• Thuộc tính
Tên đề tài Những giải pháp nâng cao hiệu quả tính pháp lý của Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em
Nội dung tóm tắt
 
 
 

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam năm 1991 đã qua trên 10 năm thực hiện. Luật đã góp phần đảm bảo và thực hiện tốt các quyền trẻ em như quyền khai sinh, quyền có quốc tịch, quyền học tập, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ, vui chơi giải trí... Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật cũng cho thấy ở nhiều nơi, nhiều lúc, còn chưa được thi hành nghiêm chỉnh. Nội dung quy định của Luật còn nhiều điểm bất cập và đặc biệt là hiệu lực pháp lý đối với việc thực thi nhiều điều khoản của Luật chưa cao.  

Một trong những nguyên nhân của sự kém hiệu lực pháp lý này là do việc thiếu một hệ thống chế tài/biện pháp pháp lý đầy đủ và dễ áp dụng. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp các quy định của Luật không được chấp hành nghiêm chỉnh vì thiếu các chế tài bắt buộc thực hiện cũng như thiếu cơ chế xử lý vi phạm; các cơ quan chức năng còn lúng túng trong việc áp dụng các quy định của Luật không những do các quy định của Luật còn nhiều nội dung bất cập, mà còn vì thiếu các thủ tục pháp lý cho việc thực hiện quy phạm đó. Một số các quy định của Luật rất đặc thù, đòi hỏi phải có quy định riêng về thủ tục áp dụng (như thủ tục dân sự, hành chính, hình sự phù hợp với đặc thù của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em), nhưng các thủ tục này lại thiếu cụ thể, không có hiệu quả.

Từ các lý do nêu trên, Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý đã tổ chức nghiên cứu đề tài "Những giải pháp nâng cao hiệu quả tính pháp lý của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em".  Đề tài có ý nghĩa lớn cả về lý luận lẫn ứng dụng thực tiễn, không những góp phần quan trọng phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, mà còn có ý nghĩa lớn đối với công tác tổ chức, phối hợp các cơ quan trong việc thực hiện Luật sau này.

Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài là:

-  Đánh giá thực trạng việc thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam trong 10 năm qua nhằm phát hiện các vấn đề làm giảm hiệu lực thực tế của Luật và nguyên nhân của tình hình đó.

-  Nghiên cứu về cơ chế thực hiện các chế tài pháp lý nhằm đảm bảo thực hiện các quy định của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

-  Nghiên cứu kinh nghiệm về các biện pháp pháp lý và cơ chế bảo vệ quyền trẻ em có hiệu quả của một số nước trên thế giới và đánh giá xu hướng phát triển trên thế giới về vấn đề này.

-    Kiến nghị một số biện pháp và giải pháp nói chung nhằm tăng cường hiệu quả pháp lý của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍNH PHÁP LÝ CỦA LUẬT BẢO VỆ CHĂM SÓC GIÁO DỤC TRẺ EM VIỆT NAM

1. Khái niệm "hiệu quả tính pháp lý" của Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Theo Nhóm nghiên cứu, xét từ góc độ lý luận "hiệu quả tính pháp lý" phản ánh mức độ chấp hành các định hướng hành vi mà Nhà nước mong muốn xã hội phải thực hiện. “Hiệu quả tính pháp lý” do tính thuyết phục và tính cưỡng chế của pháp luật quyết định. Đối với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì tính pháp lý thể hiện ở chỗ Luật này chặt chẽ, cụ thể và nhân đạo đến đâu, đồng thời nó được bảo đảm thực hiện đến mức độ nào.

Khi đề cập "hiệu quả tính pháp lý" của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em không thể không tính đến hiệu lực thực tế của văn bản này. Đây là một nội dung quan trọng nhưng khó đánh giá vì tính phức tạp của nó.

"Hiệu quả tính pháp lý" là một đặc tính tự thân của pháp luật. Vì vậy, "nâng cao hiệu quả tính pháp lý" của một văn bản quy pháp luật có thể hiểu là sự tăng cường hiệu lực thực tế thông qua việc tăng cường các thuộc tính riêng có của pháp luật, cụ thể là "hiệu quả tính pháp lý" của pháp luật được thể hiện thông qua:

a) Tính quy phạm phổ biến của pháp luật, theo đó pháp luật có tính bắt buộc chung tất cả mọi đối tượng trong xã hội.

b) Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức của pháp luật, theo đó các nội dung của pháp luật phải được thể hiện bằng những hình thức chặt chẽ, rõ ràng nhất định (mà trong trường hợp này văn bản quy phạm pháp luật chính là một ví dụ điển hình) theo hình thức, thủ tục và thẩm quyền nhất định.

c) Tính được bảo đảm thi hành bằng toàn bộ sức mạnh Nhà nước. Tính hiệu quả pháp lý của pháp luật phụ thuộc chính vào chất lượng và vai trò, khả năng tổ chức thực hiện của Nhà nước.

Như vậy, từ các phân tích trên, việc lý giải về "hiệu quả tính pháp lý" của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sẽ phải bao quát một diện rất rộng các vấn đề đặt ra. Do khuôn khổ hạn hẹp của đề tài, Nhóm nghiên cứu sẽ chỉ tập trung vào hiệu quả pháp lý được thể hiện trong (i) chất lượng của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, (ii) qua thực tế hoạt động tổ chức thi hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và, (iii) qua hệ thống các chế tài pháp lý và cơ chế đảm bảo thi hành các chế tài này.

2. Về một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tính pháp lý của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam.

a) Chất lượng của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

Để Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phát huy hiệu quả pháp lý, trước hết Luật này phải có nội dung phù hợp với nhu cầu điều chỉnh trên thực tế, có cấu trúc và nội dung thuận lợi nhất cho việc tổ chức thực thi luật. Vì vậy, trong các nội dung nghiên cứu của mình, đề tài đã dành một phần thích đáng để phân tích so sánh về các điều khoản của Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em 1991 trong tổng thể hệ thống pháp luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam. Vì pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em có phạm vi rất rộng, bao trùm hầu hết các mặt hoạt động của đời sống xã hội, nên trong phạm vi nghiên cứu đề tài, nhóm nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu một số nhóm quyền và bổn phận đã được ghi nhận trong pháp luật (Hiến pháp và toàn bộ các văn bản khác trong hệ thống pháp luật) mà chủ yếu là các quy định tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Cụ thể bao gồm:

- Bảy nhóm quyền, bao gồm: quyền được khai sinh và có quốc tịch; quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng và tạo điều kiện phát triển trong điều kiện bình thường cũng như khi gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; quyền được sống chung với bố mẹ và có gia đình; quyền được bảo vệ tính mạng, nhân phẩm, được bày tỏ ý kiến nguyện vọng; quyền được chăm sóc sức khoẻ, bồi dưỡng thể chất; quyền được vui chơi, giải trí; quyền có tài sản, được hưởng thừa kế.

-    Bốn nhóm bổn phận bao gồm: (i) kính trọng người trên, hiếu thảo với gia đình; (ii) chăm chỉ học tập và rèn luyện; (iii) tôn trọng pháp luật, và (iv) yêu Tổ quốc, đồng bào.

b) Việc tổ chức thực hiện Luật của các cơ quan, tổ chức và địa phương

Theo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em thì việc tổ chức thực hiện Luật còn nhiều hạn chế và phụ thuộc nhiều vào các địa phương, mang màu sắc và đặc tính của từng khu vực hành chính và cộng đồng dân cư. Việc nhìn nhận đánh giá về vấn đề này phải gắn với chức năng quyền hạn nhiệm vụ và khả năng tác nghiệp cụ thể của từng hệ thống cơ quan có liên quan đến công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

c) Hệ thống chế tài đầy đủ, đủ mạnh và có cơ chế hữu hiệu bảo đảm thực hiện hệ thống chế tài đó

Để thi hành Luật, cần một hệ thống chế tài pháp luật vừa bao quát vừa đủ mạnh để đảm bảo tính cưỡng chế của Luật. Riêng về các chế tài, cần lưu ý một số điểm sau:

-  Trong trường hợp của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, phần chế tài sẽ phải thể hiện sự phản ứng của Nhà nước đối với hai nhóm hành vi: (i) trẻ em vi phạm pháp luật và (ii) người lớn vi phạm pháp luật về quyền trẻ em hoặc có hành vi xâm hại đối với trẻ em.

-  Chế tài pháp luật có nhiều hình thức khác nhau. Chế tài là một hoặc một nhóm điều khoản cụ thể nhằm xử lý hành vi vi phạm được quy định trong nhiều văn bản hoặc trong toàn bộ văn bản, được bảo đảm cưỡng chế thực hiện của Nhà nước. Các hình thức chế tài này có thể được áp dụng một cách linh hoạt trong hệ thống văn bản pháp luật, song yêu cầu đặt ra là phải được quy định rõ ràng, đồng bộ và dễ áp dụng. 

Bên cạnh hệ thống chế tài, cần có các cơ chế và phương thức hữu hiệu để đảm bảo mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đều có trách nhiệm thực hiện Luật. Điều này, một mặt, đòi hỏi phải có các cơ sở pháp lý được quy định ngay trong Luật, mặt khác, lại phụ thuộc vào những nỗ lực mạnh mẽ và liên tục của các cơ quan thực thi.

3. Một số vấn đề đặc thù trong pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em

Trước hết, về mặt thuật ngữ, trong hầu hết các quan hệ pháp luật thông thường, thuật ngữ thường được dùng là các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, trong pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em người ta sử dụng thuật ngữ “bổn phận”. Việc sử dụng thuật ngữ này nhằm chỉ một đặc trưng cơ bản của mối quan hệ người lớn - trẻ em trong việc thực hiện các quyền và bổn phận của trẻ em. Đó là tính lệ thuộc.

Trong việc thực hiện quyền trẻ em, trẻ em luôn đóng vai trò lệ thuộc, mong đợi sự quan tâm từ phía người lớn và phải tuân thủ lối hành xử mang tính chất chấp nhận và phục tùng. Thuật ngữ bổn phận, do đó, nhấn mạnh tính đạo lý truyền thống chứ không nặng tính pháp lý. Mặt khác, xem xét các bổn phận mà trẻ em phải tuân thủ, có thể thấy rõ nhiều bổn phận mang tính đạo lý khó có thể đưa ra xác định giới hạn rõ ràng (như bổn phận yêu kính ông bà bố mẹ, hiếu thảo với người trên...) mà giới hạn đó lại tuỳ thuộc vào sự giải thích của người lớn. Vì vậy, việc quy định và áp dụng các chế tài pháp lý cần phải cân nhắc kỹ lưỡng sao cho vừa đảm bảo hiệu quả thực thi của Luật, vừa gìn giữ được các quan hệ tình cảm truyền thống trong gia đình hay nhà trường.

Thứ hai, giữa các quyền và bổn phận của trẻ em có tính tương hỗ lẫn nhau. Trong mối quan hệ này quyền của trẻ em không làm trực tiếp phát sinh các nghĩa vụ pháp lý của trẻ em mà trực tiếp làm phát sinh trách nhiệm và nghĩa vụ của người lớn. Đây là các trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện các quyền và định hướng, uốn nắn cho trẻ thực hiện bổn phận của mình. Trách nhiệm pháp lý của người lớn bao gồm cả hai dạng là dạng hành động (người lớn vi phạm các quyền trẻ em) và không hành động (người lớn không thực hiện hoặc không làm tròn nghĩa vụ pháp lý của mình đối với trẻ em). Do đó, khi nói đến việc cưỡng chế thi hành Luật cần thiết phải xem xét các chế tài xử lý hoặc các cơ chế (cưỡng chế) áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã không thực hiện các chức năng hay công việc của mình liên quan đến việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Thứ ba, mối quan hệ giữa các quyền và bổn phận của trẻ em thể hiện đậm nét tính ưu việt của chế độ ta được thể chế hoá thành các quy định pháp luật (ví dụ như quyền học tập và hưởng sự chăm sóc ý tế miễn phí). Các quyền đó thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội đối với trẻ em nhưng đồng thời cũng chỉ có thể được thực hiện thông qua các nỗ lực chung của toàn xã hội. Vì vậy, chức năng quản lý Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em.

Thứ tư, khi xem xét mối quan hệ giữa các quyền và bổn phận của trẻ em trong từng trường hợp cụ thể cũng cần lưu ý tới cơ sở pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ đó. Bên cạnh đó, ngày nay Nhà nước ta đang chủ trương xã hội hoá các hoạt động bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em song các văn bản pháp luật của Nhà nước để thể chế hoá các hoạt động xã hội hoá này cũng chưa được ban hành đầy đủ. Do đó, khi xem xét về mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em, bên cạnh việc coi trọng các quy định về chế tài của pháp luật cũng cần tính đến cơ chế điều chỉnh của xã hội và các biện pháp xử sự mang tính truyền thống.

Thứ năm, liên quan đến trách nhiệm của các bên trong mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em, thì gia đình đóng vai trò như một điểm nút trung tâm.

4. Một số nét đặc thù trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các quyền và bổn phận của trẻ em.

Trước hết, về phương thức thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em, chính người lớn đặt nền móng, khuôn mẫu và định lượng cho các quyền và bổn phận của trẻ em sau này. Do đó, người lớn phải ý thức được và phải chịu trách nhiệm nếu trẻ em không được hưởng đầy đủ các quyền và thực hiện trọn vẹn các bổn phận của mình. Quyền, bổn phận của trẻ em không thể tách rời các quyền cơ bản của công dân.

Thứ hai, khi xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các quyền và bổn phận của trẻ em phải tính đến sự phát triển của lứa tuổi, giới tính và các hoàn cảnh đặc thù.

Thứ ba, khi xem xét tương quan các quyền của trẻ em cần quan tâm cả đến quyền vật chất và quyền nhân thân của trẻ em.

Thứ tư, tính đến đặc thù của vấn đề thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em là tính phục tùng, cần đề cao các giải pháp hỗ trợ, tuyên truyền và giáo dục. Cần bổ sung các chế tài pháp lý mạnh để xử lý hành chính - hình sự đối với các hành vi vi phạm quyền trẻ em hay việc không làm tròn bổn phận chăm sóc giáo dục trẻ em, song các biện pháp mạnh này chỉ có thể được coi như những giải pháp cuối cùng.

Thứ năm, mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em phải được đặt trong các hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tính lịch sử cần được hiểu theo hai hướng:

-  Mối quan hệ biện chứng giữa quyền và bổn phận của trẻ em khi được xem xét trong môi trường gia đình, phải tính đến yếu tố tâm lý và trật tự trong gia đình nhằm đạt được hiệu quả cao nhất là sự phát triển toàn diện của trẻ em.

-    Mối quan hệ biện chứng giữa quyền và bổn phận của trẻ em được thể hiện qua phương châm "giành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất" và chuẩn bị tốt nhất hành trang cho "các chủ nhân tương lai của đất nước". Khi áp dụng quy định về quyền và bổn phận của trẻ em mang tính cương lĩnh này, cần lưu ý làm cho chúng phù hợp với các điều kiện tổng hoà của quốc gia, vùng miền và khu vực kinh tế chứ không thể áp đặt và đòi hỏi một cách cứng nhắc.

Thứ sáu, cần chú ý đến các yếu tố mới của đời sống kinh tế xã hội mà ở thời điểm hiện nay là sự phát triển của nền kinh tế tri thức và sự nhảy vọt của công nghệ thông tin trong một xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá mang tính tất yếu, để từ đó có các phương pháp và cách thức tiếp cận phù hợp khi xử lý mối quan hệ quyền và bổn phận của trẻ em với trách nhiệm của người lớn.

II. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH VIỆC THỰC HIỆN LUẬT BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM

1. Khái quát về thực trạng 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

1.1. Những thành tựu trong xây dựng pháp luật

Tháng 2 năm 1990, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em. Tháng 8 năm 1991, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em trên cơ sở kế thừa và phát triển kết quả 10 năm thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Đạo luật này là một thành quả trực tiếp của sự nghiệp bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em do Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo vun đắp, thể hiện một cách khá đầy đủ tinh thần và nội dung của Công ước quyền trẻ em, đồng thời phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam.

Theo thống kê sơ bộ của Uỷ ban Bảo vệ Chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam tháng 3 năm 2002, trong hơn 10 năm qua, ở cấp trung ương, Nhà nước ta đã ban hành hơn 100 văn bản pháp luật các loại. Hệ thống các văn bản này đã tạo nên một hệ thống tương đối đồng bộ, bao gồm văn bản luật và văn bản dưới luật, góp phần quan trọng vào các thành tựu trong công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em của Việt Nam thời gian qua, đánh dấu bước phát triển đáng kể của hệ thống pháp luật về quyền trẻ em của Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ ở các mặt cụ thể như sau:

a) Vấn đề khai sinh và quốc tịch của trẻ

Quyền được khai sinh và có quốc tịch của trẻ em đã được quy định tại điểm 1 Điều 5 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Điều 3, 4 Nghị định số 374/HĐBT ngày 14/11/1991 quy định chi tiết thi hành Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, Mục 2, Mục 4 Bộ luật Dân sự 1995, Điều 18 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch. Đây là hai quyền đặc biệt quan trọng của trẻ đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 7 Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em.  Quyền khai sinh là cơ sở, là điều kiện để thực hiện các quyền khác của trẻ em như quyền có họ tên, quyền có quốc tịch…

Những năm vừa qua, việc đăng ký khai sinh cho trẻ em đã được gia đình và Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, bước đầu đã đi vào nề nếp. Tuy nhiên, tỷ lệ được khai sinh rất khác nhau giữa các khu vực, vùng. Khu vực thành phố hơn 90%, khu vực đồng bằng là 70%, khu vực miền núi chỉ đạt từ 30- 50%, có vùng chỉ đạt từ 15-20%.

b) Vấn đề xác định cha, mẹ cho con.

"Trẻ em không rõ cha mẹ khi có yêu cầu được cơ quan có thẩm quyền giúp đỡ xác định cha, mẹ cho mình". Đây là nội dung quan trọng thể hiện quyền có cha mẹ của trẻ em được quy định điểm 2 Điều 5 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Điều 5 Nghị định số 374/HĐBT, Điều 39 Bộ luật Dân sự 1995, Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

c) Vấn đề tôn trọng, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ, tính mạng, thân thể, nhân phẩm cho trẻ em

Quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ nhằm tạo nên sự phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức của trẻ em, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em được quy định tại Điều 8, 9, 10, khoản 1 Điều 14, Điều 46 Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, Điều 6, 7 Nghị định 374/HĐBT, Điều 37 Bộ luật Dân sự 1995, Điều 94, 112, 115, 117, 118, 120 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 34, 36, 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị quyết số 06/CP ngày 29/01/1993 về phòng chống và kiểm soát ma tuý, Chỉ thị số 06/1998/CT-TTg ngày 23/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác bảo vệ trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức lao động,...

d) Vấn đề học tập của trẻ em

Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 3, 6, 10, 13 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định học tập không chỉ là quyền mà còn là bổn phận nhằm bồi dưỡng cho các em có những kiến thức cần thiết trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó, ngày 12/08/1991, Nhà nước ta ban hành Luật Phổ cập giáo dục tiểu học áp dụng chính sách phổ cập giáo dục tiểu học đối với trẻ em trong toàn quốc độ tuổi từ 6 đến 14, dù ở điều kiện, hoàn cảnh khó khăn nào, trẻ cũng được đến trường để học các kỹ năng nói, đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, xã hội, con người, hướng cho các em biết sống một cuộc sống nhân ái, yêu cha mẹ, ông bà, yêu quê hương đất nước, yêu lao động, yêu hoà bình…Nghị định số 338/HĐBT ngày 26/10/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Luật phổ cập giáo dục tiểu học quy định về trách nhiệm của gia đình, nhà trường, chính quyền cơ sở và các cơ quan, ban ngành có liên quan trong việc tạo điều kiện cho trẻ em hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học.

đ) Vấn đề vui chơi, giải trí lành mạnh của trẻ em.

Quyền vui chơi, giải trí lành mạnh của trẻ em được quy định tại Điều 11 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Nghị định số 374/HĐBT và nhiều văn bản khác đã cụ thể hoá thành nhiều quy định chi tiết về trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc đảm bảo quyền được vui chơi giải trí của trẻ em.

Để có hạ tầng kiến trúc cho hoạt động vui chơi giải trí của trẻ em (hệ thống nhà thiếu nhi, nhà văn hoá, trung tâm thể thao, hệ thống thư viện...), Nhà nước đã có nhiều quy định ưu đãi cho các cơ quan, tổ chức giành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em. Ví dụ ưu đãi về sử dụng đất để xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, vườn hoa, khu vui chơi cho trẻ em… (Điều 58 Luật Đất đai năm 1993, Điều 2 Nghị định số 94/CP ngày 25/08/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về thuế nhà, đất và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất… Thông tư liên bộ số 24-TT/LB ngày 26/03/1994 của Bộ Tài chính, Văn hoá thông tin Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh quy định chế độ cấp phát, quản lý tài chính đối với các nhà thiếu nhi. Theo đó, Nhà nước cấp kinh phí hàng năm cho nhà thiếu nhi căn cứ vào nhiệm vụ được giao và dự toán kinh phí chi tiêu hoạt động, Nhà nước khuyến khích các nhà thiếu nhi tổ chức các hoạt động rộng rãi nhằm thu hút đông đảo thiếu nhi vào sinh hoạt...).

e) Quyền sống chung với cha mẹ của trẻ em.

Quyền sống chung với cha, mẹ của trẻ em được quy định tại Điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nghị định số 374/HĐBT, Điều 37 Bộ luật Dân sự, Điều 2, 5, 6, 7, 8, 26 Luật Hôn nhân gia đình... Đặc biệt việc bảo đảm quyền sống chung với cha mẹ của trẻ em còn được thể hiện rất rõ trong một loạt các văn bản về vấn đề nuôi con nuôi.

1.2. Thành tựu trong triển khai thực hiện luật

Ngay sau khi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Nghị định 374/HĐBT được ban hành, Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã tiến hành hàng loạt các hội nghị và chương trình hành động vì trẻ em; mở nhiều đợt tuyên truyền Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Công ước Quyền trẻ em rộng khắp từ trung ương đến cơ sở. Công tác tuyên truyền, vận động xã hội tham gia thực hiện các điều khoản của Luật, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, Nhà nước. Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã tiến hành các đợt kiểm điểm 5 năm và 10 năm việc thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Công ước Quyền trẻ em và Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em. Kết quả của các hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã hiện thực hoá thành nhiều công trình (Nhà thiếu nhi, Nhà trẻ, Trường học, Nhà mở, Mái ấm, Khu vui chơi...) nhiều phong trào và chương trình mang lại thành quả thiết thực cho trẻ em (phòng chống suy dinh dưỡng, phẫu thuật nụ cười, ánh mắt trẻ thơ, tiêm chủng mở rộng, đưa trẻ đến trường, tháng hành động vì trẻ em, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt...). Nhiều mô hình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã được xây dựng và nhân rộng như Mái ấm, Nhà tình thương, các Trung tâm tư vấn trẻ em.

Bên cạnh đó, do tác động của các hoạt động thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đã có nhiều động thái tích cực về mặt xã hội ảnh hưởng tốt đến đời sống tinh thần của trẻ. Các bậc phụ huynh đã lắng nghe và tôn trọng ý kiến của con em mình hơn, trẻ em đã mạnh dạn hơn trong việc bày tỏ quan điểm của mình và tham gia các hoạt động xã hội, bày tỏ ý kiến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trên toàn quốc hiện nay có 653 báo và tạp chí, phần lớn đều có chuyên mục riêng cho trẻ em, có 15 tờ báo dành riêng cho trẻ em. Ở 50 thư viện cấp tỉnh có khu vực riêng dành cho trẻ em hoặc có thư viện thiếu nhi.

Một thành tựu khác là sự gia tăng đáng kể và đều đặn nguồn đầu tư ngân sách và các nguồn lực cho việc thực hiện các quyền, bổn phận và mục tiêu vì trẻ em. Tổng chi cho dịch vụ xã hội cơ bản nói chung và cho mục tiêu trẻ em nói riêng (bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và vay nước ngoài) từ năm 1991 đến năm 2000 đã tăng gấp chục lần. Trong 10 năm thực hiện Luật vừa qua, Việt Nam cũng đã tích cực hợp tác và tranh thủ được sự giúp đỡ có hiệu quả của các nước, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ, chỉ riêng hỗ trợ của UNICEF cho Việt Nam trong 10 năm 1991 - 2000 đã là 110 triệu USD([1]).

1.3. Yếu kém bất cập

Đợt kiểm điểm đánh giá 5 năm thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1996 và đợt kiểm điểm đánh giá 10 năm Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2001 - 2002 đã ghi nhận một số nhược điểm và tồn tại trong việc thi hành Luật và xây dựng văn bản pháp luật có liên quan, cụ thể là:

Trước hết, Luật còn dừng lại ở việc khẳng định các quyền và bổn phận cơ bản của trẻ em, nhiều quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc, định hướng chung thiếu cụ thể. Các luật có liên quan lại chưa quy định đầy đủ và đồng bộ với các vấn đề liên quan đến trẻ em.

Thứ hai, nhiều văn bản quy định cụ thể chi tiết thi hành các điều khoản của Luật chưa có dẫn đến vướng mắc trong việc thực hiện Luật (quyền miễn viện phí trong khám chữa bệnh cho trẻ dưới 6 tuổi, miễn học phí cho học sinh tiểu học các trường công lập...).

Thứ ba, Luật đã quy định một số điều khoản mang tính cương lĩnh nhằm thể chế hoá một số chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự ưu việt của chế độ và sự quan tâm của toàn xã hội đối với trẻ em, nhưng thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện.

Thứ tư, Luật chỉ có 26 điều khoản dẫn đến việc khi thực hiện Luật phải viện dẫn các quy phạm có liên quan trong các đạo luật khác. Điều này tất yếu dẫn đến một số chồng chéo và phức tạp trong việc viện dẫn và áp dụng Luật.

Thứ năm, việc ban hành các văn bản dưới luật còn ít, chậm so với yêu cầu tiến độ triển khai áp dụng pháp luật trên thực tế (nhất là các văn bản mang tính phối hợp nhiều ngành) và sự cụ thể hoá cũng chưa đạt được ở mức độ cao.

2. Một số nhận xét về hệ thống chế tài đảm bảo thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc  và giáo dục trẻ em.

2.1. Quy định về chế tài của Luật phần lớn là còn chung chung, chưa xác định rõ hành vi vi phạm và trách nhiệm đối với những vi phạm đó.

2.2. Các quy định về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (gồm cả Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và các văn bản khác có liên quan) còn thiếu các chế tài đối với những vi phạm trong việc thi hành pháp luật.

Việc còn thiếu các quy định về trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cơ quan nhà nước đối với việc thực hiện các quyền trẻ em dẫn đến tình trạng thiếu căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các trường hợp gia đình, nhà trường, cơ quan, tổ chức, hoặc công chức Nhà nước cố ý hoặc vô ý, lợi dụng hoặc thiếu tránh nhiệm làm thiệt hại đến quyền lợi của trẻ em nhưng chưa đến mức độ hoặc không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ, tình trạng cha mẹ không cho con đi học, bắt ở nhà lao động khi trẻ dưới 14 tuổi. Hiện tượng đánh đập, trừng phạt học sinh, con cái trong gia đình với hình phạt nặng nề  vẫn xảy ra... Vẫn còn nhiều nơi, nhiều cơ quan tuỳ tiện trong áp dụng hoặc lẩn tránh các trách nhiệm luật định trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (đặc biệt là trong các lĩnh vực có liên quan đến lợi ích kinh tế như học phí, viện phí, chính sách hỗ trợ trẻ em nghèo, xã khó khăn...).

Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và các văn bản pháp luật khác quy định về quyền của trẻ em chưa có các quy định cưỡng chế xử lý, xử phạt những người không thực hiện hoặc những người không tôn trọng và xâm phạm quyền của trẻ em làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý vi phạm có liên quan.

2.3. Một số chế tài còn thiếu tính thực thi và chưa rõ cơ chế áp dụng.

Giữa Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, các Bộ luật hình sự, dân sự, lao động… và các văn bản dưới luật còn nhiều điểm trùng lắp và không nhất quán trong việc quy định chế tài. Ví dụ:

- Cùng hành vi kinh doanh đồ chơi có hại cho sự phát triển của trẻ em nhưng Nghị định số 49/CP ngày 15/8/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự quy định phạt tiền từ 1 triệu đến 5 triệu đồng không bắt buộc tiêu huỷ vật phẩm vi phạm, trong khi đó Điều 5 khoản 4 Nghị định 46/CP ngày 6/8/1996 quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về y tế lại quy định phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng kèm theo tiêu huỷ các vật phẩm vi phạm.

-  Hành vi sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật bị xử phạt từ 1 triệu đến 5 triệu đồng theo quy định tại Nghị định 49/CP, nhưng đối với một số trường hợp cụ thể sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật (sử dụng người chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại, vi phạm quy định về thời hạn sử dụng lao động chưa thành niên) thì Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động lại quy định chỉ xử phạt 1 triệu đồng.

-  Trường hợp lôi kéo, xúi giục người chưa thành niên vi phạm đã được Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hành chính, nhưng Nghị định số 49/CP lại quy định đây là một hành vi vi phạm hành chính độc lập bị xử phạt từ 5 triệu đến 10 triệu đồng.

- Điều 8 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn quy định rất chung chung "Trẻ em được Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình về những vấn đề có liên quan". Đảm bảo thực hiện điều này có các quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự song còn thiếu các chế tài tương ứng và chưa rõ cơ chế kiểm tra, đảm bảo thực hiện. Trên thực tế có nhiều hành vi vi phạm xảy ra nhưng rất khó áp dụng Điều 8 của Luật để xử lý.

III. THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG CHẾ TÀI BẢO ĐẢM THI HÀNH LUẬT BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM VIỆT NAM

1. Hệ thống chế tài và cơ chế bảo vệ quyền trẻ em theo quy định của pháp luật hành chính

1.1. Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền trẻ em.

1.1.1. Chế tài bảo vệ quyền được khai sinh và có quốc tịch.

Để bảo vệ quyền được khai sinh và có quốc tịch của trẻ em, pháp luật hành chính đã đặt ra những chế tài cụ thể được quy định tại Nghị định 49/CP ngày 15/08/1996. Do ý thức của nhiều người dân, đặc biệt là những người ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn hạn chế nên những quyền này của trẻ em chưa được thực hiện triệt để, đặc biệt là quyền được khai sinh. Những chế tài như cảnh cáo, phạt tiền chưa thực sự có tác dụng, khả năng thực thi chưa cao. Do đó bên cạnh các chế tài này cần có thêm những quy định hỗ trợ phù hợp khác.

1.1.2. Chế tài bảo vệ quyền được sống chung với cha mẹ; được chăm sóc, nuôi dạy để phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức; bảo vệ các quyền của trẻ em được hưởng sự chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ; được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về những vấn đề có liên quan.

Hành vi ngược đãi, ruồng bỏ trẻ em, giao, nhận trẻ em làm con nuôi trái quy định của pháp luật, vi phạm các quy định về sử dụng lao động nữ có thai nhằm bảo vệ người mẹ trong thời kỳ này cũng đồng thời là bảo vệ trẻ em ngay từ khi chưa lọt lòng bị phạt tiền theo quy định tại Nghị định 49/CP. Những chế tài đối với hành vi giao, nhận trẻ em làm con nuôi thực sự có hiệu quả trên thực tế, góp phần ngăn ngừa những hành vi lợi dụng hoàn cảnh lệ thuộc của đứa trẻ để khích lệ hoặc ép buộc chúng thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc các việc làm có hại cho sự phát triển bình thường, lành mạnh về sức khoẻ, trí tuệ và nhân cách của trẻ thơ; bảo đảm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, bảo đảm con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt. Riêng đối với hành vi ngược đãi trẻ em, trong thực tiễn hình phạt tiền rất khó thực hiện. Đôi khi hình phạt này lại chính là nguyên nhân gây căng thẳng và tạo áp lực cho trẻ em, đặc biệt ở những gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Hậu quả là nhiều em bị rơi vào trạng thái tâm lý tiêu cực, trở nên lì đòn, hung hăng, bất cần, thậm chí bỏ nhà ra đi.

1.1.3. Chế tài đối với nhóm quyền "được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm"

Hầu hết các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng đều được xử lý bằng pháp luật hình sự với những chế tài hết sức nghiêm khắc. Phạm tội đối với trẻ em được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Một số hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị áp dụng các chế tài hành chính (ví dụ như: lần đầu đánh, chửi trẻ em, trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng...).

Nhằm ngăn ngừa những hành vi lợi dụng sự lệ thuộc của trẻ em để bóc lột trẻ em, bắt trẻ em làm công việc nặng nhọc quá sức mình, hoặc không trả công lao động cho trẻ em tương xứng với công sức các em đã bỏ ra, Nghị định 49/CP quy định hình thức xử phạt đối với hành vi sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật, sử dụng người chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Bộ Lao động, Thương binh và xã hội và Bộ Y tế ban hành; kích động, lôi kéo, xúi giục trẻ em vi phạm pháp luật; vi phạm quy định về thời gian sử dụng lao động chưa thành niên, lạm dụng tình dục trẻ em. Chế tài bảo vệ nhóm quyền này chủ yếu là hình phạt tiền, các hình thức khác được quy định rất ít hoặc không được quy định như hình phạt bổ sung hay những biện pháp xử lý hành chính khác. Mức phạt còn tương đối thấp và hình thức xử phạt này chưa có hiệu quả.

Ngoài ra, để đảm bảo nguồn kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em, Nhà nước ta không ngừng khuyến khích việc thành lập quỹ bảo trợ trẻ em ở các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương. Nhằm động viên mọi người đóng góp sức người, sức của cho việc xây dựng Quỹ bảo trợ trẻ em và việc quản lý Quỹ cũng như quản lý các nguồn tài chính khác dành cho trẻ em, Nhà nước ta nghiêm cấm việc sử dụng các quỹ này và các nguồn tài chính vào mục đích khác.

1.1.4. Chế tài bảo vệ quyền được học tập, vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao.

Nghị định 49/CP và Nghị định 31/CP đã quy định hơn 800 hành vi thuộc tất cả các lĩnh vực văn hoá, thông tin, với những hình thức và mức phạt rất cụ thể, như cảnh cáo, phạt tiền từ 50.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu tang vật phương tiện vi phạm, tước quyền sử dụng giấy phép hành nghề, buộc tiêu huỷ sản phẩm có nội dung độc hại, buộc bồi thường do vi phạm gây ra. Trong đó có những quy định cụ thể trực tiếp bảo vệ quyền được vui chơi, giải trí lành mạnh, quyền được hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao của trẻ em. Những chế tài thực hiện việc đấu tranh chống văn hoá độc hại đã hình thành hệ thống và tương đối đồng bộ, phù hợp.

Ngoài ra, luật pháp còn nghiêm cấm việc lôi kéo trẻ em đánh bạc, cho trẻ em uống rượu, hút thuốc, dùng chất kích thích có hại cho sức khoẻ... nhằm tạo môi trường và gìn giữ sự phát triển về thể chất và tinh thần cho các em. Người nào cố tình thực hiện những hành vi đó thì tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà xử lý theo pháp luật hành chính hoặc pháp luật hình sự.

Nhằm ngăn ngừa hiện tượng sử dụng những cơ sở vật chất và các phương tiện dành cho việc vui chơi, giải trí, học tập... của trẻ em vào mục đích khác và đảm bảo trẻ em được vui chơi ở những khuôn viên an toàn, sạch đẹp, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành để xử lý các vi phạm đang diễn ra hàng ngày. Tuy nhiên, những chế tài này còn tương đối nhẹ và chưa thực sự có tính khả thi. Do đó, thực tế nhiều trường hợp vi phạm nhưng không thể thu được tiền phạt, thậm chí có những cá nhân, tổ chức sẵn sàng nộp tiền phạt để rồi tiếp tục vi phạm.

Theo quy định của pháp luật, những cá nhân, tổ chức vi phạm chính sách pháp luật về đảm bảo quyền học tập của trẻ em như: cho phép hoặc mở trường, lớp trái pháp luật, giáo dục trái với nội dung, chương trình do Nhà nước quy định; xâm phạm thân thể và danh dự học sinh; xâm phạm cơ sở vật chất của trường, lớp; lạm dụng quyền hạn sử dụng trái phép kinh phí dành cho giáo dục hoặc các vi phạm khác, thì tuỳ theo mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có văn bản chính thức nào quy định cụ thể hình thức và mức phạt đối với mỗi loại hành vi. Do đó, khi xảy ra vi phạm các cơ quan chức năng thường xử lý không thống nhất..

1.1.5. Chế tài bảo vệ quyền được có tài sản, được quyền thừa kế và quyền hưởng các chế độ bảo hiểm

Trên thực tế những quyền này của các em không được quan tâm đúng mức. Pháp luật hành chính mới chỉ có quy định chung bảo vệ quyền có tài sản của công dân mà chưa có quy định cụ thể để xử lý đối với những hành vi vi phạm quyền có tài sản của trẻ em. Mặc dù pháp luật coi quyền thừa kế của trẻ em là một vấn đề pháp lý hết sức quan trọng, nhưng vẫn chưa có chế tài hành chính xử lý những hành vi vi phạm quyền thừa kế của trẻ em.

1.2. Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật của trẻ em

Trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Mức phạt và hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại Điều 6 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính. Ngoài ra, trên cơ sở các quy định của Pháp lệnh, Chính phủ cũng đã quy định một cách cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với từng hành vi vi phạm pháp luật trên từng lĩnh vực cụ thể; trong đó trẻ em là một chủ thể chịu sự điều chỉnh khi có hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, mức độ xử phạt nhẹ hơn so với người thành niên có cùng hành vi vi phạm. Cách quy định như vậy làm cho hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính gọn hơn. Tuy nhiên, đối với trẻ em là một đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ thì các trình tự, thủ tục quy định chung như vậy là không phù hợp.

1.3. Cơ chế thực hiện

1.3.1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính

Các hình thức và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính (kể cả đối với người lớn và trẻ em vi phạm) được quy định tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính và nhiều văn bản dưới luật khác. Theo đó thẩm quyền và mức phạt được trao cho nhiều cơ quan khác nhau  theo các thủ tục xử phạt khác nhau Tuy nhiên, không phải lúc nào người bị xử phạt cũng có tiền nộp phạt khi tiền phạt tương đối lớn và đối tượng bị xử phạt gặp khó khăn về kinh tế. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về tạm hoãn thi hành quyết định phạt tiền đối với cá nhân (đặc biệt là trẻ em) bị xử phạt vi phạm hành chính với mức tiền tương đối lớn trong trường hợp gia đình đang gặp khó khăn về kinh tế, có đơn đề nghị và Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan xác nhận.

1.3.2. Các biện pháp xử lý hành chính khác

Các biện pháp xử lý hành chính khác như: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính thì biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng là những biện pháp có liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ quyền trẻ em. Các biện pháp này tương đối phù hợp, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thực hiện các biện pháp pháp lý khác có hiệu quả và bảo đảm các quyền của trẻ em được tôn trọng và bảo vệ.

1.3.3. Vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xử lý vi phạm hành chính

Ở Việt Nam, cùng với quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại tố cáo của công dân, Toà hành chính đã được thành lập và đi vào hoạt động. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của toà hành chính hiện nay vẫn còn những bất cập. Số vụ án Toà hành chính thụ lý còn quá ít so với tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan hành chính, dẫn đến tình trạng quá tải tại các cơ quan này. Cho đến nay vẫn chưa có một vụ án hành chính nào liên quan tới việc bảo vệ quyền trẻ em. Bởi lẽ, trên thực tế vẫn còn hiện tượng coi việc khởi kiện ra toà án hành chính là một gánh nặng, ngại va chạm với các cơ quan hành chính nhà nước.

1.4. Kiến nghị

·  Để thực hiện Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định hình thức xử phạt đối với từng loại hành vi vi phạm hành chính. Tuy nhiên, nhiều hành vi vi phạm được quy định không rõ và mức xử phạt cũng không thống nhất. Ví dụ: thế nào là hành vi “gây hư hại tài sản của người khác”, thế nào là “lạm dụng tình dục”“lạm dụng tình dục trẻ em”... Do đó, cách quy định như vậy sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng các chế tài và dẫn đến tuỳ tiện.

·  Hình thức phạt tiền: So với trước đây, mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm hành chính đều cao hơn rất nhiều lần. Song, với mức phạt cao đó không phải ai cũng có khả năng thi hành quyết định xử phạt, dẫn đến xin xỏ, hối lộ người thi hành công vụ. Mức phạt tiền cao, nhất là mức tối đa đến 100.000.000 đồng cho chúng ta cảm giác như đang hành chính hoá việc xử lý hình sự. Với mức phạt nặng như vậy có thể được coi là tội phạm. Do đó, cần nghiên cứu giảm bớt mức phạt tiền đối với một số trường hợp cụ thể để chế tài có khả năng thực thi trên thực tế.

Các mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm hành chính nói chung cũng như hành vi vi phạm quyền của trẻ nói riêng còn rất chung chung, chưa cụ thể. Có nhiều văn bản quy định mức phạt tiền tối thiểu và tối đa đối với một loại vi phạm với khoảng cách xa đã gây khó khăn cho việc áp dụng khi truy cứu trách nhiệm hành chính. Có những hành vi vi phạm hành chính như nhau cùng thời điểm, song ở các địa điểm khác nhau và người xử lý khác nhau sẽ có mức phạt khác nhau. Nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải chia nhỏ khung phạt tiền để áp dụng thống nhất và đúng đắn hơn.

Đối tượng bị phạt tiền là tổ chức cần được xem xét lại. Cá nhân thuộc tổ chức cố tình vi phạm rồi lấy tiền của tổ chức để nộp phạt (cá nhân nhân danh một cơ quan lấn chiếm đất thuộc khu vui chơi của trẻ em để kinh doanh...) Như vậy thì việc phạt tiền đối với tổ chức không có ý nghĩa.

Đối với đối tượng chưa thành niên từ 14 đến 16 tuổi vi phạm hành chính cố ý nhưng pháp luật quy định chỉ phạt không quá 50.000 đồng là không phù hợp, người nộp phạt thông thường là cha, mẹ. Với mức phạt tiền không quá 50.000 đồng đối với hành vi cố ý vi phạm hành chính là thấp, không có ý nghĩa răn đe, dễ dẫn đến xem thường pháp luật và cố ý tái phạm. Vì vậy, cần nâng cao hơn mức phạt tiền đối với đối tượng này.

·  Về hình thức phạt cảnh cáo: Khi xử lý các hành vi vi phạm quyền trẻ em, hình thức chế tài này ít được áp dụng. Việc quy định đối tượng áp dụng hình thức phạt này ngoài cá nhân còn có tổ chức là chưa phù hợp, không có tác dụng trong đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính, nhất là trong vấn đề bảo vệ trẻ em.

·  Về các hình thức phạt bổ sung và biện pháp hành chính khác: Pháp luật quy định phạt bổ sung với hai hình thức tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Những hình thức phạt này lại nặng hơn hình thức phạt chính. Tại một số địa phương thì người có thẩm quyền xử phạt thường chỉ áp dụng hình thức phạt chính mà không áp dụng hình thức phạt bổ sung và biện pháp hành chính khác. Các hình thức phạt này cũng rất ít khi được áp dụng kèm theo hình phạt chính khi xử lý những hành vi vi phạm quyền trẻ em.

2. Chế tài dân sự và cơ chế truy cứu nhằm bảo vệ quyền của trẻ em

2. 1. Chế tài dân sự

2.1.1. Quyền bảo vệ tính mạng, thân thể, danh dự và nhân phẩm

Dưới góc độ bảo vệ của luật dân sự, các chế tài dân sự được quy định trong nhiều văn bản khác nhau nhằm chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục những thiệt hại do những hành vi vi phạm đó gây ra. Các chế tài đó là:

a) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm.

b) Xin lỗi, cải chính công khai.

c) Bồi thường thiệt hại

Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và phải được tiến hành nhanh chóng để bảo vệ quyền lợi của người vi phạm. Cụ thể:

w Thiệt hại về sức khoẻ, bao gồm: (i) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và các chức năng bị mất, bị giảm sút của trẻ em. Chi phí trực tiếp cho người phải chăm sóc nạn nhân theo yêu cầu của cơ sở chữa bệnh; (ii) Thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút sau khi điều trị nếu trẻ em có tham gia lao động và của người phải chăm sóc. Nếu không có thu nhập ổn định, thì áp dụng mức trung bình của lao động cùng loại.

w Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. Tính mạng của con người là vô giá không thể tính thành tiền. Vì vậy thiệt hại về vật chất do tính mạng bị xâm phạm cần được xác định gồm: chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc nạn nhân trước khi chết, chi phí cho việc mai táng phù hợp với phong tục tập quán. Các quy định này được áp dụng chung cho cả người lớn và trẻ em.

w Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, bao gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm;

Ngoài việc bồi thường những thiệt hại về vật chất, người có hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, danh dự và nhân phẩm của trẻ em còn phải bồi thường một khoản tiền cho những tổn thất tinh thần do hành vi đó gây ra cho trẻ em hoặc người thân thích (trong trường hợp trẻ em chết). Tuy nhiên, rất khó xác định cụ thể về mức tổn thất tinh thần để quy trách nhiệm bồi thường một cách công bằng. Trong khi đó pháp luật chưa có quy định cụ thể.

w Người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bộ luật Dân sự quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ của năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân. Người dưới 18 tuổi là những người không có hoặc không đầy đủ năng lực hành vi. Vì vậy, cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con mình gây ra.

d) Hạn chế quyền của cha mẹ, người giám hộ

Điều 41 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: khi cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con thì theo yêu cầu của người có quyền, Toà án ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời gian từ 1 năm đến 5 năm, Toà án có thể xem xét việc rút ngắn thời gian này. Việc hạn chế quyền của cha, mẹ không làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ của cha, mẹ đối với trẻ em, chẳng hạn như cha, mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng...

Trong trường hợp người giám hộ xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của trẻ em, Toà án sẽ ra quyết định chấm dứt quyền giám hộ của người giám hộ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có văn bản nào giải thích như thế nào là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ; quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được hiểu như thế nào? Phải có bản án, quyết định có hiệu lực của toà án hay chỉ cần quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước khác. Chính vì vậy, việc áp dụng chế tài này trên thực tế gặp nhiều khó khăn.

e) Không được hưởng di sản

Đối với những người trong diện được thừa kế tài sản của trẻ em được quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự như: cha, mẹ đẻ, cha, mẹ nuôi, ông, bà nội (ngoại) anh, chị, em ruột… bị kết án về hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của trẻ em thì cũng không được quyền hưởng di sản của trẻ em đó.

Ngoài ra, đối với hành vi xâm phạm tính mạng của trẻ em nhằm để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà trẻ em được hưởng từ người thứ 3 thì người có hành vi đó cũng không được hưởng di sản của người thứ 3 đó.

Quyền hưởng di sản thừa kế chỉ phát sinh khi có sự kiện trẻ em chết. Do vậy, chế tài này chỉ áp dụng khi trẻ em bị chết. Tuy nhiên, những người nêu trên vẫn có thể được hưởng di sản nếu trẻ em biết được hành vi của người đó nhưng vẫn cho  họ được hưởng theo di chúc.

2.1.2. Quyền có tài sản và quyền thừa kế của  trẻ em

Do chưa phát triển đầy đủ và hoàn thiện về thể chất và tinh thần nên việc thực hiện các quyền về tài sản cả người chưa thành niên có một số hạn chế nhất định theo quy định của pháp luật. Đối với người chưa đủ 6 tuổi do không có năng lực hành vi dân sự nên mọi giao dịch liên quan đến tài sản của người chưa thành niên đều phải do người đại diện xác lập thực hiện. Đối với người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đủ để thực hiện nghĩa vụ được xác lập, thực hiện giao dịch và phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản mà họ có, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.

Để bảo vệ quyền của trẻ em khi tham gia các giao dịch dân sự, ngăn chặn những hành vi lợi dụng sự non nớt của trẻ em để gây thiệt hại đến lợi ích của trẻ em. Bộ luật dân sự quy định một số chế tài sau:

w Tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, xác lập, thực hiện mà theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện cho người đó, toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

w Bồi thường thiệt hại. Bên đã biết người thực hiện giao dịch với mình là người chưa thành niên mà vẫn tham gia giao dịch, thì phải bồi thường thiệt hại cho người chưa thành niên theo yêu cầu của người đại diện của họ.

w Pháp luật quy định nghĩa vụ và các chế tài dân sự (trách nhiệm dân sự) của những người đại diện cho trẻ em trong việc quản lý tài sản của trẻ em. Do vậy, khi cha, mẹ hoặc người giám hộ xác lập và thực hiện những giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của trẻ em không vì lợi ích của trẻ em, hay vượt quá phạm vi thẩm quyền mà luật cho phép thì những giao dịch đó vô hiệu hoặc không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của trẻ em được làm đại diện. Ngoài ra, cha mẹ hay người giám hộ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình trừ khi người đó biết hoặc không biết cha mẹ hay người giám hộ không có thẩm quyền hay vượt quá thẩm quyền. Trong trường hợp việc xác lập, thực hiện các giao dịch nêu trên gây thiệt hại cho trẻ em mà mình làm đại diện thì phải bồi thường.

Ngoài ra, trong trường hợp cha, mẹ có hành vi phân tán tài sản của con, người giám hộ quản lý tài sản không vì lợi ích của trẻ em thì Toà án sẽ ra quyết định hạn chế quyền quản lý tài sản hoặc đại diện trước pháp luật của cha mẹ hoặc ra quyết định thay đổi người giám hộ.

Vướng mắc trong việc bảo vệ quyền tài sản của trẻ em:

- Trong thực tế, trẻ em luôn sống chung cùng với gia đình mà cụ thể là cha, mẹ, ông bà, hoặc cô, dì, chú, bác… do đó sự phân định về tài sản giữa các thành viên trong gia đình trong đó có tài sản của trẻ em là không rõ ràng. Các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhận, xác nhận về mặt hình thức mà chưa có một cơ chế để xác định rõ ràng và cụ thể tài sản của người nào, của cá nhân nào và quyền tài sản phát sinh từ thời điểm nào, được quản lý như thế nào. Chính vì vậy, việc xác định những hành vi vi phạm quyền sở hữu của trẻ em để từ đó áp dụng những chế tài dân sự nêu ở trên trong thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần phải có văn bản riêng quy định về quyền về tài sản và sở hữu, nhất là đăng ký tài sản, chuyển dịch sở hữu thì việc bảo đảm quyền tài sản của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng mới có hiệu quả.

- Trong giao dịch dân sự, xác định trách nhiệm dân sự liên đới và vô hạn của hộ gia đình không thể bằng tài sản của tất cả các thành viên, mà chỉ có thể bằng tài sản của những thành viên đã thành niên. Chính vì vậy, cần phải sửa Khoản 2 Điều 119 Bộ luật Dân sự như sau: “...nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ, thì các thành viên đã thành niên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình”.

2.1.3. Quyền được cấp dưỡng (Chương VI Luật Hôn nhân và gia đình 2000.

Điều 646 Bộ luật Dân sự quy định đối với những người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với trẻ em thì không được hưởng quyền thừa kế tài sản của trẻ em đó. Tuy nhiên, vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định như thế nào là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng nên việc áp dụng trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Nhóm nghiên cứu cho rằng, các chế tài nêu trên vẫn chưa đủ mạnh để có tác dụng răn đe đối với người có hành vi vi phạm. Bởi vì, việc áp dụng những chế tài buộc người vi phạm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho trẻ em với một mức cấp dưỡng do toà án xác định chỉ có ý nghĩa bảo đảm quyền được cấp dưỡng của trẻ em trong tương lai mà không bù đắp được những thiệt hại, tổn thất mà trẻ em hay người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em phải gánh chịu do hành vi vi phạm gây ra. Vì vậy, cần phải bổ sung Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 chế tài sau: “Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó có thể yêu cầu Toà án buộc người vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm đó gây ra”.

2.2. Cơ chế truy cứu trách nhiệm dân sự trong việc bảo vệ quyền trẻ em

Do trẻ em là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, việc tự mình bảo vệ quyền dân sự hay yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ mình luôn bị hạn chế hơn so với những người trưởng thành khác. Việc bảo vệ quyền dân sự của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng thông qua khởi kiện vụ án dân sự vẫn được quy định bởi Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, các văn bản này được ban hành cách đây khá lâu, có nhiều quy định không còn phù hợp, không đảm bảo được yêu cầu bảo vệ các quyền hợp pháp của công dân, đặc biệt là đối với trẻ em. Để bảo đảm quyền của trẻ em tốt hơn, trong phần viết này, nhóm nghiên cứu tập trung phân tích những quy định tố tụng dân sự liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em.

2.2.1. Việc bảo đảm quyền khởi kiện của trẻ em

Pháp luật quy định tất cả mọi công dân Việt Nam, trong đó có trẻ em, đều có quyền khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Để bảo đảm quyền khởi kiện của trẻ em, pháp luật quy định: Người chưa thành niên phải có người đại diện thay mặt trong tố tụng mà cụ thể là: Cha mẹ, hoặc là người giám hộ. Nhưng cũng có trường hợp cha, mẹ, người giám hộ không thực hiện quyền khởi kiện, hoặc chính cha, mẹ người giám hộ lại là những người vi phạm quyền của trẻ em. Vì vậy, pháp luật quy định, nếu không có người khởi kiện thì Uỷ ban Mặt trận tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức hoặc công dân khác trong phạm vi chức năng của mình có quyền khởi kiện hoặc đề nghị Viện Kiểm sát khởi tố. Trong quá trình công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự và những việc khác do pháp luật quy định, Viện Kiểm sát phát hiện thấy hành vi vi phạm trong lĩnh vực dân sự mà chưa có người khởi kiện thì cũng có quyền khởi tố.

Tuy nhiên, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được ban hành cách đây hơn chục năm, trong bối cảnh đất nước ta còn đang trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, vì vậy những quy định về năng lực hành vi tố tụng dân sự không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, cũng như các quy định khác của pháp luật nội dung, (quy định về năng lực hành vi dân sự của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi của Bộ luật Dân sự, quy định về độ tuổi lao động của Bộ luật Lao động...). Vì vậy, khi xây dựng luật tố tụng dân sự cần thừa nhận một phần năng lực hành vi tố tụng dân sự của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.

2.2.2. Người tham gia vụ án dân sự

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự không quy định rõ khái niệm để làm căn cứ xác định tư cách của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với việc xác định nguyên đơn và bị đơn. Thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay Toà án thường áp dụng Điều 40, 41 Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định tư cách bị đơn, nguyên đơn dân sự. Việc áp dụng những quy định này hiện còn đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với những vụ án mà người gây thiệt hại là người chưa thành niên.

Theo Nhóm nghiên cứu, khi ban hành Luật tố tụng dân sự mới, cần quy định khái niệm nguyên đơn và bị đơn như sau: “Nguyên đơn là người giả thiết có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm hay tranh chấp nên khởi kiện (hoặc được người khác khởi kiện, khởi tố theo quy định của phá luật) nhằm bảo vệ những quyền và lợi ích đó. Bị đơn là người tham gia tố tụng theo yêu cầu của nguyên đơn hoặc người khởi kiện, khởi tố vì lợi ích chung do giả thiết đã vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hoặc tranh chấp với nguyên đơn”.

