• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng Luật tiếp cận thông tin
Nội dung tóm tắt

Quyền tiếp cận thông tin chính là điều kiện tiên quyết để  bảo đảm thực hiện các quyền con người và quyền công dân. Việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin đối với Việt Nam hiện nay là cần thiết và cấp bách. Trong thời đại hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, quyền tiếp cận thông tin đã và đang trở thành một quyền cơ bản và là một trong những quyền quan trọng nhất của con người và công dân.

   Quyền tiếp cận thông tin (Right to acces to information) là một trong những quyền cơ bản của công dân, của con người, bảo đảm quyền được thông tin là một trong những điều kiện cần thiết để xây dựng một thể chế dân chủ và nhà nước pháp quyền. Trong bối cảnh đất nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thông tin trở thành một yêu cầu vô cùng cần thiết trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm thực hiện công bằng xã hội và an sinh xã hội, nâng cao dân trí, xây dựng nhà nước và hoàn thiện pháp luật để phát huy rộng rãi sự tham gia của người dân vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giám sát công quyền, tăng cường tính công khai, minh bạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng và chống tham nhũng, lãng phí, sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước. Quyền tiếp cận thông tin cũng bảo đảm mỗi cá nhân thực hiện các quyền khác tốt hơn và bảo vệ các lợi ích hợp pháp của họ. Phương châm các công việc quan trọng của Nhà nước “dân biết, dân bàn, dân làm, dân  kiểm tra” theo tư duy lôgic của một chuyên gia về luật tiếp cận thông tin có thể diễn đạt như sau: “dân biết nhờ có thông tin, dân bàn nhờ có thông tin, dân làm nhờ có thông tin, dân kiểm tra nhờ có thông tin”. Nói  cách khác thông tin là tất cả, là điều kiện tiên quyết để thực hiện các quyền con người và công dân. Thông tin là "ô xy" của nền dân chủ, nếu thông tin không được bảo đảm, thông tin sai lệch hoặc bưng bít thông tin, quyền làm chủ của Nhân dân khó có thể thực hiện được.

Ở Việt Nam, quyền được thông tin đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật khác, tuy nhiên cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa có đạo luật riêng quy định về quyền này. Quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay được thể hiện rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Luật Báo chí năm 1989, Luật Xuất bản năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, Pháp lệnh về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003. Đặc biệt trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định những nội dung phải công khai để Nhân dân biết, Nhân dân bàn và quyết định; những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung Nhân dân giám sát, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan.

  Những quy định trên đây về việc tiếp cận thông tin của công dân và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước về cung cấp thông tin trong một số lĩnh vực và phạm vi địa bàn áp dụng cũng đã khá rõ, tuy nhiên việc thực hiện các quy định nói trên còn rất hạn chế vì trong tất cả các văn bản pháp luật nói trên hầu như rất ít chế tài quy định về vấn đề xử phạt việc không cung cấp thông tin và những quy định nói trên nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau và thiếu tính hệ thống nên vẫn chưa có một cơ chế hữu hiệu để bảo đảm cho công dân được thực hiện một cách đầy đủ quyền tiếp cận thông tin.

Nhận thức được tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin trong việc phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường tính công khai minh bạch và hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) tháng 8-2006 đã chỉ rõ: xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai và  nghiên cứu ban hành Luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Đây là chủ trương quan trọng của Đảng, là định hướng quan trọng cho việc bảo đảm thực tế quyền được thông tin ở nước ta, góp phần vào cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền công dân và quyền con người ở Việt Nam.

  Thực hiện Nghị quyết của Đảng, việc nghiên cứu Đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng Luật Tiếp cận thông tin là hết sức cần thiết". Đề tài đáp ứng yêu cầu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.    

Mục đích nghiên cứu của Đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay phục vụ việc xây dựng Luật Tiếp cận thông tin. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, Đề tài xác định nhiệm vụ của mình là phân tích được nội dung cơ bản của các quy định của pháp luật Việt Nam về tiếp cận thông tin, chỉ ra được những thành tựu đã đạt được và những bất cập hạn chế của pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin cũng như những hạn chế  trong cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay. Đề tài phải nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và một số nước trên thế giới về Luật Tiếp cận thông tin của một số quốc gia đã ban hành luật này. Khi phân tích các Luật Tiếp cận thông tin và các công trình nghiên cứu về Luật Tiếp cận thông tin của các quốc gia trên thế giới. Đề tài phải lý giải được vì sao gần 90 quốc gia trên thế giới, hầu hết các nước trong đó có nền kinh tế phát triển đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin. Lý giải được tính cấp thiết của việc ban hành Luật Tiếp cận thông tin của các quốc gia đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin. Từ đó lý giải tính cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật tiếp cận thông tinở Việt Nam, đặc biệt là tính cấp thiết của việc ban hành một đạo luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay làm công cụ đắc lực cho việc xây dựng một xã hội dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế.

Chương I

CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN

1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin và pháp luật về tiếp cận thông tin

Quyền tiếp cận thông tin (Right to access to information) hay quyền được thông tin không phải là khái niệm mới. Khái niệm này đã được ghi nhận rất sớm trong văn kiện pháp lý của nhiều quốc gia cùng với sự phát triển của các quyền khác của con người. Đạo luật về Tự do báo chí của Thụy Điển được ban hành vào năm 1766 đã trao cho người dân quyền  được yêu cầu tiếp cận văn bản/hồ sơ của các cơ quan chính phủ. Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng như Tuyên ngôn của Hà Lan năm 1795 cũng đã xác lập nguyên tắc bảo đảm khả năng tiếp cận các thông tin từ các cơ quan công quyền hoặc các công chức phải báo cáo các công việc của mình. Đặc biệt, sau khi Liên Hợp quốc ra đời năm 1945 và việc ghi nhận quyền tiếp cận thông tin như là một trong số các quyền và tự do cơ bản của cá nhân trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, quyền tiếp cận thông tin đã trở thành mối quan tâm trên bình diện quốc tế và ngày càng được các quốc gia quan tâm nhiều hơn. Kể từ thời điểm đó trở đi, quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế trên phạm vi toàn cầu cũng như khu vực. Chẳng hạn như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Công ước Nhân quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR), Chương trình Hành động Chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được ký kết vào ngày 30/11/2001 ở Tokyo (Nhật Bản) cũng xác định việc bảo đảm cho công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng phù hợp với pháp luật trong nước. Ở cấp độ quốc gia, hiện nay, gần 90 quốc gia ban hành luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin công dưới những tên gọi khác nhau như Luật về Tự do thông tin, Luật Tiếp cận thông tin...

Trong quá trình phát triển của quyền tiếp cận thông tin, nội dung của nó đã có sự phát triển ngày càng rộng hơn. Trong các văn kiện pháp lý đầu tiên về quyền con người, quyền tiếp cận thông tin được xem là một nội dung thuộc khái niệm quyền tự do ngôn luận (Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948). Trong báo cáo năm 1998 và 2000 của mình, Đặc phái viên của Liên Hợp quốc về Tự do ý kiến và ngôn luận khẳng định rằng, quyền tiếp cận thông tin là một quyền con người độc lập nằm trong ngoại diên của tự do ngôn luận được các văn kiện quốc tế về quyền con người bảo hộ. Tinh thần của quyền tiếp cận thông tin chính là sự công khai hóa tối đa hoạt động của các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước đối với công chúng cũng như đối với từng người dân. Về bản chất, quyền tiếp cận thông tin là một trong những nội dung của mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và cá nhân (mà trước tiên là công dân của Nhà nước đó), theo đó cá nhân có quyền tiếp cận tới thông tin dưới các hình thức khác nhau mà Nhà nước đang nắm giữ và Nhà nước có nghĩa vụ phải bảo đảm cho sự tiếp cận này.

Cùng với sự phát triển của nền dân chủ, quyền tiếp cận thông tin trở thành một quyền độc lập với nội hàm rộng hơn mà nền tảng của nó là quyền được biết sự thật và đòi hỏi phải có tự do thông tin. Vì vậy, nội dung của quyền tiếp cận thông tin không đơn giản chỉ là quyền của người dân mà còn phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho công dân có được các thông tin sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống. Những thông tin này là những thông tin được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay mặt Nhân dân lưu giữ với quan niệm “các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích công cộng”.[1] Do đó, các cơ quan phải có trách nhiệm bảo quản và tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể tiếp cận các thông tin này… Với ý nghĩa đó, khi nói đến nội dung của quyền tiếp cận thông tin, có hai nội dung cần phải được giải quyết. Một là, thành tố cơ bản của quyền tiếp cận thông tin; và Hai là những thông tin nào sẽ được tiếp cận.

a) Thành tố cơ bản của quyền tiếp cận thông tin

Quyền tiếp cận thông tin theo quan niệm của đa số các luật gia ngày nay bao gồm quyền tự do tìm kiếm thông tin, thu thập thông tin và quyền yêu cầu cung cấp thông tin.

Tìm kiếm, thu thập thông tin

Quyền tìm kiếm, thu thập thông tin được hiểu là chủ thể của quyền tiếp cận thông tin có quyền xem các tác phẩm, hồ sơ, tài liệu chứa đựng các thông tin được các cơ quan công quyền quản lý hoặc kiểm soát; ghi chép, trích dẫn, sao chụp các thông tin đó dưới các hình thức khác nhau và bằng những phương tiện khác nhau; có quyền có các bản sao có chứng thực các tài liệu chứa đựng các thông tin; và thu thập thông tin bằng việc sao chép các thông tin đó vào các thiết bị điện tử hoặc bằng việc in các tài liệu đó trực tiếp từ những nơi lưu giữ chúng. bằng máy vi tính hoặc bằng các thiết bị khác.

Yêu cầu cung cấp thông tin

Cùng với quyền tìm kiếm, thu thập thông tin, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin còn có quyền yêu cầu cơ quan quản lý hoặc kiểm soát thông tin cung cấp thông tin cho mình. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin được xem là một trong những điều kiện để bảo đảm cho việc tìm kiếm thu thập thông tin.

Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của người dân đòi hỏi một nghĩa vụ tương ứng từ phía các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin. Đó là nghĩa vụ cung cấp thông tin. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm rằng các loại thông tin cần thiết liên quan đến lợi ích của cộng đồng phải luôn sẵn sàng cho việc tiếp cận.

b) Những thông tin nào có thể được tiếp cận?

Quan niệm cho rằng các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin không phải cho chính bản thân cơ quan đó mà là cho lợi ích công cộng, nhằm bảo đảm lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội. Vì thế, về mặt nguyên tắc, tất cả những thông tin liên quan đến lợi ích công cộng là có thể tiếp cận được, gồm có: thông tin về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội...; về các vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh; về các quyền và sự tự do của công dân. Tuy nhiên, tự do thông tin không có nghĩa là tất cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, thu thập và yêu cầu cung cấp bất kỳ thông tin nào được lưu giữ bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sẽ có những thông tin liên quan đến lợi ích của cộng đồng nhưng không thể được tiếp cận bởi bất kỳ một cá nhân nào, như: thông tin liên quan đến an ninh, quốc phòng, đến hệ thống phòng thủ của quốc gia... Tuy nhiên, có những thông tin ở thời điểm này không thể tiếp cận được nhưng lại có thể tiếp cận ở thời điểm khác[2].

Ngày nay, quyền tiếp cận thông tin đã trở thành một nhu cầu và một quyền cấp thiết cần được bảo đảm. Nói cách khác, công dân có quyền tiếp cận đối với thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật, chính sách cũng như hoạt động của các cơ quan công quyền liên quan đến đời sống xã hội. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được xem là nhân tố then chốt trong hoạt động quản lý của Nhà nước đối với đời sống xã hội được vận hành theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.

Xét một cách tổng quát, theo nhóm nghiên cứu, quyền được thông tin hay quyền tiếp cận thông tin là khái niệm được sử dụng để nói đến quyền của cá nhân được biết thông tin của Nhà nước, theo các cách thức trực tiếp lẫn gián tiếp nhằm thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận.

Từ khái niệm quyền tiếp cận thông tin trên đây chúng ta có thể suy ra pháp luật về quyền tiếp cận thông tin là hệ thống các quy phạm pháp luật bảo đảm cho cho cá nhân thực hiện quyền tiếp cận thông tin như một quyền cơ bản của con người và công dân.

1.2. Tầm quan trọng của pháp luật về tiếp cận thông tin đối với mỗi quốc gia

 Ngày nay, hầu khắp các quốc gia và các tổ chức quốc tế đều có chung một nhận thức: tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người. Thực hiện được quyền này là điều kiện cần thiết để các cá nhân có thể bảo vệ hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, ngăn ngừa và chống lại các hành vi lạm dụng quyền lực, thúc đẩy dân chủ hoá và minh bạch hoá quá trình hoạch định chính sách và ban hành pháp luật, thực thi pháp luật, củng cố lòng tin và tăng cường sự ủng hộ của dân chúng đối với các chủ trương và chính sách của chính quyền, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.

Sự chuyển đổi sang cơ chế dân chủ tại nhiều quốc gia, sự phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin cũng làm cho quyền đối với thông tin ngày càng trở nên quan trọng đối với mọi công dân. Công nghệ thông tin đã tạo điều kiện và khuyến khích các thành viên của cộng đồng kiểm soát và hạn chế nạn tham nhũng bằng nhiều phương pháp khác nhau như giám sát hoạt động của các nhà lãnh đạo và khuyến khích công chúng tham gia vào quá trình ra quyết định. Thông tin như một nền tảng thiết yếu của nền dân chủ ở mọi cấp độ. Công khai cùng với bầu cử và tự do báo chí là cần thiết bảo đảm xã hội mở và dân chủ.

Quyền đối với thông tin cũng là một công cụ mấu chốt trong việc đấu tranh chống tham nhũng và các hành vi sai trái của chính quyền. Các nhà báo và các tổ chức phi chính phủ làm nhiệm vụ giám sát có thể sử dụng quyền này để vạch trần các hành vi sai trái nhằm loại bỏ nó. Quyền tiếp cận thông tin cũng đáp ứng các mục tiêu xã hội quan trọng khác, chẳng hạn quyền của cá nhân tiếp cận thông tin cá nhân của mình là một phần nhân phẩm của cá nhân đó và là mấu chốt để cá nhân đưa ra quyết định hiệu quả. Ví dụ, khả năng tiếp cận thông tin bệnh lý cá nhân có thể giúp cá nhân đó đưa ra quyết định về phương thức điều trị, lên các kế hoạch tài chính…

 Một khía cạnh khác của quyền đối với thông tin thường được phản ánh là việc sử dụng quyền này để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Các cơ quan công quyền nắm giữ một khối lượng lớn các thông tin trong tất cả các lĩnh vực, nhiều loại trong số đó liên quan tới các vấn đề kinh tế và chúng có thể là rất hữu ích cho các doanh nhân.

 Nhìn nhận một cách tổng quát, quyền tiếp cận thông tin đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tăng cường thực hiện và thực hiện tốt, thực hiện một cách công bằng các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội của người dân từ quyền bầu cử, quyền chất vấn, biểu quyết, tham gia đóng góp ý kiến, khiếu nại tố cáo đến quyền yêu cầu bồi thường do hành vi sai trái của cơ quan công quyền, quyền tự do kinh doanh và tiếp cận nguồn vốn, quyền học tập và lao động, quyền được sống trong môi trường trong sạch, tiếp cận với các dịch vụ y tế…Thông tin công là tài sản công và chính sách cung cấp thông tin công phải hình thành trên cơ sở phi lợi nhuận. Quá trình tiếp cận thông tin là quá trình thúc đẩy công bằng, thực thi luật pháp và củng cố nhà nước pháp quyền. 

  Tự do thông tin cũng có lợi ích hàn gắn vết thương quá khứ. Tại nhiều quốc gia trong quá trình chuyển đổi sang một nền dân chủ, Luật Tự do thông tin cho phép các chính phủ chia sẻ thông tin, tài liệu về quá khứ và cho phép xã hội cũng như các nạn nhân và gia đình của họ, những người từng bị lạm dụng và thương tổn biết và hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra trong quá khứ.    

 Có thể nói, nhận thức tầm quan trọng của tiếp cận thông tin không chỉ là từ phía công chúng, các nhóm xã hội mà còn từ phía Chính phủ. Sự cần thiết của quyền tiếp cận thông tin cho các mục tiêu dân chủ, chống tham nhũng, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của cá nhân, từng lớp xã hội cũng như coi nó là một nguồn lực xã hội cần tiếp cận và khai thác bình đẳng để giải quyết các vấn đề kinh tế, môi trường và an sinh xã hội. Xây dựng một Chính phủ điện tử trở thành một nhu cầu thiết yếu trong việc quản lý và điều hành nhanh và có hiệu quả, vì vậy tự do thông tin được nhiều lãnh đạo quốc gia đánh giá như là nhu cầu tự thân. Một số yếu tố khác như nhu cầu hiểu đúng và thực thi các chính sách của Nhà nước từ phía công chúng, nhu cầu cân bằng lợi ích các nhóm xã hội, củng cố sự đồng thuận xã hội và tạo điều kiện cơ chế giám sát từ bên trong có hiệu quả… cũng thúc đẩy Chính phủ nhiều nước nhận thức về quyền tự do thông tin. Nếu quyền này được áp dụng một cách hệ thống với sự quan tâm thích đáng nhằm cân bằng các nhóm lợi ích khác nhau thì quyền này có thể làm thu hẹp việc bất đồng quan điểm, tăng cường tính hiệu quả của các chính sách được ban hành cũng như nâng cao lòng tin của Nhân dân vào hệ thống chính trị.

1.3. Nội dung cơ bản của pháp luật tiếp cận thông tin

Về tổng thể pháp luật tiếp cận thông tin của mỗi nước được cấu thành bởi một số nội dung cơ bản:

- Phạm vi cung cấp thông tin/giới hạn thông tin;

- Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin;

- Các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin;

- Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin;

- Nội dung quyền tiếp cận thông tin;

- Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin;

-  Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện quyền tiếp cận thông tin.

1.3.1. Phạm vi cung cấp thông tin

   Phạm vi cung cấp thông tin là giới hạn những thông tin mà các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin phải cung cấp. Theo nguyên tắc số 2 và số 5 của Bộ nguyên tắc về Luật tự do thông tin và quyền được thông tin của Uỷ ban nhân quyền, Liên Hợp quốc[3], các cơ quan công quyền có trách nhiệm chủ động cung cấp, phổ biến đối với các loại thông tin chủ chốt cần cho công chúng biết một cách rộng rãi và có trách nhiệm cung cấp thông tin theo yêu cầu đối  với loại thông tin cụ thể.

Thể chế hoá các nguyên tắc nói trên, trong các Luật về tiếp cận thông tin của phần lớn các quốc gia đã ban hành đều quy định những loại thông tin chủ chốt sau đây cần được phổ biến công khai và  cung cấp rộng rãi cho công chúng:

  • Thông tin về chức năng, nhiệm vụ, hoạt động, cơ cấu của cơ quan, tổ chức công quyền;
  • Thông tin về  ngân sách gồm mục tiêu ngân sách, chi tiêu ngân sách, thông tin kiểm toán, kết quả đạt được trong hoạt động  của cơ quan công quyền;
  • Thông tin hướng dẫn thủ tục, quy trình sử dụng dịch vụ công do cơ quan công quyền cung cấp hoặc quy trình tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật.
  • Thông tin về Nghị viện: những thảo luận trong các phiên họp, những chính sách mà Nghị viện phê duyệt;
  • Thông tin về quy hoạch đô thị, nông thôn, về các công trình quốc gia, về  chính sách an sinh xã hội và bảo vệ môi trường…;
  • Thông tin về dự báo thời tiết, dịch bệnh, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội…

  Phạm vi quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Luật Tiếp cận thông tin mỗi nước không hoàn toàn giống nhau. Nhìn chung phạm vi của quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Luật theo hai cách chính:

 * Cách thứ nhất, Luật liệt kê một loạt các loại thông tin cơ quan công quyền có trách nhiệm phải công bố trong thời hạn luật định và sau đó là những thông tin miễn trừ tiết lộ. Những nước theo cách này như Ấn Độ, Nga, Trung Quốc…

* Cách thứ hai, Luật xác định và liệt kê những loại thông tin không công khai, hạn chế, miễn trừ tiếp cận.

1.3.2. Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

a) Nguyên tắc mở thông tin một cách tối đa

Theo Toby Mendel, chuyên gia cao cấp của Liên Hợp quốc về Luật Tiếp cận thông tin, khi xây dựng Luật về tiếp cận thông tin/tự do thông tin, nhà làm luật cần tiếp cận theo nguyên tắc thông tin phải được công khai tối đa. Nguyên tắc này cần được thể hiện trong Luật Tiếp cận thông tin của mỗi quốc gia. Nguyên tắc mở thông tin một cách tối đa nghĩa là thông tin cần được cung cấp theo khả năng cao nhất có thể cung cấp.

b) Nguyên tắc các cơ quan công quyền có nghĩa vụ công bố thông tin

   Nội hàm của nghĩa vụ công bố thông tin tập trung ở trách nhiệm của các cơ quan nhà nước công khai một cách rộng rãi, dễ truy cập, tiếp cận, nắm bắt các thông tin về chức năng, nhiệm vụ của mình. Luật mẫu về tự do thông tin do nhóm Article 19 của Liên Hợp quốc chuẩn bị để trợ giúp các quốc gia triển khai xây dựng Luật Tiếp cận thông tin đã dành hẳn một điều riêng về trách nhiệm công bố thông tin của các cơ quan công quyền.

 Nguyên tắc các cơ quan công quyền có nghĩa vụ công bố thông tin không chỉ dừng ở việc đáp ứng thông tin khi có yêu cầu từ phía người dân mà đòi hỏi sự tích cực, chủ động của cơ quan nhà nước trong việc công khai thông tin ngay cả khi chưa hay không có yêu cầu. 

c) Nguyên tắc thúc đẩy “Chính phủ mở”

 Tiếp cận thông tin là một trong những biện pháp thúc đẩy tính minh bạch thực sự của Chính phủ. Cơ quan nhà nước cũng phải chủ động tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật để người dân nhận thức đầy đủ và sử dụng quyền, nghĩa vụ của mình trong tiếp cận thông tin.

d) Nguyên tắc hạn chế phạm vi miễn trừ

  Các trường hợp miễn trừ phải được quy định rõ ràng và ở phạm vi hẹp như có thể, tuỳ thuộc hoàn cảnh cụ thể của quốc gia. Luật mẫu về tự do thông tin thiết kế một số điều khoản về quy định cấm hoặc hạn chế cung cấp thông tin. Không dừng ở đó, luật mẫu có quy định ngoại lệ có nghĩa là có quy định cho phép cung cấp thông tin thuộc danh mục không được cung cấp hay hạn chế cung cấp. Người được yêu cầu không thể từ chối cung cấp thông tin, trừ khi lợi ích cần được bảo vệ lớn hơn lợi ích công khai thông tin. Cơ quan được yêu cầu cũng không thể từ chối cung cấp thông tin vì lý do thông tin đó đã được đăng tải rộng rãi.

e) Nguyên tắc cung cấp thông tin nhanh, hiệu quả, chi phí không quá cao hoặc miễn phí

  Luật mẫu thiết kế quy định về trả lời yêu cầu cung cấp thông tin, thông báo trả lời và lệ phí. Về lệ phí, nguyên tắc chung là khoản lệ phí không được vượt quá chi phí thực tế chi trả cho việc tìm kiếm, chuẩn bị và cung cấp thông tin. Các yêu cầu về cung cấp thông tin cá nhân hoặc thông tin về lợi ích công cộng không phải nộp lệ phí.  

f) Nguyên tắc công khai về hội họp

  Cần công khai các cuộc họp của cơ quan công quyền vì quyền tự do thông tin bao gồm quyền của công chúng được biết những việc chính quyền đang thay mặt Nhân dân làm và quyền được tham gia vào quá trình ra quyết định. Các cuộc họp có thể là họp kín nhưng chỉ được họp kín theo đúng những thủ tục đã định và khi có các lý do thích đáng cho việc tổ chức họp kín.

g) Nguyên tắc bảo vệ cho người cung cấp thông tin (“người thổi còi”)

 Cá nhân tiết lộ thông tin về hành vi vi phạm pháp luật phải được bảo vệ khỏi các chế tài dù là hành chính hay kỷ luật. Người “thổi còi” cần nhận được sự bảo vệ trong trường hợp đã hành động một cách ngay tình và có lý do tin tưởng rằng thông tin đưa ra là đúng và có chứng cứ về hành vi vi phạm pháp luật mà người đó đã phát hiện.

