trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa ảnh hưởng tới nguyên tắc hiến định “độc lập xét xử” trong tổ chức và hoạt động của các Toà án.

Do đó, việc phối hợp trong công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức cần được xem xét lại nhằm bảo đảm hiệu quả của công tác quản lý và hiệu quả, chất lượng của công tác xét xử theo hướng không nên quy định quy chế “phối hợp” thành quy phạm pháp luật bắt buộc phải tuân theo, mà chỉ nên xem nó như là một lề lối, cách thức làm việc rất bình thường của các cơ quan Tư pháp.

4.2. Về bổ nhiệm Thẩm phán.

· Trong quy trình bổ nhiệm Thẩm phán, cần có quy định Thẩm phán phải được phát triển từ Thẩm phán cấp huyện. Quy định con đường phát triển như vậy của Thẩm phán không những góp phần nâng cao nghiệp vụ, uy tín mà còn là điều kiện thuận lợi cho việc điều chuyển Thẩm phán từ nơi thừa sang nơi thiếu.

· Hiện nay việc bổ nhiệm thẩm phán các cấp đều do Chủ tịch nước thực hiện, công việc quá nhiều dễ dẫn đến tình trạng hình thức. Nhiều ý kiến đề nghị nên phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán, có thể thực hiện như trước đây, Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện.

· Với thành phần Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán như hiện nay là chưa phù hợp, theo chúng tôi cần quy định có thêm đại diện cơ quan tổ chức Đảng - Chính quyền và một số Thẩm phán có kinh nghiệm. Mặt khác, pháp luật không cần quy định Hội luật gia là một thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán vì công tác Hội luật gia không liên quan nhiều đến công tác Tòa án.

· Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì trong quyết định bổ nhiệm Thẩm phán luôn gắn liền với địa giới hành chính cụ thể. Điều này đã làm hạn chế đến việc điều động bố trí, sắp xếp cán bộ. Để đảm bảo tính năng động, nhanh nhạy trong công tác điều phối cán bộ, đề nghị không nên bổ nhiệm Thẩm phán gắn với tên địa giới hành chính mà bổ nhiệm theo cấp Tòa án như: Thẩm phán Tòa án cấp huyện hay Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh, còn việc bố trí, sắp xếp Thẩm phán về địa phương nào nên phân cấp cho các cơ quan quản lý.

· Hiện nay, chưa có quy định về việc nhận chức và tuyên thệ của Thẩm phán, do vậy mỗi địa phương tổ chức lễ trao quyết định với những hình thức rất khác nhau. Theo chúng tôi cần có quy định về nhậm chức và tuyên thệ đối với Thẩm phán. Điều này không chỉ thể hiện sự long trọng mà còn để mỗi Thẩm phán khi được trao trọng trách cao qúy ý thức được trách nhiệm vinh dự và nặng nề của người Thẩm phán mà luôn ghi nhớ và thực hiện.

· Theo quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm, thời gian được tính kể từ ngày Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm. Trong điều kiện hiện nay, việc quy định nhiệm kỳ với thời hạn 5 năm vẫn có thể thực hiện được. Nhưng trong tương lai liệu thời hạn này có hợp lý không? Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời. Điều này xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp của Thẩm phán.

4.3. Về thuyên chuyển, điều động Thẩm phán

Theo quy định hiện nay, để điều chuyển Thẩm phán từ gặp nhiều khó khăn về thủ tục. Hơn nữa, người được thuyên chuyển, điều động gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Do vậy, trước hết về thủ tục điều động cần gọn hơn và nên giao cho cơ quan quản lý có thẩm quyền trực tiếp giải quyết. Mặt khác, cần có sự cải tiến về lương đối với Thẩm phán, có chế độ ưu đãi trợ cấp về kinh tế cũng như tạo điều kiện về nhà ở đối với Thẩm phán.

4.4. Về miễn nhiệm thẩm phán.

Theo quy định hiện hành thì trong mọi trường hợp miễn nhiệm Thẩm phán đều phải có đơn tự nguyện của Thẩm phán, theo chúng tôi chỉ nên quy định trong trường hợp Thẩm phán xin miễn nhiệm vì lý do sức khỏe, hoặc do năng lực kém hoặc vì hợp lý hóa gia đình xin chuyển công tác thì cần có đơn xin miễn nhiệm, còn đối với các trường hợp do yêu cầu của công tác, tổ chức cần chuyển công tác thì không cần có đơn xin miễn nhiệm.

4.5. Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán

Theo chế độ tiền lương hiện nay, thì chỉ có hệ số mức lương của ngạch thẩm phán tỉnh và thẩm phán tối cao là cao hơn một chút so với ngạch lương hành chính tương ứng, còn hệ số mức lương của ngạch thẩm phán huyện là quá thấp và còn có khoảng cách khá xa với ngạch lương thẩm phán tỉnh, đề nghị các cấp có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu xếp lại cho phù hợp.

4.6. Về khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán

· Việc khen thưởng thẩm phán hiện nay được áp dụng chung như đối với công chức, viên chức hành chính khác, nhưng do đặc thù của nghề xét xử có thể nghiên cứu những hình thức thi đua khen thưởng theo nhiệm kỳ thẩm phán hoặc theo chức danh nghề nghiệp như thẩm phán ưu tú, thẩm phán nhân dân.

· Theo quy định hiện nay, Chủ tịch nước quyết định cách chức Thẩm phán khi có vi phạm. Mức độ kỷ luật buộc thôi việc Thẩm phán chưa quy định thuộc thẩm quyền của cơ quan nào. Trong trường hợp này thường phải qua khâu cách chức sau đó cơ quan quản lý sẽ thực hiện theo thẩm quyền. Do vậy, chúng tôi đề nghị nên quy định thẩm quyền xem xét quyết định các hình thức kỷ luật đối với Thẩm phán theo hướng cơ quan quản lý phối hợp với các cơ quan hữu quan xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định hình thức kỷ luật phù hợp. Quy định như vậy sẽ bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời cũng đảm bảo chu trình quản lý cán bộ.

VIII. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẨM PHÁN

1. Ban hành Quy chế Thẩm phán.

Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn thi hành pháp luật, chúng tôi thấy pháp luận cần phải điều chỉnh đầy đủ các vấn đề thuộc chế định Thẩm phán đó là: các quy định về quản lý Thẩm phán, về tiêu chuẩn thẩm phán, về địa vị pháp lý của Thẩm phán về các điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán hoạt động... trong một văn bản pháp lý có hiệu lực cao. Việc quy định này, một mặt bảo đảm được tính thống nhất, đầy đủ của pháp luật về chế định Thẩm phán, mặt khác sẽ tạo điều kiện để Thẩm phán thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước, nhân dân giám sát hoạt động của Thẩm phán.

Theo pháp luật hiện hành thì đã có Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đều là thành viên của Hội đồng xét xử, khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Do vậy, pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong cùng một văn bản pháp luật là khá hợp lý. Mặt khác, theo Pháp lệnh này thì các nguyên tắc cơ bản trong việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán về cơ bản là hợp lý.

Do đó, việc ban hành một văn bản mới phải đạt được mục đích là:

- Cụ thể hoá các quy định về Thẩm phán trong Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân;

- Tập hợp các quy định về Thẩm phán nằm rải rác trong các văn bản pháp luật hiện hành.

- Loại bỏ các quy định pháp luật không thống nhất về Thẩm pháp; sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về Thẩm pháp nhằm xác định rõ địa vị pháp lý của Thẩm phán trong một văn bản thống nhất.

- Quy định được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của không chỉ Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương mà cả Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương, Toà án quân sự quân khu và khu vực.

Với mục đích như vậy thì văn bản phù hợp nhất để ban hành là Quy chế và được ban hành kèm theo Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.  

Hiện nay, theo Luật ban hành văn bản quy pháp pháp luật 1997 thì không có hình thức Quy chế. Nhưng trên thực tế, Quy chế trong hệ thống pháp luật Việt Nam là một văn bản phái sinh được ban hành kèm theo một hình thức văn bản nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế Thẩm pháp là điều phù hợp với lý luận và thực tiễn.

2. Phạm vi điều chỉnh và nội dung của Quy chế Thẩm phán

Xác định phạm vi điều chỉnh của Quy chế thẩm phán cũng là một vấn đề phức tạp. Nó được xem xét từ các góc độ khác nhau.

· Từ mức độ điều chỉnh, Quy chế Thẩm phán được ban hành để điều chỉnh hai nhóm quan hệ sau:

- Các quan hệ mà các văn bản pháp luật đã ban hành chưa điều chỉnh;

- Các quan hệ mà đã được các văn bản pháp luật điều chỉnh chung cho cán bộ, công chức nhưng nay cần cụ thể hoá đối với Thẩm phán.

· Từ góc độ các lĩnh vực xã hội mà Thẩm phán tham gia, Quy chế thẩm phán điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội:

- Các quan hệ liên quan đến hoạt động tố tụng. Trong lĩnh vực này, Quy chế thẩm phán có thể được coi như là “Quy chế chuyên môn” của Thẩm phán;

- Các quan hệ xã hội tuy không liên quan trực tiếp đến hoạt động nghiệp vụ chuyên môn nhưng ảnh hưởng đến hình ảnh người Thẩm phán trong con mắt của công dân, ảnh hưởng đến tính trang nghiêm, uy tín của Thẩm phán nói riêng và Toà án nói chung.

· Từ góc độ tính chất điều chỉnh, Quy chế thẩm phán có thể bao gồm các quy phạm cấm và các quy phạm cho phép. Bởi vì, nội dung của Quy chế liên quan đến cả quyền lợi và nghĩa vụ của Thẩm phán.

Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Quy chế thẩm phán bao gồm các lĩnh vực cụ thể sau:

- Thứ nhất, các quan hệ trong các lĩnh vực kinh tế, dân sự, xã hội.

- Thứ hai, các quan hệ trong lĩnh vực quan hệ hành chính.

- Thứ ba, trong các quan hệ tố tụng và nghiệp vụ để đảm bảo tính chính xác, khách quan của hoạt động xét xử;

- Thứ tư, các quan hệ trong lĩnh vực đạo đức, trong giao tiếp và xử sự hàng ngày và trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ.

- Thứ năm, Quy chế thẩm phán cũng cần có các quy định cụ thể về những quyền lợi mà người Thẩm phán được hưởng.

XI. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỀ XÂY DỰNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUY CHẾ THẨM PHÁN

1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định của pháp luật liên quan đến Thẩm phán trong các lĩnh vực: như pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng, pháp luật về tổ chức Toà án... nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ về chế định thẩm phán.

2. Hoàn thiện công tác đào tạo Thẩm phán

Đào tạo nghề nghiệp cho các chức danh tư pháp và đặc biệt là đào tạo nghề nghiệp cho Thẩm phán là một công việc rất cần thiết và rất quan trọng. Tuy vậy, công tác đào tạo nghề chỉ mới dừng lại ở những bước triển khai ban đầu có tính chất thử nghiệm và tìm tòi, do đó để hoàn thiện công tác đào tạo thẩm phán cần không ngừng thực hiện:

- Sửa đổi chương trình đào tạo

-  Cải tiến phương pháp giảng dạy.

- Xây dựng hồ sơ tài liệu, giáo trình phục vụ giảng dạy và học tập.

3. Xây dựng các biện pháp bảo vệ Thẩm phán

Từ việc phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng trước mắt cần nghiên cứu một số biện pháp cần thiết và có khả năng thực hiện sau:

3.1. Biện pháp an ninh.

Gọi là biện pháp an ninh bởi biện pháp này được áp dụng với mục đích bảo toàn tính mạng và sức khoẻ, tài sản cho Thẩm phán.

Biện pháp an ninh được áp dụng khi có căn cứ cụ thể chứng tỏ có sự đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán. Cụ thể:

- Khi có yêu cầu của Thẩm  phán;

- Khi có yêu cầu của lãnh đạo Toà án;

- Khi cơ quan có thẩm quyền nhận được thông tin và có căn cứ chính xác về việc đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán.

 Tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, biện pháp an ninh có thể áp dụng bằng nhiều hình thức, mà cụ thể có thể là:

·  Tạm thời chuyển đến nơi  an toàn.

·  Trang bị các phương tiện bảo vệ tính mạng và tài sản của Thẩm phán tại tư gia.

·  Thay đổi một số đăng ký như số điện thoại, số xe máy, xe ô tô.

·  Trang bị vũ khí tự vệ.

·  Cấm tiết lộ các thông tin về sơ yếu lý lịch của Thẩm phán.

·  Một biện pháp khác có thể áp dụng là việc thay đổi nơi làm việc, thay đổi  nơi ở của Thẩm phán.

·  Thay đổi giấy tờ tuỳ thân của Thẩm phán.

3.2.  Biện pháp về mặt xã hội

Nếu các biện pháp an ninh chủ yếu là mang tính phòng ngừa thì các biện pháp xã hội chủ yếu lại mang tính giải quyết hậu quả. Trong trường hợp tính mạng sức khoẻ của Thẩm phán bị xâm phạm, thì cũng cần có những cơ chế nhất định để đảm bảo cho Thẩm phán hoặc những người thân thích của Thẩm phán được bảo đảm về mặt vật chất.

Tuỳ thuộc vào đối tượng bị xâm hại và mức độ thiệt hại thực tế, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các biện pháp có tính xã hội.

Chúng  tôi cho rằng, các biện pháp có tính xã hội cần nghiên cứu ở đây là những quy định về bồi thường thiệt hại cho Thẩm phán. Vì vậy, nên chăng cần quy định bảo hiểm sức khoẻ, tính mạng của Thẩm phán là bắt buộc. Quy định này nhằm đảm bảo trong trương hợp tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán bị xâm hại thì cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm thanh toán các khoản tiền bảo hiểm theo những nguyên tắc nhất định. Những trường hợp Thẩm phán được bồi thường vật chất bao gồm:

- Thẩm phán bị thương tích.

- Thẩm phán bị chết.

- Tài sản của Thẩm phán bị hư hỏng.

3.3. Biện pháp pháp lý

Các quy định của chế tài hình sự hiện hành đã góp phần vào việc bảo vệ Thẩm phán có hiệu quả. Tuy nhiên, với tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, thì tính rủi ro của nghề Thẩm phán càng cao. Vì vậy, cần nghiên cứu đến việc sửa đổi các quy định trên theo hướng xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán.

Có thể sửa đổi theo hướng coi các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc quy định thêm một số điều luật mới tương ứng với các hành vi nói trên.

4. Các kiến nghị về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương

4.1. Tiếp tục nghiên cứu và thiết kế thang bảng lương riêng đối với ngạch Thẩm phán cho phù hợp, đặc biệt là ngạch Thẩm phán cấp huyện. Rút ngắn khoảng cách giữa hệ số lương của Thẩm phán cấp huyện so với cấp tỉnh. 

4.2. Thiết kế lại ngạch lương Thư ký theo hướng tiêu chuẩn thư ký Tòa án:

4.3. Quy định phụ cấp lương vượt khung đối với trường hợp đã hưởng hệ số lương tối đa.

4.4. Có chế độ chính sách ưu đãi để thu hút động viên những người đến nhận công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi.

4.5. Ngoài chế độ bồi dưỡng theo Quyết định số 06/2001/QĐ-TTg ngày 10/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với một số chức danh tư pháp thì các quy định khác về chế độ phụ cấp và bồi dưỡng phiên toà dành cho Thẩm phán (như Thông tư 184/TT-LB ngày 12/3/1996 của Ban Tổ chức cán bộ chính phủ - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính về chế độ bồi dưỡng phiên toà đối với thẩm phán, thư ký phiên toà, kiểm sát viên, cảnh sát bảo vệ, cảnh sát dẫn giải bị cáo đến phiên toà) được ban hành đã lâu không phù hợp với biến động giá cả hiện nay (khi mức lương tối thiểu là 120.000 đồng; hiên nay lương tối thiểu là 210.000 đồng, tăng 1,75 lần so với trước). Do vậy đề nghị tăng mức bồi dưỡng phụ cấp xét xử và đơn giá đối với việc cấp kinh phí may sắm trang phục đối vớ cán bộ Tòa án nhân dân địa phương.

4.6. Trong chứng minh thư của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, chúng tôi đề nghị ghi rõ: “Khi thi hành nhiệm vụ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được ưu tiên qua lại cầu phà trên các tuyến giao thông công cộng. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trợ Thẩm phán, Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ”.



[1] Điển hình là một số vụ án được báo chí và dư luận phản ánh nhiều, như: vụ Nguyễn Duy Minh ở Lâm đồng (năm 1997), vụ Bùi Minh Hải ở Đồng Nai (năm 1999), vụ Dương Thị Nga ở Hà Nội (năm 2000), vụ Chu Quang Hưng ở TP Hồ Chí Minh (năm 2000)...

[2] Theo báo cáo của Bộ Tư pháp trong 3 năm 1999 - 2001, các cơ quan chức năng đã xử lý kỷ luật 129 cán bộ toà án, trong đó có người là Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán các toà án nhân dân địa phương sa xút về phẩm chất đạo đức, làm sai lệch hồ sơ, ra bản án, quyết định trái pháp luật, thiếu khách quan, nhận hối lộ, nếp sống buông thả, gây mất đoàn kết nội bộ...

[3] Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996-1999 – NXB Chính trị Quốc gia 2000, trang116, 117.

[4] Văn kiện Đại hội Đảng IX, Mục IX “Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”.

[5] Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X ngày 5 tháng 11 năm 2001.

[6]  Xem thêm Trần Quốc Phú: Văn hoá pháp đình -Người bảo vệ công lý, số 21 (tr.20-21), 22 (tr. 17-18).

 
 
 

 

Nội dung toàn văn

 

 

Bộ Tư pháp

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý

----------------------------------

Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ

 

 

 

Đề tài

Cơ sở lý luận và thực tiễn

của việc xây dựng

Quy chế Thẩm phán

Số đăng ký:

Mã số đề tài: Cấp bộ

Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Văn Lợi

 

Phó viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp

Phó chủ nhiệm đề tài: Phan Hữu Thư

 

Giám đốc Trường đào tạo các chức danh tư pháp – Bộ Tư pháp

Thư ký đề tài: CN. Nguyễn Văn Hiển

 

Chuyên viên Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp

 

 

Hà Nội – 2001

 

Mục lục

Trang

 

Phần mở đầu

3

 

Phần nội dung

8

Chơưng I

Cơ sở lý luận của việc xây dựng, ban hành Quy chế thẩm phán

8

I.

Vai trò, vị trí của Thẩm phán trong hệ thống cán bộ, công chức Nhà nước

8

II.

Những hoạt động của Thẩm phán cần có sự điều chỉnh của pháp luật

14

1.

Tiêu chuẩn để tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán

15

2.

Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Thẩm phán

18

3.

Quản lý Thẩm phán

19

4.

Các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán

22

Chương II

Chế định Thẩm phán trong pháp luật hiện hành và những vấn đề đặt ra

25

I.

Lịch sử các quy định của pháp luật Việt Nam về Thẩm phán

25

II.

Những quy định của pháp luật hiện hành về Thẩm phán

27

1.

Tiêu chuẩn Thẩm phán

28

2.

Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Thẩm phán

29

3.

Đạo đức Thẩm phán

34

4.

Quản lý Thẩm phán

35

5.

Các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán

40

III.

Thực trạng đội ngũ Thẩm phán Việt Nam

40

IV.

Những vướng mắc, hạn chế trong các quy định của pháp luật về Thẩm phán và hoạt động thực tế của Thẩm phán

41

1.

Những vướng mắc, hạn chế của hệ thống pháp luật

41

2.

Những vướng mắc, hạn chế trong việc tổ chức thực hiện

45

Chương III

Các đề xuất nhằm hoàn thiện chế định Thẩm phán và cơ chế bảo đảm thực hiện

49

I.

Một số giải pháp trước mắt nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về chế định Thẩm phán

49

 

1.

Về công tác xây dựng pháp luật

49

2.

Về tiêu chuẩn thẩm phán

51

3.

Về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán

53

4.

Về công tác quản lý Thẩm phán

54

II.

Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chế định pháp luật về Thẩm phán

58

1.

Đề nghị ban hành Quy chế Thẩm phán

58

2.

Phạm vi điều chỉnh và nội dung của Quy chế Thẩm phán

60

III.

Những kiến nghị về xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện Quy chế Thẩm phán

61

1.

Về rà soát, sửa đổi, bổ sung văn bản liên quan

61

2.

Hoàn thiện công tác đào tạo Thẩm phán

61

3.

Xây dựng một số biện pháp bảo vệ Thẩm phán

63

4.

Một số kiến nghị về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Toà án địa phương.

68

 

Phần mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.