3. Chế tài hình sự  đối với các tội phạm xâm hại trẻ em và đối với người chưa thành niên phạm tội.

3.1. Chế tài hình sự đối với các nhóm hành vi xâm hại trẻ em

3.1.1. Chế tài đối với nhóm hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ trẻ em

Để nghiêm trị hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ của trẻ em ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường và tương lai của trẻ em và cũng để tránh tình trạng gây ra hậu quả nghiêm trọng trên thực tế (trẻ em tự sát), Bộ luật Hình sự năm 1999 đã có những chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung cơ bản về các tội phạm liên quan đến hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ của trẻ em (hành vi bức tử, hành vi gây thương tích, giết người, đe dọa giết trẻ em, vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (trong đó có trẻ em)... cho trẻ em).

Hình thức chế tài trong Bộ luật Hình sự mang tính hai mặt - một mặt bảo vệ trẻ em khi trẻ em là khách thể bị xâm hại, mặt khác có ý nghĩa trừng trị, răn đe và giáo dục trẻ em nếu trẻ em là chủ thể của tội phạm.

Những quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 là những quy định đã được tiếp thu trên cơ sở kết quả khảo sát, đánh giá, tổng kết thi hành Bộ luật Hình sự trong thời gian qua. Những quy định này đã khắc phục cơ bản những thiếu vắng, hạn chế, chồng chéo và vướng mắc, bất cập của Bộ luật Hình sự trước đây. Tuy nhiên, mặc dù là mới mẻ song trong bước đầu thực hiện cũng đã góp phần không nhỏ vào công tác đấu tranh chống tội phạm, tỷ lệ tội phạm xâm hại tính mạng, sức khoẻ của trẻ em trong thời gian qua có chiều hướng giảm mặc dù mức độ giảm chưa hẳn rõ rệt.

3.1.2. Chế tài đối với nhóm hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm trẻ em

Trong những năm qua, mặc dù các chế tài xử lý đối với các hành vi xâm hại danh dự, nhân phẩm của trẻ em (như hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ô với trẻ em, lây truyền HIV cho trẻ em, mua bán đánh tráo trẻ em, làm nhục trẻ em...) đã được quy định rất cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta, song, những hành vi này vẫn không được đẩy lùi. Số vụ hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ô với trẻ em, mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, hành hạ trẻ em đã giảm nhưng giảm không đáng kể.

Pháp luật bảo vệ trẻ em đã quy định về vấn đề làm nhục trẻ em, vu khống cho trẻ em và ngược đãi trẻ em rất cụ thể, rõ ràng. song những quy định này chưa thực sự sống và đi vào nhận thức của mỗi người dân. Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm chung của mỗi công dân, của cộng đồng xã hội, vậy nhưng ngay cả đến một số người thân thích ruột thịt vẫn cố tình xâm hại các quyền này của con em mình.

3.1.3. Chế tài đối với nhóm tội xâm phạm quyền được chăm sóc, nuôi dạy để phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức của trẻ em

Điều 152 Bộ luật Hình sự quy định chế tài đối với tội phạm thực hiện hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Nhưng thực tế cuộc sống cũng phát sinh ra nhiều vấn đề khó lường, đó là tình trạng bỏ mặc trẻ em, không chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em để cho trẻ em bệnh tật, không được đến trường, không được vui chơi, giải trí cũng như không có cơ hội để phát triển. Cấp dưỡng nuôi con khi cha, mẹ ly hôn cũng là một trong những vấn đề được gia đình và xã hội quan tâm, bởi rất nhiều trường hợp cha hoặc mẹ đã trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hoặc có thực hiện nhưng không đầy đủ.

3.1.4. Chế tài đối với nhóm tội xâm phạm quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ trẻ em

Bảo vệ trẻ em bằng pháp luật hình sự nhằm hạn chế các hành vi bóc lột sức lao động của trẻ em, lôi kéo trẻ em vào con đường phạm tội là một vấn đề có ý nghĩa cơ bản quan trọng, nhằm mục đích tạo điều kiện cho trẻ em thực hiện các quyền của mình và phát huy các quyền này tốt nhất. Tại khoản 1, và 2 Điều 14 Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em không được… và dùng các chất kích thích khác có hại cho sức khoẻ; Nghiêm cấm việc dụ dỗ, cho trẻ em dùng chất kích thích có hại cho sức khoẻ”. Đối với hành vi sử dụng trẻ em vào mục đích vận chuyển, mua bán trái phép ma tuý, tổ chức sử dụng trái phép các chất ma tuý, chứa chấp việc việc sử dụng trái phép chất ma tuý đều bị áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc để trừng trị kẻ phạm tội. (Điều 194, 197, 198, 200, 228 Bộ luật Hình sự năm 1999).

3.2. Chế tài hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội.

3.2.1. Chế tài hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.

Luật hình sự quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này xuất phát từ đặc trưng của độ tuổi này, người chưa thành niên có mức độ nhận thức và điều khiển hành vi chưa chuẩn (lệch chuẩn). Hơn nữa, mục đích chủ yếu của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội có hành vi nguy hiểm cho xã hội là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân hữu ích cho gia đình và xã hội, tinh thần này thể hiện rất rõ trong nội dung quy định của Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999. Việc hạn chế áp dụng chế tài hình sự hoặc có sự nương nhẹ khi áp dụng các biện pháp chế tài hình sự xử lý người chưa thành niên phạm tội là một nguyên tắc bao trùm, mang tính chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xử lý vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên.

Trong những năm gần đây, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội có chiều hướng gia tăng, loại tội phạm mà đối tượng này thực hiện cũng rất đa dạng và phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thực hiện hành vi vi pháp luật nghiêm trọng này là do nhận thức không đầy đủ về tính chất, mức độ nghiêm trọng cho xã hội của hành vi phạm tội, do bị lừa gạt, lôi kéo, dụ dỗ, do ăn chơi, đua đòi và do nhiều tác động tiêu cực của nhiều yếu tố khách quan mang lại.

Về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, theo quy định của BLHS năm 1999 có bốn loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính theo trật tự từ nhẹ đến nặng, cụ thể: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Luật hình sự không cho phép áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Về bản chất, các loại hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội không khác so với các loại hình phạt tương tự áp dụng đối với người đã thành niên. Luật hình sự không quy định áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, bởi hình phạt tù chung thân không phù hợp với mục đích giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội sửa chữa những sai lầm, phát triển lành mạnh mà loại hình phạt này thiên về trừng trị nhiều hơn. Việc không áp dụng hai loại hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội là cần thiết và hợp lý, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội.

3.2.2. Thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội.

Bộ luật Tố tụng hình sự đã dành riêng một Chương VII để quy định về trình tự, thủ tục tố tụng đặc biệt đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội.

Bộ luật Tố tụng hình sự đã đặc biệt chú trọng và quan tâm đến lứa tuổi của đối tượng phạm tội là người chưa thành niên để có các biện pháp áp dụng phù hợp và cần thiết đối với từng lứa tuổi của trẻ em khi ra lệnh bắt tạm giữ, tạm giam.

Xuất phát từ độ tuổi, trình độ phát triển thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên, khi tiến hành tố tụng điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý khọc, về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên.

Đối với việc bào chữa cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho các đối tượng này. Trường hợp bị can, bị cáo không có lựa chọn thì đại diện hợp pháp của những người này có thể lựa chọn luật sư bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho những bị can, bị cáo này.

Trong trường hợp cần thiết, việc hỏi cung bị can là người chưa thành niên tại cơ quan điều tra phải có mặt đại diện của gia đình bị can. Tại phiên toà xét xử phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường hoặc tổ chức xã hội.

Khác với thành phần xét xử của các vụ án khác, trong vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, thành phần Hội đồng xét xử có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể xét xử kín đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên và xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với bị cáo, thì Toà án áp dụng một trong những biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999.

3.3. Kết luận và kiến nghị

Góp phần vào việc phát huy hiệu lực của các chế tài về xử lý tội phạm xâm hại trẻ em và xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 1999, đồng thời phát huy hiệu quả của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nhóm nghiên cứu có một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm xâm phạm trẻ em. Đặc biệt là các quy phạm pháp luật để cụ thể hoá các nguyên tắc hình sự đã được Bộ luật hình sự quy định, nhất là các quy định liên quan đến việc hiểu và áp dụng các chế tài xử lý hình sự đối với tội này. Cần có văn bản nào hướng dẫn cụ thể là trường hợp nào cần thiết đưa ra xét xử và áp dụng hình phạt và trường hợp nào là không cần thiết.

Thứ hai, hoàn thiện thiết chế bộ máy để điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án loại tội xâm hại trẻ em và loại tội mà trẻ em là người phạm tội như:

+ Cần xúc tiến thành lập Trung tâm chuyên nghiên cứu về tội phạm học và vấn đề liên quan đến tư pháp người chưa thành niên;

+ Cần thành lập Toà án vị thành niên và hệ thống tư pháp chưa thành niên.

4. Cơ chế thực thi và đảm bảo thực hiện các chế tài một cách có hiệu quả

4.1. Thực trạng về thi hành các bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em

Qua các số liệu từ cuộc khảo sát thực tế và các tài liệu đánh giá của Ủy ban Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đề tài đã tiến hành nghiên cứu, đánh giá:

-      Thực trạng thi hành các phán quyết của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hành vi xâm hại quyền và lợi ích của trẻ em.

-      Thực trạng thi hành các phán quyết của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với trẻ em làm trái pháp luật.

Từ sự phân tích đánh giá đó cho thấy việc xử lý các hành vi vi phạm quyền của người chưa thành niên nói chung và của trẻ em nói riêng cũng như xử lý, giáo dục người chưa thành niên phạm tội đã được Nhà nước quan tâm. Các biện pháp quản lý giáo dục tại cơ sở đối với trẻ em hư, trẻ em phạm pháp cần phải được mở rộng và tăng cường hiệu quả hơn nữa. Trong đó vai trò chính yếu không phải chỉ thuộc về các cơ quan chức năng tại địa phương như công an phường, chính quyền phường mà trước hết là của chính các tổ dân phố và cụm dân cư cơ sở. Nếu công tác này được thực hiện tốt sẽ góp phần quan trọng uốn nắn và phục hồi các nhân cách còn non trẻ, trả về cho xã hội những chủ nhân tương lai tốt đồng thời triệt bỏ ngay từ đầu nguy cơ vốn vẫn được coi là “nguồn bổ sung tội phạm” sau này.

4.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thi hành các chế tài pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Ngoài những bất cập chung của công tác thi hành án, đi vào từng lĩnh vực thi hành án cụ thể còn có những hạn chế mang tính đặc thù về thi hành án trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em sau đây:

4.2.1. Những hạn chế trong quy định của pháp luật.

- Các quy định về việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nhìn chung chưa có sự phân hoá cụ thể. Tức là từ khâu ra bản án, tổ chức thi hành, đến các nội dung giáo dục, cải tạo… chưa mang tính đặc thù, chưa có sự phân hoá giáo dục ở mức độ cần thiết.

- Một số quy định về biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên còn chưa hợp lý. Ví dụ: việc khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam; Việc tạm đình chỉ thi hành biện pháp giáo dưỡng tư pháp; Việc phân loại đối tượng bị kết án phạt tù, trẻ em trong trường giáo dưỡng, người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh chưa thực sự gắn liền với công tác tái hoà nhập cộng đồng sau này.

- Thực tiễn thi hành án dân sự trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em cũng đặt ra một số vấn đề vướng mắc. Đó là:

+ Trong các bản án, quyết định về hôn nhân  gia đình, việc giao con chưa thành niên cho ai nuôi dưỡng đã được Toà án giải quyết. Trong trường hợp người được Toà án giao trách nhiệm nuôi dưỡng yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án có trách nhiệm ra quyết định và tổ chức việc thi hành giao đứa trẻ đó cho người nuôi dưỡng theo quyết định của bản án. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, con người không phải là tài sản, vì vậy Bộ Tư pháp không đặt ra và không chỉ đạo việc cưỡng chế giao con. Nhưng nếu chấp hành viên đã áp dụng mọi biện pháp giáo dục, thuyết phục cần thiết để yêu cầu người phải thi hành án chấp hành mà vẫn không có kết quả thì sẽ giải quyết ra sao?

+ Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ hai tháng đến hai năm”. Tuy nhiên, Điều 304 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chỉ xử lý hành vi không chấp hành án nói chung và không chấp hành án cấp dưỡng, nuôi con nói riêng khi và chỉ khi đương sự bị áp dụng một biện pháp cưỡng chế cần thiết. Trong trường hợp này, việc thi hành án đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng không có biện pháp cưỡng chế thi hành án cụ thể.

- Tương tự như vậy, hiện nay pháp luật cũng chưa có chế tài cụ thể về việc buộc đương sự phải làm một công việc nhất định như: buộc công khai xin lỗi, buộc khôi phục lại hiện trạng, thăm đón con chung...

4.2.2. Những hạn chế trong tổ chức thực hiện

Việc tổ chức thi hành án trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em trên thực tế cũng gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định. Cụ thể là:

(1) Vấn đề học văn hoá của trẻ em tại các cơ sở thi hành án.

Trong thời gian thi hành hình phạt, trẻ em được trại giam, trường giáo dưỡng tổ chức dạy học xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. Tuy nhiên, số phạm nhân là trẻ em ít, không có cùng cấp học, trình độ không đồng đều, không có điều kiện tổ chức thành một lớp... Một số cơ sở giam giữ người chưa thành niên phạm tội hình sự không có điều kiện tổ chức được việc học văn hoá và học nghề cho người chưa thành niên. Tại các trường giáo dưỡng, việc học văn hoá, học nghề được tiến hành, song việc tổ chức kỳ thi và cấp bằng văn hoá còn rất khó khăn do không học đủ các học trình và không tổ chức được Hội đồng thi. Chính vì những lý do trên nên chất lượng giáo dục đối với trẻ em là phạm nhân, trẻ em trong các trường giáo dưỡng thấp hơn nhiều so với môi trường giáo dục ngoài xã hội. Do vậy, sau khi tái hoà nhập cộng đồng hầu như các em ít có điều kiện để tiếp tục học theo các cấp học tiếp theo.

(2) Vấn đề dạy nghề tại các cơ sở thi hành án.

Phần lớn các Trại giam, Trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh coi trọng nhiều đến vấn đề lao động bắt buộc, còn việc đầu tư cho các hoạt động dạy nghề, lao động hướng nghiệp trong các trường, trại, cơ sở này còn nhiều hạn chế do thiếu công cụ phương tiện. Chất lượng dạy nghề tại các cơ sở này còn thấp, các ngành nghề ở đây không phù hợp với đòi hỏi thực tế của xã hội. Một số cơ sở không có khả năng đào tạo nghề, chỉ dừng ở mức độ lao động phổ thông (bóc hạt điều, làm gạch...)

 (3) Một số vấn đề tồn tại trong việc bảo đảm các quyền lợi khác của người chưa thành niên tại các trường giáo dưỡng, trại giam.

- Điều kiện giam giữ có nơi, có lúc còn chưa đảm bảo được quy định của Pháp lệnh thi hành án về việc giam riêng hoặc mức diện tích sàn tối thiểu (2,5m2).

- Về việc thăm nuôi được các cơ sở giam giữ, giáo dưỡng thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên có tình trạng một số tù nhân là người chưa thành niên không được người nhà thăm nuôi. Cá biệt một số trường hợp lợi dụng việc thăm nuôi để tiếp tế các chất gây nghiện.

- Điều kiện vui chơi giải trí của tù nhân là người chưa thành niên, học viên trường giáo dưỡng được đảm bảo ở mức tối thiểu (có sân chơi). Tại một số cơ sở giáo dưỡng, cải tạo chưa có công cụ, vật dụng phục vụ giải trí nào khác (thư viện, dụng cụ thể thao...) cho tù nhân nói chung và tù nhân là người chưa thành niên, học sinh trường giáo dưỡng nói riêng.

- Do điều kiện giam giữ quá tải, chế độ ăn, ở, sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh nên hầu hết các phạm nhân đều mắc bệnh ngoài da, các điều kiện về chăm sóc y tế còn nhiều hạn chế, nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong các trại giam là khá lớn. Đặc biệt các trại giam hiện nay chưa có điều kiện để phát hiện, phân loại và áp dụng các biện pháp tư vấn, phòng chống các bệnh lây nhiễm cần thiết cho phạm nhân.

(4) Một số tồn tại trong việc giáo dục ở cơ sở và xử lý hành chính đối với trẻ em làm trái pháp luật hiện nay.

-  Vẫn còn thiếu một cơ chế thích hợp và hiệu quả được pháp luật quy định cho việc giáo dục những trẻ em đang có nguy cơ phạm phải hành vi làm trái pháp luật tại các các xã, phường, thị trấn.

-  Thiếu phương pháp thích hợp cho việc giáo dục trẻ em hư, trẻ làm trái pháp luật tại cơ sở trong đó đặc biệt là chưa có công cụ và phương pháp thực sự hữu hiệu nào để phát huy vai trò của cộng đồng dân cư ở cơ sở và gắn chặt trách nhiệm của cha mẹ với trẻ em làm trái pháp luật.

-  Tỷ lệ các đối tượng người chưa thành niên vi phạm bị xử lý bằng các biện pháp hành chính dường như còn ít so với con số thực tế vi phạm pháp luật. Nguyên nhân là do các cơ quan ở cơ sở chưa làm hết trách nhiệm và để lọt đối tượng cần bị xử lý, nhiều trẻ em không bị ngăn chặn kịp thời sẽ dễ lao vào lối mòn phạm pháp có thể dẫn đến phạm pháp nghiêm trọng bị xử lý hình sự.

-  Có thể nói đối với số các em đã vi phạm pháp luật bị xử lý bằng các biện pháp giáo dục  tại cơ sở quá nhiều lần hoặc đã bị xử lý đưa đi trường giáo dưỡng tới 3, 4 lần thì tính chất làm trái đã có phần trở nên “chuyên nghiệp” và các biện pháp xử lý hành chính nêu ra như trên không còn có tác dụng phù hợp nữa. Cần nghiên cứu các biện pháp mới để áp dụng với các trường hợp này.

-  Phần lớn các đối tượng người chưa thành niên làm trái pháp luật bị xử lý hành chính đều lười biếng, trốn, bỏ học và thiếu sự chăm sóc chu đáo của gia đình. Nhiều gia đình còn đổ lỗi cho con cái và xã hội không có tác dụng ngăn chặn hành vi làm trái pháp luật tiếp theo của người chưa thành niên đã một lần làm trái pháp luật.

-  Thông tin về lý lịch phạm pháp của một đứa trẻ thường ít được chia sẻ và không được tổng hợp đầy đủ.

-  Trong các trường hợp giáo dục tại cơ sở, vai trò của nhà trường và đặc biệt là của các đoàn thể quần chúng tại địa phương rất mờ nhạt.

-  Nhiều người lớn không gương mẫu mà còn làm gương xấu cho người chưa thành niên làm trái pháp luật. Số khác bàng quan làm ngơ, không có thái độ can ngăn thích đáng khi gặp hiện tượng này.

-  Tại các cơ quan chính quyền cơ sở, nơi thường áp dụng các biện pháp giáo dục tại cơ sở và xử lý hành chính còn thiếu cán bộ, nhân viên chuyên trách (hoặc được đào tạo kỹ) về làm việc với trẻ em làm trái pháp luật.

-    Việc huấn luyện, bổ túc các kỹ năng chuyên môn cho các đối tượng trực tiếp làm công tác với trẻ em làm trái pháp luật tại cộng đồng (cảnh sát khu vực, tổ hoà giải, cán bộ ban bảo vệ trẻ em) chưa được thực hiện phổ biến.

(5) Vấn đề chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng

Việc chuẩn bị cho người chưa thành niên hết hạn tù tái hoà nhập cộng đồng tại các trại giam được tiến hành một cách thụ động. Thao tác duy nhất thường được thực hiện là trước khi người chưa thành niên được thả, Ban giám thị gửi công văn cho chính quyền địa phương sau đó cấp tiền tầu xe cho trẻ tự về nếu không có người đến đón. Người chưa thành niên không được biết về tình hình và khả năng đón nhận của địa phương nên thường có tâm lý hoang mang. Ở địa phương lại thiếu sự nâng đỡ cần thiết. Vì vậy, việc tái hoà nhập của người chưa thành niên phạm tội hầu như khoán trắng cho gia đình nên hiệu quả chưa cao.

4.3. Một số đề xuất liên quan đến việc thi hành án và các quyết định có hiệu lực pháp luật

Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thi hành các bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải có những cải cách đồng bộ và kịp thời ngay từ các quy định của pháp luật cho đến việc tổ chức thi hành trên thực tế các bản án, quyết định loại này và năng lực của đội ngũ thi hành án cũng như cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác này. Cụ thể là:

4.3.1. Về khung pháp luật

- Cần có các quy định đặc thù trong việc tổ chức thi hành các loại bản án, quyết định hành chính đối với các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Ngay trong bản án, quyết định đối với người vi phạm cần có những quy định hạn chế nhất định về quyền của người bị kết án trong việc làm đại diện, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Trong quá trình thi hành án, đối với những người bị kết án phạt tù thì cần phải giáo dục ý thức công dân trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Đối với những người thi hành án tại cộng đồng (hoặc những người mãn hạn tù trở về), pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm của chính quyền sở tại và các đoàn thể được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, giám sát có những biện pháp giáo dục nhất định nhằm ngăn chặn tái phạm (như giáo dục tư tưởng, quy định hạn chế quyền làm đại diện, quyền giáo dục trẻ em...).

- Ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, chính quyền cơ sở trong công tác thi hành các bản án hình sự không phải là phạt tù, thi hành các quyết định hành chính mà đối tượng phải thi hành tại cộng đồng (cả trẻ em và người lớn).

- Đối với các quy định về thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng cần:

+ Có quy định đối với người bị áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng, nếu trước đó họ có bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian bị tạm giữ, tạm giam phải được trừ vào thời hạn chấp hành biện pháp giáo dưỡng (có thể tính theo tỷ lệ cứ một ngày bị tạm giữ, tạm giam bằng 2 ngày chấp hành biện pháp này).

+ Bổ sung quy định về việc tạm đình chỉ thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong trường hợp học sinh trường giáo dưỡng đang trong thời gian chấp hành tại trường mà bị ốm nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Nhà trường có thể đưa các em đến điều trị tại các bệnh viện bên ngoài hoặc gia đình các em tự chăm sóc, chữa trị nếu gia đình các em có đơn xin bảo lãnh. Thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời gian chấp hành quyết định giáo dưỡng.

- Đối với việc thi hành án về dân sự, hôn nhân gia đình thì pháp luật cũng cần có những sửa đổi cần thiết về một số vấn đề như:

+ Cần có quy định cưỡng chế trong trường hợp người có trách nhiệm cấp dưỡng không cấp dưỡng (bán đấu giá tài sản thu tiền cho người được cấp dưỡng).

+ Sau khi bản án ly hôn liên quan đến việc trách nhiệm nuôi con có hiệu lực pháp luật, nếu một bên không chịu trách nhiệm giao con theo bản án thì pháp luật cần quy định theo hướng cưỡng chế việc giao con sau khi ly hôn.

Việc cưỡng chế thi hành án đối với các hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, không thực hiện nghĩa vụ giao nhận con, buộc công khai xin lỗi, buộc khôi phục lại hiện trạng, thăm đón con chung... cần quy định các chế tài xử lý hành chính cụ thể như phạt tiền, khấu trừ vào lương (thu nhập)...

4.3.2. Về cơ chế thi hành các chế tài pháp lý

a) Đối với việc thi hành án tại các trại giam, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục

- Cần có nơi thi hành án riêng cho người chưa thành niên phạm tội để không làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý của các em sau khi hoà nhập cộng đồng.

- Việc dạy nghề, dạy văn hoá cho người đang chấp hành hình phạt tù, trẻ em tại trường giáo dưỡng cần được quan tâm hơn nữa. Các mô hình dạy nghề, hướng nghiệp cần được đổi mới về nội dung và phương pháp dạy, nghề dạy...

- Cần xây dựng chương trình cải tạo, giáo dục người chưa thành niên phạm tội theo hướng coi trọng công tác giáo dục tư tưởng và học văn hoá. Công tác dạy nghề cần có sự thay đổi cơ bản về chất lượng dạy nghề và nghề học. Cần nghiên cứu giảm bớt các biện pháp mang nặng tính cải tạo đối với các em (đặc biệt là thời lượng lao động) cho phù hợp với sự phát triển của từng lứa tuổi.

- Các trường giáo dưỡng và trại giam cần thực hiện nghiêm túc việc thông báo, liên hệ với gia đình phạm nhân và chính quyền cơ sở nơi phạm nhân sẽ về cư trú về tình hình thi hành án của đối tượng. Đặc biệt là việc thông báo trước 2 tháng trước khi đối tượng mãn hạn tù.

b) Đối với việc thi hành án tại cộng đồng.

- Nghiên cứu và xây dựng các trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp dành riêng cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng là trẻ em vi phạm pháp luật sau khi đã mãn hạn tù, đã ra khỏi trường giáo dưỡng.

- Nghiên cứu và xây dựng các mô hình trợ giúp vốn, tư vấn việc sử dụng vốn cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng là người chưa thành niên trong độ tuổi lao động (từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi) có khả năng tạo dựng công ăn việc làm dưới sự giúp đỡ của cộng đồng và chính quyền cơ sở. Việc này có thể thực hiện có hiệu quả thông qua một số mô hình sau:

+ Xây dựng một mô hình cho vay vốn (của Hợp tác xã, các tổ chức đoàn thể) theo phương thức người đứng ra vay là một tổ hợp tác (từ 10 đến 15 người) trong đó có người chưa thành niên là đối tượng tái hoà nhập cộng đồng.

+ Thành lập các tổ hợp tác (thủ công mỹ nghệ, các nghề mộc, thủ công khác...) phù hợp với lứa tuổi của các em. Trong các tổ chức này người đứng đầu phải là những người "rất lương thiện" đồng thời xen kẽ các tổ viên là đối tượng tái hoà nhập còn có nhiều tổ viên khác không có tiền án tiền sự tham gia. Các tổ chức này được đặt dưới sự "lưu ý" giám sát của công an.

- Pháp luật cần có chính sách xã hội hoá công tác tái hoà nhập cộng đồng (như chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hay các doanh nghiệp công ích nhận dậy nghề hoặc nhận người mãn hạn tù, ra khỏi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, chữa bệnh vào làm việc...).

- Công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật tại cơ sở trong vấn đề này cần đạt được mục đích (i) xoá bỏ mặc cảm về tâm lý của đối tượng đối với cộng đồng, xoá bỏ những trở ngại về tâm lý của cộng đồng với đối tượng; (ii) làm cho nhân dân, các đoàn thể cơ sở xác định rõ vị trí, vai trò và trách nhiệm của họ trong công tác tái hoà nhập cộng đồng; (iii) khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tạo điều kiện, nhận đối tượng vào làm việc.

IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍNH PHÁP LÝ CỦA LUẬT BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM

Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu xuyên suốt của đề tài là nhằm "nâng cao hiệu quả tính pháp lý của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam", trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này Nhóm nghiên cứu chỉ xin trình bày khái lược về một số giải pháp và đề xuất nhằm (i) tăng cường hệ thống chế tài pháp lý đảm bảo thi hành Luật và, (ii) tăng cường các yếu tố có liên quan nhằm tạo dựng một cơ chế thực hiện luật hiệu quả.

1. Các giải pháp về xây dựng pháp luật và kiện toàn hệ thống chế tài (giải pháp lập pháp)

Nhìn lại hệ thống văn bản pháp luật về trẻ em của Việt Nam hiện nay, dễ nhận thấy đây là một hệ thống khá rộng bao gồm các loại văn bản khác nhau do cơ quan khác nhau ban hành, trong đó Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 1991 là trung tâm. Qua nghiên cứu, Nhóm nghiên cứu thống nhất với nhận định của Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam tại Báo cáo kiểm điểm 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 1991[2] rằng Luật này cần được sửa đổi để đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của công tác vì trẻ em trong giai đoạn mới. Trong đó cần chú trọng việc xây dựng hệ thống chế tài đảm bảo hiệu quả tính pháp lý của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Trong đó, phương hướng sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc, và giáo dục trẻ em Việt Nam được thể hiện qua một số nội dung sau đây:

1.1.  Một số vấn đề cần lưu ý khi xem xét các phương án sửa đổi Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em năm 1991

 Trước hết, khi sửa đổi Luật cần đặc biệt quan tâm đến các điểm đặc thù của mối quan hệ pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em như đã phân tích ở trên. Đây là những điểm quan trọng thể hiện tính chất "một chiều" trong quan hệ quyền và bổn phận mà trong đó trẻ em cần được nhìn nhận là chủ thể thụ hưởng hơn là chủ thể hành vi. Do đó, cần nhấn mạnh yếu tố nghĩa vụ pháp lý, chứ không phải là trách nhiệm đạo đức hay nghĩa vụ tuỳ nghi của các đối tượng, tổ chức có chức năng, có quyền hạn trong hoạt động bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.    

 Thứ hai, các hướng sửa đổi, cần được bàn bạc, thảo luận và thử nghiệm kỹ lưỡng để làm rõ các nội dung và phương thức áp dụng. 

 Thứ ba, bất luận áp dụng hướng sửa đổi nào cũng phải đảm bảo tính cưỡng chế cho văn bản luật mới thông qua việc (i) bổ sung một loạt các chế tài pháp lý cho đạo luật và, (ii) nghiên cứu các cơ chế áp dụng luật có hiệu quả giữa các cơ quan thực thi. Đặc biệt, một cơ chế giám sát việc thực hiện luật trong đó vai trò của cộng đồng dân cư ở cơ sở và các phương tiện truyền thông cần được đề cao, quan tâm đặc biệt.    

Thứ tư, các hướng sửa đổi dưới đây cần được mô hình hoá thành các phương án tổ chức thực hiện chi tiết có tính tới các khả năng thành công, khả năng không thành công và các hiệu quả phụ gây ra với đời sống xã hội. Các điều kiện vật chất đảm bảo cho việc thực hiện luật cần được xem xét một cách thực tế, làm rõ khả năng đảm bảo của Nhà nước với khả năng huy động các nguồn lực từ các thành phần khác trong xã hội.

1.2.  Một số hướng sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991

Từ các phân tích nêu trên, Nhóm nghiên cứu trình bày 2 hướng sửa đổi cụ thể đối với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam 1991.

1.2.1. Xây dựng Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em mới hoặc Bộ luật Gia đình và Trẻ em thay thế cho Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hiện hành. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em mới phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:

(1) Văn bản luật phải có nội dung rất chi tiết, trong đó bao gồm cả phần các quy định mang tính nguyên tắc chung và phần các quy định cụ thể. Trong phần quy định cụ thể cần phải có cả các quy định về nội dung, về chế tài áp dụng và đặc biệt là thủ tục áp dụng.

(2) Bên cạnh các quy định hiện hành, Luật mới cần bổ sung thêm nhiều nội dung cụ thể về quyền và bổn phận của trẻ em; trách nhiệm của người lớn; nghĩa vụ của các cơ quan, đoàn thể và tổ chức xã hội; trách nhiệm xã hội hoá; chế tài pháp lý áp dụng đối với trẻ em, áp dụng đối với các hành vi xâm hại trẻ em, áp dụng đối với gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội, các cơ quan tổ chức Nhà nước nếu không làm tròn trách nhiệm Luật định đối với trẻ em; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; thiết chế cần thiết phải được thành lập.

(3) Luật mới phải liệt kê được hết các quy định đã có trong các văn bản pháp luật khác nay được Luật mới bãi bỏ. Đây là một yêu cầu tuy sẽ gây khó khăn cho ban soạn thảo nhưng nhất thiết phải được thực hiện bởi một số lý do như sau:

Thứ nhất, hướng sửa đổi này đòi hỏi phải pháp điển hoá nhằm tích hợp tất cả các quy định đã có trong hệ thống văn bản pháp luật về quyền trẻ em vào một văn bản Luật duy nhất và cụ thể hoá tối đa các quy định nhằm có thể áp dụng ngay một cách thống nhất, đồng thời giảm tối đa sự lệ thuộc vào các văn bản hướng dẫn cấp dưới.

Thứ hai, việc liệt kê chi tiết các quy định đã có sẽ giúp các nhà làm luật hình dung rõ hơn mô hình điều chỉnh bằng pháp luật đốí với các quyền trẻ em. Từ đó các nhà làm luật có thể phân lập các điểm còn thiếu quy định, thừa quy định, chồng chéo, vô hiệu, không khả thi... để đưa vào nội dung của luật mới.

- Thứ ba, yêu cầu trên cũng là một hướng sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được tích hợp trong dự thảo mới nhất (bản ngày 12/9/2002) của Chính phủ. Như vậy nếu đặt yêu cầu này ngay từ đầu sẽ khiến cho ban soạn thảo chủ động được công việc và đón đầu các kỹ năng lập pháp cần thiết.

(4) Phân tích về các điều kiện đảm bảo để sửa đổi Luật theo hướng này.

Để thực hiện việc sửa đổi Luật theo phương hướng trên, các điều kiện đảm bảo dưới đây cần được thực hiện:

- Trước hết, hướng sửa đổi này phải được thể hiện thành các chủ trương và quyết sách của Nhà nước một cách nhất quán trong quá trình xây dựng chương trình làm luật của Quốc hội và soạn thảo văn bản sau này. Hướng sửa đổi này còn phải được quán triệt trong lập pháp và hành pháp, theo đó về mặt lập pháp cần thống nhất quan điểm soạn thảo còn về mặt hành pháp cần tổ chức nghiên cứu kỹ lưỡng về năng lực thực thi của các cơ quan  có liên quan.

Thứ hai, cần có nghiên cứu đánh giá tổng thể về mức độ tác động của Luật mới một khi được ban hành và các hệ quả kèm theo. Trong đó, việc ban hành đạo luật cần được tính toán như một bài toán về kinh tế - xã hội mà trong đó lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội cần được xem xét kỹ lưỡng nhằm đảm bảo (i) Nhà nước có đủ nguồn lực và đã ở trạng thái sẵn sàng để thực hiện đầy đủ các chức năng và quy trình do luật mới quy định; (ii) các quy định và nghĩa vụ trong luật cũng thoả mãn lợi ích nằm trong khả năng thực hiện của các nhóm đối tượng bị luật điều chỉnh.

Thứ ba, phải có phương án tổ chức soạn thảo quy mô, trong đó việc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân là một yêu cầu bắt buộc. Cần tối thiểu 3-5 năm cho việc tổ chức nghiên cứu, khảo sát và dự thảo Dự luật. Luật (hoặc Bộ luật mới) sẽ có mức độ chi tiết như hoặc hơn Bộ luật Dân sự (vì thêm cả phần tố tụng đối với những vấn đề nằm ngoài các thủ tục tố tụng hiện có) và dung lượng thực tế có thể gấp hàng trăm lần Luật hiện hành. Đội ngũ chuyên gia huy động cho việc chuẩn bị Dự luật này là những người có nhiều kinh nghiệm và có tư duy đổi mới, được đảm bảo đủ các điều kiện tài chính, vật chất cần thiết để có thể (i) tiến hành lấy ý kiến rộng rãi trong tất cả các cơ quan có liên quan từ cơ sở trở lên về các đề xuất nội dung cho luật mới, (ii) tổng rà soát hệ thống văn bản pháp luật hiện tại về quyền trẻ em ở trung ương cũng như tại tất cả các tỉnh, thành, và (iii) triển khai lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân và các đối tượng áp dụng khác về dự luật mới.

Tuy nhiên, việc sửa đổi Luật theo hướng này có một số nhược điểm như: thời gian soạn thảo và ban hành sẽ bị kéo dài; chi phí cho việc nghiên cứu xây dựng Luật mới tốn kém; quá trình rà soát, sàng lọc, chi tiết hoá sẽ phải tiến hành rất cụ thể và phức tạp, nhất là trong bối cảnh các quy định hiện hành còn có một số chồng chéo và nhiều điểm bất cập liên quan đến thẩm quyền lập quy của từng cơ quan như đã trình bày tại phần thực trạng.

1.2.2. Giải pháp sửa đổi hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ ở tất cả các văn bản có liên quan, trong đó Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một bộ phận.

(1) Theo hướng này văn bản Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hiện hành sẽ được sửa đổi, bổ sung cơ bản nhưng không bị thay thế.

Nội dung sửa đổi sẽ theo hướng: (i) bổ sung thêm các nguyên tắc và quy định "khung" mà Luật hiện hành còn thiếu, (ii) bổ sung thêm các chế tài và nguyên tắc áp dụng chế tài nhằm nâng cao hiệu quả pháp lý của Luật, và (iii) đặc định một số trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội có liên quan trong việc thực hiện quyền trẻ em.

Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em hiện hành, cần tiến hành cụ thể hoá các nội dung của Luật vào các văn bản có liên quan và kiến nghị ban hành mới hoặc sửa đổi tiếp các văn bản khác.

Như vậy, có thể nhận thấy nếu triển khai hướng sửa đổi này, sẽ có rất nhiều nội dung cần quy định mới hoặc cụ thể hoá vào Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi, bổ sung). Nhóm nghiên cứu đưa ra một số ý kiến về một số nội dung cần thực hiện theo hướng sửa đổi này:

-  Giữ nguyên cấu trúc cơ bản của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em như hiện nay nhưng bổ sung các điều luật nội dung về quyền và bổn phận của trẻ em, xây dựng các điều khoản quy định về các chế tài pháp lý áp dụng đối với gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội nếu không làm tròn trách nhiệm đối với trẻ em;

-  Bổ sung các điều luật về trách nhiệm của người lớn, nghĩa vụ của các cơ quan, đoàn thể và tổ chức xã hội, trách nhiệm xã hội hoá... trong các luật, pháp lệnh có liên quan;

-  Tách thành chương riêng và/hoặc bổ sung các điều khoản quy định về các trình tự thủ tục đảm bảo quyền trẻ em trong dân sự, hành chính, lao động, hình sự;

-  Soạn thảo chương mới (hoặc làm Pháp lệnh mới) về các chế tài pháp lý áp dụng đối với các cơ quan tổ chức Nhà nước nếu không làm tròn trách nhiệm Luật định đối với trẻ em trong đó nhấn mạnh các điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi hoàn cảnh đối với trẻ em;

-  Quy định các điều khoản khung về các thiết chế và chức năng cần thiết phải được thành lập để làm cơ sở cho các Nghị định hướng dẫn sau này.

(2) Phân tích về các điều kiện đảm bảo để sửa đổi Luật theo hướng này.

Để thực hiện việc sửa đổi Luật theo phương hướng trên, các điều kiện đảm bảo dưới đây cần được thực hiện:

Trước hết, hướng sửa đổi này phải được thể hiện thành các chủ trương và quyết sách của Nhà nước một cách nhất quán để Ban soạn thảo thuận tiện triển khai xây dựng văn bản.

Thứ hai, cần có nghiên cứu đánh giá về khả năng và hiệu quả phối hợp của các cơ quan có liên quan (ít nhất là khả năng ban hành và thực thi các văn bản hướng dẫn) để hình dung trước về quy mô và mức độ "khung" mà Dự luật sửa đổi cần đạt được.

Thứ ba, hướng sửa đổi này không cần phải có phương án tổ chức soạn thảo quy mô như hướng xây dựng Bộ luật Gia đình và Trẻ em hoặc Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em mới nhưng đòi hỏi phải có trao đổi, thảo luận, hội thảo chi tiết với các bộ, ngành, địa phương để Dự luật có tính khái quát và dự báo. Trong quá trình chuẩn bị Dự luật này có thể (i) tiến hành lấy ý kiến rộng rãi trong tất cả các cơ quan có liên quan từ cơ sở trở lên về các đề xuất nội dung cho luật mới, (ii) tổng rà soát hệ thống văn bản pháp luật hiện tại về quyền trẻ em ở trung ương.

Tóm lại, nếu triển khai hướng sửa đổi nêu trên sẽ chỉ cần ban hành một đạo luật sửa đổi, bổ sung có mức độ chi tiết cao hơn và có thêm một số điều khoản mới so với Luật hiện hành. Tuy nhiên, về nhược điểm, cách làm này sẽ không cải thiện được về cơ bản lối mòn của công tác lập pháp hiện nay là văn bản luật quá chung dẫn đến hiệu quả áp dụng của Luật bị phụ thuộc vào việc ban hành quy định hướng dẫn của các cơ quan cấp dưới vốn khá chậm chạp và thụ động.

2. Một số  kiến nghị  và đề xuất liên quan đến cơ chế thực hiện và đảm bảo thi hành Luật

2.1. Kiến nghị về lập pháp: sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

Để nâng cao hiệu quả pháp lý của Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét thảo luận và chọn lựa ngay một hướng sửa đổi thích hợp để sửa Luật này. Việc sửa đổi cần đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật. Một danh mục các dự kiến sửa đổi vào luật, nếu có thể, cũng cần được đưa lấy ý kiến thử nghiệm trước khi soạn thảo luật nhằm sát hợp hơn với kỳ vọng của người dân. Qua quá trình khảo sát, Nhóm nghiên cứu nhận thấy việc sửa đổi Luật cần lưu ý tới việc cụ thể hoá trách nhiệm của gia đình, của Đoàn thể xã hội liên quan, của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

2.2. Kiến nghị về tổ chức giám sát đánh giá độc lập hàng năm về các quyền trẻ em và việc thực hiện các quyền này.

Cần thiết phải tiến hành các cuộc kiểm tra, giám sát, đánh giá hàng năm về thực trạng các quyền trẻ em, các vấn đề nổi cộm cần giải quyết và trách nhiệm của từng cơ quan, địa phương đối với vấn đề đó. Nhà nước nên giao chức năng này cho một Uỷ ban chuyên trách của Quốc hội, khi thực hiện sẽ có sự phối kết hợp của Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em các cấp. Báo cáo của Uỷ ban có thể dùng để mở các phiên điều trần trước Quốc hội và là văn bản làm việc của Chính phủ khi bàn thảo về các vấn đề có liên quan.

2.3. Kiến nghị về tăng cường công tác tổ chức, quản lý chỉ đạo công tác thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Cần có kế hoạch báo cáo định kỳ và bồi dưỡng kiến thức về trẻ em, nhất là kiến thức pháp luật về quyền trẻ em cho các cán bộ lãnh đạo ở mọi ngành, mọi cấp. Bên cạnh đó, cần kiện toàn và củng cố hơn nữa hệ thống các cơ quan gia đình và trẻ em các cấp, không chỉ về cơ sở vật chất mà còn cả về chuyên môn nghiệp vụ và tri thức kinh nghiệm, năng lực quản lý, đội ngũ cán bộ chuyên trách ở cơ sở và phương pháp làm việc với trẻ em.

Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp cần liên tục chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng và đưa chương trình hành động vì trẻ em nói chung và các mục tiêu phòng ngừa trẻ em làm trái pháp luật nói riêng vào kế hoạch kinh tế xã hội và các nhiệm vụ cụ thể của địa phương, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra và bảo đảm các điều kiện thực hiện.

Nhà nước cần quy định về chế độ thông tin báo cáo về công tác bảo vệ quyền trẻ em một cách chi tiết tới các ngành chức năng nhằm đảm bảo thống nhất và bao quát các nguồn tin về lĩnh vực này. Phối kết hợp các ngành một cách chặt chẽ, thường xuyên tiến hành điều tra khảo sát theo định kỳ hàng năm, xây dựng các báo cáo phân tích và báo cáo dự đoán về sự phát triển các vấn đề của trẻ em và việc thực hiện quyền trẻ em.

2.4. Kiến nghị về tăng cường truyền thông, gắn với việc phổ biến giáo dục pháp luật, gia tăng sức ép công luận về mức độ cảnh báo vi phạm quyền trẻ em.

Phục vụ cho việc tuyên truyền phổ biến Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và các quy định pháp luật khác có liên quan đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em một cách rộng rãi, liên tục đến tận cơ sở. Uỷ ban nhân dân các tỉnh nên giao cho Sở Tư pháp biên soạn tóm tắt nội dung cơ bản của các đạo luật có liên quan, hướng dẫn tuyên truyền luật đều khắp trong năm và bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật. Hỗ trợ kinh phí để in ấn các tài liệu cần thiết phát đến từng hộ dân, tránh các hình thức khoa trương và hời hợt. Cần coi đây là một trọng tâm của các cấp chính quyền cơ sở và động viên sự nhiệt tình tự nguyện của các cộng tác viên, tuyên truyền viên pháp luật không hưởng lương để hoạt động này được thường xuyên liên tục chứ không lệ thuộc vào các đợt tuyên truyền và nguồn kinh phí từ trên xuống.

2.5. Kiến nghị về tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng kế hoạch, trong đó nhấn mạnh phần kế hoạch dành cho trẻ em trong các quy hoạch phát triển Trung ương và địa phương.

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã quy định Nhà nước phải dành một tỷ lệ ngân sách thích đáng cho việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em và quy định bước đầu một số chức năng của các cơ quan liên quan. Bất kể trong phương án nào, việc cải tiến quy cách xây dựng kế hoạch - gắn với tiến trình cải cách hành chính hiện nay - cần phải dành sự quan tâm cụ thể, thực tế và có đảm bảo tới các công trình, quyền lợi và yếu tố trẻ em, đảm bảo tuân thủ nguyên tắc mà Việt Nam đã cam kết với thế giới là "dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em".

2.6. Kiến nghị về tăng cường yếu tố chuyên trách "vì trẻ em" trong các thủ tục trình tự pháp luật

Việc tăng cường hiệu quả của các yếu tố chuyên trách "vì trẻ em" trong cuộc sống hàng ngày (như đội nhi đồng măng non, đội thiếu niên tiền phong, đoàn thanh niên cộng sản, nhà thiếu nhi các cấp ....) sẽ giúp tạo cho trẻ em có cơ hội được góp tiếng nói và chủ động tham gia vào đời sống xã hội với tư cách là những thực thể tương đối độc lập; rèn luyện cho các em ý thức cộng đồng và tinh thần trách nhiệm. Qua đó góp phần thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

2.7. Kiến nghị về việc thành lập một trung tâm nghiên cứu - thông tin và tài liệu quốc gia về trẻ em

Nhà nước cần nghiên cứu thành lập một Trung tâm nghiên cứu - thông tin và tài liệu quốc gia về trẻ em nhằm giúp các cơ quan chức năng nghiên cứu tổng kết đánh giá tình hình, hoạch định chính sách và đề xuất các giải pháp về lĩnh vực này; lưu trữ và cung cấp các tài liệu, số liệu cho các cơ quan có nhu cầu một cách thống nhất và chính xác. Ngoài ra, cần xây dựng một hệ thống chuẩn biểu mẫu về biểu, bảng thống kê số liệu và mẫu báo cáo phân tích về tình hình bảo vệ quyền trẻ em để các cơ quan chức năng áp dụng thống nhất trong toàn quốc.

2.8. Kiến nghị về việc tổ chức thêm các cơ cấu, tổ chức trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Song song với việc xây dựng Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nhà nước cần nghiên cứu thử nghiệm và thiết lập ở các địa phương thiết chế cần thiết nhằm tăng cường hiệu quả pháp lý của việc thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và việc đấu tranh phòng chống người chưa thành niên làm trái pháp luật nói riêng. Trong số các cơ quan được nghiên cứu thành lập  để bảo vệ trẻ em có thể có các trung tâm giáo dưỡng ở tất cả các tỉnh; tăng cường và mở rộng các phòng tư vấn về công tác trẻ em (có thể kết hợp với hệ thống các trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách do ngành Tư pháp quản lý); củng cố hệ thống Quỹ bảo trợ trẻ em các cấp, đa dạng hoá nguồn thu và kêu gọi xã hội hoá sự đóng góp cho quỹ này.

2.9. Kiến nghị về việc thành lập Toà án Tư pháp người chưa thành niên

Qua các nghiên cứu của đề tài, Nhóm nghiên cứu cho rằng việc thành lập Toà án người chưa thành niên là cần thiết và nên sớm được xúc tiến. Dễ nhận thấy việc thành lập Toà này sẽ làm nặng thêm gánh nặng ngân sách và chưa hẳn là có lợi về bộ máy tổ chức. Tuy nhiên, cái "lợi" về tinh thần và thể chất đem lại cho trẻ em có liên quan đến các vụ việc mà toà xét xử thì không thể tính đếm được, như một cách đầu tư của hôm nay cho ngày mai./.



([1])   Nguồn: Báo cáo kiểm điểm 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam.

[2] Nguồn: Báo cáo kiểm điểm 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 

 

Nội dung toàn văn

 

I.

Bộ tư pháp Uỷ Ban BVCS trẻ em Việt Nam

 

Viện Nghiên Cứu KHPL

 

 

đề tài Nghiên cứu khoa học cấp bộ

 

 

Những giải pháp nâng cao hiệu quả tính pháp lý của Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em

 

(Báo cáo phúc trình kết quả

nghiên cứu đề tài)

Ban chủ nhiệm đề tài:

Chủ nhiệm:

PGS.TS. Hoàng Thế Liê

n

 

Viện trưởng Viện NCKHPL, Bộ Tư pháp

Phó Chủ nhiệm:

ThS. Hoàng Đức Thắng, Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp

Thư ký:

CN. Đinh Bích Hà, Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp

CN. Bùi Thị Thu Hằng, Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp

 

 

 

 

Hà Nội, 2002

 

 

 

 

 

 

báo cáo phúc trình kết quả nghiên cứu đề tài

 

"Những giải pháp nâng cao hiệu quả tính pháp lý của luật bảo vệ chăm sóc

giáo dục trẻ em việt nam"

 

 

 

Phần I

Báo cáo tóm tắt về

quá trình tổ chức thực hiện đề tài

 

Tính cấp thiết của đề tài

Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt nam đã được Quốc Hội ban hành năm 1991 và tới nay đã qua trên 10 năm thực hiện. Có thể nói Luật đã góp phần đảm bảo và thực hiện tốt các quyền trẻ em như quyền khai sinh, quyền có quốc tịch, quyền học tập, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ, vui chơi giải trí... Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng cho thấy ở nhiều nơi, nhiều lúc, Luật còn chưa được thi hành nghiêm chỉnh. Nội dung quy định của Luật còn nhiều điểm bất cập và đặc biệt là hiệu lực pháp lý đối với việc thực thi nhiều điều khoản của Luật chưa cao.

Lý giải về sự kém hiệu lực pháp lý này, bên cạnh các lý do khác... thì việc thiếu về một hệ thống chế tài/biện pháp pháp lý đầy đủ và dễ áp dụng là một trong những nguyên nhân quan trọng. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp các quy định của Luật không được chấp hành nghiêm chỉnh vì thiếu các chế tài bắt buộc thực hiện cũng như thiếu cơ chế xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành Luật 10 năm vừa qua cũng cho thấy sự lúng túng của các cơ quan chức năng trong việc áp dụng các quy định của Luật không phải chỉ vì sự bất cập của Luật mà còn vì thiếu các thủ tục pháp lý cho việc thực hiện quy phạm đó. Một số các quy định của Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em rất đặc thù, đòi hỏi phải có quy định riêng về thủ tục áp dụng( như thủ tục dân sự, hành chính, hình sự phù hợp với đặc thù của Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em). Nói cách khác, bên cạnh một hệ thống các chế tài mạnh bảo đảm thi hành Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, cần có cơ chế truy cứu trách nhiệm pháp lý và các thủ tục tố tụng thích hợp để đảm bảo hiệu quả pháp lý của Luật.

Từ các lý do nêu trên, Uỷ ban BVCSGDTE Việt Nam phối hợp với Viện NCKH Pháp lý đã tổ chức nghiên cứu đề tài "Những giải pháp nâng cao hiệu quả tính pháp lý của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em". Đề tài có ý nghĩa lớn cả về lý luận lẫn ứng dụng thực tiễn, không những góp phần quan trọng phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, mà còn có ý nghĩa lớn đối với công tác tổ chức, phối hợp các cơ quan trong việc thực hiện Luật sau này.

2. Quá trình tổ chức thực hiện đề tài

Sau khi cơ quan chủ trì nghiên cứu đề tài (Uỷ ban bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam) và cơ quan thực hiện đề tài (Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý) đã thống nhất về phạm vi và nội dung nghiên cứu đề tài, hai bên xác định các mục tiêu nghiên cứu của đề tài cụ thể như sau:

Đánh giá thực trạng việc thực hiện Luật BVCSGDTE Việt nam trong 10 năm qua nhằm phát hiện các vấn đề làm giảm hiệu lực thực tế của Luật và nguyên nhân của tình hình đó. Đặc biệt chú trọng vào việc nghiên cứu và đánh giá về hệ thống chế tài đã được quy định trong bản thân Luật BVCSGDTE và các chế tài được quy định tại các văn bản pháp luật khác (có liên quan đến việc đảm bảo thực hiện các quy định trong Luật BVCSGDTE).

Nghiên cứu về cơ chế thực hiện các chế tài pháp lý nhằm đảm bảo thực hiện các quy định của Luật BVCSGD TE hiện nay.

Nghiên cứu kinh nghiệm về các biện pháp pháp lý và cơ chế bảo vệ quyền trẻ em có hiệu quả của một số nước trên thế giới và đánh giá xu hướng phát triển trên thế giới về vấn đề này.

 

Kiến nghị một số biện pháp và giải pháp nói chung nhằm tăng cường hiệu quả pháp lý của Luật, đặc biệt là kiến nghị cụ thể về một số các chế tài và biện pháp lý nhằm bảo đảm hiệu lực thi hành của Luật này. Đồng thời kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung Luật BVCSGDTE.

Để thực hiện các mục tiêu trên, đề tài đã tổ chức thành 4 hệ chuyên đề, bao gồm:

Hệ chuyên đề thứ nhất: Nghiên cứu hiệu lực thực tế trong việc thi hành Luật BVCSGDTE hiện nay tập trung vào việc phát hiện các điểm kém hiệu lực của Luật. Hệ thống hoá, phân tích đánh giá các chế tài pháp lý hiện nay ở trong văn bản Luật cũng như các Luật khác có liên quan nhằm làm rõ các hạn chế hiện nay của hệ thống chế tài. Đánh giá tính tương thích giữa hệ thống các chế tài hiện nay với yêu cầu đặt ra của Luật và đòi hỏi thực tế khách quan. Bước đầu phác thảo một khung các chế tài và biện pháp pháp lý cần thiết để tăng cường hiệu lực pháp lý của Luật.

 

Hệ chuyên đề thứ hai: Nghiên cứu cơ chế thực hiện Luật BVCSGDTE hiện nay đặc biệt là cơ chế truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm luật BVCSGDTE. Đánh giá sự phù hợp về cơ chế đảm bảo thực hiện các chế tài và các thủ tục pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật (dân sự, hình sự, lao động, hôn nhân gia đình) hiện nay.