1.3.3. Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin

Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân có thể là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài hoặc người không có quốc tịch.

Với quan niệm tiếp cận thông tin là một quyền dân sự - chính trị, Hiến pháp và luật các nước sử dụng các công thức như “mọi người”, “bất kể người nào”, hay “công chúng”, “người dân” để thể hiện tính phổ quát của quyền này.

Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là cá nhân:

Một số Luật Tự do thông tin hay Luật Bảo vệ dữ liệu cho phép các cá nhân được tiếp cận tài liệu lưu trữ do các cá nhân và các tổ chức tư nhân nắm giữ cũng như cho phép thực hiện quyền được tiếp cận và được sửa đổi các tài liệu lưu trữ cá nhân và bảo đảm rằng, các tài liệu này luôn chính xác và các quyết định được đưa ra không dựa trên các thông tin không có liên quan hoặc không được cập nhật. Quyền này cũng bảo đảm rằng mọi người có thể nhận thức rõ ràng những lợi ích hoặc dịch vụ mà họ có quyền được hưởng và xem họ có được nhận đúng và đủ các lợi ích đó không.

 Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là tổ chức, pháp nhân:

 Ở Ấn Độ, các nhóm hoạt động xã hội cơ sở đã sử dụng quyền được biết để tiếp cận các thông tin về các dự án, các công trình công cộng ở địa phương để biết các khoản tiền đã chi trả thế nào và để người dân có quyền hỏi về việc dự án đã hoàn thành hay chưa và các khoản chi tiêu cho dự án đó là bao nhiêu.

 Luật về tự do tiếp cận thông tin của Cộng hoà Séc ban hành tháng 5/1999 cho phép các thể nhân và pháp nhân quyền tiếp cận các thông tin do các cơ quan nhà nước, cơ quan cộng đồng và các tổ chức tư nhân quản lý công quỹ nắm giữ.

Một số chủ thể đặc biệt:

 Ngoài các chủ thể trên, các văn kiện quốc tế và luật của một số nước còn đề cập đến một số chủ thể được ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận thông tin.

 Luật Hành chính công Đan Mạch điều chỉnh việc tiếp cận hồ sơ tài liệu trong trường hợp một người là một bên có liên quan đến quyết định hành chính[4]. Luật này quy định phạm vi tiếp cận tài liệu rộng hơn so với Luật Tiếp cận thông tin. Luật về Xử lý dữ liệu cá nhân Đan Mạch cho phép các cá nhân được quyền tiếp cận hồ sơ về bản thân mình do các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức tư nhân nắm giữ[5].

1.3.4. Các yếu tố cấu thành quyền tiếp cận thông tin

 Vì những lợi ích to lớn của quyền tiếp cận thông tin, Hiến pháp và luật nhiều nước đều có quy định rộng mở đối với các nội dung của quyền tiếp cận thông tin bao gồm tìm kiếm, thu thập thông tin, yêu cầu cung cấp thông tin và cả truyền bá thông tin (thường được tách khỏi khái niệm “tiếp cận thông tin” nhưng có liên quan đến quyền được thông tin. Nhìn chung, tại các nước, nội dung quyền tiếp cận thông tin có thể được quy định trong các luật khác nhau. Có thể quyền tiếp cận thông tin được Hiến pháp hoá (như Thụy Điển, Na Uy) và xây dựng nội luật về Tự do thông tin và một số các luật khác liên quan như Luật Bảo vệ dữ liệu thông tin, Luật Bí mật, Luật Chống tham nhũng và một số văn bản pháp lý như Bộ nguyên tắc điều hành Chính phủ (Thụy Điển), Nguyên tắc tiếp cận tài liệu công (Thụy Điển)… Đan Mạch để thực thi quyền tự do thông tin còn có các văn bản dưới luật. Đan Mạch lồng ghép các nguyên tắc tự do thông tin vào các luật khác, ví dụ như Luật Minh bạch và Mở trong giáo dục. Luật Tiếp cận tài liệu hành chính công của Đan Mạch áp dụng với hầu hết các cơ quan công, bao gồm công ty và tổ chức khác sử dụng nguồn ngân sách công và có quyền ra chính sách và quyết định do chính quyền trung ương và địa phương trao cho thay cho họ. Luật không áp dụng cho khu vực tư pháp và lập pháp.

a) Tìm kiếm, thu thập thông tin

Các Luật Tự do thông tin quốc gia sử dụng rất nhiều các thuật ngữ khác nhau để mô tả các thông tin mà cá nhân có quyền tiếp cận. Các đạo luật được ban hành từ lâu đời nói chung đều quy định về quyền tiếp cận hồ sơ tài liệu, tài liệu chính thức hoặc tài liệu, trong khi các đạo luật mới được ban hành thì thường quy định về quyền thông tin. Trên thực tế không có nhiều sự khác biệt vì hiện nay hầu hết các luật đã định nghĩa quyền thông tin theo nghĩa rộng nhằm bao hàm tất cả các loại thông tin mà không phụ thuộc vào hình thức chứa đựng các thông tin đó. Tuy nhiên tại một số quốc gia như Thụy Điển, thuật ngữ “tài liệu chính thức” không bao gồm các tài liệu đang trong quá trình chuẩn bị hoặc các dự thảo không được sử dụng trong quá trình ra quyết định cuối cùng. Ở Ấn Độ, luật cũng cho phép các cá nhân được yêu cầu lấy mẫu, ví dụ như mẫu thực phẩm được phân phối hoặc mẫu vật liệu sử dụng để làm đường sá.

 Phần lớn Luật Tiếp cận thông tin các nước có quy định quyền tiếp cận tới tất cả các thông tin do chính phủ lưu giữ mà không chỉ là các tài liệu của Nhà nước/tài liệu chính thức. Một đặc điểm chung của hầu hết các luật là đều quy định các cơ quan Chính phủ có nghĩa vụ phải cung cấp một số loại thông tin nhất định một cách tích cực. Các thông tin này thường bao gồm chi tiết về cơ cấu tổ chức và các quan chức chủ yếu của Chính phủ, lời văn các đạo luật và quy định, các đề xuất và chính sách hiện hành, các biểu mẫu và quyết định. Các luật mới ban hành có xu hướng quy định cụ thể một danh sách các thông tin cần công bố.

b) Yêu cầu cung cấp thông tin

 Quyền tiếp cận thông tin cho phép các công dân hoặc bất kỳ người nào có quyền được yêu cầu các cơ quan Chính phủ cung cấp thông tin.

c) Truyền bá thông tin

 Truyền bá thông tin là một khái niệm có phạm vi khác hơn so với tiếp cận thông tin, gắn với tự do thông tin. Quyền tự do thông tin và tự do truyền tải quan điểm có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như nói, viết, in ấn, điện tử hoặc bằng nghệ thuật…

1.3.5. Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin

Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, về cơ bản, được thể hiện ở các khía cạnh: thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin phải công bố công khai rộng rãi các thông tin; thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định quyền yêu cầu cung cấp các thông tin; quy định thời hạn hợp lý được tiếp cận thông tin, từ chối tiếp cận thông tin và bố trí đầu mối tiếp cận thông tin.

Nhìn chung, luật các nước có những điểm chung nhất định như quy định trách nhiệm chủ động công bố rộng rãi, công khai đến mức tối đa thông tin, tạo cơ sở cho người dân tiếp cận thông tin mà không cần yêu cầu, quy trình cung cấp thuận tiện, dễ tiếp cận, nhanh, rẻ, minh bạch. Gần như tất cả các luật đều quy định yêu cầu bằng văn bản, một số nước như Na Uy, Slovenia,… người yêu cầu có thể gửi yêu cầu bằng miệng hoặc thậm chí qua điện thoại. Luật phần lớn các nước không quy định nghĩa vụ của ngườiyêu cầu phải nêu lý do trong yêu cầu cung cấp thông tin. Nhiều luật quy định cụ thể yêu cầu phải nộp tới công chức cụ thể, trong khi một số nước quy định có thể gửi yêu cầu tới cơ quan công quyền nắm giữ thông tin.

 Phần lớn các luật đều quy định thời hạn tối đa trả lời yêu cầu từ khoảng 15-30 ngày. Phần lớn các luật đều cho phép gia hạn thời gian cung cấp thông tin. Thông thường thì, thời gian mà người nộp đơn phải trả lời các câu hỏi liên quan đến làm rõ hơn một số chi tiết liên quan đến thông tin hoặc để trả lệ phí sẽ không được tính vào thời hạn yêu cầu trả lời. Ở nhiều nước, việc không trả lời được yêu cầu cung cấp thông tin trong thời gian hạn định được coi như từ chối yếu cầu cung cấp thông tin.

 Phần lớn các nước đều quy định việc chuyển giao yêu cầu, hoặc người nộp đơn sẽ được thông báo về việc thông tin do một cơ quan khác nắm giữ, là nơi mà thông tin có liên quan chặt chẽ nhất tới công việc của họ (Anh, Ấn Độ) hay nơi mà việc chuyển giao là “hợp lý” (Nhật). 

 Luật nhiều nước cũng yêu cầu cơ quan công quyền gửi thông báo trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu, nếu đơn yêu cầu được đáp ứng thì thông báo có thể sẽ ghi cả số lệ phí phải nộp, dạng thông tin được đáp ứng, một số quy định liên quan đến quyền khiếu nại; còn khi yêu cầu bị từ chối, thông báo thường ghi rõ lý do từ chối, có thể viện dẫn điều khoản cụ thể trong luật về lý do từ chối, đồng thời cũng có thể ghi cả quyền khiếu nại.

1.3.6. Thủ tục khiếu nại, khiếu kiện

 Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin thường bằng 3 con đường khác nhau: bằng con đường nội bộ hành chính, bằng Uỷ ban thông tin độc lập/Cao uỷ viên thông tin độc lập, bằng con đường tòa án.

Nhìn chung, quyền được khiếu nại hay kháng cáo của cá nhân được thừa nhận rộng rãi trong luật các nước. Các luật khác nhau quy định các biện pháp giải quyết khiếu nại cũng khác nhau, khiếu nại nội bộ là cách thức được lựa chọn đầu tiên và phổ biến nhất, tiếp theo là khiếu nại đến một cơ quan giám sát độc lập và/hoặc khởi kiện tới tòa án. Luật của Nam Phi, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Peru, Slovenia quy định cụ thể về cơ chế khiếu nại nội bộ, tức khiếu nại trực tiếp lên cơ quan hành chính có thẩm quyền cao hơn cơ quan đã từ chối cung cấp thông tin. Ở Anh, khiếu nại nội bộ là một thủ tục bắt buộc trước khi khiếu nại tới một cấp xét xử khác.

 Nhiều luật thiết kế một cơ quan giám sát độc lập đóng vai trò giải quyết các khiếu nại liên quan đến tiếp cận thông tin ví dụ Cao uỷ viên, Uỷ ban Thông tin hay Thanh tra Nhà nước/Thanh tra Nghị viện hoạt động độc lập. Một xu hướng ngày càng phổ biến là thành lập một Uỷ ban Thông tin độc lập, đây có thể là cơ quan của Quốc hội, cơ quan độc lập thuộc Chính phủ (Văn phòng Chính phủ) hoặc một cơ quan hoàn toàn độc lập. Đến năm 2006 đã có 22 nước thành lập cơ quan dạng này. Ở một số nước như Pháp, Canada, cơ quan này có thẩm quyền tương tự như Thanh tra Quốc hội. Tại Slovenia, Serbia, Ireland, Anh, Uỷ ban Thông tin có quyền ban hành các quyết định có tính bắt buộc, trừ một số ít trường hợp. Trong nhiều trường hợp khiếu nại thông qua hệ thống thanh tra nhanh hơn và có thể giải quyết bằng hoà giải hơn là bằng các vụ kiện lên hệ thống tư pháp gây tốn kém và thủ tục lâu hơn.

Tại một số nước thành lập một cơ quan dạng tòa án chuyên giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin như Ban Thẩm tra việc Công khai thông tin ở Nhật hay ở Úc, có Tài phán Phúc tra hành chính.  Bên cạnh đó, công dân Úc cũng có thể khiếu nại với Thanh tra Quốc hội liên bang. Tại một số nước như Anh hay Thái Lan, luật quy định cả hai cơ chế: hình thành cơ quan giám sát độc lập và một Toà trọng tài (Tribunal) chuyên biệt có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại. Nhiều nước, nhưng không phải là tất cả, luật quy định cơ quan xét xử phúc thẩm cuối cùng là tòa án. Tòa án giải quyết tại Ba Lan là tòa án hành chính ở địa phương có cơ quan là bị đơn, tại Hàn Quốc, Na Uy, Nam Phi, Nga là tòa án thẩm quyền chung, tại Peru là tòa án theo thủ tục bảo hiến habeas data, tại Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ là Tòa án hành chính, ở Antigue và Barbuda là Toà thượng thẩm. Ở Ecuado, không chỉ cá nhân mà thanh tra quốc hội cũng có thể khởi kiện, và quyết định của tòa án cũng có thể bị kháng cáo lên Tòa án Hiến pháp.

1.3.7. Hình phạt, các biện pháp bảo hộ, các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật.

a) Hình phạt

 Phần lớn luật các nước quy định một số hình thức trừng phạt đối với cá nhân có dụng ý cản trở việc tiếp cận thông tin, một số nước khác thì quy trách nhiệm trực tiếp cho cơ quan công quyền. Tại một số nước như Jamaica, Bulgary, Nam Phi và Peru, cản trở có chủ ý việc tiếp cận thông tin được coi là một tội phạm hình sự và hình phạt có thể là hình phạt theo Luật Hình sự, thông thường là phạt tù. Một số nước khác như Mexico, luật quy định trách nhiệm hành chính đối với các vi phạm này.

b) Các biện pháp bảo vệ

 Nhiều luật đã quy định việc bảo vệ hành động công khai thông tin có thiện chí. Một số luật (Uganda, Ấn Độ, Nam Phi) có quy định bảo vệ công chức đối với bất kỳ hoạt động nào liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc có hàm ý thực hiện nhiệm vụ theo quy định của luật.

 Một số nước quy định nghĩa vụ công khai các thông tin ngoại lệ. Luật của Thụy Điển là một ví dụ, Thụy Điển quy định nghĩa vụ theo Bộ luật Hình sự và cũng đặt ra một số nghĩa vụ trực tiếp.

Luật Tiếp cận thông tin của nhiều nước  như Anh, Nam Phi, Hoa Kỳ quy định hình thức bảo vệ “người thổi còi”. Đây là biện pháp an toàn quan trọng nhằm hỗ trợ bảo đảm các thông tin cơ bản vì lợi ích công cộng được công khai.

 c) Các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật

  Một số nước như Mexico, Anh, Nam Phi hay Ấn Độ quy định khá nhiều các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật. Nhiều luật quy định việc bổ nhiệm các công chức tận tụy với công việc đảm nhiệm nhiệm vụ công chức thông tin nhằm hỗ trợ việc thực thi pháp luật.

  Tại Uganda và Nam Phi, người đứng đầu các cơ quan công chịu trách nhiệm thực hiện chức năng của công chức thông tin, mặc dù họ có thể chỉ định những người được uỷ quyền để thực hiện các công việc hàng ngày. Luật của Ấn Độ quy định việc bổ nhiệm nhiều cán bộ mẫn cán làm công chức thông tin. Tại Hoa Kỳ, cơ quan công quyền còn phải chỉ định các trung tâm hỗ trợ người yêu cầu cung cấp thông tin, công chức giám sát việc giải quyết các khiếu nại nội bộ.

  Một số luật cũng quy định việc phải hướng dẫn và giải thích cho công chúng về quyền được tiếp cận thông tin của họ và cách thức gửi đơn yêu cầu, trong khi một số nước khác thì quy định việc xây dựng các hướng dẫn này dưới dạng các quy tắc về thực hành nhiệm vụ. Tại một số nước, cơ quan trung ương sẽ làm nhiệm vụ hướng dẫn, trong khi ở một số nước khác từng cơ quan công phải xây dựng các quy định hướng dẫn. Tại Nam Phi, Uỷ ban Nhân quyền còn có thêm nhiệm vụ xây dựng hướng dẫn trên phạm vi toàn quốc bằng 11 ngôn ngữ chính thức của quốc gia này.

 Nhiều nước quy định tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc quản lý hồ sơ tài liệu, một số hình thức báo cáo về việc thực thi pháp luật và tại một số nước quy định cơ quan giám sát có trách nhiệm chung là thúc đẩy việc thực thi pháp luật. Tại Kyrgyzstan, luật quy định việc rà soát tất cả các văn bản luật có các quy định liên quan đến việc hạn chế công khai thông tin để từ đó xem xét dưới góc độ của Luật Tiếp cận thông tin.

 Để quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm thiết thực, vai trò của các tổ chức xã hội dân sự là rất quan trọng. Tại nhiều quốc gia, các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội,… có vai trò quan trọng thúc đẩy và giám sát thực thi Luật Tiếp cận thông tin. Các Ombudsman với tư cách là “người bảo vệ công chúng”, một thiết chế lưỡng tính, kết nối với Nhà nước và xã hội, hoạt động độc lập để bảo vệ lợi ích của người dân, bao gồm cả quyền tiếp cận thông tin.

Chương II

PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN/ TỰ DO THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

2.1. Pháp luật về tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế

Quyền tiếp cận thông tin đã trở thành mối quan tâm trên phạm vi quốc tế, sau khi Liên Hợp quốc ra đời. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng Liên Hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 59(1), quy định: “tự do thông tin là quyền con người cơ bản và… nền tảng của tất cả các tự do khác…”. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người được thông qua vào năm 1948 đã liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của cá nhân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các chính phủ trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền này. Quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và trong một số công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003…Ở cấp độ khu vực và quốc gia, quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Công ước Nhân quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR), và trong Chương trình hành động chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương[6] cũng đã quy định rõ về tiếp cận thông tin: bảo đảm rằng công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng một cách phù hợp với pháp luật trong nước[7]…Hiện nay, các nước trên thế giới dù khác nhau về thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế hay sự khác biệt về văn hoá trong pháp luật quốc gia đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tính đến năm 2010 đã gần 90 quốc gia ban hành Luật Tiếp cận thông tin công.

2.2. Các đặc điểm chung và đặc thù của pháp luật tiếp cận thông tin và thực hiện pháp luật tiếp cận thông tin của các nước trên thế giới

Trên cơ sở phân tích Luật Tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới gồm có một số nước Châu Âu, Châu Mỹ-La tinh, Châu Phi, Châu Á và Châu Úc, nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu tổng hợp và đưa ra các đặc điểm chung và đặc thù của pháp luật tiếp cận thông tin và thực hiện pháp luật tiếp cận thông tin của các nước trên thế giới.

 Theo đó, các luật tự do thông tin/tiếp cận thông tin trên khắp thế giới có nhiều điểm tương đồng. Nguyên nhân chủ yếu của sự tương đồng này là các quốc gia ban hành Luật Tiếp cận thông tin thường học hỏi kinh nghiệm các quốc gia đã đi trước và những quy định hợp lý thường được tiếp nhận như là một yếu tố của hội nhập quốc tế. Cũng theo David Banisar thì gần đây có một số Luật Tự về do thông tin đã có một số sáng tạo. Các đạo luật mới ban hành đã có một số quy định mới chưa từng có trong các đạo luật trước đây như việc quy định các Uỷ viên thông tin có quyền hạn và chức năng thi hành luật. Việc xem xét đến các lợi ích công cộng trong quá trình quyết định giữ bí mật hay công bố thông tin cũng như phạm vi điều chỉnh đối với các cơ quan nhà nước ngày càng sâu rộng hơn.

2.2.1. Các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin

  Hầu hết các luật về tự do thông tin/tiếp cận thông tin đều quy định các cơ quan hành pháp có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Một số quốc gia cũng quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan toà án và cơ quan lập pháp. Nhiều quốc gia quy định các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Khái niệm cơ quan nhà nước thường được hiểu là bất kỳ cơ quan nào thực hiện chức năng của Chính phủ. Luật Tiếp cận thông tin của Bồ Đào Nha quy định các cơ quan thực hiện chức năng công đều có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Một số quốc gia như Ireland quy định một danh sách các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho công chúng.

2.2.2 Những người có quyền yêu cầu cung cấp thông tin

 Hầu hết các quốc gia hiện nay đều cho phép bất kỳ người nào đều có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà không kể các lợi ích pháp lý có liên quan hay không, có là công dân hay cư trú tại quốc gia đó hay không[8]. Một số quốc gia như Phần Lan còn cho phép việc đưa ra các yêu cầu vô danh nhằm bảo đảm rằng người yêu cầu cung cấp thông tin không bị phân biệt đối xử. Theo David Banisar việc đặt ra các hạn chế nghiêm ngặt hơn có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tiếp cận thông tin ví dụ như trên thực tiễn một số quan chức Ấn Độ yêu cầu phải đưa ra các chứng cứ chứng minh mình là công dân Ấn Độ khi họ yêu cầu tiếp cận thông tin mặc dù biết rằng không nhiều người dân Ấn Độ có hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân.

2.2.3  Các thông tin được miễn trừ cung cấp

  Tuy không hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên hầu hết Luật Tiếp cận thông tin/tự do thông tin trên thế giới thường có những quy định về miễn trừ cung cấp các thông tin sau đây: Tài liệu về vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra; Tài liệu nội bộ đang trong quá trình chuẩn bị chưa được chính thức phê chuẩn hoặc thông qua; Tài liệu thông tin về an ninh quốc phòng; Tài liệu liên quan đến bí mật thương mại; Tài liệu liên quan đến bí mật cá nhân.

2.2.4 Xử lý khiếu nại, khiếu kiện về từ chối cung cấp và yêu cầu thông tin

Luật Tiếp cận thông tin của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định về việc xử lý khiếu nại, khiếu kiện về việc từ chối cung cấp thông tin, tuy nhiên cách thức xử lý có thể bằng các con đường khác nhau. Bất kỳ quốc gia nào muốn cho việc xử lý khiếu nại khiếu kiện có hiệu quả cao thì phải bảo đảm tính độc lập của hệ thống cơ quan thực hiện quyền giám sát thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Hệ thống cơ quan giám sát độc lập có thẩm quyền tiếp nhận, điều tra và giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện của các cá nhân, tổ chức. Trên thế giới hiện nay, trừ con đường giải quyết nội bộ hành chính có hai cách lực chọn khác nhau về việc tổ chức cơ quan giám sát độc lập này. Cách thứ nhất là thành lập Uỷ ban thông tin độc lập hay Thanh tra Nhà nước/Thanh tra Quốc hội (hoặc Cao uỷ viên về quyền tiếp cận thông tin). Ví dụ, các nước Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch có Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân cùng với các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội khác của họ. 