Trong thời gian qua, công tác tư pháp đã có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt: hàng nghìn vụ án hình sự, trong đó có những vụ án buôn lậu, tham nhũng lớn, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý với số lượng rất lớn, nhiều người tham gia, có tổ chức chặt chẽ, thủ đoạn phạm tội tinh vi, táo bạo... đã được đưa ra xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật. Số lượng các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động được giải quyết ngày càng nhiều, chất lượng có tiến bộ rõ rệt. Tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp ngày càng hoàn thiện, các Toà án kinh tế, lao động, hành chính được thành lập, chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan tư pháp được điều chỉnh hợp lý hơn, hạn chế được sự trùng lắp, chống chéo trong tổ chức bộ máy, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan tư pháp. Đội ngũ cán bộ tư pháp đã trưởng thành hơn cả về số lương và chất lượng, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường... Những chuyển biến này đã góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước, góp phần thực hiện công bằng xã hội, phục vụ tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, công tác tư pháp cũng còn những hạn chế nhất định, trong đó có những vấn đề còn nhiều nhức nhối, như: số lượng án đã thụ lý nhưng đưa ra xét xử rất chậm, chất lượng xét xử nhiều vụ án còn hạn chế, đặc biệt là tình trạng xét xử oan sai tuy xảy ra không nhiều nhưng rất nghiêm trọng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của không ít Thẩm phán còn non yếu, các biểu hiện suy thoái đạo đức, tiêu cực, tham nhũng của một bộ phận Thẩm phán xảy ra khá phổ biến...

Tình hình trên do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có những nguyên nhân quan trọng xuất phát từ các quy định của pháp luật hiện hành về chế định Thẩm phán chưa đầy đủ, chồng chéo và khó thực hiện.

Do vậy, trước yêu cầu của thực tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan tâm đến khắc phục những hạn chế của cơ quan tư pháp. Các Nghị quyết Trung ương III, V, VI (lần 2), VII, VIII (khoá 8), Đại hội Đảng X và đặc biệt là Chỉ thị số 53-CT-TW ngày 21 –3- 2000 của Bộ Chính trị về "Một số vấn công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000" bên cạnh việc quan tâm kiện toàn hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, cũng nhấn mạnh đến việc tăng cường về số lượng và chất lượng Thẩm phán, xác định rõ các quyền và nghĩa vụ cụ thể của Thẩm phán, xây dựng một cơ chế hữu hiện bảo đảm cho Thẩm phán nói riêng và Toà án nói chung hoạt động độc lập và có hiệu quả. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: "Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân. Từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án nhân dân huyện... Xây dựng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà án, chấp hành viên, công chứng viên, giám định viên, luật sư... có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công vô tư, có nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh". Nghị quyết trung ương III (khoá 8) xác định rõ "Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán toà án cấp tỉnh và toà án cấp huyện; đồng thời căn cứ vào tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay mà điều chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọ cho phù hợp để kịp thời bổ sung đủ Thẩm phán cho toà án cấp huyện và toà án cấp tỉnh...", "Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể... Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ; xử lý nghiêm những cán bộ tham nhũng tiêu cực." Văn kiện Đại hội Đảng IX tiếp tục xác định "Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai... Tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng...".

Trong thời gian qua, BTP với trách nhiệm của mình đã có nhiều đề tài nghiên cứu về chế định Thẩm phán như: các Đề tài cấp Bộ: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện các quy định của pháp luật trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa báo chí với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng" (mã số 95-98-109); "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm phán Toà án địa phương" (mã số: 96-98-036); "Mối quan hệ tập quán và thực tiễn xét xử với việc xây dựng và thực hiện pháp luật tại VN" (mã số: 98-98-078)… TANDTC cũng tổ chức nghiên cứu về quá trình phát triển của Toà án ở Việt Nam; Dự án cải cách tư pháp ở Việt Nam do Canada và Bộ Tư pháp hợp tác nghiên cứu đã có những kết quả nhất định.

Bên cạnh những kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đã được đưa ra áp dụng trong cải cách tư pháp thì vẫn còn những vấn đề quan trọng đang để ngỏ, những đề tài đó chưa thể đi sâu xem xét, giải quyết một lúc tất cả các vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa rất quyết định trong chế định Thẩm phán như: chế độ tuyển cử, điều động, khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán; các biện pháp bảo đảm cho Thẩm pháp, Hội thẩm thực thi nhiệm vụ; các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán; Cơ chế pháp lý bảo đảm cho Thẩm phán hoạt động có hiệu quả; tăng cường phương tiện kỹ thuật vật chất cho Toà án... Chẳng hạn, các quy định về tiêu chuẩn thẩm phán, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật thẩm phán, chế độ chính sách, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, thẩm quyền quản lý thẩm phán... có nhiều vấn đề chồng chéo hoặc chưa cụ thể, chưa hợp lý. Bên cạnh đó, có nhiều vấn đề pháp luật lại bỏ chống chưa quy định như: chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm cụ thể của Thẩm phán về bồi thường thiệt hại do hành vi tố tụng trái pháp luật gây ra, các quy định về các biện pháp bảo vệ an ninh cho Thẩm phán trong những trường hợp cần thiết, các quy định về ứng xử tại phiên toà, về đạo đức thẩm phán, về những việc Thẩm phán không được làm do ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động nghề nghiệp... Ngoài ra, các quy định về Thẩm phán lại nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, với hiệu lực pháp lý khác nhau, trang các lĩnh vực điều chỉnh khác nhau (từ Bộ luật tới Thông tư của các bộ, hướng dẫn của Ngành toà án...). Điều này gây ra những trở ngại lớn cho việc thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu để tìm ra các căn cứ, cơ sở lý luận cho việc ban hành một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, quy định đầy đủ các vấn đề thuộc về chế định Thẩm phán sẽ tạo ra một cơ chế pháp lý thích hợp, hữu hiệu bảo đảm cho Thẩm phán hoàn thành tốt chức trách của mình, để các cơ quan có thẩm quyền, nhân dân giám sát tốt hoạt động xét xử của Toà án là một vấn đề khoa học mà thực tiễn hiện nay đang đòi hỏi.

 

 

 

2. Mục tiêu của đề tài.

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động của Thẩm phán, các quy định trong lịch sử pháp luật Việt Nam, các Quy chế Thẩm phán của một số nước trên thế giới (theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, Châu âu lục địa, Đạo hồi) từ đó kiến nghị đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc ban hành một văn bản có giá trị pháp lý cao quy định đầy đủ về chế định Thẩm pháp. Văn bản này dự kiến sẽ là Quy chế Thẩm phán. Tuy nhiên, trước mắt, kết quả của đề tài sẽ góp phần trực tiếc cho việc sửa đổi, bổ sung các văn bản liên quan đến chế định Thẩm phán, cũng như cơ chế tổ chức và hoạt động của Thẩm phán, cũng như việc xây dựng Quy tắc đạo đức Thẩm phán.

 

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.

Đây là một vấn đề có nội dung nghiên cứu tương đối rộng. Trong khuôn khổ của đề tài cấp Bộ và thời gian hai năm nên đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề trực tiếp liên quan đến chế định Thẩm phán như: phương thức bổ nhiệm, thuyên chuyển, cách chức Thẩm phán, địa vị pháp lý của Thẩm phán (không đi sâu vào vấn đề quyền và nghĩa vụ của người Thẩm phán trong quá trình tiến hành tố tụng), tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, các biện pháp bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán...

 

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.

1. Phương pháp luận chung để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sau nữa là vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

2. Các phương pháp nghiên cứu khác sẽ được sử dụng là:

- Phương pháp lịch sử.

- Phương pháp hệ thống.

- Phương pháp so sánh pháp luật.

- Phương pháp khảo sát thực tế.

- Phương pháp thống kê.

 

5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài.

Kết thúc thời hạn cho phép của đề tài, nhóm nghiên cứu sẽ trình một bản báo cáo kết quả nghiên cứu trong hai năm với các nội dung cụ thể về cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc ban hành Quy chế Thẩm phán. Ngoài ra sẽ có các chuyên đề khoa học và kết quả các Hội thảo khoa học, kết quả khảo sát thực tế và tài liệu tham khảo của các nước.

 

 

Phần nội dung

Chương I

Cơ sở lý luận của việc xây dựng,

ban hành Quy chế Thẩm phán

I. Vai trò, vị trí của Thẩm phán trong hệ thống cán bộ, công chức nhà nước.

Muốn xây dựng một nền hành chính thông suốt, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả và năng động mà không có một đội ngũ cán bộ, công chức năng động, có phẩm chất trong sạch, không quan liêu, không tham nhũng và tận tuỵ với công việc thì không thể thực hiện được. Vì vậy, vấn đề con người (đội ngũ cán bộ, công chức) có vai trò quyết định trong công cuộc cải cách nền hành chính ở nước ta hiện nay. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76.SL ngày 20/5/1950 quy định về chế độ công chức của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tuy nhiên, vì những lý do khách quan mà văn bản này không được áp dụng trên thực tế. Hiện nay, địa vị pháp lý của cán bộ công chức đã được quy định rất rõ trong Pháp lệnh cán bộ, công chức và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành.

Trong bộ máy Nhà nước của Việt Nam hiện nay có rất nhiều loại cán bộ công chức hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi loại cán bộ công chức đều có một vị trí riêng. Vị trí này được xác định căn cứ vào đặc thù nghề nghiệp của họ, tuy nhiên tất cả cán bộ công chức đều có những đặc trưng chủ yếu sau:

- Cán bộ, công chức được sự uỷ thác của Nhà nước và lấy danh nghĩa của Nhà nước mà hoạt động.

- Cán bộ, công chức giữ một chức vụ, trọng trách nào đó trong Bộ máy nhà nước nói chung.

- Cán bộ, công chức phải bầu cử, tuyển dụng, đề bạt, phân công khi tốt nghiệp hoặc theo một trình tự thủ tục khác.

- Cán bộ, công chức được đãi ngộ căn cứ vào chất lượng lao động của họ.

Theo quy định của Pháp lệnh về cán bộ công chức thì Thẩm phán cũng là một loại công chức nhà nước. Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp mà họ có một vị trí đặc biệt trong hệ thống cán bộ, công chức Việt Nam. Tính đặc thù của hoạt động nghề nghiệp cũng tao nên những nét đặc thù trong công tác quản lý, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo... Thẩm phán.

Vậy, Thẩm phán có vị trí như thế nào trong hệ thống cán bộ, công chức của Việt Nam? Như trên đã trình bày, vị trí của Thẩm phán là cái phản ánh nghề nghiệp của họ. Hay nói cách khác đặc thù của nghề Thẩm phán quy định vị trí của họ trong hệ thống cán bộ, công chức. ở Việt Nam, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, không có sự phân chia quyền lực nhưng có sự phân công, phân cấp, phân nhiệm rõ ràng. Quốc hội có chức năng lập pháp, Chính phủ có chức năng hành pháp, Viện kiểm sát có chức năng công tố, Toà án có chức năng xét xử. Bốn loại cơ quan này hợp thành một bộ máy nhà nước thống nhất, điều hành toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, Thẩm phán – một loại công chức hoạt động trong Toà án - với công việc chính là xét xử. Hay nói cách khác nghề của Thẩm phán là nghề xét xử. Nghề xét xử có những đặc thù chính sau:

 

1. Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật.

Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước đều là hoạt động thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật. Đây là hoạt động vận dụng các quy phạm pháp luật vào giải quyết một quan hệ pháp luật cụ thể. Kết quả của hoạt động này chủ yếu được thể hiện ở việc cơ quan áp dụng pháp luật ra một văn bản áp dụng pháp luật.

- Đối với hoạt động xét xử thì Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật bằng cách xem xét một cách khách quan toàn bộ vụ án trên cơ sở thẩm vấn, tranh luận công khai và bình đẳng trước phiên toà công khai để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Như vậy phương pháp áp dụng pháp luật trong trường hợp này là phương pháp tranh tụng công khai, bình đẳng giữa các bên liên quan. Toà án phán quyết trên cơ sở chứng cứ khách quan. Đây là điểm khác biệt căn bản đối với các hoạt động áp dụng pháp luật của bất cứ một cơ quan nhà nước nào. Có nghĩa là các hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác được thực hiện trên nguyên tắc quyền uy, phục tùng. Việc ra quyết định áp dụng pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng bị áp dụng. Các ý kiến của đối tượng bị áp dụng chỉ có ý nghĩa tham khảo.

- Mặt khác, văn bản áp dụng của Toà án được thể hiện dưới hình thức là một bản án hoặc quyết định của Toà án nhân danh nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là điểm khác biệt với các hoạt động áp dụng pháp luật khác, văn bản áp dụng của các cơ quan nhà nước khác không thể là bản án và cũng chỉ nhân danh cơ quan đó chứ không nhân danh nhà nước.

- Mục đích trực tiếp của hoạt động áp dụng pháp luật của Toà án là bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý. Mục đích này cũng khác với các cơ quan nhà nước khác. Mục đích chung của các cơ quan này đều là thi hành pháp luật (Cơ quan lập pháp áp dụng pháp luật để thực hiện quyền giám sát. Cơ quan hành pháp áp dụng pháp luật để đưa pháp luật vào cuộc sống, trong quá trình thực hiện chức năng của mình các cơ quan hành pháp có quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố để tố cáo, truy tố các hành vi bị coi là vi phạm pháp luật, vi phạm đến quyền và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, công dân và xã hội.) còn mục đích trực tiếp của Toà án là bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý. Có nghĩa là chức năng của Toà án không phải là tố giác, buộc tội một cá nhân, tổ chức nào đó là vi phạm pháp luật, mà chức năng của Toà án là xem xét một cách khách quan những tố giác, buộc tội của các cơ quan, cá nhân khác và phán xử sự việc cụ thể là có vi phạm pháp luật không? trên cơ sở đó khôi phục (khắc phục) tình trạng vi phạm pháp luật bằng chế tài nghiêm khắc đối với bên vi phạm thông qua các bản án, quyết định nhân danh nhà nước.

Tính đặc thù nghề nghiệp này đã chi phối đến địa vị pháp lý của Thẩm phán trong hệ thống công chức nhà nước. Do việc áp dụng pháp luật không thể sử dụng phương pháp quyền uy, phục tùng mà sử dụng phương pháp tranh tụng bình đẳng nên đòi hỏi Thẩm phán phải hết sức vô tư khách quan trong việc xem xét ý kiến của các bên tham gia tranh tụng. Tính vô tư khách quan phải được thể hiện ngay trong ý nghĩ, tư duy đến các biểu hiện, hành động cụ thể. Điều này không cho phép Thẩm phán được định kiến với sự việc, con người đang được xem xét trong vụ án. Do vậy, nếu xuất hiện những định kiến này đòi hỏi Thẩm phán phải gạt bỏ ngay hoặc chủ động đề nghị không tham gia xét xử vụ án.

 

2. Tính độc lập cao trong hoạt động nghề nghiệp.

Chức năng của Toà án là xét xử, mà xét xử là bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý. Do đó, muốn bảo vệ được công lý đòi hỏi Toà án phải độc lập không bị lệ thuộc vào bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Chính vì vậy mà nguyên tắc xét xử độc lập được coi là nguyên tắc sương sống trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.

Nguyên tắc "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật " đã được ghi nhận qua 4 Hiến pháp: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Nguyên tắc này cũng đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật tố tụng của nước ta hiện nay.

Toà án là cơ quan xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động. Khi xét xử, pháp luật dành cho Toà án một quyền đặc biệt là quyền độc lập. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ hai vế của nguyên tắc này: Khi xét xử, Thẩm phán được quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này chỉ được bảo đảm khi hai vế đó tồn tại trong sự kết hợp lẫn nhau. Nếu người Thẩm phán chỉ độc lập, tức là xử hoàn toàn theo ý chí của mình, niềm tin của mình mà không căn cứ vào một cái gì cả thì trong trường hợp đó người Thẩm phán đã từ bỏ vị trí xã hội của mình bởi vì người Thẩm phán sinh ra là để áp dụng pháp luật. Đi vào nội dung, chúng ta phải chú ý từng câu chữ của nguyên tắc này. Thẩm phán được quyền độc lập nhưng chỉ độc lập khi xét xử và hơn nữa độc lập trong sự tuân theo pháp luật.

Nguồn gốc của nguyên tắc này bắt nguồn từ đặc trưng của hoạt động xét xử là vận dụng một qui định chung để soi dọi, phán xét một hành vi, một sự kiện cụ thể. Sự phán quyết đó chỉ có thể đúng khi người vận dụng có sự am hiểu về pháp luật cũng như am hiểu mọi tình tiết, sự việc diễn ra trong vụ án đó. Người thẩm phán khi ngồi xét xử, phải khôi phục lại toàn bộ diễn biến, tình tiết của vụ án. Người ngồi xét xử, có thể nói, là người chứng kiến, người quay lại cuốn phim với tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án. Và vì là người chứng kiến như vậy, Thẩm phán là người có điều kiện nhất trong việc đưa ra một phán quyết đúng đắn đối với hành vi đó. Đó là một trong những lý do vì sao Thẩm phán được độc lập khi xét xử.

Phán quyết của Thẩm phán bao giờ cũng liên quan đến số phận, vận mệnh của con người. Không chỉ đương sự là người trong cuộc mới quan tâm đến điều đó mà cả những người xung quanh cũng quan tâm. Nhiều người còn tìm mọi cách tác động vào ý chí chủ quan của người Thẩm phán, cũng có nghĩa là muốn làm sai lệch quyết định của người Thẩm phán theo ý muốn chủ quan của mình. Vì vậy, đặt ra vấn đề, để bảo đảm tính chính xác, phù hợp với pháp luật và phù hợp với thực tế khách quan đã diễn ra thì phải dành cho người Thẩm phán toàn quyền quyết định, người khác không có quyền can thiệp. Như thế, độc lập xét xử không chỉ đơn thuần là một quyền, một ưu thế của người Thẩm phán mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng của người Thẩm phán. Độc lập ở đây cũng không có nghĩa là Thẩm phán quyết định sự việc hoàn toàn theo ý muốn chủ quan của mình mà nó được hiểu là điều kiện giúp người thẩm phán có nhận thức khách quan hơn trong đánh giá sự việc. Xét về mặt này, người Thẩm phán lại không độc lập nữa và tiêu chí của độc lập chính là qui định của pháp luật, độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật. Mác đã từng nói, đối với người Thẩm phán, vị tư lệnh của người Thẩm phán chính là pháp luật. Như thế, trong trường hợp này người Thẩm phán được sự chỉ huy và chịu sự chỉ huy của pháp luật. Hành vi phán quyết của người Thẩm phán là để chấp hành mệnh lệnh ý chí của Nhà nước, ý chí thể hiện lợi ích của xã hội và cũng thể hiện thái độ của xã hội đối với từng loại hành vi đi ngược với lợi ích chung của xã hội, thể hiện quyền lực của Nhà nước, thể hiện quan niệm, nhận thức của xã hội đó, của Nhà nước đó về sự công bằng.

Nguyên tắc này đã chi phố rất lớn đến vị trí của Thẩm phán trong hệ thống công chức, cũng như những yêu cầu mà mỗi Thẩm phán phải đáp ứng khi ngồi vào vị trí đó. Nội dung của nguyên tắc là như vậy, nhưng khi người Thẩm phán ngồi vào ghế xét xử thì phải tôn trọng nguyên tắc đó. Bởi khi xét xử, người Thẩm phán đưa ra một phán quyết nhân danh Nhà nước mà mục đích cuối cùng là làm thế nào để có thể đem lại sự công bằng cho xã hội. Một con người, dầu có không bị ai can thiệp, nhưng lòng không trong sáng, tâm tư bị chi phối bởi những quan hệ cá nhân, dù có độc lập trên danh nghĩa thì trong quyết định của mình cũng không thể hiện được tính độc lập, tính khách quan vô tư đó. Vì vậy, đòi hỏi người Thẩm phán phải có một bản lĩnh, vượt lên trên cái tôi của mình, đại diện cho khát vọng xã hội, vì lợi chung của xã hội để đưa ra một phán quyết về tính chất của hành vi, trên cơ sở đó vận dụng qui định của pháp luật để giải quyết. ít có lĩnh vực nào lại đòi hỏi tính khách quan, vô tư cao đến như vậy như đối với người Thẩm phán khi đánh giá một vụ án và đưa ra một phán quyết về một biện pháp chế tài để xử lý. Vì ở đây thể hiện một cách rất đầy đủ thái độ, quan hệ cá nhân của người trong cuộc với đương sự hay bị cáo, thể hiện cả cách nhìn về mặt tốt, mặt xấu của đời sống xã hội. Với yêu cầu như vậy, người Thẩm phán phải là người "chí công vô tư, phụng công thủ pháp". Vậy thì cần phải hiểu, độc lập xét xử không chỉ là một quyền thuần tuý mà độc lập xét xử luôn đi liền với chỉ tuân theo pháp luật, nó đã trở thành nghĩa vụ đạo đức, một đòi hỏi về phẩm chất, một bản lĩnh của người Thẩm phán.

Trên thực tế, độc lập xét xử vẫn còn đang là vấn đề thời sự. Liệu Thẩm phán hiện nay đã độc lập khi xét xử chưa? đã được xét xử theo pháp luật chưa? Trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xét đến yếu tố chủ quan, khách quan của vấn đề.

Về mặt chủ quan: Để có thể độc lập khi xét xử, đòi hỏi người Thẩm phán một trình độ, một bản lĩnh, một năng lực vận dụng pháp luật và một lòng tự tin vào chính mình, đồng thời phải có một ý thức trách nhiệm rất cao. Cho tới hiện nay, không phải vị Thẩm phán nào cũng đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe như vậy.