Hệ chuyên đề thứ ba: Nghiên cứu cơ chế phối hợp có hiệu qủa giữa các cơ quan trong việc thực hiện Luật BVCSGS TE trong hoàn cảnh và điều kiện cụ thể hiện nay.

 

Hệ chuyên đề thứ tư: Nghiên cứu so sánh về hệ thống chế tài pháp luật và phương thức truy cứu trách nhiệm đối với các vi phạm quyền trẻ em của một số nước trên thế giới Việt Nam.

Sau khi thống nhất đề cương chung của đề tài, các nhóm chuyên đề đã lập đề cương nghiên cứu chi tiết trình Ban Chủ nhiệm đề tài. Ban Chủ nhiệm đã tổ chức hội thảo góp ý và thông qua đề cương nghiên cứu của từng hệ chuyên đề.

Bên cạnh phần nghiên cứu tại chỗ, đề tài đã tiến hành 3 đợt khảo sát về việc thực hiện các chế tài pháp lý của Luật BVCSGDTE và đánh giá cụ thể về các điều kiện đảm bảo thực hiện các chế tài đó tại Hà Giang, TP. Hồ Chí Minh và Cà Mau. Tại các địa phương nơi tiến hành khảo sát, các thành viên của đề tài đã:

Trực tiếp làm việc với các cơ quan chịu trách nhiệm áp dụng các chế tài và biện pháp pháp lý ở cơ sở (gồm biện pháp hành chính, biện pháp dân sự, biện pháp tư pháp) như Uỷ ban nhân dân cấp huyện, xã, cơ quan bảo vệ chăm sóc trẻ em cấp huyện, xã, một số Sở Tư pháp, Phòng tư pháp và một số Toà án. (báo cáo khảo sát về các cuộc làm việc và kết quả toạ đàm tại địa phương xin xem phần phụ lục của quyển "Các kết quả nghiên cứu đề tài").

Phát phiếu hỏi đáp về các chế tài pháp lý và phương thức thực hiện chế tài. Tổng cộng trong cả 3 đợt khảo sát đề tài đã phát ra gần 800 phiếu điều tra đối với 3 loại đối tượng là: (i) trẻ em (từ 9 đến dưới 16 tuổi), (ii) cha mẹ trẻ hoặc người có trách nhiệm chăm sóc trực tiếp, (iii) các cán bộ nhà nước làm công tác liên quan đến bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em. Kết quả tổng hợp xử lý phiếu cụ thể và các sơ đồ so sánh đối chiếu dữ liệu xin xem ở phần phụ lục của quyển "Các kết quả nghiên cứu đề tài".

Toạ đàm với các cán bộ trực tiếp thực hiện Luật tại địa phương để tổng hợp ý kiến về các giải pháp và cơ chế thực hiện cần thiết. Tại tất cả các điểm khảo sát đề tài đã tiến hành các cuộc làm việc với đại diện các cơ quan có liên quan đến việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em như Uỷ ban bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em địa phương, Uỷ ban nhân dân, Công an, Tư pháp, Mặt trận tổ quốc,... Thực tế cho thấy đa phần các ý kiến tại các cuộc Toạ đàm này đề cập các vấn đề cụ thể gắn với đặc thù địa phương, nhất là các vấn đề liên quan đến kinh phí, nhân sự, chức năng và sự quan tâm của chính quyền địa phương. Nhiều ý kiến trong số này được chọn lọc đưa vào phần II, Báo cáo phúc trình kết quả nghiên cứu của đề tài.

Ngoài ra, đề tài đã tổ chức 1 cuộc Hội thảo nhằm lấy ý kiến của các nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động thực tiễn góp phần hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu của đề tài. Hội thảo này được tổ chức vào đầu tháng 8 năm 2002 với nội dung chủ yếu nhằm đóng góp các ý kiến, đề xuất mang tính chất xây dựng pháp luật có liên quan tới việc sửa đổi Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em (báo cáo tổng hợp kết quả Hội thảo được thể hiện tại phụ lục của quyển "Các kết quả nghiên cứu đề tài"). Các chi tiết về quá trình tổ chức hành chính của đề tài có thể được tham khảo thêm tại phần "Báo cáo hành chính về quá trình tổ chức thực hiện đề tài" trong phần phụ lục của của quyển "Các kết quả nghiên cứu đề tài".

Phần II của Báo cáo phúc trình bày tóm tắt về kết quả nghiên cứu của đề tài. Để tiện cho việc theo dõi phần này được chia thành 5 mục lớn sau:

Mục thứ nhất: đề cập một số vấn đề lý luận về hiệu quả tính pháp lý của Luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em 1991.

 

Mục thứ hai: trình bày tổng quan chung về thực hiện Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam trong thời gian 1991-2001.

Mục thứ ba: trình bày một số đánh giá cụ thể về hệ thống chế tài và cơ chế bảo đảm thi hành các quy định của luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

 

Mục thứ tư: trình bày về cơ chế thực hiện các quyết định, phán quyết của toà án.

Mục thứ năm: nêu một số giải pháp góp phần hiệu quả Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

 

Mục thứ sáu: trình bày một số kiến nghị và đề xuất cụ thể.

Bên cạnh Báo cáo phúc trình, kết quả nghiên cứu của đề tài được thể hiện trong các chuyên đề nghiên cứu và các bản tổng hợp kết quả khảo sát, hội thảo và tọa đàm được gửi kèm theo báo cáo phúc trình này.

 

 

phần II

Tóm tắt kết quả nghiên cứu đề tài

 

I. Một số vấn đề lý luận về hiệu quả tính pháp lý của Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em việt nam

1. Một số phân tích về khái niệm "hiệu quả tính pháp lý" của Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

Khái niệm "hiệu quả tính pháp lý" được đề cập trong đề tài này được xuất phát từ ý tưởng nghiên cứu đề tài do Uỷ ban Bảo vệ Chăm sóc Giáo dục Trẻ em Việt Nam (nay được sáp nhập với Uỷ ban dân số kế hoạch hoá gia đình thành Uỷ ban Gia đình và Trẻ em) hoạch định(). Đây là một khái niệm mới chưa được đề cập tại các công trình nghiên cứu khác. Để thống nhất cách hiểu nhằm định hướng rõ hơn các nội dung nghiên cứu đề tài, chúng tôi cho rằng cần đề cập nội dung của khái niệm "hiệu quả tính pháp lý". Có thể nói, việc phân tích khái niệm này có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em nói chung và trong việc nghiên cứu xây dựng và thực thi văn bản pháp luật về lĩnh vực này nói riêng. Tuy nhiên trong phạm vi khuôn khổ đề tài này, chúng tôi chỉ phân tích một số nội dung cơ bản về mặt lý luận cho các phần sau.

Trước hết, cần phải nhìn nhận cho rõ mối quan hệ giữa khái niệm "tính pháp lý" và pháp luật. Từ khía cạnh lý luận chung về pháp luật được hiểu là (i) hệ thống các nguyên tắc xử sự chung, (ii) do Nhà nước xác lập hoặc thừa nhận, (iii) nhằm điều chỉnh các hành vi xã hội theo các định hướng của Nhà nước, và (iv) được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của mình().Tính giai cấp của pháp luật thể hiện rõ nét và tập trung nhất ở việc thể chế hoá các tư tưởng và ý định của giai cấp, lực lượng thống trị trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật còn thể hiện tính xã hội khi pháp luật ghi nhận những cách xử sự hợp lý và khách quan của số đông trong xã hội, qua đó "quy chuẩn hoá" những khuôn mẫu xử sự mang tính phổ biến và khách quan.

Như vậy, xét từ góc độ lý luận "hiệu quả tính pháp lý" phản ánh mức độ chấp hành các định hướng hành vi mà Nhà nước mong muốn xã hội phải thực hiện. "Hiệu quả tính pháp lý" do tính thuyết phục và tính cưỡng chế của pháp luật quyết định. Trong trường hợp Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em thì tính pháp lý thể hiện ở chỗ luật này chặt chẽ, cụ thể và nhân đạo đến đâu, đồng thời nó được bảo đảm thực hiện đến mức độ nào.

Thứ hai, khi đề cập "hiệu quả tính pháp lý" của Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em không thể không tính đến hiệu lực thực tế của văn bản này. Đây là một nội dung quan trọng nhưng khó đánh giá vì tính phức tạp của nó.

 

"Hiệu quả tính pháp lý" là một đặc tính tự thân của pháp luật. Vì vậy, "nâng cao hiệu quả tính pháp lý" của một văn bản quy pháp luật có thể hiểu là sự tăng cường hiệu lực thực tế thông qua việc tăng cường các thuộc tính riêng có của pháp luật, cụ thể là:

"Hiệu quả tính pháp lý" của pháp luật được thể hiện thông qua tính quy phạm phổ biến của pháp luật, theo đó pháp luật có tính bắt buộc chung tất cả mọi đối tượng trong xã hội.

"Hiệu quả tính pháp lý" của pháp luật được thể hiện thông qua tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức của pháp luật, theo đó các nội dung của pháp luật phải được thể hiện bằng những hình thức chặt chẽ, rõ ràng nhất định (mà trong trường hợp này văn bản quy phạm pháp luật chính là một ví dụ điển hình) theo các thủ tục và thẩm quyền nhất định. Hơn thế nữa giá trị pháp lý của các hình thức pháp luật cũng như của từng loại văn bản quy phạm pháp luật cũng bị ràng buộc và hạn chế bởi chính thuộc tính hình thức của văn bản quy pháp luật đó.

"Hiệu quả tính pháp lý" của văn bản được thể hiện thông qua tính được bảo đảm thi hành bằng toàn bộ sức mạnh Nhà nước. Pháp luật do Nhà nước ban hành hay thừa nhận, do đó, các quy phạm pháp luật có tính bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong các bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật đã có các chế tài nhằm răn đe và cảnh báo về sự trừng phạt của Nhà nước đối với các vi phạm.

Tuy nhiên, để tính bắt buộc này được phát huy, Nhà nước phải có khả năng tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật, tránh tình trạng văn bản được ban hành không thực hiện được vì Nhà nước thiếu các điều kiện để thi hành. Trong trường hợp đó, hiệu quả tính pháp lý của pháp luật bị triệt tiêu. Do vậy, có thể nói hiệu quả pháp lý của pháp luật phụ thuộc chính vào chất lượng và vai trò, khả năng tổ chức thực hiện của Nhà nước.

Đối với một số ít người cố tình vi phạm pháp luật thì Nhà nước phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế với mức độ nặng nhẹ khác nhau vừa nhằm trừng trị kẻ vi phạm vừa răn đe, giáo dục những người khác. Đây được coi như là một công cụ quan trọng không thể thiếu được để đảm bảo hiệu quả pháp lý của pháp luật.

Như vậy, từ các phân tích trên, chúng ta có thể coi khái niệm "hiệu quả tính pháp lý" về cơ bản đồng nghĩa với khái niệm "hiệu quả pháp lý". Vì vậy, việc lý giải về "hiệu quả tính pháp lý" của Luật BVCSGDTE sẽ phải bao quát một diện rất rộng các vấn đề đặt ra. Do khuôn khổ hạn hẹp của đề tài, chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào (i) hiệu quả pháp lý được thể hiện trong chất lượng của Luật BVCSGDTE, (ii) hiệu quả pháp lý được thể hiện qua thực tế hoạt động tổ chức thi hành luật BVCSGDTE và, (iii) hiệu quả pháp lý được thể hiện qua hệ thống các chế tài pháp lý và cơ chế đảm bảo thi hành các chế tài này.

2. Về một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tính pháp lý của Luật BVCSGDTE Việt Nam.

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tính pháp lý của Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, nhằm hướng tới mục tiêu phân tích để đề xuất đổi mới hệ thống chế tài và các cơ chế thi hà, dưới đây chúng tôi xin đề cập 3 yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tính pháp lý của luật, đồng thời cũng là 3 lĩnh vực có liên quan nhiều nhất đến các kiến nghị và đề xuất của đề tài.

Chất lượng của Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em

Để Luật BVCSGDTE phát huy hiệu quả pháp lý, trước hết Luật này phải có nội dung phù hợp với nhu cầu điều chỉnh trên thực tế, có cấu trúc và nội dung thuận lợi nhất cho việc tổ chức thực thi luật. Vì vậy, trong các nội dung nghiên cứu của mình, đề tài đã dành một phần thích đáng để phân tích so sánh về các điều khoản của Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em 1991 trong tổng thể hệ thống pháp luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam. Vì pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em có phạm vi rất rộng, bao trùm hầu hết các mặt hoạt động của đời sống xã hội, nên trong phạm vi nghiên cứu đề tài, nhóm nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu một số nhóm quyền và bổn phận đã được ghi nhận trong pháp luật (Hiến pháp và toàn bộ các văn bản khác trong hệ thống pháp luật) mà chủ yếu là các quy định tại Luật Bảo vệ Chăm sóc Giáo dục Trẻ em. Cụ thể bao gồm:

- Bảy nhóm quyền, bao gồm: Quyền được khai sinh và có quốc tịch (Điều 5); Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng và tạo điều kiện phát triển trong điều kiện bình thường cũng như khi gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (Điều 6); Quyền được sống chung với bố mẹ và có gia đình (Điều 7); Quyền được bảo vệ tính mạng, nhân phẩm, được bày tỏ ý kiến nguyện vọng (Điều 8); Quyền được chăm sóc sức khoẻ, bồi dưỡng thể chất (Điều 9); Quyền được vui chơi, giải trí (Điều 11); Quyền có tài sản, được hưởng thừa kế (Điều 12).

 

Bốn nhóm bổn phận được quy định trong các điều 10, 13 và 14 bao gồm: (i) kính trọng người trên, hiếu thảo với gia đình; (ii) chăm chỉ học tập và rèn luyện; (iii) Tôn trọng pháp luật, và (iv) yêu Tổ quốc, đồng bào. (Phân tích cụ thể xin xem các chuyên đề thuộc đề tài nhánh I và II của đề tài).

Việc tổ chức thực hiện Luật của các cơ quan, tổ chức và địa phương

Để nâng cao hiệu quả pháp lý của Luật, đòi hỏi Luật phải được tổ chức thi hành một cách nghiêm chỉnh, đồng bộ, liên tục, có sự quan tâm của giới chức lãnh đạo, từng cơ quan, từng gia đình, từng cán bộ làm công tác liên quan đến trẻ em nói riêng và toàn xã hội nói chung. Việc tổ chức thực hiện Luật, theo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, còn nhiều hạn chế và phụ thuộc nhiều vào các địa phương do đó cũng mang màu sắc và đặc tính của từng khu vực hành chính và cộng đồng dân cư. Việc nhìn nhận đánh giá về vấn đề này, vì vậy, phải gắn với chức năng quyền hạn nhiệm vụ và khả năng tác nghiệp cụ thể của từng hệ thống cơ quan có liên quan đến công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em (Phần phân tích cụ thể xin xem các chuyên đề thuộc đề tài nhánh I , II và III của đề tài).

Hệ thống chế tài đầy đủ, đủ mạnh và có cơ chế hữu hiệu bảo đảm thực hiện hệ thống chế tài đó.

Để thi hành Luật, cần một hệ thống chế tài pháp luật vừa bao quát vừa đủ mạnh để đảm bảo tính cưỡng chế chế của Luật. Riêng về các chế tài, cần lưu ý một số điểm sau:

Trong trường hợp của pháp luật về bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, phần chế tài sẽ phải thể hiện sự phản ứng của Nhà nước đối với hai nhóm hành vi: (i) trẻ em vi phạm pháp luật và (ii) người lớn vi phạm pháp luật về trẻ em hoặc có hành vi xâm hại đối với trẻ em. Việc thiên lệch trong áp dụng chế tài đối với một trong hai đối tượng trên đều dẫn đến sự kém hiệu quả pháp lý của việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

Chế tài pháp luật có nhiều hình thức khác nhau. Chế tài là một điều khoản cụ thể cưỡng chế của Nhà nước đối với hành vi vi phạm(). Bên cạnh đó, cũng có chế tài pháp luật được quy định xử phạt chung đối với cả một nhóm điều khoản hoặc cho toàn bộ văn bản(). Một dạng thức khác nữa của chế tài pháp luật là bảo đảm cưỡng chế thực hiện luật bằng tính chất cưỡng chế của cả hệ thống Nhà nước và Pháp luật (còn được gọi là tính chất "công")(). Tính tới những đặc thù của mối quan hệ pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em (được trình bày ở một phần dưới đây), chúng tôi cho rằng các dạng thức này có thể được áp dụng một cách linh hoạt trong hệ thống văn bản pháp luật song yêu cầu đặt ra là phải được quy định rõ ràng, đồng bộ và dễ áp dụng.

Việc có được một hệ thống chế tài đầy đủ và đủ mạnh là hết sức cần thiết song chưa đủ để đảm bảo hiệu quả tính pháp lý của pháp luật. Điều không kém phần quan trọng là cần có các cơ chế và phương thức hữu hiệu để đảm bảo mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đều có trách nhiệm trong việc thực hiện Luật. Điều này, một mặt, đòi hỏi phải có các cơ sở pháp lý được quy định ngay trong Luật, mặt khác, lại phụ thuộc vào những nỗ lực mạnh mẽ và liên tục của các cơ quan thực thi (về vấn đề này chúng tôi sẽ xin trình bày chi tiết hơn ở các phần sau).

3. Một số vấn đề đặc thù trong pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung.

Trước hết, về mặt thuật ngữ, có thể dễ nhận thấy rằng trong hầu hết các quan hệ pháp luật thông thường, thuật ngữ thường được dùng là các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, trong pháp luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em người ta sử dụng thuật ngữ "bổn phận". Theo chúng tôi việc sử dụng thuật ngữ "bổn phận" trong mối quan hệ này là nhằm chỉ một đặc trưng cơ bản của mối quan hệ người lớn - trẻ em trong việc thực hiện các quyền và bổn phận của trẻ em. Đó là tính lệ thuộc.

Khác với nhiều mối quan hệ pháp luật khác khi mà các bên chủ thể tham gia quan hệ luôn có các quyền và nghĩa vụ tương ứng, trong việc thực hiện quyền trẻ em, trẻ em luôn đóng vai trò lệ thuộc, mong đợi sự quan tâm từ phía người lớn và phải tuân thủ lối hành xử mang tính chất chấp nhận và phục tùng. Thuật ngữ bổn phận, do đó, nhấn mạnh tính đạo lý truyền thống chứ không nặng tính pháp lý. Mặt khác, xem xét các bổn phận mà trẻ em phải tuân thủ, có thể thấy rõ nhiều bổn phận mang tính đạo lý khó có thể đưa ra xác định giới hạn rõ ràng (như bổn phận yêu kính ông ba bố mẹ, hiếu thảo với người trên, giữ gìn của chung) mà giới hạn đó lại tuỳ thuộc vào sự giải thích của người lớn. Nói cách khác, trong mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em, trách nhiệm pháp lý đối với trẻ em không thể phân định rõ ràng trong khi nghĩa vụ đạo lý rất sâu sắc và khi trẻ em thực hiện các bổn phận của mình, trẻ em đã tham gia vào quan hệ trách nhiệm đạo lý. Dưới góc độ này, việc phân định và áp dụng các chế tài pháp lý ở đây cũng cần phải cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng sao cho vừa đảm bảo hiệu quả thực thi của luật, vừa gìn giữ được các quan hệ tình cảm truyền thống, nhất là trong các môi trường nơi trách nhiệm đạo lý được coi trọng hàng đầu như gia đình hay nhà trường.

Thứ hai, giữa các quyền và bổn phận của trẻ em có tính tương hỗ lẫn nhau. Tuy nhiên, trong mối quan hệ này quyền của trẻ em không làm trực tiếp phát sinh các nghĩa vụ pháp lý của trẻ em mà trực tiếp làm phát sinh trách nhiệm và nghĩa vụ của người lớn. Đây là các trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện các quyền và định hướng, uốn nắn cho trẻ thực hiện bổn phận của mình. Trách nhiệm pháp lý của người lớn được hiểu một cách biện chứng bao gồm cả hai dạng là dạng hành động (tức người lớn vi phạm các quyền trẻ em) và không hành động (tức người lớn không thực hiện hoặc không làm tròn nghĩa vụ pháp lý của mình đối với trẻ em). Do đó, khi nói đến việc cưỡng chế thi hành Luật bảo vệ trẻ em cần thiết phải xem xét các chế tài xử lý hoặc các cơ chế (cưỡng chế) áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân (nhất là đối với các cơ quan, tổ chức và cán bộ, viên chức Nhà nước) đã không thực hiện các chức năng hay công việc của mình liên quan đến việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

 

Thứ ba, mối quan hệ giữa các quyền và bổn phận của trẻ em thể hiện đậm nét tính ưu việt của chế độ ta được thể chế hoá thành các quy định pháp luật (ví dụ như quyền học tập và hưởng sự chăm sóc ý tế miễn phí). Các quyền đó thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội đối với trẻ em nhưng đồng thời cũng chỉ có thể được thực hiện thông qua các nỗ lực chung của toàn xã hội trong đó chữ "người lớn" được hiểu theo số nhiều. Vì vậy, chức năng quản lý Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em.

Thứ tư, xét từ khía cạnh văn bản có thể nói nhiều quy định về quyền và bổn phận quy định trong Luật BVCSGDTE mang tính cương lĩnh theo đó các quyền và bổn phận được ghi nhận trong Luật nhằm nhắc nhở các bên liên quan về trách nhiệm của mình, tính cưỡng chế thi hành còn thấp. Từ đó khi xem xét mối quan hệ giữa các quyền và bổn phận của trẻ em trong từng trường hợp cụ thể cũng cần lưu ý tới vấn đề cơ sở pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ đó. Bên cạnh đó, ngày nay Nhà nước ta đang chủ trương xã hội hoá các hoạt động bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em song các văn bản pháp luật của Nhà nước để thể chế hoá các hoạt động xã hội hoá này cũng chưa được ban hành đầy đủ. Do đó, khi xem xét về mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em, bên cạnh việc coi trọng các quy định về chế tài của pháp luật cũng cần tính đến cơ chế điều chỉnh của xã hội và các biện pháp xử sự mang tính truyền thống.

 

Thứ năm, liên quan đến trách nhiệm của các bên trong mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em, nếu nhìn nhận đây như một giao điểm của nhiều mối quan hệ trách nhiệm, thì gia đình đóng vai trò như một điểm nút trung tâm. Theo chúng tôi, có thể phân tầng trách nhiệm giữa các thành tố chính của mối quan hệ này như sau:

 

Nghĩa vụ đạo lý,

trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm pháp lý

 

 

Bổn phận đạo lý Trách nhiệm pháp lý

 

 

 

 

Trách nhiệm hành chính, đạo lý Trách nhiệm hành chính, đạo lý Trách nhiệm hành chính - pháp lý

 

 

 

 

4. Một số nét đặc thù trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các quyền và bổn phận của trẻ em.

Từ một số phân tích lý luận như trên, liên hệ với thực tiễn thực hiện các quyền và bổn phận của trẻ em trong những năm qua, chúng tôi sơ lược rút ra một số vấn đề cần đặc biệt quan tâm đến trong việc điều chỉnh pháp lý đối với mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em nói chung và việc áp dụng các chế tài pháp lý nói riêng. Cụ thể như sau:

Trước hết, về phương thức thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em như chúng tôi đã trình bầy ở trên, trẻ em được pháp luật trao cho các quyền và quy định các bổn phận của mình nhưng các quyền và bổn phận đó chỉ có thể được thực hiện dưới sự cho phép, chỉ bảo và uốn nắn của người lớn. Nói cách khác, trong trường hợp này chính người lớn đặt nền móng, khuôn mẫu và định lượng cho các quyền và bổn phận của trẻ em sau này. Do đó, người lớn phải ý thức được và phải chịu trách nhiệm nếu trẻ em không được hưởng đầy đủ các quyền và thực hiện trọn vẹn các bổn phận của mình. Bên cạnh đó quyền, bổn phận của trẻ em không thể tách rời các quyền cơ bản của công dân.

Thứ hai, khi xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các quyền và bổn phận của trẻ em phải tính đến sự phát triển của lứa tuổi, giới tính và các hoàn cảnh đặc thù. Thực tế cho thấy trẻ em có hoàn cảnh xuất thân khác nhau thì phản ứng khác nhau trước các biến đổi của hoàn cảnh và có nhận thức khác nhau trước các quyền và bổn phận của mình. Đặc biệt trong hoàn cảnh của một xã hội Châu á vẫn còn các tàn dư của lối sống phong kiến và nếp suy nghĩ lạc hậu, phân biệt đối xử giữa các giới tính và nguồn gốc thì việc nhìn nhận mối quan hệ biện chứng giữa quyền và bổn phận của trẻ em cũng phải được xem xét một cách linh hoạt nhằm phát hiện và thúc đẩy các động lực phát triển của trẻ em ở các lứa tuổi, hoàn cảnh và cộng đồng khác nhau.

Thứ ba, khi xem xét tương quan các quyền của trẻ em cần quan tâm cả đến quyền vật chất và quyền nhân thân phi tài sản của trẻ em. Với vai trò lệ thuộc của mình, trẻ em khó có thể nhận thức đầy đủ về các quyền tài sản và tinh thần của mình. Việc đảm bảo cho trẻ được hưởng đầy đủ các quyền đó không chỉ giúp thực hiện tốt quyền trẻ em mà còn giúp trẻ có được nhận thức đúng và toàn diện về các vấn đề gắn liền với nhân thân một con người từ đó giúp trẻ thực hiện tốt hơn các bổn phận của mình, nhất là các bổn phận như gìn giữ của công, bảo vệ tài sản người khác, không hút thuốc, uống rượu, xem văn hoá phẩn xấu….

 

Thứ tư, tính đến đặc thù của vấn đề thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em là tính phục tùng như đã nói ở trên, khi áp dụng các biện pháp điều chỉnh đảm bảo để trẻ em được hưởng các quyền và thực hiện tốt các bổn phận của mình, cần đề cao các giải pháp hỗ trợ, tuyên truyền và giáo dục. Chúng tôi cho rằng nhất thiết cần bổ sung các chế tài pháp lý mạnh để xử lý hành chính – hình sự đối với các hành vi vi phạm quyền trẻ em hay việc không làm tròn bổn phận chăm sóc giáo dục trẻ em song các biện pháp mạnh này chỉ có thể được coi như những giải pháp cuối cùng.

Thứ năm, cũng như mọi mối quan hệ biện chứng khác, mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em phải được đặt trong các hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tính lịch sử cụ thể ở đây ít nhất cần được hiểu theo hai hướng:

 

Môi trường chính để thực hiện các quyền và bổn phận của trẻ em là gia đình, nơi có nhiều quan hệ tình cảm, đạo lý, truyền thống chằng chịt và khi xử xự trong gia đình, người ta thường không dùng các chuẩn mực pháp luât hay chuẩn mực văn hoá công cộng mà áp dụng các yếu tố mang tính truyền thống. Mối quan hệ biện chứng giữa quyền và bổn phận của trẻ em khi được xem xét trong môi trường gia đình, vì vậy, cũng phải tính đến yếu tố tâm lý và trật tự trong gia đình nhằm đạt được hiệu quả cao nhất là sự phát triển toàn diện của trẻ em.

Bên cạnh đó, việc thực hiện các quyền của trẻ em không thể tách rời các khuôn khổ kinh tế, xã hội chung của đất nước cũng như các tư tưởng chính trị lãnh đạo xã hội. Do đó, mối quan hệ biện chứng giữa quyền và bổn phận của trẻ em được thể hiện qua phương châm "giành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất" và chuẩn bị tốt nhất hành trang cho "các chủ nhân tương lai của đất nước". Ngoài ra, như phân tích ở trên, nhiều quy định về quyền và bổn phận của trẻ em mang tính cương lĩnh và do đó khi áp dụng cần lưu ý làm cho chúng phù hợp với các điều kiện tổng hoà của quốc gia, vùng miền và khu vực kinh tế chứ không thể áp đặt và đòi hỏi một cách cứng nhắc. Điều này cũng đã được khẳng định trong Công ước Quốc tế về quyền trẻ em 1990 theo đó các quốc gia, tuỳ theo hoàn cảnh điều kiện cụ thể của mình, cam kết danh tất cả nhứng gì tốt đẹp nhất cho trẻ em.

Thứ sáu, trong bối cảnh thời đại ngày nay đang có nhiều biến đổi nhanh chóng mang tính cách mạng nhất là trên các phương diện khoa học kỹ thuật, khi cân nhắc đến "yếu tố hoàn cảnh lịch sử cụ thể" như nói ở trên, các nhà hoặch định chính sách cũng như các nhà hoạt động thực tiễn cần chú ý thích đáng đến các yếu tố mới của đời sống kinh tế xã hội mà ở thời điểm hiện nay là sự phát triển của nền kinh tế tri thức và sự nhảy vọt của công nghệ thông tin trong một xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá mang tính tất yếu. Bởi lẽ nếu không có các phương pháp và cách thức tiếp cận phù hợp khi xử lý mối quan hệ quyền và bổn phận của trẻ em với trách nhiệm của người lớn sẽ dễ dẫn đến tình trạng khoét sâu hố ngăn cách về tri thức và lối sống giữa các thế hệ, cản trở trẻ em được hưởng các quyền của mình (như quyền được tiếp nhận thông tin, quyền được phát biểu ý kiến, quyền được phát triển thể chất và trí tuệ…) trong khi có thể gây ức chế cho người lớn khi suy nghĩ rằng sự phát triển của trẻ em đang vượt ra ngoài tầm kiểm soát của mình.

II. Khái quát về tình hình việc thực hiện Luật BVCSGDTE

1. Khái quát về thực trạng 10 năm thực hiện Luật BVCSGDTE

1.1. Những thành tựu đạt được trong xây dựng pháp luật

Tại kỳ họp tháng 2 năm 1990 Quốc Hội Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em. Tháng 8 năm 1991, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em trên cơ sở kế thừa và phát triển kết quả 10 năm thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Có thể nói, đạo luật này là một thành quả trực tiếp của sự nghiệp bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em do Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo vun đắp, thể hiện một cách khá đầy đủ tinh thần và nội dung của Công ước quyền trẻ em, đồng thời phù hợp với với hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam.

Theo thống kê sơ bộ của Uỷ ban Bảo vệ Chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam tháng 3 năm 2002, trong hơn 10 năm qua, chỉ tính riêng ở cấp trung ương, Nhà nước ta đã ban hành hơn 100 văn bản pháp luật các loại (trong đó có 11 Luật, 21 Nghị định, 24 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 10 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 25 Thông tư và Thông tư liên tịch của các Bộ.... Riêng Uỷ ban Bảo vệ Chăm sóc trẻ em đã ban hành 16 Quyết định, 10 Thông tư hướng dẫn, 13 Thông tư liên tịch)(). Hệ thống các văn bản này đã tạo nên một hệ thống tương đối đồng bộ, bao gồm văn bản luật và văn bản dưới luật, góp phần quan trọng vào các thành tựu trong công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em của Việt Nam thời gian qua, đồng thời cũng đánh dấu bước phát triển đáng kể của hệ thống pháp luật về quyền trẻ em của Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ ở các mặt cụ thể như sau:

Vấn đề khai sinh và quốc tịch của trẻ

Luật BVCSGDTE đã quy định rõ tại Điều 5 Điểm 1: "Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch". Đây là hai quyền đặc biệt quan trọng của trẻ đã được công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ghi nhận tại khoản 1 Điều 7: " Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi ra đời, có họ tên, có quốc tịch và trong chừng mực có thể quyền được biết cha, mẹ mình và được cha, mẹ mình chăm sóc". Quyền khai sinh là cơ sở, là điều kiện để thực hiện các quyền khác của trẻ em như quyền có họ tên, quyền có quốc tịch…

Ngày 14/11/1991, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 374/HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em. Điều 3 của Nghị định quy định về vấn đề quyền được khai sinh theo họ cha hoặc họ mẹ của trẻ em, quy định về thời hạn đăng ký khai sinh, theo đó trong trường hợp có khó khăn, thời hạn khai sinh chậm nhất không quá 3 tháng, nếu chưa được khai sinh thì trẻ em, cha mẹ, hay người đỡ đầu có quyền yêu cầu cơ quan chức năng tiến hành khai sinh cho trẻ em... Cơ quan chức năng phải đáp ứng yêu cầu đó một cách thuận lợi, không được gây khó khăn phiền hà. Điều 4 của Nghị định quy định về quyền yêu cầu của trẻ em, cha mẹ hay người đỡ đầu đối với các cơ quan có thẩm quyền xác định hoặc thay đổi quốc tịch cho trẻ em theo quy định của pháp luật. Theo các Điều 3, 4 nói trên thì trong bất cứ trường hợp nào trẻ em cũng có quyền được khai sinh và quyền có quốc tịch, đồng thời Nghị định cũng quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc đáp ứng yêu cầu về đăng ký khai sinh, xác định hoặc thay đổi quốc tịch cho trẻ em: "Các cơ quan chức năng phải đáp ứng yêu cầu đó một cách thuận lợi, không được gây khó khăn, phiền hà".

 

Tại các Mục 2, Mục 4 Bộ luật Dân sự 1995 quy định về quyền nhân thân, hộ tịch đối với cá nhân, trong đó Điều 28 quy định: "Mỗi cá nhân đều có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó". Qua việc quy định quyền đối với họ, tên của mỗi cá nhân, pháp luật dân sự tạo điều kiện cho các cá nhân xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự trước Nhà nước và được Nhà nước công nhận. Điều 55, 56 Bộ luật Dân sự quy định các vấn đề về đăng ký hộ tịch, khai sinh cho trẻ em, khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi. Bộ luật Dân sự quy định chi tiết các quyền trên là phù hợp và cần thiết nhằm áp dụng các biện pháp cưỡng chế, giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của trẻ em theo thủ tục tố tụng dân sự.

Điều 18 Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch còn quy định trách nhiệm của cha mẹ là sau khi sinh con chậm nhất là 1 tháng cha mẹ phải làm giấy khai sinh cho con, đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn trên không quá 60 ngày. Ngoài ra, pháp luật còn loại trừ trường hợp cha mẹ hoặc người thân thích gặp khó khăn thì thời hạn khai sinh cho con chậm nhất là không quá 3 tháng.

Những năm vừa qua, việc đăng ký khai sinh cho trẻ em đã được gia đình và Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, bước đầu đã đi vào nề nếp. Theo số liệu thống kê từ năm 1990- 1996 có 128.652 trẻ em là con ngoài giá thú được đăng ký khai sinh. Năm 2000 số trẻ em được khai sinh là 1.072.348 em trên tổng số sinh là khoảng 1.500.000 em(). Tuy nhiên, tỷ lệ được khai sinh rất khác nhau giữa các khu vực, vùng: Khu vực thành phố hơn 90%, khu vực đồng bằng là 70%, khu vực miền núi chỉ đạt từ 30- 50%, có vùng chỉ đạt từ 15-20%.

Như đã nói trên Điều 5 Điểm 1 của Luật BVCSGDTE đã quy định rõ quyền có quốc tịch của trẻ em. Đối với trẻ mới sinh thì việc xác định quốc tịch lại càng có ý nghĩa vì các em còn nhỏ tuổi, còn non nớt, cần được hỗ trợ giúp đỡ, do vậy, việc xác định em đó thuộc quốc tịch nào gắn liền với quyền và lợi ích mà các em được hưởng. Tại Điều 16, 17, 18, 19 Luật Quốc tịch Việt Nam khẳng định quyền được hưởng quốc tịch bất kể hoàn cảnh xuất thân của trẻ: dù là con trong giá thú, con ngoài giá thú, con bị bỏ rơi đều đảm bảo có quốc tịch Việt Nam khi sinh ra. áp dụng nguyên tắc quốc tịch theo lãnh thổ, theo nơi sinh, pháp luật Việt Nam đảm bảo cho trẻ em sinh ra trên đất nước Việt Nam có quốc tịch Việt Nam dù bất kể là cha mẹ chúng có quốc tịch nào, có quốc tịch hay không có quốc tịch, bất kể chúng có cha mẹ là người Việt Nam hay bị bỏ rơi hay không rõ cha mẹ là ai.

Vấn đề xác định cha, mẹ cho con.

Luật BVCSGD trẻ em quy định rõ tại Điều 5 Điểm 2: "Trẻ em không rõ cha mẹ khi có yêu cầu được cơ quan có thẩm quyền giúp đỡ xác định cha, mẹ cho mình". Đây là nội dung quan trọng thể hiện quyền có cha mẹ của trẻ em.

Cụ thể hoá quy định này, điều 5 Nghị định 374/HĐBT quy định: "Trẻ em không rõ cha, mẹ, khi có đơn yêu cầu xác định cha, mẹ cho mình, thì cơ quan nhận đơn có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. Nếu việc đó không thuộc chức năng, quyền hạn của mình, cơ quan nhận đơn có trách nhiệm chuyển đơn hoặc hướng dẫn người làm đơn đến cơ quan có chức năng, thẩm quyền, yêu cầu giúp đỡ giải quyết. Cơ quan có chức năng, thẩm quyền sau khi nhận đơn, phải giúp đương sự thực hiện yêu cầu, không được thoái thác trách nhiệm của mình".

 

Điều 39 Bộ luật dân sự 1995 quy định về quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con: Người không được nhận là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định mình là cha, mẹ hoặc là con của người đó theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật về hộ tịch.

 

Điều 65 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định về quyền nhận cha, mẹ: Con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.

 

Vấn đề tôn trọng, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ, tính mạng, thân thể, nhân phẩm cho trẻ em

Quyền được chăm sóc nuôi dạy được hiểu là quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ nhằm tạo nên sự phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức của trẻ em. Vì vậy, Điều 9 Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em đã quy định: "Trẻ em được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Trẻ em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế của Nhà nước theo quy định của Hội đồng Bộ trưởng" và "Cơ quan y tế Nhà nước có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc phòng bệnh và khám sức khoẻ định kỳ cho trẻ em ".

Cụ thể hoá thêm, Điều 7 Nghị định 374/HĐBT ngày 14/11/1991 quy định rõ vấn đề chăm sóc và chữa bệnh, kiểm tra sức khoẻ, tiêm chủng cho trẻ em là trách nhiệm của cơ quan y tế và cha mẹ của trẻ trong đó trách nhiệm của y tế cơ sở và cha mẹ trẻ em được nhấn mạnh: "Cha mẹ, người đỡ đầu có trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm tra sức khoẻ, về tiêm chủng, theo kế hoạch của y tế cơ sở, thực hiện các quyết định của thầy thuốc về khám bệnh, chữa bệnh đối với trẻ em".

 

Liên quan đến việc chăm sóc sức khoẻ y tế cho trẻ em cũng cần nhấn mạnh đến việc chăm sóc sức khoẻ y tế cho các trẻ em lang thang, trẻ mồ côi, trẻ em nghèo ở vùng sâu, vùng xa, những vùng đặc biệt khó khăn. Hiện trong cả nước có 11.706 trẻ mồ côi được nuôi dưỡng tại các cơ sở tập trung và khoảng 54.000 trẻ em hiện đang được trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng, ngoài ra có hàng chục ngàn trẻ em được chăm sóc bằng các nguồn vận động khác từ cộng đồng, từ các tổ chức quốc tế và theo các mô hình khác nhau().Chính vì vậy, Nhà nước đã cũng quy định rõ trách nhiệm của Bộ Y tế trong việc dựa vào ngân sách Nhà nước, sự đóng góp của xã hội và viện trợ của quốc tế để đảm bảo những điều kiện về chăm sóc sức khoẻ của trẻ như: xây dựng, củng cố mạng lưới y tế từ Trung ương tới cơ sở, ban hành quy chế về phòng bệnh, khám bệnh và chữa bệnh cho trẻ em, có kế hoạch sản xuất các thứ thuốc, đảm bảo điều kiện chất lượng khám, chữa bệnh, đảm bảo số lượng và chất lượng cán bộ, nhân viên y tế chuyên khoa nhi, cơ sở vật chất trang thiết bị, máy móc thuốc men…(Điều 6 Nghị định 374). Tiếp đó, Điều 46 Chương IV Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân ngày 30/6/1989 quy định: "Trẻ em được y tế cơ sở quản lý sức khoẻ, được tiêm chủng phòng bệnh, phòng dịch, được khám bệnh, chữa bệnh. Ngành y tế có trách nhiệm phát triển, củng cố mạng lưới chăm sóc bảo vệ sức khoẻ trẻ em".

 

Điều 37 Bộ luật dân sự 1995 quy định việc chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là nghĩa vụ chăm sóc của cha mẹ đối với con cái. Điều 34, Điều 36, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định cụ thể nghĩa vụ và quyền của cha mẹ trong việc cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên.

Liên quan đến vấn đề phòng chống các tệ nạn xã hội mà trẻ em có thể mắc phải, Điều 14 Khoản 1 Luật BVCSGDTE đã quy định nghiêm cấm trẻ em đánh bạc, hút thuốc, uống rượu và sử dụng các chất kích thích và nghiêm cấm việc dụ dỗ, dẫn dắt lôi kéo trẻ em mại dâm, sử dụng văn hoá phẩm đồi trụy hoặc sử dụng các chất nói trên. Cụ thể hoá các quy định này, Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật, đặc biệt là Nghị quyết số 06/CP ngày 29/1/1993 về phòng chống và kiểm soát ma tuý và Chỉ thị số 06/1998/CT-TTg ngày 23/01/1998 Thủ tướng Chính Phủ về việc tăng cường công tác bảo vệ trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức lao động.

Liên quan đến việc bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em, điều 8 Luật BVCSGDTE đã quy định rõ "Nhà nước và xã hội tôn trọng và bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em" và "nghiêm cấm việc ngược đãi, làm nhục, hành hạ, ruồng bỏ trẻ em, kích động, lôi kéo, ép buộc trẻ em thực hiện những hành vi vi phạm páhp luật hoặc làm những việc có hại đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em". Nhằm thực hiện các quy định này, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên là tội phạm và quy định những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với những hành vi phạm tội đó.

Căn cứ vào quy định tội phạm trong Bộ luật hình sự bên cạnh các tội trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, sự phát triển lành mạnh của trẻ em như tội giết con mới đẻ (Điều 94), tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120)... là các tội có quy định tình tiết định khung tăng nặng "Phạm tội đối với trẻ em", tội lây truyền HIV cho người khác (Điểm b Khoản 2 Điều 117), tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điểm c Khoản 2 Điều 118), tội giao cấu với trẻ em (Điểm b Khoản 3 Điều 115).

Liên quan đến việc sử dụng lao động trẻ em, Điều 10 của Luật đã quy định rõ: "Nghiêm cấm việc sử dụng lao động trẻ em trái quy định của pháp luật, có hại cho sự phát triển bình thường của trẻ em". Cụ thể hoá quy định này, Bộ luật Lao động nước ta dành riêng Chương XI để quy định riêng đối với lao động chưa thành niên, trong đó nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên vào công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với cá chất độc hại. Cùng với những quy định trong Bộ luật Lao động nhằm bảo vệ tuyệt đối sức khoẻ của trẻ em, đảm bảo cho trẻ được phát triển đầy đủ cả về thể chất và tri thức. Tiếp đó, Thông tư liên bộ số 09/TT-LB ngày 13/4/1995 của Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội và Bộ Y tế quy định cụ thể cấm sử dụng lao động chưa thành niên ở các công việc với điều kiện lao động có hại cho sức khoẻ. Chỉ thị số 351/TTg ngày 28/5/1996 của Thủ tướng Chính phủ quy định cấm trẻ em dưới 16 tuổi uống rượu, bia nhằm bảo vệ cho trẻ em tránh khỏi những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, thậm chí có khi là phạm tội, giúp các em có một cuộc sống lành mạnh, có sức khoẻ và khả năng học tập.

Vấn đề học tập của trẻ em

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không. Dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu." Hiến pháp 1992 đã quy định một loạt các nguyên tắc cơ bản về việc bồi dưỡng giáo dục trẻ em như "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu", " học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân", "Bậc tiểu học là bắt buộc không phải trả học phí".

 

Trên cơ sở Hiến pháp, các văn bản Luật và dưới luật về giáo dục, chăm sóc trẻ em lần lượt được ra đời, từng bước cụ thể hoá việc giáo dục, chăm sóc trẻ em. Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em quy định học tập không chỉ là quyền mà còn là bổn phận nhằm bồi dưỡng cho các em có những kiến thức cần thiết trong quá trình phát triển (Điều 3, 6, 10, 13). Việc quy định như vậy, để cho các em thấy rằng ngoài trách nhiệm của gia đình, Nhà nước, xã hội các em phải có ý thức tự giác trong học tập vì sự phát triển của mình, không chỉ phụ thuộc vào người lớn mà còn phụ thuộc vào chính sự cố gắng của các em.

Bên cạnh đó, ngày 12/8/1991, Nhà nước ta ban hành Luật phổ cập giáo dục tiểu học áp dụng chính sách phổ cập giáo dục tiểu học đối với trẻ em trong toàn quốc từ độ tuổi từ 6 dến 14, dù ở điều kiện, hoàn cảnh khó khăn nào trẻ cũng được đến trường để học các kỹ năng nói, đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, xã hội, con người, hướng cho các em biết sống một cuộc sống nhân ái, yêu cha mẹ, ông bà, yêu quê hương đất nước, yêu lao động, yêu hoà bình… Nghị định số 338/HĐBT ngày 26/10/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về thi hành Luật phổ cập giáo dục tiểu học quy định về trách nhiệm của gia đình, nhà trường, chính quyền cơ sở và các cơ quan, Ban ngành có liên quan trong việc tạo điều kiện cho trẻ em hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học.

Vấn đề vui chơi, giải trí lành mạnh của trẻ em.

Luật BVCSGDTE 1991 quy định rõ tại Điều 11: "Trẻ em có quyền vui chơi giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi" "Nhà nước khuyến khích và bảo trợ việc xây dựng, bảo vệ, sử dụng tốt những cơ sở vật chất kỹ thuật và phương tiện phục vụ trẻ em học tập, sinh hoạt và vui chơi". Trên cơ sở quy định này, nghị định 374/HĐBT và nhiều văn bản khác đã cụ thể hoá thành nhiều quy định chi tiết về trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc đảm bảo quyền được vui chơi giải trí của trẻ em. Ví dụ: Quyết định số 21/TTg ngày 16/1/1993 của Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định rõ: "Việc làm ra và cung cấp các loại sách, báo, phim ảnh, các chương trình phát thanh, truyền hình, các chương trình vui chơi giải trí dành riêng cho thiếu nhi là việc làm quan trọng và cần thiết()".

Để có hạ tầng kiến trúc cho hoạt động vui chơi giải trí của trẻ em (hệ thống nhà thiếu nhi, nhà văn hoá, trung tâm thể thao, hệ thống thư viện.... ), Nhà nước đã có nhiều quy định ưu đãi theo tinh thần giành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em. Điều 58 Luật Đất đai (14/7/1993) quy định: "Đất sử dụng vào mục đích công cộng là đất dùng để xây dựng: đường giao thông, cầu, cống, vỉa hè, hệ thống cấp thoát nước, sông, hồ, đê, đập, trường học, bệnh viện, chợ, công viên, vườn hoa, khu vui chơi cho trẻ em…". Điều 2 Nghị định số 94/CP ngày 25-8-1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về thuế nhà, đất và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất quy định: "không thu thuế đất đối với đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép sử dụng vì lợi ích công cộng, phúc lợi xã hội hay từ thiện không có mục đích kinh doanh và không dùng để ở như đất làm công viên, nhà văn hoá, sân vận động, đê điều, công trình thuỷ lợi, trường học (bao gồm cả nhà trẻ, mẫu giáo)…"

Thông tư số 24-TT/LB ngày 26/3/1994 Liên Bộ Tài chính, Văn hoá thông tin Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh quy định chế độ cấp phát, quản lý tài chính đối với các nhà thiếu nhi. Theo đó, Nhà nước cấp kinh phí hàng năm cho nhà thiếu nhi căn cứ vào nhiệm vụ được giao và dự toán kinh phí chi tiêu hoạt động, Nhà nước khuyến khích các nhà thiếu nhi tổ chức các hoạt động rộng rãi nhằm thu hút đông đảo thiếu nhi vào sinh hoạt…

Quyền sống chung với cha mẹ của trẻ em.

Điều 7 Luật BVCSGDTE quy định "trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc đứa trẻ phải cách ly cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của đứa trẻ. Việc giao, nhận trẻ em làm con nuôi phải theo quy định của pháp luật, bảo đảm để cho đứa trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt".

Trên cơ sở quy định trên, Nhà nước ta đã ban hành nhiều các quy phạm khác nhằm cụ thể hoá chi tiết và hướng dẫn thi hành quy định này như các quy định tương ứng của Nghị định 374, Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân gia đình... Bộ Luật Dân sự 1996 quy định tại Điều 37: "Con cháu chưa thành niên được hưởng sự chăm sóc nuôi dưỡng của cha mẹ ông bà, con cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà". Luật Hôn nhân gia đình quy định quyền của trẻ em được sống chung với cha mẹ, việc cho và nhận con nuôi (Điều 5, 6, 7, 8), quy định cấm cha mẹ ngược đãi, hành hạ con cái (Điều 2) và lần đầu tiên quy định hạn chế một số quyền của cha mẹ nếu vi phạm điều cấm đó (Điều 26). Đặc biệt tinh thần bảo đảm quyền sống chung với cha mẹ của trẻ em được thể hiện rất rõ trong một loạt các văn bản về vấn đề nuôi con nuôi (đặc biệt là việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài) được ban hành trong thời gian vừa qua như Nghị định 184/CP, 3 Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công An, Bộ Tài chính và rất nhiều các văn bản hướng dẫn cụ thể của các bộ, ngành có liên quan.

1.2. Những thành tựu trong tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

Sau khi được thành lập (12/9/1990), Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc Trẻ em Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động của mình, phát triển hệ thống tổ chức thành một màng lưỡi rộng khắp bao gồm Uỷ ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em Việt Nam ở trung ương với tư cách là một cơ quan của Chính phủ, bên dưới có một hệ thống Uỷ ban bảo vệ chăm sóc trẻ em ở cấp Tỉnh, Quận - Huyện, và Ban chăm sóc trẻ em ở xã, phường, thị trấn tạo thuận lợi cho việc phối hợp thực hiện các mục tiêu vì trẻ em.

Ngay sau khi Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em và Nghị định 374/HĐBT được ban hành, Uỷ ban BVCSGDTE đã tiến hành hàng loạt các hội nghị và chương trình hành động vì trẻ em. Uỷ ban BVCSGDTE cũng mở nhiều đợt tuyên truyền Luật BVCSGDTE và Công ước Quyền trẻ em rộng khắp từ trung ương đến cơ sở. Công tác tuyên truyền, vận động xã hội tham gia thực hiện các điều khoản của Luật, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về các mục tiêu chương trình hành động quốc gia được tiến hành thường xuyên góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, gia đình, trẻ em và toàn xã hội trong việc thực hiện các quyền và bổn phận trẻ em gắn với các yêu cầu của các Chỉ thị 38/CT-TW và 55/CT-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Uỷ ban BVCSGDTE đã tiến hành các đợt kiểm điểm 5 năm và 10 năm việc thực hiện Luật BVCSGDTE, Công ước Quyền trẻ em và Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em. Kết quả của các hoạt động BVCSGDTE đã hiện thực hoá thành nhiều công trình (Nhà thiếu nhi, Nhà trẻ, Trường học, Nhà mở, Mái ấm, Khu vui chơi..) nhiều phong trào và chương trình mang lại thành quả thiết thực cho trẻ em (phòng chống suy dinh dưỡng, phẫu thuật nụ cười, ánh mắt trẻ thơ, tiêm chủng mở rộng, đưa trẻ đến trường, tháng hành động vì trẻ em, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt...). Nhiều mô hình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã được xây dựng và nhân rộng như Mái ấm, Nhà tình thương, các Trung tâm tư vấn trẻ em.

Bên cạnh đó, do tác động của các hoạt động thực hiện Luật BVCSGDTE, đã có nhiều động thái tích cực về mặt xã hội ảnh hưởng tốt đến đời sống tinh thần của trẻ. Báo cáo kiểm điểm 10 năm thực hiện Luật BVCSGDTE của Uỷ ban BVCSGDTE cho thấy các bậc phụ huynh đã lắng nghe và tôn trọng ý kiến của con em mình hơn, trẻ em đã mạnh dạn hơn trong việc bày tỏ quan điểm của mình và tham gia các hoạt động xã hội, bày tỏ ý kiến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trên toàn quốc hiện nay có 653 báo và tạp chí, phần lớn đều có chuyên mục riêng cho trẻ em, đặc biệt có 15 tờ báo dành riêng cho trẻ em. Hiện nay ở 50 thư viện cấp Tỉnh có khu vực riêng dành cho trẻ em hoặc có thư viện thiếu nhi. Sự quan tâm của người dân tới việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em cũng gia tăng đáng kể. Theo báo cáo của 15 tỉnh, thành phố và 4 đơn vị thì chỉ riêng các đơn vị này đã tổ chức 11.233 cuộc thi tìm hiểu và hội thảo xung quanh đề tài Luật BVCSGDTE và chỉ tại 12/15 tỉnh nói trên, các hoạt động này đã thu hút trên 36 triệu lượt người tham gia.

Một thành tựu khác của việc thực hiện Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em là sự gia tăng đáng kể và đều đặn nguồn đầu tư ngân sách và các nguồn lực cho việc thực hiện các quyền, bổn phận và mục tiêu vì trẻ em. Tổng chi cho dịch vụ xã hội cơ bản nói chung và cho mục tiêu trẻ em nói riêng (bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và vay nước ngoài) từ năm 1991 đến năm 2000 đã tăng gấp hàng chục lần. Nếu như năm 1991 mức chi ngân sách Nhà nước (tính theo giá hiện hành) cho trẻ em khoảng 1.017 tỷ đồng thì năm 2000 là 11.790 tỷ đồng, gấp 11,59 lần, bình quân mức tăng hàng năm là 28,75%. So sánh trong tương quan tổng chi ngân sách Nhà nước, mức chi cho trẻ em đã tăng từ khoảng 8,42% năm 1991 lên 12,21 % vào năm 2000. Trong 10 năm thực hiện luật vừa qua, Việt Nam cũng đã tích cực hợp tác và tranh thủ được sự giúp đỡ có hiệu quả của các nước, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ, chỉ riêng hỗ trợ của UNICEF cho Việt Nam trong 10 năm 1991-2000 đã là 110 triệu USD().