Theo nhận xét của chuyên gia hàng đầu của Liên Hợp quốc về quyền tiếp cận thông tin thì cách mà phần lớn các quốc gia đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin lựa chọn là thành lập cơ quan giám sát và giải quyết khiếu nại, khiếu kiện độc lập – Cao uỷ viên thông tin.

2.2.5 Các khoản lệ phí cung cấp thông tin

  Luật Tiếp cận thông tin/tự do thông tin của đa số các nước trên thế giới cho phép Chính phủ được thu lệ phí đối với người yêu cầu cung cấp thông tin. Cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin sẽ phải chịu hoàn toàn phí tổn của việc sao chép thông tin được yêu cầu. Mức lệ phí sẽ được nêu ở quy định về thủ tục hành chính của mỗi một cơ quan công cộng. Theo David Banisar, các khoản lệ phí thường được quy định trong việc cung cấp thông tin là lệ phí nộp đơn, tìm kiếm, sao chép và lệ phí khiếu nại. Các khoản lệ phí không nên đặt ra quá cao vì nó sẽ làm giảm các yêu cầu cung cấp thông tin.

2.2.6 Văn hoá giữ bí mật - sự khó khăn và cản trở việc đưa pháp luật vào cuộc sống ở một số quốc gia

Theo Báo cáo tự do thông tin thế giới năm 2006, do các yêu cầu về minh bạch và cởi mở trên toàn cầu nên nhiều quốc gia đã ban hành Luật Tiếp cận/tự do thông tin, tuy nhiên chỉ trên danh nghĩa mà không phải là thực chất.

Trong thực tiễn ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước Châu Á và Châu Phi văn hoá bí mật vẫn còn ngự trị. Việc xây dựng và phát triển một nền văn hoá minh bạch và cởi mở chắc chắn sẽ gặp nhiều lực cản. Các quan chức Chính phủ phải có thời gian học hỏi để thay đổi tư duy chuyển từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ, coi thông tin mình nắm giữ không phải là tài sản của riêng mình mà là tài sản của công chúng. Cung cấp thông tin cho công chúng là nghĩa vụ của công chức, nghĩa vụ của Chính phủ.

2.3. Những kinh nghiệm có thể áp dụng vào Việt Nam

Tại Việt Nam, các cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách hay thực hiện chức năng công quyền rất rộng và yêu cầu minh bạch hoá hoạt động của hệ thống cơ quan công quyền, chống tham nhũng là đòi hỏi bức xúc hiện nay, vì thế quá trình xây dựng dự thảo Luật Tiếp cận thông tin cần tham khảo luật các nước khác, cả quá trình thực hiện, để có thể ban hành một đạo luật có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Luật cần chi tiết về các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh, quy định cụ thể các thông tin cần công khai, các thông tin ngoại lệ, đặc biệt là thủ tục cung cấp thông tin, cũng như chế tài xử phạt người vi phạm luật, bảo vệ người tố cáo, cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, và có cơ chế thúc đẩy luật có hiệu lực trên thực tế. Từ kinh nghiệm của các nước đã ban hành và thực hiện Luật Tiếp cận/tự do thông tin, nhóm nghiên cứu thấy rằng Luật Tiếp cận thông tin ở Việt Nam phải thể hiện được các nội dung cơ bản sau đây:

  • Xác định thông tin do Chính phủ nắm giữ là một trong những tài sản quốc gia, thuộc quyền sở hữu của Nhân dân, quyền tiếp cận thông tin do Chính phủ nắm giữ là một trong những quyền quan trọng của con người và công dân, cung cấp thông tin công cho cá nhân là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước.
  • Phạm vi cung cấp thông tin là tất cả các thông tin chính thức ngoại trừ  các thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật thương mại, bí mật cá nhân, và các thông tin liên quan đến hoạt động  điều tra, truy tố tội phạm. Danh sách các thông tin miễn trừ cung cấp phải công khai cho dân chúng được biết.
  • Khi xẩy ra tranh chấp giữa việc xác định một thông tin cần được công khai hay không công khai thì nguyên tắc xác định dựa trên lợi ích cho xã hội từ việc công bố hay không công bố mang lại. Khi lợi ích của việc công bố lớn hơn lợi ích không công bố thì thông tin cần được công bố cho dân chúng biết. Quyền quyết định công bố thông tin thuộc Cao uỷ viên thông tin-một chức vụ hiến định do Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
  • Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là tất cả cá nhân gồm công dân Việt Nam, công dân nước ngoài và người không có quốc tịch.
  • Cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp có trên 50% vốn của Nhà nước.
  • Thủ tục tiếp cận thông tin do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định bằng một Pháp lệnh về thủ tục tiếp cận thông tin.
  • Các khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin được giải quyết bởi Uỷ ban thông tin độc lập là cơ quan hiến định do Quốc hội thành lập.
  •  Lệ phí cung cấp thông tin do Pháp lệnh về thủ tục cung cấp thông tin quy định.
  • Các biện pháp bảo đảm thực hiện Luật Tiếp cận thông tin bao gồm chế tài hành chính và chế tài hình sự.

Chương III

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM  HIỆN NAY

3.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam

Ở nước ta quyền được thông tin tuy chưa được quy định trực tiếp trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, tuy nhiên trong mấy chục năm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước vẫn tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận thông tin phù hợp hoàn cảnh của đất nước. Đến Đại hội VII của Đảng năm 1991, quyền được thông tin đã được xác định trong Cương lĩnh của Đảng, là cơ sở để năm 1992, Hiến pháp mới được thông qua bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật”. Sau khi Hiến pháp 1992 được ban hành, đã có nhiều văn bản quy định quyền được thông tin trong một số phạm vi cụ thể. Ví dụ: Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, được sửa đổi năm 2003, Luật Báo chí năm 1989 sửa đổi năm 1999, Luật Xuất bản năm 2004, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán Nhà nước, Luật Nhà ở, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, … Các đạo luật tổ chức các cơ quan nhà nước cũng quy định về công khai hoạt động, cung cấp tin tức để người dân được tiếp cận thông tin. Các đạo luật về tố tụng cũng quy định công khai trong hoạt động xét xử.

Tuy nhiên, chưa có một văn bản nào giải thích khái niệm quyền được thông tin của công dân là gì, mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm của cơ quan công quyền, công khai minh bạch trong một số lĩnh vực và quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân, công dân, cơ quan báo chí được yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan, có trách nhiệm cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan, tổ chức.

3.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay

3.2.1. Quyền tìm kiếm, trao đổi thông tin

Quyền tiếp cận thông tin trước hết thể hiện ở quyền tự do tìm kiếm, trao đổi thông tin. Ngoài việc tìm kiếm thông tin bằng các phương tiện nghe, nhìn và thông tin trong sách, báo truyền thống, việc tìm kiếm thông tin có thể thực hiện thông qua mạng internet. Theo quy định của Luật Công nghệ thông tin năm 2006, các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin có quyền tìm kiếm trao đổi, sử dụng thông tin trên môi trường mạng, có quyền yêu cầu khôi phục thông tin của mình hoặc khôi phục  khả năng truy cập  đến nguồn thông tin của mình, từ chối cung cấp hoặc nhận trên môi trường mạng sản phẩm, dịch vụ trái với quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về việc đó (Điều 8).

3.2.2. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin

Các cá nhân và tổ chức có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà các cơ quan công quyền đang nắm giữ loại trừ các thông tin mật. Luật Phòng, chống tham nhũng ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân, cơ quan, tổ chức (trong đó có cơ quan báo chí, các phóng viên). Cơ quan, tổ chức được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu đó theo quy định của pháp luật, trường hợp không cung cấp thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do (Điều 86). Luật Phòng, chống tham nhũng còn quy định nghĩa vụ của cơ quan thanh tra cung cấp thông tin về phòng chống tham nhũng cho bộ, ngành, địa phương. Theo quy định tại Điều 18 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị về cung cấp thông tin Thanh tra chính phủ có nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu. Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, cơ quan nhà nước có nghĩa vụ cung cấp thông tin về hoạt động của mình trong công tác phòng, chống tham nhũng cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.

3.2.3. Quyền phổ biến thông tin

 Quyền phổ biến thông tin là một  yếu tố quan trọng của quyền tiếp cận thông tin. Phổ biến thông tin là quyền được truyền đạt thông tin của mình có cho người khác, nhờ sự truyền đạt này mà thông tin của một cá nhân, tổ chức tạo ra đến được với nhiều cá nhân, tổ chức khác. Thông qua sự phổ biến này mà thông tin thể hiện được giá trị của mình. Ngày nay, với công nghệ tin học, khi một thông tin được đưa lên mạng trong giây lát nó có thể đến với hàng triệu người, nhờ vậy những thông tin có giá trị khoa học và thực tiễn cao có  thể dễ dàng thể hiện được giá trị của mình nếu nó được phổ biến. Luật Xuất bản năm 2004 đã quy định nguyên tắc bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm và bảo hộ quyền tác giả. Tại Điều 5 Luật này đã quy định: “Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả”. Dưới hình thức xuất bản phẩm và bảo hộ quyền tác giả các thông tin chứa đựng các ý tưởng sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ sẽ được phổ biến và lưu truyền, quyền của người sáng tạo ra tác phẩm sẽ được bảo vệ. Tuy nhiên, quyền phổ biến thông tin ở Việt Nam hiện nay bên cạnh những ưu điểm, những mặt tích cực trên thực tiễn vẫn đang tồn tại những biểu hiện lệch lạc. Một mặt, một số nhà xuất bản thiếu mạnh dạn, thiếu can đảm công bố các công trình nghiên cứu nói về mặt trái trong cấu trúc các thiết chế chính trị, chính trị-xã hội, chế độ bầu cử, các biểu hiện của dân chủ hình thức bằng cách không xuất bản hoặc cắt xén  các phần gai góc trong các công trình nghiên cứu. Nhiều người chỉ muốn cho vỡ quả trứng luôn tròn trịa, không bị sứt vỡ mà không biết rằng gà con chỉ có thể ra đời khi vỡ quả trứng bị vỡ. Mặt khác, chúng ta chưa xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm bí mật đời tư, vi phạm các quy tắc bảo vệ thuần phong, mỹ tục khi thỉnh thoảng chúng ta lại phải chứng kiến những hình ảnh tục tĩu, hoặc những thông tin thuộc bí mật cá nhân lại được phát tán trên mạng.

3.2.4. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân thông qua các quy định về trách nhiệm công khai thông tin của các cơ quan, tổ chức

  Ở Việt Nam, mặc dù chưa có đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin, nhưng nghĩa vụ của các cơ quan công quyền trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho công dân đã được thể hiện trong  nhiều văn bản  luật khác nhau. Khoản 3 Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban  hành văn bản quy phạm pháp luật trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước; bảo đảm tính minh bạch trong các quy định của pháp luật”. Theo quy định tại khoản 2 Điều 78 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành (trừ văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước). Trong thời gian chậm nhất là 2 ngày làm việc kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo. Cơ quan Công báo có trách nhiệm đăng toàn văn văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo trong 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của Luật này, thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.

 Theo Điều 3 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch; Khoản 1 Điều 13  của Luật này quy định dự toán, kiểm toán, kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước, ngân sách các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ phải công bố công khai. Theo Luật Kế toán 2003, đơn vị kế toán là cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước phải công khai quyết toán thu, chi ngân sách hàng năm và các khoản thu, chi tài chính khác (Điều 32). Điều 58, 59 Luật Kiểm toán năm 2005 quy định báo cáo kiểm toán năm và báo cáo thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội sẽ được công bố công khai theo các hình thức họp báo, công bố trên Công báo và phương tiện thông tin đại chúng…

 Mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về việc công khai thông tin, tuy nhiên rất ít văn bản quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin khi công dân yêu cầu. Do không có một đạo luật riêng quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của tất cả các cơ quan công quyền nên, như kết quả khảo sát đã trình bày ở phần “Tình hình nghiên cứu” hầu hết các cơ quan, cán bộ, công chức chưa nhận thức được một cách sâu sắc rằng họ có nghĩa vụ cung cấp thông tin công do họ đang nắm giữ (trừ các thông tin mật) cho các cá nhân và tổ chức khi họ yêu cầu.

  3.2.5. Nội dung, phạm vi các vấn đề, lĩnh vực cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai trong hoạt động, bảo đảm quyền được biết của công dân trong một số văn bản pháp luật

  Các vấn đề, lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan công quyền phải công khai được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

 Pháp lệnh Dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 tại Điều 5 liệt kê 11 lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai cho dân biết, bao gồm: kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự án, công trình đầu tư, nhiệm vụ, quyền hạn cán bộ công chức của cấp xã; việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, chủ trương kế hoạch cho Nhân dân vay vốn để phát triển sản xuất,…

    Luật Kế toán năm 2003 quy định nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và đơn vị sự nghiệp không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.

 Luật Kiểm toán năm 2005 quy định: công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58). Báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội được công bố công khai theo quy định của pháp luật. Điều 59 của Luật quy định: công khai báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán sau khi phát hành được công bố công khai cùng với báo cáo tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Luật Kế toán.

 Trên lĩnh vực nhà ở, Nghị định số 90/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13/9/2006 quy định chi tiết hướng dẫn Luật Nhà ở năm 2005 có quy định UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại.

 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định nội dung nguyên tắc công khai, minh bạch tại Điều 11: Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ. Từ Điều 13 đến Điều 30 quy định 18 nội dung các lĩnh vực, cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ công quyền phải công khai như: trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản; trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản; về tài chính và ngân sách nhà nước; trong việc huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của Nhân dân; trong việc quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ; trong quản lý doanh nghiệp nhà nước; trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước; trong quản lý sử dụng đất…v.v. Điều 33 quy định công khai báo cáo hàng năm về kết quả công tác đấu tranh chống tham nhũng.

 Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005 tại Điều 6 quy định các lĩnh vực công khai bao gồm phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước; tài sản và kế hoạch mua sắm, sử dụng tài sản trong cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước;…

 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 tại Điều 104 quy định công khai thông tin, dữ liệu về môi trường bao gồm: báo cáo đánh giá tác động môi trường, quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế hoạch thực hiện các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; cam kết bảo vệ môi trường đã đăng ký;…v.v.

 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 tại Điều 8 có quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được đăng Công báo cấp tỉnh. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều này".

 Trước đó, Nghị định số 104/2004/NĐ-CP ngày 23/3/2004 của Chính phủ về Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định các văn bản phải đăng trên Công báo ở Trung ương.

Quy định về công khai cũng được quy định tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008, Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Cư trú năm 2006, Luật Điện lực năm 2004, Luật Dược năm 2004, Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Xây dựng năm 2003, Luật Công nghệ thông tin, Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.

 Nhằm tiếp tục bảo đảm tính công khai minh bạch trên lĩnh vực quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, ngày 13/9/2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số  92/2006/NĐ-CP về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh có trách nhiệm công khai quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội cả nước, các vùng, các tỉnh, huyện, các ngành, lĩnh vực để mọi công dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận nghiên cứu và khai thác…

 Trong các văn bản này và các văn bản hướng dẫn thi hành, có quy định về các hình thức công khai thông tin và cách thức cung cấp thông tin, quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm, thời hạn cơ quan công quyền phải cung cấp trả lời, cũng như các hình thức xử lý vi phạm mặc dù có thể chưa cụ thể, rõ ràng.

 Nhìn chung, pháp luật nước ta đã từng bước hoàn thiện theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy công quyền. Đáng chú ý là các văn bản pháp luật được ban hành sau việc quy định trách nhiệm công khai minh bạch và cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước có phần rõ hơn so với các văn bản ban hành trước. Tuy nhiên, nếu nhìn vào hiện trạng pháp luật và quá trình thực thi pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy quyền được tiếp cận thông tin của công dân Việt Nam vẫn còn hạn hẹp, nhiều bất cập khó thực hiện trên thực tế và có lúc, có nơi vẫn còn bị vi phạm nghiêm trọng.

 Việc tiếp cận thông tin do các cơ quan công quyền còn rất khó khăn, vì thế tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan này chưa được thực hiện, cụ thể như trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai,…Vì thế hiện tượng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật trong các cơ quan công quyền còn phổ biến, dẫn đến hiện tượng khiếu kiện đông người, kéo dài hay vượt cấp…

 Việc thiếu các quy định cụ thể về thủ tục, trình tự yêu cầu, biện pháp xử lý vi phạm dẫn tới việc khai thác, tìm kiếm thông tin từ cơ quan công quyền vẫn thường hay bị gây phiền hà. Quyền được phổ biến thông tin, bày tỏ quan điểm, tiếp nhận thông tin một cách tự do gắn với quyền được thông tin còn thiếu cơ chế để thực hiện, các quy định hiện hành rất mờ nhạt. Hiện tượng bưng bít thông tin của các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh làm thiệt hại đến lợi ích của người dân khá phổ biến. Các phương tiện truyền thông còn bị hạn chế trong tiếp cận thông tin từ phía cơ quan công quyền, tổ chức và doanh nghiệp. Công tác phổ biến pháp luật còn yếu kém. Trình độ dân trí chưa cao, các hoạt động báo chí, truyền thanh, truyền hình, xuất bản còn nhiều hạn chế, vì thế người dân chưa nhận thức được đầy đủ quyền của mình, thậm chí có khi thờ ơ với thông tin từ phía Nhà nước. Ngoài ra, hiện cũng chưa có quy định cụ thể người phát ngôn của cơ quan công quyền phải tiếp nhận, trả lời các yêu cầu trực tiếp của công chúng. 

 Các văn bản về thông tin miễn trừ tiếp cận (quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Bảo vệ môi trường, Quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ v.v. ) quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, thiếu tính đồng bộ… cản trở cho việc tiếp cận thông tin của người dân hay gây khó khăn cho cơ quan, cán bộ cung cấp thông tin cho người dân cũng như làm công tác bảo mật.

 Xuất phát từ thực tiễn tổ chức, lãnh đạo và quản lý nhà nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra chủ trương nghiên cứu ban hành Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Đây là cơ sở để thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin của người dân, góp phần vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu trong bộ máy nhà nước và các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước.                    

Chương IX

XÂY DỰNG LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Tiếp cận thông tin ở Việt Nam

4.1.1. Cơ sở lý luận xây dựng Luật Tiếp cận thông tin

    Như trên đã trình bày, quyền được thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, gắn với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và là cơ sở để bảo đảm  mỗi cá nhân thực thi hay bảo vệ các quyền và lợi ích khác của bản thân. Quyền được thông tin hay tiếp cận thông tin là một nhu cầu chính đáng của Nhân dân, góp phần để Nhân dân nắm bắt được và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội công dân, chống lại tham nhũng, lãng phí, quan liêu từ phía các cơ quan nhà nước, là một nguồn lực mọi công dân được bình đẳng khai thác phục vụ cho mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân. Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều quy định rõ về quyền tiếp cận thông tin. Theo đó, quyền tiếp cận thông tin có bốn thành tố là: quyền tự do giữ quan điểm không bị sự can thiệp; quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến. Quyền tiếp cận thông tin còn được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển năm 1992...

   Quyền tự do thông tin cũng được hầu hết các Nhà nước trên thế giới nhận thức là một quyền cơ bản, và trên cơ sở sự thúc đẩy thực hiện quyền này của các tổ chức và công dân, Hiến pháp và pháp luật nhiều quốc gia cũng đã có những quy định rộng rãi về tự do thông tin. Gần 90 quốc gia đã ban hành đạo luật riêng về tiếp cận thông tin hay tự do thông tin.

Đứng trước yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, bảo đảm thiết thực quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra không chỉ trên lý thuyết suông mà phải đi vào cuộc sống, trước những đòi hỏi của yêu cầu chống tham nhũng và tạo điều kiện kinh tế dân doanh phát triển, việc xây dựng đạo luật tiếp cận thông tin là hết sức cần thiết, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Đạo luật này cũng là đòi hỏi của xã hội trên cơ sở trình độ dân trí đã nâng cao, nhu cầu tìm kiếm thông tin từ phía người dân, sự phát triển khoa học công nghệ và các phương tiện truyền tải thông tin, sự mở cửa của Việt Nam hội nhập ngày càng nhiều hơn vào sân chơi quốc tế trên mọi mặt kinh tế, văn hoá - xã hội.

4.1.2. Cơ sở thực tiễn xây dựng Luật Tiếp cận thông tin

Mặc dù Hiến pháp 1992 đã có quy định về quyền được thông tin của công dân, tuy nhiên hiện nay nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân cũng như của một số cán bộ nhà nước cũng chưa được đáp ứng một cách đầy đủ vì thông tin không được cung cấp thường xuyên và có hệ thống. Việc tìm kiếm, tiếp cận thông tin còn gặp nhiều khó khăn và thiếu tính kịp thời vì việc người dân có được thông tin hay không còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của cơ quan nhà nước hoặc cán bộ công chức. Hơn thế nữa, mặc dù một số thông tin có trong các văn bản, tài liệu theo quy định pháp luật hiện hành là phải công khai, song các quy định về công khai các văn kiện, tài liệu này nằm rãi rác ở trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau gây khó khăn cho việc tìm kiếm của người dân, đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước khi xác định trách nhiệm của mình trong việc xác định thông tin nào phải công khai, công khai dưới hình thức nào và khi nào.

  Trong thực tiễn, liên quan đến khả năng tiếp cận thông tin cũng như công tác phòng, chống tham nhũng một vấn đề đang vướng mắc hiện nay là phạm vi thông tin được tiếp cận còn nhiều hạn chế. Các quy định về bí mật nhà nước nói chung và danh mục bí mật nhà nước nói riêng chưa thật cụ thể và có một số điểm chưa hợp lý. Do đó, tình trạng lạm dụng các quy định về bí mật nhà nước để không công khai những vấn đề thực sự không thuộc phạm vi bí mật nhà nước dẫn đến hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân.

 Theo chuyên gia pháp luật Phạm Anh Tuấn ngay cả đối với một số tài liệu không đóng dấu mật, không ghi rõ giới hạn về đối tượng được khai thác sử dụng, nhưng cũng không được công khai và người dân khó tiếp cận những tài liệu đó khi có nhu cầu. Luật Phòng, chống tham nhũng có quy định 18 lĩnh vực phải công khai thông tin, tuy nhiên quy định này cũng chỉ mới giải quyết một phần vướng mắc vì rất nhiều thông tin nằm ngoài 18 lĩnh vực nói trên cũng phải công bố công khai. Mặc dù, pháp luật hiện hành có quy định về nghĩa vụ công khai thông tin, tuy nhiên lại chưa quy định rõ những thông tin nào cơ quan nhà nước chủ động công bố để người dân tự tiếp cận, tìm hiểu, thông tin nào chỉ được cung cấp theo yêu cầu của người dân. Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản pháp luật có liên quan chưa có các quy định đầy đủ để tạo ra một cơ chế thực thi quyền tiếp cận thông tin có hiệu quả. Ví dụ, Nghị định của Chính phủ cụ thể hoá Luật Phòng, chống tham nhũng quy định cán bộ, công chức không cung cấp thông tin sẽ bị kỷ luật nhưng lại chưa quy định rõ chế tài đối với từng hành vi vi phạm cụ thể là gì[9], vì vậy trên thực tế khó có thể áp dụng được. Do các quy định của pháp luật còn nhiều bất cập nên tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền chưa được bảo đảm thực hiện. Việc thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc công khai thông tin đã dẫn đến tình trạng lợi dụng quyền lực tạo ra đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác dễ dàng tiếp cận thông tin để trục lợi cá nhân, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, đầu tư. Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin có hiệu quả đã làm hạn chế  sự tham gia của các cá nhân và tổ chức vào hoạt động giám sát, phản biện nhằm hoàn thiện chính sách và các quy định của pháp luật nhà nước. Trong việc thực thi các dự án quy hoạch và cải tạo thành phố việc thiếu công khai minh bạch sẽ dễ dàng dẫn đến tình trạng tham nhũng. Đối với một số người dân, do không biết rõ những thông tin về quy hoạch, giải toả, đền bù… sẽ phải chịu những thiệt hại mà lẽ ra họ có thể tránh được. Nhận thức được thực trạng trên đây, Ban chấp hành trung ương Đảng khoá X đã ra Nghị quyết Trung ương 3 về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí", trong đó yêu cầu “Xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai” “Nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân”. Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020 quy định: “Tổng rà soát, sửa đổi pháp luật về bí mật nhà nước theo hướng thu hẹp phạm vi bí mật nhà nước ở mức cần thiết”; “Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị”; “Xây dựng và ban hành Luật về tiếp cận thông tin; có chế tài đối với người vi phạm quyền được thông tin của công dân”.