 

Về mặt khách quan: Những yếu tố nào tác động đến tính độc lập của người Thẩm phán? Đó là sự tác động của môi trường xung quanh. Ai cũng muốn gặp để nói một lời nói, thể hiện ý kiến mình đối với Thẩm phán, mong tác động lên quyết định của người đó và điều rất dễ hiểu là bị cáo, đương sự, trước khi ra toà đều tìm cách gõ các cửa mong tìm được sự giúp đỡ. Tình trạng này hiện nay còn rất nặng nề và điều đó thực sự là một khó khăn cho người Thẩm phán. Chính ở đây đòi hỏi rất cao bản lĩnh của người Thẩm phán. Khước từ một yêu cầu, đề nghị của người thân, chưa nói đến đó là đề nghị của một vị lãnh đạo là một điều hoàn toàn không đơn giản. Thử thách lớn nhất đối với người Thẩm phán phải chăng chính là ở chỗ này. Làm thế nào để vượt lên trên mọi sự tác động, không phải là để đưa ra một phán quyết theo ý muốn chủ quan của mình, mà chính là bảo đảm sự đúng đắn, công bằng là một yêu cầu của pháp luật. Muốn vậy, người Thẩm phán phải thực sự chí công vô tư. Nếu người Thẩm phán biết vượt lên cái riêng, sẽ kiếm tìm được sự thanh thản, sự thanh thản của một người vì cái chung. Tuy nhiên, không chỉ có chí công vô tư mới là bảo đảm cho sự thanh thản của người Thẩm phán mà quyết định của Thẩm phán còn thể hiện một thái độ rung cảm đối với cuộc sống.

Còn một vấn đề khác có liên quan rất lớn đến tính độc lập của người Thẩm phán, đó là sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử như thế nào? Trước hết phải thấy được rằng, Đảng lãnh đạo Toà án, lãnh đạo công tác xét xử là để bảo đảm việc thi hành pháp luật, mà pháp luật là đường lối, chính sách của Đảng. Cho nên khi chúng ta làm đúng pháp luật, có nghĩa là làm đúng chính sách của Đảng. Người nào làm đúng chính sách của Đảng thì người đó đã chịu sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, phải trở lại tính đặc thù của công tác xét xử. Xét xử là việc vận dụng một quyết định chung để phán quyết một trường hợp cụ thể. Khó khăn chính là ở chỗ này. Về nguyên tắc, cấp uỷ không có quyền chỉ đạo Toà án trong việc xét xử, không được can thiệp vào các vụ án, không được đưa ra các mức án cụ thể. Song cũng có nhiều trường hợp phức tạp mà việc vận dụng pháp luật vào trường hợp đó đòi hỏi phải căn cứ vào tình hình chính trị của địa phương. Trong quyết định của người Thẩm phán không chỉ thể hiện tính chuyên môn đơn thuần mà phải thể hiện tính chính trị cao. Một bản án do Toà án tuyên phải mang tính chính trị sâu sắc, tức là có tác dụng giáo dục, phù hợp với yêu cầu của tình hình địa phương.

 

 

 

3. Tính hiệu lực tuyệt đối trong các phán quyết của Toà án.

Khác với các quyết định của các cơ quan nhà nước khác, Bản án, quyết định của Toà án được nhân danh nhà nước (chứ không phải nhân danh cơ quan nhà nước), khi bản án, quyết định này đã có hiệu lực thi hành thì mọi cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ tôn trọng và tuyệt đối thi hành. Bản án này chỉ bị xem xét lại theo một trình tự tố tụng nghiêm ngặt và có thể bị huỷ bỏ bởi một bản án khác cũng nhân danh nhà nước. Điều này khác với các quyết định hành chính của các cơ quan khác. Các quyết định hành chính này có thể bị huỷ bỏ bởi một cơ quan nhà nước cấp trên và cũng nhân danh cơ quan cấp trên mà không nhân danh nhà nước.

Chính điều này đòi hỏi người Thẩm phán khi ra các phán quyết đòi hỏi phải hết sức thận trọng, vì phán quyết của Toà án trong nhiều trường hợp có ảnh hưởng quyết định đến quyền lợi nhân thân của cá nhân, các quyền và lợi ích về tài sản của cá nhân, tổ chức và Nhà nước, thậm chí trong nhiều trường hợp có thể tước đoạt đi sinh mạng của con người. Điều này đòi hỏi ở Thẩm phán nhiều phẩm chất về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức...

* *

*

Như vậy, Thẩm phán là một loại công chức có vị trí, vai trò rất đặc biệt trong hệ thống cán bộ công chức. Vị trí này có được là do tính đặc thù của hoạt động xét xử quy định. Với đặc thù nghề nghiệp như vậy, đòi hỏi người thẩm phán phải có rất nhiều những phẩm chất cần thiết cho nghề nghiệp. Điều này cũng đồng nghĩa phải có một cơ chế đặc thù cho việc đào tạo, tuyển dụng, quản lý... Thẩm phán.

 

II. Những hoạt động của Thẩm phán cần có sự điều chỉnh của pháp luật.

Với xu hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì mọi hoạt động của cơ quan nhà nước trên mọi lĩnh vực phải có sự điều chỉnh cụ thể của pháp luật. Đối với hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán cũng vậy. Trên phương diện pháp lý, vấn đề đặt ra là với hoạt động nghề nghiệp đặc biệt của Thẩm phán như vậy thì pháp luật cần điều chỉnh hoạt động này đến đâu và điều chỉnh như thế nào? Theo chúng tôi những vấn đề (quan hệ) cơ bản sau cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật.

 

1. Tiêu chuẩn để tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán.

Tiêu chuẩn Thẩm phán là điều kiện cần phải có của một người để làm căn cứ cho việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán. Dưới góc độ pháp lý thì việc xây dựng các tiêu chuẩn Thẩm phán là một công việc khó khăn. Thông thường việc xây dựng tiêu chuẩn Thẩm phán ở các nước đều dựa trên các yếu tố cơ bản: quan điểm chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác, sức khoẻ. Các tiêu chuẩn này một mặt phải xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, mặt khác phải phù hợp với thực trạng chất lượng cán bộ hiện có.

Đồng thời, khi xây dựng tiêu chuẩn Thẩm phán phải quán triệt quan điểm của Đảng về tiêu chuẩn cán bộ trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: "Có phẩm chất chính trị tốt, vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Có tinh thần năng động, sáng tạo, phấn đấu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dám đấu tranh với những quan điểm sai trái. Có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn đoàn kết nội bộ. Có quan hệ mật thiết với nhân dân. Có năng lực, trình độ và sức khoẻ phù hợp với nhiệm vụ công tác được giao. Có phong cách làm việc khoa học, đưa lại hiệu quả thiết thực . Tức là, người cán bộ phải có phẩm chất và năng lực, có đức và tài, trong đó đức là cái gốc của người cán bộ.

Phù hợp với thực trạng chất lượng cán bộ ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, thì tiêu chuẩn Thẩm phán đòi hỏi phải có những nội dung sau:

 

1.1. Tiêu chuẩn về chính trị.

Tiêu chuẩn chính trị là những tiêu chuẩn về mặt quan điểm, tư tưởng chính trị của người Thẩm phán. Bất cứ một nhà nước nào, một chế độ nào thì yêu cầu đầu tiên đối với bất kỳ một nhân viên nào trong bộ máy nhà nước là sự trung thành với chế độ. Với chế độ hiện nay thì "Nhà nước CHXNCH Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân"..., "Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" (Điều 2, Điều 4 Hiến pháp 1992). Do vậy, sự trung thành của công chức nói chung và Thẩm phán nói riêng đối với chế độ cũng chính là sự trung thành với Đảng công sản Việt Nam, với nhân dân Việt Nam.

Để đánh giá được tư tưởng, quan điểm, bản lĩnh chính chính trị vững vàng của Thẩm phán thì đòi hỏi cũng phải có những tiêu chuẩn cụ thể nhất định. Tiêu chuẩn ấy là kết quả của quá trình bồi dưỡng, đào tạo và tự rèn luyện và được đáng giá thông qua hệ thống văn bằng như: trình độ lý luận chính trị sơ cấp, trung cấp, cao cấp.

 

1.2. Tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ.

Nghề Thẩm phán là nghề xét xử, muốn xét xử được đòi hỏi Thẩm phán phải có tiêu chuẩn cần thiết về chuyên môn và nghiệp vụ. Nhưng chuyên môn và nghiệp vụ như thế nào được coi là cần thiết? Cái thước để đo về chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán chính là kết quả của hoạt động xét xử. Tức là bản án do Hội đồng xét xử tuyên (trong đó có Thẩm phán) có đúng pháp luật không. Tuy nhiên, tiêu chuẩn chuyên môn và nghiệp vụ của Thẩm phán không chỉ được đánh giá thông qua chất lương xét xử mà còn phải được xem xét khi tuyển chọn Thẩm phán. Do vậy, về mặt lý luận đòi hỏi phải có một thước đo nhất định để làm căn cứ xem xét một người có đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán không.

Tiêu chuẩn về chuyên môn chính là những kiến thức về pháp luật của Thẩm phán. Việc quy định tiêu chuẩn chuyên môn của Thẩm phán phụ thuộc vào một số vấn đề sau: hệ thống pháp luật hiện hành, chất lượng đào tạo chuyên ngành luật, mặt bằng hiểu biết pháp luật của người dân nói chung, tính phức tạp của hoạt động tố tụng...

Tiêu chuẩn về nghiệp vụ của Thẩm phán là kỹ năng, kinh nghiệm xét xử của Thẩm phán. Do tính phức tạp của nghề Thẩm phán cho nên ngoài việc trang bị các kiến thức lý luận thì việc trang bị kinh nghiệm thực tiễn là điều không thể thiếu. Tiêu chuẩn về nghiệp vụ có thể được đánh giá thông qua một số hình thức như:

- Khả năng được đào tạo nghề: người được bổ nhiệm làm Thẩm phán cần phải được bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp tại một trung tâm đào tạo nghề nhất định.

- Kinh nghiệm thực tiễn (thời gian công tác và vị trí công tác): người muốn bổ nhiệm làm Thẩm phán phải công tác trong ngành pháp luật một thời gian nhất định (như trong pháp luật hiện hành), hoặc là phải giúp việc cho Thẩm phán ở Toà án một thời hạn nhất định sau đó mới được bầu làm Thẩm phán tập sự, làm Thẩm phán tập sự sau một thời gian nhất định mới được bổ nhiệm làm Thẩm phán chính thức.

 

1.3. Tiêu chuẩn về đạo đức.

Đạo đức là một dạng hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội về điều thiện, điều ác, về danh dự, lương tâm, lẽ công bằng, vinh, nhục... Trong đời sống hiện thực, đạo đức bao gồm: ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức.

Đối với người Thẩm phán thì ngoài việc đáp ứng các chuẩn mực đạo đức thông thường, người Thẩm phán còn phải đáp ứng các chuẩn mực đạo đức xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp như: các tiêu chuẩn về công bằng, khách quan, vô tư trong hoạt động nghề nghiệp, các chuẩn mực giao tiếp, ứng xử khi xét xử, các chuẩn mực về lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp... Vậy pháp luật cần điều chỉnh phạm trù (các quan hệ) đạo đức đối với nghề xét xử ở mức độ nào và như thế nào? Chúng tôi cho rằng đạo đức là một phạm trù xã hội, các xử sự của chủ thể mang tính tự nguyện và chế tài của đối với các xử sử trái với các quy phạm đạo đức là dư luận xã hội, còn quy phạm pháp luật là các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung được đề lên thành luật và được bảo đảm bằng các chế tài pháp lý. Như vậy, pháp luật cần điều chỉnh vấn đề đạo đức Thẩm phán ở phạm vi sau:

- Pháp luật sẽ không điều chỉnh ý thức đạo đức mà chỉ điều chỉnh các quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức.

- Pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán (như ảnh hưởng đến tính vô tư, khách quan, độc lập trong xét xử...).

- Các vấn đề khác thuộc phạm trù đạo đức như lương tâm, trách nhiệm, chuẩn mực giao tiếp, ứng xử... cần được điều chỉnh bằng các văn bản của Hiệp hội Thẩm phán (chẳng hạn như bản quy tắc đạo đức Thẩm phán).

 

1.4. Tiêu chuẩn về sức khoẻ.

Xét xử là một nghề đòi hỏi ở người Thẩm phán phải tụ hợp nhiều yếu tố như chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức, sức khoẻ... Tiêu chuẩn sức khoẻ của Thẩm phán không chỉ thông thường như các nghề nghiệp khác (tức là các yêú tố thể chất), mà trên một phương diện nào đó lao động của Thẩm phán cũng là một lao động nghệ thuật - xét hỏi, thẩm vấn phải có nghệ thuật - vì vậy, tiêu chuẩn sức khoẻ của Thẩm phán cũng phải đáp ứng các điều kiện như một "ngành nghệ thuật" chuyên biệt, nghĩa là cũng phải có các tiêu chuẩn về hình thức, về ứng xử, giao tiếp (ăn nói).

- Về hình thức: phải có "vóc dáng của một vị quan toà" tức là phải đáp ứng các điều kiện về chiều cao, không có khuyết tật (dị hình, dị dạng trên khuôn mặt, thân thể, không cụt chân, cụt tay...).

- Về tác phong: phải đi đứng đàng hoàng, đĩnh đạc, ngồi xét xử đúng tư thế (vấn đề này có thể đáp ứng được thông qua hoạt động đào tạo hoặc tự rèn luyện).

- Về giao tiếp: ăn nói phải chuẩn mực, tức là người Thẩm phán cũng có phong cách giao tiếp như: khi thẩm vấn, xét hỏi, lấy lời khai phải dùng từ ngữ phổ thông, dễ hiểu phù hợp với từng đối tượng nhưng tránh sử dụng các từ ngữ thô tục, khi tuyên án phải sử dụng ngôn ngữ pháp lý chính xác, mạch lac..

Những người có các khuyết tật trong giao tiếp như: nói ngọng, nói lắp... đều không phù hợp với nghề xét xử.

 

2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Thẩm phán.

Thẩm phán cũng là một công dân, một công chức. Do vậy, Thẩm phán cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một công dân, một công chức theo quy định của pháp luật hiện hành. Nghĩa là với tư cách một công dân thì họ được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, nhưng khi thi hành công vụ - với tư cách là một công chức - thì họ chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Bên cạnh đó, Thẩm phán còn phải có các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm xuất phát từ nghề nghiệp đặc thù mà pháp luật cần quy định. Có thể chia quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán theo các nhóm quan hệ lớn sau:

ã Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong quan hệ tố tụng như: quyền và nghĩa vụ điều tra, thu thập chứng cứ trong các vụ án dân sự, kinh tế... quyền và nghĩa vụ trong việc thẩm vấn, xét hỏi, quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp khẩn cấp tạm thời...; các quyền và nghĩa vụ trong việc tuân thủ các nguyên tắc xét xử: độc lập xét xử, vô tư khách quan, bảo đảm các quyền tố tụng của các bên liên quan...

ã Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm phát sinh từ quan hệ tố tụng như: quyền và nghĩa vụ từ chối không xét xử vụ án khi có các quan hệ, biểu hiện ảnh hưởng đến tính vô tư khách quan trong hoạt động xét xử, quyền được cấp trang phục xét xử, nghĩa vụ phải bồi thường thiệt haị khi xét xử oan sai...

ã Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong quan hệ hành chính như: quyền và nghĩa vụ làm nhiệm vụ theo sư phân công của Chánh án, quyền và nghĩa vụ trong việc điều hành phiên toà (nếu là chủ toạ), ra các quyết định thi hành bản án...

ã Các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm khác mang tính đặc thù của nghề Thẩm phán như: nghĩa vụ giữ bí mật công tác (các thông tin trong quá trình nghị án, các thông tin chưa được phép công bố của vụ án...), nghĩa vụ không được tham gia các giao dịch kinh tế, dân sự có ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp, quyền được hưởng phụ cấp nghề nghiệp, được bảo đảm về an ninh trong trường hợp cần thiết...

 

3. Quản lý Thẩm phán.

Xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp của hoạt động xét xử nên hoạt động quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân cũng là một hoạt động quản lý hành chính nhà nước tương đối đặc biệt. Tính đặc thù này thể hiện cả ở chủ thể quản lý, nội dung quản lý và đối tượng quản lý.

ã Về chủ thể quản lý, khác với các cơ quan hành chính khác, do tính đặc thù của các Toà án nhân dân với tính cách là cơ quan xét xử nên việc quản lý Toà án không thể do ngành Toà án thực hiện. Trong bộ máy Nhà nước ta, hoạt động quản lý (các Hiến pháp gọi là hoạt động chấp hành và hành chính) là hoạt động chủ yếu thuộc ngành hành pháp, ở cấp trung ương, là Chính phủ. Chính phủ có trách nhiệm quản lý toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội: Kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, ngoại giao và tư pháp. Vì vậy, không thể tách quản lý tư pháp khỏi hoạt động quản lý nói chung của Chính phủ được. Nếu chuyển cho Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, thì một mặt sẽ biến Tòa án nhân dân tối cao thành cơ quan xét xử đồng thời là cơ quan quản lý, trái với nguyên tắc Hiến pháp quy định tòa án chỉ là cơ quan xét xử. Mặt khác, nếu như vậy thì bên cạnh Chính phủ lại có một cơ quan có chức năng quản lý như Chính phủ, cũng lo việc tổ chức, tài chính, đào tạo cán bộ. Điều đó hoàn toàn trái với một trong những quan điểm lớn của Đảng ta trong xây dựng bộ máy Nhà nước: bảo đảm quyền lực thống nhất nhưng có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do vậy, việc quản lý Toà án địa phương phải do một cơ quan của Chính phủ thực hiện.

ã Nội dung quản lý Thẩm phán cũng bao gồm các nội dung chính của hoạt động quản lý cán bộ, công chức. Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc thù của nghề Thẩm phán mà các nội dung cụ thể cũng có những điểm khác biệt so với hoạt động quản lý cán bộ, công chức bình thường. Tuỳ vào tình hình và đặc điểm của mỗi nước, việc tổ chức và quản lý Thẩm phán cũng có những khác nhau, nhưng tất cả các nước đều thống nhất quản lý Thẩm phán trên các vấn đề sau:

- Biên chế Thẩm phán trong toàn quốc;

- Quỹ tiền lương;

- Vấn đề tuyển dụng, sử dụng, thuyên chuyển, đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm Thẩm phán;

- Tiêu chuẩn Thẩm phán;

- Tiền lương, chế độ chính sách đối với Thẩm phán;

- Phương pháp đánh giá chất lượng Thẩm phán hàng năm;

- Khen thưởng, kỷ luật, cách chức Thẩm phán.

- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Thống kê Thẩm phán.

Để thực hiện các nội dung trên đòi hỏi phải có nhiều cơ quan khác nhau, trong đó mỗi cơ quan đảm nhiệm một khâu quản lý nhất định như: ban hành văn bản, tổ chức thực hiện (trong đó có kết hợp các nguyên tắc quản lý nhà nước như: quản lý theo chức năng, quản lý theo ngành, quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ, thực hiện phân cấp, uỷ quyền...) kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo... Trong các nội dung kể trên, thì một số nội dung sau mang tính chất khá đặc thù của hoạt động quản lý Thẩm phán.

 

3.1. Tuyển chọn Thẩm phán.

Công tác tuyển chọn Thẩm phán là một nội dung không thể thiếu trong hoạt động quản lý Thẩm phán. Việc tuyển chọn Thẩm phán phải đạt được mục đích: tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán, bảo đảm tính độc lập trong hoạt động xét xử, chuyên nghiệp hoá đội ngũ Thẩm phán. Do vậy, trong công tác tuyển chọn Thẩm phán thì phương thức tuyển chọn, thủ tục tuyển chọn và nhiệm kỳ của Thẩm phán là những vấn đề cơ bản nhất.

Tuyển chọn Thẩm phán thường được tiến hành theo hai cách thức: Bầu hoặc cử Thẩm phán và Bổ nhiệm Thẩm phán.

Chế độ bầu (hay cử) Thẩm phán được tiến hành thông qua cử tri trực tiếp hay gián tiến thông qua đại biểu cử tri (mà đại diện là các cơ quan quyền lực nhà nước) lựa chọn. Chế độ này có ưu điểm là bảo đảm cho quần chúng nhân dân trực tiếp thực hiện quyền dân chủ trong việc lựa chọn những người thay mặt mình thực hiện hoạt động xét xử. Nhưng chế độ này cũng có những nhược điểm như việc bầu cử Thẩm phán thường nặng về hình thức. Điều này làm cho việc đánh giá về trình độ chuyên môn pháp lý và phẩm chất đạo đức của người được tuyển chọn khó chính xác. Một nhược điểm nữa là việc bầu Thẩm phán thường theo nhiệm kỳ của của Hội đồng nhân dân địa phương, mà các cơ quan này lại có nhiệm kỳ ngắn, điều này làm cho Thẩm phán chưa thực sự yên tâm công tác và tập trung nghiên cứu học tập, lao động sáng tạo trong hoạt động xét xử. Mặt khác, chế độ bầu Thẩm phán cũng là một nguyên nhân gián tiếp làm cho Toà án lệ thuộc vào chính quyền địa phương và chính điều này dẫn đến tình trạng việc áp dụng luật ở các Tòa án không được thống nhất.