1.3. Một số yếu kém bất cập trong quá trình thực hiện Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam.

Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, quá trình thực hiện Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em hơn 10 năm qua cũng cho thấy việc thực hiện Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em nói riêng cũng như hệ thống các văn bản pháp luật về trẻ em nói chung vẫn còn nhiều vấn đề cần được nhanh chóng khắc phục. Đợt kiểm điểm đánh giá 5 năm thực hiện Luật BVCSGDTE năm 1996 và đợt kiểm điểm đánh giá 10 năm Luật BVCSGDTE năm 2001-2002 đã ghi nhận một số nhược điểm và tồn tại trong việc thi hành Luật và xây dựng văn bản pháp luật có liên quan, cụ thể là:

Trước hết, có nhiều ý kiến của các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn() cho rằng Luật BVCSGDTE còn dừng lại ở việc khẳng định các quyền và bổn phận cơ bản của trẻ em, nhiều quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc, định hướng chung thiếu cụ thể. Các luật có liên quan lại chưa quy định đầy đủ và đồng bộ với các vấn đề liên quan đến trẻ em. Ví dụ: như vấn đề các tệ nạn xã hội mà trẻ em cũng phải gánh chịu như mại dâm, hiếp dâm, ma tuý, buôn bán trẻ em, bóc lột sức lao động và ngược đãi trẻ em, trẻ em lang thang không nơi nương tựa... Từ đó dẫn đến nhu cầu phải cụ thể hoá một số điều khoản ngay trong Luật BVCSGDTE.

Thứ hai, nhiều văn bản quy định cụ thể chi tiết thi hành các điều khoản của Luật chưa có dẫn đến vướng mắc trong việc thực hiện Luật. Ví dụ: như quy định về miễn viện phí trong khám chữa bệnh cho trẻ dưới 6 tuổi tại các cơ sở y tế công lập (Điều 9, Luật BVCSGDTE), vấn đề miễn học phí cho học sinh tiểu học các trường công lập (Điều 10, Luật BVCSGDTE), quy định về cấm sử dụng lao động trẻ em (Điều 9, Luật BVCSGDTE). Đây là những vấn đề được nhiều người quan tâm.

Thứ ba, Luật BVCSGDTE 1991 đã quy định một số điều khoản mang tính cương lĩnh nhằm thể chế hoá một số chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự ưu việt của chế độ và sự quan tâm của toàn xã hội đối với trẻ em, nhưng thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện.

Thứ tư, Luật BVCSGDTE chỉ có 26 điều khoản dẫn đến việc khi thực hiện Luật BVCSGDTE phải viện dẫn các quy phạm có liên quan trong các đạo luật khác. Chỉ tính riêng trong thời gian 5 năm đầu thực hiện Luật (1991-1996), đã có hơn 150 điều có liên quan đến bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em trong các đạo luật khác (Ví dụ: Bộ luật Dân sự có 38 điều, Bộ Luật hình sự có 23 điều, Bộ Luật Tố tụng Hình sự có 16 điều, Luật Quốc tịch 3 điều, luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân 6 điều....)(). Điều này tất yếu dẫn đến một số chồng chéo và phức tạp trong việc viện dẫn và áp dụng Luật.

Tuy nhiên, dưới góc nhìn cầu thị theo tinh thần "vì trẻ em", có thể nhận xét rằng hệ thống văn bản pháp luật nói trên còn thiếu và có một số hạn chế. Rõ rệt nhất là việc ban hành các văn bản dưới luật còn ít, chậm so với yêu cầu tiến độ triển khai áp dụng pháp luật trên thực tế (nhất là các văn bản mang tính phối hợp nhiều ngành) và sự cụ thể hoá cũng chưa đạt được ở mức độ cao. Bên cạnh Luật BVCSGDTE, các đạo luật khác như Bộ luật hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật lao động… về cơ bản đều quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, khung và định hướng chung, phần lớn chưa trực tiếp cụ thể hoá các điều của Luật BVCSGDTE và càng chưa quy định đầy đủ các vấn đề liên quan đến trẻ em. Ngoài một số Nghị định, Thông tư… được ban hành kèm theo Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em thì phần lớn chưa đáp ứng và giải quyết kịp thời các vấn đề về quyền của trẻ em trong thực tiễn. Vì vậy, nhu cầu cụ thể hoá các quy phạm của Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em và nhu cầu đồng bộ hoá hệ thống quy định thông qua các văn bản dưới luật là những vấn đề quan trọng cần được gấp rút giải quyết.

Khác với các công cụ điều chỉnh xã hội khác, pháp luật có các đặc thù riêng như tính chất công, tính chất quy phạm, và tính cưỡng chế. Do vậy, để nâng cao hiệu quả áp dụng của Luật BVCSGDTE hiện hành, theo chúng tôi ưu tiên hàng đầu đặt ra là cần nâng cao hiệu quả pháp lý của việc áp dụng Luật BVCSGDTE. Nói cách khác, cần nghiên cứu tăng cường hiệu quả của hệ thống chế tài cưỡng chế thi hành Luật này trên cả hai bình diện: (i) chế tài đối với việc vi phạm các quyền trẻ em và chế tài đối với việc không thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, hành động thuộc trách nhiệm của mình dẫn đến tổn hại cho lợi ích của trẻ em, và (ii) chế tài đối với trẻ em vi phạm các bổn phận và nghĩa vụ của mình và chế tài đối với người lớn đã có hành vi (cả hành động và không hành động) xâm hại đến quyền và lợi ích trẻ em. Trước khi nghiên cứu cụ thể về thực trạng hệ thống chế tài pháp lý đối với các quy định của Luật BVCSGDTE năm 1991, từ những phân tích nêu trên, chúng tôi xin có một vài nhận xét chung về tổng thể hệ thống chế tài này.

2. Một số nhận xét về hệ thống chế tài đảm bảo thực hiện Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

2.1. Quy định về chế tài của Luật BVCSGDTE phần lớn là còn chung chung, chưa xác định rõ hành vi vi phạm và trách nhiệm đối với những vi phạm đó.

Như đã phân tích ở trên, phần lớn các điều khoản của Luật BVCSGDTE là các điều khoản chung mang tính nguyên tắc và tính cương lĩnh. Mặc dù trách nhiệm cụ thể hoá các quy định của Luật được trao cho các văn bản hướng dẫn và tổ chức thực hiện, song có thể nói việc nhiều điều khoản của Luật BVCSGDTE còn quy định quá chung, chưa xác đinh rõ hành vi và trách nhiệm dẫn đến một số khó khăn trong việc cụ thể hoá các chế tài áp dụng. Vấn đề này càng trở nên quan trọng trong bối cảnh trách nhiệm BVCSGDTE liên quan đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và việc thực hiện luật phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực phối hợp của các cơ quan có liên quan. Việc chưa cụ thể hoá thích đáng các nội dung quy định trong chính Luật BVCSGDTE phần nào dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất trong các văn bản dưới luật. Điều này cũng góp phần vào tình trạng xử lý một cách lúng túng, không hiệu quả, đùn đẩy trách nhiệm hoặc tuỳ tiện khi vận dụng luật trong thực tế.

 

Biểu đồ 1

ý kiến của cha mẹ trẻ em về các nguyên nhân hạn chế việc BVCSGDTE

(kết quả khảo sát với đối tượng nhân dân tại TP. Hồ Chí Minh, Cà Mau, Hà Giang- Tổng số 313 phiếu).

 

1. Cán bộ lãnh đạo chưa quan tâm…………………..

2. Dân trí thấp, kém hiểu biết, thái độ bất cần….……

3. Nhà nghèo không có điều kiện kinh tế……………

4. Gia đình, nhà trường, xã hội chưa phối hợp………

113 (36%)

138 (76%)

169 (54%)

118 (38%)

5. Pháp luật, chính sách không rõ……………………

6. Xã hội chưa thực sự quan tâm…………………….

7. Gia đình chưa thực sự quan tâm………………….

8. Thiếu các điều kiện bảo đảm…………………….

64 (20%)

74 (24%)

118 (38%)

119 (39%)

 

2.2. Các quy định bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em hiện nay (gồm cả Luật BVCSGDTE và các văn bản khác có liên quan) còn thiếu các chế tài đối với những vi phạm trong việc thi hành pháp luật.

Như chúng tôi đã trình bày tại phần I, một đặc trưng quan trọng của các quyền trẻ em được quy định tại Luật BVCSGDTE là tính lệ thuộc. Theo đó, trẻ em không thể tự mình vận dụng và thụ hưởng các quyền luật định của mình mà chỉ có thể hưởng thụ các quyền này thông qua những hành vi của người lớn. ở các nước phát triển, phạm vi khái niệm "người lớn" được hiểu bao gồm người thân thích, các tổ chức phi Chính phủ vì trẻ em, các cơ quan Nhà nước có liên quan, (cụ thể hơn về điểm này, xin xem các chuyên đề tham khảo kinh nghiệm nước ngoài tại phần các chuyên đề của đề tài). Trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội - chính trị như hiện nay của Việt Nam, khái niệm "người lớn", theo chúng tôi, phần lớn mới chỉ bao gồm những người thân thích của các em và các cơ quan Nhà nước có liên quan. Hơn thế nữa, khi bản thân người dân (và cả một số cán bộ thực hiện) còn chưa hiểu rõ về các quyền và bổn phận của con em mình được luật định, nghĩa vụ của các cơ quan Nhà nước, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện quyền trẻ em thì trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước càng cần phải được đề cao. Cụ thể hơn xin xem một số biểu đồ minh hoạ dưới đây.

Biểu đồ 2

Nhận thức của cha mẹ trẻ em về sự tồn tại của Luật BVSKGDTE()

(Kết quả khảo sát với đối tượng nhân dân tại TP. Hồ Chí Minh, Cà Mau, Hà Giang- Tổng số 313 phiếu).

1. Không biết Luật này………………………………….. 48 (15%)

2. Biết Luật này qua ti vi, đài phát thành…………………240 (77%)

3. Biết do cơ quan, chính quyền phổ biến………………...199 (64%)

4. Biết Luật này qua sách, báo, tạp chí……………………133 (36%)

5. Biết luật này qua panô, áp phích, bảng tin…………….. 79 (11%)

6. Nguồn khác……………………………………………. 0 (0%)

Biểu đồ 3

Nhận định về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả việc thi hành Luật BVCSGDTE

(Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài trong cán bộ làm công tác liên quan đến bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em tại TP. Hồ Chí Minh)

Tuy nhiên, việc còn thiếu các quy định về trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cơ quan nhà nước đối với việc thực hiện các quyền trẻ em dẫn đến tình trạng thiếu căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các trường hợp gia đình, nhà trường, cơ quan, tổ chức, hoặc công chức Nhà nước cố ý hoặc vô ý, lợi dụng hoặc thiếu tránh nhiệm làm thiệt hại đến quyền lợi của trẻ em nhưng chưa đến mức độ hoặc không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ, tình trạng cha mẹ không cho con đi học, bắt ở nhà lao động khi trẻ dưới 14 tuổi. Hiện tượng đánh đập, trừng phạt học sinh, con cái trong gia đình với hình phạt nặng nề vẫn xảy ra.... Vẫn còn nhiều nơi nhiều cơ quan tuỳ tiện trong áp dụng hoặc lẩn tránh các trách nhiệm luật định trong việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em (đặc biệt là trong các lĩnh vực có liên quan đến lợi ích kinh tế như học phí, viện phí, chính sách hỗ trợ trẻ em nghèo, xã khó khăn...).

Một trong những căn nguyên góp phần vào tình trạng trên, theo chúng tôi, là do Luật BVCSGDTE và các văn bản pháp luật khác quy định về quyền của trẻ em chưa có các quy định cưỡng chế xử lý, xử phạt những người không thực hiện hoặc những người không tôn trọng và xâm phạm quyền của trẻ em làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý vi phạm có liên quan.

2.3. Một số chế tài còn thiếu tính thực thi và chưa rõ cơ chế áp dụng.

Giữa Luật BVCSGDTE , các Bộ luật hình sự, dân sự, lao động… và các văn bản dưới luật còn nhiều điểm trùng lắp và không nhất quán trong việc quy định chế tài. Ví dụ, sự không nhất quán giữa các văn bản dưới luật thể hiện ở một số điểm sau:

- Cùng hành vi kinh doanh đồ chơi có hại cho sự phát triển của trẻ em nhưng Nghị định số 49/CP ngày 15/8/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự quy định phạt tiền từ 1 triệu đến 5 triệu đồng không bắt buộc tiêu huỷ vật phẩm vi phạm, trong khi đó Điều 5 khoản 4 Nghị định 46/CP ngày 6/8/1996 quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về y tế lại quy định phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng kèm theo tiêu huỷ các vật phẩm vi phạm.

- Hành vi sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật bị xử phạt từ 1 triệu đến 5 triệu đồng theo quy định tại Nghị định 49/CP, nhưng đối với một số trường hợp cụ thể sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật (sử dụng người chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại, vi phạm quy định về thời hạn sử dụng lao động chưa thành niên) thì Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động lại quy định chỉ xử phạt 1 triệu đồng.

- Trường hợp lôi kéo, xúi giục người chưa thành niên vi phạm đã được Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hành chính nhưng Nghị định số 49/CP lại quy định đây là một hành vi vi phạm hành chính độc lập bị xử phạt từ 5 triệu đến 10 triệu đồng mà không có hướng dẫn cụ thể hành vi này được áp dụng khác với trường hợp được coi là tình tiết tăng nặng như thế nào. Cũng theo Nghị định 49/CP thì "lạm dụng tình dục trẻ em" là hành vi bị xử phạt hành chính với mức từ 5 triệu đến 10 triệu. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định 5 hành vi phạm tội liên quan đến xâm phạm tình dục trẻ em, trong đó có "Tội dâm ô đối với trẻ em", nên quy định trên rõ ràng không còn phù hợp.

Điều 8 Chương II của Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em còn quy định rất chung chung "Trẻ em được Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình về những vấn đề có liên quan". Để đảm bảo thực hiện điều này có các quy định của Bộ Luật Hình sự và Bộ Luật Tố tụng Hình sự song còn thiếu các chế tài tương ứng và chưa rõ cơ chế kiểm tra-đảm bảo thực hiện. Trên thực tế có nhiều hành vi vi phạm xảy ra nhưng rất khó áp dụng Điều 8 Chương II của Luật để xử lý.

Trên đây là một vài nhận xét khái lược mang tính tổng quan chung về việc thực hiện Luật BVCSGDTE trong 10 năm qua. Từ các phân tích nêu trên, nhóm nghiên cứu chia sẻ quan điểm với các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý về nhu cầu cần khẩn trương sửa đổi Luật BVCSGDTE năm 1991 cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh trên thực tế.

Tuy nhiên định hướng sửa đổi Luật như thế nào để vừa nâng cao hiệu quả pháp lý và tính khả thi của Luật vừa đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam là một vấn đề cần được nghiên cứu và thảo luận một cách cẩn trọng. Trước khi đưa ra một số phương án sửa đổi đạo luật này cũng như các kiến nghị về mô hình áp dụng Luật, dưới đây chúng ta sẽ cùng xem xét một cách chi tiết về thực tiễn áp dụng hệ thống chế tài đảm bảo thi hành Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

III. Thực trạng về hệ thống chế tài bảo đảm thi hành Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam

1. Hệ thống chế tài và cơ chế bảo vệ quyền trẻ em theo quy định của pháp luật hành chính

Chế tài hành chính là hệ thống các biện pháp cưỡng chế nhà nước tác động đến người vi phạm pháp luật hành chính nhằm các mục đích khác nhau như: giáo dục, trừng trị, phòng ngừa vi phạm pháp luật và buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra... Các quy định về xử lý vi phạm hành chính cũng đặt ra những chế tài đối với các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Những hành vi vi phạm làm tổn hại đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của các em đều được quy định cụ thể trong các Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính với hình thức và mức phạt tương ứng với tính chất, mức độ vi phạm của các hành vi đó.

Theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và các quy định của pháp luật hiện hành, trong phần này chúng tôi trọng tâm đi vào đánh giá trên 3 phương diện:

Chế tài xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền trẻ em;

Chế tài xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật của trẻ em.

Cơ chế xử lý vi phạm (áp dụng chế tài) pháp luật hành chính đối với 2 nhóm hành vi vi phạm pháp luật hành chính trên.

1.1. Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền trẻ em.

1.1.1. Chế tài bảo vệ quyền được khai sinh và có quốc tịch.

Để bảo vệ quyền được khai sinh và có quốc tịch của trẻ em, pháp luật hành chính đã đặt ra những chế tài cụ thể. Nghị định 49/CP ngày 15/8/1996 quy định phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng đối với những hành vi vi phạm quy định về đăng ký quản lý hộ tịch, hộ khẩu. Trên thực tế, quản lý Nhà nước về hộ tịch là một công tác khó khăn, phức tạp bởi lẽ nó liên quan trực tiếp đến việc quản lý các sự kiện pháp lý gắn liền với nhân thân con người và diễn ra trong suốt cả đời người. Vì vậy, Nhà nước không thể đạt được hiệu quả trong quản lý hộ tịch nếu không có sự phối hợp, tham gia của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và sự tự giác thực hiện của công dân. Do ý thức của nhiều người dân, đặc biệt là những người ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn hạn chế nên những quyền này của trẻ em chưa được thực hiện triệt để, đặc biệt là quyền được khai sinh. Những chế tài như cảnh cáo, phạt tiền chưa thực sự có tác dụng, khả năng thực thi chưa cao. Do đó bên cạnh các chế tài này cần có thêm những quy định hỗ trợ phù hợp khác.

1.1.2. Chế tài bảo vệ quyền được sống chung với cha mẹ; được chăm sóc, nuôi dạy để phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức; bảo vệ các quyền của trẻ em được hưởng sự chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ; được bày tỏ ý kiến nguyện vọng về những vấn đề có liên quan.

Tại Điều 26 Nghị định 49/CP ngày 15/8/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự quy định: hành vi "ngược đãi, ruồng bỏ trẻ em" bị phạt tiền từ 1.000.000 đến 5.000.000 đồng (Điểm a). Tuy nhiên, trong thực tiễn hình phạt tiền rất khó thực hiện, bởi lẽ các cơ quan chức năng rất khó khăn hoặc rất ngại yêu cầu bố mẹ hay người thân khác của các em bị xử phạt về hành vi này nộp phạt. Đôi khi hình phạt này lại chính là nguyên nhân gây căng thăng và tạo áp lực cho trẻ em, đặc biệt ở những gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Hậu quả là nhiều em bị rơi vào trạng thái tâm lý tiêu cực, trở nên lì đòn, hung hăng, bất cần, thậm chí bỏ nhà ra đi.

Bên cạnh đó, Nghị định 49/CP còn quy định: Phạt tiền từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng đối với hành vi "giao, nhận trẻ em làm con nuôi trái quy định của pháp luật"; Phạt tiền từ 50.000.000 đến 100.000.000 đồng đối với hành vi "kê khai lý lịch, giấy tờ sai sự thật để giao nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài", "làm thủ tục cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi trái quy định của pháp luật". Những chế tài này đã thực sự có hiệu quả trên thực tế, góp phần ngăn ngừa những hành vi lợi dụng hoàn cảnh lệ thuộc của đứa trẻ để khích lệ hoặc ép buộc chúng thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc các việc làm có hại cho sự phát triển bình thường, lành mạnh về sức khoẻ, trí tuệ và nhân cách của trẻ thơ; bảo đảm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, bảo đảm con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt.

 

Sức khoẻ của trẻ em tốt hay xấu phụ thuộc rất nhiều vào người mẹ lúc mang thai. Do đó, bảo vệ người mẹ trong thời kỳ này cũng đồng thời là bảo vệ trẻ em ngay từ khi chưa lọt lòng. Điều 9 Khoản 4 Nghị định 38/CP ngày 25/6/1996 quy định: "Vi phạm các quy định về sử dụng lao động nữ có thai từ tháng thứ 7 hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi quy định tại Khoản 1,2 Điều 115 của Bộ luật lao động" thì bị phạt tiền 1.000.000 đồng...

1.1.3. Chế tài đối với nhóm quyền "được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm" (Điều 8 LBVCS&GDTE).

Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm là những quyền cơ bản nhất của công dân đặc biệt là đối với trẻ em. Hầu hết các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng đều được xử lý bằng pháp luật hình sự() với những chế tài hết sức nghiêm khắc. Phạm tội đối với trẻ em được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, một số hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị áp dụng các chế tài hành chính (ví dụ như: lần đầu đánh, chửi nhau; trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng...).

Nhằm ngăn ngừa những hành vi lợi dụng sự lệ thuộc của trẻ em để bóc lột trẻ em, bắt trẻ em làm công việc nặng nhọc quá sức mình, hoặc không trả công lao động cho trẻ em tương xứng với công sức các em đã bỏ ra Điều 26 Nghị định 49/CP ngày 15/8/1996 quy định: Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi "Sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật"... Đồng thời, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em khi tham gia lao động, sản xuất Nghị định 38/CP ngày 25/6/1996 quy định cụ thể: Phạt tiền 1.000.000 đồng đối với hành vi "sử dụng người chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Bộ lao động, thương binh và xã hội và Bộ y tế ban hành được quy định tại Điều 121 của Bộ luật lao động", "vi phạm quy định về thời gian sử dụng lao động chưa thành niên..." quy định tại Khoản 1, Điều 122 và Khoản 4 Điều 125 của Bộ luật lao động....

 

Hiện nay, ở nước ta, tình trạng trẻ em bị lạm dụng tình dục vẫn không suy giảm mặc dù pháp luật đã trừng trị nghiêm minh. Việc phải làm gì để bảo vệ con em khỏi bị xâm hại đang là một thử thách mà có vẻ như chúng ta chưa nhận thức, quan tâm đầy đủ. Pháp luật hành chính quy định đối với những trường hợp chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xử phạt hành chính. Điều 26 Khoản 2 Nghị định 49/CP quy định: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi "Lạm dụng tình dục trẻ em". Tuy nhiên, những quy định này trên thực tế chưa phát huy hiệu quả.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trẻ em phạm pháp ngày càng gia tăng là sự kích động, lôi kéo, xúi giục trẻ em vi phạm pháp luật. Để khắc phục thực trạng này, bên cạnh việc xử lý hình sự còn xử lý hành chính đối với những hành vi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 26 Khoản 2 Điểm b quy định: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đối với hành vi "kích động, lôi leo, xúi giục trẻ em vi phạm pháp luật". Chế tài bảo vệ nhóm quyền này chủ yếu là hình phạt tiền, các hình thức khác được quy định rất ít hoặc không được quy định như hình phạt bổ sung hay những biện pháp xử lý hành chính khác.

Trẻ em cũng như mọi công dân khác đều có quyền tự do bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình về những vấn đề liên quan. Luật pháp hành chính cũng như tố tụng hình sự, dân sự cũng tạo mọi cơ hội để trẻ em được bày tỏ ý kiến của mình khi có vấn đề liên quan, hoặc thông qua người đại diện hoặc cơ quan, tổ chức có trách nhiệm nuôi dưỡng và chăm sóc. Điều 7 Khoản 3 Nghị định 38/CP quy định: Phạt tiền 200.000 đồng đối với hành vi "Khi quyết định những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em mà không tham khảo ý kiến đại diện những người lao động nữ theo quy định tại khoản1 Điều 118 của Bộ luật lao động"... Mức phạt như trên còn tương đối thấp và hình thức xử phạt này chưa có hiệu quả. Trong thực tiễn, nhóm quyền này chưa được bảo vệ đúng mức, thông thường khi quyết định người có thẩm quyền cũng tổ chức lấy ý kiến nhưng không quan tâm đến việc người được tham khảo ý kiến hay người đại diện của họ đã có ý kiến gì.

Ngoài ra, để đảm bảo nguồn kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em, Nhà nước ta không ngừng khuyến khích việc thành lập quỹ bảo trợ trẻ em ở các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương. Nhằm động viên mọi người đóng góp sức người, sức của cho việc xây dựng quỹ bảo trợ trẻ em và việc quản lý quỹ này cũng như quản lý các nguồn tài chính khác dành cho trẻ em, Nhà nước ta nghiêm cấm việc sử dụng các quỹ này và các nguồn tài chính vào mục đích khác. Điều 26 khoản 3 Nghị định 49/CP quy định: phạt tiền 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi "sử dụng quỹ bảo trợ trẻ em và các nguồn tài chính khác dành cho việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào mục đích khác".

 

Nhìn chung, chế tài hành chính bảo vệ nhóm quyền này đã tương đối phù hợp. Tuy nhiên, cần có biện pháp áp dụng mang tính khả thi hơn.

1.1.4. Chế tài bảo vệ quyền được học tập, vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao.

Nghị định 49/CP và Nghị định 31/CP đã quy định hơn 800 hành vi thuộc tất cả các lĩnh vực văn hoá, thông tin, với những hình thức và mức phạt rất cụ thể, như cảnh cáo, phạt tiền từ 50.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu tang vật phương tiện vi phạm, tước quyền sử dụng giấy phép hành nghề, buộc tiêu huỷ sản phẩm có nội dung độc hại, buộc bồi thường do vi phạm gây ra. Trong đó có những quy định cụ thể trực tiếp bảo vệ quyền được vui chơi, giải trí lành mạnh, quyền được hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao của trẻ em. Cụ thể, Điều 26 Nghị định 49/CP quy định phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi "bán hoặc cho trẻ em sử dụng những văn hoá phẩm độc hại, đồ chơi hoặc chơi trò chơi có hại cho sự phát triển của trẻ em" (khoản 1 điểm d); Điều 16 Khoản 1 Nghị định 88/CP quy định phạt tiền từ 50.000 đồng đến 150.000 đồng đối với hành vi "cho trẻ em dưới 16 tuổi vào rạp chiếu phim, nơi chiếu băng hình để xem phim cấm trẻ em dưới 16 tuổi". Những chế tài thực hiện việc đấu tranh chống văn hoá độc hại đã hình thành hệ thống và tương đối đồng bộ, phù hợp.

Ngoài ra, luật pháp còn nghiêm cấm việc lôi kéo trẻ em đánh bạc, cho trẻ em uống rượu, hút thuốc, dùng chất kích thích có hại cho sức khoẻ... nhằm tạo môi trường và gìn giữ sự phát triển về thể chất và tinh thần cho các em. Người nào cố tình làm những việc đó thì tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà xử lý theo pháp luật hành chính hoặc pháp luật hình sự. Nghị định 49/CP quy định tại Khoản 1 Điểm c Điều 26: phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi "lôi kéo trẻ em đánh bạc, uống rượu, hút thuốc, dùng các chất kích thích co hại cho sức khoẻ".

 

Thực tế không thể phủ nhận là hiện nay sân chơi cho các em thiếu nhi ngày càng bị thu hẹp lại trước cơn lốc đô thị hoá. Hiện tượng sử dụng những cơ sở vật chất và các phương tiện dành cho việc vui chơi, giải trí, học tập... của trẻ em vào mục đích khác không đem lại lợi ích thiết thực cho trẻ em như: biến trường học thành nhà kho, nhà xưởng để sản xuất, của hàng kinh doanh, hoặc dùng nhà văn hoá thiếu nhi làm quán cà phê, giải khát...Nhằm ngăn ngừa những hành động trên và đảm bảo trẻ em được vui chơi ở những khuôn viên an toàn, sạch đẹp, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành để xử lý các vi phạm đang diễn ra hàng ngày. Ví dụ: Nghị định 49/CP quy định: phạt tiền 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi "sử dụng cơ sở vật chất, phuơng tiện công cộng dành cho việc học tập, vui chơi, giải trí của trẻ em vào mục đích khác mà không được phép"... Tuy nhiên, những chế tài này còn tương đối nhẹ và chưa thực sự có tính khả thi. Do đó, thực tế nhiều trường hợp vi phạm nhưng không thể thu được tiền phạt, thậm chí có những cá nhân, tổ chức sẵn sàng nộp tiền phạt để rồi tiếp tục vi phạm.

Theo quy định của pháp luật, những cá nhân, tổ chức vi phạm chính sách pháp luật của nhà nước về đảm bảo quyền học tập của trẻ em như: cho phép hoặc mở trường, lớp trái pháp luật, giáo dục trái với nội dung, chương trình do Nhà nước quy định; xâm phạm thân thể và danh dự học sinh; xâm phạm cơ sở vật chất của trường, lớp; lạm dung quyền hạn sử dụng trái phép kinh phí dành cho giáo dục hoặc các vi phạm khác, thì tuỳ theo mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính .Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có văn bản chính thức nào quy định cụ thể hình thức và mức phạt đối với mỗi loại hành vi. Do đó, khi xảy ra vi phạm các cơ quan chức năng thường xử lý không thống nhất, còn nhiều bất cập. Bởi vậy, những chế tài hành chính bảo đảm quyền học tập của trẻ em có tính khả thi chưa cao.

1.1.5. Chế tài bảo vệ quyền được có tài sản, được quyền thừa kế và quyền hưởng các chế độ bảo hiểm

Mọi công dân không phân biệt lứa tuổi, đều có quyền sở hữu tài sản, tức là có quyền có tài sản. Bởi vậy, những hành vi xâm phạm đến tài sản của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hành chính mới chỉ có quy định chung bảo vệ quyền có tài sản của công dân mà chưa có quy định cụ thể để xử lý đối với những hành vi vi phạm quyền có tài sản của trẻ em. Bên cạnh đó, pháp luật coi quyền thừa kế của trẻ em là một vấn đề pháp lý hết sức quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có chế tài hành chính xử lý những hành vi vi phạm quyền thừa kế của trẻ em và có thể nói, trên thực tế những quyền này của các em không được quan tâm đúng mức.

1.2. Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật của trẻ em

Về nguyên tắc, xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Trong đó các đối tượng trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Mức phạt và hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại điều 6 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Ngoài ra, trên cơ sở các quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ cũng đã quy định một cách cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với từng hành vi vi phạm pháp luật trên từng lĩnh vực cụ thể; trong đó trẻ em là một chủ thể chịu sự điều chỉnh khi có hanh vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, mức độ xử phạt nhẹ hơn so với người thành niên có cùng hành vi vi phạm.

Cách quy định như vậy làm cho hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính gọn hơn. Tuy nhiên, đối với trẻ em là một đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ thì các trình tự, thủ tục quy định chung như vậy là không phù hợp.

1.3. Cơ chế thực hiện

1.3.1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính

Các hình thức và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính (kể cả đối với người lớn và trẻ em vi phạm) được Nhà nước quy định tại Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và nhiều văn bản dưới luật khác. Theo đó thẩm quyền và mức phạt được trao cho nhiều cơ quan khác nhau theo các thủ tục xử phạt khác nhau (chi tiết xin xem chuyên đề "cơ chế thực hiện các chế tài pháp lý nhằm đảm bảo thực hiện các điều luật của Luật BVCSGDTE" trong phần các chuyên đề). Một vấn đề thường gặp khi xử phạt vi phạm hành chính hiện nay (nhất là đối vởi trẻ em có hành vi vi phạm) là không phải lúc nào người bị xử phạt cũng có tiền phạt tương đối lớn và đối tượng bị xử phạt gặp khó khăn về kinh tế. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về tạm hoãn thi hành quyết định phạt tiền đối với cá nhân (đặc biệt là trẻ em) bị xử phạt vi phạm hành chính với mức tiền tương đối lớn trong trường hợp gia đình đang gặp khó khăn về kinh tế, có đơn đề nghị và Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan xác nhận.

1.3.2. Các biện pháp xử lý hành chính khác

Trong số các pháp xử lý hành chính khác như: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính thì biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là những biện pháp có liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ quyền trẻ em. Về cơ bản những thủ tục này đã tương đối phù hợp, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thực hiện các biện pháp pháp lý khác có hiệu quả và bảo đảm các quyền của trẻ em được thật sự tôn trọng và bảo vệ (chi tiết về các thủ tục trình tự và thẩm quyền có liên quan đến các biện pháp này xin xem chuyên đề "cơ chế thực hiện các chế tài pháp lý nhằm đảm bảo thực hiện các điều luật của Luật BVCSGDTE" trong phần các chuyên đề).

1.3.3. Vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xử lý vi phạm hành chính

Thẩm quyền giải quyết khiếu nại được trao cho cơ quan quản lý hành chính nhà nước giải quyết theo hai cấp: trước hết là khiếu nại với người đã ra quyết định xử phạt, sau đó nếu không đồng ý thì người khiếu nại có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp hoặc theo con đường khởi kiện ra toà hành chính. ở Việt Nam, cùng với quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền khiếu nại tố cáo của công dân, Toà hành chính đã được thành lập và đi vào hoạt động. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của toà hành chính hiện nay vẫn còn những bất cập. Số vụ án Toà hành chính thụ lý còn quá ít so với tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan hành chính, dẫn đến tình trạng quá tải tại các cơ quan này. Cho đến nay vẫn chưa có một vụ án hành chính nào liên quan tới việc bảo vệ quyền trẻ em. Bởi lẽ, trên thực tế vẫn còn hiện tượng coi việc khởi kiện ra toà án hành chính là một gánh nặng do ngại va chạm với các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, những quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xử lý vi phạm hành chính cũng đã tạo cơ sở pháp lý nhằm hỗ trợ cho việc bảo vệ có hiệu quả quyền của trẻ em trong xử lý vi phạm hành chính.

1.4. Kiến nghị

Hệ thống chế tài được quy định trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành là kết qủa tổng kết rút kinh nghiệm của cả một quá trình áp dụng chế tài trách nhiệm hành chính của nhà nước ta. Song, thực tiễn xử phạt hành chính cho thấy chỉ với hai hình thức phạt chính cảnh cáo và phạt tiền không phải lúc nào cũng đủ để áp dụng tương xứng với hành vi, mức độ, tính chất của vi phạm hành chính, đặc biệt là những vi phạm đối với trẻ em.

Hiện tại, để thực hiện pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Chính Phủ đã ban hành các Nghị định quy định từng loại hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước và hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm đó. Tuy nhiên có rất nhiều hành vi vi phạm được quy định không rõ và mức xử phạt cũng không thống nhất. Ví dụ: Nghị định 46/CP ngày 6/8/1996 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về y tế tại Điều 16 Khoản b quy định hành vi "gây hư hại tài sản của người khác", Nghị định 49/CP ngày 15/8/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự tại Điều 23 và Điều 26 quy định hành vi vi phạm "lạm dụng tình dục""lạm dụng tình dục trẻ em"... Song không quy định rõ gây hại, lạm dụng đến mức nào thì gọi là vi phạm hành chính. Do đó, cách quy định như vậy sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng các chế tài và dễ dẫn đến tuỳ tiện. Cần phải quy định cụ thể hơn về hành vi cũng như mức phạt đối với hành vi đó.

w Về hình thức phạt tiền: Phạt tiền là hình thức phạt chính được áp dụng với hầu hết các vi phạm hành chính. Mức phạt tiền hiện tại được Pháp lệnh quy định từ 5.000 đến 100.000.000 đồng. So với trước đây, mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm hành chính đều cao hơn rất nhiều lần. Việc tăng mức phạt tiền như vậy đã thể hiện rõ khuynh hướng tăng tính trừng phạt. Song, trên thực tế, với mức phạt cao đó không phải ai cũng có khả năng thi hành quyết định xử phạt dẫn đến xin xỏ, hối lộ người thi hành công vụ. Các mức phạt tiền cao, nhất là mức tối đa đến 100.000.000 đồng như quy định tại Nghị định 49/CP đối với hành vi "Kê khai lý lịch, giấy tờ sai sự thật để giao, nhận trẻ em Việt nam làm con nuôi người nước ngoài"... cho chúng ta cảm giác như đang hành chính hoá việc xử lý hình sự. Bởi lẽ, vi phạm hành chính là vi phạm nhỏ, mức độ nguy hiểm không lớn. Với mức phạt nặng như vậy có thể được coi là tội phạm và cần được xét xử theo thủ tục tư pháp. Do đó, nên chăng cần nghiên cứu giảm bớt mức phạt tiền đối với một số trường hợp cụ thể để chế tài có khả năng thực thi trên thực tế.

Trong phạt tiền, điều quan trọng là phân định rõ khung hình phạt. Các mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm hành chính nói chung cũng như hành vi vi phạm quyền của trẻ nói riêng được quy định trong pháp lệnh và các Nghị định còn rất chung chung, chưa cụ thể. Có nhiều văn bản quy định mức phạt tiền tối thiểu và tối đa đối với một loại vi phạm với khoảng cách xa đã gây khó khăn cho việc áp dụng khi truy cứu trách nhiệm hành chính. Có những hành vi vi phạm hành chính như nhau cùng thời điểm, song ở các địa điểm khác nhau và người xử lý khác nhau sẽ có mức phạt khác nhau. Điều này dễ gây ra sự tuỳ tiện trong việc quyết định mức xử phạt và đương nhiên sẽ xâm hại đến lợi ích của trẻ em, những người khác và bản thân những người bị xử phạt. Cần thiết phải chia nhỏ khung phạt tiền để áp dụng thống nhất và đúng đắn hơn.

Đối tượng bị phạt tiền là tổ chức cần được xem xét lại. Thực tế nhiều trường hợp là vi phạm hành chính của những của những cá nhân nhất định trong tổ chức đó. Người ta có thể sẵn sàng vi phạm rồi nhân danh tổ chức lấy tiền của tổ chức để nộp phạt như: cá nhân nhân danh một cơ quan lấn chiếm đất thuộc khu vui chơi của trẻ em để kinh doanh.... Nếu như vậy thì việc phạt tiền đối với tổ chức không có ý nghĩa.

Đối với đối tượng chưa thành niên từ 14 đến 16 tuổi vi phạm hành chính cố ý nhưng pháp luật quy định chỉ phạt không quá 50.000 đồng cũng không phù hợp. Ví dụ: trường hợp trẻ em "kích động, lôi kéo, xúi giục trẻ em vi phạm pháp luật" thì sẽ bị phạt tiền ở mức nào trong khi theo quy định của Nghị định 49/CP ngày 15/8/1996 thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng. Trong giai đoạn hiện nay, trẻ em ở độ tuổi trên đã có sự phát triển về thể chất và tinh thần, nhiều em có sự hỗ trợ của gia đình để nộp phạt. Với mức phạt tiền không quá 50.000 đồng đối với vi phạm hành chính cố ý là còn thấp, không có ý nghĩa răn đe, dễ dẫn đến xem thường pháp luật và cố ý tái phạm. Chúng tôi cho rằng cần nâng cao hơn mức phạt tiền đối với đối tuợng này.

w Về hình thức phạt cảnh cáo: Khi xử lý các hành vi vi phạm quyền trẻ em, hình thức chế tài này ít được áp dụng. Tuy nhiên, mục đích của xử phạt vi phạm hành chính không phải là trừng trị đối với người vi phạm hành chính mà chủ yếu nhằm nhắc nhở, giáo dục việc tôn trọng và chấp hành trật tự quản lý nhà nước. Do đó, chế tài cảnh cáo áp dụng trong xử phạt hành chính là thích hợp. Tuy nhiên, việc quy định đối tượng áp dụng hình thức phạt này ngoài cá nhân còn có tổ chức là chưa hoàn toàn phù hợp. Thực tế việc truy cứu trách nhiệm hành chính đối với tổ chức dưới hình thức cảnh cáo không có tác dụng trong đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính, nhất là trong vấn đề bảo vệ trẻ em.

Trong thực tế, với hai hình thức phạt trên nhiều khi phạt cảnh cáo thì quá nhẹ, mà phạt tiền thì người vi phạm không có đủ tiền để nộp phạt vì mức phạt tiền quá cao, nhất là đối với người vi phạm ở nông thôn, miền núi. Bởi vậy, hiện nay có quan điểm cho rằng nên quy định thêm hai hình thức phạt là phạt lao động và giam hành chính. Tuy nhiên, quan điểm này cần được xem xét dưới nhiều khía cạnh, nhất là tính khả thi.

w Về các hình thức phạt bổ sung và biện pháp hành chính khác: Pháp luật quy định phạt bổ sung với hai hình thức tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Tuy nhiên trên thực tế nhiều khi những hình thức phạt này lại nặng hơn hình thức phạt chính. Theo phản ánh của một số địa phương thì người có thẩm quyền xử phạt thường chỉ áp dụng hình thức phạt chính mà không áp dụng hình thức phạt bổ sung và biện pháp hành chính khác. Các hình thức phạt này cũng rất ít khi được áp dụng kèm theo hình phạt chính khi xử lý những hành vi vi phạm quyền trẻ em.

2. Chế tài dân sự và cơ chế truy cứu nhằm bảo vệ quyền của trẻ em

2. 1. Chế tài dân sự

2.1.1. Quyền bảo vệ tính mạng, thân thể, danh dự và nhân phẩm

Với đặc điểm tâm lý và thể chất còn chưa phát triển đầy đủ, việc tự bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em luôn hạn chế hơn so với những người đã trưởng thành khác, thậm chí là không thể tự bảo vệ mình. Hơn nữa, thiệt hại về sức khoẻ và những tổn thất về tinh thần do những hành vi vi phạm đó gây ra thường khó khắc phục và có những ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài đến sự phát triển của trẻ em sau này. Chính vì vậy, việc bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em luôn được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước.

Dưới góc độ bảo vệ của luật dân sự, các chế tài dân sự được quy định trong nhiều văn bản khác nhau nhằm chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục những thiệt hại do những hành vi vi phạm đó gây ra. Các chế tài đó là:

a. Buộc chấm dứt hành vi vi phạm

Thông qua quá trình xét xử tại phiên toà, hồi đồng xét xử sẽ phân tích hành vi vi phạm, lỗi của người đó và buộc người đó phải chấm dứt hành vi vi phạm của mình. Chế tài này có ý nghĩa là sự phủ định của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và là cơ sở để áp dụng những chế tài tiếp theo. Ví dụ: Toà án có thể tuyên: Hành vi phạt học sinh với hình thức phơi nắng là hành vi vi phạm quyền bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của trẻ em và buộc cô giáo phải chấm dứt hành vi đó và trên cơ sở xác định lỗi của cô giáo Toà án áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại) hay những chế tài khác.

b. Xin lỗi, cải chính công khai.

Đối với việc xâm phạm danh dự uy tín trẻ em qua phương tiện báo chí thì việc cải chính công khai được tiến hành theo các quy định của Luật báo chí như sau:khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật về việc báo chí đã đăng, phát tin, bài có nội dung sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, thì trong thời hạn 5 ngày (đối với báo xuất bản hàng ngày, đài phát thanh, truyền hình) hoặc trong số báo, tạp chí ra tiếp gần nhất (đối với báo chí không xuất bản hàng ngày), cơ quan báo chí phải xin lỗi bằng văn bản hoặc đăng, phát trên báo chí lời cải chính của cơ quan báo chí hoặc tổ chức, công dân. Lời cải chính phải đăng, phát đúng vị trí của tin, bài đã in, chương trình đã phát có nội dung sai sự thật, xuyên tạc hoặc vu khống. Đối với kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, hoặc lời cải chính của tổ chức, công dân thì cơ quan báo chí không được xen lời bình luận, giải thích. Nếu có điều gì không nhất trí thì cơ quan báo chí có bài viết riêng, nói rõ lý do.

Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, việc thi hành các chế tài xin lỗi, cải chinh công khai đang gặp nhiều vướng mắc. Người phải thi hành án thường dây dưa, kéo dài việc thi hành án hay thi hành không tương xứng với hành vi vi phạm để phục hồi danh dự và nhân phẩm của người bị vi phạm. Do vậy, ngay trong giai đoạn xét xử, cần quy định cho toà án một biện pháp để buộc thực hiện đúng như bản án đã tuyên. Theo chúng tôi, trong trường hợp này cần có quy định cho thẩm phán khi áp dụng chế tài xin lỗi, cải chính công khai thường được tuyên kèm theo một khoản "tiền phạt dự phòng" hay "tiền phạt răn đe". Có nghĩa là, khi người bị áp dụng không áp dụng đúng chế tài xin lỗi cải chính công khai thì sẽ bị nộp khoản tiền phạt đó. Số tiền phạt này phải đủ lớn để có tác dụng răn đe người có hành vi vi phạm thường để họ tự giác chấp hành nghiêm chỉnh bản án xin lỗi cải chính mà toà án tuyên. Biện pháp này là biện pháp mà các toà án Pháp thường áp dụng khi bảo vệ các quyền nhân thân của công dân. Đây cũng là một trong những giải pháp mà chúng ta cần tham khảo nhằm bảo vệ quyền lợi của cả người lớn và trẻ em trong các vụ việc có liên quan.

c. Bồi thường thiệt hại

Cơ sở của việc bồi thường thiệt hại là sự kiện gây thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật" cho các chủ thể khác. Việc áp dụng chế tài này xuất phát từ nguyên tắc Hiến định được ghi nhận tại Điều 18, 22 Hiến pháp 1992 và các nguyên tắc được ghi nhận trong BLDS (Điều 2, 5 và 6 BLDS). Các nguyên tắc được ghi nhận trong các điều luật này buộc các chủ thể không được "xâm phạm", bởi vậy, nếu "xâm phạm" sẽ bị áp dụng các biện pháp chế tài bồi thường thiệt hại.

Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và phải được tiến hành nhanh chóng để bảo vệ quyền lợi của người vi phạm. Việc xác định thiệt hại được dựa trên các quy định tại Mục 2 - Chương V - Phần thứ 3 BLDS quy định về các loại thiệt hại được bồi thường và cách thức xác định thiệt hại. Cụ thể:

w Thiệt hại về sức khoẻ, bao gồm:

- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và các chức năng bị mất, bị giảm sút của trẻ em Nếu do yêu cầu chăm sóc nạn nhân thì chi phí trực tiếp cho người phải chăm sóc nạn nhân theo yêu cầu của cơ sở chữa bệnh.

- Nếu trẻ em có tham gia lao động thì thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút và sau khi điều trị và của người phải chăm sóc. Nếu không có thu nhập ổn định, thì áp dụng mức trung bình của lao động cùng loại. Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi điều trị. Nhưng thu nhập này phải là thu nhập thường xuyên, hợp pháp thực tế của họ. Ngoài ra, khoản bồi thường còn bao gồm cả khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà nạn nhân theo quan hệ gia đình phải có nghĩa vụ cấp dưỡng (nếu trẻ em có thu nhập và đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng)

w Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm:

Tính mạng của con người là vô giá không thể tính thành tiền. Vì vậy thiệt hại về vật chất do tính mạng bị xâm phạm cần được xác định gồm: Những chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc nạn nhân trước khi chết, chi phí cho việc mai táng phù hợp với phong tục tập quán. Các quy định này được áp dụng chung cho cả người lớn và trẻ em.

w Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, bao gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm;

Ngoài việc bồi thường những thiệt hại về vật chất, người có hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, danh dự và nhân phẩm của trẻ em còn phải bồi thường một khoản tiền cho những tổn thất tinh thần do hành vi đó gây ra cho trẻ em hoặc người thân thích (trong trường hợp trẻ em chết). Tổn thất về tinh thần có thể là những đau đớn về thể xác mà trẻ em phải gánh chịu, sự đau khổ về tinh thần của cha mẹ, ông, bà do mất con, cháu… nỗi khốn khổ khi không thể tham gia các hoat động xã hội hoặc không thể hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng (Ví dụ: khuôn mặt bị biến dạng vì bị tạt axit…), sự suy sụp về tinh thần do danh dự, nhân phẩm bị xâm hại…

Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, rất khó có thể xác định cụ thể về mức tổn thất tinh thần để quy trách nhiệm bồi thường một cách công bằng. Việc xác định thiêt hại về vật chất cũng đã khó có thể chính xác, nhưng dù sao cũng có một số chuẩn mực để làm căn cứ. Trong khi đó xác định tổn thất về tinh thần còn khó khăn hơn nhưng lại chưa có quy định cụ thể hướng dẫn thi hành các quy định về vấn đề này trong Bộ luật dân sự. Do vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này để làm cơ sở cho Toà án áp dụng. Ngoài ra, cũng cần có quy định về khung tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Có như vậy, mới tránh được nguy cơ quyết định bồi thường thiệt hại tinh thần một cách tuỳ tiện, không bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đương sự.

w Người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Người gây ra thiệt hại có thể là bất ký ai nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có khả năng bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện. Bộ luật dân sự quy định năng lực chiu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ của năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân. Người dưới 18 tuổi là những người không có hoặc không đầy đủ năng lực hành vi. Vì vậy, cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con mình gây ra. Tuy nhiên, cách thức dùng tài sản để bồi thường được quy định đôi với những người vị thành niên khác nhau.

Đối với người dưới 15 tuổi, thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi thường, nếu tài sản của cha mẹ không đủ mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản riêng của con để bồi thường. Đối với người dưới 15 tuổi, thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi thường. Đối với những người từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thì lấy tài sản của con để bồi thường, nếu còn thiếu cha mẹ phải bổ sung phần còn thiếu. Những người dưới 15 tuổi gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lý thì trường học bệnh viện phải liên đới cùng cha mẹ, ngưòi giám hộ bồi thường. Thời gian quản lý được hiểu là thời hạn trong đó các tổ chức theo quy định nghề nghiệp có nghĩa vụ giáo dục, chữa bệnh mà họ không thực hiện chức năng của mình, do lỗi quản lý của họ không tốt, người dưới 15 tuổi gây ra thiệt hại cho những người khác. Nếu cơ quan tổ chức quản lí không có lỗi, thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường thiệt hại.

Người giám hộ đương nhiên, giám hộ được cử đối với những ngườicó giám hộ theo quy định tại Khoản 2 Điều 67 Bộ luật dân sự được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường Người giám hộ có nghĩa vụ bổ sung.

d. Hạn chế quyền của cha mẹ, người giám hộ

Quyền chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng con cái là một trong những quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của cha mẹ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả cha mẹ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chưa thành niên, nghiêm trọng hơn nữa là có các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con chưa thành niên. Các hành vi xâm phạm rất đa dạng, có thể là hành vi trực tiếp xâm phạm tính mạng của trẻ em, hay hành vi bạo lực xâm phạm thân thể trẻ em, hành vi nhiếc móc, bắt nhịn ăn, nhin uống, bắt chịu rét, ăn mặc một cách không bình thường… làm tước đoạt tính mạng của trẻ em, gây thương tích, tổn hại sức khoẻ, hay trẻ em bị dày vò về mặt tình cảm, bị tổn thương danh dự, đau khổ về tinh thần…

Thực trạng nói trên đòi hỏi phải xem lại tư cách của những người làm cha, mẹ đó và có các biện pháp ngăn chặn cần thiết để họ không tiếp tục các hành vi vi phạm đó, bảo đảm cho người con chưa thành niên được giao cho người khác trong gia đình hoặc hoặc giao cho tổ chức có trách nhiệm trông nom, giáo dục trong một môi trường tốt để đứa trẻ có thể phát triển lành. Chính vì vậy, Điều 41 Luật HNGĐ 2000 quy định khi người cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con thì theo yêu cầu của người có quyền Toà án ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời gian từ 1 năm đến 5 năm, Toà án có thể xem xét việc rút ngắn thời gian này. Việc hạn chế quyền của cha, mẹ không làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ của cha, mẹ đối với trẻ em, chẳng hạn như cha, mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng…

Trong trường hợp người giám hộ xâm phạm tín mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của trẻ em, Toà án sẽ ra quyết định chấm dứt quyền giám hộ của người giám hộ. Điều 80 Khoản 1 Điểm c quy định một trong những căn cứ thay đổi người giám hộ: "Khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc người giám hộ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ".

Nghĩa vụ của người giám hộ được quy định tại Điều 75, 76 Bộ luật dân sự bao gồm những nghĩa vụ như: chăm sóc giáo dục đối với người được giám hộ (đối với trẻ em từ 15 trở xuống); đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự trừ trường hợp pháp luật quy định khác; quản lý tài sản của người được giám hộ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có văn bản nào giải thích như thế nào là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ. Ngoài ra, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở đây được hiểu như thế nào? Phải có bản án, quyết định có hiệu lực của toà án hay chỉ cần quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước khác. Chính vì vậy, việc áp dụng chế tài này trên thực tế gặp nhiều khó khăn.

e. Không được hưởng di sản

Đối với những người trong diện được thừa kế tài sản của trẻ em được quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự như: cha, mẹ đẻ, cha, mẹ nuôi, ông, bà nội (ngoại) anh, chị, em ruột… bị kết án về hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của trẻ em thì cũng không được quyền hưởng di sản của trẻ em đó (Điều 646 Bộ luật dân sự).

Ngoài ra, đối với hành vi xâm phạm tính mạng của trẻ em là nhằm để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà trẻ em được hưởng từ người thứ 3 thì người có hành vi đó cũng không được hưởng di sản của người thứ 3 đó (Điểm c Khoản 1 Điều 646 Bộ luật dân sự).

Quyền hưởng di sản thừa kể chỉ phát sinh khi có sự kiện trẻ em chết. Do vậy, chế tài này chỉ áp dụng khi trẻ em bị chết. Tuy nhiên, theo Khoản 2 Điều 646 thì những người nêu trên vẫn có thể được hưởng di sản nếu trẻ em biết được hành vi của người đó nhưng vẫn cho họ đươc hưởng theo di chúc.

2.1.2. Quyền có tài sản và quyền thừa kế của trẻ em

Theo Hiến pháp 1992: "Công dân có quyền sở hữu về những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác có trong doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác… Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" (Điều 58). Như vậy, Hiến pháp công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế của mọi công dân không phân biệt nam, nữ, dân tộc, địa vị xã hội và tuổi tác.

Quyền tài sản của công dân được thực hiện qua các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Tuy nhiên, do chưa phát triển đầy đủ và hoàn thiện về thể chất và tinh thần nên việc thực hiện các quyền về tài sản cả người chưa thành niên có một số hạn chế nhất định theo quy định của pháp luật. Đối với người chưa đủ 6 tuổi do không có năng lực hành vi dân sự nên mọi giao dịch liên quan đến tài sản của người chưa thành niên đều phải do người đại diện xác lập thực hiện. Trẻ em ở độ tuổi này chưa có đủ ý chí và lý trí để hiểu được hành vi và hậu quả của hành vi đó. Đối với người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đủ để thực hiện nghĩa vụ được xác lập, thực hiện giao dịch và phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản mà họ có, trừ trường hợp pháp luật quy định khác (Điều 22 BLDS). Những trường hợp pháp luật quy định khác là những trường hợp mà pháp luật quy định người từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi phải đựoc sự đồng ý của cha mẹ hay người giám hộ khi tham gia giao dịch dân sự, chẳng hạn như tại Điều 650 BLDS quy định: "Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể được lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý".

Như vậy, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có đủ năng lực hành vi dân sự một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàn ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy pháp luật không quy định những giao dịch nào là giao dịch "phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày" và "phù hợp với lứa tuổi" nhưng có thể hiểu đó là nững giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được những người đại diện của họ cho phép thực hiện.

Có thể nói, với quy định năng lực hành vi của trẻ em BLDS đã trao cho trẻ em một số quyền được tham gia giao dịch dân sự. Tuy nhiên, với khả năng nhận thức còn non nớt, thiếu chín chắn, nhất quán viẹc xâm phạm đến lợi ích của trẻ em khi xác lập thực hiện giao dịch dân sự là một khả năng thực tế xảy ra. Chính vì vậy, để bảo vệ quyền của trẻ em khi tham gia các giao dịch dân sự,ngăn chặn những hành vi lợi dụng sự non nớt của trẻ em để gây thiệt hại đến lợi ích của trẻ em. Bộ luật dân sự quy định một số chế tài sau:

w Tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, xác lập, thực hiện mà theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện cho người đó, toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền.