 Để thực hiện chủ trương phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hình thành một cơ chế thống nhất trong việc tổ chức thực hiện quyền được thông tin của người dân, bảo đảm về mặt pháp lý cơ chế thực hiện quyền tiếp cận thông tin, Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội đã đưa Luật Tiếp cận thông tin vào danh mục các Dự án được chuẩn bị để trình cơ quan lập pháp xem xét năm 2009.

 Quy trình soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin đang được tiến hành theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ban Soạn thảo Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin đã được thành lập theo Quyết định ngày 22/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp là cơ quan được phân công chủ trì chuẩn bị xây dựng Luật. Tổ Biên tập đã được hình thành để giúp việc Ban Soạn thảo.

 Ban Soạn thảo đã triển khai các nhiệm vụ nhằm khẩn trương xây dựng dự thảo, trong đó có hoạt động tổng kết việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực tiếp cận thông tin và liên quan; nghiên cứu các Điều ước quốc tế, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về cung cấp thông tin và tiếp cận thông tin, đánh giá tác động những nội dung chính của Dự án Luật. Dự thảo Luật đã được tổ chức lấy ý kiến bằng các hình thức đa dạng và đã được chỉnh lý trên cơ sở thu thập và tiếp thu các ý kiến tham gia. Nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo với các chuyên gia trong nước và nước ngoài đã được tổ chức. Nhiều cơ quan, tổ chức đã cho ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật.

 Dự thảo Luật, Dự thảo Tờ trình và Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo Luật đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

 Ngày 24/6/2009, Bộ Tư pháp đã gửi Dự án Luật đến các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan để lấy ý kiến. Ngày 10/7/2009, Hội đồng thẩm định đã họp để thẩm định Dự án Luật. Ý kiến của Hội đồng thẩm định đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý Dự án Luật.

 Việc xây dựng Dự thảo Luật được tiến hành dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:

- Tiếp tục thể chế hoá các quan điểm, chủ trương trong các nghị quyết của Đảng về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, cơ quan, tổ chức; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc tiếp cận thông tin;

- Bảo đảm sự phù hợp của Dự thảo Luật với Hiến pháp và tính thống nhất của Dự thảo Luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật;

- Bảo đảm tính kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến minh bạch, công khai thông tin trong các lĩnh vực;

- Tăng cường tính minh bạch trong hoạt động và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước;

- Bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; phù hợp với điều kiện về cơ sở hạ tầng của Việt Nam, nguồn nhân lực, tổ chức bộ máy và các nguồn lực khác; bảo đảm tính khả thi của Luật;

- Bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam, bảo đảm tính tương thích và phù hợp với thông lệ, pháp luật quốc tế; phù hợp với các nguyên tắc về quyền tự do thông tin của Liên Hợp quốc.

4.2. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam

  Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin sau nhiều lần chỉnh lý, đặc biệt là sau khi có ý kiến của các thành viên của Chính phủ, góp ý của các bộ, ngành và báo cáo về tình hình tiếp cận thông tin của các cơ quan trung ương và địa phương, dự thảo cuối cùng đã được rút gọn gồm 4 chương 29 điều.

Chương I. Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 7)

Chương này quy định mục đích ban hành Luật (Điều 1), phạm vi điều chỉnh của luật (Điều 2), giải thích từ ngữ (Điều 3), cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin (Điều 4),  các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 5), các hành  vi bị nghiêm cấm (Điều 6), mối quan hệ giữa Luật Tiếp cận thông tin và các luật khác có liên quan (Điều 7).

Chương II. Công bố thông tin, cung cấp thông tin theo yêu cầu (Từ Điều 8 đến Điều  20). Chương này bao gồm 3 mục:  Phương thức, trách nhiệm cung cấp thông tin (Mục 1); Chủ động công bố thông tin (Mục 2); Cung cấp thông tin theo yêu cầu (Mục 3).

Chương III. Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin (Từ Điều 21 đến Điều 25).

Chương IV. Điều khoản thi hành (từ Điều 26 đến Điều 29).

 Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin xác định nội hàm của tiếp cận thông tin là đọc, xem, nghe, ghi chép, chụp, trích dẫn nội dung của hồ sơ tài liệu (khoản 3 Điều 3). Để thực hiện quyền này, Điều 8 Dự thảo Luật quy định hai phương thức cung cấp thông tin, đó là: chủ động cung cấp thông tin và cung cấp thông tin theo yêu cầu của công dân.

 Điều 5 Dự thảo Luật quy định các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, gồm: mọi công dân, tổ chức đều bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải công khai, minh bạch, kịp thời; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức tiếp cận thông tin và cán bộ, công chức cung cấp thông tin; việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức phải bảo đảm lợi ích cộng đồng, bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh; nhà nước tạo điều kiện cho công dân, tổ chức tiếp cận thông tin phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, kỹ thuật của đất nước; khuyến khích áp dụng công nghệ thông tin trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.

 Dự thảo Luật xác định rõ mối quan hệ giữa Luật Tiếp cận thông tin và các luật khác có liên quan, theo đó Luật này áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin; trong trường hợp luật khác có quy định khác rộng hơn về phạm vi thông tin được tiếp cận, thuận lợi hơn về trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin thì áp dụng quy định của luật đó. Trong trường hợp luật khác quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin cho công dân, tổ chức nhưng không quy định trình tự, thủ tục thì áp dụng quy định của Luật này (Điều 7).

  Mục 2 Chương II quy định về các thông tin được các cơ quan nhà nước chủ động công bố (Điều 10), hình thức công bố thông tin (Điều 11), quy định những thông tin công khai trên trang thông tin điện tử (Điều 12),  thông tin công khai trên phương tiện thông tin đại chúng (Điều 13), quy định về đăng công báo và niêm yết (Điều 14).

  Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin quy định rõ các loại thông tin phải được cơ quan nhà nước chủ động công bố. Đó là các thông tin mà các văn bản quy phạm pháp luật quy định phải công bố công khai; thủ tục hành chính và quy trình giải quyết công việc thuộc thủ tục hành chính của cơ quan; các loại thông tin khác nếu thấy việc công bố là cần thiết nhằm bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ của con người, bảo vệ môi trường, lợi ích cộng đồng. Hình thức chủ động công bố thông tin theo dự luật có thể được thể hiện bằng các hình thức: đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan; công bố trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo; niêm yết tại trụ sở cơ quan và các địa điểm khác; các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan xác định và được ghi rõ trong danh mục thông tin.

Mục 3 Chương II quy định về  thông tin được cung cấp theo yêu cầu (từ Điều 15 đến Điều 20). Mục này quy định  những thông tin có thể cung cấp theo yêu cầu, trách nhiệm của người yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 15), nội dung cần có của văn bản yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 16), cách thức cung cấp thông tin theo yêu cầu (Điều 17).Theo quy định của dự thảo việc cung cấp thông tin theo yêu cầu có thể được thể hiện bằng  các cách thức: cung cấp thông tin trực tiếp tại trụ sở cơ quan, cung cấp thông tin qua mạng điện tử, cung cấp bản sao chép, bản chụp hồ sơ, tài liệu. Mục 3 Chương II cũng quy định về thời hạn, trình tự, thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu theo dự thảo chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu cơ quan có trách nhiệm xem xét quyết định cung cấp hoặc từ chối cung cấp thông tin. Trong trường hợp cần thiết thêm thời gian để  xem xét, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn tối đa là 15 ngày. Trong Mục 3 Chương II cũng quy định về chi phí cung cấp thông tin (Điều 19).

Mục 3 đồng thời cũng quy định về việc từ chối yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 20). Theo dự thảo cơ quan được yêu cầu cung cấp thông tin có thể từ chối trong các trường hợp cơ quan không có thông tin theo yêu cầu; thông tin được yêu cầu cung cấp không thuộc loại thông tin được quy định trong Khoản 1 Điều 15 của Luật này; thông tin đã được cung cấp cho người yêu cầu 2 lần; văn bản yêu cầu cung cấp thông tin không nêu rõ lý do yêu cầu hoặc lý do yêu cầu cung cấp thông tin không phù hợp; yêu cầu cung cấp thông tin cho người khác; người yêu cầu cung cấp thông tin bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; thông tin được yêu cầu với số lượng quá lớn, vượt quá khả năng đáp ứng của cơ quan, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan; thông tin mà việc cung cấp sẽ ảnh hưởng xấu đến chính sách tài chính tiền tệ, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quan hệ ngoại giao, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khoẻ hoặc sự an toàn của cá nhân hoặc cộng đồng; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan, tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ; các  tài liệu đang trong quá trình soạn thảo mà chưa đến thời điểm pháp luật quy định phải công bố để lấy ý kiến.

Chương III. Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin (từ Điều 21 đến Điều 25).

   Chương này quy định về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong việc bảo đảm các nguồn lực và biện pháp cần thiết cho việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (Điều 21). Bên cạnh đó, Chương này cũng quy định cụ thể cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện (Điều 24); xử lý vi phạm (Điều 25); giám sát việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin (Điều 23) và quản lý nhà nước về công tác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 22).

Chương IV. Điều khoản thi hành (từ Điều 26 đến Điều 29).

Chương này xác định trách nhiệm của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin và quy định chi tiết một số điều của Luật (Điều 28); xác định trách nhiệm của Chính phủ quy định cụ thể về việc cung cấp thông tin của tổ chức sự nghiệp dịch vụ công và doanh nghiệp nhà nước (Điều 27). Chương này  cũng xác định thời điểm có hiệu lực của Luật (Điều 29).

4.3. Một số kiến nghị đối với dự thảo Luật Tiếp cận thông tin

     So với các dự thảo đầu tiên, dự thảo cuối cùng (sau khi đã chỉnh sửa theo ý kiến của các thành viên Chính phủ và ý kiến của các bộ, ngành) có nhiều ưu điểm nổi trội. Đó là dự thảo lần này ngắn gọn hơn, chú ý nhiều hơn đến tính khả thi của dự luật. Các điều luật trong dự thảo quy định khá rõ ràng, rành mạch, lời văn trong dự thảo được viết giản dị, dễ hiểu. Dự luật không ôm đồm những vấn đề mặc dù rất cần thiết nhưng khó thực hiện được trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay.

  Tuy nhiên, theo nhóm nghiên cứu dự luật vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục để bảo đảm khi ra đời Luật này có thể phát huy hiệu lực cao trong đời sống nhà nước và xã hội:

 - Về cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, dự thảo (Điều 4) quy định 14 loại cơ quan khá cụ thể[10], tuy nhiên phạm vi điều chỉnh của Luật áp dụng cho các cơ quan, tổ chức theo Điều 4 là khá hạn hẹp, trong khi ở nước ta số lượng các cơ quan nhà nước lớn hơn rất nhiều, hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp là những tổ chức cũng phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Vì thế, cần thiết phải quy định tất cả các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin. Ngoài ra, cần quy định thêm các tổ chức tư nhân nếu nắm giữ các thông tin cần thiết cho việc thực hiện hoặc bảo vệ một quyền lợi của một chủ thể pháp luật nhất định cũng có nghĩa vụ cung cấp thông tin khi chủ thể đó yêu cầu.

- Việc công khai tài chính nhất là sử dụng ngân sách và các khoản do Nhân dân đóng góp cần quy định cụ thể, áp dụng thống nhất với mọi đối tượng sử dụng ngân sách nhà nước, với cả tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; việc công khai và cung cấp thông tin khác do tổ chức đó tự quy định hoặc theo các văn bản pháp luật khác. Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có sử dụng ngân sách nhà nước hay Nhà nước nắm cổ phần như nêu trên thì thực hiện theo quy định cụ thể của Chính phủ như đối với doanh nghiệp nhà nước và tổ chức sự nghiệp dịch vụ công. Theo nhóm nghiên cứu, phần quy định các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin không nên dùng phương pháp liệt kê vì không thể tránh khỏi sự bỏ sót và điều luật sẽ rất dài dòng. Phương pháp tốt nhất là quy định một cách khái quát hơn, ví dụ, Điều 6 Luật mẫu về tự do thông tin do nhóm Article 19 của Liên Hợp quốc xây dựng: “Cơ quan nhà nước bao gồm bất cứ cơ quan nào:

(a) Được thành lập bởi hoặc theo quy định của Hiến pháp;

(b) Được thành lập theo quy định của luật;

(c) Là bộ phận ở bất cứ cấp nào của Chính phủ;

(d) Được sở hữu, điều khiển hoặc tài trợ chủ yếu bởi ngân sách nhà nước;

(e) Thực hiện chức năng nhà nước do pháp luật quy định.

- Về mối quan hệ với các luật khác, nên có quy định các luật khác quy định hẹp hơn đối với tiếp cận thông tin hay trình tự, thủ tục tiếp cận không thuận lợi như Luật Tiếp cận thông tin mà ban hành trước Luật này thì phải áp dụng theo quy định Luật này và phải sửa đổi, bổ sung các luật đó. Mặc dù Điều 33 có quy định cụ thể phải rà soát loại bỏ những văn bản không phù hợp và quy định nếu có mâu thuẫn giữa các luật thì quy định của luật sau được áp dụng nhưng trên thực tế việc thực thi sẽ khó khăn nếu không có quy định rõ ràng.  

- Về thông tin công khai rộng rãi cần quy định rộng hơn về công khai tài chính, sử dụng ngân sách, việc phê duyệt các dự án, việc đền bù trưng dụng thu hồi đất, phân phối tiền trợ cấp… và bắt buộc (chứ không chỉ khuyến khích) công khai trên trang thông tin điện tử về các nội dung từ điểm e đến điểm l khoản 1 Điều 9 như trong dự thảo luật; nên quy định cụ thể hơn về thời hạn phải công khai như buộc phải công khai trong vòng bao nhiêu ngày kể từ ngày tạo thông tin. Cần quy định cụ thể hơn thông tin công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Cần quy định thời hạn gia hạn trường hợp công khai rộng rãi thông tin vì lợi ích cộng đồng. Hình thức công khai cần quy định rõ công khai rộng rãi bảo đảm mọi cá nhân, tổ chức có thể tiếp cận được bằng các hình thức. Các thông tin buộc phải công khai trên trang thông tin điện tử không loại trừ công khai bằng các hình thức khác.

- Về thông tin được cung cấp theo yêu cầu, cần mở rộng quy định thông tin do cơ quan nhà nước nhận được để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, và liên quan đến chức năng, nhiệm vụ cơ quan, thuộc sở hữu của cơ quan chứ không chỉ thông tin do cơ quan nhà nước ban hành. Dự thảo trong điểm b khoản 2 Điều 4 có thể gây sự tùy tiện áp dụng. Quy định lại như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người yêu cầu.

- Quy định tại khoản 2 Điều 14 cần mở rộng với các đối tượng không có khả năng tiếp cận với các hình thức công khai rộng rãi.

- Cần quy định rõ người yêu cầu không cần phải nêu lý do, trừ một số trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy nhằm tránh trường hợp cán bộ thông tin gây khó khăn cho người yêu cầu hay hạch sách họ. Cần quy định trong trường hợp người yêu cầu có khó khăn khách quan trong việc thể hiện yêu cầu bằng văn bản, cán bộ thông tin phải hướng dẫn họ.

- Thời hạn để cung cấp thông tin cần ngắn hơn quy định trong dự thảo tại điểm b khoản 2 Điều 22, hiện quy định 15 ngày từ ngày thông báo chấp nhận cung cấp thông tin trong trường hợp miễn phí hoặc kể từ ngày người yêu cầu thanh toán đủ chi phí là quá lâu, nên quy định tối đa 10 ngày.

Trường hợp yêu cầu với số lượng thông tin lớn thì cần quy định rõ là thời gian gia hạn thêm tối đa 15 ngày kể từ ngày thông báo chấp nhận cung cấp thông tin. Liên quan đến Điều 20,  đối với  thông tin được yêu cầu quá lớn không thể đáp ứng, cần quy định một cách cụ thể, nếu như cơ quan có thể đáp ứng cung cấp thông tin một phần theo yêu cầu thì phải cung cấp theo yêu cầu của người yêu cầu.

- Cần quy định cụ thể về nguyên tắc tính phí, như mức phí không thể cao hơn giá thị trường hay quá cao so với giá thị trường cho việc sao, chụp, in ấn; đối với  việc cung cấp một số lượng nhỏ thông tin đơn giản nên có quy định miễn phí. Cần quy định cụ thể không tính phí cho công sức của cán bộ thông tin bỏ ra để đáp ứng yêu cầu của người yêu cầu. Các quy định miễn phí cần quy định một cách cụ thể, tránh trường hợp lợi dụng quy định chưa rõ để không phải nộp phí. Cần quy định cụ thể thời hạn đóng phí.

- Cần quy định cụ thể tạo điều kiện cho người yêu cầu có thể tiếp nhận thông tin tại cơ quan thuận lợi nhất cho họ, như gần địa chỉ của họ nhất, điều này là cần thiết, nhất là trong trường hợp có thể có nhiều cơ quan nắm thông tin mà trách nhiệm cung cấp thông tin đều thuộc về các cơ quan đó nhưng đùn đẩy trách nhiệm. Cũng quy định cụ thể trách nhiệm cán bộ thông tin tiếp người yêu cầu khi đến để thực hiện yêu cầu.

- Luật cần quy định vấn đề thông tin liên quan đến người thứ ba. Hiện trong dự thảo chưa quy định.

- Các quy định liên quan đến việc từ chối yêu cầu tại Điều 20 còn chung chung, chưa cụ thể. Phần lớn các nước đã ban hành luật này đều quy định cụ thể các trường hợp từ chối cung cấp thông tin. Nên có quy định phân tách thông tin trong một tài liệu, nếu một tài liệu có cả thông tin không thể cung cấp và thông tin phải cung cấp, thì phần thông tin phải cung cấp cơ quan có trách nhiệm cung cấp cho người yêu cầu.

- Việc từ chối yêu cầu cần quy định rõ trong văn bản từ chối là người yêu cầu có quyền khiếu nại, khiếu kiện đến cơ quan có thẩm quyền, ghi rõ cơ quan giải quyết; lý do từ chối cần viện dẫn quy định của pháp luật cụ thể; trong trường hợp cơ quan không có thông tin theo yêu cầu hoặc thông tin nhận được nhưng không có trách nhiệm phải cung cấp thông tin dựa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 thì cần quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận yêu cầu phải hướng dẫn người yêu cầu đến nơi mà có thể có thông tin mà người yêu cầu có thể tiếp cận hoặc chuyển yêu cầu đến cơ quan đó nếu có thể thực hiện được. Thông tin được cung cấp hai lần dưới hình thức trả lời bằng lời nói không nên đưa vào diện từ chối nếu có yêu cầu bằng văn bản hay hình thức khác, trừ khi yêu cầu lần thứ ba bằng lời nói. Trường hợp thông tin được công khai theo quy định tại Điều 9 mà không phải dưới hình thức công khai trên trang điện tử thì cơ quan nhận yêu cầu cũng phải hướng dẫn người yêu cầu để có thể tiếp cận thông tin, trường hợp người yêu cầu không thể tiếp cận được thì cũng phải cung cấp thông tin theo yêu cầu.

- Việc bố trí cán bộ, công chức làm đầu mối cung cấp thông tin là cần thiết, nhưng quy định rõ trách nhiệm của họ đặc biệt là  nên bao gồm cả trách nhiệm liên quan việc quản lý hồ sơ tài liệu của cơ quan và liên quan việc quản lý thông tin được công bố rộng rãi.

- Luật hoặc nghị định hướng dẫn thi hành cần quy định cụ thể về thời hạn các cơ quan phải công bố thông tin rộng rãi, và trách nhiệm của các cơ quan không thực hiện đúng thời hạn theo quy định không có lý do hợp pháp, hợp lý.

- Quy định về khiếu nại, khiếu kiện còn quá sơ sài. Cần quy định thêm quyền khiếu nại đối với trường hợp không tiếp nhận yêu cầu. Nên mở rộng quy định người yêu cầu có quyền yêu cầu bồi thường nếu thông tin cung cấp không theo đúng quy định của pháp luật (có tính chất cố ý), hay yêu cầu của họ không được đáp ứng trái pháp luật, gây thiệt hại cho họ. Đồng thời, mở rộng quy định người thứ ba có liên quan có quyền khiếu nại, khiếu kiện.

 Nên quy định hai cấp giải quyết khiếu nại là giải quyết khiếu nại trong nội bộ, và sau đó là khiếu nại lên cơ quan chuyên môn có trách nhiệm trong giám sát thực thi quyền tiếp cận thông tin (không trực thuộc bộ máy hành chính). Đồng thời, quy định về quyền khiếu kiện theo hướng người yêu cầu hay người thứ ba có quyền kiện ra cơ quan Tòa án kể cả trong trường hợp đã thực hiện quyền khiếu nại. Hiện nhiều quốc gia nhất là các quốc gia ban hành luật trong những năm gần đây đã xây dựng thiết chế giám sát thông tin độc lập (thậm chí cả cấp địa phương), bao gồm cả giải quyết khiếu nại, tại Việt Nam có thể nghiên cứu nâng cấp Ban Dân nguyện thuộc Quốc hội thành Uỷ ban Dân nguyện, một Uỷ ban của Quốc hội để thực thi giải quyết khiếu nại và giám sát. Cơ chế giải quyết khiếu kiện tại nhiều nước theo quy định pháp luật tố tụng hành chính, một số nước thiết lập cơ quan bán Tòa án giải quyết khiếu kiện gần giống cơ chế trọng tài thương mại. Việt Nam có thể nghiên cứu để áp dụng.

- Việc xử lý vi phạm quy định còn quá chung chung, chế tài không đủ mạnh. Nên quy định cụ thể cơ quan giám sát thông tin có quyền  kiến nghị áp dụng chế tài xử lý đối với cán bộ, công chức nếu xét thấy sai phạm. Quy định rõ ràng xử lý vi phạm cơ quan không công khai thông tin cần công khai rộng rãi theo quy định của pháp luật. Quy định xử lý cả cơ quan tự ý nâng phí tiếp cận thông tin không theo quy định của luật.

- Cần quy định cụ thể cơ chế bảo vệ người tố cáo vi phạm, không nên quy định chung chung và không rõ ràng bao hàm cung cấp thông tin có tính tố cáo như trong dự thảo tại Điều 5. 

- Cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin nên giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông. Tuy nhiên đây là cơ quan thuộc bộ máy hành pháp vì vậy cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thuộc cơ quan lập pháp thực hiện chức năng giám sát, giải quyết khiếu nại. Tránh sự chồng chéo thẩm quyền cơ quan giám sát thuộc cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp.