Theo chế độ bổ nhiệm Thẩm phán thì người được tuyển chọn làm Thẩm phán do người có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm. Chế độ này có những ưu điểm là: có điều kiện để lựa chọn kỹ người để bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của Thẩm phán không phụ thuộc vào nhiệm kỳ của cơ quan dân cử, do vậy Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức pháp luật và trách nhiệm cá nhân. Phương thức bổ nhiệm Thẩm phán phù hợp hơn với nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là: thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán thuộc về cơ quan nào? thủ tục bổ nhiệm như thế nào là hợp lý? Vì nếu quy định thẩm quyền bổ nhiệm không hợp lý sẽ dẫn đến hậu quả hoặc là người có thẩm quyền bổ nhiệm sẽ can thiệp vào hoạt động xét xử làm cho nguyên tắc độc lập xét xử không đảm bảo, hoặc là không quy định rõ việc phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm sẽ làm cho việc bổ nhiệm trở nên tràn lan, không đảm bảo chất lượng.

 

3.2. Thuyên chuyển Thẩm phán.

Thuyên chuyển, điều động Thẩm phán nhằm mục đích điều động, phân bổ cán bộ một cách hợp lý theo địa giới hành chính hoặc theo cấp xét xử trên cơ sở nhiệm vụ xét xử của các địa phương.Do vậy, các quy định của pháp luật về thuyên chuyển Thẩm phán một mặt, phải đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ xét xử, mặt khác phải đảm bảo được đời sống của Thẩm phán.

 

3.3. Về khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán.

Khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán là những công cụ, biện pháp trong quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ Thẩm phán. Thông qua các hình thức khen thưởng để đánh giá công lao, ghi nhận những đóng góp, cống hiến của Thẩm phán, khích lệ họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khen thưởng được coi như tấm gương sát thực nhất để mọi người học tập, làm theo. Kỷ luật Thẩm phán là hình thức xử lý, trừng phạt với mức độ khác nhau tuỳ theo nội dung, tính chất vi phạm chế độ chính sách và pháp luật. Mục đích của các hình thức kỷ luật là răn đe, phòng ngừa, uốn nắn những sai phạm có thể xảy ra hoặc đã xảy ra.

Công tác khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán có tác dụng to lớn trong việc nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất của đội ngũ Thẩm phán, làm tốt công tác này, chất lượng của đội ngũ Thẩm phán sẽ không ngừng được nâng cao, góp phần quan trọng vào việc quản lý, phát triển và sử dụng Thẩm phán.

Khi tiến hành khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán cần tuân theo các nguyên tắc sau:

1. Nguyên tắc công minh, công bằng trong khen thưởng, kỷ luật là thưởng phạt đúng người, đúng lỗi.

2. Nguyên tắc đề cao ý nghĩa giáo dục, cổ vũ trong khen thưởng, kỷ luật và kết hợp giữa giáo dục với kỷ luật, xử phạt.

3. Nguyên tắc kết hợp khen thưởng, kỷ luật về chính trị, tinh thần với khen thưởng hoặc kỷ luật bồi hoàn bằng vật chất.

Những nguyên tắc cơ bản trên đây có ý nghĩa định hướng cho công tác khen thưởng, kỷ luật đạt được mục tiêu, ý nghĩa sâu sắc. Để thực hiện đúng đắn công tác này còn đòi hỏi sự vận dụng một cách khoa học vào từng hoàn cảnh cụ thể, từng con người cụ thể. Công tác này phải được thực hiện bằng một cơ chế dân chủ. Những người làm công tác này phải có nhân tâm và đức độ cao, có tấm lòng trong sáng.

 

4. Các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán.

4.1. Sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán hoạt động.

Khi xét xử các vụ án, Toà án ra các phán quyết có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự, như: tài sản, danh dự của các đương sự, sự tự do và thậm chí cả tính mạng của người có hành vi vi phạm. Chính điều này đã dẫn đến nhiều nguy cơ đối với Thẩm phán (với tư cách là trung tâm của hoạt động xét xử) trở thành đối tượng của sự thù hằn, có nhiều nguy cơ bị đe doạ trả thù.

Mặt khác, trong quá trình xét xử, các đối tượng có hành vi vi phạm thường lợi dụng kẽ hở của pháp luật, bằng mọi thủ đoạn nhằm cản trở hoạt động xét xử bình thường, ép buộc Thẩm phán thay đổi tính chất vụ án, ra các bản án có lợi cho họ, vô hiệu hoá bản án, quyết định của Toà án. Do vậy, Thẩm phán có thể có nguy cơ phải đối mặt với những hành vi đe doạ, ép buộc...

Trên thực tế, để bảo vệ Thẩm phán cũng như những người nắm giữ công quyền khác, pháp luật của Việt Nam đã có những quy định tương đối cơ bản, xét xử nghiêm khắc bằng chế tài hình sự như quy định về tội chống người thi hành công vụ, một số tội trong lĩnh vực xâm phạm hoạt động tư pháp... Tuy nhiên, trước thực tế diễn biến của tội phạm ngày càng phức tạp, tính chất của tội phạm ngày càng nghiêm trọng, đã xuất hiện những hành vi phạm tội mà số người phạm tội lên đến hàng chục, liên quan đến nhiều đối tượng, diễn ra trong phạm vi rộng, đối tượng phạm tội nguy hiểm, táo bạo, liều lĩnh... Điển hình là những vụ án về ma tuý, buôn lậu, tham nhũng lớn...

Trong bối cảnh đó, việc áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn cho Thẩm phán về tính mạng, sức khoẻ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Những biện pháp này cần có tính phòng ngừa từ xa, đảm bảo cho Thẩm phán được bảo vệ an toàn, giúp họ thực hiện tốt hơn chức trách quan trọng của mình, yên tâm công tác, đấu tranh vì sự công bằng, công lý.

Như vậy, việc bảo vệ Thẩm phán xuất phát từ những yêu cầu sau đây:

- Do yêu cầu khách quan của việc thực hiện chức năng xét xử , do tính chất của nghề nghiệp Thẩm phán.

- Tạo điều kiện cần thiết để thẩm phán yên tâm thực thi nhiệm vụ.

- Trực tiếp hoặc gián tiếp tăng cường cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

 

4.2. Phạm vi áp dụng các biện pháp bảo vệ Thẩm phán.

Việc nghiên cứu các biện pháp bảo vệ Thẩm phán trong điều kiện kinh tế xã hội của chúng ta hiện nay cũng cần phải cân nhắc, đảm bảo tính thực thi và đồng bộ. Rõ ràng rằng, chúng ta chưa thể tính đến việc áp dụng những biện pháp bảo vệ quá tốn kém khi ngân sách còn hạn hẹp hoặc cũng chưa thể mở rộng phạm vi áp dụng. Điều đó có nghĩa là, trước mắt, không phải mọi Thẩm phán có thể được áp dụng biện pháp bảo vệ, không phải tất cả những người thực hiện công quyền, cũng như không phải tất cả những người có nghề nghiệp do Nhà nước giao mà có tính rủi ro cao là đương nhiên được áp dụng biện pháp bảo vệ.

Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, trước mắt, cần tính đến những biện pháp bảo vệ thực sự cấp bách, có hiệu quả, có tác dụng bảo vệ Thẩm phán hữu hiệu, có tính khả thi, chỉ nên nghiên cứu áp dụng trong một phạm vi tương đối hẹp. Khi có đủ điều kiện thì mở rộng đối tượng áp dụng cũng như quy mô áp dụng.

Như vậy, khi nghiên cứu phạm vi áp dụng cần lưu ý một số điểm như sau :

a) Thực tế của hoạt động bảo vệ pháp luật nói theo nghĩa rộng còn có nhiều chức danh khác thực hiện chức năng công quyền cũng chịu rủi ro không ít. Đó là cán bộ hải quan cửa khẩu, cơ quan thuế, cơ quan kiểm lâm, là điều tra viên, kiểm sát viên, thanh tra viên, nhân viên an ninh, Chấp hành viên các cơ quan thi hành án ... Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tế của điều kiện kinh tế xã hội cũng như đòi hỏi khách quan của nghề Thẩm phán, trước mắt việc bảo vệ chỉ đặt ra đối với Thẩm phán mà chưa đặt ra đối với những chức danh khác.

b) Các biện pháp bảo vệ Thẩm phán có thể chưa áp dụng hoặc không áp dụng đối với mọi Thẩm phán, mà chỉ áp dụng đối với những Thẩm phán sau đây như: Thẩm phán có chức vụ (Chánh án, Phó chánh án); Thẩm phán được phân công phụ trách hồ sơ những vụ án nghiêm trọng có khung hình phạt cao như chung thân, tử hình; Thẩm phán xét xử các vụ án về ma tuý, các loại tội phạm có tổ chức, tái phạm và các trường hợp đặ biệt khác...

c) Mục đích của các biện pháp bảo đảm là nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ và tài sản của Thẩm phán trách khỏi những rủi ro do tính chất nghề nghiệp mang lại.

d) Tuỳ thuộc vào từng đối tượng của việc bảo vệ, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền áp dụng những biện pháp bảo vệ cho phù hợp.

đ) Trong những trường hợp cần thiết, các biện pháp này cũng có thể được áp dụng đối với thân nhân của Thẩm phán, và những người có ảnh hưởng quyết định đến Thẩm phán.

e) Các quyết định về áp dụng biện pháp bảo vệ Thẩm phán do các cơ quan có thẩm quyền ban hành phải có hiệu lực bắt buộc đối với các tổ chức, cơ quan có liên quan .

 

Chương II

chế định thẩm phán trong pháp luật

hiện hành và những vấn đề đặt ra.

 

I. Lịch sử các quy định của pháp luật Việt Nam về Thẩm phán.

Từ năm 1945 đến nay, hệ thống tư pháp nước ta đã trải qua những bước phát triển khác nhau phù hợp với nhận thức, mức độ phát triển của xã hội và đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối với từng giai đoạn lịch sử.

Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành một loạt Sắc lệnh về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Những nguyên tắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trong các Sắc lệnh được ban hành ngay trong năm đầu Chính quyền nhân dân và sau đó đã được ghi nhận và nâng lên thành các quy tắc Hiến định của Hiến pháp 1946 về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp là những nguyên tắc cơ bản của một nền tư pháp dân chủ và tiến bộ của thời đại. Song song với các chức năng xét xử, Toà án còn thực hiện cả chức năng công tố và do vậy các Thẩm phán cũng được chia thành hai loại là Thẩm phán xét xử và Thẩm phán công tố đều do Chính phủ bổ nhiệm với những tiêu chuẩn và cách thức rất chặt chẽ cả về trình độ chuyên môn cũng như về đạo đức tư cách.

ở giai đoạn này, chức năng quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp bao quát một phạm vi rộng gồm toàn bộ các cơ quan, tổ chức tư pháp (Toà án, công tố, điều tra, luật sư, thi hành án, cảnh sát tư pháp và cả quản lý các trại giam) và gồm cả quản lý về nhân sự, về tổ chức và về hoạt động bảo đảm tính hệ thống và tính thống nhất nội tại của hệ thống tư pháp.

Năm 1958, Toà án nhân dân tối cao và Viện công tố Trung ương theo quyết định của Hội đồng Chính phủ được thành lập. Toà án và Viện công tố được tách thành hai ngạch khác nhau thuộc Hội đồng Chính phủ và sau đó, theo quy định của Hiến pháp 1959 thành hệ thống riêng. Năm 1960, do những lý do quan hệ trực tiếp đến cuộc đấu tranh chống nhân văn giai phẩm, Bộ Tư pháp giải thể, các chức năng trước đây của Bộ Tư pháp được chuyển giao cho các cơ quan liên quan như: Bộ Nội vụ quản lý các hoạt động, thi hành án và các trại giam, các tổ chức luật sư hầu như không còn hoạt động; trực tiếp quản lý các Toà án nhân dân địa phương do chính quyền địa phương phụ trách: Hội đồng nhân dân bầu Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm về kinh phí hoạt động và cơ sở vật chất của Toà án nhân dân địa phương, Toà án tối cao chỉ được giao nhiệm vụ hướng dẫn về tổ chức bộ máy làm việc và biên chế của các Toà án nhân dân địa phương (Điều 23 Luật Tổ chức Toà án nhân dân).

Do tình hình đòi hỏi, năm 1972 Uỷ ban pháp chế trực thuộc Hội đồng Chính phủ đã được thành lập nhằm bước đầu thống nhất trở lại công tác quản lý tư pháp của Chính phủ. Sau đó, đến năm 1981 Bộ Tư pháp được thành lập lại và được giao quyền quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức (Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân 1981).

Từ sau năm 1981, nhất là từ khi Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) khởi xướng đường lối đổi mới mọi mặt đời sống xã hội, cho tới trước khi ban hành Hiến pháp 1992, tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp đã được kiện toàn và phát triển một bước quan trọng. Nhiều văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được ban hành thể hiện mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với các hoạt động tư pháp trong thời kỳ đổi mới.

Từ năm 1987 đến nay, tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân đã được củng cố và phát triển lên một tầm mới. Một loạt văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của Toà án nói chung và Thẩm phán nói riêng đã được ban hành (Luật tổ chức Toà án nhân dân 1992, Luật sửa đổi và bổ sung Luật tổ chức Toà án nhân dân 1994, 1995; Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự 1993, Bộ luật tố tụng hình sự 1988, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Luật phá sản doanh nghiệp, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 1993, Bộ luật lao động 1994... thiết định Toà lao động, Toà hành chính và chức danh Thẩm phán lao động, Thẩm phán hành chính). Với việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó, Nhà nước ta trên thực tế đã và đang thực hiện một bước cải cách lớn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, thể hiện cụ thể là: Nhà nước đã xác lập lại chế độ nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ 5 năm thay thế cho chế độ Hội đồng nhân dân bầu Thẩm phán cùng cấp được duy trì từ năm 1960 đến năm 1992. Các Toà án nhân dân được giao thêm thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế và giải quyết phá sản doanh nghiệp, giải quyết các tranh chấp lao động và các cuộc đình công, giải quyết các khiếu kiện hành chính. Vì vậy, ở Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập thêm Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính, ở các Toà án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cũng có các Thẩm phán chuyên xét xử về kinh tế, về lao động, về hành chính. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế đã có sự điều chỉnh phù hợp theo hướng bảo đảm số Thẩm phán nhiều hơn Hội thẩm nhân dân (gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân); đối với Thẩm phán, Nhà nước đã có quy chế Thẩm phán với tiêu chuẩn cụ thể, với mức lương và trợ cấp, thể hiện sự đánh giá lao động xét xử là một loại hình lao động cần có sự ưu đãi của Nhà nước.

Cùng với việc kiện toàn tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp, Nhà nước ta cũng rất chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, từng bước tiêu chuẩn hoá tiêu chuẩn Thẩm phán. Đồng thời, cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng được Nhà nước quan tâm hơn.

Những đổi mới về mặt tổ chức nêu trên đã góp phần quan trọng làm cho hoạt động tư pháp đạt được những chuyển biến tích cực. Trong lĩnh vực hình sự, các cơ quan tư pháp đã có nhiều cố gắng giải quyết các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, phát hiện kịp thời, điều tra truy tố, xét xử được nhiều vụ án hoạt động lật đổ chính quyền, tuyên truyền chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và các tội xâm phạm an ninh khác; phá vỡ nhiều băng, ổ lưu manh chuyên nghiệp; giải quyết nhiều vụ án hình sự nghiêm trọng xâm phạm trật tự, an toàn xã hội; đưa ra xét xử nhiều vụ án hình sự và kinh tế, đặc biệt là các vụ án về tham nhũng và buôn lậu. Trong lĩnh vực dân sự, tuy số lượng các loại vụ án mỗi năm tăng nhiều hơn, nhưng việc xét xử đều đạt tỷ lệ cao hơn và số việc giải quyết được nhiều hơn. Công tác thi hành án đã có chuyển biến tích cực, sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương đã được tăng cường hơn.

Tính nhân dân, mở rộng dân chủ, bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động điều tra, truy tố và xét xử được thể hiện ngày một rõ nét hơn trong hoạt động của các cơ quan tư pháp. Việc xét xử của Toà án có Hội thẩm nhân dân tham gia; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam tham gia vào quá trình tuyển chọn Thẩm phán, bầu Hội thẩm nhân dân; Luật sư được quyền tham gia vào các giai đoạn tố tụng; bảo đảm sự giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử cùng cấp.

 

II. Những quy định của pháp luật hiện hành về Thẩm phán.

Những văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh về chế định Thẩm phán nằm ở nhiều văn bản khác nhau như: Hiến pháp 1992; Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức Toà án nhân dân 1992; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân 1995; Pháp lệnh về tổ chức Toà án quân sự 1993; Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993; các Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, lao động, kinh tế, hành chính.. và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các quy định này tập trung ở các vấn đề sau:

 

1. Về tiêu chuẩn Thẩm phán.

Điều 4 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân quy định: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán, được bầu hoặc cử làm Hội thẩm.

Tiêu chuẩn "có sức khoẻ bảo đảm cho hoàn thành nhiệm vụ được giao" được hiểu là ngoài thể lực cần thiết, còn bao gồm yếu tố ngoại hình đó là không dị tật, đị hình ảnh hưởng trực tiếp đến tư thế hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của người Thẩm phán (Thông tư liên tich số 05).

Trên cơ sở đó các Điều 16, 17, 18 của Pháp lệnh này cụ thể:

- Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ tám năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều này thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự trung ương.

- Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ sáu năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều này thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương.

- Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều này thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.

 

2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Thẩm phán.

Ngoài các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân, cán bộ và công chức theo pháp luật hiện hành thì Thẩm phán còn có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau (về quyền và nghĩa vụ chi tiết xem phụ lục):

 

2.1. Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán nói chung.

- Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án;

- Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

- Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán dựa vào cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình các tổ chức, cá nhân này có trách nhiệm tạo điều kiện để Thẩm phán làm nhiệm vụ.

Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ.

- Thẩm phán có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định pháp luật tố tụng.

- Thẩm phán hưởng lương, phụ cấp và các quyền lợi khác theo quy định của Nhà nước.

- Thẩm phán được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét xử.

- Thẩm phán được cấp trang phục, giấy chứng minh Thẩm phán để làm nhiệm vụ.

Mẫu trang phục, chế độ cấp phát và sử dụng trang phục, giấy chứng minh Thẩm phán do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.

- Khi tiến hành tố tụng, Thẩm phán trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.

- Thẩm phán phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi, nếu:

+ Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;

+ Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là điều tra viên, kiểm sát viên, thư ký phiên toà.

Thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã tham gia xét xử vụ án theo trình tự giám đốc tại Uỷ ban thẩm phán vẫn được tham gia xét xử lại vụ án tại Hội đồng thẩm phán.

- Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ sai phạm và hậu quả mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

- Thẩm phán phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

- Thẩm phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án.

- Thẩm phán phải giữ bí mật công tác theo quy định của pháp luật.

- Thẩm phán không được tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.

- Cơ tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được quy định tại Điều 623 và Điều 624 của Bộ luật dân sự.

Người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà cơ quan nhà nước hoặc cơ quan tiến hành tố tụng đã bồi thường cho người bị thiệt hại.

 

 

2.2. Quyền và nghĩa vụ của Chánh án, phó chánh án.

- Chánh án Toà án các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm.

- Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội.

Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.

Chánh án Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Tổ chức công tác xét xử của Toà án nhân dân tối cao;

- Chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Thẩm phán và Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án các cấp theo quy định của pháp luật tố tụng;

- Trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình;

- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh toà, Phó Chánh toà các Toà chuyên trách, Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng và các chức vụ khác trong Toà án nhân dân tối cao, trừ Phó Chánh án, Thẩm phán;

- Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm và cán bộ của các Toà án;

- Báo cáo công tác xét xử của các Toà án trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước;

- Chỉ đạo việc soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh do Toà án nhân dân tối cao trình Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

- Quy định bộ máy giúp việc của Toà án nhân dân tối cao và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

- Giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án;

- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án cấp dưới.

Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn say đây:

- Tổ chức công tác xét xử;

- Chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban Thẩm phán;

- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án cấp dưới theo quy định của pháp luật tố tụng;

- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh Toà, Phó Chánh toà các Toà chuyên trách và các chức vụ khác trong Toà án cấp mình, trừ Phó Chánh án, Thẩm phán;

- Tổ chức bồi dưỡng nhiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm và cán bộ Toà án cấp mình và cấp dưới;

- Báo cáo công tác của các Toà án địa phương trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và với Toà án nhân dân tối cao".

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án.

Chánh án Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Tổ chức công tác xét xử;

- Báo cáo công tác xét xử của Toà án trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và với Toà án cấp trên trực tiếp.

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án.

đ) Chánh án Toà án quân sự trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Tổ chức công tác xét xử;

- Chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban Thẩm phán Toà án quân sự trung ương.

- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án quân sự cấp dưới theo quy định của pháp luật tố tụng;

- Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội đồng quân nhân và cán bộ Toà án của các Toà án quân sự;

- Tổ chức việc kiểm tra công tác xét xử của các Toà án quân sự cấp dưới;

- Báo cáo công tác xét xử của các Toà án quân sự với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án.