Bồi thường thiệt hại: Bên đã biết người thực hiện giao dịch với mình là người chưa thành niên mà vẫn tham gia giao dịch, thì phải bồi thường thiệt hại cho người thành niên theo yêu cầu của người đại diện của họ.

w Việc bảo vệ quyền tài sản của trẻ em còn được thông qua việc pháp luật quy định nghĩa vụ và các chế tài dân sự (trách nhiệm dân sự) của những người đại diện cho trẻ em trong việc quản lý tài sản của trẻ em:

- Người đại diện trước tiên của trẻ em trong các giao dịch dân sự đó là cha, mẹ. Theo Điều 45, 46 Luật Hôn nhân và gia đình 2000, con từ 15 tuổi trở lên có quyền quản lý và định đoạt tài sản riêng của mình; nếu định đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ. Còn đối với con dưới 15 tuổi thì cha mẹ có quyền quản lý và định đoạt tài sản và lợi ích của con, có tính đến nguyện vọng của con nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên.

- Đối với người giám hộ khác, quyền đại diện trước pháp luật cho trẻ em trong các giao dịch dân sự cũng bị hạn chế trong khuôn khổ của pháp luật. Điều 79 Bộ Luật dân sự quy định: Người giám hộ phải quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình. Việc sử dụng, định đoạt tài sản của người được giám hộ chỉ được thực hiện vì lợi ích của người đó. Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư trú. Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Ngoài ra, người đại diện không được thực hiện các giao dịch đối với chính mình hoặc với người thứ 3 mà mình cũng là người đại diện của người đó.

Do vậy, khi cha, mẹ hoặc người giám hộ xác lập và thực hiện những giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của trẻ em không vì lợi ích của trẻ em, hay vượt quá phạm vi thẩm quyền mà luật cho phép thì những giao dịch đó vô hiệu hoặc không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của trẻ em được làm đại diện. Ngoài ra, cha mẹ hay người giám hộ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình trừ khi người đó biết hoặc không biết cha mẹ hay người giám hộ không có thẩm quyền hay vượt quá thẩm quyền. Trong trường hợp việc xác lập, thực hiện các giao dịch nêu trên gây thiệt hại cho trẻ em mà mình làm đại diện thì phải bồi thường.

Ngoài ra, trong trường hợp cha, mẹ có hành vi phân tán tài sản của con, người giám hộ quản lý tài sản không vì lợi ích của trẻ em thì Toà án sẽ ra quyết định hạn chế quyền quản lý tài sản hoặc đại diện trước pháp luật của cha mẹ (Điều 41 LHNGĐ) hoặc ra quyết định thay đổi người giám hộ (Điều 80 BLDS).

Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền tài sản của trẻ em hiện còn đang gặp nhiều vướng mắc xuất phát từ việc còn thiếu các quy định pháp luật để bảo đảm các quyền tài sản, các quy định pháp luật còn chưa rõ ràng và thiếu các văn bản hướng dẫn. Cụ thể là:

- Pháp luật hiện hành quy định các quyền tài sản của trẻ em với nội dung khá phong phú và đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế, trẻ em luôn sống chung cùng với gia đình mà cụ thể là cha, mẹ, ông bà và có thể là những người khác như cô, dì, chú, bác… do đó sự phân định về tài sản giữa các thành viên trong gia đình trong đó có tài sản của trẻ em là không rõ ràng và rành mạch. Các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhận, xác nhận về mặt hình thức mà chưa có một cơ chế để xác định rõ ràng và cụ thể tài sản của người nào, của cá nhân nào và quyền tài sản phát sinh từ thời điểm nào, được quản lý như thế nào. Chính vì không xác định rõ được tài sản của cá nhân trong gia đình cho nên việc xác định những hành vi vi phạm quyền sở hữu của trẻ em để từ đó áp dụng những chế tài dân sự nêu ở trên trong thực tế gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, theo chúng tôi, cần phải có văn bản riêng quy định về quyền về tài sản và sở hữu, nhất là đăng ký tài sản, chuyển dịch sở hữu thì việc bảo đảm quyền tài sản của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng mới có hiệu quả.

- Trong giao dịch dân sự, xác định trách nhiệm dân sự liên đới và vô hạn của hộ gia đình không thể bằng tài sản của tất cả các thành viên, mà chỉ có thể bằng tài sản của những thành viên đã thành niên. Chính vì vậy, cần phải sửa Khoản 2 Điều 119 BLDS như sau: "…nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ, thì các thành viên đã thành niên phải chịu trách nhiệm liên đới bẳng tài sản riêng của mình".

2.1.3. Quyền được cấp dưỡng

Xét từ góc độ pháp lý, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được thể hiện một cách tập trung và cụ thể nhất trong các quy định pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình. Hiện nay, ở nước ta, cùng với sự phát triển của nên kinh tế hàng hoá thị trường, nhiều biểu hiện tiêu cực đã nảy sinh trong một số gia đình lối sống thực dụng, ích kỷ đã làm cho các giá trị đạo đức bị lu mờ, thực tế đã nảy sinh trường hợp cha mẹ sau khi ly hôn đã bỏ mặc không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con, anh chị em không thực hiện nghĩa cụ tương trợ, đùm bọc lẫn nhau... Nhằm đề cao trách nhiệm đùm bọc, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp "tương thân, tương ái" giữa các thành viên trong gia đình, Luật HNGĐ 2000 đã dành Chương VI quy định cụ thể nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là nghĩa vụ cấp dưỡng đối với trẻ em là một trong những đối tượng cần được bảo vệ nhiều nhất.

Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác hoặc chuyển cho người khác. Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh tự nhiên mà không cần phải có quyết định hay phán quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi xuất hiện những sự kiện làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng, những người có nghĩa vụ và có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải tự nguyện thực hiện hay tự thoả thuận với nhau về việc thực hiện nghĩa vụ đó. Mức cấp dưỡng được căn cứ vào thu nhâp, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.

Nếu các bên không thoả thuận với nhau về mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng hay người có nghĩa vụ cố tình trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì người có quyền theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự có quyền yêu cầu toà án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ này.

Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật HNGĐ mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, Toà án ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì thời điểm đó được tình từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Toà án. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Toà án không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình, thì người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó có yêu cầu cơ quan thi hành án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Toà án. Ngoài ra, Điều 646 BLDS quy định đối với những người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với trẻ em thì không được hưởng quyền thừa kế tài sản của trẻ em đó. Việc Toà án tước quyền thừa kế của người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trẻ em là một biện pháp chế tài cần thiết và phù hợp với đạo lý. Người không có trách nhiệm đối với gia đình, với những thành viên ruột thịt của mình thì không có quyền được hưởng tài sản của người đó. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định như thế nào là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng nên việc áp dụng trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Theo chúng tôi, hành vi vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng là trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng cố tình không thực hiện nghĩa vụ của mình dẫn đến trẻ em bị suy kiệt sức khoẻ, bị chết đói... Để việc áp dụng chế tài này được thống nhất và có căn cứ, trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần phải có sự hướng dẫn về vấn đề này.

Theo chúng tôi, các chế tài nêu trên vẫn chưa đủ mạnh để có tác dụng răn đe đối với người có hành vi vi phạm. Bởi vì, việc áp dụng những chế tài buộc người vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng cho trẻ em với một mức cấp dưỡng do toà án xác định chỉ có ý nghĩa bảo đảm quyền được cấp dưỡng của trẻ em trong tương lai mà không bù đắp được những thiệt hại, tổn thất mà trẻ em hay người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em phải gánh chịu do hành vi vi phạm gây ra. Trên thực tế hiện nay, có nhiều trường hợp do người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nên người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em phải đi vay hoặc dùng tài sản riêng của mình để nuôi dưỡng. Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi của trẻ em, quyền của người trực tiếp nuôi dưỡng, cần phải có chế tài buộc người vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng phải bồi thường cho những người này một khoản tiền để bù đắp những thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra. Theo chúng tôi, cần phải bổ sung Điều 55 Luật HNGĐ 2000 chế tài sau: "Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó có thể yêu cầu Toà án buộc người vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm đó gây ra" (xem "cơ chế thực hiện các chế tài pháp lý nhằm đảm bảo thực hiện các điều luật của Luật BVCSGDTE" trong phần các chuyên đề).

2.2. Cơ chế truy cứu trách nhiệm dân sự trong việc bảo vệ quyền trẻ em

ở nước ta, các quyền cơ bản của công dân được pháp luật quy định một cách đầy đủ và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp có hiệu quả. Một trong những phương thức bảo vệ có hiệu quả là thông qua việc khởi kiện tại Toà án.

Trẻ em, cũng như người lớn khác, cũng có những quyền dân sự và quyền được bảo vệ những quyền đó. Tuy nhiên, do trẻ em là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, việc tự mình bảo vệ hay yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ mình luôn bị hạn chế hơn so với những người trưởng thành khác. Với sự nhận thưc còn hạn chế, khi bị xâm phạm, trẻ em thường không biết được cơ quan nào có quyền giải quyết hoặc mặc dù biết được nhưng cũng không thể có đủ khả năng để đưa lý lẽ, lập luận bảo vệ quyền của mình. Chính vì vậy, việc bảo vệ quyền của trẻ em thông qua con đường toà án cũng có những đặc thù so với những công dân trưởng thành khác.

Hiện nay, việc bảo vệ quyền dân sự của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng thông qua khởi kiện vụ án dân sự vẫn được quy định bởi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTDS) và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, các văn bản này được ban hành cách đây khá lâu, có nhiều quy định không còn phù hợp, không đảm bảo được yêu cầu bảo vệ các quyền hợp pháp của công dân, đặc biệt là đối với trẻ em. Để bảo đảm quyền của trẻ em tốt hơn, trong phần viết này, chúng tôi tập trung phân tích những quy định tố tụng dân sự liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em.

2.2.1. Việc bảo đảm quyền khởi kiện của trẻ em

Điều 1 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự "Công dân, pháp nhân theo thủ tục tố tụng do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu toà án nhân dân bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của mình"

Như vậy, pháp luật quy định tất cả mọi công dân Việt Nam, trong đó có trẻ em, đều có quyền khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, để thực hiện quyền đó, công dân phải có sự phát triển nhất định về mặt thể chất và nhận thức thì mới có thể "tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho người khác thực hiện khi cần thiết"

Điều 21 Pháp lệnh TTGQCVADS quy định: Người từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự"

Do đó, để bảo đảm quyền khởi kiện của trẻ em, pháp luật quy định: "Người chưa thành niên phải có người đại diện thay mặt trong tố tụng mà cụ thể là: Cha mẹ, hoặc là người giám hộ.

Nhưng cũng có trường hợp cha, mẹ, người giám hộ không thực hiện quyền khởi kiện (có thể vô ý hay cố ý) hoặc chính cha, mẹ người giám hộ lại là những người vi phạm quyền của trẻ em. Vì vậy, pháp luật quy định, nếu không có người khởi kiện thì Uỷ ban Mặt trận tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức hoặc công dân khác trong phạm vi chức năng của mình có quyền khởi kiện hoặc đề nghị Viện Kiểm sát khởi tố. Trong quá trình công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự và những việc khác do pháp luật quy định, Viện Kiểm sát phát hiện thấy hành vi vi phạm trong lĩnh vực dân sự mà chưa có người khởi kiện thì cũng có quyền khởi tố.

Tuy nhiên, Pháp lệnh TTGQCVADS được ban hành cách đây hơn chục năm, trong bối cảnh đất nước ta còn đang trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, vì vậy những quy định về năng lực hành vi tố tụng dân sự cho đến nay là không còn phù hợp. Hiện nay trong xu thế hội nhập và mở cửa, cùng với sự phát triển về mọi mặt về kinh tế – xã hội thì sự nhận thức và hiểu biết của trẻ em đã phát triển hơn rất nhiều so với trẻ em trong những năm trước đây. Vì vậy, việc pháp luật quy định năng lực hành vi tố tụng dân sự như hiện nay là chưa phù hợp với sự phát triển của trẻ em ngày nay. Hơn nữa, luật nội dung (BLDS), cũng thừa nhận sự phát triển về nhận thức của trẻ em ở một mức độ nhất định, Điều 22 BLDS quy định: "Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác". Chúng tôi cho rằng, khi người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đủ nhận thức để tham gia một số giao định nhất định thì cũng có thể tự mình thực hiện quyền tố tụng dân sự. Hơn nữa, trong tố tụng lao động là một quy trình có sự phức tạp tương tự như tố tụng dân sự thì Nhà nước lại cho phép người từ đủ 15 tuổi dưới18 tuổi tự mình tham gia (Toà án có thể mời cha mẹ hoặc người giám hộ nếu thấy cần thiết). Vì vậy, khi xây dựng luật tố tụng dân sự cần thừa nhận một phần năng lực hành vi tố tụng dân sự của người chưa thàn hniên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi giống như các quy định trong PLTTLĐ.

2.2.2. Người tham gia vụ án dân sự

Pháp lệnh quy định những người tham gia vụ án dân sự gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người đại diện của đương sự, Viện Kiểm sát và tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung. Ngoài ra, trong một số trường hợp, Toà án gọi người làm chứng, người giám định, người phiên dịch (Chương IV-PLTTDS). Tuy nhiên, PLTTDS không quy định rõ khái niệm để làm căn cứ xác định tư cách của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với việc xác định nguyên đơn và bị đơn. Thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay Toà án thường áp dụng Điều 40, 41 Bộ Luật TTHS để xác định tư cách bị đơn, nguyên đơn dân sự. Theo quy định của các Điều khoản này thì:

- Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra và có yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 40 BLTTHS).

- Bị đơn dân sự là cá nhân cơ quan tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra (Điều 41 BLTTHS)

Tuy nhiên, việc áp dụng những quy định này hiện còn đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với những vụ án mà người gây thiệt hại là người chưa thành niên. Về vấn đề này, hiện có hai quan điểm:

Quan điểm 1: Những người theo quan điểm này căn cứ vào khái niệm bị đơn dân sự quy định tại Khoản 1 Điều 41 BLTTHS, tức là dựa vào trách nhiệm bồi thường vật chất về hành vi gây thiệt hại của người chưa thành niên. Do vậy, tư cách bị đơn dân sự được xác định như sau:

Đối với những người chưa thành niên dưới 15 tuổi.

+ Cha, mẹ, người giám hộ luôn được xác định là bị đơn dân sự. Bởi vì, người chưa thành niên dưới 15 tuổi về nguyên tắc được coi là không có năng lực hành vi dân sự. Do đó, trong giao dịch dân sự phải có người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi (Điều 22 BLDS). Từ chỗ người chưa thành niên dưới 15 tuổi được coi là người không có năng lực hành vi dân sự cho nên họ không phải gánh chịu những nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì vậy, theo Khoản 1 Điều 41 BLTTHS họ không phải là bị đơn dân sự.

+ Cha, mẹ hoặc người giám hộ và trường học, bệnh viện các tổ chức khác là đồng bị đơn dân sự. Bởi vì, nếu NCTN dưới 15 tuổi có hành vi gây thiệt hại trong thời gian trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý NCTN dưới 15 tuổi thì phải chịu trách nhiệm liên đới cùng cha mẹ, người giám hộ bồi thường thiệt hại (Điều 625 BLDS). Do đó, theo khoản 1 Điều 41 BLTTHS những chủ thể này được xác định là đồng bị đơn dân sự

Đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.

+ Người chưa thành niên là bị đơn dân sự, nếu có đủ tài sản để bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra (Đoạn 2, Khoản 2 Điều 611 BLDS)

+ Người chưa thành niên và cha mẹ hoặc người giám hộ là đồng bị đơn dân sự, nếu người chưa thành niên không có đủ tài sản để bồi thường (Khoản 2,3 Điều 611 BLDS)

+ Cha mẹ hoặc người giám hộ là bị đơn dân sự độc lập nếu người chưa thành niên không có tài sản để bồi thường (Khoản 2,3 Điều 611 BLDS)

Quan điểm 2: Trong trường hợp người chưa thành niên gây thiệt hại thì người chưa thành niên luôn là bị đơn dân sự. Cha mẹ hoặc người giám hộ chỉ tham gia với tư cách là người đại diện theo pháp luật. Còn trường học, bệnh viện hay các tổ chức thì tham gia với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan(). Chúng tôi cho rằng quan điểm này là đúng, bởi vì:

+ Điều 19 quy định các đương sự gồm có: nguyên đơn, bị đơn, hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Điều 21 quy định năng lực hành vi tố tụng của các đương sự thì người chưa thành niên phải có người đại diện thay mặt trong tố tụng. Từ những quy định này suy ra người chưa thành niên cũng là đương sự.

+ Việc xác định tư cách bị đơn được xác định ngay từ lúc thụ lý đơn. Toà án không thể biết được người chưa thành niên là người có tài sản hay không có tài sản để bồi thường. Do vậy, ngay từ khi thụ lý, Toà án không thể xác định cha, mẹ hay người giám hộ có tham gia với tư cách bị đơn như quan điểm 1 đã nêu. Hơn nữa, cũng không thể căn cứ vào Điều 41 Bộ luật TTHS để xác định tư cách bị đơn trong tố tụng dân sự được, bởi khi tham gia quan hệ tố tụng dân sự phát sinh thì cũng không thể xác định được người bị khơỉ kiện có phải bồi thường hay không.

+ Việc áp dụng trách nhiệm bồi thường cũng là một trong những trách nhiệm dân sự mà toà án áp dụng đối với bị đơn. Ngoài ra, tùy từng quan hệ dân sự cụ thể mà bị đơn bị áp dụng các chế tài hay trách nhiệm dân sự khác. Do đó, không thể dựa vào việc ai phải bồi thường thiệt hại để làm cơ sở để xác định tư cách bị đơn.

Theo chúng tôi, khi ban hành Luật tố tụng dân sự mới, cần quy định khái niệm nguyên đơn và bị đơn như sau: "Nguyên đơn là người giả thiết có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm hay tranh chấp nên khởi kiện (hoặc được người khác khởi kiện, khởi tố theo quy định của phá luật) nhằm bảo vệ những quyền và lợi ích đó. Bị đơn là người tham gia tố tụng theo yêu cầu của nguyên đơn hoặc người khởi kiện, khởi tố vì lợi ích chung do giả thiết đã vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hoặc tranh chấp với nguyên đơn".

3. Chế tài hình sự đối với các tội phạm xâm hại trẻ em và đối với người chưa thành niên phạm tội.

Pháp luật hình sự có vị trí và vai trò quan trọng trong vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân nói chung và của trẻ em nói riêng. Bảo vệ trẻ em bằng pháp luật hình sự là một biện pháp hữu hiệu nhất, đẩy lùi các hành vi xâm hại nghiêm trọng đối với trẻ em cũng như đầy lùi tình trạng tội phạm là người chưa thành niên. Với mục đích bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất, các chế tài đối với hành vi xâm hại trẻ em được quy định rất nghiêm khắc để trừng trị kẻ phạm tội, mức hình phạt áp dụng cao nhất đối với tội phạm xâm hại trẻ em là tử hình và mức thấp nhất là cảnh cáo. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định hoặc phạt tiền...

Bên cạnh đó, pháp luật hình sự cũng đã thể chế hoá thành công quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mặt hình sự đối với trường hợp trẻ em do các hoàn cảnh khách quan, chủ quan nhất định, có những hành vi vi phạm pháp luật về hình sự, có hành vi phạm tội. Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong việc quy định tội phạm và hình phạt khác đối với trẻ em phạm tội là thể hiện tính nhân đạo, nương nhẹ đối với các em là những người còn non nớt về thể chất và tinh thần, chưa nhận thức được một cách đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình đã gây ra. Việc phải áp dụng hình phạt đối với các em, chỉ áp dụng đối với những hành vi có tính chất nguy hiểm cao, khi không còn biện pháp nào khác tốt hơn để giáo dục, cải tạo các em trở thành người có ích cho xã hội. Với tinh thần đó, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định đối với tội phạm là người chưa thành niên thì áp dụng nguyên tắc giáo dục, phòng ngừa là chính cho nên không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình, hình phạt tiền và hình phạt bổ sung đối với đối tượng này, chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn và các hình phạt khác thấp hơn (không phải phạt tù như giáo dục tại xã phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng...).

Việc phân loại mức các hình phạt khác nhau đối với khách thể của tội phạm là trẻ em hay chủ thể của tội phạm là trẻ em có ý nghĩa cơ bản quan trọng, bởi nó là nền tảng cho sự nghiệp giáo dục và nuôi dạy thế hệ trẻ tương lai. Đây là những tư tưởng xuyên suốt trong việc hoạch định đường lối, chính sách pháp luật đối với trẻ em của Đảng và Nhà nước ta.

Để nghiên cứu, nhìn nhận và đánh giá một cách thấu đáo về hệ thống các chế tài hình sự đối với trẻ em cũng như đối với người chưa thành niên phạm tội, trong phần này chúng tôi tập trung vào phân tích, làm rõ một số nội dung cơ bản sau:

- Chế tài hình sự đối với các nhóm hành vi xâm hại trẻ em;

- Chế tài hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội.

3.1. Chế tài hình sự đối với các nhóm hành vi xâm hại trẻ em

3.1.1. Chế tài đối với nhóm hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ trẻ em

Trẻ em lớn lên trong môi trường gia đình nhưng không chỉ trong môi trường gia đình trẻ em mới nhận sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng mà trong môi trường xã hội và môi trường cộng đồng quốc tế trẻ em cũng luôn được quan tâm, chăm sóc và bảo vệ. Thực tiễn, trong những năm qua đã có rất nhiều hành vi đa dạng và phức tạp xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ của trẻ em, đặc biệt chú ý là những hành vi đối xử tàn ác, ức hiếp thường xuyên, ngược đãi, làm nhục trẻ em gây cho cho em tư tưởng ám ảnh, hoang mang, sợ hãi, gây ảnh hưởng lớn đến tâm sinh lý của trẻ em và những nhận thức cay nghiệt của trẻ em về cuộc sống. Để nghiêm trị hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ của trẻ em ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường và tương lai của trẻ em và cũng để tránh tình trạng gây ra hậu quả nghiêm trọng trên thực tế (trẻ em tự sát), BLHS năm 1999 đã có những chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung cơ bản về tội bức tử trong BLHS sửa đổi, bổ sung năm 1997, từ việc quy định một khung hình phạt mới mức cao nhất là bị phạt tù đến bảy năm (Điều 105, BLHS sửa đổi, bổ sung năm 1997), thì nay đã quy định thành hai khung, mức hình phạt cao nhất của khung 1 là bị phạt tù đến 7 năm và mức cao nhất của khung 2 là bị phạt tù đến 12 năm (Điều 100, BLHS 1999).

Trẻ em là đối tượng do còn non nớt về nhận thức cho nên rất hiếu động và cũng dễ bị tác động tiêu cực của hoàn cảnh sống, của con người. Do đó, nếu như người nào đó thực hiện hành vi xúi dục hoặc giúp cho trẻ em tự sát sẽ bị xử lý theo Điều 101, BLHS 1999 và trên cơ sở căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tại khung 1 hoặc khung 2 của Điều này. Theo quy định tại khung 1 mức hình phạt cao nhất là bị phạt tù đến 3 năm và khung 2 là bị phạt tù đến 7 năm.

Đối với trường hợp không cứu giúp người (trẻ em cũng có thể là khách thể của tội phạm này) đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, thì tuỳ theo tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm có thể bị áp dụng hình phạt được quy định tại khung 1 và khung 2 của Điều 102, BLHS năm 1999. Mức hình phạt cao nhất của khung 1 là bị phạt tù đến hai năm, mức hình phạt cao nhất của khung 2 là bị phạt tù đến năm năm, ngoài ra người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Điểm đáng lưu ý tội này không chỉ áp dụng đối với người lớn mà có thể áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi trở lên mà thấy trẻ em hoặc người đó không phải là trẻ em đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, mặc dù có điều kiện nhưng không cứu giúp dẫn đến hậu quả trẻ em hoặc người không phải là trẻ em chết, thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Hình thức chế tài này mang tính hai mặt - một mặt bảo vệ trẻ em khi trẻ em là khách thể bị xâm hại, mặt khác có ý nghĩa trừng trị, răn đe và giáo dục trẻ em nếu trẻ em là chủ thể của tội phạm.

Đối với hành vi đe dọa giết trẻ em, nếu như có căn cứ làm cho trẻ em lo sợ rằng việc việc đe doạ này sẽ được thực hiện, thì có thể bị phạt tù đến bảy năm (Điều 103, BLHS năm 1999).

Đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em hoặc phụ nữ đang có thai... mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù đến 3 năm; phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ mà tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 61% hoặc từ 11% đến 30% thì bị phạt tù đến 7 năm; phạm tội gây thương tích, hoặc tổn hại cho sức khoẻ mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến trẻ em chết, thì bị phạt tù đến 15 năm; phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân (Điều 104, BLHS năm 1999). Phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61% do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của trẻ em đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù đến 2 năm; trường hợp phạm tội đối với nhiều trẻ em hoặc gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết trẻ em hoặc trong trường hợp nghiêm trọng khác thì bị phạt tù đến 5 năm (Điều 105, BLHS năm 1999).

Đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến trẻ em chết thì bị cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù đến 1 năm; phạm tội đối với nhiều trẻ em thì bị phạt tù đến 3 năm (Điều 106, BLHS năm 1999).

Gây thương tích và gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em không còn là một hiện tượng lạ trong đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, song đối với những trường hợp thực hiện hành vi này trong khi thi hành công vụ lại là một trong những vấn đề đáng được quan tâm và lên án. Trẻ em là đối tượng cần được chăm sóc, nuôi dưỡng, được vui chơi, học tập và được quyền được hưởng hạnh phúc, do đó, người nào trong khi thi hành công vụ mà gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em, thì tuỳ theo tính chất mức độ của hành vi phạm tội mà có thể bị áp dụng các chế tài tại khung 1 "…bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù đến 3 năm" và khung 2 "…bị phạt tù đến 7 năm" Điều 107, BLHS năm 1999. Đối với hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em, thì tuỳ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho tính mạng, sức khoẻ của trẻ em có thể áp dụng chế tài tại khung 1 "cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù đến 2 năm" Điều 108, BLHS năm 1999.

Vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là điều khó tránh khỏi, song mức độ vi phạm đến mức nghiêm trọng thì lại là điều không thể bỏ qua. Thực tiễn, vấn đề này đã xảy ra nhiều và xảy ra dưới nhiều hình thức và tính chất mức độ khác nhau, BLHS quy định về vấn đề này với mục đích và ý nghĩa sâu sắc để hạn chế tới mức tối đa tình trạng vi phạm này xảy ra nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho trẻ em. Bởi trẻ em cũng có thể là khách thể của tội phạm này. Để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của người khác, đặc biệt là trẻ em, BLHS 1999 đã quy định chế tài rất nghiêm khắc để xử lý đối với người thực hiện hành vi do vô ý xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ của trẻ em mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính tại khung 1, Điều 109, BLHS 1999 quy định mức hình phạt cao nhất là bị phạt tù đến 3 năm.

Theo quy định tại Điều 134, BLHS năm 1999, đối với hành vi bắt cóc trẻ em làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người thực hiện hành vi này là bị phạt tù đến 12 năm; trường hợp phạm tội gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60 % hoặc chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 18 năm; trường hợp gây thương tật hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người hoặc chiếm đoạt tài sản từ 500 triệu đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú đến 5 năm.

Những quy định trên đây là những quy định đã được tiếp thu trên cơ sở kết quả khảo sát, đánh giá, tổng kết thi hành BLHS trong thời gian qua, những quy định này đã khắc phục cơ bản những thiếu vắng, hạn chế, chồng chéo và vướng mắc, bất cập trước đây của BLHS của nước ta. Tuy nhiên, mặc dù là mới mẻ song trong bước đầu thực hiện cũng đã góp phần không nhỏ vào công tác đấu tranh chống tội phạm, tỷ lệ tội phạm xâm hại tình mạng, sức khoẻ của trẻ em trong thời gian qua có chiều hướng giảm mặc dù mức độ giảm chưa hẳn rõ rệt. Ví dụ như đối với tội giết trẻ em theo số liệu thống kê của Uỷ ban bảo vệ, chăm sóc trẻ em thì tỷ lệ này đã có chiều hướng giảm xuống từ 4,63% năm 1999 xuống 4,55% năm 2000. Để công tác đấu tranh chống tội phạm ngày càng hiệu quả hơn, Đảng và Nhà nước ta cần phải triển khai nhiều kế hoạch, chương trình hành động tích cực hơn nữa như tiếp tục hoàn thiện các chế tài xử lý tội phạm xâm hại tính mạng, sức khoẻ trẻ em trong BLHS.

3.1.2. Chế tài đối với nhóm hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm trẻ em

Trong những năm qua, mặc dù các chế tài xử lý đối với các hành vi xâm hại danh dự, nhân phẩm của trẻ em đã được quy định rất cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta. Song trên thức tế, những hành vi này vẫn không được đẩy lùi. Số vụ hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ô với trẻ em, mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, hành hạ trẻ em đã giảm nhưng giảm không đáng kể. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã khởi tố và xử lý về hình sự đối với tội dâm ô với trẻ em theo số liệu thống kê trong phạm vi cả nước năm 2000 là 108 vụ/109 bị can, đến tháng 9/2001 khởi tố 75 vụ/77 bị can; Tội giao cấu với trẻ em, năm 2000 là 206 vụ/230 bị can, 9 tháng đầu năm 2001 là 141 vụ/149 bị can, trong đó có 8 trường hợp các cháu có thai; Tội mua dâm người chưa thành niên, năm 1999 khởi tố 31 vụ/46 bị can, năm 2000 khởi tố 22 vụ/55 bị can, chủ thể của tội phạm này rất đa dạng có cả người lao động tự do, người nước ngoài, cầu thủ bóng đá, văn nghệ sỹ và cán bộ, công chức Nhà nước; Tội mua bán phụ nữ và trẻ em, trong năm 2 năm 1999 và 2000 đã phát hiện và khởi tố trên 300 vụ/500 bị can, trong đó số vụ mua bán phụ nữ chiếm 261 vụ/547 bị can. Theo đánh giá của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì tội phạm xâm hại danh dự, nhân phẩm trẻ em nói chung có giảm nhưng không đáng kể, riêng tội hiếp dâm trẻ em lại có chiều hướng tăng cụ thể là tăng 3,5% so với năm 2000.

Để hạn chế và ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của trẻ em, pháp luật hình sự của Nhà nước ta đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện. Cụ thể đối với hành vi hành hạ, đối xử tàn ác với trẻ em quy định tại Điều 110, BLHS năm 1999, tại Khung 2 quy định các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đó là phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai... mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt là bị phạt tù đến 3 năm.

Đối với hành vi hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tù đến 15 năm; phạt tù đến 20 năm đối với người thực hiện hành vi hiếp dâm trẻ em: có tính chất loạn luân, làm trẻ em có thai, gây tổn hại cho sức khỏe của trẻ em mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, tái phạm nguy hiểm; Phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình đối với hành vi hiếp dâm trẻ em có tổ chức, nhiều người hiếp một trẻ em, phạm tội nhiều lần, phạm tội đối với nhiều trẻ em, gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, biết mình nhiễm HIV mà vẫn phạm tội hoặc làm trẻ em chết hoặc tự sát. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm phạm tội hiếp dâm trẻ em, người phạm tội bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình (Điều 112, BLHS năm 1999). So với quy định tại Điều 112a, BLHS sửa đổi, bổ sung năm 1997 thì chế tài hình sự đối với tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện khắc phục những hạn chế, bất cập, tồn tại của quy định trước đây. Bổ sung thêm một số tình tiết mới như: tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% (Điểm c, Khung 2, Điều 112); đối với nhiều trẻ em; tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (Điểm đ và e Khung 3, Điều 112).

Khắc phục tình trạng cưỡng dâm trẻ em trong thời qua, BLHS năm 1999 đã có những sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản về tội danh này. Điều luật quy định rõ về định lượng và định khung hình phạt cụ thể, thực hiện hành vi cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% thì bị phạt tù đến 15 năm; gây thương tích mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên thì bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân. Để bảo vệ trẻ em khỏi tình trạng lây truyền bệnh dịch nhiễm HIV điều luật cũng quy định đối với tội phạm biết mình nhiễm HIV mà vẫn cố tình thực hiện hành vi cưỡng dâm trẻ em thì bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân. (Điều 114, BLHS năm 1999). Riêng trường hợp cưỡng dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì bị phạt tù đến 7 năm (Điều 113, BLHS năm 1999).

Đối với hành vi giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt tù đến 5 năm. Phạm tội nhiều lần, với nhiều trẻ em, có tính chất loạn luận, làm cho trẻ em có thai hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% thì bị phạt tù đến 10 năm. Phạm tội gây tổn hại cho sức khoẻ của trẻ em từ 61% trở lên hoặc biết mình nhiễm HIV mà vẫn thực hiện hành vi giao cấu thì bị phạt tù đến 15 năm (Điều 115, BLHS 1999).

Về hành vi dâm ô đối với trẻ em, theo quy định tại Điều 116, BLHS 1999 thì mức thấp nhất của khung hình phạt (Khung 1) là phạt tù đến 3 năm, mức cao nhất của khung hình phạt (Khung 3) là phạt tù đến 12 năm. Tuy nhiên, phạt tù đến 20 năm chỉ áp dụng đối với các trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng() hoặc đặc biệt nghiêm trọng().

Đấu tranh chống, ngăn chặn hành vi làm nhiễm HIV nhằm bảo vệ sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của trẻ em BLHS năm 1999 đã quy định rải rác ở một số điều nhằm bảo vệ trẻ em được tốt hơn và cũng nhằm xử lý hành vi phạm tội này đối với trẻ em một cách triệt để và hiệu quả. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 có 2 điều (Điều 117 và 118) trực tiếp quy định về chế tài xử lý đối với tội phạm thực hiện hành vi lây truyền HIV, và hành vi cố ý lây truyền HIV cho người chưa thành niên. Đối với tội phạm thực hiện hành vi lây truyền HIV cho người chưa thành niên bị phạt tù đến bảy năm (Khoản 2, Điều 117), đối với tội phạm cố ý thực hiện hành vi lây truyền HIV bị phạt tù đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

Bảo vệ trẻ em thoát khỏi nạn mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em là một yêu cầu cần thiết, bức xúc đã và đang đặt ra trong bối cảnh hiện nay. tính từ năm 1999 đến năm 2000 tỷ lệ tội phạm này có giảm đáng kể từ 4,78% (năm 1999) xuống còn 1,85% (năm 2000), song con số giảm này cũng chưa xóa hết lo ngại của Đảng và Nhà nước ta đối với loại tội phạm này. Mặc dù BLHS năm 1999 đã có quy định chế tài xử lý rất nghiêm khắc đối với tội phạm thực hiện hành vi mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em với khung hình phạt thấp nhất của tội danh này là phạt tù đến 10 năm, Khung 2 quy định các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt mức cao nhất của Khung 2 là bị phạt tù đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Tuy nhiên, Khung 2 áp dụng đối với những trường hợp như có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, vì động cơ đê hèn, thực hiện hành vi này đối với nhiều trẻ em, để đưa trẻ em ra nước ngoài, sử dụng vào mục đích vô nhân đạo, sử dụng vào mục đích mại dâm, tái phạm nguy hiểm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.

Làm nhục trẻ em, vu khống cho trẻ em và ngược đãi trẻ em là một trong những hành vi cần được lên án và xử lý nghiêm khắc, kịp thời. Trẻ em là đối tượng chưa nhận thức đầy đủ song dẫu là những tác động tích cực hay tiêu cực của con người của điều kiện, hoàn cảnh đến trẻ em đều gây ảnh hưởng không nhỏ đến suy nghĩ và sự phát triển bình thường của trẻ. Pháp luật bảo vệ trẻ em đã quy định về vấn đề này rất cụ thể, rõ ràng song hình như những quy định này chưa thực sự sống và đi vào nhận thức của mỗi người dân. Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm chung của mỗi công dân, của cộng đồng xã hội, vậy sao vẫn có những hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em ngay cả đến một số người thân thích ruột thịt vẫn cố tình xâm hại các quyền này của con em mình. Bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi xâm hại này bằng các chế tài hình sự nghiêm khắc trong suốt thời gian qua đã đem lại những kết quả khả quan, song cũng chưa phải là triệt để. Nhìn lại chế tài quy định xử lý đối với tội phạm thực hiện các hành vi này cho thấy BLHS đã có một loạt các chế tài nghiêm khắc như hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì bị phạt tù đến 2 năm; phạm tội nhiều lần, đối với nhiều người... thì bị phạt tù đến ba năm (Điều 121, BLHS năm 1999), đối với hành vi ngược đãi con, cháu... gây hậu quả nghiêm trọng hoặc bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt tù đến 3 năm (Điều 151, BLHS năm 1999).

Đánh giá tổng quan về các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm trẻ em cũng như các chế tài hình sự xử lý các hành vi phạm tội này cho thấy tội phạm gia tăng có nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên nhân chính không phải là do pháp luật của Nhà nước ta chưa quy định đầy đủ và nghiêm khắc mà tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, do pháp luật chưa đi sâu vào đời sống nhân dân và do một số người cố ý thực hiện hành vi vi phạm vì nhiều mục đích khác nhau nhằm thoả mãn về tinh thần hoặc vật chất. Để hạn chế tình trạng các tội phạm này gia tăng ở nước ta trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài, Đảng và Nhà nước ta cần phải quan tâm sát sao hơn nữa tới việc phổ cập và tuyên truyền ý thức pháp luật trong nhân dân, nêu cao tinh thần đấu tranh chống và ngăn chặn tội phạm trong phạm vi cả nước, có các hình thức khen thưởng và biểu dương kịp thời đối với những người có tình thần tự giác đấu tranh chống tội phạm xâm hại danh dự, nhân phẩm trẻ em, đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết về các quy định liên quan đến quyền được bảo vệ về danh dự, nhân phẩm của trẻ em trong pháp luật hình sự.

3.1.3. Chế tài đối với nhóm tội xâm phạm quyền được chăm sóc, nuôi dạy để phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức của trẻ em

Quyền được chăm sóc, nuôi dạy được hiểu là quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ nhằm tạo nên sự phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức của trẻ em. Luật đã quy định như vậy để bảo đảm cho trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dạy để phát triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức, do đó mọi hành vi xâm hại đến các quyền này đều bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp làm ảnh hưởng đến nhân cách và đạo đức của đối tượng này và ảnh hưởng đến tương lai sau này của chúng, theo quy định tại Điều 252, BLHS năm 1999, thì phạt tù đến 5 năm đối với người nào dụ dỗ, ép buộc người chưa thành niên hoạt động phạm tội, sống sa đọa hoặc chứa chấp người chưa thành niên; phạt tù đến 20 năm đối với trường hợp phạm tội có tổ chức, dụ dỗ, ép buộc lôi kéo nhiều người, đối với trẻ em dưới 13 tuổi, gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng hoặc tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền đến 30 triệu đồng.

Đối với hành vi truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy gây ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ để trẻ em có những nhận thức lệnh chuẩn và hành động lệch chuẩn là một trong những hành vi hết sức nguy hiểm cho xã hội. Để hạn chế và ngăn chặn kịp thời hành vi này trên thực tế, BLHS năm 1999 đã quy định rất cụ thể về khung hình phạt đối với tội danh này, Cụ thể phạt tù đến 3 năm đối với người nào làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những vật phẩm khác có tính chất đồi trụy thuộc một trong các trường hợp: vật phạm pháp có số lượng lớn, phổ biến cho nhiều người, đã xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm; Phạt tù đến mười năm đối với trường hợp phạm tội có tổ chức, vật phạm pháp có số lượng rất lớn, đối với người chưa thành niên, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc tái phạm nguy hiểm; Phạt tù đến 15 năm đối với trường hợp: vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền đến 30 triệu đồng.

Chăm sóc trẻ em và dành cho trẻ em những gì tốt đẹp có ý nghĩa cơ bản quan trọng trong cuộc sống của trẻ. Chăm sóc và thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng trẻ em là trách nhiệm của các bậc cha, mẹ, Nhà nước tạo điều kiện về mọi mặt cho các bậc cha, mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng cho con em mình được tốt hơn. Nhưng thực tế cuộc sống cũng phát sinh ra nhiều vấn đề khó lường và khó có thể bỏ mặc hay tha thứ được, đó là tình trạng bỏ mặc trẻ em, không chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em để cho trẻ em bệnh tật, không được đến trường, không được vui chơi, giải trí cũng như không có cơ hội để phát triển. Cấp dưỡng nuôi con khi cha, mẹ ly hôn cũng là một trong những vấn đề được gia đình và xã hội quan tâm, bởi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha hoặc mẹ với mục đích chính là hỗ trợ nuôi con em mình ăn học, song trên thực tế có rất nhiều trường hợp cha hoặc mẹ đã trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hoặc có thực hiện nhưng không đầy đủ. Luật BVCSGDTE, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự và hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên khi cha, mẹ ly hôn. Tại Khoản 3 Điều 16 Luật BVCSGDTE quy định "Trong trường hợp ly hôn hoặc trong trường hợp khác, người cha hoặc người mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên có nghĩa vụ đóng góp để nuôi dưỡng, giáo dục con; có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con theo quy định của pháp luật". Để bảo đảm cho các quyền này của trẻ em được thực hiện có hiệu quả Luật HN&GĐ sửa đổi, bổ sung năm 2000 đã dành riêng một chương quy định về chế độ cấp dưỡng trong đó quy định chi tiết đầy đủ về đối tượng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, người được cấp dưỡng, mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng và có thêm một nội dung có ý nghĩa rất nhân đạo, rất tình người đó là khuyến khích việc trợ giúp của các tổ chức, cá nhân trợ giúp bằng tiễn tiền hoặc tài sản khác cho các gia đình, cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt, túng thiếu (Điều 62, LHN&GD 2000).

Về phương diện hình sự, Bộ luật hình sự cũng quy định chế tài đối với tội phạm thực hiện hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, Điều 152 quy định "Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm"()

 

3.1.4. Chế tài đối với nhóm tội xâm phạm quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ trẻ em

Bảo vệ trẻ em bằng pháp luật hình sự nhằm hạn chế các hành vi bóc lột sức lao động của trẻ em, lôi kéo trẻ em vào con đường phạm tội là một vấn đề có ý nghĩa cơ bản quan trọng, nhằm mục đích tạo điều kiện cho trẻ em thực hiện các quyền của mình và phát huy các quyền này tốt nhất. Tại khoản 1, và 2 Điều 14 Luật BVCS&GD trẻ em quy định "Trẻ em không được… và dùng các chất kích thích khác có hại cho sức khoẻ; Nghiêm cấm việc dụ dỗ, cho trẻ em dùng chất kích thích có hại cho sức khoẻ"

 

Đối với hành vi sử dụng trẻ em vào mục đích vận chuyển, mua bán trái phép ma tuý, tổ chức sử dụng trái phép các chất ma tuý, chứa chấp việc việc sử dụng trái phép chất ma tuý đều bị áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc để trừng trị kẻ phạm tội. cụ thể:

- Phạm tội sử dụng trẻ em vào việc vận chuyển, mua bán trái trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù đến mười lăm năm (Điều 194, BLHS năm 1999).

- Phạm tội tổ chức cho người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc phụ nữ mà biết là đang có thai hoặc trẻ em dưới 13 tuổi, thì bị phạt tù đến 15 năm; Phạm tội gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình (Điều 197, BLHS năm 1999).

- Phạm tội chứa chấp trẻ em sử dụng trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù đến mười lăm năm (Điều 198, BLHS năm 1999).

- Đối với hành vi cưỡng bức, lôi kéo người chưa thành niên từ đủ mười ba tuổi trở lên hoặc đối với phụ nữ mà biết là đang có thai, thì bị phạt tù đến mười lăm năm; phạm tội đối với trẻ em dưới mười ba tuổi, thì bị phạt tù đến hai mươi năm; Phạm tội gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân (Điều 200, BLHS năm 1999).

- Riêng đối với hành vi bóc lột sức lao động trẻ em, vi phạm các quy định về sử dụng lao động trẻ em như bắt trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù đến hai năm; phạm tội nhiều lần hoặc đối với nhiều trẻ em hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến bảy năm (Điều 228, BLHS năm 1999).

3.2. Chế tài hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội.

3.2.1. Chế tài hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.

Luật hình sự quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Việc áp dụng hình phạt xử lý người chưa thành niên phạm tội khác với hình phạt áp dụng xử lý người đã thành niên phạm tội, việc quy định như thế này xuất phát từ đặc trưng của độ tuổi này, người chưa thành niên có mức độ nhận thức và điều khiển hành vi chưa chuẩn (lệch chuẩn). Do đó, sẽ không đầy đủ khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của người chưa thành niên tách rời độ tuổi của họ. Hơn nữa, mục đích chủ yếu của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội có hành vi nguy hiểm cho xã hội là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân hữu ích cho gia đình và xã hội, tinh thần này thể hiện rất rõ trong nội dung quy định của Điều 70, BLHS năm 1999. Việc hạn chế áp dụng chế tài hình sự hoặc có sự nương nhẹ khi áp dụng các biện pháp chế tài hình sự xử lý người chưa thành niên phạm tội là một nguyên tắc bao trùm, mang tính chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xử lý vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Bởi đối tượng này đang ở lứa tuổi phát triển chưa đầy đủ về mặt tâm, sinh lý, đang ở giai đoạn phát triển và hình thành nhân cách, cho nên chưa thể có suy nghĩ chín chăn trong khi quyết định hành vi của mình dẫn đến có những hành vi sai phạm, lêch chuẩn, thậm chí hành vi này còn gây nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý hình sự. Để đảm bảo các quyền và lợi ích của trẻ em nói chung và người chưa thành niên nói riêng, cho dù những đối tượng này có phạm tội thì gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội vẫn phải có trách nhiệm quan tâm, giúp đỡ họ sửa chữa những sai phạm, lỗi lầm mà họ đã phạm phải. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự có bị can, bị cáo là người chưa thành niên cũng phải quán triệt nguyên tắc việc xử lý người chưa thành niên về hình sự (Điều 69, BLHS năm 1999) là vì sự phát triển lành mạnh và mức độ xử lý bảo đảm sự phát triển lành mạnh đó. Nguyên tắc lấy giáo dục làm chính hoàn toàn phù hợp với tinh thần cuả pháp luật trong nước, của Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Quy tắc Bắc kinh().

Việc xác định rõ khả năng nhận thức về tính nguy hiểm của hành vi, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc phạm tội, không chỉ có ý nghĩa trong việc xem xét trách nhiệm pháp lý của người chưa thành niên đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà quan trọng hơn là xác định cơ sở cho việc áp dụng hình thức và biện pháp xử lý thích hợp cũng như các biện pháp hữu hiệu để loại bỏ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Trong điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên phạm tội, trách nhiệm trước hết thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng là phải xác định rõ khả năng nhận thức của người đó về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện cũng như nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc phạm tội. Ngoài ra, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác cũng phải có trách nhiệm giúp và tạo điều kiện cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc làm rõ điều kiện khách quan và chủ quan của tội phạm mà người chưa thành niên đã thực hiện.

Trong những năm gần đây, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội có chiều hướng gia tăng, loại tội phạm mà đói tượng này thực hiện cũng rất đa dạng và phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thực hiện hành vi vi pháp luật nghiêm trọng này là do nhận thức không đầy đủ về tính chất, mức độ nghiệm trọng cho xã hội của hành vi phạm tội, do bị lừa gạt, lôi kéo, dụ dỗ, do ăn chơi, đua đòi và do nhiều tác động tiêu cực của nhiều yếu tố khách quan mạng lại.

Theo số liệu thống kê của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân nhân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, tổng số người chưa thành niên vi phạm pháp luật năm 1999 là 14.346 em, trong đó lứa tuổi dưới 12 tuổi chiếm tỷ lệ 2,08%; lứa tuổi từ 12 đến dưới 14 tuổi chiếm tỷ lệ 11,16%; lứa tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi chiểm tỷ lệ 33,44%; lứa tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ 53,32%, những đối tượng này chủ yếu là học sinh phổ thông cơ sở (38,26%); năm 2000 có 11.538 người chưa thành niên vi phạm pháp luật, lứa tuổi từ 14 tuổi đến 16 tuổi chiếm tỷ lệ 35,89%, lứa tuổi từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ 48,08%. Như vậy, phạm tội ở lứa tuổi từ 14 tuổi đến 16 tuổi có chiều hướng gia tăng đáng kể từ 33,44% năm 1999 tăng lên 35,89% năm 2000 (tăng 2,45%). Tội phạm mà người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là tội trộm cắp, năm 1999 chiếm tỷ lệ 46,38%, trong tổng số loại tội phạm đã xét xử; năm 2000 chiếm tỷ lệ 44,9% trong tổng số loại tội phạm đã xét xử.

Về tình hình người chưa thành niên phạm tội mới, theo số liệu thống kê của Bộ công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, năm 1999, tổng số người chưa thành niên phạm tội mới khởi tố có 5284 đối tượng, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội bị truy tố so với tổng khởi tố chiếm 68,64%, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội bị xét xử so với tổng số bị khởi tố chiến tỷ lệ 58,23%. Trong năm 2000, tổng số người chưa thành niên phạm tội mới khởi tố có 3908 đối tượng, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội bị truy tố so với tổng khởi tố chiếm 72,36%, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội bị xét xử so với tổng số bị khởi tố chiếm tỷ lệ 70,90%. Qua số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội mới từ năm 1999 đến năm 2000 tăng, tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội bị truy tố tăng 3,72%; tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội bị xét xử so với tổng số bị khởi tố tăng 12,67%, đây là những con số đáng quan tâm và lo ngại. Làm gì để hạn chế tình trạng tội phạm chưa thành niên gia tăng là một vấn đề đã và đang đặt ra hiện nay.

Về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, theo quy định của BLHS năm 1999 có bốn loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính theo trật tự từ nhẹ đến nặng cụ thể: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Luật hình sự không cho phép áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Về bản chất, các loại hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội không khác so với các loại hình phạt tương tự áp dụng đối với người đã thành niên.

Đối với hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức được miễn hình phạt. Đây là loại hình phạt nhẹ nhất, không có yếu tố định lượng (thời hạn và mức tiền) mà là sự biểu thị thái độ nhắc nhở đối với người chưa thành niên thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để họ cải sửa không tiếp tục tái phạm và tái phạm nguy hiểm.

Khác với hình phạt cảnh cáo, hình phạt tiền lần đầu tiên được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Hình phạt tiền mang tính cưỡng chế tước bỏ đi lợi ích vật chất (một khoản tiền nhất định) nhằm buộc người phạm tội phải có ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quy tắc, trật tự công cộng, trật tự quản lý xã hội. Hình phạt tiền có ý nghĩa rất sau sắc, một mặt tác động vào ý thức, danh dự của người phạm tội, như hình phạt cảnh cáo còn tước bỏ một phần lợi ích vật chất của người phạm tội. Như vậy, việc áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội đã mở rộng khả năng không áp dụng hình phạt tước tự do đối với người chưa thành niên phạm tội.

Cải tạo không giam giữ là loại hình phạt không tước quyền tự do, không cách ly người chưa thành niên phạm tội khỏi môi trường xã hội bình thường, nhưng hình phạt này có tính chất nghiêm khắc hơn hình phạt quảng cáo và hình phạt tiền. Bởi ngoài việc tác động vào ý thức, danh dự, hình phạt này ở một phương diện nào đó còn hạn chế tự do cá nhân của người phạm tội, buộc họ phải tuân thủ một chế độ quản lý, giáo dục tương đối nghiêm khắc dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức và gia đình.

Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt tước quyền tự do, buộc người phạm tội phải cách ly khỏi xã hội bình thường và chấp hành một chế độ quản lý, giáo dục tại trại giam trong một thời gian nhất định. Hình phạt tù có thời hạn có thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, khi căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, môi trường sống và sinh hoạt của người này nếu thấy việc cách ly khỏi môi trường xã hội bình thường để quản lý, cải tạo và giáo dục theo một chế độ nghiêm khắc hơn trong môi trường trại giam là cần thiết.

Luật hình sự không quy định áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Bởi hình phạt tù chung thân không phù hợp với mục đích giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội sửa chữa những sai lầm, phát triển lành mạnh mà loại hình phạt này thiên về trừng trị nhiều hơn. Việc không áp dụng hai loại hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội là cần thiết và hợp lý, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội.

3.2.2. Thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội.

Để đảm bảo các quyền và lới ích hợp pháp của người chưa thành niên khi không phạm tội cũng như khi phạm tội, pháp luật của Nhà nước ta đã rất quan tâm đến đối tượng này và luôn dành cho đối tượng này những ưu tiên đặc biệt về mặt pháp luật cũng như những chính sách ưu đãi khác nhằm giúp đỡ và tạo điều kiện cho đối tượng này phát triển toàn diện, lành mạnh. Pháp luật tố tụng hình sự đã giành riêng một Chương VII để quy định về trình tự, thủ tục tố tụng đặc biệt đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội.

Xuất phát từ độ tuổi, trình độ phát triển thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên, khi tiến hành tố tụng điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý khọc, về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên.

Đối với việc bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên từ đ14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ như: trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang; hoặc có lệnh truy nã; và các căn cứ khác quy định tại Điều 68, 71 BLTTHS, nhưng chỉ được bắt, tạm giữ, tạm giam trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang; hoặc có lệnh truy nã; và các căn cứ khác quy định tại Điều 68, 71 BLTTHS, nhưng chỉ được bắt, tạm giữ, tạm giam trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Khác với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý mới bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tôi nghiêm trọng do cố ý đã bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng luật Nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng và quan tâm đến lứa tuổi của đối tượng phạm tội là người chưa thành niên để có các biện pháp áp dụng phù hợp và cần thiết đối với từng lứa tuổi cuả trẻ em.

Đối với việc bào chữa cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho các đối tượng này. Trường hợp bị can, bị cáo không có lựa chọn thì đại biện hợp pháp của những người này có thể lựa chọn luật sư bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho những bị can, bị cáo này (Điều 275).

Trong trường hợp cần thiết, việc hỏi cung bị can là người chưa thành niên tại cơ quan điều tra phải có mặt đại diện của gia đình bị can. Tại phiên toà xét xử phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường hoặc tổ chức xã hội (Điều 276). Việc tham gia tố tụng của đại diện gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội có ý nghĩa nhằm giúp và bảo vệ người chưa thành niên trong quá trình tố tụng, bởi đối tượng này có thể là người thực hiện hành vi phạm tội song không phải hành vi mà chúng thực hiện chúng đã hiểu và nhận thức một cách đúng đắn về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và chúng cũng khó có thể giải thích và biện hộ cho mình trong suốt quá trình tố tụng, do đó, những người này tham gia tố tụng với tư cách vừa là người giúp đỡ đối tượng này vừa là người bảo vệ và biện hộ sẽ giúp cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử đạt hiệu quả tốt hơn, tránh và hạn chế xét xử oan sai đối với bị can là người chưa thành niên.