- Cần quy định rõ việc Chính phủ ban hành quy định công khai thông tin của chính quyền cấp xã trên trang thông tin điện tử phù hợp quy định của luật, không quá 1 năm (ở đô thị) và 2 năm (các địa bàn khác) sau khi Luật có hiệu lực.



[1] Toby Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, Parliament and Access to Information: Working for Transparent Governance, Working Paper for World Bank Institute, 2005, trang 4

[2] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, Parliament and Access to Information: Working for Transparent Governance, Working Paper for World Bank Institute, 2005, trang 4

[3] Nguyên tắc về Luật tự do thông tin và quyền được thông tin (hay còn gọi là quyền được biết) của công chúng đã được Ủy ban nhân quyền của Liên hợp quốc thông qua tại Phiên họp thứ 56 (năm 2000), bao gồm 9 nguyên tắc cơ bản sau đây: 1. Mở thông tin tối đa (trên cơ sở luật và các nguyên tắc, quy định cụ thể); 2. Nghĩa vụ công bố (của các cơ quan công quyền); 3. Thúc đẩy Chính phủ mở (các cơ quan công quyền tích cực thực hiện cơ chế Chính phủ mở, xóa bỏ văn hóa bí mật trong quá trình điều hành đất nước); 4. Hạn chế phạm vi các quy định về miễn trừ cung cấp thông tin, hạn chế danh mục mật (danh mục mật cần được quy định rõ ràng, minh bạch và phải bị hạn chế; thông tin bị hạn chế, nếu có, chỉ với mục đích bảo vệ quyền lợi chung của cộng đồng); 5. Bảo đảm tính khả thi của quá trình tiếp cận thông tin (cơ chế cung cấp thông tin nhanh, kịp thời, đầy đủ, hiệu quả và có đánh giá giám sát độc lập); 6. Chi phí tiếp cận thông tin (về cơ bản, người dân không phải trả chi phí, hoặc không phải trả chi phí quá cao cho việc yêu cầu cung cấp thông tin); 7. Công khai các cuộc họp (cho công chúng biết về các cuộc họp của các cơ quan công quyền bằng nhiều hình thức phù hợp như cung cấp văn bản, nói chuyện trực tiếp, cung cấp thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, phương tiện truyền thông, v.v…); 8. Sửa đổi, bổ sung các quy định để bảo đảm công khai thông tin (các luật, văn bản pháp luật không nhất quán với nguyên tắc về quyền tiếp cận thông tin cần được sửa đổi, bổ sung, chỉnh lý cho phù hợp với nguyên tắc này); 9. Bảo vệ người cung cấp thông tin.

 

[4] Luật số 571 ngày 19/12/1995. http://aabenhedskomite.dk/07love/forvaltningsloven_paa_engelsk.htm

[5] Luật về Xử lý dữ liệu cá nhân (Luật số 429 ngày 31/5/2000). http://www.datatilsynet.no/upload/Dokumenter/regelverk/lov_forskrift/lov-20000414-031-eng.pdf.

 

[6] Được ký kết vào ngày 30 tháng 11 năm 2001 ở Tokyo (Nhật Bản)

[7] Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, trang 30

[8]  David Banisar – Báo cáo tự do thông tin thế giới năm 2006, nguồn: www.privacyinternational. org

[9] Phạm Anh Tuấn – Vai trò của tiếp cận thông tin đối với phòng, chống tham nhũng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề “Xây dựng Luật Tiếp cận thông tin” năm 2010,, tr. 14

[10]  Theo quy định tại Điều 4 dự thảo luật: các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin bao gồm: Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Cơ quan được tổ chức theo ngành dọc trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Kiểm toán nhà nước; Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương phòng, chống tham nhũng; Văn phòng đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương; Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Văn phòng Ban chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh; Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh; Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

 

 

Nội dung toàn văn

A.  BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ

                                   NGHIÊN CỨU                                                      

                                                

                       PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

   Quyền tiếp cận thông tin (Right to access to information) là quyền của   con người và công dân được tiếp cận các thông tin, đã ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền đặc biệt là các cơ quan hành chính Nhà nước. Các cơ quan công quyền nắm giữ thông tin không vì  bản thân họ mà với tư cách là người bảo vệ lợi ích của công chúng. Thông tin được coi là tài sản Quốc gia và cũng như mọi tài sản khác không thể để cho một cá nhân hay tổ chức nào độc quyền chiếm đoạt nếu đó không phải là các thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật kinh doanh, bí mật trong giai đoạn điều tra tội phạm, bí mật cá nhân. Quyền tiếp cận thông tin được coi là một trong những quyền cơ bản của con người và công dân. Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào mà không có biên giới”. Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng đã quy định: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp vào. Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tuỳ theo sự lựa chọn của họ”.

  Trong khoảng 20 năm gần đây đã diễn ra một cuộc cách mạng toàn cầu về quyền tiếp cận  thông tin. Bản chất của cuộc cách mạng này là  công nhận quyền của cá nhân được tiếp cận thông tin của cơ  quan công quyền. Quyền này ngày nay đã được nhìn nhận rộng rãi là một  quyền con người cơ bản, như hòn đá tảng của nền dân chủ và của nền quản trị tốt và là công cụ hữu

hiệu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

  Quyền được thông tin/ tiếp cận thông tin không những được quy định trong nhiều văn kiện của Liên Hợp Quốc, trong Hiến pháp của hầu hết các nước trên thế giới mà còn được thể hiện bằng Luật về tiếp cận thông tin.

  Nếu năm 1990 trên thế giới chỉ có 13 nước đã ban hành Luật tiếp cận thông tin thì đến năm 2009, đã có 86 nước ban hành luật về tiếp cận thông tin:

Thụy Điển (1766), Colombia (1885), Phần Lan (1919),  Mỹ (1966), Na Uy (1970),  Pháp (1978), Úc (1982), Canada (1983), Đan Mạch (1985), Hà Lan (1991); Hungary (1992), Hàn Quốc (1996), Kirgizstan (1997), Thái Lan (1997), Anbani (1999), Bungary (2000, Nam Phi (2000), Anh (2000), Jamaica (2002), Mexico (2002), Thổ Nhĩ Kỳ (2003), Pêru (2003), Nhật Bản (2004), Ấn Độ (2005), Azerbaijan (2005), Uganda (2005), LB Nga (2006), Indonesia (2007)…  Trung Quốc cũng đã ban hành Pháp lệnh về quyền tiếp cận thông tin năm 2007; 30 quốc gia khác đang nỗ lực xem xét ban hành luật này.

   Ở Việt Nam, quyền được thông tin đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật khác, tuy nhiên cho đến nay Nhà nước ta vẫn chưa có đạo luật riêng quy định  về quyền này. Quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay được thể hiện rãi rác trong nhiều văn bản pháp luật: Luật phòng chống tham nhũng năm 2005, Luật báo chí năm 1989, Luật xuất bản năm 2004, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân  và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật kiểm toán Nhà nước năm 2005, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005, Pháp lênh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, Pháp lệnh về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003. Đặc biệt trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết, nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan.

  Những quy định trên đây về việc tiếp cận thông tin của công dân và nghĩa vụ của cơ quan Nhà nước về cung cấp thông tin trong một số lĩnh vực và phạm vi địa bàn áp dụng cũng đã khá rõ tuy nhiên việc thực hiện các quy định nói trên còn rất hạn chế vì trong tất cả các văn bản pháp luật nói trên hầu như rất ít chế tài quy định về vấn đề xử phạt việc không cung cấp thông tin và những quy định nói trên nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau và thiếu tính hệ thống nên vẫn chưa có một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo cho công dân được thực hiện một cách đầy đủ quyền tiếp cận thông tin.

 Theo Toby Mendel, chuyên gia hàng đầu của Liên hợp quốc về quyền tiếp

cận thông tin, trong công trình nghiên cứu “Tầm quan trọng của Quyền tiếp cận thông tin: Xu hướng, Địa vị và Đặc điểm” [1], tổ chức phi Chính phủ Quốc tế về nhân quyền có tên là ARTICLE 19 đã coi thông tin là “khí oxy của nền dân chủ”. Thông tin là nguồn sống cơ bản của nền dân chủ vì về bản chất dân chủ là khả năng của cá nhân tham gia một cách hiệu quả vào quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến cá nhân đó [2].Quyền tiếp cận thông tin xứng đáng được coi là “oxy của nền dân chủ” bởi suy cho cùng nó là  quyền để thực hiện mọi quyền. Vì không có thông tin thì người dân không thể biết, không thể bàn, không thể làm, không thể kiểm tra về bất cứ vấn đề gì. Nói một cách khác tất cả các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội của công dân đều chỉ có thể đảm bảo thực hiện trên cơ sở đảm bảo quyền tiếp cận thông tin.

   Quyền tiếp cận thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các quyền  chính trị, dân sự và các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội  của công dân.

  Quyền chính trị của công dân bao gồm các quyền: tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, tham gia xây dựng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia thực hiện giám sát bộ máy nhà nước, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,  tự do hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật, tự do thể hiện ý chí của mình khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý . Muốn thực hiện các quyền trên đây trước hết công dân phải có đầy đủ các thông tin. Nếu không có thông tin hoặc thông tin không đầy đủ công dân không thể thực hiện các quyền Hiến định đó của mình; chẳng hạn để thực hiện quyền bầu cử nếu các cơ quan có thẩm quyền không cung cấp đầy đủ các thông về các ứng cử viên trong danh sách bầu cử, người dân không biết lựa chọn người nào vì vậy mặc dù có quyền lựa chọn nhưng người dân không thể thực hiện được quyền này. Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ trong các phiên họp của Quốc hội nhưng nếu các đại biểu Quốc hội không được cung cấp thông tin đầy đủ hoặc không có bộ máy giúp việc  có năng lực hoặc không có các cơ quan chuyên môn của Quốc hội như Thanh tra Quốc hội  (Ombudsman) hay Kiểm toán Quốc hội (Parliamentary Audit), các đại biểu Quốc hội không thể có thông tin để đối chiếu với những số liệu mà các Bộ trưởng đã đưa ra khi trả lời chất vấn thì quyền chất vấn cũng chỉ là hình thức. Ngay quyền bỏ phiếu để thông qua kế hoạch dài hạn và ngắn hạn nếu không có thông tin đầy đủ thì các đại biểu Quốc hội cũng không dám chắc việc “bấm nút” của mình đúng hay sai. Mức độ tham gia của công dân vào việc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh được hình thành trên cơ sở các thông tin mà công dân nắm được.   Việc các khu đô thị mới ở Hà Nội hình thành một cách nhanh chóng với dân số ngày càng tăng theo mức độ phát triển của các khu đô thị, tuy nhiên các trường học từ mẫu giáo đến tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở các khu vực đó lại không được xây dựng dẫn đến tình trạng các trường học ở Hà Nội bị quá tải, trẻ em các khu vực đô thị mới phải đi học xa hoặc phải chịu mọi sự bất tiện do thiếu trường học trên địa bàn của mình cũng là hệ quả của việc thiếu các thông tin toàn diện và việc thiếu vai trò điều hoà, phối hợp giữa các bộ, ngành do các bộ ngành này không nắm được thông tin của các bộ ngành khác.

  Do không có các thông tin đầy đủ, việc thực hiện quyền khiếu nại tố cáo của công dân sẽ rất khó khăn. Chẳng hạn họ không biết gửi đơn khiếu kiện đến cơ quan nào, thủ tục giải quyết khiếu kiện sẽ ra sao, ai là người chịu trách nhiệm chính về loại vụ việc này. Do không có thông tin đầy đủ người dân có thể buộc phải chịu đựng tình trạng vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền, vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà không dám đấu tranh vì các cơ quan công quyền đặc biệt là các cơ quan hành chính Nhà nước đã bưng bít các thông tin.

  Mọi công dân đều có đầy đủ các quyền dân sự của mình. Một trong các quyền dân sự của công dân là quyền được yêu cầu bồi thường khi họ là nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp. Công dân chỉ có thể đấu tranh để thực hiện quyền này khi họ được cung cấp thông tin về điều kiện và mức độ bồi thường, cơ quan bồi thường. Nếu không có các thông tin đó người dân sẽ rất khó khăn khi bảo vệ các quyền của mình. Quyền tài sản là quyền dân sự đặc biệt quan trọng của công dân. Khi vì lợi ích công các bất động sản của công dân có thể bị nhà nước trưng dụng với sự đền bồi thoả đáng. Tuy nhiên, công dân chỉ có thể bảo vệ được quyền đền bù thoả đáng này khi họ được nhà nước cung cấp đầy đủ và chính xác về giá cả đền bù và các thủ tục cần thiết trong việc đền bù do giải phóng mặt bằng.

 Như vậy nếu không có thông tin đầy đủ thì các quyền dân sự của người dân khó có thể được đảm bảo thực hiện.

Quyền tiếp cận thông tin có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội của công dân.

 Quyền tự do kinh doanh là một quyền  cơ bản của công dân, tuy nhiên muốn thực hiện quyền này công dân phải có đầy đủ thông tin trong lĩnh vực kinh tế chẳng hạn công dân cần phải có đầy đủ các thông tin về nhu cầu tiêu dùng của xã hội, về thị trường tiêu thụ hàng hoá trên cơ sở đó người dân đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả. Khi có đầy đủ thông tin công dân có thể xác định đúng sản xuất mặt hàng gì, yêu cầu chất lượng như thế nào và tiêu thụ ở đâu. Tình trạng nhiều nơi nông dân trồng mía,  nuôi bò sữa, trồng các loại hoa quả, chăn nuôi các loại gia cầm, gia súc nhưng không bán được sản phẩm của mình do nhu cầu tiêu thụ ít nhưng sản xuất lại nhiều, mặt hàng cần thì không có, mặt hàng có thì không cần chính là do sự thiếu thông tin theo quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường. Hoặc trong trường hợp khác, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền không cung cấp cho người dân biết những thông tin về nguy cơ phá sản hay tình trạng đã phá sản của một số doanh nghiệp của Nhà nước cũng như tư nhân thì người dân có thể sẽ mất trắng hàng trăm triệu, hàng chục tỷ đồng nếu làm ăn với các doanh nghiệp đã hoặc đang trên đà phá sản mà họ không biết.

 Đối với quyền học tập của công dân cũng vậy. Các cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền phải có nghĩa vụ cung cấp cho người dân những thông tin cần thiết về các nghề nghiệp mà xã hội đang cần, mặt khác cũng cần cung cấp các thông tin về những ngành nghề mà nhiều người đã tốt nghiệp được cấp các bằng đại học, cao đẳng hoặc trung cấp chuyên nghiệp nhưng không có việc làm . Nếu không có thông tin đầy đủ về các chỉ số trên đây thì sẽ dẫn đến tình trạng đào tạo tràn lan, đào tạo theo nhu cầu cảm tính, cán bộ vừa thừa vừa thiếu. Con số ước tính chỉ có khoảng 40% sinh viên các trường đại học sau khi tốt nghiệp có việc làm theo đúng chuyên ngành đào tạo hiện nay ở Việt Nam đã nói lên tình trạng này, chưa nói đến những sai lầm về đào tạo cán bộ trong thời kỳ theo cơ chế hành chính quan liêu bao cấp. Trong thời kỳ đó do thiếu thông tin cần thiết nên chúng ta đã gửi các con em đi đào tạo ở nước ngoài không đúng trọng tâm, trọng điểm. Do không biết ngành gì đào tạo ở trường nào, ở nước nào thì có chất lượng cao nhất nên hầu như trong thời kỳ này, các sinh viên đi học nước ngoài bất cứ ngành gì cũng gửi đi đào tạo ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trong khi đó các trường có chất lượng cao nhất trong lĩnh vực đó như ở  Anh, Nhật Bản, Hà Lan, Pháp, Đức , Canađa và các nước tư bản phát triển thì Nhà nước không gửi người đi đào tạo. Do thiếu thông tin khoa học đặc biệt là những thông tin khoa học cập nhật, các lĩnh vực khoa học đặc biệt là khoa học xã hội của Việt Nam đã lạc hậu so với nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Cũng do thiếu thông tin về hình thức và phương pháp đào tạo ở nước ngoài nên trong một thời gian dài chỉ có hình thức đào tạo công lập đồng thời phương pháp đào tạo mang tính chất cổ truyền, đào tạo theo chương trình tín chỉ chỉ được đào tạo trong thời gian gần đây.

   Quyền tiếp cận thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các chính sách tạo công ăn việc làm cho công dân đặc biệt là các chính sách xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Do không có thông tin đầy đủ và chính xác về việc làm và chế độ tiền lương ở nước ngoài mà một số công nhân xuất khẩu lao động với những chi phí tốn kém để ra nước ngoài lao động ở nước ngoài nhưng  khi ra nước ngoài họ đã thất vọng vì công việc nặng nhọc mà đồng lương thấp, hoặc không có việc làm buộc họ phải trở về nước với những khoản nợ nặng nề do chi phí cho các dịch vụ môi giới tìm kiếm việc làm ở nước ngoài. Sự thiếu thông tin cần thiết và đầy đủ cũng tước đi khả năng của công dân có thể hưởng thụ những tinh hoa văn hoá của nhân loại như thông tin về  những thành tựu mới trong văn học nghệ thuật, âm nhạc, trong phát minh sáng chế, trong các thành tựu y học về giải phẩu về khả năng chữa các căn bệnh hiểm nghèo, các thành tựu trong lĩnh vực vật liệu xây dựng và công nghệ sinh học tạo ra các giống cây mới, vật nuôi mới có năng suất và giá trị kinh tế cao.

  Việc cung cấp đầy đủ các thông tin cho công dân về  môi trường, chất lượng đào tạo, ngành nghề đào tạo, phương pháp đào tạo ở nước ngoài có thể giúp cho các bậc phụ huynh chọn đúng trường, đúng ngành nghề, phù hợp với khả năng kinh tế của mình để có thể định hướng cho con em họ có thể đến những nơi tốt nhất để học tập, rèn luyện để sớm thành đạt trong nghề nghiệp của mình khi ra trường.

  Một trong các quyền thuộc về lĩnh vực các quyền kinh tế,văn hoá, xã hội là quyền được sống trong môi trường trong sạch, tuy nhiên nếu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không cung cấp thường xuyên các số liệu về mức độ ô nhiễm không khí, sự trong sạch của các nguồn nước thì người dân có thể không biết họ đang sống trong một môi trường bị ô nhiễm về mức độ tiếng ồn, về mức độ bụi trong không khí, về các nguồn nước uống có chứa các chất độc hại, các thực phẩm mà người dân sử dụng hàng ngày nếu không có thông tin đầy đủ người dân cũng có thể sử dụng các thực phẩm độc hại như hoa quả được tẩm hoá chất để bảo quản lâu ngày, các loại rau quả bị nhiễm thuốc trừ sâu, các loại thịt có nguy cơ được đưa đến từ một vùng mà súc vật đang bị các bệnh dịch.

   Từ những phân tích trên đây có thể đi đến kết luận quyền tiếp cận thông tin chính là điều kiên tiên quyết để đảm bảo thực hiện các quyền con người và quyền công dân. Việc ban hành Luật tiếp cận thông tin đối với Việt nam hiện nay là cần thiết và cấp bách. Trong thời đại hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá quyền tiếp cận thông tin đã và đang trở nên một quyền cơ bản và là một trong những quyền quan trọng nhất của con người và công dân.

   Quyền tiếp cận thông tin ( Right to acces to information) là một trong những quyền cơ bản của công dân, của con người, bảo đảm quyền được thông tin là một trong những điều kiện cần thiết để xây dựng một thể chế dân chủ và nhà nước pháp quyền. Trong bối cảnh đất nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thông tin trở thành một yêu cầu vô cùng cần thiết trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm thực hiện công bằng xã hội và  an sinh xã hội, nâng cao dân trí, xây dựng nhà nước và hoàn thiện pháp luật để phát huy rộng rãi sự tham gia của người dân vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giám sát công quyền, tăng cường tính công khai minh bạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng và chống tham nhũng, lãng phí, sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước. Quyền tiếp cận thông tin cũng bảo đảm mỗi cá nhân thực hiện các quyền khác tốt hơn và bảo vệ các lợi ích hợp pháp của họ. Phương châm các công việc quan trọng của nhà nước “dân biết, dân bàn, dân làm, dân  kiểm tra” theo tư duy lô gic của một chuyên gia về luật  tiếp cận thông tin có thể diễn đạt như sau: “ dân biết nhờ có thông tin, dân bàn nhờ có thông tin, dân làm nhờ có thông tin, dân kiểm tra nhờ có thông tin”. Nói  cách khác thông tin là tất cả, là điều kiện tiên quyết để thực hiện các quyền  con người và công dân. Thông tin là ô xy của nền dân chủ, nếu thông tin không được đảm bảo, thông tin sai lệch hoặc bưng bít thông tin, quyền làm chủ của  nhân dân khó có thể thực hiện được.

  Nhận thức được tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin trong việc phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường tính công khai minh bạch và hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, Nghị  quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) tháng 8-2006 đã chỉ rõ: “ Xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai” và  “Nghiên cứu ban hành Luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân”. Đây là chủ trương quan trọng của Đảng, là định hướng quan trọng cho việc bảo đảm thực tế quyền được thông tin ở nước ta, góp phần vào cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền công dân và quyền con người ở Việt Nam.

  Thực hiện Nghị quyết của Đảng, việc nghiên cứu đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng Luật tiếp cận thông tin là hết sức cần thiết. Đề tài đáp ứng yêu cầu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.     

2.Tình hình nghiên cứu

2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:

   Quyền được thông tin hay quyền tiếp cận thông tin (Right to access to information) được coi là một trong các  quyền cơ bản  của con người đã được Liên Hợp Quốc cũng như nhiều tổ chức quốc tế và khu vực công nhận. Phần lớn các quốc gia trên thế giới, khi tham gia vào các điều ước quốc tế về quyền con người ở cấp quốc gia và khu vực đều trực tiếp hay gián tiếp công nhận, tôn trọng quyền được thông tin của cá nhân. Sự bùng nổ của internet và tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thông tin, nhận thức về dân chủ, tự do cá nhân và yêu cầu phát triển kinh tế tại các quốc gia đã đưa đến sự bùng phát làn sóng ban hành Luật tự do thông tin/ Luật tiếp cận thông tin lan rộng trên toàn cầu và tại khắp các lục địa. Cho đến nay đã có gần 90 quốc gia trên thế giới ban hành một đạo luật riêng để cụ thể hoá và bảo đảm thực thi quyền được thông tin ở quốc gia mình, từ những nước phát triển như Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật  Bản, Canada cho đến những nước đang phát triển như Thái Lan, Ấn Độ, Hy Lạp, Mexico, Georgia, Ba Lan, Romania, Bulgary, Peru, Azerbaijan , Jordani, hay thậm chí cả những nước còn đang phát triển ở trình độ tương đối thấp như Pakistan, Kyrgyzstan, Albania, Nepal hay Uganda. Sự bùng nổ pháp luật thực định về quyền được thông tin ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế là một dấu hiệu cho thấy sự dồi dào các tài liệu nghiên cứu dưới các hình thức khác nhau cung cấp cơ sở lý luận cũng như thực tiễn cho việc nghiên cứu xây dựng một cách toàn diện pháp luật về quyền được thông tin. Các nghiên cứu quốc tế trong lĩnh vực này đã có sự phát triển từ rất lâu đời và cho đến nay đã ở trình độ cao ở cả khía cạnh chiều rộng và chiều sâu.