Chánh án Toà án quân sự quân khu và tương đương có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

- Tổ chức công tác xét xử;

- Chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban Thẩm phán;

- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án quân sự cấp dưới theo quy định của pháp luật tố tụng;

- Tổ chức việc kiểm tra công tác xét xử của các Toà án quân sự cấp dưới;

- Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân và cán bộ Toà án quân sự cấp mình và Toà án quân sự cấp dưới;

- Báo cáo công tác xét xử của Toà án quân sự quân khu và tương đương với Toà án quân sự trung ương, Tư lệnh quân khu và tương đương.

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án.

Chánh án Toà án quân sự khu vực có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Tổ chức công tác xét xử;

- Báo cáo công tác xét xử của Toà án quân sự khu vực với Toà án quân sự cấp trên trực tiếp.

Phó Chánh án giúp Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án.

 

 

 

3. Đạo đức của Thẩm phán.

Hiện nay, các quy định về đạo đức của Thẩm phán được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật như: Hiến pháp 1992, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức TAND, Pháp lệnh tổ chức toà án quân sự, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, Pháp lệnh cán bộ, công chức... Theo các văn bản pháp luật này thì Thẩm phán phải đáp ứng các yêu cầu về đạo đức của cán bộ, công chức nói chung như: Là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ được giao; Tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tham gia sinh hoạt với cộng đồng dân cư nơi cư trú, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; Có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; không được quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; Có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong công tác; thực hiện nghiêm chỉnh nội quy của cơ quan, tổ chức; giữ gìn và bảo vệ của công, bảo vệ bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật; Không được chây lười trong công tác, trốn tránh trách nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, công vụ; không được gây bè phái, mất đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc; Không được cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết công việc... (Điều 2, 6, 15, 16 Pháp lệnh Cán bộ, công chức).

Ngoài ra, pháp luật còn có một số quy định riêng về đạo đức của Thẩm phán. Những người không đủ tiêu chuẩn "có phẩm chất, đạo đức tốt" thì không được bổ nhiệm làm Thẩm phán. Theo Điểm 3, Mục 1, Thông tư liên ngành số 05- TTLN ngày 15/10/1993, của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì những người không đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán là: Người đã bị kết án về tội cố ý, không phụ thuộc vào việc đã được xoá án hay chưa được xoá án; Người đã bị kết án về tội vô ý, nhưng chưa được xoá án; Người có hành vi vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức gây ảnh hưởng xấu hoặc mất uy tín trong quần chúng nhân dân; Người có người thân thích ruột thịt như cha mẹ, vợ chồng, con cùng sống chung trong gia đình mà họ có những việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có hệ thống.

 

 

 

4. Quản lý Thẩm phán.

4.1. Về thẩm quyền quản lý Thẩm phán.

Quản lý Thẩm phán là một vấn đề phức tạp trong pháp luật Việt Nam, do xuất phát từ tính đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán nên vấn đề quản lý Thẩm pháp cũng có những đặc thù khác so với công tác quản lý cán bộ, công chức khác.

- Về chuyên môn, nghiệp vụ: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Toà án. Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự quân khu bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật taị Toà án cấp mình và các Toà án cấp dưới (Điều 18, 29 Luật tổ chức Toà án nhân dân 1992, Điều 23 Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự 1993).

- Quản lý về mặt tổ chức:

Điểm 8 Điều 103 Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch nước có thẩm quyền "Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án, Thẩm phán TANDTC, Phó viện trưởng Viện KSNDTC, Kiểm sát viên VKSNDTC". Tuy nhiên, Luật tổ chức TAND và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND lại quy định Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm cả Thẩm phán, Chánh án TAND cấp tỉnh và cấp huyện.

Bên cạnh đó, Điều 16 Luật tổ chức TAND 1992 và Điều 16 Pháp lệnh Tổ chức TAQS còn quy định: Việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án TANDTC.Việc quản lý các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ quốc phòng và Chánh án TANDTC. Tiếp đó, theo Quy chế số 91 - TP/TA ngày 19-01-1994 của Bộ Tư pháp và TANDTC về việc quản lý về mặt tổ chức các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì việc quản lý các Toà án cấp huyện được phân cấp, uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND cấp tỉnh.

Như vậy, việc quản lý Thẩm phán được chia xẻ cho nhiều cơ quan quản lý gồm: Chủ tịch nước, Bộ tư pháp và Sở Tư pháp, Bộ quốc phòng, TANDTC và Toà án nhân dân cấp tỉnh.

4.2. Về bổ nhiệm Thẩm phán.

Để giúp Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân, ở mỗi cấp đều có Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì: ở Trung ương thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực; ở cấp tỉnh thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thành phần, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp được quy định tại Điều 21, 22, 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân và Thông tư số 05/TTLN Liên ngành Toà án nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân.

Thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự quân khu và tương đương gồm có: đại diện cuả Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Uỷ ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành trung ương hội luật gia Việt Nam. Thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện có: Giám đốc sở Tư pháp (chủ tịch) và các đại diện của tỉnh: Hội đồng nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân tỉnh, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc tỉnh, Ban chấp hành Hội luật gia tỉnh. Việc quy định thành phần như vậy thể hiện tính dân chủ, khách quan của các cơ quan, tổ chức xã hội, đoàn thể và tầng lớp nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua người đại diện trong việc tuyển chọn người xứng đáng giữ cán cân công lý. Mặt khác, quy định này cũng xác định vai trò và trách nhiệm của các cơ quan tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cụ thể là Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, ủy ban Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam đối với Thẩm phán cấp tỉnh; Tòa án nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội luật gia tỉnh, ủy ban mặt trận Tổ quốc tỉnh đối với Thẩm phán cấp huyện.

Có thể tóm tắt quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của pháp luật hiện hành như sau:

- Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, Ban cán sự Đảng Sở Tư pháp, Tòa án nhân dân tỉnh cùng Huyện ủy, thống nhất danh sách, hồ sơ đề nghị trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện. Đối với Thẩm phán cấp tỉnh Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao cùng Tỉnh ủy, Thành ủy thống nhất danh sách hồ sơ trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh xét chọn.

- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh, trên cơ sở tiêu chuẩn của Thẩm phán theo quy định của pháp luật, xét chọn những người có đủ năng lực, trình độ chuyên môn đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố thuộc Trung ương, Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực.

- Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện xét chọn, đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.

- Chủ tịch nước xem xét đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, trên cơ sở đó ra quyết định bổ nhiệm.

 

4.3. Về việc miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán.

Việc miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán do Chủ tịch nước quyết định và cũng phải qua một trình tự, thủ tục giống như trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán.

Theo quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì Chủ tịch nước ra quyết định miễn nhiệm, cách chức đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, quận, Tòa án quân sự cấp quân khu, Toà án quân sự khu vực theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án tòa án nhân dân tối cao.

Tuy nhiên, trước khi đề nghị Chủ tịch nước miễn nhiệm chức vụ Thẩm phán đối với một người nào đó cần xác định rõ lý do miễn nhiệm (do yêu cầu quy hoạch cán bộ ở địa phương để chuyển sang cơ quan khác hoặc do sức khỏe, hay trình độ non kém không thể đảm nhiệm được nhiệm vụ...) và Thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm, có ý kiến của cấp ủy Đảng địa phương nơi người đó công tác. Đối với việc cách chức Thẩm phán ngoài việc phải tuân theo các nguyên tắc nêu trên, hồ sơ đối với người bị cách chức phải có bản tự kiểm điểm về những hành vi vi phạm kỷ luật, biên bản của Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi người Thẩm phán công tác. Một yếu tố bắt buộc đối với việc cách chức chức vụ Thẩm phán là phải được Hội đồng tuyển chọn thông qua và đề nghị.

 

 

4.4. Về việc thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán.

Theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân này đến Tòa án nhân dân khác cùng cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện sau khi thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Quy định này đã xác định rõ thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng như của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán. Trên thực tế vấn đề này được thực hiện một cách chặt chẽ, cụ thể như sau:

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân tỉnh này đến Tòa án nhân dân tỉnh khác trước khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán hiện đang công tác và ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở các ý kiến đó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến Tòa án nhân dân huyện khác trong cùng một tỉnh thì cần phải có ý kiến của cấp ủy đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác, trước khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định. Trên cơ sở các ý kiến đó, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh thống nhất với Chánh án TAND tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến tòa án nhân dân huyện khác (không cùng một tỉnh) thì trước khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định thì cần phải có ý kiến thống nhất của cấp ủy Đảng, Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND tỉnh nơi Thẩm phán đang công tác và nơi Thẩm phán sẽ chuyển đến.

Quy định như trên bảo đảm sự chặt chẽ trong công tác quản lý cán bộ, tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp phải chờ đợi ý kiến thống nhất của các cơ quan liên quan. Điều này đã gây rất nhiều phiền hà cho các đương sự.

 

4.5. Về đào tạo Thẩm phán.

 

Theo pháp luật hiện hành thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp trao đổi ý kiến với Chánh án TANDTC quyết định quy hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ Thẩm phán TAND địa phương, Bộ Tư pháp trao đổi ý kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chánh án TANDTC quyết định kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ Thẩm phán TAQS quân khu và tương đương, TAQS khu vực (Điều 4, Điều 8 Quy chế phối hợp... Ban hành theo Nghị quyết số 46 - NQ/UBTVQH9 ngày 29-9-1994).

Trên thực tế công tác đào tạo Thẩm phán và đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ... do Bộ Tư pháp đảm nhận mà trực tiếp là Trường đào tạo các chức danh tư pháp thuộc Bộ Tư pháp.

 

4.6. Về khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán.

Pháp luật hiện hành chưa có một quy định cụ thể nào về các hình thức, trình tự, thủ tục khen thưởng và kỷ luật đối với Thẩm phán. Do vậy hình thức, trình tự, thủ tục khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán được thực hiện theo quy định chung của pháp luật về cán bộ và công chức.

Riêng hình thức kỷ luật cách chức Thẩm phán được thực hiện theo một quy trình khác so với việc cách chức các công chức khác. Quy trình này đựơc trình bày cụ thể tại điểm c nêu trên.

 

4.7. Về chế độ chính sách đối với Thẩm phán.

Chế độ chính sách đối với Thẩm phán theo quy định của pháp luật hiện hành gồm có: chế độ tiền lương, phụ cấp, trang phục. Chế độ chính sách này do Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định.

- Về chế độ tiền lương pháp luật quy định: Đối với Thẩm phán cấp huyện có 10 bậc lương (bậc một là 2,16; bậc mười là 4,25). Đối với Thẩm phán cấp tỉnh có 9 (bậc một là3,26 ; bậc bẩy là 5,70). Đối với Thẩm phán TANDTC có 7 (bậc một 5,02 là ; bậc bẩy là 7,10).

- Về chế độ phụ cấp: Ngoài các chế độ phục cấp theo quy định chung của cán bộ, công chức (như phụ cấp khu vực, phụ cấp trách nhiệm...) thì Thẩm phán còn được hưởng mức bồi dưỡng là 120.000đ/tháng/người (Quyết định số 06/2001/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/01/2001 quy định về chế độ bồi dưỡng đối với một số chức danh tư pháp).

- Về trang phục: Thẩm phán Toà án các cấp được trang phục gồm có: quần áo thu đông, quần áo xuân hè; aó sơ mi dài tay; Cravát; aó đi mưa; giầy da bít tất, dép có quai hậu; cặp đựng tài liệu. Hình thức, mầu sắt trang phục của Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định. Trang phục đối với Toà án quân sự các cấp áp dụng theo quy định về trang phục đối với Quân đội nhân dân Viêt Nam. Trang phục xét xử của Thẩm phán Toà án Quân sự các cấp theo quy định về lễ phục đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trang phục được cấp để sử dụng theo niên hạn được quy định như sau: quần áo thu đông: ba năm một bộ; quần áo xuân hè: hai năm một bộ, lần đầu được cấp hai bộ; aó sơ mi dài tay: hai năm một chiếc; cravát: năm năm hai chiếc; giầy da: hai năm một đôi; bít tất: một năm một đôi; áo đi mưa: hai năm một chiếc; dép có quai hậu: một năm một đôi; cặp đựng hồ sơ: năm năm một chiếc.

 

5. Các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán.

Pháp luật hiện hành chưa có một quy định cụ thể nào về các biện pháp bảo đảm đối với Thẩm phán.

 

III. Thực trạng đội ngũ Thẩm phán ở Việt Nam.

Theo Báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, thì tính đến ngày 15 tháng 10 năm 2001 cả nước có 3479 Thẩm phán trong đó có: 97 Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự trung ương; 926 Thẩm phán cấp tỉnh (trong đó có 61 Chánh án, 102 Phó chánh án); 2339 Thẩm phán cấp huyện ( trong đó 594 Chánh án và 406 Phó chánh án); 67 Thẩm pháp TAQS cấp quân khu và 50 Thẩm phán TAQS cấp khu vực.

Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đã thực hiện khá nghiêm túc các quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, đặc biệt là các quy định về tiêu chuẩn Thẩm phán. Các TAND cấp tỉnh và các sở Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ trong việc chuẩn bị nhân sự, bảo đảm sự lãnh đạo của cấp Uỷ Đảng ở địa phương. Đối với các trường hợp phức tạp, bị tố cáo không đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán hoặc lý lịch cá nhân có vấn đề đều được Bộ Tư pháp phối hợp với Toà án nhân dân tối cao chỉ đạo kiểm tra, xác minh và có kết luận rõ ràng (xem phụ lục số....). Do đó, số người được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán đều bảo đảm về tiêu chuẩn chuyên môn và phẩm chất chính trị, đạo đức.

Liên tục từ năm 2000 cho đến nay, việc rà soát, phân loại đánh giá chất lượng Thẩm phán luôn gắn với yêu cầu của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khoá VIII). Trong năm 2000, 2001 nhiều lượt Thẩm phán, Thư ký toà án được cử đi học các lớp lý luận, chính trị, các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đến nay, trình độ và năng lực của Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương có trình độ đại học luật hoặc tương đương chiếm 86%. Trong số Thư ký Toà án cấp huyện thì trên 90% có trình độ đại học luật, trong đó có hơn 400 người đã và đang được đào tạo tại Trường Đào tạo các chức danh tư pháp.

Nhìn chung trình độ chuyên môn của Thẩm phán ngày càng được nâng lên về cơ bản thì không còn tình trạng "nợ" tiêu chuẩn chuyên môn, bằng cấp, trình độ chuyên môn, năng lực xét xử được nâng lên một bước cơ bản so với nhiệm kỳ trước, 92% số Thẩm phánToà án nhân dân địa phương đã được tái bổ nhiệm.

Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp luôn thống nhất quan điểm trong tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, kiên quyết không đề nghị tái bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm mới không đảm bảo về yêu cầu nghiệp vụ cũng như tư cách, phẩm chất đạo đức.

 

IV. Những vướng mắc, hạn chế trong các quy định của pháp luật về Thẩm phán và hoạt động thực tế của Thẩm phán .

 

1. Những vướng mắc hạn chế của hệ thống pháp luật.

1.1. Các quy định về Thẩm phán còn nằm rải rái trong nhiều văn bản pháp luật với hiệu lực pháp lý khác nhau, lĩnh vực điều chỉnh khác nhau... Đây là điều bất lợi cho việc xác định địa vị pháp lý của Thẩm phán cũng như trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán.

 

Cụ thể là các quy định về Thẩm phán được quy định tại: Hiến pháp 1992; Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật tổ chức Toà án nhân dân 1992; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân 1995; Pháp lệnh về tổ chức Toà án quân sự 1993; Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993; các Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, lao động, kinh tế, hành chính; Thông tư liên ngành số 05 - TTLN (15/10/1993) của TANDTC - BTP hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND; Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án TANDTC, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự về mặt tổ chức (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 46 - NQ/UBTVQH9 của UBTVQH ngày 29-9-1993); Quy chế số 91 - TP/TA ngày 19 -1- 1994 của Bộ Tư pháp, TANDTC phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý về mặt tổ chức Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Nghị định số 47/CP (3.5.1997) của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; Nghị định số 38 - CP (4-6-1993) của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp; Quyết định số 06/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/01/2001 quy định về chế độ bồi dưỡng đối với một số chức danh tư pháp; Quyết định số 141- QĐ/QLTA/THA và 142- QĐ/QLTA (ngày 21-3-1994) của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về phân cấp quản lý Toà án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh; Thông tư số 54/1998/TT-TCCP ngày 4.6.1998 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, Thông tư số 38/TT-BTC ngày 30.3.1998 của Bộ Tài chính...

 

1.2. So sánh pháp luật thực định với các vấn đề lý luận đặt ra, có nhiều vấn đề thuộc về chế định Thẩm phán chưa được pháp luật Việt Nam quy định hoặc quy định không cụ thể, không rõ ràng và khó thực hiện. Cụ thể là:

- Chúng ta chưa có một quy định nào về các biện pháp bảo vệ đối với Thẩm phán khi tham gia xét xử những vụ án lớn, những vụ án phức tạp...

- Chưa có những văn bản quy định cụ thể về những việc Thẩm phán không được làm, những tiêu chuẩn đạo đức, xã hội và hành vi giao tiếp, ứng xử cần thiết đối với mỗi Thẩm phán... Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cũng chưa có cơ sở đánh giá từng trường hợp cụ thể trong quá trình khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán. Thậm chí có những trường hợp Thẩm phán vi phạm pháp luật hoặc vi phạm đạo đức nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến uy tín của Toà án nhưng chưa có cơ sở pháp lý để xử lý.

- Mặc dù điều 624 Bộ luật dân sự và Nghị định số 47/CP của Chính phủ ngày 3.5.1997, Thông tư số 54/1998/TT-TCCP ngày 4.6..1998 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, Thông tư số 38/TT-BTC ngày 30.3.1998 của Bộ Tài chính đã quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, nhưng những quy định này còn rất chung chung, khó thực hiện. Chẳng hạn như: các văn bản này chưa có quy định về việc xác định cơ quan tiến hành tố tụng nào (Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án) có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; chưa có quy định cụ thể về trường hợp được bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần; chưa quy định cụ thể về cách thức xác định thiệt hại và mức bồi thường; chưa thiết lập được thủ tục thoả thuận dân sự hiệu quả trong quá trình giải quyết việc bồi thường giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người thiệt hại...

- Pháp luật chúng ta chưa có những quy định cụ thể về trang phục, giao tiếp hàng ngày của Thẩm phán. Ví dụ: Trang phục của những người làm công tác xét xử như thế nào để một mặt đảm bảo tính thống nhất; mặt khác làm tăng tính uy nghiêm ở nơi pháp đình là vấn đề đang gây tranh luận và đang có nhiều ý kiến. Theo hướng dẫn tạm thời, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mặc com lê (mùa đông) hoặc áo sơ mi trắng (mùa hè). Thế nhưng hướng dẫn đó đang gặp phải sự phản đối của nhiều người với lý do là trang phục đó không đặc trưng cho hoạt động nơi pháp đình nên làm giảm tính uy nghiêm của nó.

- Cách giao tiếp, ứng xử, xưng hô tại phiên toà thế nào cho phù hợp cũng là một vấn đề đáng bàn. Thực tiễn tố tụng cho thấy đang có rất nhiều cách xưng hô khác nhau giữa Thẩm phán (hay Hội thẩm) với đại diện Viện kiểm sát, với những người tham gia tố tụng. Những cách xưng hô đó vừa trái với bản chất quan hệ tố tụng giữa các chủ thể (Toà án thay mặt Nhà nước và công dân), vừa không thể hiện được tính uy nghiêm của phiên toà. Hiện nay có một số Thẩm phán xưng hô theo địa vị pháp lý của những người tiến hành và tham gia tố tụng (bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, công dân...). Theo chúng tôi cách xưng hô như vậy là hoàn toàn chính xác. Nhưng vẫn có nhiều ý kiến phản đối cách xưng hô đó, cho rằng nó trái với truyền thống, phong tục phương đông v.v....

 

 

1.3. Các quy định của pháp luật về Thẩm phán vẫn còn nhiều chồng chéo hoặc không phù hợp với thực tế. Chẳng hạn:

- Các quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân về thẩm quyền bổ nhiệm, cách chức Thẩm phán của Chủ tịch nước vừa trái với Hiến pháp 1992 vừa không phù hợp với tình hình thực tế. Cụ thể là Điều 38 Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định "Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án quân sự do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức". Trong khi đó, khoản 8 Điều 103 Hiến pháp 1992 chỉ quy định, Chủ tịch nước có thẩm quyền "Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao".