Khác với thành phần xét xử của các vụ án khác, trong vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, trong thành phần Hội đồng xét xử có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể xét xử kín đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên và xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với bị cáo, thì Toà án áp dụng một trong những biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70, BLHS năm 1999.

3.3. Kết luận và kiến nghị

Hệ thống các chế tài hình sự đối với các hành vi xâm hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm trẻ em và hệ thống các chế tài đối với người chưa thành niên là chủ thể của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự của nước ta đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong lập pháp hình sự. Bộ luật hình sự vào năm 1999 đã khắc phục được cơ bản những hạn chế cả về lập pháp hình sự cũng như các nội dung của Bộ luật, từ hệ thống chương, điều, khoản, điểm đến hệ thống các chế tài cụ thể đối với từng tội danh đã thể hiện rõ tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, đường lối, chính sách cũng như thái độ nghiêm khắc trừng trị tội phạm dưới mọi phương diện của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng riêng đối tượng là trẻ em thì Đảng và Nhà nước ta lại luôn thể hiện sự quan tâm sâu sắc trong cách thức bảo vệ cũng như trong cách thức giáo dục, phòng ngừa. Điều này được thể hiện rất rõ nét qua các chế tài xử lý đối với tội phạm xâm hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm trẻ em và các chế tài áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.

Hệ thống các chế tài trong BLHS năm 1999, mặc dù mới có hiệu lực áp dụng được hơn một năm, song kết quả đem lại cũng rất khả quan, điểm này được chứng minh trong số liệu tổng kết tình hình tội phạm xâm hại tính mang, sức khoẻ, danh dự trẻ em và số liệu người chưa thành niên phạm tội năm 1999, 2000, 2001. Từ số liệu này cho thấy tình hình xâm hại trẻ em và tình hình người chưa thành niên phạm tội có chiều hướng giảm và một số tội phạm cụ thể có chiều hướng giảm rõ rệt (tội giết trẻ em, tội hiếp dâm, cưỡng dâm..). Tuy nhiên, để các quyền và lợi ích của trẻ em mỗi ngày được bảo đảm thực hiện tốt hơn trên thực tế thì luật phải thực sự đi vào cuộc sống của người dân, và luật phải được hiểu và áp dụng đúng với tinh thần của luật. Góp phần vào việc phát huy hiệu lực của các chế tài về xử lý tội phạm xâm hại trẻ em và xử lý người chưa thành niên phạm tội trong BLHS 1999, đồng thời phát huy hiệu quả tính lý của Luật BVCSGDTE, chúng tôi xin có một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm xâm phạm trẻ em. Đặc biệt là các quy phạm pháp luật để cụ thể hoá các nguyên tắc hình sự đã được Bộ luật hình sự quy định, nhất là các quy định liên quan đến việc hiểu và áp dụng các chế tài xử lý hình sự đối với tội này như:

+ Luật BVCSGDTE Điều 14, khoản 2 quy định: "Nghiêm cấm việc lôi kéo trẻ em đánh bạc…", BLHS năm 1999 chưa quy định tình tiết "đối với trẻ em", vậy theo quan điểm của chúng tôi là nên quy định tình tiết "đối với trẻ em" vào Khoản 2 Điều 249 (Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc) BLHS năm 1999. Có như vậy mới đảm bảo tính hiệu lực của BVCSGDTE trên thực tế, bởi nếu BVCSGDTE quy định nghiêm cấm việc thực hiện hành vi này đối với trẻ em song BLHS năm 1999 không quy định chế tài xử lý tương ứng đối với hành vi vi phạm này, thì vô hình chung chúng ta đã bỏ sót không xử lý hành vi này bằng chế tài hình sự trên thực tế.

+ Vướng mắc hiện nay trong công tác điều tra, truy tố, xét xử là "Truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với đối tượng này trong trường hợp cần thiết.." (Khoản 3, Điều 69 BLHS năm 1999). Cho đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn như thế nào là trong trường hợp cần thiết. Hoặc cũng tại Điều 69, Khoản 4 quy định: "Khi xét xử nếu thấy không cần thiết phải áp dụng khung hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội..." Đến nay cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể là trường hợp nào cần thiết đưa ra xét xử và áp dụng hình phạt và trường hợp nào là không cần thiết. Thiết nghĩ trong thời gian tới các cơ quan chức năng có liên quan cần nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Thứ hai, hoàn thiện thiết chế bộ máy để điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án loại tội xâm hại trẻ em và loại tội mà trẻ em là người phạm tội như:

+ Cần xúc tiến thành lập Trung tâm chuyên nghiên cứu về tội phạm học và vấn đề liên quan đến tư pháp người chưa thành niên, đầu tư nghiên cứu cải tiến phương pháp thống kê tư pháp hiện nay, đồng thời thống nhất những chỉ số, tiêu chí cũng như phương pháp thống kê tư pháp khoa học nhằm nghiên cứu một cách tập trung, cơ bản vấn đề tội phạm ở lứa tuổi này, cung cấp một cách nhanh chóng, chính xác những thông tin đa dạng phục vụ kịp thời và có hiệu quả trong nghiên cứu, đánh giá và hoạch định những chính sách hình sự phù hợp.

+ Cần thành lập Toà án vị thành niên và hệ thống tư pháp chưa thành niên.

4. Cơ chế thực thi và đảm bảo thực hiện các chế tài một cách có hiệu quả

4.1. Thực trạng về thi hành các bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em

Theo pháp luật hiện hành thì việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án và các quyết định khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là một hoạt động khá phức tạp bao gồm nhiều công đoạn với các thủ tục khác nhau và cần có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức hữu quan. Đây là khâu cuối cùng và giữ vai trò quan trọng trong việc xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết tranh chấp xảy ra. Đồng thời, đây cũng là hoạt động nhằm bảo đảm cho các bản án, quyết định của Toà án và các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được hiện thực trên thực tế. Do vậy, mặc dù các phán quyết của Toà án và cơ quan nhà nước có thẩm quyền là công bằng, khách quan, vô tư nhưng công lý vẫn chưa được bảo vệ nếu hoạt động thi hành án không hiệu quả.

Trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em thì hoạt động thi hành các phán quyết của Toà án và cơ quan nhà nước có thẩm quyền càng trở nên quan trọng. Điều này xuất phát từ bản chất của vấn đề: việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em luôn là một vấn đề thường xuyên, liên tục không chỉ của một cá nhân hay một tổ chức cụ thể nào mà là vấn đề của mọi quốc gia và mang tính toàn cầu. Do vậy, việc phân tích, đánh giá một cách toàn diện công tác thi hành các phán quyết của toà án và quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ khía cạnh thể chế pháp luật, thiết chế thi hành và hiệu quả thi hành trên thực tế sẽ giúp chúng ta có được một cách nhìn hiện thực nhất về công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và công tác thi hành án nói riêng. Đây là vấn đề cần thiết giúp chúng ta tìm ra một cơ chế thi hành các phán quyết, quyết định của Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em thật sự thiết thực và hiệu quả. Có thể tạm chia hoạt động thi hành các phán quyết của Toà án và quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành các loại chính sau:

Thi hành các phán quyết của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hành vi xâm hại quyền và lợi ích của trẻ em.

Thi hành các phán quyết của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với trẻ em làm trái pháp luật.

4.1.1. Thực trạng thi hành các bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hành vi xâm hại quyền và lợi ích của trẻ em

4.1.1.1. Thi hành án hình sự

Theo Bộ luật hình sự 1999 thì các hành vi xâm hại trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em chủ yếu tập trung ở các chương: Chương XII - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm (18 tội); Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu (1 tội); Chương XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (6 tội): Chương XVIII - Các tội phạm về ma tuý (4 tội); Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (7 tội). Tổng cộng là 36 tội, trong đó, phần lớn các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em đề bị xử phạt theo khung tăng nặng hoặc được quy định thành tội phạm riêng biệt (như tội giết con mới đẻ, tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dân trẻ em, tội giao cấu với người chưa thành niên...). Bên cạnh các hình phạt chính thì phần lớn người phạm tội còn bị áp dụng các hình phạt bổ sung (có 21/36 tội có hình phạt bổ sung) như: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, phạt tiền... Thống kê về các hình phạt đối với 36 tội kể trên thì người phạm tội có thể bị xử lý bằng các hình phạt sau đâu:

- Hình phạt chính: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, án treo (biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện) tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.

- Hình phạt bổ sung: phạt tiền, quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Như vậy, có thể thấy rõ hầu hết các tội xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em đều bị áp dụng các hình phạt nghiêm khắc và đã có sự đặc thù trong việc xử lý hành vi phạm tội ngay từ khi tuyên án.

Thi hành hình phạt tử hình

Theo Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật tố tụng hình sự 1988 (được sửa đổi bổ sung năm 1990, 1992, 2000) và các văn bản hướng dẫn thi hành thì pháp luật Việt Nam quy định khá rõ các nguyên tắc trình tự, thủ tục, điều kiện thi hành án tử hình (xem chuyên đề "Thi hành các bản án và quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, thực trạng - nguyên nhân - giải pháp). Việc thi hành án tử hình đối với các tội xâm phạm đến quyền và lợi ích của trẻ em không có sự khác biệt nào so với các tội phạm khác.

Trên thực tế, các Toà án đã xử lý khá nghiêm khắc các hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích của trẻ em. Trong số các vụ án xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của trẻ em phải áp dụng hình phạt tử hình chủ yếu là các tội danh: giết trẻ em, hiếp dâm trẻ em. Riêng tội hiếp dân trẻ em năm 1997 Toà án đã áp dụng hình phạt tử hình đối với 2 bị cáo; năm 1998 là 7 bị cáo; năm 1999 là 5 bị cáo; năm 2000 là 9 bị cáo. Các bản án này đều được thi hành nghiên túc theo đúng quy định của pháp luật.

Thi hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan có trách nhiệm thi hành hình phạt tù là cơ quan công an, cụ thể là Cục quản lý trại giam. Bộ luật tố tụng hình sự 1988 và Pháp lệnh thi hành án phạt tù 1993 đã quy định khá cụ thể về trình tự và thủ tục thi hành án phạt tù. Mặc dù pháp luật thi hành án phạt tù không không trực tiếp quy định rõ chế độ giam giữ, giáo dục riêng đối với những người bị kết án về các hành vi phạm tội xâm hại đến quyền và lợi ích của trẻ em, nhưng đã có sự phân hoá tương đối cụ thể trong chế độ giam giữ và giáo dục tội phạm căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nói chung, như: phân loại trại giam để giáo dục phạm nhân, chế độ giáo dục cải tạo phạm nhân... Những quy định đó luôn thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật nhưng luôn tạo điều kiện để cho người bị kết án tù được cải tạo, giáo dục trở thành một người dân lương thiện có ích cho xã hội.

Trên thực tế các hành vi xâm hại đến lợi ích của trẻ em trong thời gian qua có chiều hướng gia tăng. Theo thống kê của Uỷ ban bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em thì trong năm 1999 có 1945 đối tượng và năm 2000 có 1625 đối tượng với tính chất và hành vi phạm tội khá nguy hiểm. Cụ thể là():

Bảng số 1: Tổng số đối tượng xâm hại trẻ em

Tội danh

Năm 1999 là 1945 đối tượng

Năm 2000 là 1625 đối tượng

Giết trẻ em

4,63 %

4,55%

Hiếp dâm trẻ em

45,50%

39.75%

Cưỡng dâm trẻ em

0,75%

0,92%

Giao cấu với trẻ em

8,84%

5,29%

Dâm ô với trẻ em

3,75%

4,31%

Cố ý gây thương tích cho trẻ em

16,45%

18,28%

Mua bán, bắt trộm, đánh tráo trẻ em

4,78%

1,58%

Dụ dỗ, chứa chấp trẻ em phạm pháp

1,34%

1,48%

Các tội phạm khác

13,98%

23,57%

Bảng số 2: Xét xử các bị cáo xâm phạm quyền trẻ em qua các năm

1998

1999

2000

Tổng số

Số vụ

Bị cáo

Số vụ

Bị cáo

Số vụ

Bị cáo

Số vụ

Bịcáo

Hiếp dâm trẻ em

564

625

624

763

735

811

1923

2199

Cưỡng dân người chưa thành niên

2

2

9

10

5

6

16

18

Giao cấu với trẻ em

126

144

143

147

138

194

407

485

Bắt cóc, mua bán trẻ em

42

72

50

78

49

84

141

234

Mua dâm với người chưa thành niên

1

3

8

16

29

70

38

89

Dâm ô với trẻ em

5

8

80

90

120

178

205

276

Dụ dỗ trẻ em phạm tội

0

0

2

2

1

1

3

3

Tổng cộng

740

854

916

1106

1077

1344

2733

3304

Trong số các tội danh trên, đã có nhiều đối tượng bị kết án với mức hình phạt khá nghiêm khắc là tù chung thân và tù có thời hạn. Riêng tội hiếp dâm trẻ em trong năm 1997 các Toà án trong cả nước đã kết án tù chung thân 11 bị cáo; tù từ 10 đến 20 năm là 13 bị cáo; năm 1998 tù chung thân là 85 bị cáo, tù từ 10 đến 20 năm là 270 bị cáo, tù từ 7 đến 10 năm là 133 bị cáo; năm 1999 tù chung thân là 88 bị cáo, từ 10 đến 20 năm là 314 bị cáo, từ 7 đến 10 năm là 134 bị cáo; năm 2000 tù chung thân là 46 bị cáo, tù từ 10 đến 20 năm là 384 bị cáo, tù từ 7 đến 10 năm là 180 bị cáo(). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp Toà án chưa áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định của pháp luật. Việc thi hành các bản án này đã được các trại giam thực hiện theo đúng quy đinh chung của pháp luật về chế độ cải tạo, giam giữ, lao động, học tập...

Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo, quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm một số chức vụ hoặc cấm làm một số nghề nhất định

Theo pháp luật hiện hành thì chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc có nhiệm vụ theo dõi, giám sát việc cải tạo của những người được hưởng án treo hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ. Việc thi hành án quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm một số chức vụ hoặc cấm làm một số nghề nhất định do chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi thi hành án đảm nhiệm(). Cụ thể là:

ã Về thi hành án treo, Điều 60 Bộ luật hình sự, Điều 227, 234, 237, 238 BLTTHS và Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo không quy định sự khác biệt nào trong việc áp dụng hình phạt này đối với đối tượng phạm tội là người lớn hay trẻ em. Tuy nhiên thực tế cho thấy hình phạt này thường được các Toà án áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng. Trong việc thi hành hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội, gia đình có ý nghĩa hết sức quan trọng, phải luôn quan tâm, gần gũi và có biện pháp cụ thể giúp đỡ người được hưởng án treo sửa chữa lỗi lầm của mình, không vi phạm pháp luật; nhắc nhở, uốn nắn kịp thời khi người đó có hành vi sai trái; phối hợp chặt chẽ với người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong việc quản lý, giáo dục người đó. Đồng thời gia đình của người chưa thành niên bị kết án phải có bản cam kết với cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và thông báo cho cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo về kết quả rèn luyện, tu dưỡng khi có yêu cầu; tham dự các cuộc họp kiểm điểm người được hưởng án treo. Gia đình có trách nhiệm thực hiện việc bồi thường thiệt hại do người được hưởng án treo là người chưa thành niên gây ra. Đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì chỉ bồi thường khi người đó không có đủ tài sản để bồi thường.

 

ã Về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, các Điều 31, 58, 59, 73 và 76 Bộ luật hình sự, các Điều 227, 234, 237, 238 BLTTHS và Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ đã quy định khá rõ. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 6 tháng đến 3 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

ã Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định. Thời hạn cấm cư trú là từ 1 năm đến 5 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

ã Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo Điều 39 của Bộ luật hình sự và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Thời hạn quản chế là từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

 

Việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn tổ chức thi hành các bản án hình sự không phải là phạt tù gặp khá nhiều khó khăn. Một mặt, các hình phạt này ít được Toà án áp dụng, mặt khác các quy định của phát luật về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành các hình phạt này mới được quy định trong thời gian gần đây (chủ yếu là năm 2000 và 2001). Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm tổ chức thi hành loại hình phạt này lại là chính quyền cơ sở (UBND xã, phường, thị trấn) và các tổ chức, cá nhân tại cộng đồng. Do vậy, công tác thống kê của chúng ta chưa có điều kiện để có thể thống kê được đầy đủ công tác thi hành loại hình phạt này trên phạm vi toàn quốc.

Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi thấy nhìn chung công tác tổ chức thi hành các hình phạt trên còn nhiều hạn chế từ phía cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quản lý, giáo dục đối tượng phải thi hành án. ở nhiều nơi, tình trạng người bị áp dụng hình phạt không nhận được sự quản lý, giáo dục thường xuyên của chính quyền và các đoàn thể cơ sở. Mặt khác, các địa phương cũng chưa có sự phân loại đối tượng cụ thể để áp dụng các biện pháp giáo dục cần thiết. Những đối tượng bị áp dụng các hình phạt loại này (cải tạo không giam giữ, án treo, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định…) do có hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích của trẻ em thì hầu như cơ chế giáo dục, cải tạo dành cho họ không có bất cứ sự chú trọng cần thiết nào trong việc nâng cao ý thức của họ về việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Thi hành hình phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng có thể được áp dụng với tính chất là hình phạt chính hoặc bổ sung. Mức phạt tiền được quyết định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn 1 triệu đồng. Nhìn chung hình phạt này ít được áp dụng với đối tượng phạm tội là trẻ em.

4.1.1.2 Thi hành các bản án, quyết định dân sự, hôn nhân - gia đình và lao động

Hiện nay, các quy định về thi hành án đối với các hành vi xâm hại quyền và lợi ích của trẻ em trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân - gia đình và lao động được quy định khá cụ thể trong Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 69/CP ngày 18/10/1993 của Chính phủ quy định về thủ tục thi hành án dân sự; Nghị định số 30/CP ngày 2/6/1993 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý công tác thi hành án và cơ quan thi hành án dân sự; Thông tư liên ngành số 981/TTLN ngày 21/9/1993 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự; Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 17/9/1993 của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn bảo vệ cưỡng chế thi hành án dân sự; Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài Chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản; Thông tư liên tịch số 12/2000/TTLT -BTP-VKSTC ngày 26/2/2001 của Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về thi hành án dân sự... Nhìn chung các quy định này đã quy định khá cụ thể về tổ chức, thẩm quyền của cơ quan thi hành án, trình tự, thủ tục thi hành án.

Các hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân - gia đình và lao động khá đa dạng như vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng, xâm phạm quyền sở hữu, thừa kế tài sản, quyền được nhận làm con nuôi, giám hộ, vi phạm các quy định về sử dụng lao động trẻ em (như ép trẻ em làm những công việc nặng nhọc, độc hại)... Tuy nhiên, các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm kể trên được áp dụng là: thi hành nghĩa vụ buộc phải cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại, khắc phục hành vi vi phạm về sử dụng lao động trẻ em...

Việc thi hành các chế tài này chủ yếu do cơ quan thi hành án dân sự đảm nhiệm. Bên cạnh đó các tổ chức liên quan như UBND cấp xã, các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội tại cơ sở cũng có tránh nhiệm tham gia thi hành án theo quyết định của Toà án và yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự.

Nhìn chung, thủ tục và các biện pháp thi hành án đối với các hành vi xâm hại quyền và lợi ích của trẻ em trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân - gia đình và lao động đều được tiến hành theo thủ tục chung như các quy định về cấp bản sao bản án, thời hiệu thi hành bản án, tự nguyện thi hành, cưỡng chế thi hành, ra quyết định thi hành án, tổ chức thi hành án, hoãn thi hành án, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành...(). Bên cạnh đó, pháp luật thi hành án dân sự cũng quy định một số thủ tục đặc biệt đối với một số hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em:

Theo Điều 41 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì trong quá trình tố tụng, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, đương sự, có thể áp dụng một số biện pháp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ bằng chứng (xem chuyên đề "thi hành các bản án và quyết định của toà án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em, thực trạng - nguyên nhân - giải pháp" trong phần các chuyên đề của đề tài). Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án, quyết định của Toà án, thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời nhằm bảo đảm cho lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án sau này (Điều 20 pháp lệnh thi hành án dân sự 1993).

Như vậy, trong 7 biện pháp khẩn cấp tạm thời kể trên, thì phần lớn các biện pháp này đền có thể ngăn chặn được những hành vi ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, trong đó có những biện pháp rất đặc thù nhằm bảo vệ trẻ em như các biện pháp buộc một bên phải thực hiện việc cấp dưỡng; giao người chưa thành niên cho cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức chăm nom; trả tiền lương hoặc tiền công lao động cho trẻ em.

Theo trình tự chung thì các bản án, quyết định của toà án chỉ được thi hành khi đã có hiệu lực pháp luật. Nghĩa là các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định của Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; bản án, quyết định của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận là những bản án được đưa ra thi hành. Bên cạnh đó, pháp luật thi hành án dân sự cũng quy định một số trường hợp đặc biệt nhằm bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Điều 3 Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 quy định những bản án, quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của công dân, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị; quyết định khẩn cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án mặc dù chưa có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn được thi hành ngay. Đối với bản án, quyết định loại này, Toà án chuyển giao bản sao bản án, quyết định trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm. Trên cơ sở bản sao bản án, quyết định của Toà án và yêu cầu người đại diện hợp pháp của trẻ em, cơ quan thi hành án sẽ ra quyết định thi hành án. Sau khi nhận được quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người đại diện hợp pháp của trẻ em, chấp hành viên định cho người phải thi hành án một thời hạn nhất định để họ tự nguyện thi hành (thời hạn này không được quá 30 ngày). Nếu hết thời hạn kể trên mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì chấp hành viên có thể ra quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành tuỳ theo tính chất của vụ việc và tình hình thực tế của người phải thi hành án.

Trước khi ra quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành thì chấp hành viên cần thực hiện các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Sau khi đã xác minh điều kiện của người phải thi hành án, nếu đương sự có điều kiện, nhưng không tự nguyện thi hành, thì chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết. Các biện pháp cưỡng chế có thể bị áp dụng là: kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án, trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ, cưỡng chế giao đồ vật, cưỡng chế trả nhà, cưỡng chế chấm dứt hành vi trái pháp luật... Hiện nay, biện pháp cưỡng chế, kê biên, bán đấu giá tài sản được áp dụng phổ biến nhất.

Để bảo đảm lợi ích hợp pháp của trẻ em, pháp luật quy định trong những trường hợp cơ quan thi hành án phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế kể trên thì lợi ích tốt nhất của trẻ em luôn được đặt lên hàng đầu. Điều này được thể hiện cụ thể trong một số biện pháp như:

+ Trong trường hợp phải sử dụng đến các biện pháp như bán đấu giá tài sản kê biên, bán đấu giá nhà... thì số tiền bán tài sản, sau khi trừ vào các chi phí về thi hành án, được thanh toán cho người được thi hành án theo thứ tự ưu tiên được Bộ Luật Tố tụng hình sự quy định (xem chuyên đề "Thi hành các bản án và quyết định của toà án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em, thực trạng - nguyên nhân - giải pháp" trong phần các chuyên đề). Nếu trong cùng một hàng ưu tiên, mà có nhiều người được thi hành án, nhưng số tiền không đủ thì thanh toán theo tỷ lệ trên số tiền được hưởng().

+ Khi thi hành án về nghĩa vụ buộc phải cấp dưỡng cho trẻ em thì chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. Những khoản thu nhập của người phải thi hành án có thể bị trừ là: tiền lương, trợ cấp hưu trí hoặc mất sức, thu nhập của xã viên hợp tác xã và các khoản thu nhập hợp pháp khác. Mức cao nhất được trừ vào lương, trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp mất sức là 50%. Đối với những khoản thu nhập khác, thì mức trừ căn cứ vào thu nhập thực tế, nhưng phải bảo đảm điều kiện sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án. Quyết định của chấp hành viên về trừ vào thu nhập được gửi cho người được thi hành án, người phải thi hành án, thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người phải thi hành án làm việc hoặc nhận thu nhập. Cơ quan, tổ chức, đơn vị nói trên có nghĩa vụ chuyển cho người được thi hành án số tiền được trừ vào thu nhập của người phải thi hành án và báo cho chấp hành viên đã ra quyết định đó biết. Khi người phải thi hành án chuyển đến ở nơi khác, thì nơi trả thu nhập cho người đó phải chuyển quyết định của chấp hành viên đến nơi mới và báo cho chấp hành viên ra quyết định biết. Nơi trả thu nhập mới của người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành quyết định về việc trừ vào thu nhập của người đó.

+ Ngoài ra, các biện pháp cưỡng chế như cưỡng chế giao đồ vật, cưỡng chế chấm dứt hành vi trái pháp luật... cũng có thể được áp dụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của trẻ em.

Trên thực tế việc thi hành các chế tài dân sự, lao động, hôn nhân gia đình liên quan đến lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em chủ yếu tập trung vào các vụ án ly hôn và các quan hệ tài sản, con cái phát sinh từ quan hệ hôn nhân gia đình. Trong đó phần lớn các em đều là nạn nhân của các vụ án này.

Theo thống kê của Uỷ ban BVCSGDTE thì các tranh chấp về tiền cấp dưỡng cho con, tranh chấp về con đẻ, con nuôi… xảy ra khá phổ biến. Chỉ tính riêng năm 2000 số vụ án mà Toà án phải thụ lý liên quan đến tiền cấp dưỡng cho trẻ em là 593 vụ (chiếm 19,61% tổng số vụ án tranh chấp về tài sản và con cái); số vụ án về truy nhận cha, mẹ cho con là 536 (chiếm 17,72%); Tranh chấp về con đẻ, con nuôi là 814 vụ (chiếm 26,92%); tranh chấp tài sản là 1081 vụ (chiếm 35,75%). Nhìn chung việc tổ chức thi hành đối với các loại án này các cơ quan thi hành án dân sự đã tiến hành theo đúng luật định. Trong việc thi hành các loại án này các cơ quan thi hành án luôn xác định quyền lợi của trẻ em trong các vụ án luôn được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều vụ án các đương sự không tự nguyện thi hành (như không giao nhận con, không cấp dưỡng hoặc cấp dưỡng không đủ…), các biện pháp cưỡng chế thi hành đối với các loại án này lại chưa được quy định cụ thể trong pháp luật, nên các cơ quan thi hành án mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp song rất ít có hiệu quả.

Bảng số 3: Các vụ án về ly hôn, huỷ hôn nhân trái pháp luật năm 2000

 

Thụ lý

Xét xử

Trẻ em dưới 16 tuổi trong các vụ án

Số vụ

Tỷ lệ(%)

Số vụ

Tỷ lệ(%)

Tổng số

Tỷ lệ(%)

Tảo hôn

255

0,50

215

0,48

1489

4,79

Cưỡng bức kết hôn

58

0,11

46

0,10

396

1,27

Mâu thuẫn gia đình

29372

57,19

25180

56,74

8700

28,01

Bệnh tật, không có con

660

1,29

628

1,42

   

Mâu thuẫn về kinh tế

1323

2,58

1163

2,62

407

1,31

Một bên mất tích, ở nước ngoài

2534

4,93

2097

4,73

904

2,91

Nguyên nhân khác

17159

33,41

15048

33,91

19167

61,70

Tổng số

51361

100,00

44377

100,00

31063

100,00

Bảng số 4: Tổng số vụ tranh chấp về tài sản và con cái năm 2000.

Thụ lý

Xét xử

Trẻ em dưới 16 tuổi trong các vụ án

Số vụ

Tỷ lệ(%)

Số vụ

Tỷ lệ(%)

Tổng số

Tỷ lệ (%)

Tiền cấp dưỡng cho vợ, con

593

19,61

456

20,35

594

31,25

Truy nhận cha, mẹ cho con

536

17,72

356

15,89

483

25,41

Tranh chấp về con đẻ, con nuôi

814

26,92

688

30,70

824

43,35

Tranh chấp về tài sản

1081

35,75

741

33,07

   

Tổng cộng

3024

100,00

2241

100,00

1901

100,00

4.1.2. Thực trạng thi hành các bản án, quyết định của Toà án và quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trẻ em làm trái pháp luật

Việc phân loại các trách nhiệm pháp lý của trẻ em trong quá trình thi hành án có ý nghĩa rất quan trọng. Xét ở góc độ nghiên cứu, cách phân nhóm để nghiên cứu về hoạt động thi hành các bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật của các em được nghiêm cứu theo nhiều tiêu chí khác nhau().

Tuy nhiên, với mục đích nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục, giúp đỡ trẻ em sớm hoà nhập cộng đồng, chúng tôi cho rằng, cần nghiên cứu quá trình thi hành án đối với trẻ em làm trái pháp luật căn cứ vào tính chất của từng loại án phải thi hành. Cách phân loại này chủ yếu dựa vào môi trường giáo dục (thi hành án) đối với các em. Căn cứ vào tính chất này dưới đây chúng tôi đề cấp đến công tác thi hành án đối với trẻ em làm trái pháp luật theo các nhóm sau:

- Thi hành án phạt tù có thời hạn (cách ly các em khỏi xã hội với môi trường giáo dục nghiêm khắc nhất);

- Thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng (cách ly các em khỏi xã hội với môi trường giáo dục nghiêm khắc);

- Thi hành các chế tài pháp lý khác không cách ly các em khỏi môi trường cộng đồng (bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, án treo, cải tạo không giam giữ, giáo dục tại xã phường, thị trấn, bồi thường thiệt hại và các biện pháp hành chính khác);

4.1.2.1. Thi hành án phạt tù có thời hạn

Các văn bản pháp luật quy định về thi hành án phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên được quy định cụ thể tại Chương X Bộ luật hình sự 1999, Chương XXXI Bộ luật tố tụng hình sự 1988 (được sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992 và 2000), Pháp lệnh thi hành án phạt tù 1993, Nghị định số 60/CP ngày 16/09/1993 của Chính phủ ban hành Quy chế trại giam, Nghị định số 60/2001/NĐ-CP ngày 04/09/2001 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Điều 3 Quy chế trại giam và các văn bản hướng dẫn thi hành của các Bộ, ngành liên quan.

Theo các văn bản này thì mức án tù tối đa với người chưa thành niên từ 14 tuổi đến 16 tuổi là 12 năm tù, đối với người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là 18 năm tù. Không áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình (Điều 74BLHS). Phạm nhân là người chưa thành niên được giam giữ riêng (thuộc trại giam loại 3) theo chế độ quản lý, giáo dục, lao động, học tập và sinh hoạt phù hợp với giới tính và lứa tuổi (Điều 10, 13 Pháp lệnh thi hành án phạt tù). Phạm nhân là người chưa thành niên được phổ cập tiểu học, việc dạy nghề cho phạm nhân chưa thành niên là bắt buộc, các chế độ về thăm gặp, nhận, giử thư, quà... được ưu đãi hơn so với các phạm nhân đã thành niên (Nghị định số 60/CP). Thời hạn xét miễn giảm án giam của trẻ ngắn hơn so với tù nhân là người lớn có cùng mức án và mức xét miễn giảm cũng cao hơn (Điều 76BLHS).

Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì tình hình tội phạm cũng có chiều hướng gia tăng. Trong đó, số trẻ em vi phạm pháp luật hình sự cũng tăng khá nhanh. Số trẻ em phạm các tội rất nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm chiếm tỷ lệ khá lớn. Do đó, số trẻ em phải chấp hành án phạt tù cũng khá cao. Qua đợt khảo sát vào đầu năm 2000 đối với 1115 phạm nhân khi phạm tội là người chưa thành niên tại 4 trại giam: trại giam số 5, trại giam Thủ Đức, trại giam An Phước và trại giam Châu Bình cho thấy rõ điều này: có 159 em phạm tội giết người (chiếm 14,26%), Cướp tài sản 305 em (chiếm 27,35%), trộm cắp tài sản công dân 219 em (chiếm 19,64%), buôn bán các chất ma tuý 98 em (chiếm 8,79%), hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em 57 em (chiếm 5,11%)... Phần lớn các em phạm tội đều sống trong các môi trường không lành mạnh, thiếu sự quan tâm của gia đình và các đoàn thể cơ sở. Qua khảo sát 182 em đang thi hành án tại các trại giam trên cho thấy tỷ lệ các em phạm tội có trình độ học vấn khá thấp (xem bảng thống kê).

 

Bảng số 5: Trình độ học vấn của trẻ em trước khi phạm tội

Trình độ học vấn

số lượng

tỷ lệ %

Mù chữ

19

10,44

Từ lớp 1 đến lớp 3

44

24,18

Từ lớp 4 đến lớp 5

33

18,13

Từ lớp 6 đến lớp 7

83

45,60

Từ lớp 8 đến lớp 11

3

1,65

Cộng

182

100

Tình hình trên cho thấy, công tác thi hành án phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội khá phức tạp. So với việc thi hành án phạt tù bình thường, thì công tác thi hành án phạt tù đối với người chưa thành niên lại cần đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu kỹ các thông số về người phạm tội (về tội phạm, tính chất phạm tội, nhân thân người phạm tội,về tâm sinh lý lứa tuổi, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội...) để từ đó đưa ra các biện pháp quản lý, giáo dục thích hợp, giúp đỡ các em sớm hoà nhập cộng đồng.

Theo các văn bản pháp luật hiện hành về thi hành án phạt tù thì người chưa thành niên bị kết án tù thì phải được học văn hoá hoặc học nghề để khi mãn hạn trẻ có thể nhanh chóng hoà nhập với cộng đồng. Qua các cuộc khảo sát của Dự án tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên ở một số cơ sở giam giữ cải tạo phạm nhân có phạm nhân là người chưa thành niên tại cả miền Bắc và miền Nam cho thấy trong thời gian ở tù người chưa thành niên cũng phải thực hiện việc lao động cải tạo song được bố trí các công việc nhẹ hơn và có tính chất hướng nghiệp. Trên thực tế, mặc dù Nhà nước ta và Ban giám thị các trại giam đã có nhiều cố gắng song do điều kiện vật chất của các cơ sở giam giữ cải tạo còn hạn chế nên việc giam riêng người chưa thành niên bị phạt tù nhìn chung chưa được thực hiện. Ngoài ra, cũng cần tính đến thực tế là khi một số trại giam cố gắng tách riêng đối tượng người chưa thành niên bị án tù ra giam riêng với nhau thì ngay lập tức xuất hiện tình trạng "đầu gấu" và đánh lộn dữ dội phải kiểm soát chặt chẽ rất khó khăn và kém hiệu quả thậm chí gây nên tội phạm mới ngay trong trại giam. Do đó một số trại giam đã chọn giải pháp giam chung một số tù nhân đã thành niên không có tiền án, tiền sự, có trình độ văn hoá với tù nhân là người người chưa thành niên để những người này trực tiếp bảo ban và ổn định trật tự trong buồng giam, coi đây là một biện pháp mang tính chủ động. Thực tế cho thấy phương pháp này phần nào đã đem lại hiệu quả cho việc quản lý tù nhân. Việc học văn hoá nhìn chung đã được thực hiện đầy đủ cho tù nhân là người chưa thành niên trong các trại giam theo chương trình rút gọn chỉ tập trung vào một số môn cơ bản. Tuy nhiên việc học nghề hiện nay vẫn còn hết sức khó khăn do thiếu trang thiết bị để học và thực hành nghề. Đa phần các trại giam mới chỉ lo được việc kiếm việc làm (chủ yếu là lao động thủ công như đóng gạch, phụ xây, đào hồ ao...) và các hoạt động tăng gia sản xuất mang tính chất tự cấp tự túc trong bản thân trại giam như nuôi lợn, trồng rau, làm vườn... mà chưa thực hiện được việc đào tạo nghề một cách thích hợp. Khảo sát năm 2000 tại các trại giam số 5, Châu Bình và An phước cho thấy số người chưa thành niên đang chấp hành hình phạt tù chưa được học nghề, việc lao động tại các trại này chủ yếu là lao động giản đơn (trồng trọt, chăn nuôi, bóc hạt điều, dệt chiếu, phụ xây dựng). Tại trại Thủ Đức người chưa thành niên được bố trí học nghề mộc, khâu nón, may gia công.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh thi hành án phạt tù thì trong thời gian thi hành hình phạt, phạm nhân là người chưa thành niên được hưởng nhiều ưu đãi về chế độ thăm nuôi cũng như việc miễn giảm, tha tù trước thời hạn. Khảo sát của Dự án tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại Việt Nam ở một số trại giam, phân trại cải tạo cho thấy ngoài việc được hưởng chế độ chăm sóc theo đúng quy định và khả năng hiện hành của Nhà nước (từ định suất ăn hàng bữa, tới đồ dùng cá nhân, điều kiện vệ sinh và giải trí...), phạm nhân là người chưa thành niên được cho phép thăm nuôi khá thoải mái. Qua khảo sát trên 60 trường hợp người chưa thành niên đang thi hành án phạt tù tại 3 trại giam, cho thấy không có ý kiến gì phàn nàn về vấn đề thăm nuôi. Vấn đề miễn giảm án cũng được thực hiện rất tốt. Trong số phạm nhân là người chưa thành niên được Dự án phỏng vấn nói trên có trên 1/3 đã được hoặc đang được xét giảm, một số đối tượng đã được xét giảm tới 2 lần. Thực tế giam giữ cải tạo phạm nhân cũng cho thấy rằng nhìn chung, cho đến nay chưa có trường hợp tù nhân là người chưa thành niên nào phải chấp hành hết thời hạn tuyên phạt ban đầu (nếu không phạm tội mới trong quá trình cải tạo) mà thường được xét miễn, giảm, tha tù trước thời hạn.

Cũng theo quy định của Pháp lệnh thi hành án phạt tù thì trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù mà người chưa thành niên đủ 18 tuổi thì được chuyển sang chế độ giam giữ tù nhân đã thành niên. Khi chấp hành xong hình phạt tù (và ra trường giáo dưỡng nếu bị tuyên án đưa vào trường giáo dưỡng), ban giám thị trại giam (hoặc Ban giám hiệu trường giáo dưỡng) phải phối hợp với chính quyền xã, phường và tổ chức xã hội ở địa phương giúp đỡ người chưa thành niên trở về hoà nhập với cộng đồng, tạo cho họ cơ hội có công ăn việc làm hoặc tham gia các hoạt động xã hội sớm hoàn lương đồng thời khắc phục nguyên nhân và điều kiện dẫn họ đến việc phạm tội.

Để tìm hiểu rõ hơn về thực tế chấp hành hình phạt hình sự của người chưa thành niên phạm tội, dưới đây chúng tôi xin trình bày thêm một số số liệu thực tiễn về tình hình thi hành án phạt tù đối đối với người chưa thành niên là can phạm tại các trại giam trong một số năm vừa qua.

Bảng 6: Thống kê số lượng người chưa thành niên phạm pháp hình sự phải phạt tù tính theo mức án tuyên

 

Nam

(Tính theo mức phạt tù)

Nữ

(Tính theo mức phạt tù)

Trên 10 năm

Từ 5 –10 năm

Từ 2 – <5 năm

Dưới 2 năm

Trên 10 năm

Từ 5 – 10 năm

Từ 2 – <5 năm

Dưới 2 năm

1982

1985

1990

1994

1995

1996

116

109

147

279

333

406

15

2

3

2

25

16

19

2

3

2

25

16

47

49

41

53

 

167

31

42

81

111

126

182

 

3

 

90

 

 

 

 

 

 

 

2

2

1

 

1

1

 

2

 

3

 

1

2

 

Bảng 7: Thống kê theo một số tiêu chí về điều kiện đối xử với

người chưa thành niên bị phạt giam

 

 

Năm

Phạm tội mới hoặc trốn trại

Được giảm án trước thời hạn

Được học nghề, học văn hoá

Được giam riêng

1982

1985

1990

1994

1995

1996

 

 

1

 

 

3

39

14

36

58

 

21

36

41

69

103

112

128

3

1

21

16

18

79

 

Bảng số 8: Tổng số trẻ em trong các trại giam()

 

 

 

Tổng số người chưa thành niên đang chấp hành hình phạt tù

1997

1998

1999

2000

2427

685

354

920

468

 

Từ việc phân tích các số liệu nói trên, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét về thực tiễn áp dụng thi hành án phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội hình sự như sau:

- Số lượng người chưa thành niên phải chấp hành hình phạt tù tăng nhanh. Chỉ tính riêng giữa năm 1995 và năm 1994 tỷ lệ tăng là 19,35%, con số tương tự cho năm 1996 và 1995 là 22%. Mức tăng này cao hơn nhiều so với mức tăng tù nhân là người thành niên.

- Việc giam riêng trên thực tế còn đạt tỷ lệ tương đối thấp. Theo thống kê sơ bộ trong thời gian 1995, 1996 và 6 tháng đầu 1997 có 173/953 tù nhân là người chưa thành niên được giam riêng đạt tỷ lệ 18,1%.

- Tỷ lệ tù nhân chưa thành niên là nam giới cao gấp nhiều lần so với tỷ lệ tù nhân chưa thành niên là nữ giới. Trong thời gian từ 1994 đến hết 6 tháng đầu 1997 có 1122 tù nhân là người chưa thành niên trong khi chỉ có 110 tù nhân chưa thành niên là nữ chiếm tỷ lệ 91,08%/8,92%.

- Mức hình phạt tù đối với tù nhân là người chưa thành niên chủ yếu là mức thấp (dưới 2 năm). Tuy nhiên, số lượng bị phạt tù ở mức cao cũng rất đáng kể. Trong thời gian từ 1994 đến hết 6 tháng đầu 1997 có 497 tù nhân người chưa thành niên bị phạt tù giam dưới 2 năm, chiếm tỷ lệ 40,34% trên tổng số tù nhân. Tuy nhiên chỉ tính riêng trong số tù nhân người chưa thành niên là nam giới đã có 53 người bị tuyên phạt trên 10 năm tù giam trên tổng số tù nhân chưa thành niên là nam giới trong thời gian đó là 1130 người chiếm tỷ lệ 4,6%. Nếu xem xét rằng hình phạt tù trên 10 năm là loại hình phạt hình sự nặng nhất có thể tuyên với bị cáo là người chưa thành niên (tương đương với loại hình phạt tử hình tù chung thân, tù 20 năm đối với bị cáo là người đã thành niên) thì có thể nói rằng đây là một tỷ lệ khá cao. Khảo sát năm 2000 đối với 1586 phạm nhân là người chưa thành niên tại các trại giam số 5, Thủ Đức, An phước, Châu Bình cũng cho thấy rõ điều này. Cụ thể là số phạm nhân bị kết án phạt tù dưới 5 năm là 813 người, từ 5 đến 9 năm là 475, từ 10 đến 18 năm là 298.

- Không có tình trạng đánh đập, ngược đãi người chưa thành niên đang chấp hành hình phạt, biện pháp giáo dục tại các cơ sở giáo dưỡng, cải tạo, an ninh trật tự trong cơ sở giáo dục cải tạo được đảm bảo tốt.

- Việc giảm án được tiến hành đúng quy định của pháp luật. Khảo sát điểm của Dự án tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên ở 2 cơ sở giam giữ cải tạo tại Hà Nội và Hà Tây cho thấy tất cả 100% các tù nhân người chưa thành niên đều có được cán bộ quản giáo thông báo về việc có thể được xét giảm án khi đến hạn. Vào thời điểm khi đoàn đến khảo sát (11/1997) có 1/5 trường hợp đến hạn được xét giảm lần đầu với mức giảm 3/24 tháng tù giam)

- Việc học tập, vui chơi giải trí của tù nhân là người chưa thành niên được cố gắng đảm bảo. Theo báo cáo do cơ quan công an tổng hợp chưa đầy đủ tại 30 tỉnh, thành phố thì tỷ lệ tù nhân là người chưa thành niên được học nghề, học văn hoá trong thời gian 1995, 1996 và 6 tháng đầu 1997 đạt 33,7%.

- Việc trốn trại hoặc phạm tội ngay trong thời gian bị tù của tù nhân là người chưa thành niên chỉ ở mức cá biệt. Tính chung cho năm 1995, 1996 và 6 tháng đầu 1997 con số này chỉ là 4 trường hợp, chiếm 0,4 %

4.1.2.2. Thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng

Đưa vào trường giáo dưỡng vừa là chế tài hình sự vừa là chế tài hành chính. (i) Với tính chất là chế tài hình sự đưa vào trường giáo dưỡng được coi là biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự và Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Theo các văn bản này thì người chưa thành niên phạm tội, nếu do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ thì Toà án áp dụng biện pháp này đối với người chưa thành niên pham tội với thời hạn từ 1 năm đến 2 năm. (ii) Còn biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng với tính chất là chế tài hành chính được áp dụng đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính được quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995 và Nghị định số 33/CP ngày 14/04/1997 của Chính phủ ban hành Quy chế về trường giáo dưỡng. (xem phần "Chế tài hành chính" trong phần các chuyên đề nghiên cứu).

Như vậy, đây là 1 biện pháp được áp dụng với các hành vi vi phạm với tính chất và mức độ vi phạm khác nhau. Một là do Toà án tuyên, một là do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định. Do vậy thủ tục thi hành biện pháp này ở mức độ khác nhau cũng khác nhau (thủ tục thi hành biện pháp hành chính đưa vào trường giáo dưỡng được quy định tại Nghị định số 33/CP ngày 14/4/1997 còn thủ tục thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng được thực hiện theo Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001). Tuy nhiên người chưa thành niên trong cả 2 trường hợp này đều chấp hành biện pháp giáo dưỡng tại cùng một nơi và họ được hưởng các chế độ quản lý, ăn ở, sinh hoạt, lao động, học tập, khen thưởng, kỷ luật như nhau (đối với người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thì có thể được xét khen thưởng bằng hình thức cho nghỉ phép 5 ngày về thăm gia đình, còn người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng thì không được hưởng chế độ này).

Các trường giáo dưỡng được chia thành 2 loại: loại dành cho trẻ từ 12 đến 15 tuổi (tương đương với lứa tuổi học trung học cơ sở) và loại dành cho trẻ từ 15 đến 18 tuổi (tương đương với lứa tuổi học trung học phổ thông). Tuy nhiên trên thực tế tại các trường giáo dưỡng hiện nay đều có người chưa thành niên thuộc cả 2 độ tuổi nói trên. Thông thường, tại các trường giáo dưỡng, trẻ vi phạm được tiếp tục học văn hóa, được giáo dục để nhận thức rõ hơn về pháp luật và trẻ ở lứa tuổi 15-18 còn được học nghề để sau này khi ra trường tái hoà nhập với xã hội, trẻ đã được chuẩn bị để có thể tự mình kiếm sống, không quay trở lại con đường vi phạm pháp luật. Thời hạn đưa vào trường giáo dưỡng là từ sáu tháng đến hai năm. (Qua khảo sát thực tế tại 3 trường giáo dưỡng số 3, 4, 5 (thuộc V26 – Bộ công an quản lý) cho thấy tỷ lệ trẻ em phải áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng có xu hướng ngày càng cao, với nhiều lứa tuổi khác nhau, tính chất vi phạm pháp luật đa dạng, trong đó có nhiều em phạm các tội hình sự rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng như các tội giết người, cướp của, hiếp dâm... trước khi các em vào trường đều có trình độ học vấn khá thấp (xem chuyên đề "Thi hành các bản án và quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, thực trạng - nguyên nhân - giải pháp").

Đánh giá khái quát thực tiễn thi hành biện pháp giáo dưỡng cho thấy các trường đều có những cố gắng khắc phục khó khăn, thực hiện tốt việc quản lý chăm sóc, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của các em. Điều này thể hiện ở một số mặt chủ yếu:

- Về quản lý các trường đều đã cố gắng củng cố cơ sở vật chất, tiếp nhận và quản lý học sinh, kỷ cương trong nhà trường được ổn định.

- Nhà trường đã tạo điều kiện cho các em được học tập theo đúng quy định của nhà nước, bảo đảo sự phát triển cả về thể chất và tinh thần. Hầu hết các trường đều đã tổ chức được các lớp học văn hoá từ lớp 1 đến lớp 9 theo nội dung và chương trình giáo dục của nhà nước.

- Các hoạt động văn hoá, thể thao đã được các trường quan tâm đúng mức, nhiều hoạt động văn hoá như Hội thi tiếng hát tình thương, Giải bóng đá mini, các hoạt động giao lưu văn hoá... đã được các trường tổ chức tốt, tạo được sự tin tưởng và đồng tình của dư luận và gia đình các em.

- Các chế độ chính sách, ăn, ở, phòng chữa bệnh, cai nghiện đã được các nhà trường quan tâm thường xuyên. Ngoài tiêu chuẩn ăn hàng tháng các em còn được bồi dưỡng ăn thêm. Việc động viên, khen thưởng, giảm thời hạn giáo dưỡng đã được thực hiện khá tốt (từ năm 1996-2000 các trường giáo dưỡng đã khen thưởng cho 8742 em và đề nghị xét giảm cho 1714 em).

4.1.2.3. Thi hành các chế tài pháp lý khác không cách ly các em khỏi môi trường cộng đồng

Các chế tài pháp lý không cách ly các em ra khỏi xã hội bao gồm:

- Các chế tài xử lý hành chính: cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính; Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hoặc buộc tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép; Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan dịch bệnh do hành vi vi phạm gây ra; Buộc bồi thường thiệt hại đến 1.000.000 đồng; Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, văn hóa phẩm độc hại; Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

Trong số các biện pháp được liệt kê, cảnh cáo và phạt tiền là hai hình thức xử phạt chính. Tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật là các biện pháp bổ sung có thể được áp dụng song song với các biện pháp chính. Ngoài ra, các biện pháp còn lại được đặt ra để khắc phục nguyên nhân và hậu quả của hành vi vi phạm hành chính.

- Các chế tài xử lý hình sự: cảnh cáo, phạt tiền, án treo, cải tạo không giam giữ, giáo dục tại xã phường, thị trấn, bồi thường thiệt hại;

Trình tự, thủ tục, thẩm quyền và tính chất của các biện pháp này đã được đề cập kỹ tại các phần trên. Trong chuyên đề này chúng tôi chỉ đề cập đến việc tổ chức thi hành các biện pháp này. Tuy có những điểm khác nhau nhất định, song việc tổ chức thi hành các biện pháp này đều khá giống nhau. Người bị áp dụng các biện pháp kể trên (dù là chế tài hành chính hay chế tài hình sự) đều được thi hành ngay tại cộng đồng xã hội mà không cần thiết phải có một biện pháp cách ly nào.

Căn cứ vào việc tổ chức thi hành có thể phân làm 2 loại:

- Các chế tài được tổ chức thi hành trong thời gian ngắn:

- Các biện pháp được tổ chức thi hành trong thời gian dài

a. Các chế tài được tổ chức thi hành trong thời gian ngắn

Bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, bồi thường thiệt hại (cả trong xử phạt hành, bản án hình sự, dân sự) tước quyền sử dụng giấy phép; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính; Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hoặc buộc tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép; Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan dịch bệnh do hành vi vi phạm gây ra; buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, văn hóa phẩm độc hại.

Đây là các biện pháp do các cơ quan xử lý vi phạm hành chính (UBND, Công an...) Toà án hoặc cơ quan thi hành án dân sự thực hiện.

Trên thực tế, trong số các biện pháp kể trên chỉ có biện pháp phạt tiền (cả hình sự và hành chính) là biện pháp thường được áp dụng đối với người chưa thành niên. Các biện pháp còn lại rất ít khi được áp dụng với người chưa thành niên. Riêng hình phạt cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong các chế tài hình sự thường được áp dụng với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng những chưa được miễn trách nhiệm hình sự. Thủ tục thực hiện hình phạt này là tuyên án tại toà và thông báo về địa phương.

Việc tổ chức thi hành các chế tài này cũng tuân theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về cơ bản, trình tự, thủ tục tổ chức thi hành cũng giống như đối với người lớn (xem mục....). Tuy nhiên, việc tổ chức thi hành các chế tài hành chính đối với trẻ em cũng có một số khác biệt sau:

- Trên thực tế, với đối tượng trẻ em, vi phạm hành chính thường xảy ra nhất là trong các lĩnh vực trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông và một số tệ nạn xã hội. Ví dụ hành vi thả diều, bóng bay ở khu vực hành lang bảo vệ đường dây tải điện; gây rối trật tự công công mà có mang theo vũ khí thô sơ như dao, lê, mã tấu, côn, xích; đánh bạc; nghiện hút,... hoặc trẻ em dưới 16 tuổi điều khiển xe mô tô, xích lô máy; đi xe vào đường cấm hoặc đường ngược chiều; đèo quá 2 người,...

- Trong nhiều trường hợp, trẻ em thực hiện các hành vi vi phạm hành chính là do không hiểu biết hoặc do tính bột phát nhất thời hay a dua theo những đối tượng xấu. Vì vậy, việc xử lý các hành vi vi phạm hành chính của trẻ em chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ các em nhận rõ hành vi sai trái của mình cũng như hậu quả của chúng, đồng thời nhắc nhở các em không tái phạm trong những trường hợp tương tự về sau.

Do đặc thù các vi phạm hành chính bị xử phạt rất đa dạng, diễn ra hàng ngày và có nhiều cơ quan có thẩm quyền xử lý (kể cả với đối tượng vi phạm là người lớn và người chưa thành niên) nên trên thực tế không thể thu thập số liệu chính xác tuyệt đối về số lượng người chưa thành niên bị xử phạt hành chính. Theo thống kê của Uỷ ban BVCSGDTE thì tổng số trẻ em làm trái pháp luật trong năm 1999 là14346 và năm 2000 là 11538 em. Đây là một tỷ lệ khá lớn với độ tuổi vi phạm khá đa dạng (từ dưới 12 tuổi đến dưới 18 tuổi) trong phần lớn các em đều có trình độ học vấn phần lớn là tiểu học và phổ thông cơ sở. Đặc biệt tỷ lệ các em không biết chữ vi phạm khá lớn (năm 1999 là 9,49% so với tổng số em vi phạm. Năm 2000 con số này tăng lên là 11,01%).

Tham khảo số liệu thống kê (chưa đầy đủ) của Dự án tăng cường năng lực pháp luật người chưa thành niên do Bộ Tư pháp phối hợp với Uỷ ban BVCSGDTE thực hiện năm 1998 cho thấy các hành vi vi phạm pháp luật hành chính của các em bị xử lý bằng hình thức phạt tiền là khá cao. Cụ thể là:

Bảng 16: thống kê số lượng người chưa thành niên

làm trái pháp luật bị phạt tiền

 

Nam

Nữ

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

1982

1985

1990

1994

1995

1996

31

17

112

118

342

507

106

99

292

503

910

1279

158

224

618

864

1630

2465

3

6

37

59

163

250

18

21

97

121

253

359

33

30

52

77

231

358

 

Bảng 17: Thống kê số lượng người chưa thành niên

làm trái pháp luật bị phạt tiển từ lần thứ 2 trở lên

 

 

Lần 1

(Số người)

 

Lần 2

(Số người)

 

Lần 3

(Số người)

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

1982

1985

1990

1994

1995

1996

18

24

34

68

287

532

58

54

141

275

799

1069

84

109

224

497

1054

1895

1

1

8

15

38

39

5

6

25

53

94

118

11

11

35

130

124

171

3

0

2

4

15

21

0

1

0

14

22

16

3

0

9

12

31

65

 

Từ việc phân tích các số liệu nói trên, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét về thực tiễn áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật như sau:

- Việc áp dụng biện các biện pháp xử phạt hành chính đối với người chưa thành niên làm trái pháp luật ngày càng tăng, Trong những năm qua, do những biến đổi trong đời sống kinh tế và đặc biệt là đời sống xã hội, số lượng trẻ em vi phạm hành chính tăng lên một cách đáng kể. Song song với sự gia tăng về vi phạm hành chính, số vụ xử lý hành chính đối với trẻ em làm trái pháp luật cũng tăng ở mức độ tương ứng.