    Ở mức độ nghiên cứu khái quát, những công trình nghiên cứu có uy tín cao của các nhà luật học Anh như Freedom of Information: The Law, the Practice and the Ideal ( Tự do thông tin: Pháp luật, thực tiễn và lý tưởng) của Patrick Birkinshaw (2001) hay Blackstone’s Guide to the Freedom of  Information Act ( Bình luận của Blackston về đạo luật  tự do thông tin) của John Wadham, Jonathan Griffiths và Kelly Marris (2002). Đặc biệt là công trình nghiên cứu: “Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin” của chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Luật tiếp cận thông tin là Tony Mendel, xuất bản năm 2008. Các công trình nghiên cứu này đã phân tích, so sánh quyền tiếp cận thông tin trong mối quan hệ với các quyền khác của con người đã được quy định trong các điều ước quốc tế như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí, tự do xuất bản; vai trò của nó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền và đảm bảo thực hiện các quyền công dân và quyền con người…Những tác phẩm này rất có giá trị trong việc cung cấp một cách nhìn về quyền được thông tin từ góc độ pháp luật quốc tế về quyền con người.

   Đi sâu vào nghiên cứu nội dung của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong các tác phẩm như Freedom of Information: The Law, the Practice and the Ideal (Tự do thông tin: Pháp luật, thực tiễn và lý tưởng) của Patrick Birkinshaw (2001) hay Blackstone’s Guide to the Freedom of  Information Act (Bình luận Blackstone về đạo luật về quyền tự do thông tin) của John Wadham, Jonathan Griffiths và Kelly Marris (2002)  ta thấy những tác phẩm này phân tích cụ thể những vấn đề liên quan đến quyền được thông tin như vai trò, bối cảnh ra đời, nội dung các quyền, các trường hợp miễn trừ và các cơ chế bảo đảm thực thi. Đặc biệt các đề xuất liên quan tới  kinh nghiệm xây dựng các khung thể chế và thiết chế cụ thể để bảo đảm thực thi quyền được thông tin theo các chuẩn mực quốc tế đã nhận được sự tham gia rộng rãi của cả giới nghiên cứu và những người xây dựng chính sách. Các công trình này cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình quy định và thực thi quyền được thông tin ở một số quốc gia điển hình như Mỹ, Canada, Úc, New Zealand, Đức,… có thể làm cơ sở tham khảo quý về kinh nghiệm đối với vấn đề này từ góc độ so sánh.

    Ở mức độ chuyên sâu hơn nữa trong lĩnh vực này có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí luật học nước ngoài hoặc sách chuyên khảo. Nội dung và các khía cạnh khác nhau của quyền tiếp cận thông tin được đề cập ở các hình thức nghiên cứu  rất đa dạng và phong phú. Ví dụ như bài Freedom of Information and Openness: Fundamental Human Right? (Tự do thông tin và công khai - Quyền cơ bản của con người?) của Patrick Birkinshaw (tạp chí Administrative Law Review, 2006) trình bày và phân tích sâu các quan điểm đa chiều của giới luật học về ưu điểm cũng như hạn chế của pháp luật về quyền được thông tin của một số quốc gia trên thế giới. Trong đó có những lập luận có giá trị tham khảo về ưu điểm của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin như giúp tăng thêm tính dân chủ của chính quyền, tính trách nhiệm của cơ quan hành pháp, tăng cường vai trò giám sát tối cao của Nghị viện,… hay về nhược điểm của pháp luật về quyền này như trong quá trình thực hiện dễ vi phạm đến quyền tự do cá nhân hay quyền lợi của bên thứ ba, hay mối quan hệ với an ninh quốc gia…Các khía cạnh chuyên sâu khác của pháp luật về quyền được thông tin cũng được quan tâm như mối quan hệ giữa quyền được thông tin với bảo đảm bí mật quốc gia trong bài Freedom of  Information and State Secrets (Tự do thông tin và bí mật quốc gia) (tạp chí 9 E. Eur.Const.Rev.102 (2000)), với quyền tự do cá nhân trong bài Freedom of Information: Is Privacy Winning (Tự do thông tin  là chiến thắng của cá nhân) (tạp chí 13 Nottingham L.J. 17 (2004)), với bí mật và an ninh quốc gia trong sách chuyên khảo: “Secrecy and Liberty: National Security, Freedom of Expression and Access to Information” ( Bí  mật và tự do: an ninh quốc gia, tự  do ngôn luận và tiếp cận thông tin) (International Studies in Human Rights) của tập thể tác giả F.D’Souza , Sandra Coliver, Paul Hoffiman, Stephen Bowen, Joan Fitzpatrick, hay vấn đề thực hiện quyền được thông tin qua thiết chế Thanh tra Nghị viện (Ombudsman) trong công trình nghiên cứu: Freedom of Information – An Ombudsman’s Perspective ( Tự do thông tin - viễn cảnh của Thanh tra Quốc hội) (tạp chí 29 Fed.L.Rev. 359 (2001)).

   Các công trình nghiên cứu về việc bảo đảm và thực hiện quyền được thông tin ở các nước, ngoài hình thức là các sách chuyên khảo như đề cập trên đây, cũng được công bố nhiều dưới hình thức các bài báo trên các tạp chí luật học và đều có giá trị tham khảo, như loạt bài: “Human Rights in Theory and Practice: A Time of Change and Development in Central and Eastern Europe”( Các quyền con người trong lý luận và thực tiễn: thời kỳ đổi thay và phát triển ở Trung và Đông Âu” trên tạp chí Conn.J.Int’l L. năm 1993 đề cập chi tiết kinh nghiệm của các nước Đông Âu hay bài: “Freedom of  Information in Australia” (Tự do thông tin ở Úc) của Peter Bayne trên tạp chí Acta Juridica số 15 năm 1993 về kinh nghiệm của Australia.

 Có thể nói các tài liệu nghiên cứu về quyền được thông tin trên thế giới cho đến nay được thực hiện dưới những hình thức khác nhau và có nội dung hết sức phong phú. Đó là những tư liệu cung cấp kiến thức lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn cho các nước đang đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai và hoàn thiện  thiết chế pháp lý trong lĩnh vực này như Việt Nam.

2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước:

  Có thể nói, pháp luật về tiếp cận thông tin chỉ được các học giả Việt Nam nghiên cứu trong những năm gần đây. Các công trình nghiên cứu này chủ yếu chỉ dừng lại ở những cách tiếp cận khác nhau về quyền tiếp cận thông tin, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và đầy đủ về pháp luật về tiếp cận thông tin. Về hình thức, các công trình này cũng mới chỉ được thực hiện như các bài tham luận, báo cáo khoa học viết cho các hội thảo hoặc đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Hội thảo Tiếp cận thông tin – quy định quốc tế, kinh nghiệm Việt Nam, Đan Mạch, Hà Nội ngày 5-6/10/2006 và Hội thảo khoa học: Tiếp cận thông tin – thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm của Vương quốc Anh tháng 10/2007 với các bài tham luận của các tác giả:

- Nguyễn Chí Dũng – Quyền tiếp cận thông tin: Yêu cầu của quản lý nhà nước hiệu quả, vì phát triển;

- Tường Duy Kiên – Hoàng Mai Hương – Chu Thuý Hằng – Tìm hiểu pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền được đảm bảo thông tin của Việt Nam;

- TS.Dương Thanh Mai – Quyền được thông tin và sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam;

- TS. Đinh Văn Minh – Chuẩn mực tiếp cận thông tin và cuộc đấu tranh chống tham nhũng; 

- TS. Hoàng Minh Thái – Tiếp cận thông tin – Những vẫn đề đang đặt ra;

- TS. Nguyễn Đức Thuỳ - Quyền tiếp cận thông tin- Kinh nghiệm Việt Nam và Vương quốc anh;

- Phạm Quốc Anh – Sự cần thiết và đề xuất khuôn khổ của luật tiếp cận thông tin của Việt Nam;

- TS. Cao Đức Thái – Quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền được thông tin của công dân trong thời kỳ đổi mới;

- GS.TS. Trần Ngọc Đường- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với quyền được tiếp cận thông tin;

- TS. Nguyễn Quốc Việt – Minh bạch hoá pháp luật, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin;

- TS. Ngô Đức Mạnh – Một số vấn đề về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam;

- PGS.TS Vũ Văn Phúc – Công tác tuyên giáo với việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân;

- TS.Đinh Văn Minh – Bảo đảm quyền thông tin, góp phần đấu tranh chống tham nhũng của Việt Nam;

- PGS.TS Hồ Trọng Ngũ – Giới hạn của quyền được thông tin;

- ThS. Vũ Công Giao – Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan ở Việt Nam;

- GS. Paul Okojie – Tiếp cận thông tin – kinh nghiệm của Anh

- TS. Tường Duy Kiên – Quyền được thông tin – cách tiếp cận quốc tế và đặc điểm chung của luật tiếp cận thông tin một số nước trên thế giới.

  Những bài viết trên đây đề cập đến Luật tiếp cận thông tin trên những phương diện và phạm vi khác nhau như  thực trạng pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam, những nội dung cơ bản quyền tiếp cận thông tin ở nước ngoài, những giới  hạn của quyền tiếp cận thông tin, những kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện Luật tiếp cận thông tin ở Anh, tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin trong đời sống hàng ngày của mỗi quốc gia, mối quan hệ giữa việc xây dựng nhà nước pháp quyền và việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, tính cấp thiết của việc ban hành Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay.

 Đóng góp vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy  nghiên cứu và  nâng cao nhận thức về quyền tiếp cận thông tin là việc xuất bản cuốn sách: “ Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin” do Viện nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức dịch và biên soạn, Nhà xuất bản Công an nhân dân phát hành năm 2007. Cuốn sách này  đã dịch toàn văn và trích dịch các

Văn kiện Quốc tế  liên quan đến quyền tiếp cận thông tin như Tuyên ngôn

thế giới về nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về các quyền chính trị và

dân sự năm 1966, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Chương trình hành động chống tham nhũng dành cho châu Á và khu vực châu Á, Thái Bình Dương năm 2001. Cuốn sách này cũng đã dịch nguyên văn và trích dịch các Luật về tiếp cận thông tin/ tự do thông tin của nhiều nước trên thế giới như Luật về tiếp cận thông tin trong các tài liệu chính thức của Anbani năm 1999, Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ năm 2005, Luật về tiếp cận thông tin công của Ba Lan năm 2001, Luật tiếp cận thông tin của Bulgary năm 2000, Luật tiếp cận thông tin của Canada năm 1985, Luật quy định về quản lý tiếp cận chung đối với các thông tin của Chính phủ của Hà lan năm 1991, Luật về công khai thông tin của các  cơ quan chính quyền của Hàn Quốc 1996, Luật về quyền tiếp cận của công chúng đối với các tài liệu hành chính công của Na Uy năm 1970 ( sửa đổi bổ sung năm 2003),  Luật thúc đẩy tiếp cận thông tin của  Nam Phi năm 2000, Luật về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính của Nhật Bản năm 1999 , Luật về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin của Liên Bang Nga năm 2006, Luật về minh bạch và tiếp cận thông tin của Peru năm 2003, Luật về tiếp cận thông tin của Pháp năm 1978, Luật về tiếp cận thông tin của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2004, Luật tự do báo chí của Thụy Điển 1949,  Pháp lệnh về công khai thông tin của chính quyền của Trung Quốc năm 2007, Luật tự do thông tin của Úc năm 1982, Luật tự do thông tin của vương quốc Anh năm 2000.

  Trong khuôn khổ dự án Xây dựng luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam  (Project on Assisting of Law on Access to Information in Vietnam) do Đại

sứ quán Anh tài trợ,  tại Hà Nội vào 2 ngày 06-07/5/2009 Hội thảo quốc tế : “ Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam”( Drafting law on Access to Information in Vietnam) đã được tiến hành. Tại cuộc Hội thảo này một số báo cáo đã được chuẩn bị công phu và đã được  đánh giá cao tại Hội thảo:

  • James Anderson, Chuyên gia cao cấp về quản trị quốc gia của Ngân hàng thế giới - Kinh nghiệm của một số nước Đông Âu trong việc thực thi Luật tiếp cận thông tin;
  • Jairo Acuna  Alfaro, Cố vấn  chính sách về cải cách hành chính và chống tham nhũng của UNDP tại Việt Nam - Quyền tiếp cận thông tin tại các nước khu vực Đông Nam Á;
  • Matt Ottoson,  Bí thư thứ nhất và cố vấn pháp luật của Bộ phận kiểm soát các chương trình phát triển và hợp tác nghiên cứu của Đại sứ quán Thụy Điển – Kinh nghiệm của Thụy Điển về việc thực thi Luật tiếp cận thông tin;
  • Toby Mendel, Chuyên gia cao cấp của Tổ chức Article 19 - Tầm quan trọng của Quyền tiếp cận thông tin: Xu hướng, Địa vị và Đặc điểm;
  • TS. Hoàng Thị Ngân, Chuyên gia nhóm nghiên cứu của Hội luật gia Việt Nam - Kết quả nghiên cứu kinh  nghiệm quốc tế về Luật tiếp  cận thông tin của một số quốc gia trên thế giới;
  • GS-TS Nguyễn Đăng Dung, Đại học quốc gia Hà Nội - Kết quả khảo sát thực tiễn tại địa phương về thực thi quyền được thông tin;
  • TS  Tường Duy Kiên, Trung tâm nghiên cứu về quyền con người, Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh – Chính sách và  hệ thống  các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin;
  • Th.S Ngô Trung Thành, Phó vụ trưởng Vụ pháp luật, Văn phòng Quốc hội -  Mối quan hệ giữa Luật tiếp cận thông tin và các văn bản có liên quan khác của Việt Nam;

 Cuộc Hội thảo ngày 6 -7 tháng 5 năm 2009 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về quyền tiếp cận thông tin và pháp luật về tiếp cận thông tin tại Việt Nam. Với các báo báo của các chuyên gia cao cấp về quản trị quốc gia, về cải cách hành chính, chuyên gia pháp luật có uy tín  của nước ngoài và Việt Nam như James Anderson, Jairo Acuna Alfaro, Matt Ottoson, Toby Melden, Hoàng Thị Ngân, Nguyễn Đăng Dung, Tường Duy Kiên, Ngô Trung  Thành, Hội thảo đã  phân tích những kinh nghiệm thực thi pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở các nước Đông Âu là những nước có nền kinh tế chuyển  đổi như Việt Nam, các nước Đông Nam Á là những nước láng giềng hoặc cận kề với Việt Nam, kinh nghiệm thực thi pháp luật của Thụy Điển, nước đi đầu trong lĩnh vực pháp luật về tiếp cận thông tin. Các báo cáo mang tính chất so sánh trên đây cho chúng ta thấy rõ

bên cạnh những điểm khác nhau,  nội dung cơ bản của Luật tiếp cận thông tin  của các quốc gia khác nhau cũng có những điểm chung giống nhau như đều có những quy định chung mang tính chất nguyên tắc, những thông tin phải công bố rộng rãi, những thông tin không được phép công bố, những cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ cung cấp thông tin, các chủ thể có quyền được cung cấp thông tin, thủ tục cung cấp  thông tin, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin, cơ quan có thẩm quyền giải  quyết các khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin. Bên cạnh các báo cáo của các chuyên gia nước ngoài, các báo cáo của các nhà khoa học trong nước cũng đã nghiên cứu về lý luận và  khảo sát thực tiễn để tìm hiểu  thực trạng pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam.  Báo cáo khảo sát thực tiễn của Đoàn khảo sát do Bộ tư pháp chủ trì tại các địa phương: Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Long An cho chúng ta những kết quả đáng được lưu ý về ý thức pháp luật, tình trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam  hiện nay. Theo báo cáo khảo sát rất ít người dân biết  quyền họ được cung cấp các thông tin  liên quan đến cuộc sống của họ. Mặc dù đã có những quy định đơn lẻ  về việc cung cấp thông tin cho nhân dân ở các văn bản pháp luật đơn ngành nhưng hầu hết các công chức không coi việc cung cấp thông tin là trách nhiệm của họ vì rằng việc cung cấp thông tin không phải là nhiệm vụ chính của việc thực hiện chính sách được quy định trong các văn bản nói trên. Hầu hết các phiếu điều  tra đều cho rằng các cán bộ rất lúng túng khi gặp những trường hợp  yêu cầu phải được cung cấp thông tin. Phần lớn trong số họ đều chuyển yêu  cầu lên cấp trên.  Cán bộ, công chức và thủ trưởng cơ quan đều không quen với việc thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin. Hầu hết đều không nhận thấy thông tin của cơ quan nhà nước là tài sản nhân dân, được tạo ra do các công việc được nhân dân giao phó. Hiện tượng  đóng dấu mật lên các công văn giấy tờ không thuộc phạm trù mật còn tràn lan. Việc khai thác và sử dụng các trang Web chưa được rộng rãi. Quyền được thông tin mặc dù được quy định nhưng không có điều kiện thực thi sở dĩ như vậy là do chưa có một đạo luật riêng quy định đầy đủ về vấn đề này. Tất cả các phiếu điều tra đều nhất trí về việc cần thiết ban hành Luật tiếp cận thông tin[3].

  Với sự  phối hợp tổ chức và tài trợ của Trung tâm nhân quyền Na Uy, Hội luật gia Việt Nam đã tiến hành Hội  thảo quốc tế : “ Luật tiếp cận thông tin – kinh nghiệm một số nước trên thế giới” vào các ngày 19- 20/8/2009 tại thành phố Nha Trang. Tại cuộc Hội thảo này nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã được trình bày:

  • GS-TSKH Đào Trí Úc, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội luật gia Việt Nam - Tổng quan về Luật tiếp cận thông tin và vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở các nước trên thế giới;
  • TS Hoàng Thị Ngân, Phó vụ trưởng Vụ tổ chức hành chính và công vụ, Văn phòng Chính phủ - Tiến trình xây dựng Luật tiếp cận thông tin ở Việt nam;
  • Toje R. Ruud, Cố vấn pháp luật, Vụ lập pháp,Bộ tư pháp và Công an Na Uy - Luật tiếp cận thông tin ở Na Uy và vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng và thực hiện luật này;
  • GS Sung Nak In, Chủ tịch Hội giảng viên luật Hàn Quốc, Đại học quốc gia Seoul, Hàn Quốc - Luật tiếp cận thông tin ( Luật công khai thông tin của các cơ quan nhà nước) ở Hàn quốc và vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng và thực hiện luật này;
  • Th.S Phạm Anh Tuấn, Phó Chánh văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng - Luật tiếp cận thông tin với công tác phòng chống tham nhũng;
  • PGS-TS Phạm Duy Nghĩa, Chủ nhiệm bộ môn Luật kinh tế, Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh – Tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin, Luật báo chí và Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước;
  • Fany Davidova, Chuyên gia Chương trình tiếp cận thông tin của Bulgary – Vai trò của Chương trình tiếp cận thông tin của Bungary trong việc thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin;
  • Ngô Minh Hương, Chuyên gia của Viện nhân quyền  Na Uy -  Kinh nghiệm tiếp cận thông của một số nước Bắc Âu;
  • GS-TSKH Lê Cảm, Tổng biên tập tạp chí : “ Pháp luật và phát triển” – Vai trò của giới luật gia trong việc thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin.

Các bài tham luận của các nhà khoa học luật Việt Nam và nước ngoài trong  hai cuộc Hội thảo khoa học trong tháng 9 năm 2009 tại Hà Nội và Nha Trang đánh dấu sự  phát triển đáng ghi nhận của sự quan tâm và hiểu biết về pháp luật về quyền tiếp cận thông tin/ tự do thông tin ở  Việt Nam. Ở một mức độ sâu rộng hơn so với cuộc Hội thảo đầu tiên hai cuộc Hội thảo này đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng và thực hiện Luật tiếp cận thông tin của nhiều quốc gia trên thế giới  như các nước Đông Âu, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Hàn Quốc , Bungary, Mexico, Thái Lan. Hội thảo đã đề cập đến tính cấp thiết và những nội dung cơ bản của dự thảo Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Hai cuộc Hội thảo này đã góp những ý kiến quan trọng cho việc xây dựng  bản dự thảo Luật tiếp cận thông tin phù hợp với Việt Nam.

  Gần đây, phục vụ cho soạn thảo và ban hành Luật tiếp cận thông tin, có nhiều công trình khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn cao đã được xuất bản. Đặc biệt phải kể đến là công trình nghiên cứu: “Luật Tiếp cận thông tin – Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam” do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên với sự tham gia của các tác giả: GS-TSKH Đào Trí Úc, Th.S Lê Thị Kim Thanh, TS. Hoàng Thị Ngân, TS. Tường Duy Kiên, TS. Nguyễn Thị Kim Thoa.

 Công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về quyền tiếp cận thông tin bao gồm các vấn đề như: quan niệm về quyền tiếp cận thông tin ở nước ngoài và Việt Nam, ý nghĩa của quyền tiếp cận thông tin trong các văn kiện pháp lý quốc tế, phạm vi của quyền tiếp cận thông tin, các nguyên tắc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin, nội dung của quyền tiếp cận thông tin, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, thủ tục khiếu nại khiếu kiện về quyền tiếp cân thông tin, vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong việc thúc đẩy sự phát triển của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin, các kiến nghị cho quá trình soạn thảo Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Công trình nghiên cứu trên đây đã cung cấp cho chúng ta những kiến thức khái quát về pháp luật tiếp cận thông tin ở nước ngoài và Việt Nam, làm cơ sở lý luận để các nhà luật học có thể nghiên cứu sâu hơn về  những khía cạnh khác nhau của Luật tiếp cận thông tin trên cơ sở đó có thể xây dựng và ban hành Luật tiếp cận thông tin phù hợp nhất với điều kiện chính tri,  kinh tế, xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá hiện nay.

   Gần đây nhất, ngày 23-24 tháng 9 năm 2010, Tại tỉnh Hoà Bình, với sự tài trợ của Quỹ châu Á, Bộ tư pháp đã tổ chức  Hội thảo: “ Xây dựng luật tiếp cận thông tại Việt Nam”. Tại cuộc Hội thảo này  nhiều nhà luật học đã bày tỏ nguyện vọng chung của nhân dân là Quốc hội cần khẩn trương ban hành Luật tiếp cận thông tin làm công cụ đắc lực thực hiện quyền được tiếp cận thông tin là quyền hiến định của  công dân. Một số báo cáo đã được đánh giá cao tại Hội thảo n ày:

-  Nhóm  chuyên gia Bộ  tư  pháp -Báo  cáo đánh giá tác động của  dự thảo Luật tiếp c ậ n thông tin

- TS Dương Thanh Mai - Những  vấn đề chung  về quyền tiếp cận thông tin;

- Th.s Đặng Đình Luyến -  Thông tin và tiếp cận thông tin tại Việt Nam;

- TS Nguyễn Ngọc Anh - Giới hạn của quyền tiếp cận th ông tin.