 

 

- Các quy định về thẩm quyền quản lý Toà án nhân dân địa phương tại Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự không phù hợp với tình hình thực tiễn do pháp luật không xác định được thế nào là cơ chế "phối hợp" giữa Bộ Tư pháp với Toà án nhân dân tối cao và Bộ quốc phòng;

- Theo quy định hiện nay, thủ tục thuyên chuyển thẩm phán rất phức tạp, qua nhiều công đoạn trung gian ( ví dụ đối với Thẩm phán cấp huyện: cấp ủy, Chánh án tỉnh, Chánh án huyện, Sở Tư pháp - của cả nơi đi và nơi đến và ý kiến thống nhất của TAND tối cao và cuối cùng là của Bộ trưởng Bộ Tư pháp);

- Các quy định về hệ thống thang, bảng lương (đặc biệt là lương của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện) không cân đối, ngay trong hệ thống thang, bảng lương (lương của Thẩm phán cấp huyện quá thấp so với Thẩm phán cấp tỉnh và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao), mặt khác lại không phù hợp với nhiệm vụ nặng nề của Thẩm phán so với hệ thống thang, bảng lương của các công chức khác và không phù hợp với sự biến động của tình hình kinh tế xã hội....

Ví dụ: Đối với người được bổ nhiệm làm Thẩm phán cấp huyện 23 tuổi + 4 năm = 27 tuổi được xếp vào bậc lương khởi điểm là 2,16; ba năm sau được tăng thêm một bậc lương thì phải (3x9) 27 năm người đó mới được hưởng bậc lương tối đa của Thẩm phán cấp huyện là 4,25. Tổng công 31 năm công tác và 54 tuổi.

Trong khi đó, người được bổ nhiệm làm thẩm phán cấp tỉnh (23 +6 =29 tuổi) thì được xếp ngay vào bậc khởi điểm 3,62. Cứ 3 năm lên một bậc thì (3x8) = 24 năm người đó được hưởng bậc lương tối đa là 5,70, lúc đó là 53 tuổi, thời gian công tác là 30 năm.

Đối với người được bổ nhiệm làm Thẩm phán TANDTC (23 +8 = 31 tuổi) thì được xếp ngay vào bậc 5,02. Cứ 3 năm/1bậc lương thì sau (3x6) = 18 năm người đó được hưởng hệ số lương tối đa 7,10; lúc đó 49 tuổi và thời gian công tác là 26 năm.

Qua ví dụ này cho thấy về lý thuyết giữa thẩm phán cấp huyện, tỉnh và tối cao chỉ hơn kém nhau về năm công tác là 2 năm. Nhưng về chế độ lương thì lại bất hợp lý ngay giữa các cấp thẩm phán (chưa nói so với các ngạch công chức khác). Chẳng hạn, bậc khởi điểm của Thẩm phán cấp tỉnh là 3,62 nằm ở khoảng giữa của bậc 7 và 8 (3,54 và 3,77) của hệ số lương Thẩm phán cấp huyện. Như vậy, phải mất 21 năm công tác thì Thẩm phán cấp huyện mới có lương tương đương lương khởi điểm của Thẩm phán cấp tỉnh; phải mất 18 năm công tác thì Thẩm phán tỉnh mới có lương tương đương lương khởi điểm của Thẩm phán TANDTC.

 

2. Những vướng mắc, hạn chế trong việc tổ chức thực hiện.

Những bất cập trong hệ thống pháp luật về chế định Thẩm phán đã tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới công tác quản lý Thẩm phán, hiệu quả, chất lượng của hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, cũng có nhiều nguyên nhân, hạn chế từ công tác tổ chức triển khai các quy định của pháp luật, mà tập chung ở các vấn đề chủ yếu sau:

 

2.1. Về đội ngũ Thẩm phán.

Mặc dù số lượng và chất lượng Thẩm phán được nâng lên một bước cơ bản so với nhiệm kỳ trước, nhưng so với yêu cầu của thực tế thì thực trạng đội ngũ Thẩm phán hiện nay vẫn còn thiếu về số lượng, có nhiền hạn chế về chất lượng.

- Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, so với biên chế được phân bổ thì cả nước còn thiếu 589 Thẩm phán. Trong đó, 61 tỉnh, thành phố còn thiếu 130 Thẩm phán, tại 621 Toà án cấp huyện còn thiếu 436 Thẩm phán, đặc biệt có 7 Toà án cấp huyện chỉ có 1 Thẩm phán (xem phụ lục số.....), Thẩm phán toà án quân sự cấp quân khu và khu vực còn thiếu 23 Thẩm phán. Việc thiếu Thẩm phán mang tính cục bộ ở một số địa phương như các đơn vị hành chính mới chia tách, một số địa phương vùng sâu, vùng xa, hải đảo... Tình trạng thiếu nhiều Thẩm phán cấp huyện ở những địa phương này có nguyên nhân là do điều kiện địa lý xa xôi, khó khăn nhiều mặt. Mặt khác, chế độ chính sách, chế độ tuyển dụng, điều chuyển, đãi ngộ cán bộ từ miền xuôi lên hỗ trợ cho các vùng này chưa thoả đáng. Một số sinh viên tốt nghiệp đại học luật không tha thiết xin vào làm việc tại các Toà án, nhất là các đại phương vùng sâu, vùng xa.

Trong tương lai, nếu tăng thẩm quyền cho Toà án nhân dân cấp huyện được phép xử các tội phạm trong Bộ luật hình sự có khung hình phạt cao nhất đến 15 năm tù thì tình trạng thiếu Thẩm phán (đặc biệt là Thẩm phán cấp huyện) càng trở bức xúc.

- Về chất lượng Thẩm phán cũng còn nhiều điều đáng bàn. Bên cạnh những Thẩm phán có trình độ chuyên môn tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sạch vẫn còn có những Thẩm phán yếu về chuyên môn nghiệp vụ, có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực... Cũng theo các Báo cáo của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao thì năm 1999 có 55 cán bộ Toà án bị kỷ luật, năm 2000 có 40 người, năm 2001 có 38 người. Trong đó có nhiều Thẩm phán giữ cương vị là Chánh án, phó chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (xem chi tiết tại phụ lục số....)...

Nguyên nhân của các vi phạm trên, một mặt do bản thân Thẩm phán thiếu ý thức rèn luyện đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, năng lực chuyên môn, nhưng mặt khác, cũng do sự thiếu quan tâm sâu sát của lãnh đạo và cấp uỷ, đoàn thể nơi Thẩm phán công tác, việc kiểm tra, giám sát còn bị buông lỏng, việc phân công công tác, công việc cho Thẩm phán chưa hợp lý và quản lý chưa thường xuyên. Bộ Tư pháp cũng chưa định ra được các quy chế cụ thể làm cơ sở cho việc phòng ngừa, ngăn chặn sai sót, vi phạm của Thẩm phán.

Ngoài ra chất lượng Thẩm phán hiện nay không đều: Nhiều người là Thẩm phán lâu năm nhưng lại chưa qua đào tạo cơ bản, số mới được bổ nhiệm tuy đã được đào tạo cơ bản về luật nhưng lại chưa được đào tạo về nghề Thẩm phán và ít có kinh nghiệm.

 

2.2. Về chất lượng xét xử.

Nhìn chung chất lượng xét xử trong thời gian qua đã được nâng lên một bước cơ bản. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều vụ việc mà dư luận và các phương tiện thông tin đại chúng phán ánh là chưa khách quan, chưa xét xử đúng pháp luật, hoặc phải qua xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nhiều lần gây phiền hà cho nhân dân, làm giảm uy tín của ngành Toà án. Qua phân tính và tổng hợp các số liệu trong các Báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và Bộ tư pháp cho thấy tỷ lệ sửa án, huỷ án án cũng còn ở mức độ đáng lưu ý, đặc biệt là Toà án nhân dân cấp huyện. Tổng hợp kết quả xét xử 3 năm (1997, 1998, 1999) cho thấy tỷ lệ huỷ án của Toà án cấp tỉnh là 2,66 %, cấp huyện là 6,33%. Trong 6 tháng đầu năm 2001, các bản án sơ thẩm hình sự của Toà án cấp huyện có kháng cáo, kháng nghị được cải sửa là 28,7%, huỷ là 6,9%, tuyên không có phạm tội là 0,18%; của Toà án cấp tỉnh cải sửa là 21,2%, huỷ là 1,32%, tuyên không phạm tội là 0,23%. Cũng trong 6 tháng đầu năm 2001, tỷ lệ án dân sự sơ thẩm của Toà án cấp huyện khi xét xử phúc thẩm bị sửa là 32,81%, bị huỷ là 12, 39%; của Toà án cấp tỉnh bị sửa là 30,5%, bị huỷ là 12,8%. Trong đó nhiều địa phương có những vụ án dân sự để kéo dài, trong đó không ít vụ đã được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm nhiều lần, thậm chí nhiều năm nhưng vẫn chưa rứt điểm. Một số vụ án, cùng là toà sơ thẩm hoặc phúc thẩm xét xử đi xét xử lại nhưng kết quả xét xử lần sau trái ngược hoàn toàn với lần trước. Điều này gây nên sự bất bình trong nhân dân, làm giảm xút nghiêm trọng lòng tin của nhân dân đối với toà án.

Tỷ lệ án oan, sai tuy không nhiều (từ năm 1998 đến tháng 6/2001 có 51 vụ) nhưng đây cũng là vấn đề còn nhức nhối. Các vụ án oan sai như vụ Nguyễn Duy Minh ở Lâm Đồng (năm 1997), vụ Bùi Minh Hải ở Đồng Nai (năm 1999), vụ Dương Thị Nga ở Hà Nội (năm 20000) vụ Chu Quang Hưng ở thành phố Hồ Chí Minh (năm 2000)... là những vụ án gây nhiều bất bình trong công luận đối với cơ quan tư pháp nói chung và ngành toà án nói riêng.

 

2.3. Về vấn đề bổ nhiệm Thẩm phán: Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Thực tế cho thấy có một số vấn đề chưa hợp lý là:

- Thẩm quyền bổ nhiệm: Hiện nay, tất cả các Thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiện (trừ Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu). Một mặt, do số lượng Thẩm phán cần bổ nhiệm quá nhiều (hiện nay có 3479 Thẩm phán), mặt khác, Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia với rất nhiều việc quan trọng, nên việc bổ nhiệm như hiện nay khó tránh khỏi tính hình thức.

- Về Thành phần Hội đồng tuyển chọn: Với thành phần Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán quy định như hiện nay chưa phù hợp. Trong Hội đồng tuyển chọn có Hội luật gia là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, nhưng công tác của Hội luật gia lại ít liên quan đến công tác Tòa án. Trong khi đó, các Thẩm phán có kinh nghiệm (là người hơn ai hết hiểu rõ những yêu cầu về tiêu chuẩn cần phải có của người làm công tác xét xử), cấp Uỷ Đảng của địa phương (người có vai trò rất lớn trong việc lãnh đạo công tác xét xử ở địa phương nói chung) lại không có trong thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.

- Do thủ tục xem xét, trình duyệt hoặc xử lý các vướng mắc về mặt thủ tục đối với các hồ sơ tuyển chọn Thẩm phán còn rườm rà, nên việc xử lý trên thực tế còn chậm, dẫn đến việc bổ nhiệm đối với một số trường hợp còn mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, việc quy hoặch, tạo nguồn Thẩm phán kế cận và việc giữ gìn đoàn kết nội bộ ở một số toà án địa phương làm chưa tốt. Một số Toà án cấp tỉnh và Sở Tư pháp làm chưa tốt Quy chế phối hợp nên việc chuẩn bị nhân sự (Thẩm phán) còn bị động, lúng túng hoặc để xảy ra tình trạng tố cáo, khiếu nại phức tạp gây ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.

 

2.4. Về thuyên chuyển, điều động Thẩm phán.

Theo quy định hiện nay, để điều chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân nơi này đến Tòa án nhân dân nơi khác ít nhất cần 10 con dấu đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện (cấp ủy, Chánh án tỉnh, Chánh án huyện, Sở Tư pháp - của cả nơi đi và nơi đến và ý kiến thống nhất của TAND tối cao và cuối cùng là của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); cần phải có 6 con dấu đối với Thẩm phán TAND cấp tỉnh. Trên thực tế người được thuyên chuyển điều động gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như: lương thấp, phải xa gia đình bị san sẻ về thu nhập, nếu chuyển cả gia đình cùng đến nơi công tác mới thì vấn đề về nhà ở, công việc làm, việc học tập của vợ chồng và các con như thế nào?...

 

 

 

Chương III

Các đề xuất nhằm hoàn thiện chế định

Thẩm phán và cơ chế bảo đảm thực hiện

 

I. Một số giải pháp trước mắt nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về chế định Thẩm phán.

1. Về công tác xây dựng pháp luật.

1.1. Trước mắt cần xây dựng Quy chế đạo đức Thẩm phán trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, ban hành. Trong Quy chế này cần quy định rõ về danh dự Thẩm phán, tiêu chuẩn đạo đức của người Thẩm phán. Tiêu chuẩn đó cần được quy định rõ ràng, phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của nghề thẩm phán trong xã hội và phải được công bố công khai để nhân dân tham gia giám sát, để tự mỗi một cán bộ cân nhắc và quyết định trước khi bước vào nghề thẩm phán.

 

1.2. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn về thủ tục, trình tự quy trình, hồ sơ bổ nhiệm thẩm phán theo hướng đơn giản, thuận tiện mà vẫn chặt chẽ đảm bảo tính nhanh nhạy của công tác tổ chức cán bộ và đáp ứng được yêu cầu xét xử.

1.3. Khẩn trương ban hành Quy chế hoạt động của các Toà án địa phương nhằm tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán và cơ quan quản lý trong việc theo dõi, giám sát, kiểm tra và giáo dục Thẩm phán. Có chế độ bắt buộc tự học tập để nâng cao trình độ, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của Thẩm phán.

 

1.4. Nghiên cứu ban hành các văn bản quy định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng, từng cá nhân (trong đó có Thẩm phán) trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Trong đó, xác định rõ:

ã Xác định rõ cơ quan có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường theo các giai đoạn tố tụng:

- Đối với trường hợp bị tạm giam, tạm giữ oan sai, cơ quan nào ra lệnh bắt, tạm giam, tạm giữ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu bắt trong trường hợp có phê chuẩn của Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát có trách nhiệm bồi thường.

- Toà án cấp sơ thẩm tuyên vô tội mà bản án đã có hiệu lực pháp luật thì Viện kiểm sát ra quyết định truy tố có trách nhiệm bồi thường.

- Toà án cấp sơ thẩm tuyên có tội, nhưng toà án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm tuyên bị cáo không có tội, thì Toà án đã xét xử trước đó có trách nhiệm bồi thường.

ã Xác định rõ các trường hợp được bồi thường, như:

- Các trường hợp bị bắt, tạm giam, tạm giữ không có căn cứ pháp luật hoặc trên thực tế không phạm tội;

- Các trường hợp đã bị thi hành án phạt tù hoặc tử hình, nhưng sau đó bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án tuyên vô tội;

- Các trường hợp đã bị thi hành án phạt tù, nhưng sau đó có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án thời hiệu tù giam ít hơn thời gian bị cáo đã thụ hình;

- Các trường hợp bị tạm giam, tạm giữ, tù quá thời hạn so với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật;

- Các trường hợp được xác định là bị oan, sai mà đã bị thi hành hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản;

- Các trường hợp áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc khẩn cấp tạm thời trái pháp luật như tịch thu tài sản, kê biên, niêm phong, thu giữ tài sản...

ã Về bồi thường các thiệt hại về vật chất: quy định cụ thể căn cứ, tiêu chí xác định mức bồi thường đối với thiệt hại về tài sản, thu nhập thực tế bị mất...

ã Về bồi thường các thiệt hại về tinh thần: cần quy định trình tự giải quyết bồi thường cụ thể, đơn giản và hiệu quả, bảo đảm công khai và bình đẳng theo nguyên tắc: cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường (bên bồi thường) chỉ ra quyết định bồi thường sau khi bên bồi thường và bên được bồi thường thống nhất ý kiến về mức bồi thường.

ã Thủ tục tố tụng đặc biệt: cần quy định thủ tục rút gon và không nhất thiết phải mở phiên toà khi Toà án giải quyết các yêu cầu bồi thường do hành vi gây thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.

ã Nguồn kinh phí bồi thường thiệt hại: kinh phí bồi thường thiệt hại đã được quy định sử dụng từ ngân sách Nhà nước, tuy nhiên cần có cơ chế phù hợp trong quản lý sử dụng để chủ động kinh phí chi trả kịp thời cho người được bồi thường.

2. Về tiêu chuẩn Thẩm phán.

Các quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cũng như hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 05 - TTLN về tiêu chuẩn Thẩm phán còn rất chung chung. Do vậy, tiêu chuẩn để bổ nhiệm làm Thẩm phán trước mắt cũng cần phải quy định bổ sung một số vấn đề sau:

 

2.1. Cần bổ sung thêm tiêu chuẩn chính trị của Thẩm phán. Người được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải có tiêu chuẩn lý luận chính trị trung cấp trở lên.

 

2.2. Sửa đổi lại quy định về tiêu chuẩn chuyên môn của Thẩm phán. Hiện nay, chúng ta không còn trường Cao đẳng Toà án, mặt khác do yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi ngày càng cao, nêu cần quy định rõ trong pháp luật: người được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải có bằng tốt nghiệp đại học luật trở lên. Ngoài ra các khái niệm "có trình độ Đại học luật" (Điều 16, 17 và 18 Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm Toà án nhân dân) là không chính xác, mà cần thay bằng khái niệm "có bằng tốt nghiệp Đại học luật".

 

 

a) Cần bổ sung thêm tiêu chuẩn về nghề nghiệp của Thẩm phán. Người được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải có bằng tốt nghiệp của trường Đào tạo Thẩm phán. Tiêu chuẩn này sẽ đáp ứng yêu cầu chuyên sâu nghề nghiệp của Thẩm phán.

 

b) Sửa đổi lại quy định về thời gian công tác pháp luật của Thẩm phán. Khái niệm "làm công tác pháp luật" theo quy định hiện hành là khái niệm rất chung chung. Do vậy, cần quy định rõ những đối tượng có thể được tuyển chọn làm Thẩm phán trước hết phải là những người có thời gian công tác tại Toà án bao gồm: Thư ký, Thẩm tra viên, Chuyên viên. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết cũng có thể tuyển chọn những người làm công tác pháp luật ở các cơ quan tiến hành tố tụng làm Thẩm phán (gồm có: Điều tra viên, Kiểm sát viên) hoặc Chuyên viên pháp lý ở các cơ quan tư pháp nhưng với điều kiện họ phải có thời gian công tác tại Toà án ít nhất là 1 năm trước khi bổ nhiệm làm Thẩm phán hoặc phải qua kỳ thi chuyển ngạch công chức sang Toà án.

 

Ngoài ra cũng có nhiều ý kiến cho rằng, trước khi bổ nhiệm làm Thẩm phán thì người được bổ nhiệm phải qua một thời gian nhất định giúp việc cho thẩm phán với tư cách là Thẩm phán tập sự.

 

c) Cần quy định cụ thể tiêu chuẩn năng lực xét xử của Thẩm phán. Do tính chất chuyên môn hoá ngày càng cao trong hoạt động xét xử (gồm các loại án: hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và trong tương lai có thể sẽ có các Toà khác như: Toà vị thành niên, Toà hôn nhân gia đình...) nên không nhất thiết phải đòi hỏi người muốn được bổ nhiệm làm thẩm phán phải "có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân" Tối cao, cấp tỉnh, cấp huyện như pháp luật hiện hành, mà chỉ cần "có năng lực xét xử ít nhất một loại án (hình sự, dân sự, kinh tế...) thuộc thẩm quyền của Toà án nơi được bổ nhiệm".

 

 

d) Tiêu chuẩn về hình dáng (ngoại hình) của Thẩm phán trước hết phải đàng hoàng, chững chạc. Theo chúng tôi pháp luật cần quy định cụ thể một số vấn đề như:

ã Tiêu chuẩn về chiều cao tối thiểu của Thẩm phán. Để phù hợp với đặc điểm về dáng vóc của người Việt Nam và thực tế chất lượng của đội ngũ Thẩm phán hiện tại, nếu là Thẩm phán nam thì phải có chiều cao tối thiểu là 1,60m. Còn Thẩm phán nữ có chiều cao tối thiểu là 1,55 m. Đây là vấn đề tưởng như đơn giản nhưng lại rất quan trọng, liên quan đến tâm tư tình cảm nghề nghiệp của nhiều cán bộ, công chức trong cơ quan tư pháp. Do đó, cần nghiên cứu, lấy ý kiến tham khảo mở rộng để lựa chọn một tiêu chuẩn thích hợp.

ã Cần có quy định rõ những người được đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán phải là những người không có dị hình trên khuôn mặt (mắt chột, mắt lác...), không có những dị tật làm cho khuôn mặt không bình thường. Đồng thời cũng không có dị tật, dị hình trên thân thể như gù lương, cụt chân, cụt tay hoặc thọt chân, thọt tay hoặc những biểu hiện khác làm cho con người không đi đứng được bình thường.

 

đ) Về tác phong và giao tiếp của Thẩm phán.

ã Phải sử dụng trang phục (quần áo, dày dép) đúng mẫu chuẩn của trang phục, đồng thời phải đảm bảo sự nghiêm trang, sạch sẽ, gọn gàng. Theo chúng tôi Thẩm phán cần phải có trang phục đặc thù, mà cụ thể là áo choàng thụng đen như đã phân tích (trong chuyên đề Văn hoá pháp đình).