- Hình thức xử lý hành chính đối với trẻ em vi phạm pháp luật hành chính rất đa dạng. Mặc dù chúng tôi chỉ nêu lên vài con số thống kê đối với hình thức xử phạt tiền song trên thực tế việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đối với người chưa thành niên cũng được áp dụng rất nhiều trong đó có cảnh cáo, tịch thu phương tiện, công cụ dùng để vi phạm, buộc phải khôi phục tình trạng bị vi phạm (lao động cưỡng bức)....

- Độ tuổi vi phạm hành chính chủ yếu là ở độ tuổi từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo thống kê của Uỷ ban BVCSGDTE thì trong tổng số các em vi phạm pháp luật (năm 1999 là 14346 năm 2000 là 11538 em) thì tỷ lệ các em vi phạm hành chính ở độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi năm 1999 là 53,32% và năm 2000 là 48,08%. Tiếp đó là độ tuổi từ 14 đến dưới 16 (năm 1999 là 33,44% và năm 2000 là 35,89%).

Điều này cho thấy xu hướng phạm pháp của người chưa thành niên tuy chủ yếu vẫn rơi vào các lứa tuổi gần trưởng thành song tính chất nghiêm trọng thì đã sớm xuất hiện khá phổ biến ngay trong các lứa tuối còn nhỏ (Bên cạnh đó, báo cáo nghiên cứu điểm của khoa Phụ nữ trường Đại học mở bán công thành phố Hồ Chí Minh cho thấy lần đầu tiên các em có hành vi vi phạm pháp luật (thường là vi phạm hành chính hoặc có dấu hiệu hình sự nhưng chỉ bị xử lý hành chính) là khi các em mới ở độ tuổi khoảng 12, 13 tuổi. Độ tuổi khi phạm pháp lần đầu giữa nam và nữ không có sự chệnh lệch lớn (nam: 12,87 - nữ 12,92). Tuy nhiên các trẻ em thuộc các gia đình nghèo có xu hướng phạm tội sớm hơn).

 

b. Các biện pháp được tổ chức thi hành trong thời gian dài

Các biện pháp này gồm: án treo, cải tạo không giam giữ, giáo dục tại xã phường, thị trấn. Trong đó, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn vừa được áp dụng là biện pháp xử lý hành chính vừa được áp dụng với tư cách là biện pháp tư pháp.

Các biện pháp này dù là hành chính hay hình sự đều được thi hành tại cộng đồng nơi người bị kết án (bị xử lý hành chính) cư trú. Họ phải chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ lao động, học tập, tuân thủ pháp luật dưới sự giám sát chặt chẽ của chính quyền xã, phường, thị trấn và gia đình, nhà trường.

Trình tự, thủ tục thi hành biện pháp án treo, cải tạo không giam giữ đối với trẻ em cũng tương tự như đối với người lớn và cùng được quy định tại Nghị định số 60/2000/NĐ-CP và Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000.

Trình tự, thủ tục thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật (xử lý hành chính) được quy định tại Nghị định số 19/CP ngày 06/4/1996. Trình tự, thủ tục thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000. Về cơ bản, việc giám sát, giáo dục người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp này chặt chẽ hơn so với người chưa thành niên vi phạm hành chính. Cụ thể là:

(i) Đối với người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Khi xét xử, nếu xét thấy không cần phải áp dụng hình phạt với bị cáo là người chưa thành niên thì toà án có thể áp dụng các biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Theo quy định tại Điều 70 BLHS và Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội thì biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do Toà án quyết định đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng nhằm tạo điều kiện cho người đó lao động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giúp đỡ của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, tổ chức xã hội và gia đình.

Thời hạn áp dụng biện pháp này là từ 1 năm đến 2 năm, khi người chưa thành niên phạm tội đã chấp hành được một phần hai thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn và có nhiều tiến bộ, thì có thể được Toà án ra quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại Khoản 4 Điều 70 của Bộ Luật Hình sự.

Việc thực hiện biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì với tinh thần trách nhiệm và tình thương đối với người chưa thành niên phạm tội.

- Trong thời gian chấp hành biện pháp này, người chưa thành niên phạm tội có các nghĩa vụ như: chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước; tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân và quy ước của thôn, làng, ấp, bản, cụm dân cư nơi mình cư trú; làm bản cam kết và thực hiện nghiêm chỉnh bản cam kết của mình, tích cực sửa chữa lỗi lầm; học tập, làm ăn lương thiện và tham gia các hoạt động chung tại cộng đồng dân cư nơi mình cư trú. Làm bản tự kiểm điểm về quá trình rèn luyện, tu dưỡng của mình gửi Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc người đứng đầu tổ chức được giao giám sát, giáo dục khi đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách. Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người được giao giám sát, giáo dục về kết quả rèn luyện, tu dưỡng của mình; trong trường hợp đi khỏi nơi cư trú trên 30 ngày, thì báo cáo và trong thời gian tạm trú phải có nhận xét của cảnh sát khu vực hoặc công an xã nơi người chưa thành niên phạm tội đến tạm trú.

Nghị định 59/2000/NĐ-CP cũng quy định khá rõ quyền của người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn như: không bị phân biệt đối xử vì lỗi lầm đã phạm, được giúp đỡ để tham gia lao động, học tập tại nơi cư trú; được tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí tại cộng đồng như mọi công dân khác, đề nghị ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục làm thủ tục đề nghị Toà án nhân dân cấp huyện nơi mình cư trú ra quyết định chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn...

- Nghị định 59/2000/NĐ-CP cũng quy đinh khá rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của gia đình, nhà trường, chính quyền cơ sở, tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục người chưa thành niên. Cụ thể là:

+ Gia đình của người chưa thành niên phạm tội có trách nhiệm: làm bản cam kết với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục về việc quản lý, giáo dục người chưa thành niên phạm tội. Thực hiện việc bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên phạm tội gây ra (đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì chỉ bồi thường khi người đó không có đủ tài sản để bồi thường); quan tâm, gần gũi và có biện pháp cụ thể giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội nhận rõ lỗi lầm của mình, tích cực sửa chữa, không vi phạm pháp luật; kịp thời nhắc nhở, góp ý khi người đó có hành vi sai trái; chia sẻ, cảm thông với những khó khăn, lỗi lầm của người chưa thành niên phạm tội nhằm giúp người đó xoá bỏ mặc cảm, sớm hoà nhập với cuộc sống chung của gia đình và cộng đồng; liên hệ với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục để có biện pháp phối hợp cụ thể trong việc giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội; báo cáo Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục về kết quả rèn luyện, tu dưỡng của người chưa thành niên phạm tội; tham dự các cuộc họp kiểm điểm của người chưa thành niên phạm tội.

+ Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục có trách nhiệm phân công người trực tiếp giám sát giáo dục người chưa thành niên phạm tội; tạo điều kiện giúp người chưa thành niên phạm tội học nghề, tìm việc làm để ổn định cuộc sống; phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan khác và gia đình người chưa thành niên phạm tội, trong việc giáo dục, cảm hoá giúp họ sửa chữa lỗi lầm; yêu cầu người chưa thành niên phạm tội thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình; có biện pháp ngăn ngừa, uốn nắn kịp thời khi người đó có biểu hiện tiêu cực và thông báo với cơ quan có thẩm quyền để xử lý khi cần thiết; kịp thời biểu dương khi người chưa thành niên phạm tội có tiến bộ, tích cực tham gia hoạt động xã hội hoặc lập công; xem xét, giải quyết cho người chưa thành niên phạm tội vắng mặt ở nơi cư trú; đề nghị hoặc theo đề nghị của người chưa thành niên phạm tội đề nghị Toà án cấp huyện nơi người đó đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ra quyết định chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp này khi người đó chấp hành được một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ; cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn cho người chưa thành niên phạm tội.

+ Người trực tiếp giám sát, giáo dục người chưa thành niên phạm tội có trách nhiệm đề xuất với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc người đứng đầu tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục có biện pháp cụ thể trong việc phối hợp với gia đình, nhà trường, đoàn thanh niên và các tổ chức hữu quan nơi người chưa thành niên phạm tội cư trú trong việc quản lý, giáo dục người đó; chủ động gặp gỡ người chưa thành niên phạm tội để tìm hiểu nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội, tâm tư nguyện vọng và giải thích, hướng dẫn người đó chấp hành tốt các nghĩa vụ của mình; phối hợp với cảnh sát khu vực hoặc công an xã, tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản nơi người chưa thành niên phạm tội cư trú để giám sát, giáo dục người đó; kịp thời thông báo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục để có biện pháp thích hợp ngăn ngừa, xử lý khi người chưa thành niên phạm tội có hành vi vi phạm pháp luật; báo cáo với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn của người chưa thành niên phạm tội khi có yêu cầu; lập hồ sơ theo dõi việc chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn của người chưa thành niên phạm tội.

(ii) Đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được áp dụng đối với người từ đủ 12 đến 18 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng quy định tại Bộ Luật Hình sự, nhưng xét nhân thân, hoàn cảnh gia đình của trẻ em đó chưa đến mức cần thiết phải đưa vào trường giáo dưỡng hoặc áp dụng đối với người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi càn quấy, trộm cắp vặt, cờ bạc, gây rối trật tự công cộng, đã được chính quyền và nhân dân địa phương giáo dục mà chưa chịu sửa chữa nhưng xét nhân thân, hoàn cảnh gia đình của trẻ em đó chưa đến mức phải đưa vào trường giáo dưỡng (chi tiết về thủ tục trình tự và phương thức áp dụng biện pháp này xem chuyên đề "Thi hành các bản án, quyết định của Toà án" trong phần các chuyên đề của đề tài.

Trên thực tế, biện pháp này đã được các cơ quan chức năng áp dụng khá hiệu quả nhằm giáo dục trẻ em vi phạm pháp luật. Qua tổng kết và báo cáo của các cơ quan chức năng (Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban BVCSGDTE và Bộ Công an) thì trong những năm gần đây để đối phó với tình hình trẻ em và người chưa thành niên phạm pháp ngày càng tăng, các biện pháp quản lý giáo dục tại cơ sở nói chung và biện pháp giáo dục tại cơ sở với ý nghĩa là một biện pháp xử lý hành chính nói riêng đã được áp dụng rất rộng rãi, chiếm phần lớn trong số các biện pháp xử lý trẻ em và người chưa thành niên phạm pháp. Tham khảo một số số liệu thống kê sơ bộ do cơ quan công an tổng hợp về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cơ sở đối với người chưa thành niên làm trái pháp luật tại 30 tỉnh, thành phố trong một số năm cụ thể trong giai đoạn từ 1982 - 1996 như sau:

 

Bảng 18: Thống kê việc áp dụng

biện pháp giáo dục tại cơ sở trong một số năm

 

Nam

Nữ

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

1982

1985

1990

1994

1995

1996

262

235

375

554

602

823

352

358

681

1.002

1.572

1.793

399

428

797

1.393

1.642

2.247

9

18

29

44

211

94

37

34

64

115

122

147

49

32

80

98

129

175

 

Bảng 19: Tỷ lệ người chưa thành niên làm trái pháp luật tái phạm sau khi đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cơ sở lần đầu

 

Lần 1

(Số người)

Lần 2

(Số người)

Lần 3

(Số người)

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

12-<14 tuổi

14-<16 tuổi

16-<18 tuổi

1982

1985

1990

1994

1995

1996

104

110

236

317

321

360

204

195

322

564

709

979

229

228

418

674

861

1182

17

39

59

81

94

200

37

38

98

174

226

363

46

41

91

217

314

391

13

7

17

33

34

57

8

5

23

49

94

144

8

3

4

71

93

155

Phân tích các số liệu nói trên kết hợp với một số số liệu khác, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét sau về tình hình áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật.

- Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cơ sở ngày càng tăng. Tuy nhiên, trong số các biện pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên làm trái pháp luật tại cơ sở thì chủ yếu là các biện pháp mang tính quản lý giáo dục thuần tuý do cơ quan công an và tổ dân phố thực hiện như công an gọi lên nhắc nhở, tổ dân phố họp kiểm điểm, công an lập biên bản và cảnh cáo (miệng hay bằng văn bản). Biện pháp giáo dục tại cơ sở mới chỉ đóng vai trò rất thấp và tại nhiều phường, xã, Uỷ ban nhân dân nhận thức chưa đúng về biện pháp này dẫn đến thụ động và kém hiệu quả trong việc áp dụng.

- Tỷ lệ người chưa thành niên là nam/nữ có sự khác biệt đáng kể. Trong 3 năm 1994, 1995, 1996 có 11628 người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cơ sở là nam giới, chiếm tỷ lệ 91,1% trên tổng số người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp này, con số tương tự cho người chưa thành niên là nữ là 1135 người chiếm tỷ lệ 8,9% trên tổng số người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp này. Tỷ lệ giữa nam và nữ là trên 10 lần.

- Tỷ lệ người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục ở cơ sở giữa các lứa tuổi có sự khác nhau rõ rệt trong đó độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi bị áp dụng biện pháp này nhiều nhất. Tuy nhiên một điều rất đáng lo ngại là lứa tuổi từ 14 đến 16 tuổi, lứa tuổi giao thời từ đối tượng trẻ em sang người lớn cũng chiếm tỷ lệ vi phạm bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cơ sở rất lớn. Thống kê của Bộ Công an cho thấy trong 3 năm 1994, 1995, 1996 có tổng cộng 4751 người chưa thành niên ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cơ sở, chiếm tỷ lệ 37,2 % trên tổng số người chưa thành niên bị áp dụng loại biện pháp này. Con số tương tự cho độ tuổi từ 12 đến dưới 14 là 2328 người, chiếm 18,2 % và đối với độ tuổi từ 16 đến dưới 18 là 5684 người, chiếm 44,5 %. Như vậy, tỷ lệ người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục ở cơ sở ở độ tuổi bằng 14-16 bằng 204 % so với số người chưa thành niên ở độ tuổi từ 12 đến dưới 14 cũng bị áp dụng biện pháp này và bằng 80 % số người chưa thành niên tương tự ở độ tuổi từ 16 đến dưới 18. Như vậy, có thể nói tỷ lệ người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục ở cơ sở tăng liên tục theo độ tuổi nhưng có sự đột biến đáng kể ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi

- Diện áp dụng loại biện pháp này về mặt địa lý rất rộng, các tỉnh, thành trên toàn quốc đều đã áp dụng biện pháp giáo dục tại cơ sở đối với người chưa thành niên làm trái pháp luật.

Từ phân tích trên cho thấy các biện pháp quản lý giáo dục tại cơ sở đối với trẻ em hư, trẻ em phạm pháp cần phải được mở rộng và tăng cường hiệu quả hơn nữa. Trong đó vai trò chính yếu không phải chỉ thuộc về các cơ quan chức năng tại địa phương như công an phường, chính quyền phường mà trước hết là của chính các tổ dân phố và cụm dân cư cơ sở. Nếu công tác này được thực hiện tốt sẽ góp phần quan trọng uốn nắn và phục hồi các nhân cách còn non trẻ, trả về cho xã hội những chủ nhân tương lai tốt đồng thời triệt bỏ ngay từ đầu nguy cơ vốn vẫn được coi là "nguồn bổ sung tội phạm" sau này.

4.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thi hành các chế tài pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội và sự thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội, trong những năm gần đây, các quan niệm về thi hành án nói chung đã có những thay đổi nhất định theo hướng ngày càng tiến bộ, vừa nghiêm khắc vừa bảo đảm được quyền con người. Với những thay đổi khách quan ấy thì các quy định của pháp luật và cơ chế thi hành án nói chung và thi hành án trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em đã bộc lộ nhiều hạn chế. Một mặt, do các văn bản pháp luật về thi hành án chủ yếu được ban hành vào đầu những năm 90 (Pháp lệnh thi hành án phạt tù 1993, Pháp lệnh về thi hành án dân sự 1993…) nên đã không còn phù hợp với sự thay đổi của pháp luật hình sự, dân sự, pháp luật về tố tụng… Mặt khác, cơ chế, biệm pháp tổ chức thực hiện, điều kiệm, cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác thi hành án đã có nhiều lạc hậu, chưa được quan tâm đúng mức. Nhìn nhận vấn để ở mức độ khái quát thì công tác thi hành án của chúng ta hiệm nay có những hạn chế, bất cập chính:

- Các vướng mắc về thủ tục thi hành án còn rườm rà (đặc biệt là thi hành án dân sự) với nhiều cơ quan phối hợp nhưng trách nhiệm pháp lý lại không rõ ràng. Hình thức thi hành chưa thực sự phù hợp với điều kiện của xã hội hiện nay (chẳn hạn việc thi hành án tử hình bằng hình thức xử bắn cần phải nghiên cứu thay đổi theo hướng nhân đạo hơn, việc cưỡng chế thi hành án cần phải có bộ máy cưỡng chế nghiêm khắc và đủ mạnh…);

- Nhiều nội dung trong hoạt động thi hành án đã không còn phù hợp, đặc biệt là trong thi hành án hình sự (chẳng hạn việc phân loại trại giam, các quan điểm về giáo dục, cải tạo chưa thực sự chú ý đến việc tái hoà nhận cộng đồng của phạm nhân sau khi mã hạn tù, ra khỏi trường giáo dưỡng…)

- Các hạn chế về điều kiện, phương tiện bảo đảm cho công tác thi hành án (nhu điều kiện nhà giam chưa bảo đảm, chưa có những đầu tư thích đáng cho công tác dạy nghề trong các trường, trại; chưa có các nhà kho, nơi bảo đảm tài sản bị kê biên, tịch thu trong việc thi hành án dân sự…)

- Công tác quản lý thi hành án chưa hiệu quả với nhiều đầu mối khác nhau (thi hành án dân sự do Bộ Tư pháp quản lý, thi hành án phạt tù do Bộ công an quản lý, thi hành án hình sự không phải là phạt tù do UBND quản lý…). Điều này không phù hợp với, tính chất đan xem và phối hợp chặt chẽ trong việc thi hành các bản án cụ thể (chẳng hạn 1 người bị kết án hình sự thì kèm theo thường là phải thi hành cả các phần tài sản trong bản án hình sự nhưng lại do 2 cơ quan thi hành, cơ chế phối hợp lại không rõ ràng).

Đi vào từng lĩnh vực thi hành án cụ thể, sẽ còn có những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tập trung vào một số hạn chế mang tính đặc thù về thi hành án trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em. Nhìn nhận vấn đề thi hành án ở cả hai khía cạnh (thi hành các bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có Thẩm quyền đối với các hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em và thi hành các bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có Thẩm quyền đối với trẻ em làm trái pháp luật) thì công tác thi hành án trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có những hạn chế chính sau:

4.2.1. Những hạn chế trong quy định của pháp luật.

- Các quy định về việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nhìn chung chưa có sự phân hoá cụ thể. Tức là từ khâu ra bản án, tổ chức thi hành, đến các nội dung giáo dục, cải tạo… chưa mang tính đặc thù, chưa có sự phân hoá giáo dục ở mức độ cần thiết.

- Một số quy định về biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên còn chưa hợp lý.

+ Việc khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam: Khoản 3 Điều 1 của Nghị định số 52/2001/NĐ-CP quy định thời gian chấp hành biện pháp giáo dưỡng từ 1 đến 2 năm tính từ ngày người phải chấp hành biện pháp giáo dưỡng vào trường. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều trường hợp trong giai đoạn điều tra các em đã bị tạm giam, tạm giữ lại không được khấu trừ thời gian này vào thời gian giáo dục tại trường giáo dưỡng (do BLHS và BLTTHS không quy định). Trong khi đó, pháp luật lại quy định việc khấu trừ thời gian bị tạm giam, tạm giữ vào thời hạn chấp hành một số hình phạt như cải tạo không giam giữ và hình phạt tù được áp dụng với mọi đối tượng. Rõ ràng đây là một bất hợp lý từ phía quy định của pháp luật.

+ Về việc tạm đình chỉ thi hành biện pháp giáo dưỡng tư pháp: Hiện nay BLHS và BLTTHS chưa có quy định về việc tạm đình chỉ thi hành biện pháp giáo dưỡng tư pháp nên trong trường hợp các em bị ốm nặng hoặc mắc các bệnh hiểm nghèo (như ung thư, bại liệt, HIV/AIDS...) vượt quá khả năng điều trị của trường thì việc xử lý trường hợp này khá lúng túng.

- Việc phân loại đối tượng bị kết án phạt tù, trẻ em trong trường giáo dưỡng, người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh chưa thực sự gắn liền với công tác tái hoà nhập cộng đồng sau này. Do vậy, việc xác định chế độ giam giữ và công tác chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp thích hợp cho từng đối tượng.

- Thực tiễn thi hành án dân sự trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em cũng đặt ra một số vấn đề vướng mắc:

+ Trong các bản án, quyết định về hôn nhân – gia đình việc giao con chưa thành niên cho ai nuôi dưỡng

đã được Toà án giải quyết. Trong trường hợp người được Toà án giao trách nhiệm nuôi dưỡng yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án có trách nhiệm ra quyết định và tổ chức việc thi hành giao đứa trẻ đó cho người nuôi dưỡng theo quyết định của bản án. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, con người không phải là tài sản, vì vậy Bộ Tư pháp không đặt ra và không chỉ đạo việc cưỡng chế giao con. Nhưng nếu chấp hành viên đã áp dụng mọi biện pháp giáo dục, thuyết phục cần thiết để yêu cầu người phải thi hành án chấp hành mà vẫn không có kết quả thì sẽ giải quyết ra sao?

 

+ Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định "Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc chốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ hai tháng đến hai năm". Tuy nhiên, Điều 304 Bộ luật hình sự năm 1999 (Tội không chấp hành án) quy định chỉ xử lý hành vi không chấp hành án nói chung và không chấp hành án cấp dưỡng, nuôi con nói riêng khi và chỉ khi đương sự bị áp dụng một biện pháp cưỡng chế cần thiết.

Trong trường hợp này, việc thi hành án đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng không có biện pháp cưỡng chế thi hành án cụ thể.

- Tương tự như vậy, hiện nay pháp luật cũng chưa có chế tài cụ thể về việc buộc đương sự phải làm một công việc nhất định như: Buộc công khai xin lỗi, buộc khôi phục lại hiện trạng, thăm đón con chung...

4.2.2. Những hạn chế trong tổ chức thực hiện

Việc tổ chức thi hành án trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em trên thực tế cũng gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định. Cụ thể là:

(1) Vấn đề học văn hoá của trẻ em tại các cơ sở thi hành án.

Theo quy định hiện hành, trong thời gian thi hành hình phạt trẻ em được trại giam, trường giáo dưỡng tổ chức dạy học xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. Mặc dù các trại giam đã có nhiều cố gắng nhưng do đặc điểm nhân thân, điều kiện tổ chức dạy và học tại trại giam gặp rất nhiều khó khăn: số phạm nhân là trẻ em ít, không có cùng cấp học, trình độ không đồng đều, không có điều kiện tổ chức thành một lớp... Một số cơ sở giam giữ người chưa thành niên phạm tội hình sự do điều kiện cơ sở vật chất và điều kiện thực tế nên còn chưa tổ chức được việc học văn hoá và học nghề cho tù nhân là người chưa thành niên. Tại các trường giáo dưỡng, việc học văn hoá, học nghề được tiến hành song việc tổ chức kỳ thi và cấp bằng văn hoá còn rất khó khăn do không học đủ các học trình và không tổ chức được Hội đồng thi.

Chính vì những lý do trên nên nhìn chung chất lượng giáo dục đối với trẻ em là phạm nhân, trẻ em trong các trường giáo dưỡng thấp hơn nhiều so với môi trường giáo dục ngoài xã hội. Do vậy, sau khi tái hoà nhập cộng đồng hầu như các em ít có điều kiện để tiếp tục học theo các cấp học tiếp theo.

(2) Vấn đề dậy nghề tại các cơ sở thi hành án.

Trên thực tế, phần lớn các Trại giam, Trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh coi trọng nhiều đến vấn đề lao động bắt buộc, còn việc đầu tư cho các hoạt động dạy nghề, lao động hướng nghiệp trong các trường, trại, cơ sở này còn nhiều hạn chế. Việc học nghề do thiếu công cụ phương tiện nên chủ yếu mới dừng ở mức giới thiệu, làm quen chứ chưa trở thành "nghiệp" được. Mặt khác chất lượng day nghề tại các cơ sở này còn thấp, các ngành nghề ở đây không phù hợp với đòi hỏi thực tế của xã hội. Một số cơ sở không có khả năng đào tạo nghề chỉ dừng ở mức độ lao động phổ thông (bóc hạt điều, làm gạch...)

Do vậy, những người mãn hạn tù, hết hạn ở trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, chữa bệnh khi hoà nhập cộng đồng còn nhiều người chưa có nghề. Đây là vấn đề mà Nhà nước cần quan tâm hơn nữa về mặt tổ chức thực hiện trong thời gian tới.

(3) Một số vấn đề tồn tại trong việc bảo đảm các quyền lợi khác của người chưa thành niên tại các trường giáo dưỡng, trại giam.

- Điều kiện giam giữ có nơi, có lúc còn chưa đảm bảo được quy định của Pháp lệnh thu hành án về việc giam riêng hoặc mức diện tích sàn tối thiểu (2,5m2). Điều kiện ăn uống vệ sinh nói chung tốt.

- Về việc thăm nuôi được các cơ sở giam giữ, giáo dưỡng thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên có tình trạng một số tù nhân là người chưa thành niên không được người nhà thăm nuôi. Cá biệt một số trường hợp lợi dụng việc thăm nuôi để tiếp tế các chất gây nghiện.

- Điều kiện vui chơi giải trí của tù nhân là người chưa thành niên, học viên trường giáo dưỡng được đảm bảo ở mức tối thiểu (có sân chơi). Tại một số cơ sở giáo dưỡng, cải tạo chưa có công cụ, vật dụng phục vụ giải trí nào khác (thư viện, dụng cụ thể thao...) cho tù nhân nói chung và tù nhân là người chưa thành niên, học sinh trường giáo dưỡng nói riêng.

- Cũng do điều kiện giam giữ quá tải, chế độ ăn, ở, sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh nên hầu hết các phạm nhân đều mắc bệnh ngoài da, các điều kiện về chăm sóc y tế còn nhiều hạn chế, nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong các trại giam là khá lớn. Đặc biệt các trại giam hiện nay chưa có điều kiện để phát hiện, phân loại và áp dụng các biện pháp tư vấn, phòng chống các bệnh lây nhiễm cần thiết cho phạm nhân.

(4) Một số tồn tại trong việc giáo dục ở cơ sở và xử lý hành chính đối với trẻ em làm trái pháp luật hiện nay.

Vẫn còn thiếu một cơ chế thích hợp và hiệu quả được pháp luật quy định cho việc giáo dục những trẻ em đang có nguy cơ phạm phải hành vi làm trái pháp luật tại các các xã, phường, thị trấn. Một số văn bản mang tính định hướng đã được ban hành (như Nghị định 19/CP) song trên thực tế vẫn chưa đi vào đời sống một cách triệt để do thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành (Thông tư của Chính phủ, Chỉ thị của các Bộ, ngành và Quyết định – Kế hoạch của các Uỷ ban nhân dân các cấp). Do đó hiệu quả của việc giáo dục tại cơ sở đối với người chưa thành niên làm trái pháp luật hầu như chỉ phục thuộc vào sự quan tâm chú ý mang tính tuỳ nghi của từng địa phương.

Thiếu phương pháp thích hợp cho việc giáo dục trẻ em hư, trẻ làm trái pháp luật tại cơ sở trong đó đặc biệt là chưa có công cụ và phương pháp thực sự hữu hiệu nào để phát huy vai trò của cộng đồng dân cư ở cơ sở và gắn chặt trách nhiệm của cha mẹ với trẻ em làm trái pháp luật. Hiện nay không còn các quy ước, hương ước mang tính lệ làng như xưa trong đó có quy định những hình thức cưỡng chế do chính cộng đồng áp dụng đối với các thành viên của cộng đồng làm trái quy tắc xử sự chung trong đó gồm cả đối tượng là trẻ em, người chưa thành niên. Các biện pháp mang tính quản lý giáo dục thuần tuý như nhắc nhở, kiểm điểm, cử người giám sát giúp đỡ nhiều khi còn mang tính hình thức và không được thực hiện triệt để.

Tỷ lệ các đối tượng người chưa thành niên vi phạm bị xử lý bằng các biện pháp hành chính dường như còn ít so với con số thực tế vi phạm pháp luật. Một mặt điều này thể hiện các cơ quan ở cơ sở chưa làm hết trách nhiệm và để lọt đối tượng cần bị xử lý song điều quan trọng hơn, nhiều trẻ em không bị ngăn chặn kịp thời sẽ dễ lao vào lối mòn phạm pháp có thể dẫn đến phạm pháp nghiêm trọng bị xử lý hình sự.

Có thể nói đối với số các em đã vi phạm pháp luật bị xử lý bằng các biện pháp giáo dục tại cơ sở quá nhiều lần hoặc đã bị xử lý đưa đi trường giáo dưỡng tới 3, 4 lần thì tính chất làm trái đã có phần trở nên "chuyên nghiệp" và các biện pháp xử lý hành chính nêu ra như trên không còn có tác dụng phù hợp nữa. Không có các hướng nghiên cứu các biện pháp mới để áp dụng với các trường hợp này.

Phần lớn các đối tượng người chưa thành niên làm trái pháp luật bị xử lý hành chính đều lười biếng, trốn, bỏ học và thiếu sự chăm sóc chu đáo của gia đình. Nhiều gia đình còn đổ lỗi cho con cái và xã hội không có tác dụng ngăn chặn hành vi làm trái pháp luật tiếp theo của người chưa thành niên đã một lần làm trái pháp luật. Mặc dù trẻ làm trái pháp luật trước đó thường có các biểu hiện mang tính "nguy cơ" khá rõ song nhiều gia đình không quan tâm hoặc làm ngơ.

Thông tin về lý lịch phạm pháp của một đứa trẻ thường ít được chia sẻ và không được tổng hợp đầy đủ dẫn đến việc quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với một đứa trẻ vi phạm pháp luật còn gặp nhiều khó khăn. Điển hình là việc đưa trẻ đi trường gião dưỡng hiện nay hầu như chỉ chủ yếu dựa vào hồ sơ tiền sự của công an phường, xã.

Trong các trường hợp giáo dục tại cơ sở, vai trò của nhà trường và đặc biệt là của các đoàn thể quần chúng tại địa phương rất mờ nhạt

Nhiều người lớn không gương mẫu mà còn làm gương xấu cho người chưa thành niên làm trái pháp luật. Số khác bàng quan làm ngơ, không có thái độ can ngăn thích đáng khi gặp hiện tượng này.

Tại các cơ quan chính quyền cơ sở, nơi thường áp dụng các biện pháp giáo dục tại cơ sở và xử lý hành chính còn thiếu cán bộ, nhân viên chuyên trách (hoặc được đào tạo kỹ) về làm việc với trẻ em làm trái pháp luật.

Việc huấn luyện, bổ túc các kỹ năng chuyên môn cho các đối tượng trực tiếp làm công tác với trẻ em làm trái pháp luật tại cộng đồng (cảnh sát khu vực, tổ hoà giải, cán bộ ban bảo vệ trẻ em) chưa được thực hiện phổ biến.

(5) Vấn đề chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng

Việc chuẩn bị cho người chưa thành niên hết hạn tù tái hoà nhập cộng đồng tại các trại giam được tiến hành một cách thụ động. Thao tác duy nhất thường được thực hiện là trước khi người chưa thành niên được thả, Ban giám thị gửi công văn cho chính quyền địa phương sau đó cấp tiền tầu xe cho trẻ tự về nếu không có người đến đón. Người chưa thành niên không được biết về tình hình và khả năng đón nhận của địa phương nên thường có tâm lý hoang mang. ở địa phương lại thiếu sự nâng đõ cần thiết. Vì vậy, việc tái hoà nhập của người chưa thành niên phạm tội hầu như khoán trắng cho gia đình nên hậu quả chưa cao.

4.3 Một số đề xuất liên quan đến việc thi hành án và các quyết định có hiệu lực pháp luật.

Qua phân tích đánh giá thực trạng và những hạn chế, bất cập của công tác thi hành các bản án, quyết định của Toà án, các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, có thể nói đây là vấn đề khá phức tạp và nhậy cảm.

Nếu xem xét vấn đề từ góc độ bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thi hành án thì những người bị kết án (hoặc bị xử lý vi phạm) xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em sẽ phải thi hành bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào mức hình phạt (mức xử lý) trong các bản án, quyết định. Như vậy, nến so với người bị kết án (bị xử lý vi phạm) về các hành vi phạm tội (vi phạm pháp luật) trong các lĩnh vực khác mà có mức hình phạt (mức xử lý) tương tự thì họ cũng phải thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như được hưởng các quyền lợi như những người có hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Và trên thực tế pháp luật Việt Nam đã quy định theo hướng như vậy. Có nghĩa là việc thi hành án đối với hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em về cơ bản không có sự khác biệt đáng kể nào so với việc thi hành các loại án, quyết định khác.

Tuy nhiên, nếu xem xét vấn đề từ khía cạnh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em thì việc thi hành các bản án loại này cũng cần phải có những quy định đặc thù nhất định nhằm mục đích phòng ngừa tái phạm và giáo dục ý thức chung của cộng đồng về ý nghĩa to lới của việc bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đồng thời việc thi hành án đối với các trẻ em làm trái pháp luật cũng cần thiết phải có những thay đổi theo hướng này.

Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thi hành các bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Chúng tôi cho rằng, cần phải có những cải cách đồng bộ và kịp thời ngay từ các quy định của pháp luật cho đến việc tổ chức thi hành trên thực tế các bản án, quyết định loại này và năng lực của đội ngũ thi hành án cũng như cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác này. Cụ thể là.

4.3.1. Về khung pháp luật

Như trên đã trình bầy, hiện nay trong pháp luật của chúng ta mới chỉ có những quy định mang tính đặc thù trong việc thi hành các bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trẻ vi phạm pháp luật mà chưa có các quy định đặc thù đối với việc thi hành các bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Thậm chí ngay cả các quy định về việc thi hành các bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trẻ em vi phạm pháp luật cũng còn khá nhiêù bất cập. Do vậy chúng tôi kiến nghị như sau:

- Về vấn đề thi hành các bản án, quyết định hành chính đối với các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em pháp luật cần có các quy định đặc thù trong việc tổ chức thi hành các loại án này. Ngay trong bản án, quyết định đối với người vi phạm (cụ thể là những người bị kết án phạt tù) cần có những quy định hạn chế nhất định về quyền của người bị kết án trong việc làm đại diện, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Những hạn chế này phải được toà án tuyên (hoặc cơ quan có thẩm quyền) căn cứ vào hành vi vi phạm cụ thể. Trong quá trình thi hành án, đối với những người bị kết án phạt tù thì cần phải giáo dục ý thức công dân trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Việc học tập, giáo dục theo hướng phân loại đối tượng như vậy cần phải được quy định cụ thể trong Pháp lệnh thi hành án phạt tù và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Đối với những người thi hành án tại cộng đồng (hoặc những người mãn hạn tù trở về) thì pháp luật cũng cần quy định rõ trách nhiệm của chính quyền sở tại và các đoàn thể được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, giám sát có những biện pháp giáo dục nhất định nhằm ngăn chặn tái phạm (như giáo dục tư tưởng, quy định hạn chế quyền làm đại diện, quyền giáo dục trẻ em...).

- Ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, chính quyền cơ sở trong công tác thi hành các bản án hình sự không phải là phạt tù, thi hành các quyết định hành chính mà đối tượng phải thi hành tại cộng đồng (cả trẻ em và người lớn). Trong đó phải xác định rõ nhiệm vụ quản lý đối tượng về mặt hành chính là nhiệm vụ của Công an cơ sở, còn việc giúp đỡ, giáo dục đối tượng là nhiệm vụ của toàn xã hội đặc biệt là nhân dân khu phố, thông, xóm và các đoàn thể tại cơ sở, trong đó khuyến khích các cá nhân, tổ chức tình nguyện đứng ra nhận trách nhiệm giúp đỡ, giáo dục đối tượng là trẻ em vi phạm pháp luật. Việc giao đối tượng cho ai giúp đỡ, giáo dục phải được quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của họ.

- Đối với các quy định về thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng cần có các quy định cụ thể về một số vấn đề sau:

+ Đề nghị có quy định đối với người bị áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng, nếu trước đó họ có bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian bị tạm giữ, tạm giam phải được trừ vào thời hạn chấp hành biện pháp giáo dưỡng (có thể tính theo tỷ lệ cứ một ngày bị tạm giữ, tạm giam bằng 2 ngày chấp hành biện pháp này). Việc sửa đổi này trong BLHS và BLTTHS một mặt để bảo đảm tính nhất quán trong nội dung các bộ luật; mặt khác nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ em, tránh để họ bị thiệt thòi so với những đối tượng khác.

+ Đề nghị bổ sung quy định về việc tạm đình chỉ thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong trường hợp học sinh trường giáo dưỡng đang trong thời gian chấp hành tại trường mà bị ốm nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Nhà trường có thể đưa các em đến điều trị tại các bệnh viện bên ngoài hoặc gia đình các em tự chăm sóc, chữa trị nếu gia đình các em có đơn xin bảo lãnh. Thời gian tạm đình chỉnh không được tính vào thời gian chấp hành quyết định giáo dưỡng. Đây vừa là một thực tế phải giải quyết, vừa nhằm bảo đảm quyền được ưu tiên chăm sóc y tế, bảo vệ sức khoẻ đã được quy định trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

- Đối với việc thi hành án về dân sự, hôn nhân gia đình thì pháp luật cũng cần có những sửa đổi cần thiết về một số vấn đề như:

Việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn cần phải quy định cụ thể như khi người có trách nhiệm cấp dưỡng không cấp dưỡng thì phải cưỡng chế tài sản, bán đấu giá tài sản thu tiền cho người được cấp dưỡng.

Sau khi bản án ly hôn liên quan đến việc trách nhiệm nuôi con có hiệu lực pháp luật, nếu một bên không chịu trách nhiệm giao con theo bản án thì pháp luật cần quy đinh theo hướng cưỡng chế việc giao con sau khi ly hôn (hiện nay không có quy định biện pháp pháp luật, đề nghị sửa đổi Pháp lệnh thi hành án dân sự).

Theo chúng tôi, việc cưỡng chế thi hành án đối với các hành vi từ chối hoặc trốn chánh nghĩa vụ cấp dưỡng, không thực hiện nghĩa vụ giao nhận con, buộc công khai xin lỗi, buộc khôi phục lại hiện trạng, thăm đón con chung... cần quy định các chế tài xử lý hành chính cụ thể như phạt tiền, khấu trừ vào lương (thu nhập)...

4.3.2. Về cơ chế thi hành các chế tài pháp lý

a. Đối với việc thi hành án tại các trại giam, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục

- Đề nghị cần có nơi thi hành án riêng cho người chưa thành niên phạm tội, trên thực tế nhiều nơi do không có nơi giam giữ riêng cho người chưa thành niên phạm tội, nên việc giam giữ được thực hiện chung với người lớn. Điều này làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý của các em sau khi hoà nhập cộng đồng

- Việc dạy nghề, dạy văn hoá cho người đang chấp hành hình phạt tù, trẻ em tại trường giáo dưỡng cần được quan tâm hơn nữa, vấn đề này cần được quán triệt và chỉ đạo thường xuyên từ phía cơ quan quản lý trại giam, trường giáo dưỡng cũng như ý thức tích cực của mỗi cán bộ trường, trại. Các mô hình dạy nghề, hướng nghiệp cần được đổi mới về nội dung và phương pháp dạy, nghề dạy...

- Cần xây dựng chương trình cải tạo, giáo dục người chưa thành niên phạm tội theo hướng coi trọng công tác giáo dục tư tưởng và học văn hoá. Công tác dạy nghề cần có sự thay đổi cơ bản về chất lượng dạy nghề và nghề học. (Hiện nay, qua khảo sát các "nghề" mà các em được học tại trường giáo đưỡng và trại giam thực chất là các công việc lao động chân tay (thả cá, nuôi lợn, đóng gạch...) hoặc là các nghề không phù hợp với điều kiện thực tế (sửa chữa xe máy, may thủ công... nhưng với kiến thức khá sơ đẳng) và khi các em trở về cộng động hầu như không thể kiếm sống được bằng các nghề đã được dạy tại trường, trại. Bên cạnh đó các biện pháp mang nặng tính cải tạo đối với các em, đặc biệt là thời lượng lao động cần được nghiên cứu vào giảm bớt cho phù hợp với sự phát triển của từng lứa tuổi.

- Các trường giáo dưỡng và trại giam cần thực hiện nghiêm túc việc thông báo, liên hệ với gia đình phạm nhân và chính quyền cơ sở nơi phạm nhân sẽ về cư trú về tình hình thi hành án của đối tượng. Đặc biệt là việc thông báo trước 2 tháng trước khi đối tượng mãn hạn tù. Trong vân đề này Trường giáo dưỡng, Trại giam cần xác minh cụ thể xem đối tượng sẽ về cư trú tại địa phương nào, trên cơ sở đó thông báo cho chính quyền sở tại biết về việc đối tượng sẽ về cư trú tại địa phương. Trong thông báo cần nêu rõ quá trình rèn luyện, cải tạo của đối tượng, đề xuất các biện pháp quản lý, giúp đỡ, giáo dục cụ thể.

b. Đối với việc thi hành án tại cộng đồng.

- Nghiên cứu và xây dựng các trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp dành riêng cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng là trẻ em vi phạm pháp luật sau khi đã mãn hạn tù, đã ra khỏi trường giáo dưỡng.

- Nghiên cứu và xây dựng các mô hình trợ giúp vốn, tư vấn việc sử dụng vốn cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng là người chưa thành niên trong độ tuổi lao động (từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi) có khả năng tạo dựng công ăn việc dưới sự giúp đỡ của cộng đồng và chính quyền cơ sở. Việc này có thể thực hiện có hiệu quả thông qua một số mô hình sau:

+ Xây dựng một mô hình cho vay vốn (của Hợp tác xã, các tổ chức đoàn thể) theo phương thức người đứng ra vay là một tổ hợp tác (từ 10 đến 15 người) trong đó có người chưa thành niên là đối tượng tái hoà nhập cộng đồng. Đối tượng tham gia vào tổ chức này với tư cách là một thành viên để vay vốn cùng sản xuất, làm kinh tế trong tổ hợp tác như: nuôi tôm, thả cá, chăn nuôi heo... Qua theo dõi nếu tổ chức cho vay vốn (Hợp tác xã, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên) thấy đối tượng tái hoà nhập thực sự chí thú và có khả năng làm ăn thì tổ chức cho vay vốn quyết định cho đối tượng vay vốn độc lập. Đây có thể coi là một mô hình thiết thực, một mặt nó vừa tạo điều kiện giúp đỡ cho đối tượng có công ăn việc làm ổn định, mặt khác cũng trách được rủi ro cho Tổ chức cho vay vốn.

+ Thành lập các tổ hợp tác (thủ công mỹ nghệ, các nghề mộc, thủ công khác...), chức lao động phổ thông, dịch vụ… phù hợp với lứa tuổi của các em. Trong các tổ chức này người đứng đầu phải là những người "rất lương thiện" đồng thời xen kẽ các tổ viên là đối tượng tái hoà nhập còn có nhiều tổ viên khác không có tiền án tiền sự tham gia. Các tổ chức này được đặt dưới sự "lưu ý" giám sát của công an. Thực tế cho thấy các tổ chức này đã thu hút và giải quyết việc làm cho nhiều đối tượng tái hoà nhập.

- Công tác tái hoà nhập cộng đồng được thực hiện sau khi đối tượng mãn hạn tù, ra khỏi Cơ sở giáo dục, Cơ sở chữa bệnh, trẻ em ra Trường giáo dưỡng được thực hiện thông qua các chính sách xã hội, mang tính chất khuyến khích, tự nguyện nhiều hơn là mang tính trách nhiệm. Mặt khác, pháp luật lại chưa có chính sách xã hội hoá trong công tác tái hoà nhập cộng đồng (như chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hay các doanh nghiệp công ích nhận dậy nghề hoặc nhận người mãn hạn tù, ra khỏi Trường giáo dưỡng, Cơ sở giáo dục, chữa bệnh vào làm việc...). Do vậy, pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của những người làm công tác tái hoà nhập cộng đồng, đồng thời có chính sách xã hội hoá thích hợp trong công tác tái hoà nhập cộng đồng.

- Công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật tại cơ sở trong vấn đề này cần đạt được hai mục đích (i) xoá bỏ mặc cảm về tâm lý của đối tượng đối với cộng đồng, xoá bỏ những trở ngại về tâm lý của cộng đồng với đối tượng, (ii) làm cho nhân dân, các đoàn thể cơ sở xác định rõ vị trí, vai trò và trách nhiệm của họ trong công tác tái hoà nhập cộng đồng, trách việc nhầm tưởng rằng đây là công việc của Công an cơ sở, và (iii) khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tạo điều kiện, nhận đối tượng vào làm việc.

IV. Một số giải pháp và đề xuất nâng cao hiệu quả tính pháp lý của Luật BVCSGDTE

Trên đây chúng tôi đã trình bày một số phân tích về thực trạng hiệu quả pháp lý của việc thi hành Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em Việt Nam. Có thể nói hiện nay việc tăng cường hiệu quả của công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em đã trở thành mối quan tâm thường xuyên, liên tục và ngày càng lớn của toàn Xã hội. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ cần "tạo được phong trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em"(). Nghị quyết Quốc hội về chương trình mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước trong giai đoạn 2001-2005 đã nhấn mạnh yêu cầu này. Chính phủ cũng yêu cầu công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em cần được thực hiện tốt hơn nữa, phát huy các thành quả của Uỷ ban BVCSGDTE trong thời gian qua, bảo đảm các quyền và lợi ích của trẻ em đồng thời nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cơ quan và tổ chức đối với việc thực hiện quyền trẻ em().

Để biến quyết tâm nói trên của Nhà nước và xã hội thành các thành quả cụ thể, có thể vận dụng nhiều giải pháp khác nhau như giải pháp về hành chính, giải pháp về tổ chức bộ máy, giải pháp về giáo dục truyền thông, giải pháp về khoa học công nghệ, giải pháp về tư tưởng văn hóa... trong đó một giải pháp quan trọng hàng đầu là giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quyền trẻ em (hay còn có thể gọi là giải pháp lập pháp). Lẽ dĩ nhiên, các giải pháp nói trên cần được áp dụng một cách linh hoạt phù hợp với các đặc thù của từng loại quan hệ pháp luật, từng địa phương và từng đối tượng dân cư. Và để đảm bảo hiệu quả cao nhất của công tác vì trẻ em cần có một giải pháp tổng thể bao hàm tất cả các loại giải pháp nói trên nhằm huy động tối đa sự quan tâm và nguồn lực của toàn xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu xuyên suốt của đề tài là nhằm "nâng cao hiệu quả tính pháp lý của Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt Nam", trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng tôi chỉ xin trình bày khái lược về một số giải pháp và đề xuất nhằm (i) tăng cường hệ thống chế tài pháp lý đảm bảo thi hành Luật và, (ii) tăng cường các yếu tố có liên quan nhằm tạo dựng một cơ chế thực hiện luật hiệu quả.

1. Các giải pháp về xây dựng pháp luật và kiện toàn hệ thống chế tài (giải pháp lập pháp)

Từ các phân tích nêu trên cho phép chúng ta một lần nữa khẳng định rằng chính sự thiếu và yếu của các chế tài pháp luật đang được quy định trong các văn bản hiện hành là một căn nguyên quan trọng dẫn đến sự kém "hiệu quả tính pháp lý" cuả Luật BVCSGDTE. Câu trả lời tất yếu cho bất kỳ giải pháp nào nhằm tăng cường hệ thống chế tài pháp lý nói riêng và "hiệu quả tính pháp lý" của pháp luật vì trẻ em nói chung, vì vậy, trước hết là cần xây dựng một hệ thống chế tài vừa đầy đủ vừa mạnh mẽ cho các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đâu là địa chỉ cho những chế tài này đứng chân và phương thức nào để hỗ trợ triển khai các chế tài này là những vấn đề hóc búa cần giải quyết trước nhất.

Nhìn lại hệ thống văn bản pháp luật vệ trẻ em của Việt Nam hiện nay, dễ nhận thấy đây là một hệ thống khá rộng bao gồm các loại văn bản khác nhau do cơ quan khác nhau ban hành, trong đó Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em 1991 là trung tâm. Qua nghiên cứu, đề tài thống nhất với nhận định của Uỷ ban BVCSGDTE Việt Nam tại báo cáo kiểm điểm 10 năm thực hiện Luật BVCSGDTE 1991() rằng Luật này cần được sửa đổi để đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của công tác vì trẻ em trong giai đoạn mới. Trong đó cần chú trọng việc xây dựng hệ thống chế tài đảm bảo hiệu quả tính pháp lý của Luật BVCSGDTE.

 

Tuy nhiên, vấn đề nên đưa các chế tài mới vào sửa đổi Luật này như thế nào, với liều lượng và quy mô cụ thể ra sao dường như vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp rõ ràng đối với các nhà lập pháp và các nhà hoạt động thực tiễn. Nhằm góp thêm một ý kiến từ góc độ khoa học đối với vấn đề này, dưới đây chúng tôi xin được nêu một số phân tích về phương hướng sửa đổi Luật Bảo vệ, Chăm sóc, Giáo dục trẻ em Việt Nam.

1.1. Một số vấn đề cần lưu ý khi xem xét các phương án sửa đổi Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em năm 1991

- Trước hết, theo chúng tôi sửa đổi Luật BVCSGDTE cần đặc biệt quan tâm đến các điểm đặc thù của mối quan hệ pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em như đã phân tích tại phần I của Báo cáo phúc trình. Đây là những điểm quan trọng thể hiện tính chất "một chiều" trong quan hệ quyền và bổn phận mà trong đó trẻ em cần được nhìn nhận là chủ thể thụ hưởng hơn là chủ thể hành vi. Do đó, cần nhấn mạnh yếu tố nghĩa vụ pháp lý, chứ không phải là trách nhiệm đạo đức hay nghĩa vụ tuỳ nghi của các đối tượng, tổ chức có chức năng, có quyền hạn trong hoạt động bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

- Thứ hai, các hướng sửa đổi trình bày dưới đây là các đề xuất mang tính nghiên cứu, cần được bàn bạc, thảo luận và thử nghiệm kỹ lưỡng để làm rõ các nội dung và phương thức áp dụng.

- Thứ ba, bất luận áp dụng hướng sửa đổi nào cũng phải đảm bảo tính cưỡng chế cho văn bản luật mới thông qua việc (i) bổ sung một loạt các chế tài pháp lý cho đạo luật và, (ii) nghiên cứu các cơ chế áp dụng luật có hiệu quả giữa các cơ quan thực thi. Đặc biệt, một cơ chế giám sát việc thực hiện luật trong đó vai trò của cộng đồng dân cư ở cơ sở và các phương tiện truyền thông cần được đề cao, quan tâm đặc biệt.

- Thứ tư, các hướng sửa đổi dưới đây cần được mô hình hoá thành các phương án tổ chức thực hiện chi tiết có tính tới các khả năng thành công, khả năng không thành công và các hiệu qủa phụ gây ra với đời sống xã hội. Các điều kiện vật chất đảm bảo cho việc thực hiện luật cần được xem xét một cách thực tế, làm rõ khả năng đảm bảo của Nhà nước với khả năng huy động các nguồn lực từ các thành phần khác trong xã hội.

1.2. Một số hướng sửa đổi Luật BVCSGDTE năm 1991

Từ các phân tích nêu trên, dưới đây chúng tôi xin trình bày 2 hướng sửa đổi cụ thể đối với Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt nam 1991.

1.2.1. Xây dựng Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em mới hoặc Bộ luật Gia đình và Trẻ em thay thế cho Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em hiện hành. Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em mới phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:

(1). Văn bản luật phải có nội dung rất chi tiết, trong đó bao gồm cả phần các quy định mang tính nguyên tắc chung và phần các quy định cụ thể. Trong phần quy định cụ thể cần phải có cả các quy định về nội dung, về chế tài áp dụng và đặc biệt là thủ tục áp dụng. Mức độ, phạm vi cụ thể như thế nào sẽ do Ban soạn thảo quyết định trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát đánh giá về đối tượng điều chỉnh, cơ quan thực thi và các cơ chế thực thi có liên quan. Xin minh hoạ dưới đây hai nội dung quy định về cùng một vấn đề - việc tạm thời chuyển đứa trẻ ra khỏi gia đình nơi trẻ đang sinh sống - trong Luật BVCSGDTE Việt Nam năm 1991 và Luật toà án gia đình Hoa kỳ 1991 (xin lưu ý đây chỉ là các ví dụ minh họa).

Đề cập đến vấn đề nói trên, Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt nam 1991 không quy định trực tiếp mà chỉ quy định chung tại Đoạn 1 Điều 7 như sau:

"Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của đứa trẻ"

Cũng cùng nội dung này, Luật Toà án gia đình Hoa kỳ 1991 dành một mục lớn với 46 tiết để quy định khá chi tiết cả về nội dung các trường hợp cần tạm thời chuyển một đứa trẻ ra khỏi gia đình nơi nó đang sinh sống hiện thời và các thủ tục áp dụng tương ứng. Chúng tôi xin trích một đoạn dưới đây:()

Điều 10

Thủ tục tố tụng bảo vệ trẻ em

...............

Tóm tắt điều luật

 

Phần 1. Thẩm quyền xét xử ( mục 1011-1017)

2. Tạm thời di chuyển trẻ đến nơi chăm sóc mới và các lệnh bước đầu của Toà án (mục 1021-1029)

3. Các thủ tục đầu tiên. (mục 1031-1039)

4. Điều trần (nghe các bên đương sự trình bầy) (mục 1041-1049)

5. Các lệnh của Toà (mục 1051-1059)

6. Đương sự trình bày bổ sung và việc xem xét lại các lệnh của Toà án (mục 1061-1069)

7. Việc chấp hành các lệnh của Toà (mục 1071-1075)

8. Thăm hỏi trẻ em là con nuôi (mục 1081-1084)

Phần 1

Thẩm Quyền

.......