Cuộc Hội thảo ngày 23- 24/9 2010 là một bước thúc đẩy quan trọng trong tiến trình xây dựng và ban hành Luật tiếp cận thông tin tại việt Nam. Tiến xa hơn các cuộc Hội thảo trước đây, cuộc Hội thảo này đã đánh giá tác động của Dự thảo Luật tiếp cận thông tin ( Regulatory Impact Assessement  - RIA).  Với phương pháp RIA nhóm chuyên gia pháp luật của Bộ tư pháp đã đánh giá trước những tác động tích cực sau đây lên các quan hệ xã hội khi Luật tiếp cận thông tin được ban hành và có hiệu lực:

  • Về mặt kinh tế, việc tăng cường và mở rộng thông tin cũng có nghĩa là tăng cường khả năng nâng cao trí thức, có thể đem đến những chuyển biến cơ bản trong việc sản xuất sản phẩm và dịch vụ hàng hoá. Thông tin công khai, minh bạch có thể giúp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng cho mình một kế hoạch đầu tư dài hạn,  xây dựng được  kế hoạch kinh doanh đảm bảo phát triển bền vững. Các doanh nghiệp được bình đẳng trong việc khai thác và sử dụng các thông tin vào quy hoạch, chính sách thuế để lập kế hoạch đầu tư dài hạn. Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí kinh doanh và các rủi ro khi đầu tư nhờ đó mà đảm bảo được hiệu quả kinh doanh bền vững. Việc ban hành Luật tiếp cận thông tin là tiền đề  thực hiện một nền hành chính công khai, minh bạch tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam[4].
  • Về mặt quản lý nhà nước, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của cá nhân làm tăng khả năng giám sát các cơ quan công quyền từ phía công chúng. Nghĩa vụ cung cấp thông tin đảm bảo công khai, minh bạch sẽ làm cho hoạt động  của các cơ quan công quyền có hiệu lực, hiệu quả cao hơn vì vậy hoạt động quản lý nhà nước sẽ tốt hơn và có thể hạn chế được nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước. 
  • Về đảm bảo thực hiện các quyền con người và quyền công dân,  quyền tiếp cận thông tin là điều kiện tiên quyết để mọi  cá nhân có thể thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình do vậy việc ban hành Luật tiếp cận thông tin sẽ là một bước đột phá, mở rộng khả năng thực hiện các quyền con người và quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật…

    Một số công trình nghiên cứu gần đây của một số tác giả đã được tạp chí Nghiên cứu lập pháp đăng tải  trong số đặc biệt giành cho quyền tiếp cận thông tin ( Số 17 (154) tháng 9/ 2009 và  bao gồm:

  • PGS-TS Thái Vĩnh Thắng - Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện các quyền con người và quyền công dân;
  • Th.S. Dương Thị Bình - Thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
  • Th.S. Nguyễn Thị Hạnh - Sự cần thiết ban hành luật tiếp cận thông tin;
  • Th.S. Mai Thị Kim Huế - Phạm vi chủ thể có trách nhiệm cung cấp

thông tin;

  • Chu Thị Thái Hà - Thông tin được tiếp cận và nội hàm của quyền tiếp

cận thông tin;

  • TS. Nguyễn Thị Thu Vân - Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin;
  • TS. Nguyễn Thị Kim Thoa - Nội dung cơ bản của Luật tiếp cận thông tin một số nước;
  • Th.S. Nguyễn Quỳnh Liên-  Quyền tiếp cận thông tin trong các văn kiện quốc tế.

  Trong năm 2010, một số công trình nghiên cứu về Luật tiếp cận thông tin

và đóng góp ý kiến cho dự luật tiếp cận thông tin được các tạp chí chuyên ngành luật tiếp tục đăng tải:

-  TS Vũ Văn Nhiêm -  Quyền được thông tin từ góc độ bảo đảm quyền con người và liên hệ với dự luật tiếp cận thông tin  ở Việt Nam (Nghiên cứu

lập pháp số  9  (170) tháng 5/2010;

  • TS. Trương Thị Hồng Hà - Luật về công bố thông tin của các cơ quan

chính quyền Hàn quốc ( Nghiên cứu lập pháp số 9 (170) tháng 5 năm 2010.

  Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 cũng đã dành riêng một số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin với các bài viết của các tác giả:

- Th.s. Nguyễn Công Hồng và TS. Hoàng Thị Ngân – Nhà nước pháp quyền và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân;

- Th.s. Nguyễn Công Hồng – Lợi ích của việc ban hành Luật tiếp cận thông tin;

- TS. Tường Duy Kiên – Chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam  đảm bảo quyền tiếp cận thông tin;

- TS Nguyễn Thị Kim Thoa - Những vấn đề cơ bản được giải quyết trong Luật tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới;

- GS-TS Nguyễn Đăng Dung - Một số vấn đề về đảm bảo quyền được thông tin của công dân;

-  Lê Huy – Khái niệm và cơ sở chính trị, pháp  lý của quyền tiếp cận thông tin;

-  Hạnh Bình - Thực tiễn về tiếp cận thông tin của các bộ, ngành, địa phương;

-  TS Hoàng Thị Ngân - Quyền tiếp cận thông tin và việc xây dựng chính phủ mở;

 - Th.s Dương Thị Bình - Thực trạng và kiến nghị về thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam;

- Thoa Huế - Cơ quan cung cấp thông tin – Kinh nghiệm quốc tế và hướng quy định trong dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam;

- Mai Nguyễn – Cung cấp thông tin theo yêu cầu – Cơ chế hữu hiệu bảo đảm quyền tiếp cận thông tin;

- Nguyễn  Quỳnh  Liên– Kinh nghiệm xây dựng Luật tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới;

- TS Nguyễn Thị Thu Vân – Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị về cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin trong dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam.

 Những công trình nghiên cứu trên đây trên các bình diện khác nhau đã nghiên cứu sơ lược lịch sử phát triển, khái niệm  quyền được thông tin / quyền tiếp cận thông tin (right to access to information), tiêu chuẩn và các quy định quốc tế về quyền tiếp cận thông tin, trong đó đã khái quát các văn kiện quốc tế và khu vực có liên quan đến quyền tiếp cận thông tin như Tuyên ngôn  thế giới về nhân quyền năm 1948 (Điều 19), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Điều 19), Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 (Điều 12, 13); Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003 (điều 10, 13); Chương trình hành động chống tham nhũng dành cho Châu Á và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương năm 2001; Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề môi trường năm 1998. Các tác giả cũng đã phân tích nội hàm và các khía cạnh khác nhau của quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt  Nam và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.

 Phân tích các công trình nghiên cứu nói trên cho thấy các tác giả đều có quan điểm thống nhất là quyền tiếp cận thông tin nên hiểu có nội dung rộng bao gồm  quyền tự do tìm kiếm thông tin, tự do tiếp nhận thông tin và tự do phổ biến thông tin. Ba nội dung trên chính là những nội dung cốt lõi của quyền tiếp cận thông tin theo nghĩa rộng vì chúng có quan hệ biện chứng với nhau, gắn chặt với nhau, đòi hỏi  tất cả các quốc gia phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo đảm cho công dân thực hiện quyền này với đầy đủ các nội dung. Các công trình nghiên cứu này cũng đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nội hàm khái niệm quyền tiếp cận thông tin như: tự do thông tin hay tiếp nhận thông tin được thừa nhận không chỉ là quyền cơ bản của con người được quy định và bảo vệ bởi pháp luật quốc tế và quốc gia mà còn là công cụ thiết yếu để tăng cường tính dân chủ của chính quyền, đảm bảo tính minh bạch nền hành chính, tính trách nhiệm và quản trị tốt của Chính phủ. Tự do thông tin hay tiếp cận thông tin chính là việc công dân được tiếp cận hồ sơ, văn bản của cơ quan công quyền, nắm bắt được các hoạt động của cơ quan công quyền, đảm bảo nguyên tắc các cơ quan công quyền không được giữ thông tin thay mặt chính họ mà là thay mặt hay xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội, và hoạt động trên sự giám sát của nhân dân. Quyền tiếp cận thông tin của cá nhân còn có ý nghĩa thứ hai là quyền được yêu cầu cơ quan nhà nước phải công bố, phổ biến các loại thông tin mà cơ quan đó nắm giữ vì lợi ích của cộng đồng. Quyền tiếp cận thông tin bắt đầu xuất hiện là quyền được biết sự thật, nó phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm mọi người được biết sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và thế giới đến các vấn đề về quản lý tư pháp - hành chính, và các vấn đề liên quan đến quyền con người và bảo vệ các quyền và tự do của con người.   

 Những công trình nghiên cứu trên cũng đề cập đến những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin, như:

- Tôn trọng các quyền, uy tín, bí mật cá nhân của người khác;

- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng;

- Sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng;

 Những công trình nghiên cứu ở trong nước hiện nay cũng đã tiếp cận đặc điểm chung của luật tiếp cận thông tin ở một số nước trên thế giới về phạm vi áp dụng, nội hàm của quyền “tiếp cận thông tin công” (right to access public information), chủ thể yêu cầu cung cấp thông tin, phương thức cung cấp thông tin, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin, các ngoại trừ yêu cầu cung cấp thông tin, cơ chế khiếu nại, giám sát về công khai thông tin, về xử phạt vi phạm quyền tiếp cận thông tin, về lệ phí cung cấp thông tin đối với người có yêu cầu, về thiết chế đặc trách về thông tin…

 Nhiều công trình nghiên cứu cũng đề cập đến việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, đưa ra các đề xuất,  kiến nghị cho quá trình soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam.

3.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

   Mục đích nghiên cứu là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của  việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay phục vụ việc xây dựng Luật tiếp cận thông tin.

  Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, đề tài xác định nhiệm vụ của mình là phân tích được nội dung cơ bản của các quy định của pháp luật Việt Nam về tiếp cận thông tin,  chỉ ra được những thành tựu đã đạt được và những bất cập hạn chế của pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin cũng như những hạn chế  trong cơ chế đảm bảo thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay. Đề tài phải nghiên cứu, khảo sát được   các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và một số nước trên thế giới về Luật tiếp cận thông tin của một số quốc gia đã ban hành luật này. Khi phân tích các Luật tiếp cận thông tin và các công trình nghiên cứu  về Luật tiếp cận thông tin của các quốc gia trên thế giới đề tài phải lý giải được vì sao gần 90 quốc gia trên thế giới trong đó có hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển đã ban hành Luật tiếp cận thông tin. Lý giải được tính cấp thiết của việc ban hành Luật tiếp cận thông tin của các quốc gia đã ban hành Luật tiếp cận thông tin. Từ đó lý giải tính cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam, đặc biệt là tính cấp thiết của việc ban hành một đạo luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay làm công cụ đắc lực cho việc xây dựng một xã hội dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế.

4.Phương pháp nghiên cứu

  Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:

- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đường lối, chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin.

-Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thực hiện đề tài là phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, lịch sử, tư duy logic, điều tra xã hội học…Các phương pháp này được áp dụng linh hoạt tuỳ vào từng nội dung và những yêu cầu của đề tài. Phương pháp phân tích được ứng dụng để phân tích những nội dung cơ bản của Luật tiếp cận thông tin và nội hàm của quyền tiếp cận thông tin theo quy định của  pháp luật các quốc gia trên thế giới. Phương pháp lịch sử được áp dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam và nước ngoài. Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt trong pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của các quốc gia trên thế giới.  Phương pháp điều tra xã hội học được áp dụng nhằm tìm hiểu mức độ hiểu biết và nhận thức khác nhau của các từng lớp dân cư trong xã hội về pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của  công dân. Các  phương pháp nghiên cứu nói trên được sử dụng kết hợp lẫn nhau một cách nhuần nhuyễn, tạo nên sự phong phú và đa dạng nhưng đồng thời thống nhất trong cách tiếp cận và lý giải các vấn  đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến đề tài nghiên cứu.

                                           

                                        B. PHẦN NỘI DUNG

                                                 Chương I

 CƠ SỞ LÝ LUẬN   PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN  THÔNG TIN

1.1 Khái niệm quyền tiếp cận thông tin và pháp luật về tiếp cận thông tin

Quyền tiếp cận thông tin (Right to access to information) hay quyền được thông tin không phải là khái niệm mới. Khái niệm này đã được ghi nhận rất sớm trong văn kiện pháp lý của nhiều quốc gia cùng với sự phát triển của các quyền khác của con người. Đạo luật về Tự do báo chí của Thuỵ Điển được ban hành vào năm 1766 đã trao cho người dân quyền  được yêu cầu tiếp cận văn bản/hồ sơ của các cơ quan chính phủ. Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng như Tuyên ngôn của Hà Lan năm 1795 cũng đã xác lập nguyên tắc bảo đảm khả năng tiếp cận các thông tin từ các cơ quan công quyền hoặc các công chức phải báo cáo các công việc của mình. Đặc biệt, sau khi Liên hợp quốc ra đời năm 1945 và việc ghi nhận quyền tiếp cận thông tin như là một trong số các quyền và tự do cơ bản của cá nhân trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, quyền tiếp cận thông tin đã trở thành mối quan tâm trên bình diện quốc tế và ngày càng được các quốc gia quan t âm nhi ều hơn. Kể từ thời điểm đó trở đi, quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế trên phạm vi toàn cầu cũng như khu vực. Chẳng hạn như  Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Công ước Nhân Quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân Quyền Châu Mỹ (ACHR), Chương trình Hành động Chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái bình dương được ký kết vào ngày 30 tháng 11 năm 2001 ở Tookyo (Nhật Bản) cũng xác định việc bảo đảm cho công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng phù hợp với pháp luật trong  nước. Ở cấp độ quốc gia, hiện nay, gần 90 quốc gia ban hành luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin công dưới những tên gọi khác nhau như Luật về tự do thông tin, Luật tiếp cận thông tin...

Trong quá trình phát triển của quyền tiếp cận thông tin, nội dung của nó đã có sự phát triển ngày càng rộng hơn. Trong các văn kiện pháp lý đầu tiên về quyền con người, quyền tiếp cận thông tin được xem là một nội dung thuộc khái niệm quyền tự do ngôn luận. Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 qui định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào và không có ranh giới” và Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị qui định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bằng bản viết, in hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ”.

Trong báo cáo năm 1998 và 2000 của mình, Đặc phái viên của Liên hợp quốc về Tự do ý kiến và ngôn luận khẳng định rằng quyền tiếp cận thông tin là một quyền con người độc lập nằm trong ngoại diên của tự do ngôn luận được các văn kiện quốc tế về quyền con người bảo hộ. Quyền tiếp cận thông tin quy định nghĩa vụ của Nhà nước phải bảo đảm cho tất cả mọi người được tiếp cận các nguồn thông tin mà trước tiên là thông tin do chính bản thân các cơ quan nhà nước đang nắm giữ hoặc quản lý dưới hình thức này hay hình thức khác.[5] Tinh thần của quyền tiếp cận thông tin chính là sự công khai hóa tối đa hoạt động của các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước đối với công chúng cũng như đối với từng người dân. Với tinh thần và nội dung như vậy, quyền tiếp cận thông tin có nội hàm khác với nội hàm của quyền tự do thông tin ở một số khía cạnh quan trọng:

  • Thứ nhất, quyền tự do thông tin chú trọng tới việc tạo ra sự lưu thông thông tin một cách tự do giữa tất cả các đối tượng trong xã hội. Nhà nước không có quyền ngăn cản và có nghĩa vụ phải tạo điều kiện cho sự lưu thông thông tin tự do này. Trong khi đó, quyền tiếp cận thông tin chỉ tập trung vào việc làm thế nào để người dân tiếp cận được, tức là bao gồm việc biết được, có được và được sử dụng, các thông tin về hoạt động của các nhà nước hoặc các thông tin đang do các cơ quan nhà nước nắm giữ.
  • Thứ hai, mục đích trực tiếp của quyền tự do thông tin là tạo ra một xã hội thông tin trong đó thông tin được lưu thông tự do, còn quyền tiếp cận thông tin lại có mục đích trực tiếp là làm cho hoạt đông mọi mặt của Nhà nước và các cơ quan nhà nước minh bạch đối với người dân. Với những mục đích khác nhau như vậy, khách thể của quyền tự do thông tin là bản thân thông tin dưới tất cả các hình thức và sự phân loại khác nhau trong xã hội. Các thông tin đó có thể do các cá nhân hay các tổ chức, đoàn thể hoặc bản thân cơ quan nhà nước nắm giữ. Trong khi đó quyền tiếp cận thông tin nhắm tới khách thể trực tiếp là thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước hay đang do các cơ quan nhà nước nắm giữ.

Về bản chất, quyền tiếp cận thông tin là một trong những nội dung của mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và Cá nhân (mà trước tiên là Công dân của Nhà nước đó), theo đó Cá nhân có quyền tiếp cận tới thông tin dưới các hình thức khác nhau mà Nhà nước đang nắm giữ và Nhà nước có nghĩa vụ phải bảo đảm cho sự tiếp cận này. Trong khoa học và thực tiễn pháp lý, khía cạnh nghĩa vụ của Nhà nước trong nội hàm của Quyền tiếp cận thông tin thường được nhấn mạnh, qua đó đôi khi gây ra cho người ta cảm giác rằng chính bản thân khía cạnh nghĩa vụ của Nhà nước làm nên toàn bộ nội hàm của Quyền tiếp cận thông tin. Điều này không phải là vô căn cứ bởi vì trong một mối quan hệ bất cân bằng về thế và lực như mối quan hệ giữa Nhà nước và Cá nhân, nếu nghĩa vụ của Nhà nước không được nhấn mạnh và bảo đảm thực thi thì tất yếu quyền của Cá nhân sẽ không được bảo đảm. Quy luật này đúng với tất cả các mối quan hệ giưaã Nhà nước và Cá nhân liên quan tới quyền cơ bản, trong đó có Quyền tiếp cận thông tin.

Dễ dàng nhận thấy, với tinh thần, bản chất và nội dung như đề cập trên đây, khái niệm “Quyền tiếp cận thông tin” mang ý nghĩa dân chủ rất lớn, thể hiện ở những khía cạnh sau.

Thứ nhất, trong các xã hội dân chủ thường nhấn mạnh tới việc tạo ra nhiều hình thức để người dân tham gia vào việc quản lý của nhà nước, từ việc thực hiện quyền bầu cử, đến việc đóng góp ý kiến vào các dự thảo chính sách, pháp luật của nhà nước, tham gia trưng cầu dân ý .v.v. Tất cả các hình thức tham gia vào việc quản lý của nhà nước kể trên đều sẽ trở thành vô nghĩa nếu như người dân không tiếp cận được tới thông tin cần thiết do các cơ quan nhà nước đang nắm giữ. Nếu không có thông tin đầy đủ về ứng cử viên thì việc bầu cử chỉ là hình thức, nếu như cử tri không có được thông tin đầy đủ về hoạt động của người đại biểu của mình thì việc cử tri xem xét có tái bầu một đại biểu nào đó cũng chỉ là hình thức. Đặc biệt nếu người dân không có thông tin đầy đủ về các dự thảo chính sách, pháp luật của nhà nước thì người dân sẽ không thể tham ia đóng góp vào các chính sách, pháp luật đó được. Nói tóm lại, nếu như không có quyền tiếp cận thông tin hoặc quyền tiếp cận thông tin không được bảo đảm thực thi thì những cam kết của Nhà nước về việc xây dựng các cơ chế để người dân tham gia quản lý nhà nước đều chỉ mang tính hình thức.

Thứ hai, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Mục đích trực tiếp của quyền tiếp cận thông tin là tạo ra sự minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước đối với công chúng, sao cho người dân đều có thể biết được và đều có thể theo dõi được các hoạt động mà các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước đang tiến hành. Một khi hoạt động nhà nước đã được minh bạch, cơ hội để cho các quan chức tha hóa tham nhũng sẽ được giảm đi đáng kể và quan trọng hơn nữa là việc che dấu các hành vi tham nhũng của quan chức sẽ trở nên không thể. Sự minh bạch thông tin sẽ góp phần làm cho các quan chức nhà nước không thể, và phần nào không dám, tham nhũng.

Thứ ba, quyền tiếp cận thông tin giúp nâng cao trách nhiệm của nhà nước và qua đó tăng hiệu quả công tác quản trị của nhà nước đối với đất nước và xã hội. Khi thông tin về hoạt động của nhà nước đã được công khai và khi người dân có đầy đủ khả năng, thông qua thực thi quyền tiếp cận thông tin, để biết được thông tin về hoạt động của nhà nước thì tất cả trách nhiệm của nhà nước sẽ được phơi bày trước người dân, việc nhà nước đã thực hiện hoặc không thực hiệnnhững biện pháp nào để bảo đảm hoàn thành trách nhiệm của mình cũng được phơi bày trước người dân. Điều đó tất yếu làm cho các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước nếu không muốn mất uy tín trước nhân dân thì bắt buộc phải coi trọng trách nhiệm của mình, bảo đảm tính hiệu quả trong công tác quản trị của nhà nước đối với đất nước và xã hội.

Thứ tư, quyền tiếp cận thông tin góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công tác giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, qua đó góp phần quan trọng xây dựng nhà nước pháp quyền. Giám sát của xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước luôn là yếu tố không thể thiếu trong các nền dân chủ. Chỉ khi nào người dân được quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và các quan chức nhà nước thì khi đó nhà nước mới thực sự là của dân và chế độ dân chủ mới được thiết lập. Tuy nhiên sẽ là không đủ nếu pháp luật chỉ quy định công dân có quyền giám sát hoạt động của nhà nước, vấn đề còn nằm ở chỗ người dân phải có khả năng thực hiện được quyền giám sát đó. Có được đầy đủ thông tin về hoạt động của cơ quan nhà nước, quan chức nhà nước mà mình đang giám sát thông qua việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin chính là điều kiện không thể thiếu để người dân có được khả năng đó. Khi có được đầy đủ thông tin thì tất cả các hình thức giám sát của người dân đối với nhà nước đều sẽ trở nên có hiệu quả hơn, cho dù là giám sát trực tiếp hay giám sát thông qua các đại biểu của mình.

Những phân tích trên cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của quyền tiếp cận thông tin, hơn bất kỳ quyền cơ bản nào khác của con người, đối với công cuộc xây dựng và duy trì một nền dân chủ thực sự. Đã có những nhận xét rất đúng rằng thông tin là “ôxy của dân chủ”[6]. Chính quyền tiếp cận thông tin là công cụ để đưa ôxy tới nuôi cơ thể nền dân chủ. Nếu không có công cụ đó, cơ thể dân chủ sẽ chết hoặc nếu không thì cũng sống một cách èo uột. Khi quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm, người dân sẽ sử dụng công cụ đó để xây dựng và duy trì nền dân chủ của mình.

 

Cùng với sự phát triển của nền dân chủ, quyền tiếp cận thông tin trở thành một quyền độc lập với nội hàm rộng hơn mà nền tảng của nó là quyền được biết sự thật và đòi hỏi phải có tự do thông tin. Vì vậy, nội dung của quyền tiếp cận thông tin không đơn giản chỉ là quyền của người dân mà còn phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho công dân có được các thông tin sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống. Những thông tin này là những thông tin được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay mặt nhân dân lưu giữ với quan niệm“các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích công cộng”.[7] Đo đó, các cơ quan phải có trách nhiệm bảo quản và tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể tiếp cận đối với chúng.. Với ý nghĩa đó, khi nói đến nội dung của quyền tiếp cận thông tin, có hai nội dung cần phải được giải quyết. Một là, thành tố cơ bản của quyền tiếp cận thông tin; và hai là những thông tin nào sẽ được tiếp cận.

a. Thành tố cơ bản của quyền tiếp cận thông tin

Quyền tiếp cận thông tin theo quan niệm của đa số các luật gia ngày nay bao gồm quyền tự do tìm kiếm thông tin, thu thập thông tin và quyền yêu cầu cung cấp thông tin.