ã Khi đi ra, đi vào và đứng, ngồi trong phòng xử án phải chững chạc, đường hoàng. Khuôn mặt và các động tác khi giao tiếp phải biểu hiện sự nghiêm túc, không được tỏ thái độ thờ ơ, thiếu sự quan tâm đến việc xét xử. Đặc biệt là không được biểu thị thái độ và hành vi nóng nảy, bực tức hoặc phấn khởi, tươi cười trước kết quả của việc xét xử hoặc trước thái độ của bị cáo, của đương sự.

ã Về ngôn ngữ: Thẩm phán phải biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp với từng loại phiên toà và từng đối tượng giao tiếp, đặc biệt là những loại án liên quan đến thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội phải sử dụng văn phong và từ ngữ phổ thông, ngắn gọn rành mạch, có sức thuyết phục. Tuyệt đối không được dùng những từ ngữ thô tục xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bị cáo đương sự, cũng như những người tham gia phiên toà hoặc gây sự định kiến bất bình hoặc kích động việc cười đùa trong phòng xử án.

Những chuẩn mực giao tiếp có tính văn hoá của Thẩm phán tại phiên toà cần được quy định thành những nguyên tắc chung để làm căn cứ tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán. Mặc khác, vấn đề này cần được nghiên cứu một các nghiêm túc và phải được cụ thể hoá một cách chi tiết trong các Giáo trình các trường chuyên đào tạo luật, Trường đào tạo Thẩm phán để giúp các Thẩm phán có những ứng xử phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc trong hoạt động xét xử.

 

3. Về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán.

Các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong pháp luật hiện hành còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ hoặc quy định chưa rõ ràng như: vấn đề Thẩm phán có được tham gia các giao dịch kinh tế, dân sự, thương mại với đương sự không? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác trong trường hợp xét xử oan sai... Do vậy, trong thời gian tới pháp luật cũng cần quy định cụ thể những vấn đề này.

Ngoài ra, Hội nghị lần thứ 7 của Liên Hợp Quốc tổ chức tại thành phố Milan (Italia) từ ngày 26/8 đến 6/9/1985 đã đưa ra bản "các nguyên tắc cơ bản của độc lập xét xử đối với các cơ quan Tòa án trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm". Văn bản này quy định những nguyên tắc sau đây:

ã Không được can thiệp bất hợp pháp và không đúng thẩm quyền vào quá trình xét xử và thông qua bản án;

ã Nguyên tắc độc lập của cơ quan Tòa án, cho phép cơ quan Tòa án có quyền đòi hỏi sự xét xử công minh, chính nghĩa và bảo đảm quyền lợi của các bên;

ã Mỗi Nhà nước thành viên có nghĩa vụ bảo đảm cho các cơ quan Tòa án các phương tiện cần thiết để thực hiện tốt công việc của mình;

ã Trên cơ sở tuyên truyền chung về quyền con người; các thành viên của cơ quan Tòa án cũng như mọi công dân khác cần sử dụng quyền tự do ngôn luận, tín ngưỡng, hội họp ... Thẩm phán cần phải nghiêm chỉnh nhằm bảo đảm sự kính trọng đối với chức vụ của mình và bảo đảm sự vô tư và độc lập của các cơ quan Tòa án;

ã Những cá nhân được tuyển chọn vào chức vụ Thẩm phán cần phải có những phẩm chất đạo đức cao cả và được đào tạo tốt trong lĩnh vực pháp luật. Bất kỳ sự tuyển chọn Thẩm phán nào cũng phải bảo đảm hợp pháp và không có sự phân biệt chủng tộc, màu da, dân tộc, tín ngưỡng, thành phần xã hội, tài sản ... và Thẩm phán phải là công dân chính nước đó;

ã Nhiệm kỳ Thẩm phán, việc bảo đảm độc lập của Thẩm phán, an ninh, lương bổng, điều kiện làm việc, chế độ nghỉ hưu... cần phải được quy định trong pháp luật;

ã Thẩm phán (được bổ nhiệm hay bầu) phải được bảo đảm các mặt suốt nhiệm kỳ công tác cho đến lúc nghỉ hưu hoặc hết thời hạn nhiệm kỳ;

ã Thẩm phán có thể phải tạm nghỉ công việc hoặc bị nghỉ hẳn nếu như không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của người Thẩm phán hoặc đạo đức của Thẩm phán không xứng đáng với chức vụ của họ.

Như vậy, việc tuân thủ nguyên tắc nêu trên là cần thiết. Theo chúng tôi, trong điều kiện mới pháp luật của chúng ta cần phải hòa nhập với những tinh hoa của pháp luật trên thế giới và vì vậy cần phải sớm nghiên cứu và thể chế hóa đưa vào pháp luật của chúng ta những nguyên tắc nêu trên.

 

4. Về công tác quản lý Thẩm phán.

 

4.1. Về phân định thẩm quyền quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương.

Pháp luật quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp phải phối hợp, trong đó có nhiều vấn đề phải thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức là chưa hợp lý (trong đó có quản lý Thẩm phán). Bởi lẽ, một mặt quyền hạn và trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong lĩnh vực công tác này bị hạn chế, ràng buộc bởi vai trò ý kiến của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, do đó, rất khó phát huy được tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm trong công tác của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Mặt khác, Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử, không phải là chủ thể quản lý hành chính Nhà nước, nhưng theo quy định của pháp luật và trên thực tế lại hoạt động giống như một đồng chủ thể quản lý đối với các Toà án địa phương là vừa trái với nguyên tắc phân công, phân nhiệm trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa ảnh hưởng tới nguyên tắc hiến định "độc lập xét xử " trong tổ chức và hoạt động của các Toà án.

Do đó, việc phối hợp trong công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức cần được xem xét lại nhằm bảo đảm hiệu quả của công tác quản lý và hiệu quả, chất lượng của công tác xét xử theo hướng không nên quy định quy chế "phối hợp" thành quy phạm pháp luật bắt buộc phải tuân theo, mà chỉ nên xem nó như là một lề lối, cách thức làm việc rất bình thường của các cơ quan Tư pháp. Và như vậy cần phải xem xét quy định tại Điều 16 của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 cho phù hợp với khoa học và thực tiễn.

 

4.2. Về bổ nhiệm Thẩm phán.

ã Trong quy trình bổ nhiệm Thẩm phán, cần có quy định Thẩm phán phải được phát triển từ Thẩm phán cấp huyện: qua Thẩm phán cấp huyện thì mới làm Thẩm phán cấp tỉnh và qua Thẩm phán cấp tỉnh để lên Thẩm phán tối cao. Quy định con đường phát triển như vậy của Thẩm phán không những góp phần nâng cao nghiệp vụ, uy tín của Thẩm phán mà còn là điều kiện thuận lợi cho việc điều chuyển Thẩm phán từ nơi thừa sang nơi thiếu.

ã Hiện nay việc bổ nhiệm thẩm phán các cấp đều do Chủ tịch nước thực hiện, công việc quá nhiều dễ dẫn đến tình trạng hình thức nhiều ý kiến đề nghị nên phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán, có thể thực hiện như trước đây được quy định tại Sắc lệnh 13 ngày 24-1-1946: Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện.

ã Với thành phần Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán như hiện nay là chưa phù hợp, theo chúng tôi cần quy định có thêm đại diện cơ quan tổ chức Đảng - Chính quyền và một số Thẩm phán có kinh nghiệm. Mặt khác, pháp luật không cần quy định Hội luật gia là một thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán vì công tác Hội luật gia không liên quan nhiều đến công tác Tòa án.

ã Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì trong quyết định bổ nhiệm Thẩm phán luôn gắn liền với địa giới hành chính cụ thể (ví dụ: Bổ nhiệm ông Nguyễn Văn A làm Thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội). Điều này đã làm hạn chế đến việc điều động bố trí, sắp xếp cán bộ. Một thực tế là khi có yêu cầu, cơ quan quản lý cán bộ không thể điều động sắp xếp tổ chức ngay được mà phải qua rất nhiều thủ tục như nêu ở phần trên. Để đảm bảo tính năng động, nhanh nhạy trong công tác điều phối cán bộ đến những nơi thiếu, chúng tôi đề nghị không nên bổ nhiệm Thẩm phán gắn với tên địa giới hành chính mà bổ nhiệm theo cấp Tòa án như: Thẩm phán Tòa án cấp huyện hay Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh, còn việc bố trí, sắp xếp Thẩm phán về địa phương nào nên phân cấp cho các cơ quan quản lý.

ã Theo Sắc lệnh 13/SL ngày 24 tháng 1 năm 1946 thì khi được bổ nhiệm Thẩm phán, khi chuyển ngạch từ Tòa án cấp dưới lên cấp trên, khi nhận chức Chánh án, Chưởng lý thì các Thẩm phán phải tuyên thệ.

Hiện nay, chưa có quy định về việc nhận chức và tuyên thệ của Thẩm phán, do vậy khi có quyết định bổ nhiệm Thẩm phán mỗi địa phương tùy theo điều kiện của mình, tổ chức lễ trao quyết định với những hình thức rất khác nhau. Theo chúng tôi cần có quy định về nhậm chức và tuyên thệ đối với Thẩm phán. Điều này không chỉ thể hiện sự long trọng mà còn để mỗi Thẩm phán khi được trao trọng trách cao qúy ý thức được trách nhiệm vinh dự và nặng nề của người Thẩm phán mà luôn ghi nhớ và thực hiện.

ã Theo quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm, thời gian được tính kể từ ngày Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm. Trong điều kiện hiện nay, việc quy định nhiệm kỳ với thời hạn 5 năm vẫn có thể thực hiện được. Nhưng trong tương lai liệu thời hạn này có hợp lý không? Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời. Điều này xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp của Thẩm phán. Việc quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán như vậy, một mặt bảo đảm cho Thẩm phán thực hiện tốt nguyên tắc độc lập trong xét xử, mặt khác bảo đảm cho Thẩm phán yên tâm công tác.

 

 

 

4.3. Về thuyên chuyển, điều động Thẩm phán.

Theo quy định hiện nay, để điều chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân nơi này đến Tòa án nhân dân nơi khác ít nhất cần 10 con dấu đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện (cấp ủy, Chánh án tỉnh, Chánh án huyện, Sở Tư pháp - của cả nơi đi và nơi đến và ý kiến thống nhất của TAND tối cao và cuối cùng là của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); cần phải có 6 con dấu đối với Thẩm phán TAND cấp tỉnh.

Trên thực tế người được thuyên chuyển, điều động gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như: lương thấp, phải xa gia đình, bị san sẻ về thu nhập, nếu chuyển cả gia đình cùng đến nơi công tác mới thì vấn đề về nhà ở, công việc làm, việc học tập của vợ chồng và các con như thế nào?...

Do vậy, trước hết về thủ tục điều động cần gọn hơn và nên giao cho cơ quan quản lý có thẩm quyền trực tiếp giải quyết. Mặt khác, cần có sự cải tiến về lương đối với Thẩm phán, có chế độ ưu đãi trợ cấp về kinh tế cũng như tạo điều kiện về nhà ở (nhà công vụ) đối với Thẩm phán để họ yên tâm công tác, ổn định đời sống, tránh các tác động tiêu cực ảnh hưởng đến công tác xét xử.

 

4.4. Về miễn nhiệm thẩm phán.

Theo quy định hiện hành thì trong mọi trường hợp miễn nhiệm Thẩm phán đều phải có đơn tự nguyện của Thẩm phán, theo chúng tôi chỉ nên quy định trong trường hợp Thẩm phán xin miễn nhiệm vì lý do sức khỏe, hoặc do năng lực kém hoặc vì hợp lý hóa gia đình xin chuyển công tác thì cần có đơn xin miễn nhiệm, còn đối với các trường hợp do yêu cầu của công tác, tổ chức cần chuyển công tác thì không cần có đơn xin miễn nhiệm.

 

4.5. Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán.

Theo chế độ tiền lương hiện nay, thì chỉ có hệ số mức lương của ngạch thẩm phán tỉnh và thẩm phán tối cao là cao hơn một chút so với ngạch lương hành chính tương ứng, còn hệ số mức lương của ngạch thẩm phán huyện là quá thấp và còn có khoảng cách khá xa với ngạch lương thẩm phán tỉnh, đề nghị các cấp có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu xếp lại cho phù hợp (vấn đề này xem thêm trong chuyên đề Chế độ chính sách đối với Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương - Thực trạng và một số kiến nghị).

 

 

4.6. Về khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán.

ã Việc khen thưởng thẩm phán hiện nay được áp dụng chung như đối với công chức, viên chức hành chính khác, nhưng do đặc thù của nghề xét xử có thể nghiên cứu những hình thức thi đua khen thưởng theo nhiệm kỳ thẩm phán hoặc theo chức danh nghề nghiệp như thẩm phán ưu tú, thẩm phán nhân dân.

ã Theo quy định hiện nay, Chủ tịch nước quyết định cách chức Thẩm phán khi có vi phạm. Mức độ kỷ luật buộc thôi việc Thẩm phán chưa quy định thuộc thẩm quyền của cơ quan nào. Trong trường hợp này thường phải qua khâu cách chức sau đó cơ quan quản lý sẽ thực hiện theo thẩm quyền. Nếu Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định buộc thôi việc đối với Thẩm phán Toà án địa phương sẽ trái với quyết định của Chủ tịch nước và không đúng với quy định kỷ luật tại Nghị định 195 là cán bộ viên chức chỉ bị một hình thức kỷ luật. Do vậy, chúng tôi đề nghị nên quy định thẩm quyền xem xét quyết định các hình thức kỷ luật đối với Thẩm phán theo hướng cơ quan quản lý phối hợp với các cơ quan hữu quan xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định hình thức kỷ luật phù hợp. Quy định như vậy sẽ bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời cũng đảm bảo chu trình quản lý cán bộ.

 

II. Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chế định pháp luật về Thẩm phán.

1. Đề nghị ban hành Quy chế Thẩm phán.

Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn thi hành pháp luật, chúng tôi thấy pháp luận cần phải điều chỉnh đầy đủ các vấn đề thuộc chế định Thẩm phán đó là: các quy định về quản lý Thẩm phán, về tiêu chuẩn thẩm phán, về địa vị pháp lý của Thẩm phán về các điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán hoạt động... trong một văn bản pháp lý có hiệu lực cao. Việc quy định này, một mặt bảo đảm được tính thống nhất, đầy đủ của pháp luật về chế định Thẩm phán, mặt khác sẽ tạo điều kiện để Thẩm phán thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước, nhân dân giám sát hoạt động của Thẩm phán.

Vấn đề đặt ra là Văn bản cần được ban hành dưới hình thức nào và do ai ban hành? Theo pháp luật hiện hành thì chúng ta đã có Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đều là thành viên của Hội đồng xét xử, khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Do vậy, pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của cả Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong cùng một văn bản pháp luật là khá hợp lý. Mặt khác, theo Pháp lệnh này thì các nguyên tắc cơ bản trong việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán về cơ bản là hợp lý.

Do đó, việc ban hành một văn bản mới phải đạt được mục đích là:

- Cụ thể hoá các quy định về Thẩm phán trong Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân;

- Tập hợp các quy định về Thẩm phán nằm rải rác trong các văn bản pháp luật hiện hành.

- Loại bỏ các quy định pháp luật không thống nhất về Thẩm pháp; sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về Thẩm pháp nhằm xác định rõ địa vị pháp lý của Thẩm phán trong một văn bản thống nhất.

- Quy định được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của không chỉ Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương mà cả Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương, Toà án quân sự quân khu và khu vực.

Với mục đích như vậy thì văn bản mới phải là văn bản vừa có hiệu lực pháp lý cao nhưng lại là văn bản cụ thể hoá Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Do vậy, văn bản này không thể là Pháp lệnh và cũng không thể là Nghị định của Chính phủ. Theo chúng tôi hình thức của văn bản phù hợp nhất là Quy chế Thẩm phán. Quy chế này phải được ban hành kèm theo Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Hiện nay, theo Luật ban hành văn bản quy pháp pháp luật 1997 thì không có hình thức Quy chế. Trong khoa học pháp lý cũng chưa có một định nghĩa rõ ràng về Quy chế. Theo Đại từ điểm tiếng Việt thì Quy chế "là những quy định đã thành chế độ để mọi người tuân theo"; Từ điển tiếng Việt xác định: "Quy chế là tổng thể nói chung những điều quy định thành chế độ thực hiện trong những hoạt động nhất định nào đó". Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật- Hà Nội 1999 không có khái niệm "Quy chế", mà chỉ có khái niệm "Quy chế pháp lý hành chính của công chức", "Quy chế pháp lý hành chính của công dân", "Quy chế pháp lý hành chính của người nước ngoài"... Nội hàm của khái niệm này đều là "tổng thể những quy định của pháp luật về...".

Trên thực tế, Quy chế trong hệ thống pháp luật Việt Nam là một văn bản phái sinh được ban hành kèm theo một hình thức văn bản nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực về mặt tổ chức (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 46 – NQ/ UBTVQH ngày 29.9.1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội), Quy chế Đoàn luật sư được ban hành kèm theo Nghị định số 15 – HĐBT ngày 21.2.1989 của Hội đồng Bộ trưởng... Do vậy, việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế Thẩm pháp là điều phù hợp với lý luận và thực tiễn.

 

2. Phạm vi điều chỉnh và nội dung của Quy chế Thẩm phán.

Xác định phạm vi điều chỉnh của Quy chế thẩm phán cũng là một vấn đề phức tạp. Nó được xem xét từ các góc độ khác nhau.

ã Từ mức độ điều chỉnh, Quy chế Thẩm phán được ban hành để điều chỉnh hai nhóm quan hệ sau:

- Các quan hệ mà các văn bản pháp luật đã ban hành chưa điều chỉnh;

- Các quan hệ mà đã được các văn bản pháp luật điều chỉnh chung cho cán bộ, công chức nhưng nay cần cụ thể hoá đối với Thẩm phán.

ã Từ góc độ các lĩnh vực xã hội mà Thẩm phán tham gia, Quy chế thẩm phán điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội:

- Các quan hệ liên quan đến hoạt động tố tụng. Trong lĩnh vực này, Quy chế thẩm phán có thể được coi như là "Quy chế chuyên môn" của Thẩm phán;

- Các quan hệ xã hội tuy không liên quan trực tiếp đến hoạt động nghiệp vụ chuyên môn nhưng ảnh hưởng đến hình ảnh người Thẩm phán trong con mắt của công dân, ảnh hưởng đến tính trang nghiêm, uy tín của Thẩm phán nói riêng và Toà án nói chung.

ã Từ góc độ tính chất điều chỉnh, Quy chế thẩm phán có thể bao gồm các quy phạm cấm và các quy phạm cho phép. Bởi vì, nội dung của Quy chế liên quan đến cả quyền lợi và nghĩa vụ của Thẩm phán.

 

Kết hợp cách phân chia trên, theo chúng tôi, phạm vi điều chỉnh của Quy chế thẩm phán bao gồm các lĩnh vực cụ thể sau:

- Thứ nhất, các quan hệ trong các lĩnh vực kinh tế, dân sự, xã hội. Ví dụ: Thẩm phán không được tham gia vào các giao dịch dân sự, kinh tế ..., không hành nghề có liên quan đến tố tụng có thể làm ảnh hưởng đến sự khách quan, vô tư hoặc tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế của mình;

- Thứ hai, các quan hệ trong lĩnh vực quan hệ hành chính. Như không kiêm nhiệm các chức vụ hành chính khác; không được làm theo sự chỉ đạo của cơ quan hành chính cấp trên hoặc cơ quan quản lý về việc xử lý vụ việc theo thẩm quyền của Toà án;

 

- Thứ ba, trong các quan hệ tố tụng và nghiệp vụ để đảm bảo tính chính xác, khách quan của hoạt động xét xử;

- Thứ tư, các quan hệ trong lĩnh vực đạo đức, trong giao tiếp và xử sự hàng ngày và trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ. Quy chế thẩm phán phải đưa ra được các chuẩn mực giao tiếp, ứng xử của người Thẩm phán trong cuộc sống thường nhật cũng như trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ. Các quy định của Quy chế thẩm phán phải đảm bảo tăng cường sự tôn trọng, nâng cao uy tín của quần chúng nhân dân đối với Thẩm phán và qua đó là với Toà án;

 

- Thứ năm, Quy chế thẩm phán cũng cần có các quy định cụ thể về những quyền lợi mà người Thẩm phán được hưởng cũng như các bảo đảm pháp lý bảo vệ quyền lợi của Thẩm phán để một mặt cho các quyền lợi đó tương xứng với trách nhiệm nghề nghiệp của họ, làm cho họ yên tâm công tác; mặt khác bảo vệ họ tránh những vi phạm có thể xảy ra liên quan đến việc xét xử.

Như vậy, nội dung của Quy chế Thẩm phán rất đa dạng, nhiều mặt và thuộc vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, Quy chế cần được bố cụng bố cục theo Chương, mục, Điều (xem phụ lục 1).

 

III. Những kiến nghị về xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện Quy chế Thẩm phán.

 

1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định của pháp luật liên quan đến Thẩm phán trong các lĩnh vực: như pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng, pháp luật về tổ chức Toà án... nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ về chế định thẩm phán.