Mục 1012. Định nghĩa

Các thuật ngữ sử dụng trong điều này được hiểu như sau, trừ phi trong ngữ cảnh cụ thể chỉ một nghĩa khác đi.

(a)Người chịu trách nhiệm/bị đơn có nghĩa là cha hoặc mẹ hoặc người khác có trách nhiệm pháp lý phải chăm sóc đứa trẻ và là người bị cáo buộc là đã lạm dụng hoặc sao nhãng trách nhiệm chăm sóc đối với đứa trẻ đó;

........

(e) Trẻ bị lạm dụng là thuật ngữ chỉ một trẻ em dưới 18 tuổi có cha, mẹ hoặc người khác chịu trách nhiệm pháp lý chăm sóc nó nhưng những người này đã:

(i) Gây ra hoặc cho phép gây ra thương tích trên thân thể trẻ em có chủ ý (không phải là ngẫu nhiên), dẫn đến nguy cơ thực tế có thể gây chết người hoặc gây nên thương tích nghiêm trọng về ngoại hình, hoặc dẫn đến suy giảm nghiêm trọng về chức năng thân thể, tâm lý tình cảm, sức khoẻ tinh thần hoặc gây suy giảm chức năng của các cơ quan bất kỳ trong thân thể con người, hoặc,

(ii) Tạo ra hoặc cho phép tạo ra những mối nguy hiểm thực tế có khả năng dẫn đến tổn thương trên thân thể của đứa trẻ có chủ ý (không phải là ngẫu nhiên), dẫn đến nguy cơ thực tế có thể gây chết người hoặc gây nên thương tích nghiêm trọng về ngoại hình, hoặc dẫn đến suy giảm nghiêm trọng về chức năng thân thể, tâm lý tình cảm, sức khoẻ tinh thần hoặc gây suy giảm chức năng của các cơ quan bất kỳ trong thân thể con người, hoặc,

(iii) Phạm phải hoặc cho phép phạm tội về tình dục quy định tại luật hình sự đối với một đứa trẻ; hoặc cho phép, chấp thuận hoặc khuyến khích một đứa trẻ can dự vào các hành vi được nêu tại trong các mục 230.25, 230.30 và 230.32 của luật hình sự; phạm vào bất kỳ hành vi nào được quy định tại phần 255.25 của luật hình sự; hoặc cho phép đứa trẻ can dự vào các hành vi hay thái độ xử sự được nêu trong điều 263 của luật hình sự trừ khi (a) hành vi đó được quy định trong Luật hình sự nhằm tăng cường chứng cứ, và (b) các độ tuổi quy định tại điều 263 của Luật này sẽ không áp dụng cho các thủ tục tố tụng được nói đến ở điều này.

(f) "Trẻ bị bỏ mặc" (phải) là trẻ dưới độ tuổi 18, người mà:

(i) có tình trạng thể chất, tinh thần và tình cảm suy sụp hoặc có nguy cơ suy sụp, do hậu quả của việc cha, mẹ hoặc người chịu trách nhiệm pháp lý chăm sóc trẻ không đạt yêu cầu tối thiểu:

(a) Trong việc cung cấp cho trẻ thức ăn, quần áo, nhà ở hoặc điều kiện giáo dục một cách thích hợp theo qui định của khoản 1 điều 65 Luật giáo dục, hoặc chăm sóc về y tế, chữa trị răng, mắt hoặc phẫu thuật thích hợp, mặc dầu người có trách nhiệm chăm sóc có khả năng tài chính để làm được như vậy, hoặc có thể tận dụng các khả năng tranh thủ nguồn tài chính hoặc các phương tiện, công cụ hợp lý khác để làm như vậy; hoặc

(b) Trong việc cung cấp cho đứa trẻ sự giám sát hoặc giám hộ thích đáng vì đã có những hình phạt vô lý hoặc cho phép có hình phạt gây thương hại, hoặc có nguy cơ thực tế gây nên tình trạng đó, bao gồm nhục hình quá đáng, hoặc sử dụng được phẩm quá liều; hoặc sử dụng rượu cồn nhiều đến mức không còn kiểm soát được hành vi của mình, hoặc còn có những hành vi có tính chất nghiêm trọng tương tự khác cần phải viện đến sự giúp đỡ của Tòa án; tuy nhiên nếu người có trách nhiệm/bị đơn là người đang tham gia một cách tự nguyên và thường xuyên một chương trình cải hóa thì việc dựa vào chứng cứ bị đơn đã nhiều lần lạm dụng ma túy hoặc rượu cồn đến mức không còn kiểm soát được hành vi của mình vẫn chưa thể kết luận rằng đứa trẻ bị bỏ mặc trong trường hợp chưa có đủ bằng chứng xác nhận thể trạng đứa trẻ bị suy sụp hoặc có nguy cơ đi đến suy sụp về thể chất, tinh thần và tình cảm theo như qui định trong đoạn (i) của tiểu mục này; hoặc

(ii) Đứa trẻ đã bị cha mẹ hoặc người khác có trách nhiệm pháp lý phải chăm sóc đứa trẻ bỏ rơi, căn cứ vào khái niệm và những tiêu chuẩn khác đề ra trong tiểu mục 5 của mục 384b Luật cứu trợ xã hội

(g) Người có trách nhiệm pháp lý (phải chăm sóc đứa trẻ) bao gồm người trông coi, người giám hộ đứa trẻ và người khác bất kỳ chịu trách nhiệm chăm sóc đứa trẻ tại các thời điểm thích hợp. Người trông coi có thể bao gồm một người bất kỳ ở cùng hoặc có mặt thường xuyên tại cùng ngôi nhà với đứa trẻ, đã có hành vi gây ra hoặc góp phần dẫn đến sự lạm dụng hoặc bỏ mặc đứa trẻ.

.......

Phần 2

Tạm thời đưa đứa trẻ đi nơi khác và các lệnh ban đầu

Mục 1021. Tạm thời đưa trẻ đi nơi khác khi có sự đồng ý

Mục 1022. Những lệnh ban đầu của tòa án trước khi thụ lý đơn

Mục 1022-a Những lệnh ban đầu: thông báo và chỉ định luật sư tư vấn.

Mục 1023. Thủ tục ban hành lệnh tạm thời trước khi thụ lý đơn.

Mục 1024. Khẩn cấp đưa đứa trẻ đi nơi khác khi chưa có lệnh của tòa án

Mục 1026. Hành động khẩn cấp đưa đứa trẻ đi nơi khác của người do Tòa án chỉ định và của Cơ quan bảo vệ trẻ em

Mục 1027. Những lệnh ban đầu sau khi thụ lý đơn.

Mục 1028. Đề nghị cho đứa trẻ đã tạm thời dời đi được đưa quay trở lại

Mục 1029. Lệnh bảo vệ tạm thời

 

Mục 1021. Tạm thời đưa trẻ đi nơi khác khi có sự đồng ý

Khi có sự đồng ý bằng văn bản của bố, mẹ, hoặc người có trách nhiệm pháp lý chăm sóc đứa trẻ, thì một viên chức dân sự đặc biệt, một sĩ quan cảnh sát hoặc đại diện một cơ quan, hiệp hội, đoàn thể hoặc tổ chức được ủy quyền thích đáng có thể đưa đứa trẻ đi khỏi nơi đang cư trú nếu xét thấy đứa trẻ đó bị lạm dụng hoặc bị bỏ mặc theo qui định của điều này. Một bản sao văn bản ghi nhận bố, mẹ hoặc người chịu trách nhiệm pháp lý chăm sóc đứa trẻ đồng ý để trẻ được đưa đi nơi khác phải được kèm theo đơn khiếu kiện về việc đứa trẻ đó bị lạm dụng hoặc bị bỏ mặc và bản sao này là một tài liệu bắt buộc trong hồ sơ tố tụng. Nếu sau ba ngày kể từ ngày đứa trẻ được đưa đi mà không quay trở lại thì áp dụng thủ tục quy định tại phần 3 của điều này.

Sửa đổi bởi luật 1980. Chương 843, có hiệu lực ngày 1 tháng 9, 1980; sửa đổi bởi luật 1990. Chương 205, mục1, có hiệu lực ngày 1 tháng 9,1990.

Mục 1022. Những lệnh ban đầu của tòa án trước khi thụ lý đơn.

(a) . Trước khi thụ lý đơn, tòa án gia đình có thể ra lệnh tạm thời đưa đứa trẻ đi khỏi nơi cư trú (nơi ở của trẻ trước khi Toà nhận được đơn) theo qui định của điều này nếu:

(i). Bố, mẹ hoặc người khác chịu trách nhiệm pháp lý chăm sóc đứa trẻ vắng mặt, hoặc dù có mặt và được yêu cầu nhưng vẫn không đồng ý cho tạm thời đưa đứa trẻ đi nơi khác và đã được thông báo về mục đích áp dụng lệnh theo qui định của mục này, kể cả đã được thông báo những thông tin cần thiết theo mục 1023 của đạo luật này; và

(ii). Có biểu hiện cho thấy đứa trẻ bị bố mẹ hoặc người chịu trách nhiệm pháp lý khác lạm dụng và bỏ mặc và vì thế mà cần thiết phải đưa trẻ đi khỏi nơi đó ngay tức khắc để tránh nguy hiểm có thể xảy ra đối với tính mạng hoặc sức khoẻ của trẻ; và

(iii). Không đủ thời gian để thụ lý đơn và tiến hành thẩm vấn sơ bộ theo qui định của mục 1027.

Để xác định xem phải chăng việc tạm thời đưa đứa trẻ đi nơi khác là cần thiết để tránh rủi ro có thể xảy ra đối với tính mạng hoặc sức khỏe của trẻ, tòa án phải xem xét nếu cứ tiếp tục cho đứa trẻ ở tại nhà thì có trái với lợi ích tốt nhất của trẻ hay không, còn nếu thích hợp thì đã có những nỗ lực hợp lý nào được thực hiện trước khi có đơn đề nghị tránh hoặc loại trừ sự cần thiết phải đưa đứa trẻ đi khỏi nhà chưa. Nếu tòa án xác định những nỗ lực hợp lý nhằm tránh hoặc loại trừ sự cần thiết phải đưa đứa trẻ đi khỏi nhà đã không được thực hiện nhưng trong hoàn cảnh hiện tại lại phù hợp, thì lệnh của tòa án phải có cả nội dung kết luận trên.

Nếu tòa án thấy rằng những nỗ lực hợp lý nhằm tránh hoặc loại trừ việc phải đưa đứa trẻ đi khỏi nhà đã không được thực hiện nhưng vì lý do hoàn cảnh cụ thể của vụ việc thì tòa án phải ra lệnh cho cơ quan bảo vệ trẻ em cung cấp hoặc tổ chức các hoạt động cứu trợ thích hợp để giúp đỡ bản thân đứa trẻ và gia đình của trẻ theo quy định tại mục 1015a hoặc tiểu mục (c) của mục 1022.

Tòa án cũng phải xem xét phải chăng nguy hiểm đối với đứa trẻ có thể được loại trừ bằng cách ban hành một lệnh bảo vệ tạm thời theo qui định tại mục 1029 của đạo luật này nhằm hướng dẫn một hoặc nhiều người đi khỏi nơi trẻ em cư trú.

Bất kỳ một lệnh tạm thời nào hướng dẫn đưa đứa trẻ đi nơi khác theo qui định của mục này đều phải thể hiện những chứng cứ của tòa án về sự cần thiết phải đưa đi, thể hiện sự có mặt bị đơn tại phiên toà, hoặc nếu vắng mặt thì phải được thông báo về phiên toà xét xử, và việc đưa đứa bé đi nơi khác hoặc các yêu cầu đề ra đều đã được thực hiện đúng theo qui định của mục này hoặc mục 1021 hoặc mục 1024 của điều này.

(b). Lệnh của toà án phải nêu cụ thể nơi đứa trẻ được đưa đến. Trừ trường hợp có lý do chính đáng, hoặc trừ khi đứa trẻ sẽ nhanh chóng được đưa trở về nơi cư trú cũ, thì trong thời hạn 3 ngày, kể từ khi ban hành lệnh đơn khiếu kiện phải được thụ lý theo qui định của điều này.

(c) Trước khi thụ lý đơn theo quy định của điều này, tòa án gia đình có thể ra lệnh ủy quyền thực hiện việc cứu trợ và giúp đỡ, bao gồm ủy quyền cho một bác sĩ hoặc bệnh viện thực hiện cấp cứu về mặt y tế hoặc các thủ tục về mặt phẫu thuật nếu:

(i). Các thủ tục đó là cần thiết cho sự đảm bảo tính mạng hoặc sức khoẻ của đứa trẻ; và

(ii). Không có đủ thời gian để thụ lý đơn và tổ chức thẩm vấn sơ bộ theo qui định tại mục 1027. Khi tòa án yêu cầu một cán bộ cứu trợ xã hội cung cấp hoặc ký hợp đồng thực hiện công việc cứu trợ hoặc giúp đỡ theo qui định của mục này, thì yêu cầu đó chỉ được hạn chế trong phạm vi cung cấp cứu trợ và giúp đỡ đã được uỷ quyền hoặc làm theo yêu cầu của kế hoạch cứu trợ tổng quát hàng năm đang có hiệu lực.

(d) Người đưa đứa trẻ đi nơi khác trong khi di chuyển phải có văn bản gửi đến bố mẹ, hoặc người chịu trách nhiệm pháp lý chăm sóc đứa trẻ để thông báo quyền của người đó được làm đơn thỉnh cầu gửi lên tòa án gia đình, xin đứa trẻ trở lại theo như qui định trong mục 1028 của đạo luật này; thông báo họ tên, chức danh, tổ chức, địa chỉ và số điện thoại của người đưa đứa bé dời đi; tên và số điện thoại của cơ quan chăm sóc trẻ mà đứa trẻ sẽ được đưa tới (nếu có), số điện thoại của người cần liên hệ khi đến thăm đứa trẻ, cùng những thông tin cần thiết khác theo qui định tại mục 1023 của đạo luật này. Thông báo này phải được tống đạt tới cá nhân bố mẹ hoặc người chịu trách nhiệm pháp lý chăm sóc đứa trẻ tại nơi cư trú theo quy định và nếu người đó không có mặt tại nơi cư trú vào lúc đứa trẻ được đưa đi thì gắn một bản sao thông báo lên cửa ngôi nhà đó, đồng thời một bản sao được gửi theo đường bưu điện đến địa chỉ được biết là nhà ở mới nhất của người đó trong thời hạn 24 giờ, sau khi đứa trẻ được đưa đi nơi khác. Nếu địa điểm đứa trẻ được đưa đi nơi khác không phải là nơi cư trú của đứa trẻ thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi đứa trẻ được đưa đi, bản sao thông báo phải được tống đạt ngay lập tức tới bản thân bố mẹ, hoặc người chịu trách nhiệm pháp lý chăm sóc đứa trẻ, hoặc được gắn lên cửa ngôi nhà là chỗ ở của đứa trẻ, hoặc được gửi theo đường bưu điện đến cho bố, mẹ, hoặc người có trách nhiệm pháp lý chăm sóc đứa trẻ tại địa chỉ được biết là chỗ ở mới nhất của người đó. Mẫu thông báo do chánh văn phòng tòa án quy định.

(e) Mục này không quy định: lệnh của tòa án cho đưa đứa trẻ đến nơi ở khác là điều kiện yêu cầu cung cấp dịch vụ hoặc sự trợ giúp, bao gồm cấp cứu y tế, hoặc thủ tục phẫu thuật theo qui định tại tiểu mục (c) của mục này.

Sửa đổi bởi luật 1982, Chương 379, có hiệu lực ngày 1 tháng 9- 1982; Sửa đổi bởi luật 1987, Chương 776, có hiệu lực ngày 7 tháng 8-1987, Sửa đổi bởi luật 1988, Chương 478, mục1, có hiệu lực ngày 1-11, 1988, Sửa đổi bởi luật 1988. Chương 52, mục1 , có hiệu lực 11 tháng 8, 1988; Sửa đổi bởi luật 1988. Chương 673, mục1, có hiệu lực ngày 1 tháng 9, 1988; Sửa đổi bởi luật 1989, Chương 727, mục 2, có hiệu lực ngày 1 tháng 10, 1989; Sửa đổi bởi luật 1990. Chương 171, mục1, có hiệu lực ngày 1 tháng 9-1990................

(2) Bên cạnh các quy định hiện hành, Luật mới cần bổ sung thêm nhiều nội dung cụ thể (trong đó nổi bật là một số nội dung chính sau():

Bổ sung các điều luật nội dung về quyền và bổn phận của trẻ em;

Bổ sung các điều luật về trách nhiệm của người lớn;

Bổ sung các điều luật về nghĩa vụ của các cơ quan, đoàn thể và tổ chức xã hội;

Xây dựng các điều khoản cụ thể trách nhiệm xã hội hoá;

Xây dựng các điều khoản quy định về các trình tự thủ tục đảm bảo quyền trẻ em;

Xây dựng các điều khoản quy định về các chế tài pháp lý áp dụng đối với trẻ em (hướng bóc tách các phần có liên quan ở các Luật khác đưa vào Luật này);

Xây dựng các điều khoản quy định về các chế tài pháp lý áp dụng đối với các hành vi xâm hại trẻ em (hướng bóc tách các phần có liên quan ở các Luật khác đưa vào Luật này);

Xây dựng các điều khoản quy định về các chế tài pháp lý áp dụng đối với gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội nếu không làm tròn trách nhiệm đối với trẻ em (hướng bóc tách các phần có liên quan ở các Luật khác đưa vào Luật này);

Xây dựng các điều khoản quy định về các chế tài pháp lý áp dụng đối với các cơ quan tổ chức Nhà nước nếu không làm tròn trách nhiệm Luật định đối với trẻ em (hướng bóc tách các phần có liên quan ở các Luật khác đưa vào Luật này).

Xây dựng các điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại;

Xây dựng mới các điều khoản quy định về các thiết chế cần thiết phải được thành lập;

Tất cả các nội dung quy định của luật, bất luận là quy định hiện có hay quy định mới, đều cần được cụ thể hoá như đã minh hoạ ở trên.

(3) Luật mới phải liệt kê được hết các quy định đã có trong các văn bản pháp luật khác nay được Luật mới bãi bỏ. Đây là một yêu cầu tuy sẽ gây khó khăn cho ban soạn thảo nhưng nhất thiết phải được thực hiện bởi một số lý do như sau:

Thứ nhất, Hướng sửa đổi này đòi hỏi phải pháp điển hoá nhằm tích hợp tất cả các quy định đã có trong hệ thống văn bản pháp luật về quyền trẻ em vào một văn bản Luật duy nhất và cụ thể hoá tối đa các quy định nhằm có thể áp dụng ngay một cách thống nhất đồng thời giảm tối đa sự lệ thuộc vào các văn bản hướng dẫn cấp dưới. Ví vậy nếu ban soạn thảo không liệt kê được hết các điều khoản và nội dung bị bãi bỏ của các văn bản khác sẽ làm giảm đáng kể hiệu quả của hướng sửa đổi này.

 

Thứ hai, việc liệt kê chi tiết các quy định đã có sẽ giúp các nhà làm luật hình dung rõ hơn mô hình điều chỉnh bằng pháp luật đôí với các quyền trẻ em mà từ trước đến nay, do việc không kiểm soát được hết các nguồn ra văn bản cũng như thiếu các công cụ tổ chức và tra cứu thông tin, nên chưa bao giờ nhìn nhận một cách hoàn chỉnh được. Từ đó các nhà làm luật có thể phân lập các điểm còn thiếu quy định, thừa quy định, chồng chéo, vô hiệu, không khả thi.... để đưa vào nội dung của luật mới.

Thứ ba, yêu cầu trên cũng là một hướng sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được tích hợp trong dự thảo mới nhất (bản ngaỳ 12/9/2002) của Chính phủ. Như vậy nếu đặt yêu cầu này ngay từ đầu sẽ khiến cho ban soạn thảo chủ động được công việc và đón đầu các kỹ năng lập pháp cần thiết.

 

(4) Phân tích về các điều kiện đảm bảo để sửa đổi Luật theo hướng này.

Để thực hiện việc sửa đổi Luật theo phương hướng trên, các điều kiện đảm bảo dưới đây cần được thực hiện:

Trước hết, hướng sửa đổi này phải được thể hiện thành các chủ trương và quyết sách của Nhà nước một cách nhất quán trong quá trình xây dựng chương trình làm luật của Quốc hội và soạn thảo văn bản sau này. Hướng sửa đổi này còn phải được quán triệt trong lập pháp và hành pháp, theo đó về mặt lập pháp cần thống nhất quan điểm soạn thảo còn về mặt hành pháp cần tổ chức nghiên cứu kỹ lưỡng về năng lực thực thi của các cơ quan cơ liên quan.

Thứ hai, hướng sửa đổi này đòi hỏi cần có nghiên cứu đánh giá tổng thể về mức độ tác động của Luật mới một khi được ban hành và các hệ quả kèm theo. Xét từ khía cạnh kỹ thuật xây dựng chính sách, không có giải pháp nào là tối ưu và việc ban hành một chính sách, đặc biệt là một đạo luật, bao giờ cũng kéo theo các ảnh hưởng phụ. Trong trường hợp này, việc ban hành đạo luật cần được tính toán như một bài toán về kinh tế - xã hội mà trong đó lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội cần được xem xét kỹ lưỡng nhằm đảm bảo (i) Nhà nước có đủ nguồn lực và đã ở trạng thái sẵn sàng để thực hiện đây đủ các chức năng và quy trình do luật mới quy định, đồng thời đảm bảo rằng (ii) các quy định và nghĩa vụ trong luật cũng thoả mãn lợi ích nằm trong khả năng thực hiện của các nhóm đối tượng bị luật điều chỉnh.

Thứ ba, hướng sửa đổi này đòi hỏi phải có phương án tổ chức soạn thảo quy mô trong đó việc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân là một yêu cầu bắt buộc. Chúng tôi cho rằng để có thể cho ra đời một Bộ luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em hoặc Bộ luật gia đình và trẻ em được soạn thảo theo hướng này, cần tối thiểu 3-5 năm cho việc tổ chức nghiên cứu, khảo sát và dự thảo Dự luật. Như vậy nếu khẩn trương đưa Dự Luật này vào chương trình ưu tiên xây dựng pháp luật và thành lập ngay Ban soạn thảo thì cũng phải đến cuối nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI hiện nay hoặc đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII mới có thể ban hành Luật này. Về mặt dung lượng tuy chưa thể ước đoán chính xác ngay song chúng tôi cho rằng Luật (hoặc Bộ luật mới) sẽ có mức độ chi tiết như hoặc hơn Bộ Luật Dân sự hiện hành (vì thêm cả phần tố tụng đối với những vấn đề nằm ngoài các thủ tục tố tụng hiện có) và dung lượng thực tế có thể gấp hàng trăm lần Luật hiện hành (trong ví dụ mà chúng tôi đưa ra ở trên, chỉ riêng phần 1 và 2 của Điều 10, Luật toà án gia đình Mỹ đã dài 33 trang, bằng khoảng 1/180 toàn văn đạo luật). Đội ngũ chuyên gia huy động cho việc chuẩn bị Dự luật này, vì vậy, cũng phải là những người có nhiều kinh nghiệm và có tư duy đổi mới, được đảm bảo đủ các điều kiện tài chính, vật chất cần thiết để có thể (i) tiến hành lấy ý kiến rộng rãi trong tất cả các cơ quan có liên quan từ cơ sở trở lên về các đề xuất nội dung cho luật mới, (ii) tổng rà soát hệ thống văn bản pháp luật hiện tại về quyền trẻ em ở trung ương cũng như tại tất cả các tỉnh, thành, và (iii) triển khai lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân và các đối tượng áp dụng khác về dự kiến - dự theo luật mới.

 

*

* *

Tóm lại, cần triển khai việc xây dựng, ban hành một Đạo luật hoặc Bộ luật mới đồ sộ và chi tiết. Về ưu điểm hướng này có thể giúp giải quyết tương đối triệt để vấn đề cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền trẻ em và chắc chắn sẽ cải thiện về cơ bản việc đảm bảo hiệu quả tính pháp lý của Luật trên thực tế (bởi lẽ Luật đã quy định rất cụ thể nên các tổ chức và cá nhân tham gia không thể viện cớ Luật không rõ ràng hoặc thiếu thủ tục triển khai để né tránh việc thực hiện nghĩa vụ của mình). Đây cũng là cơ hội tốt để các nhà làm luật có thể triển khai ngay một hệ thống chế tài vào Luật mới vì với các điều khoản chung mang tính cương lĩnh như hiện nay thì không thể quy định các chế tài cưỡng chế cụ thể vào ngay trong luật được. Một ưu điểm khác của hướng này là do Luật mới ít phụ thuộc vào việc ban hành quy định hướng dẫn của các cơ quan cấp dưới nên sẽ tránh được rất nhiều tình trạng chậm chạp và thiếu trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật như hiện nay. Hướng này cũng thể hiện sự pháp điển hoá và chi tiết hoá, một cách làm có nhiều tính ưu việt mà trên thế giới hiện nay cả các nước theo hệ thống Luật lục địa (Civil Law or Continental Law) và hệ thống Luật án lệ (Case Law or Common Law) đều hướng tới (cụ thể hơn xin xem các chuyên đề về kinh nghiệm thực hiện pháp luật quyền trẻ em của Mỹ, Pháp và các nước cộng đồng châu Âu tại phần IV "Một số kinh nghiệm tham khảo nước ngoài" trong quyền tổng hợp các kết quả nghiên cứu của để tài). Mặt khác, với hướng sửa đổi này hiệu quả điều chỉnh của Luật mới sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng xây dựng luật của Ban soạn thảo, tránh được rất nhiều việc sai lệch ý tưởng và mục tiêu điều chỉnh của luật do quá trình ban hành văn bản hướng dẫn sau này.

Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm trên, việc sửa đổi Luật theo hướng này có một số nhược điểm như thời gian soạn thảo và ban hành sẽ bị kéo dài, chi phí cho việc nghiên cứu xây dựng Luật mới tốn kém và quá trình rà soát, sàng lọc, chi tiết hoá sẽ phải tiến hành rất cụ thể và phức tạp, nhất là trong bối cảnh các quy định hiện hành còn có một số chồng chéo và nhiều điểm bất cập liên quan đến thẩm quyền lập quy của từng cơ quan như đã trình bày tại phần thực trạng của Báo cáo phục trình.

1.2.2. Giải pháp sửa đổi hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ ở tất cả các văn bản có liên quan, trong đó Luật BVCSGDTE là một bộ phận.

(1) Theo hướng này văn bản Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em hiện hành sẽ được sửa đổi, bổ sung cơ bản nhưng không bị thay thế.

Nội dung sửa đổi sẽ theo hướng: (i) bổ sung thêm các nguyên tắc và quy định "khung" mà Luật hiện hành còn thiếu, (ii) bổ sung thêm các chế tài và nguyên tắc áp dụng chế tài nhằm nâng cao hiệu quả pháp lý của Luật, và (iii) đặc định một số trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội có liên quan trong việc thưc hiện quyền trẻ em.

Bên cạnh việc sửa đổi bổ sung Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em hiện hành, cần tiến hành cụ thể hoá các nội dung của Luật vào các văn bản có liên quan (theo Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật BVCSGDTE 1991, thống kê chưa đầy đủ cho thấy có trên 100 văn bản của trung ương trực tiếp quy định cụ thể hoá hoặc có các quy định liên quan trực tiếp đến Luật BCSGDTE 1991) và kiến nghị ban hành mới hoặc sửa đổi tiếp các văn bản khác. Để dễ hình dung về hướng sửa đổi này, chúng tôi xin đưa ra một ví dụ minh hoạ về việc tạm thời chuyển đứa trẻ ra khỏi gia đình nơi trẻ đang sinh sống (xin lưu ý một lần nữa là các ví dụ được đưa ra trong đề tài chi mang tính minh hoạ).

Đề cập đến vấn đề nói trên, Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em Việt nam 1991 không quy định trực tiếp mà chỉ quy định chung tại Đoạn 1 Điều 7 như sau:

"Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ, trừ trường hợp vì lợi ích của đứa trẻ"

Như vậy, nội dung chuyển tạm thời đứa trẻ ra khỏi gia đình nơi trẻ đang sinh sống có thể coi như một điều khoản mới hoặc một phần sửa đổi Đoạn 1 Điều 7 cũ, bất luận trong trường hợp nào, quy định mới có thể bao gồm các nội dung sau:

+ Điều khoản mới (hoặc điều khoản sửa đổi trong Luật BVCSGDTE) phải thể hiện được:

Các nguyên tắc xác định việc cho phép tạm thời chuyển đứa trẻ ra khỏi gia đình nơi trẻ đang sinh sống cũng như chấm dứt việc này (lợi ích tốt nhất của trẻ, quan hệ tình cảm gia đình, phòng ngừa hậu quả có thể xảy ra,...);

Cơ quan nào có quyền ra lệnh, quyết định thực hiện việc này (Toà án, cơ quan hành chính địa phương, hay cơ quan khác,.. ?);

Nguyên tắc và trách nhiệm giám sát việc này (ai giám sát, quyền yêu cầu đình chỉ,...);

Chế tài pháp lý nếu không thực hiện quy định này.

...

+ Cụ thể hoá điều khoản này, cần:

Sửa đổi, bổ sung phần có liên quan trong các đạo luật sau:

Bộ luật dân sự: phần trách nhiệm giám hộ, cấp dưỡng, tài sản, ...

Bộ luật hình sự (tội cố ý hoặc cưỡng bức chuyển đứa trẻ ra khỏi nơi sinh sống mà không có sự nhất trí của người đang chăm nom đứa trẻ đó hoặc lệnh của các cơ quan có thẩm quyền...),

Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính (phần liên quan đến hành vi cản trở, không tuân thủ quyết định của cơ quan hành chính cho tạm thời chuyển đứa trẻ ra khỏi gia đình hoặc từ chối, cản trở trao trả đứa trẻ về với gia đình...)

Sửa đổi, bổ sung các văn bản dưới luật cụ thể hoá các văn bản luật nói trên,

Yêu cầu 61 tỉnh thành rà soát, sửa đổi các quy định của địa phương mình cho phù hợp với quy định mới của Luật BVCSGDTE.

Như vậy, có thể nhận thấy nếu triển khai hướng sửa đổi này, sẽ có rất nhiều nội dung cần quy định mới hoặc cụ thể hoá vào Luật BVCSGDTE (sửa đổi, bổ sung). Góp thêm một ý kiến từ góc độ nghiên cứu khoa học để cùng thảo luận, chúng tôi xin nêu một số ý kiến về một số nội dung cần thực hiện theo hướng sửa đổi này:

Giữ nguyên cấu trúc cơ bản của Luật BVCSGDTE như hiện nay nhưng bổ sung các điều luật nội dung về quyền và bổn phận của trẻ em trong Luật BVCSGDTE, xây dựng các điều khoản quy định về các chế tài pháp lý áp dụng đối với gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội nếu không làm tròn trách nhiệm đối với trẻ em,

Bổ sung các điều luật về trách nhiệm của người lớn, nghĩa vụ của các cơ quan, đoàn thể và tổ chức xã hội, trách nhiệm xã hội hoá... trong các luật, pháp lệnh có liên quan,

Tách thành chương riêng và/hoặc bổ sung các điều khoản quy định về các trình tự thủ tục đảm bảo quyền trẻ em trong dân sự, hành chính, lao động, hình sự.

Soạn thảo chương mới (hoặc làm Pháp lệnh mới) về các chế tài pháp lý áp dụng đối với các cơ quan tổ chức Nhà nước nếu không làm tròn trách nhiệm Luật định đối với trẻ em trong đó nhấn mạnh các điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi hoàn cảnh đối với trẻ em (cưỡng chế bằng tiền do cơ quan Tài chính trực tiếp thi hành bằng cách trừ thẳng vào tiền ngân sách),

Quy định các điều khoản khung về các thiết chế và chức năng cần thiết phải được thành lập để làm cơ sở cho các Nghị định hướng dẫn sau này.

(2) Phân tích về các điều kiện đảm bảo để sửa đổi Luật theo hướng này.

Để thực hiện việc sửa đổi Luật theo phương hướng trên, các điều kiện đảm bảo dưới đây cần được thực hiện:

Trước hết, hướng sửa đổi này phải được thể hiện thành các chủ trương và quyết sách của Nhà nước một cách nhất quán để Ban soạn thảo thuận tiện triển khai xây dựng văn bản.

Thứ hai, hướng sửa đổi này đòi hỏi cần có nghiên cứu đánh giá về khả năng và hiệu quả phối hợp của các cơ quan có liên quan (ít nhất là khả năng ban hành và thực thi các văn bản hướng dẫn) để hình dung trước về quy mô và mức độ "khung" mà Dự luật sửa đổi cần đạt được.

Thứ ba, hướng sửa đổi này không cần phải có phương án tổ chức soạn thảo quy mô như hướng xây dựng Bộ Luật Gia đình và Trẻ em hoặc Luật BVCSGDTE mới nhưng đòi hỏi phải có trao đổi, thảo luận, hội thảo chi tiết với các bộ, ngành, địa phương để Dự luật có tính khái quát và dự báo. Trên cơ sở đó các bộ ngành và địa phương có thể soạn thảo và duy trì các văn bản hướng dẫn trong thời gian dài, tránh được hiệu ứng domino do phải sửa đổi văn bản thường xuyên. Chúng tôi cho rằng để soạn thảo Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em sửa đổi theo hướng này cần tối thiểu 18-24 tháng cho việc tổ chức rà soát, trao đổi-hội thảo và dự thảo Dự luật. Như vậy nếu khẩn trương đưa Dự luật này vào chương trình ưu tiên xây dựng pháp luật và thành lập ngay Ban soạn thảo thì có khả năng Dự luật sửa đổi có thể được thông qua ngay trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI hiện nay. Về mặt dung lượng, tuy chưa thể ước đoán chính xác ngay song chúng tôi cho rằng Luật sửa đổi sẽ có mức độ chi tiết như các luật chuyên ngành hiện nay (dung lượng khoảng từ 120-160 điều khoản). Trong quá trình chuẩn bị Dự luật này có thể (i) tiến hành lấy ý kiến rộng rãi trong tất cả các cơ quan có liên quan từ cơ sở trở lên về các đề xuất nội dung cho luật mới, (ii) tổng rà soát hệ thống văn bản pháp luật hiện tại về quyền trẻ em ở trung ương.

Tóm lại, nếu triển khai hướng sửa đổi nêu trên sẽ chỉ cần ban hành một đạo luật sửa đổi, bổ sung có mức độ chi tiết cao hơn và có thêm một số điều khoản mới so với Luật hiện hành. Về ưu điểm hướng sửa đổi này có thể giúp giải quyết tức thời một số nhu cầu về cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em. Đây cũng hướng sửa đổi "quen thuộc" với các nhà lập pháp Việt Nam nên chắc chắn sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức soạn thảo. Mặt khác hướng soạn thảo này dồn nhiều công việc cụ thể hoá lên các cơ quan thi hành nên dự thảo văn bản chi gồm phần lớn là các điều khoản chung, chắc chắn sẽ dễ dàng được thảo luận và thông qua tại Quốc hội hơn là một bộ luật đồ sộ và chi tiết.

Tuy nhiên, về nhược điểm cách làm này nhiều khả năng sẽ không cải thiện được về cơ bản lối mòn của công tác lập pháp hiện nay là văn bản luật quá chung dẫn đến hiệu quả áp dụng của Luật bị phụ thuộc vào việc ban hành quy định hướng dẫn của các cơ quan cấp dưới vốn khá chậm chạp và thụ động, trong một số ít trường hợp dẫn đến việc sai lệch ý tưởng và mục tiêu điều chỉnh của luật hiện nay. Hướng sửa đổi này cũng khó có khả năng nâng cao cơ bản hiệu quả pháp lý qua việc đưa các chế tài pháp lý vào luật vì nếu Luật sửa đổi bổ sung vẫn chứa quá nhiều các điều khoản chung mang tính cương lĩnh như hiện nay thì không thể quy định các chế tài cưỡng chế cụ thể vào ngay trong luật được.

Trên đây chúng tôi đã trình bày sơ bộ hai hướng sửa đổi Luật BVCSGDTE hiện hành, về nội dung cụ thể và cách thức sửa đổi còn tuỳ thuộc vào sự cân nhắc và quyết định của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà trước hết là Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ việc cần kíp phải làm là cần tiến hành ngay các nghiên cứu đánh giá quy mô về (i) mức độ điều chỉnh bằng pháp luật đối với các việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em hiện hành và nhu cầu sửa đổi, bổ sung, (ii) khả năng của các cơ quan trong việc thực thi các hoạt động bảo vệ chăm sóc giáo giục trẻ em đã và dự kiến sẽ được luật định cũng như các cơ chế có hiệu quả để thực hiện Luật, và (iii) các yếu tố "mới" về mặt kinh tế-văn hoá-giáo dục và sự phát triển xã hội có thể liên quan, hay tác động tới việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong tương lai tới đây. Đây cũng là một trong số các đề xuất, kiến nghị cụ thể của chúng tôi nhằm "nâng cao hiệu qủa pháp lý của Luật bảo vệ chăm sóc giao dục trẻ em 1991" mà chúng tôi xin được trình bày trong phần tiếp theo.

2. Một số kiến nghị và đề xuất liên quan đến cơ chế thực hiện và đảm bảo thi hành Luật

2.1. Kiến nghị về lập pháp: sửa đổi Luật BVCSGDTE

Để nâng cao hiệu quả pháp lý của Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 1991, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét thảo luận và chọn lựa ngay một hướng sửa đổi thích hợp để sửa Luật này. Cho dù chọn phương án sửa đổi nào cũng cần đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật. Một danh mục các dự kiến sửa đổi vào luật, nếu có thể, cũng cần được đưa lấy ý kiến thử nghiệm trước khi soạn thảo luật nhằm sát hợp hơn với kỳ vọng của người dân (ví du: biểu đồ 6 dưới đây) và của các cán bộ làm công tác có liên quan đến bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em. (ví dụ: biểu đồ 7 dưới đây).

 

Biểu đồ 6

ý kiến của cha mẹ trẻ em về việc cụ thể hoá những vấn đề

để BVCSGDTE tốt hơn

Chú thích (nguồn đã dẫn ở trên)

Cụ thể hoá trách nhiệm của gia đình..………………. ………….

Cụ thể hoá TNPL của Đoàn thể xã hội liên quan.…... ……….….

Cụ thể hoá TNPL của các cơ quan bảo vệ pháp luật... ……….

 

240 (77%)

 

231 (74%)

 

218 (70%)

Cụ thể hoá TNPL của chính quyền địa phương. ……….…

Cụ thể hoá TNPL của UB BVCSGDTE…..…………….

Cụ thể hoá TNPL của Nhà trường……..…….………….

 

242 (78%)

 

194 (62%)

 

241 (68%)

Biểu đồ 7

Khả năng bổ sung chế tài để đảm bảo hiệu quả thi hành Luật BVCSGDTE

(Nguồn: Khảo sát của đề tài đối với các cán bộ làm công tác BVCSGDTE tại TP. Hồ Chí Minh)

Cụ thể hoá trách nhiệm của cơ quan, đoàn thể và gia đình

Cụ thể hoá cơ chế truy cứu trách nhiệm pháp lý của cơ quan, đoàn thể và gia đình

 

Cụ thể hoá cách thức thi hành trách nhiệm của cơ quan, đoàn thể và gia đình

 

 

Cụ thể hoá một số cơ chế khác của cơ quan, đoàn thể và gia đình

 

2.2. Kiến nghị về tổ chức giám sát đánh giá độc lập hàng năm về các quyền trẻ em và việc thực hiện các quyền này.

Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật BVCSGDTE của Uỷ ban BVCSGDTE Việt Nam cũng như các kết quả khảo sát của đề tài (xem thêm phần kết quả tổng hợp khảo sát trong quyển kết quả nghiên cứu đề tài) đều cho thấy rõ các quyền và lợi ích thiết thực nhất của trẻ em - tương ứng với các nguồn lực địa phương dành cho các hoạt động vì trẻ em - có sự khác nhau rất lớn giữa các vùng, miền, địa phương và tập tính của các công đồng dân cơ cơ sở. Việc thực hiện các quyền trẻ em cũng phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực của các cấp chính quyền cơ sở và mức độ nhận thức của các giới chức có trách nhiệm. Bên cạnh đó tình trạng "không hành động" của một số cơ quan và quan chức đối với việc thực hiện các quyền trẻ em góp phần đáng kể vào tình trạng trì trệ và kém hiệu quả của viêc thực hiện Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em tại một số nơi (thậm chí một số địa phương trở thành "điểm nóng" đối với một số quyền và lĩnh vực cụ thể()). Do đó cần thiết phải tiến hành các cuộc kiểm tra, giám sát, đánh giá hàng năm về thực trạng các quyền trẻ em, các vấn đề nổi cộm cần giải quyết và trách nhiệm của từng cơ quan, địa phương đối với vấn đề đó. Tính tới đặc thù của mối quan hệ pháp luật về thực hiện quyền trẻ em là nghĩa vụ thường do 1 bên thực hiện trong khi bên kia không có khả năng khiếu kiện đòi các quyền của mình nên các cuộc kiểm tra đánh giá này nên do các cơ quan có vị trí độc lập nằm ngoài hệ thống "chân rết" của chính quyền địa phương. Tính tới ý nghĩa của các quyền trẻ em và yêu cầu nâng cao hiệu quả pháp lý đối với các cơ quan "có lỗi" nên các cuộc kiểm tra này phải do các cơ quan có thẩm quyền cao và có khả năng giám sát hoạt động của các cơ quan bị kiểm tra tiến hành. Vì các lý do đó chúng tôi đề xuất Nhà nước nên giao chức năng này cho một Uỷ ban chuyên trách của Quốc hội, khi thực hiện sẽ có sự phối kết hợp của Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em các cấp. Báo cáo của Uỷ ban có thể dùng để mở các phiên điều trần trước Quốc hội và là văn bản làm việc của Chính phủ khi bàn thảo về các vấn đề có liên quan.

2.3. Kiến nghị về tăng cường công tác tổ chức, quản lý chỉ đạo công tác thực hiện Luật BVCSGDTE.

Trong số rất nhiều các biện pháp cần thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả pháp lý của Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em đã được trình bày rải rác trong các chuyên đề của đề tài, chúng tôi thấy trước hết cần có kế hoạch báo cáo định kỳ và bồi dưỡng kiến thức vì trẻ em, nhất là kiến thức pháp luật về quyền trẻ em cho các cán bộ lãnh đạo ở mọi ngành, mọi cấp. Việc này cần phải làm một cách thực chất và phải cụ thể hoá kết quả thành các quyết định của chính quyền cũng như thái độ quan tâm sâu sát của các cán bộ lãnh đạo đến việc thực hiện các quyền trẻ em, sao cho đối với cũng một loại công việc thì các việc liên quan đến bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em phải nhận được sự quan tâm lớn hơn, nhanh chóng hơn, thấu đáo hơn các việc tương tự đối với người lớn. Cơ quan Đảng các cấp nên thường xuyên có các chủ trương về bảo vệ quyền trẻ em làm kim chỉ nam cho các cấp thi hành rà soát, và tham mưu về mặt chính sách để các cơ quan hành pháp, lập pháp ra các văn bản kịp thời theo đúng tinh thần của Chỉ thị 35/CT-BCHTW về tăng cường hiệu quả của công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

Bên cạnh đó, nhất thiết phải kiện toàn và củng cố hơn nữa hệ thống các cơ quan qia đình và trẻ em các cấp không chỉ về cơ sở vật chất mà còn cả về chuyên môn nghiệp vụ và tri thức kinh nghiệm, năng lực quản lý và phương pháp làm việc với trẻ em để Uỷ ban này thực sự là cơ quan tham mưu đắc lực cho Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc các ngành, đồng thời làm đầu mối phối hợp, điều hoà hoạt động của các ngành trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và phòng chống trẻ em làm trái pháp luật nói riêng. Chú trọng chức năng quản lý nhà nước đối với công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em của Uỷ ban, đồng thời dần hình thành và ổn định đội ngũ cán bộ chuyên trách ở cơ sở.

Thêm nữa, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp cần liên tục chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng và đưa chương trình hành động vì trẻ em nói chung và các mục tiêu phòng ngừa trẻ em làm trái pháp luật nói riêng vào kế hoạch kinh tế xã hội và các nhiệm vụ cụ thể của địa phương cũng như thường xuyên đôn đốc, kiểm tra và bảo đảm các điều kiện thực hiện. Chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu xây dựng và thí điểm các mô hình, biện pháp giáo dục thích hợp và hiệu quả trong việc đấu tranh phòng ngừa người chưa thành niên làm trái pháp luật.

Mặt khác, một vấn đề rất quan trọng là Nhà nước cần quy định về chế độ thông tin báo cáo về công tác bảo vệ quyền trẻ em một cách chi tiết tới các ngành chức năng (có thể lấy Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em các cấp làm đầu mối) nhằm đảm bảo thống nhất và bao quát các nguồn tin về lĩnh vực này. Phối kết hợp các ngành một cách chặt chẽ, thường xuyên tiến hành điều tra khảo sát theo định kỳ hàng năm, xây dựng các báo cáo phân tích và báo cáo dự đoán về sự phát triển các vấn đề của trẻ em và việc thực hiện quyền trẻ em.

2.4. Kiến nghị về tăng cường truyền thông, gắn với việc phổ biến giáo dục pháp luật, gia tăng sức ép công luận về mức độ cảnh báo vi phạm quyền trẻ em.

Quá trình nghiên cứu khảo sát của đề tài cũng như các báo cáo chính thức của Uỷ ban bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em trong đợt kiểm điểm10 năm thực hiện Luật vừa qua đều cho thấy một bộ phận khá lớn dân cư và nhiều cán bộ nhà nước còn hiểu rất mơ hồ về nội dung của Luật, và đặc biệt thiếu thông tin về việc con em họ được hưởng những lợi ích gì từ Luật này cũng như làm thế nào để được hưởng những lợi ích đó(). Vì vậy, một nhu cầu liên tục và cấp thiết là cần tăng cường phổ biến Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và các quy định pháp luật khác có liên quan đến bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em một cách rộng rãi đến tận cơ sở vừa bằng các phương tiện thông tin đại chúng vừa bằng các hình thức sinh động và đa dạng khác để nhân dân hiểu và thi hành nghiêm chỉnh luật này. Quán triệt nội dung của luật và các quy định pháp luật khác có liên quan đến thủ trưởng của các cơ quan, tổ chức xã hội đồng thời có kế hoạch bổi dưỡng thường xuyên kiến thức về qyền trẻ em nói chung và các phương thức đảm bảo phòng ngừa trẻ em làm trái pháp luật đối với các cán bộ làm công tác liên quan đến trẻ em. Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em ở trung ương cần phối hợp với các cơ quan chức năng ở trung ương ban hành các quy chế phối hợp về tuyên truyền phổ biến pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em để địa phương thực hiện được tốt hơn.

Phục vụ cho việc tuyên truyền phổ biến này, Uỷ ban nhân dân các Tỉnh nên giao cho Sở tư pháp biên soạn tóm tắt nội dung cơ bản của các đạo luật có liên quan, hướng dẫn tuyên truyền luật đều khắp trong năm và bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật. Hỗ trợ kinh phí để in ấn các tài liệu cần thiết phát không đến từng hộ dân, tránh các hình thức khoa trương và hời hợt. Cần coi đây là một trọng tâm của các cấp chính quyền cơ sở và động viên sự nhiệt tình tự nguyện của các cộng tác viên, tuyên truyền viên pháp luật không hưởng lương để hoạt động này được thường xuyên liên tục chứ không lệ thuộc vào các đợt tuyên truyền và nguồn kinh phí từ trên xuống.

2.5. Kiến nghị về tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng kế hoạch, trong đó nhấn mạnh phần kế hoạch dành cho trẻ em trong các quy hoạch phát triển Trung ương và địa phương.

Thực tế kiểm điểm đánh giá việc thực hiện Luật 10 năm vừa qua cho thấy một trong các nguyên nhân cơ bản khiến cho Luật bảo vệ chăm sóc giao dục trẻ em chưa thực sự hoàn toàn đi vào đời sống và hiệu quả pháp lý của Luật bị giảm thiểu đó là sự thiếu các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện Luật. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trong đó, xét từ góc độ chủ quan, có thể thấy sự kém cỏi của nhiều cơ quan trong công tác quy hoạch, kế hoạch từ trung ương địa phương. Trong nhiều kế hoạch phát triển ngành và địa phương phần "vì trẻ em" không được dành vị trí ưu tiên, hoặc không được đảm bảo nguồn tài chính hỗ trợ hay không chỉ định rõ các cơ quan phải chịu trách nhiệm triển khai. Điều này tất yêu dẫn đến sự thiếu hụt quyền lợi của trẻ em trên thực tế và các cố gắng bù đắp vừa mang tính chắp vá, vừa vấp phải các vấn đề khó khăn do kế hoạch trước để lại rất phức tạp. Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em đã quy định Nhà nước phải dành một tỷ lệ ngân sách thích đáng cho biệc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em và quy định bước đầu một số chức năng của các cơ quan liên quan. Bất kể trong phương án nào, việc cải tiến quy cách xây dựng kế hoạch - gắn với tiến trình cải cách hành chính hiện nay - cần phải dành sự quan tâm cụ thể, thực tế và có đảm bảo tới các công trình, quyền lợi và yếu tố trẻ em, đảm bảo tuân thủ nguyên tắc mà Việt Nam đã cam kết với thế giới là "dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em".

2.6. Kiến nghị về tăng cường yếu tố chuyên trách "vì trẻ em" trong các thủ tục trình tự pháp luật

Trong các quy định của Nhà nước ta hiện nay đã có nhiều quy định nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố chuyên trách "vì trẻ em" trong cuộc sống hàng ngày (như đội nhi đồng măng non, đội thiếu niên tiền phong, đoàn thanh niên cộng sản, nhà thiếu nhi các cấp ....) cũng như trong các trình tự thủ tục tố tụng (từ người đỡ đầu, giám hộ trong dân sự, người bảo lãnh trong hành chính, hội thẩm chuyên trách - hoặc có kinh nghiệm về bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em - trong hình sự,... Vấn đề đặt ra là ở nhiều nơi, nhiều lúc, các cơ cấu này chưa phát huy được hiệu quả hoặc bị bỏ qua. Thậm chí trong một thời gian nhiều cơ cấu "cho trẻ em, vì trẻ em" như đoàn, hội, đội có dấu hiệu bị tê liệt, đi xuống. Việc tăng cường hiệu quả của các cơ cấu này sẽ giúp tạo cho trẻ em có cơ hội được góp tiếng nói và chủ động tham gia vào đời sống xã hội với tư cách là những thực thể tương đối độc lập, qua đó rèn luyện cho các em ý thức cộng đồng và tinh thần trách nhiệm. Do đó các cơ cấu này có khả năng góp phần thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả cuả Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em.

2.7. Kiến nghị về việc thành lập một trung tâm nghiên cứu - thông tin và tài liệu quốc gia về trẻ em

Nhà nước nên chăng cần nghiên cứu thành lập một trung tâm nghiên cứu - thông tin và tài liệu quốc gia về trẻ em (đặc biệt và số liệu thống kê về tình hình tư pháp người chưa thành niên) nhằm giúp các cơ quan chức năng nghiên cứu tổng kết đánh giá tình hình, hoạch định chính sách và đề xuất các giải pháp về lĩnh vực này cũng như lưu trữ và cung cấp các tài liệu, số liệu cho các cơ quan có nhu cầu một cách thống nhất và đáng tin cậy. Ngoài ra, Nhà nước cần sớm xây dựng một hệ thông chuẩn biểu mẫu về biểu, bảng thống kê số liệu và mẫu báo cáo phân tích về tình hình bảo vệ quyền trẻ em để các cơ quan chức năng (đặc biệt là hệ thống cơ quan công an - kiểm sát - tòa án) áp dụng thống nhất trong toàn quốc.

2.8. Kiến nghị về việc tổ chức thêm các cơ cấu, tổ chức trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Nhà nước cần xem xét để song hành với việc xây dựng Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em mới có thể nghiên cứu thử nghiệm và thiết lập ở các địa phương những cơ cấu, thiết chế cần thiết (có thể là thiết chế Nhà nước, tổ chức phi Chính phủ, tổ chức tự quản hoặc tổ chức bán công tuỳ theo đặc điểm, tình hình của địa phương và đặc trưng dân cư khu vực) nhằm tăng cường hiệu quả pháp lý của việc thực hiện Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em nói chung và việc đấu tranh phòng chống người chưa thành niên làm trái pháp luật nói riêng. Trong số các cơ quan có thể được nghiên cứu thành lập bảo vệ trẻ thành lập có thể có các trung tâm giáo dưỡng ở tất cả các tỉnh để giúp các trẻ em phạm pháp sớm rèn luyện thói hư tật xấu và tái hoà nhập cộng đồng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan bảo vệ và thi hành pháp luật nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Việc tăng cường và mở rộng các phòng tư vấn về công tác trẻ em cũng cần được nghiên cứu xem xét (có thể kết hợp với hệ thống các trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách do ngành Tư pháp quản lý hiện nay). Củng cố hệ thống Quỹ bảo trợ trẻ em các cấp, đa dạng hoá nguồn thu và kêu gọi xã hội hoá sự đóng góp cho quỹ này.

2.9. Kiến nghị về việc thành lập Toà án Tư pháp người chưa thành niên

Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, vấn đề này đã từng được đặt ra và bàn thảo tại nhièu hoạt động nghiên cứu nhằm cải cách bộ máy tư pháp cũng với đề xuất về việc tành lập các toà chuyên trách khác như Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính song tới nay vẫn chưa được chấp nhận. Các nghiên cứu của đề tài cho thấy thực tế xét xử các vụ việc liên quan đến người chưa thành niên (đặc biệt là các vụ trong đó người chưa thành niên phạm tội) cho thấy đây là một đối tượng đặc biệt cần có sự quan tâm và đánh giá đặc biệt bởi các cán bộ có chuyên môn sâu và kinh nghiệm chuyên trách mới có thể đảm bảo phương châm coi trọng việc giáo dục hối cải và tái hoà nhập của trẻ em phạm tội chứ không xem năng việc trừng trị. Hơn nữa, mặc dù pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã quay định một số thủ tục riêng đối với người phạm tội là người chưa thành niên nhưng thực tế cho thấy ở nhiều Toà án, nhiều vụ việc các thủ tục này đã bị xem nhẹ do việc thiếu một Toà án chuyên trách về tư pháp người chưa thành niên.

Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc thành lập Toà án người chưa thành niên là cần thiết và nên sớm được xúc tiến. Dễ nhận thấy việc thành lập Toà này sẽ làm nặng thêm gánh nặng ngân sách và chưa hẳn là có lợi về bộ máy tổ chức. Tuy nhiên, cái "lợi" về tinh thần và thể chất đem lại cho trẻ em có liên quan đến các vụ việc mà toà xét xử thì không thể tính đếm được, như một cách đầu tư của hôm nay cho ngày mai./.

File đính kèm downloadTải về