 

 

2. Hoàn thiện công tác đào tạo Thẩm phán.

Đào tạo nghề nghiệp cho các chức danh tư pháp và đặc biệt là đào tạo nghề nghiệp cho Thẩm phán là một công việc rất cần thiết và rất quan trọng. Tuy vậy, công tác đào tạo nghề chỉ mới dừng lại ở những bước triển khai ban đầu có tính chất thử nghiệm và tìm tòi, do đó chưa thể nói chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo cũng như hồ sơ, tài liệu dùng cho các khóa đào tạo vừa qua đã hoàn thiện. Việc không ngừng sửa đổi chương trình đào tạo, cải tiến phương pháp giảng dạy và hoàn thiện hồ sơ, tài liệu phục vụ học tập là việc làm vừa cấp bách, vừa mang tính chất thường xuyên và lâu dài.

 

2.1. Sửa đổi chương trình đào tạo.

Theo chương trình đào tạo với cơ cấu ba phần trong đó học lý thuyết 6 tháng, thực tập 3 tháng, học chuyên sâu và thi tốt nghiệp 1 tháng cũng cần phải được áp dụng mềm dẻo đối với các đối tượng khác nhau. Đối với các đối tượng đã có thâm niên trong ngành tư pháp từ 3 năm trở lên thì có thể rút ngắn thời gian thực tập để tăng thêm phần học lý thuyết tại trường. Chương trình đào tạo tập trung tại trường về mặt lý thuyết cũng cần cải tiến theo hướng giảm bớt một số bài học về mặt thủ tục tố tụng giữa các loại hình thẩm phán để tăng cường các chuyên đề về luật nội dung. Phần đào tạo chuyên sâu cũng cần được cải tiến để cung cấp cho các học viên những kiến thức chuyên ngành thực sự cần thiết để học viên có thể áp dụng ngay sau khi ra trường. Việc thi, kiểm tra, đánh giá học viên cũng cần phải cải tiến theo hướng đi sâu kiểm tra kỹ năng hành nghề để đánh giá kiến thức về luật thực định của học viên. Tăng cường các buổi diễn án trong thời gian học lý thuyết tại trường song song với việc giảm thời gian học tập. Đối với những đối tượng chưa kinh qua công tác thì cần tăng thời gian đào tạo tăng lên gấp đôi và cơ cấu của chương trình cần bố trí 1/3 lý thuyết và 2/3 thực hành. Đội ngũ giáo viên kiêm chức tham gia giảng dạy trong thời gian đào tạo lý thuyết tại trường đã tương đối ổn định. Tuy vậy, cần nghiên cứu để bổ nhiệm một số Thẩm phán, Chấp hành viên đang công tác tại địa phương làm giáo viên kiêm chức hướng dẫn thực tập. Có như thế việc thực tập của học viên mới đạt chất lượng. Chương trình tin học thực tập với 100 tiết giảng như hiện nay là cần được bổ sung. Ngoài ra có thể mở thêm 1 lớp học tiếng Anh cho học viên.

 

2.2. Cải tiến phương pháp giảng dạy.

Phương pháp song giảng trong thời gian đã thể hiện những tính ưu việt nhất định. Để phát huy tính tích cực của phương pháp này cần trang bị cho các giáo viên kiêm chức các kiến thức về phương pháp dạy học. Ngoài ra có thể tổ chức các buổi thao giảng để rút kinh nghiệm. Việc thống nhất về quan điểm cũng như về phương pháp giữa hai giáo viên cùng giảng một lúc là rất quan trọng. Kết hợp phương pháp song giảng với việc sử dụng mô hình, sơ đồ và các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ để giúp học viên nắm bắt bài nhanh hơn.

 

2.3. Xây dựng hồ sơ tài liệu, giáo trình phục vụ giảng dạy và học tập.

 

Trong thời gian tới cần bổ sung thêm các bộ hồ sơ để làm tài liêu giảng dạy và học tập. Thực tiễn xét xử của nước ta diễn ra rất phong phú, đa dạng và phức tạp vì vậy trong các hồ sơ thực tế cũng phải thể hiện được bản chất đó. Cần đầu tư cho việc biên tập, sắp xếp và chỉnh sửa các bút lục của hồ sơ để đạt được hiệu quả cao trong đào tạo. Tài liệu giảng dạy và học tập hiện nay ngoài hồ sơ thực tế còn có các tập bài giảng. Cần đầu tư để nâng cấp các tập bài giảng này thành giáo trình. Ngoài ra, các chuyên đề cũng phải được thể hiện dưới dạng các bài viết để giúp học viên có tài liêu tham khảo.

 

3. Xây dựng một số biện pháp bảo vệ Thẩm phán.

Từ việc phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng trước mắt cần nghiên cứu một số biện pháp cần thiết và có khả năng thực hiện như sau:

- Biện pháp bảo đảm về mặt an ninh;

- Biện pháp bảo đảm về mặt pháp lý;

- Biện pháp bảo đảm về mặt xã hội.

Phân biệt các biện pháp bảo vệ thành các loại như trên là căn cứ vào sự khác nhau về đối tượng, tính chất của biện pháp bảo đảm .

 

3.1. Biện pháp an ninh.

Gọi là biện pháp an ninh bởi biện pháp này được áp dụng với mục đích bảo toàn tính mạng và sức khoẻ, tài sản cho Thẩm phán. Có thể nói rằng biện pháp này là không thể thiếu, các biện pháp này ngăn ngừa hữu hiệu các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ Thẩm phán, không để cho các hành vi này xảy ra.

Biện pháp an ninh được các cơ quan chức năng áp dụng khi có các căn cứ cụ thể chứng tỏ có sự đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán.

Các căn cứ để áp dụng biện pháp bảo đảm an ninh có thể là:

1. Khi có yêu cầu của Thẩm phán;

2. Khi có yêu cầu của lãnh đạo Toà án;

3. Khi cơ quan có thẩm quyền nhận được thông tin và có căn cứ chính xác về việc đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán.

Khi có những căn cứ trên đây, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét cụ thể những tình tiết có hay không có thực tế về sự đe doạ, ảnh hưởng đến sự an toàn của Thẩm phán và có trách nhiệm kịp thời áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết. Vấn đề thời gian tiếp nhận và quyết định áp dụng biện phá bảo vệ là cực kỳ cần thiết, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực sự bảo vệ Thẩm phán. Nên chăng, quy định trong thời hạn 3 ngày, các cơ quan chức năng phải quyết định cụ thể về việc có áp dụng hay không biện pháp bảo vệ, quyết định áp dụng biện pháp nào và trong thời gian bao lâu. Trong những trường hợp không thể chậm trễ, thì phải áp dụng ngay các biện pháp cần thiết. Tuy nhiên, cũng cần tính đến quyền quyết định, sự tự do lựa chọn của Thẩm phán. Vì vậy, nên chăng quy định những trường hợp còn lại, mà việc áp dụng biện pháp an ninh không phải do yêu cầu của Thẩm phán thì trước khi áp dụng biện pháp bảo vệ, cơ quan áp dụng biện pháp an ninh phải hỏi ý kiến Thẩm phán.

Các biện pháp này có thể được áp dụng riêng rẽ, có thể kết hợp áp dụng nhiều biện pháp cùng một lúc, tuỳ thuộc vào từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Một vấn đề khác cần lưu ý ở đây, là việc áp dụng các biện pháp an ninh phải không được gây thiệt hại đến các quyền lợi khác của Thẩm phán. Ví dụ, trong trường hợp cần thay đổi số xe, tên họ thì các cơ quan chức năng không được gây phiền hà cho Thẩm phán. Ngược lại, phải tạo mọi điều kiện và tích cực chủ động tiến hành các thủ tục cần thiết.

Khi áp dụng các biện pháp an ninh, Thẩm phán có quyền được biết, được yêu cầu áp dụng biện pháp an ninh, được yêu cầu thay đổi, huỷ bỏ biện pháp an ninh và được khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. Thẩm phán có nghĩa vụ thông báo cho các cơ quan an ninh biết những thông tin liên quan đến việc áp dụng biện pháp an ninh, thực hiện sự chỉ dẫn của cơ quan áp dụng, giữ gìn tài sản được giao, và không tiết lộ thông tin liên quan đến việc áp dụng các biện pháp an ninh.

Do mục đích của việc áp dụng biện pháp bảo vệ Thẩm phán là nhằm bảo vệ Thẩm phán khỏi những đe doạ về tính mạng, sức khoẻ, tài sản các biện pháp an ninh chỉ nên giới hạn việc áp dụng cho đến khi sự đe doạ đến tính mạng sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán không còn nữa.

Tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, biện pháp an ninh có thể áp dụng bằng nhiều hình thức. Sau đây là một số kiến nghị về các biện pháp an ninh cụ thể để các cơ quan chức năng nghiên cứu, tham khảo:

Tạm thời chuyển đến nơi an toàn.

Trong trường hợp những Thẩm phán được phân công xét xử vụ án nghiêm trọng... thì nếu có yêu cầu, trong thời gian phụ trách hồ sơ, những Thẩm phán này có thể được bố trí ở tại địa điểm mới an toàn. Ngoài ra, để bảo vệ sự an toàn của vợ, chồng, con cái, cha, mẹ của Thẩm phán, nếu Thẩm phán có yêu cầu, trong thời gian Thẩm phán xét xử vụ án, cũng có thể cần được áp dụng biện pháp bảo vệ bằng cách chuyển đến nơi ở an toàn.

Các cơ quan áp dụng biện pháp bảo vệ có trách nhiệm bảo vệ lúc Thẩm phán có mặt ở khu nhà, đưa đón đến nơi làm việc để được bảo vệ an toàn tính mạng. Thực hiện biện pháp này thì không tiện lợi cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ, tốn kém về con người, thời gian, phương tiện và kinh phí.

Trang bị các phương tiện bảo vệ tính mạng và tài sản của Thẩm phán tại tư gia.

Các cơ quan an ninh áp dụng các biện pháp cụ thể, ví dụ như phân công người bảo vệ cá nhân thẩm phán, bảo vệ nhà ở hoặc bảo vệ tài sản của Thẩm phán.

Trong những trường hợp này, nơi ở của Thẩm phán cũng có thể được trang bị các phương tiện bảo đảm an ninh như các phương tiện phòng chống cháy nổ, lắp đặt hệ thống còi báo động... Đây là một biện pháp tương đối dễ thực hiện, ít tốn kém hơn so với phương án xây dựng nhà ở hoặc chuyển đến nơi ở mới nói trên.

Thay đổi một số đăng ký như số điện thoại, số xe máy, xe ô tô.

Số điện thoại, số xe máy, xe ô tô:.. mà Thẩm phán sử dụng hoặc sở hữu cũng có thể được thay đổi.

Trong trường hợp này, các cơ quan chức năng như cơ quan bưu điện, cơ quan công an... có trách nhiệm làm các thủ tục thay đổi số các phương tiện liên quan cho Thẩm phán.

Trang bị vũ khí tự vệ.

Trong trường hợp nghiêm trọng, trong thời gian phụ trách hồ sơ xét xử, Thẩm phán có thể được trang bị vũ khí để tự vệ, như súng ngắn, các phương tiện báo động hoặc tự vệ khác.

Việc cấp phát, chế độ sử dụng các loại vũ khí này phải tuân theo quy định chung của pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng hay không biện pháp này phải được cân nhắc và chỉ nên áp dụng trong trường hợp đặc biệt, tuỳ thuộc vào mức độ nguy hiểm .

Cấm tiết lộ các thông tin về sơ yếu lý lịch của Thẩm phán.

Ngay từ khi Thẩm phán được bổ nhiệm vào chức vụ Thẩm phán, hoặc trong quá trình xét xử, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan chức năng không cung cấp hoặc nghiêm cấm tiết lộ các thông tin về sơ yếu lý lịch của Thẩm phán. Điều này thuộc về trách nhiệm của các cơ quan quản lý. Ví dụ, cơ quan quản lý hộ chiếu, cơ quan đăng ký mô tô xe máy, cơ quan bưu điện có trách nhiệm không tiết lộ thông tin về cá nhân Thẩm phán như họ tên, địa chỉ, quê quán...

Một biện pháp khác có thể áp dụng là việc thay đổi nơi làm việc, thay đổi nơi ở của Thẩm phán.

Thẩm phán có thể được chuyển đến nơi công tác khác, chuyển vị trí công tác khác hoặc chuyển đến nơi ở mới lâu dài, ổn định.

Thay đổi giấy tờ tuỳ thân của Thẩm phán.

Thẩm phán cũng có thể được cấp giấy tờ tuỳ thân hoặc có thể có những thay đổi cơ bản các thông số liên quan đến cá nhân Thẩm phán.

Hai biện pháp này chỉ nên áp dụng trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp an ninh khác hoặc xét thấy việc áp dụng các biện pháp khác không có hiệu quả.

Những biện pháp an ninh trên đây có thể giao cho bộ phận chuyên trách thuộc cơ quan công an đảm nhiệm.

 

3.2. Biện pháp về mặt xã hội.

Nếu các biện pháp an ninh chủ yếu là mang tính phòng ngừa thì các biện pháp xã hội chủ yếu lại mang tính giải quyết hậu quả. Trong trường hợp tính mạng sức khoẻ của Thẩm phán bị xâm phạm, thì cũng cần có những cơ chế nhất định để đảm bảo cho Thẩm phán hoặc những người thân thích của Thẩm phán được bảo đảm về mặt vật chất..

Tuỳ thuộc vào đối tượng bị xâm hại và mức độ thiệt hại thực tế, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các biện pháp có tính xã hội.

Chúng tôi cho rằng, các biện pháp có tính xã hội cần nghiên cứu ở đây là những quy định về bồi thường thiệt hại cho Thẩm phán. Vì vậy, nên chăng cần quy định bảo hiểm sức khoẻ, tính mạng của Thẩm phán là bắt buộc. Quy định này nhằm đảm bảo trong trương hợp tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán bị xâm hại thì cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm thanh toán các khoản tiền bảo hiểm theo những nguyên tắc nhất định.

Những trường hợp Thẩm phán được bồi thường vật chất bao gồm:

Thẩm phán bị thương tích.

Thẩm phán bị chết.

Tài sản của Thẩm phán bị hư hỏng.

Trong trường hợp sức khoẻ của Thẩm phán bị tổn hại, ví dụ bị gây thương tích thì cần phân biệt mức độ mất khả năng lao động để bồi thường cho Thẩm phán.

Đối với những Thẩm phán bị thương tích do thực hiện chức năng của Thẩm phán nhưng vẫn có khả năng hoặc không còn khả năng tiếp tục công việc của Thẩm phán, thì Thẩm phán, và trong trường hợp Thẩm phán bị chết, thì những người thừa kế, có quyền được hưởng một khoản tiền nhất định bằng một số lần lương tháng của Thẩm phán. Số lần luơng tháng phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán, ví dụ: nếu Thẩm phán chết, thì số lần phải cao hơn và cao nhất ; nếu Thẩm phán bị thương tích nhưng không còn khả năng hành nghề Thẩm phán thì phải cao hơn so với trường hợp Thẩm phán tuy bị thương tích nhưng vẫn còn khả năng tiếp tục nghề Thẩm phán, mức độ bồi thường phụ thuộc vào những chi phí thực tế đã bỏ ra để chạy chữa, thuốc men, công chăm sóc...

Đối với những Thẩm phán bị thương tích dẫn đến mất khả năng hành nghề Thẩm phán thì phải được trả tiền trợ cấp mất sức lao động.

Đối với những Thẩm phán bị chết do thực hiện chức năng Thẩm phán thì những người thừa kế phải được bồi thường toàn bộ chi phí về chữa chạy, công chăm sóc, mai táng...

Ngoài ra, những người sống phụ thuộc vào Thẩm phán, hàng tháng cũng cần được hưởng một khoản tiền, ví dụ ở mức tương đương với khoản tiền mà mỗi người được hưởng khi Thẩm phán còn sống căn cứ vào mức lương của Thẩm phán chia cho số người sống phụ thuộc vào mức lương đó. Quy định này nhằm đảm bảo cho những người thân thích của Thẩm phán sống phụ thuộc vào Thẩm phán, không có thu nhập lao động có thể có được một cuộc sống bình thường.

Như vậy, biện pháp này là thực tế và cần thiết. Trong trường hợp tài sản của Thẩm phán bị hư hỏng, hoặc bị huỷ hoại do việc thực thi nhiệm vụ thì tài sản của Thẩm phán phải được bồi thương đầy đủ theo thiệt hại thực tế.

Tương tự, trong trường hợp tài sản của Thẩm phán bị phá hoại, làm hư hỏng, bị phá huỷ... thì giá trị tài sản đó cần phải được bồi thường đầy đủ.

Tuy nhiên cũng cần có những nguyên tắc nhất định khi áp dụng các biện pháp này. Theo chúng tôi, các nguyên tắc cần lưu ý ở đây là:

1. Phải có sự thiệt hại thực tế;

2 Sự thiệt hại phải do thực hiện chức năng nghề nghiệp của Thẩm phán;

3. Sự thiệt hại phải được bồi thường trên nguyên tắc bồi thường đầy đủ.

 

 

3.3. Biện pháp pháp lý.

Các quy định của chế tài hình sự hiện hành đã góp phần vào việc bảo vệ Thẩm phán có hiệu quả. Tuy nhiên, với tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, thì tính rủi ro của nghề Thẩm phán càng cao. Vì vậy, cần nghiên cứu đến việc sửa đổi các quy định trên theo hướng xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán.

Có thể sửa đổi theo hướng coi các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc quy định thêm một số điều luật mới tương ứng với các hành vi nói trên.

 

4. Một số kiến nghị về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án nhân dân địa phương.

Từ thực trạng của việc thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ Tòa án như trên, đề nghị Đảng và Nhà nước quan tâm, từng bước giải quyết và ban hành chế độ chính sách phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của Tòa án cụ thể như sau:

 

4.1. Tiếp tục nghiên cứu và thiết kế thang bảng lương riêng đối với ngạch Thẩm phán cho phù hợp, đặc biệt là ngạch Thẩm phán cấp huyện. Rút ngắn khoảng cách giữa hệ số lương của Thẩm phán cấp huyện so với cấp tỉnh. Lương cần đảm bảo đúng ý nghĩa của nó là để phục hồi và tái sản xuất sức lao động, đủ nuôi sống bản thân Thẩm phán và gia đình của họ. Đây cũng là một trong những giải pháp nhằm góp phần ngăn chặn tệ tham nhũng trong các cơ quan Tòa án, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán.

 

4.2. Thiết kế lại ngạch lương Thư ký theo hướng tiêu chuẩn thư ký Tòa án: Tốt nghiệp đại học luật (công chức loại A) tốt nghiệp trung cấp luật (công chức loại B), những công chức loại A là nguồn để bổ nhiệm làm Thẩm phán và những công chức này phải được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ. Do đó, lương của Thư ký Toà án sẽ cao hơn lương chuyên viên.

 

 

4.3. Nên quy định phụ cấp lương vượt khung đối với các trường hợp đã hưởng hệ số lương tối đa. Ví dụ: sau 3 năm được hưởng phụ cấp 5% và tiếp theo cứ 1 năm được cộng thêm 1% để tránh thiệt thòi cho những người có thâm niên công tác và có công hiến lâu năm trong nghề Thẩm phán.

 

4.4. Cần có chế độ chính sách ưu đãi để thu hút động viên những người đến nhận công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi. Cụ thể là có chế độ trợ cấp lần đầu bằng 3 tháng lương tối thiểu, được nâng lương sớm hơn quy định là 1/3 thời gian. Đối với những thẩm phán được tăng cường có thời hạn từ 3 đến 6 tháng, thì nên cho hưởng chế độ lưu trú trong thời hạn được điều động. Đối với những trường hợp điều động không thời hạn, thì được hưởng trợ cấp lần đầu như nói ở trên. Đối với những cán bộ có đủ thời gian công tác liên tục 10 năm ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi thì cần có quy định ưu tiên đối với họ trong việc chuyển vùng công tác.

 

 

4.5. Ngoài chế độ bồi dưỡng theo Quyết định số 06/2001/QĐ-TTg ngày 10/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với một số chức danh tư pháp thì các quy định khác về chế độ phụ cấp và bồi dưỡng phiên toà dành cho Thẩm phán (như Thông tư 184/TT-LB ngày 12/3/1996 của Ban Tổ chức cán bộ chính phủ - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính về chế độ bồi dưỡng phiên toà đối với thẩm phán, thư ký phiên toà, kiểm sát viên, cảnh sát bảo vệ, cảnh sát dẫn giải bị cáo đến phiên toà) được ban hành đã lâu không phù hợp với biến động giá cả hiện nay (khi mức lương tối thiểu là 120.000 đồng; hiên nay lương tối thiểu là 210.000 đồng, tăng 1,75 lần so với trước). Do vậy đề nghị tăng mức bồi dưỡng phụ cấp xét xử và đơn giá đối với việc cấp kinh phí may sắm trang phục đối vớ cán bộ Tòa án địa phương.

4.6. Trong chứng minh thư của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, chúng tôi đề nghị ghi rõ: "Khi thi hành nhiệm vụ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được ưu tiên qua lại cầu phà trên các tuyến giao thông công cộng. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trợ Thẩm phán, Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ".

 

 

File đính kèm downloadTải về