Tìm kiếm, thu thập thông tin

Một trong những nội dung cơ bản của quyền tiếp cận thông tin là quyền được có các thông tin đang được quản lý hoặc kiểm soát bởi các cơ quan công quyền. Để có được các thông tin cần thiết đang được quản lý hoặc kiểm soát bởi các cơ quan công quyền, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin trước hết phải có sự tự do trong việc tìm kiếm, thu thập thông tin. Điều này thể hiện tính chủ động của người có quyền đối với những thông tin cần thiết mà người đó quan tâm. Quyền tìm kiếm, thu thập thông tin được hiểu là chủ thể của quyền tiếp cận thông tin có quyền xem các tác phẩm, hồ sơ, tài liệu chứa đựng các thông tin được các cơ quan công quyền quản lý hoặc kiểm soát; ghi chép, trích dẫn, sao chụp các thông tin đó dưới các hình thức khác nhau và bằng những phương tiện khác nhau; có quyền có các bản sao có chứng thực các tài liệu chứa đựng các thông tin; và thu thập thông tin bằng việc sao chép các thông tin đó vào các thiết bị điện tử hoặc bằng việc in các tài liệu đó trực tiếp từ những nơi lưu giữ chúng. bằng máy vi tính hoặc bằng các thiết bị khác.

Yêu cầu cung cấp thông tin,

Cùng với quyền tìm kiếm, thu thập thông tin, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin còn có quyền yêu cầu cơ quan quản lý hoặc kiểm soát thông tin cung cấp thông tin cho mình. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin được xem là một trong những điều kiện để bảo đảm cho việc tìm kiếm thu thập thông tin.

Sở dĩ như vậy vì, ngoài những thông tin được công bố công khai theo thủ tục pháp luật qui định, nhiều thông tin sẽ chỉ được cung cấp khi có yêu cầu của cá nhân và tổ chức vì thông tin đó có thể chỉ liên quan đến quyền và lợi ích của một hoặc một nhóm người. Chẳng hạn, thông tin về tình trạng bệnh tật của người bệnh, thông tin về một cá nhân nào đó... Trong những trường hợp như vậy, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin chỉ có thể tìm kiếm, thu thập thông tin khi yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền lưu giữ thông tin đó cung cấp.

Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của người dân đòi hỏi một nghĩa vụ tương ứng từ phía các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin. Đó là nghĩa vụ cung cấp thông tin. Như đã nói ở trên, quyền tiếp cận thông tin của người dân có thể bị hạn chế bằng các hoạt động của các cơ quan công quyền trong việc cung cấp thông tin hoặc sử dụng các rào cản kỹ thuật và pháp lý để hạn chế khả năng tiếp cận thông tin của người dân. Vì thế, để bảo đảm quyền yêu cầu cung cấp thông tin, đòi hỏi nhà nước cần có cơ chế tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, và cá nhân có thể thực hiện được quyền này. Đồng thời, các cơ quan công quyền phải có trách nhiệm công bố thông tin cũng như tạo điều kiện cho việc tiếp cận thông tin. Thiếu các cơ chế để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đồng nghĩa với việc không bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Hậu quả của việc thiếu cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân đó là tình trạng đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác dễ dàng tiếp cận thông tin, gây nên sự bất bình đẳng, bất công bằng trong xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh. Vì vậy, quyền tiếp cận thông tin cũng gắn liền với quyền yêu cầu nhà nước có rách nhiệm bảo đảm rằng các loại thông tin cần thiết liên quan đến lợi ích của cộng đồng phải luôn sẵn sàng cho việc tiếp cận

Có ý kiến cho rằng, quyền tiếp cận thông tin bao gồm các việc tự do truyền bá, phổ biến thông tin. Theo đó, truyền bá hay phổ biến thông tin có nghĩa là cá nhân, công dân có thông tin được quyền truyền đạt, chia sẻ quan điểm, thông tin mà mình đang nắm giữ cho mọi người mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về ranh giới hay các hình thức đưa tin.[8] Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, truyền bá thông tin là một nội dung gắn với tự do thông tin, một khái nhiệm có phạm vi khác so với khái niệm tiếp cận thông tin. “Tự do thông tin được hiều là quyền cơ bản của cá nhân và công chúng và nằm trong mối quan hệ với tự do thể hiện quan điểm của mình. Theo đó, quyền tự do thông tin sẽ bao hàm việc cá nhân và công chúng được tự do truyền tải quan điểm, ý kiến và những thông tin mình có được. Việc truyền bá hay phổ biến thông tin có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như nói, viết, in ấn, điện tử hoặc các hình thức khác.

b. Những thông tin nào có thể được tiếp cận?

Một câu hỏi lớn được đặt ra là người dân sẽ được tiếp cận đối với những thông tin nào? Có thể nói, đây được xem là vấn đề mấu chốt trong việc bảo đảm và thực thi quyền tiếp cận thông tin của người dân.

Quan niệm cho rằng các cơ quan công quyền nắm giữa các thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích công cộng đã in sâu vào suy nghĩ của mọi người trên khắp thế giới.[9] Nói cách khác, cơ quan công quyền không phải lưu giữ thông tin thay mặt chính họ, mà là thay mặt, hay xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội. Vì thế, về mặt nguyên tắc, tất cả những thông tin liên quan đến lợi ích công cộng là có thể tiếp cận được. Theo đó, các thông tin có thể được tiếp cận là những thông tin về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội... về các vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh về về các quyền và sự tự do của công dân. Như thế, lợi ích công cộng dường như là điều để giải thích cho sự tồn tại của quyền tiếp cận thông tin và những thông tin có thể tiếp cận được.

Tuy nhiên, một trong những vấn đề có tính nguyên tắc là tự do thông tin không có nghĩa là tất cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và tiếp cận thông tin không đồng nhất với việc cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, thu thập và yêu cầu cung cấp bất kỳ thông tin nào được lưu giữ bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiểu theo cách thông thường thì các thông tin này phải có khả năng tiếp cận đối với các thành viên của cộng đồng trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn đòi hỏi những thông tin đó phải được giữ bí mật.[10] Nói cách khác, sẽ có những thông tin liên quan đến lợi ích của cộng đồng nhưng không thể được tiếp cận bởi bất kỳ một cá nhân nào. Chẳng hạn, thông tin liên quan đến an ninh, quốc phòng, đến hệ thống phòng thủ của quốc gia... Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến thời hạn cần thiết phải giữ bí mật. Nói cách khác, có những thông tin ở thời điểm này không thể tiếp cận được nhưng lại có thể tiếp cận ở thời điểm khác. Vấn đề được đặt ra là cần phải có đầy đủ các cơ sở pháp lý để giải quyết được mối quan hệ giữa thông tin có thể tiếp cận và thông tin không thể tiếp cận được. 

 Ngày nay, quyền tiếp cận thông tin đã trở thành một nhu cầu và một quyền cấp thiết cần được bảo đảm. Nói cách khác, công dân phải có quyền tiếp cận đối với thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật, chính sách cũng như hoạt động của các cơ quan công quyền liên quan đến đời sống xã hội. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được xem là nhân tố then chốt trong hoạt động quản lý của nhà nước đối với đời sống xã hội được vận hành theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.

Trong khoa học pháp lý quốc tế hiện nay cũng như trong thực tiễn ban hành và thực thi pháp luật về quyền tiếp cận thông tin, dường như không có nhiều sự tranh luận về khái niệm quyền tiếp cận thông tin mặc dù, về tên gọi, quyền này có thể được thể hiện trong các văn kiện pháp lý quốc tế cũng như quốc gia không hoàn toàn giống nhau. Các văn kiện quốc tế khác nhau xác định nội dung của quyền tiếp cận thông tin với nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo đó, quyền tiếp cận thông tin có nghĩa rộng nhất bao quát cả quyền tự do thể hiện ý kiến và thông tin thông qua việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá thông tin. Theo nghĩa hẹp hơn, quyền tiếp cận thông tin bao gồm quyền tự do tìm kiếm và có được thông tin. Định nghĩa hẹp nhất về quyền tiếp cận thông tin cho rằng đó là quyền của mỗi cá nhân đối với việc xem xét hoặc sao chụp các tài liệu được các cơ quan nhà nước nắm giữ. Ngày nay, nhiều tài liệu và văn kiện pháp lý quốc tế chấp nhận quan điểm hẹp để tránh việc gay tranh cãi. Như vậy, xét một cách tổng quát, quyền được thông tin hay quyền tiếp cận thông tin là khái niệm được sử dụng để nói đến quyền của cá nhân được biết thông tin của nhà nước, theo các cách thức trực tiếp lẫn gián tiếp nhằm thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận.

Từ khái niệm quyền tiếp cận thông tin trên đây  chúng ta có thể suy ra pháp luật về quyền tiếp cận thông tin là  hệ  thống các quy phạm pháp luật

đảm bảo cho cho cá nhân  thực hiện quyền tiếp cận thông tin như một quyền cơ bản của con người và công dân.

1.2.Tầm quan trọng của pháp luật về tiếp cận thông tin đối với mỗi quốc gia

 Ngày nay hầu khắp các quốc gia và các tổ chức quốc tế đều có chung một nhận thức tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người. Thực hiện được quyền này là điều kiện cần thiết để các cá nhân có thể bảo vệ hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, ngăn ngừa và chống lại các hành vi lạm dụng quyền lực, thúc đẩy dân chủ hoá và minh bạch hoá quá trình hoạch định chính sách và ban hành pháp luật, thực thi pháp luật, củng cố lòng tin và tăng cường sự ủng hộ của dân chúng đối với các chủ trương và chính sách của chính quyền, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.

 Quyền tự do thông tin hay tiếp cận thông tin trong xã hội đương đại là quyền đặc biệt quan trọng của con người. Trong một nhà nước của dân, do dân và vì dân, các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích của cộng đồng. Hiểu theo cách thông thường thì các thông tin này phải được các thành viên của cộng đồng tiếp cận  và nắm rõ nếu họ có mong muốn, trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc chúng phải được giữ bí mật.  Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong các nhà nước đương đại phản ánh một nhu cầu chính đáng của xã hội là Chính phủ của các quốc gia có trách nhiệm phục vụ nhân dân không phải bằng sự bưng bít thông tin mà bằng sự cung cấp đầy đủ và trung thực thông tin cho nhân dân.

  Sự chuyển đổi sang cơ chế dân chủ tại nhiều quốc gia, sự phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin cũng làm cho quyền đối với thông tin ngày càng trở nên quan trọng đối với mọi công dân. Công nghệ thông tin đã tạo điều kiện  và khuyến khích các thành viên của cộng đồng kiểm soát và hạn chế nạn tham nhũng bằng nhiều phương pháp khác nhau như giám sát hoạt động của các nhà lãnh đạo và khuyến khích công chúng tham gia vào quá trình ra quyết định. Nói chính xác hơn thì điều này đã dẫn tới một nhu cầu ngày càng lớn đối với việc tôn trọng đối với thông tin.  Tiếp cận thông tin có một sức hút mạnh mẽ rộng rãi, và ngày nay trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

 Chiến dịch toàn cầu cho tự do ngôn luận đã mô tả thông tin như là “khí ôxy của chế độ dân chủ[11]. Thông tin như một nền tảng thiết yếu của nền dân chủ ở mọi cấp độ. Nói một cách chung nhất, dân chủ chính là khả năng mà các cá nhân có thể tham gia một cách hiệu quả vào quá trình ra các quyết định, những quyết định mà họ sẽ phải chịu sự tác động. Sự tham gia có hiệu quả hay không ở tất cả các cấp độ từ việc bầu cử đến hình thành các tổ chức giám sát của người dân, cho đến đóng góp ý kiến đối với các dự thảo luật, dự thảo chính sách phụ thuộc vào việc tiếp cận thông tin bao gồm các thông tin được nắm giữ bởi các cơ quan công quyền. Mục đích của các cuộc bầu cử không phải là để khoe sắc đẹp chính trị mà là để hoàn thành đúng chức năng đích thực của chúng, bảo đảm ý chí của người dân chính là nền tảng của chính quyền, ý chí này chỉ có thể thực hiện được khi người dân được tiếp cận thông tin đầy đủ về quá trình bầu cử đặc biệt là có thông tin đầy đủ về các ứng cử viên. Điều này cũng đúng với các hình thức tham gia khác.

 Sự tham gia của công chúng cũng là vấn đề trung tâm đối với quá trình ra quyết định hợp lý và đúng đắn. Báo cáo về phát triển con người của UNDP năm 2002: “Tăng cường dân chủ trong một thế giới chưa hoàn thiện” đã chỉ ra lợi ích cơ bản của sự tham gia của công dân vào việc xây dựng các chính sách công, khẳng định đó là quyền cơ bản của con người  mà tất cả xã hội nên hưởng ứng. Sự tham gia của công chúng vào các chính sách chung bảo vệ con người khỏi các thảm họa về chính trị và kinh tế và nó “có thể khởi sự một chu kỳ đúng đắn  của sự phát triển”[12] . Khi việc tiếp cận thông tin củng cố sự tham gia có hiệu quả của công chúng thì nó đồng thời cũng góp phần tạo nên những lợi ích này. Quyền đối với thông tin cũng có thể giúp bảo đảm một sân chơi công bằng hơn. Stiglitz, người giành giải Nobel nhờ những thành công của các công trình nghiên cứu về sự can thiệp không cân xứng của thông tin đối với nền kinh tế đã chỉ ra rằng việc tiếp cận thông tin không bình đẳng cho phép các công chức “theo đuổi các chính sách phục vụ cho lợi ích của họ hơn là cho lợi ích của người khác. Những sự cải tiến về thông tin và những quy tắc quản lý việc phổ biến thông tin có thể làm hạn chế sự lạm dụng này”[13] . Công khai cùng với bầu cử và tự do báo chí là cần thiết bảo đảm xã hội mở và dân chủ.

  Quá trình phát triển dân chủ  liên quan đến tính chịu trách nhiệm của chính quyền bao hàm trách nhiệm giải trình và sự quản lý có hiệu quả. Công chúng có quyền xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng các hành động của các nhà lãnh đạo của họ và tham gia vào các cuộc tranh luận công khai về các hành động của các nhà lãnh đạo này. Họ phải có khả năng tiếp cận với các hoạt động của chính quyền. Một trong những cách có hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề quản lý yếu kém chính là các cuộc tranh luận công khai và đảm bảo quyền được thông tin. Uỷ ban Cải cách pháp luật và Hội đồng giám sát hành chính Australia đã nhận định: “Luật Tự do thông tin đã có ảnh hưởng to lớn đến cách thức mà các cơ quan Nhà nước ra quyết định cũng như cách thức mà họ lưu trữ các thông tin. Luật này nhắc nhở những người ra quyết định phải nhớ rằng  sự ban hành các quyết định  luôn luôn dựa trên các yếu tố có liên quan nên phải lưu trữ lại toàn bộ quá trình soạn thảo và ra quyết định. Việc nhận thức rằng các quyết định và quá trình ra quyết định là minh bạch và chịu sự giám sát của công luận theo quy định của Luật tự do thông tin sẽ tạo ra kỷ cương vững chắc trong khu vực Nhà nước.”

 Quyền đối với thông tin cũng là một công cụ mấu chốt trong việc đấu tranh chống tham nhũng và các hành vi sai trái của chính quyền. Các nhà báo và các tổ chức phi chính phủ làm nhiệm vụ giám sát có thể sử dụng quyền này để vạch trần các hành vi sai trái nhằm loại bỏ nó. Như một thẩm phán toà án tối cao Mỹ  Louis Brandeir đã nói: “Ánh sáng chính là chất tẩy tốt nhất”[14].  Công ước quốc  tế của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng năm 2005 đã nhấn mạnh về sự minh bạch và cởi mở trong đó bao gồm yếu tố sự tham gia của công chúng và minh bạch trong khu vực doanh nghiệp. Điều 10 của Công ước quy định: “Mỗi quốc gia tham gia sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để tăng tính minh bạch trong khu vực hành chính công bao gồm các thủ tục và quy định cho công chúng có thể nhận thông tin về tổ chức, chức năng, quá trình ra quyết định  hành chính công có tính đến việc bảo vệ dữ liệu cá nhân và sự riêng tư, và cả các quyết định và văn bản pháp lý liên quan đến công chúng”.

 Quyền tiếp cận thông tin cũng đáp ứng các mục tiêu xã hội quan trọng khác chẳng hạn quyền của cá nhân tiếp cận thông tin cá nhân của mình là một phần nhân phẩm của cá nhân đó và là mấu chốt để cá nhân đưa ra quyết định hiệu quả. Ví dụ khả năng tiếp cận thông tin bệnh lý cá nhân có thể giúp cá nhân đó đưa ra quyết định về phương thức điều trị, lên các kế hoạch tài chính…

 Một khía cạnh khác của quyền đối với thông tin thường được phản ánh là việc sử dụng quyền này để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Các cơ quan công quyền nắm giữ một khối lượng lớn các thông tin trong tất cả các lĩnh vực, nhiều loại trong số đó liên quan tới các vấn đề kinh tế và chúng có thể là rất hữu ích cho các doanh nhân.

 Nhìn nhận một cách tổng quát, quyền tiếp cận thông tin đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tăng cường thực hiện và thực hiện tốt, thực hiện một cách công bằng các quyền chính trị, dân sự , kinh tế, văn hoá, xã hội của người dân từ quyền bầu cử, quyền chất vấn, biểu quyết, tham gia đóng góp ý kiến, khiếu nại tố cáo đến quyền yêu cầu bồi thường do hành vi sai trái của cơ quan công quyền, quyền tự do kinh doanh và tiếp cận nguồn vốn, quyền học tập và lao động, quyền được sống trong môi trường trong sạch, tiếp cận với các dịch vụ y tế…Thông tin công là tài sản công và chính sách cung cấp thông tin công phải hình thành trên cơ sở phi lợi nhuận. Quá trình tiếp cận thông tin là quá trình thúc đẩy công bằng và thực thi luật pháp và củng cố nhà nước pháp quyền. 

 Một ví dụ cụ thể về lợi ích tự do thông tin tại Ấn Độ, luật tự do thông tin quy định những người cung cấp thực phẩm không được phép lạm dụng việc cung cấp lương thực được Chính phủ trợ cấp nhằm làm bần cùng hoá người dân. Điều này đã  tạo ra một sự thay đổi căn bản trong hệ thống phân phối lương thực nhằm đảm bảo rằng các công dân được nhận phần lương thực của mình trong khi các nhà cung cấp cũng nhận được tiền công đầy đủ. Nhiều quốc gia khác cũng sử dụng quyền này thúc đẩy các quan chức Chính phủ phải phản ứng và có hành động một cách nhanh chóng hơn đối với các vấn đề đã tồn tại dai dẳng trong xã hội như đường sá, xây dựng và tạo việc làm. Ở Thái Lan, một người mẹ có con bị từ chối không cho nhập học vào một trường công đầy danh tiếng đã yêu cầu nhà trường phải cho xem kết quả thi đầu vào. Khi nhà trường từ chối, người mẹ này nộp đơn lên Uỷ ban Thông tin và cho Toà án. Kết quả là bà nhận được thông tin rằng con cái của nhiều người có ảnh hưởng lớn đã được chấp nhận vào học trong trường mặc dù có điểm thi rất thấp. Sau đó Hội đồng Nhà nước đã ban hành một quyết định rằng các trường chỉ được phép tiếp nhận sinh viên dựa trên một yếu tố duy nhất là kết quả học tập[15].

  Tự do thông tin cũng có lợi ích hàn gắn vết thương quá khứ. Tại nhiều quốc gia trong quá trình chuyển đổi sang một nền dân chủ, Luật tự do thông tin cho phép các Chính phủ chia sẻ thông tin, tài liệu về quá khứ và cho phép xã hội cũng như các nạn nhân và gia đình của họ, những người từng bị lạm dụng và thương tổn biết và hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra trong quá khứ.     

 Có thể nói, nhận thức tầm quan trọng của tiếp cận thông tin không chỉ là từ phía công chúng, các nhóm xã hội mà còn từ phía Chính phủ. Sự cần thiết

của quyền tiếp cận thông tin cho các mục tiêu dân chủ, chống tham nhũng, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của cá nhân, từng lớp xã hội cũng như coi nó là một nguồn lực xã hội cần tiếp cận và khai thác bình đẳng để giải quyết các vấn đề kinh tế, môi trường và  an sinh xã hội. Xây dựng một Chính phủ điện tử trở thành một nhu cầu thiết yếu trong việc quản lý và điều hành nhanh và có hiệu quả vì vậy tự do thông tin được nhiều lãnh đạo quốc gia đánh giá như là nhu cầu tự thân. Một số yếu tố khác như nhu cầu hiểu đúng và thực thi các chính sách của Nhà nước từ phía công chúng, nhu cầu cân bằng lợi ích các nhóm xã hội, củng cố sự đồng thuận xã hội và tạo điều kiện cơ chế giám sát từ bên trong có hiệu quả… cũng thúc đẩy Chính phủ nhiều nước nhận thức về quyền tự do thông tin. Tự do thông tin ở mức độ cao không có nghĩa là sẽ chấm dứt được mọi sự bất đồng quan điểm trong xã hội cũng như giải quyết được hết các vấn đề chính trị chủ yếu. Tuy nhiên, nếu quyền này được áp dụng một cách hệ thống với sự quan tâm thích đáng nhằm cân bằng các nhóm lợi ích khác nhau thì quyền này có thể làm thu hẹp việc bất đồng quan điểm, tăng cường tính hiệu quả của các chính sách được ban hành cũng như nâng cao lòng tin của nhân dân vào hệ thống chính trị. Hiện nay ở nhiều nước vẫn còn có khái niệm “văn hoá giữ bí mật”, nhiều đạo luật về tự do thông tin có mức độ áp dụng rất hạn chế hoặc người dân rất khó tiếp cận thông tin dẫn đến tình trạng độc quyền thông tin hoặc đầu cơ thông tin, thông tin chỉ đến được với một số người và nhằm đảm bảo quyền lợi của một số người nhất định.

  Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá thế giới có nhiều biến chuyển, các quyền con người ngày càng cần được coi trọng, các quốc gia trên thế giới đã chú trọng ban hành các đạo luật liên quan quyền tiếp cận thông tin dựa trên các văn kiện quốc tế mà quốc gia đó ký kết, tham gia và dựa trên tình hình cụ thể của đất nước. Đến nay đã có gần 90 nước ban hành đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin và nhiều quốc gia cũng đang chuẩn bị ban hành đạo luật này. Sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của mỗi nước, tác động từ bên ngoài, sứp ép từ phía công chúng, các nhóm xã hội, giới truyền thông, nhu cầu đấu tranh chống tham nhũng vì sự bình đẳng và tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế cũng đòi hỏi mỗi quốc gia không thể tự mình tách ra khỏi thế giới mà phải chuyển mình, mở rộng và thực hiện tốt hơn các quyền công dân bao gồm quyền tiếp cận thông tin cũng như các quyền liên quan. Có thể nói ban hành luật tự do thông tin hay tiếp cận thông tin là một yêu cầu bức thiết của hầu hết các nước trên thế giới. Nó đi đôi với việc ban hành hay sửa đổi các đạo luật khác liên quan đến quyền tiếp cận thông tin từ công chúng , đảm bảo quyền tìm kiếm thông tin, phổ biến, trao đổi thông tin (ngoại trừ một số ít những thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật cá nhân, bí mật thương mại, bí mật điều tra tội phạm)  của mọi  cá nhân phục vụ cho lợi ích của cộng đồng, của tập thể và cá nhân.

  Quyền tiếp cận thông tin/tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người, được Hiến pháp hầu hết các quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Quyền tiếp cận thông tin/tự do thông tin được quy định rõ ràng trong Hiến pháp nhiều nước bao gồm cả các nước đang chuyển đổi, đang phát triển  như  Bungary (Hiến pháp 1991, điều 41), Estonia (Hiến pháp 1992, điều 44),  Malawi (Hiến pháp 1994, điều 37), Mexico ( Hiến pháp 1917, Điều 6), Ba Lan ( Hiến pháp 1997, Điều 61), Romania ( Hiến pháp 1991, Điều 31),Nam Phi Hiến pháp 1996, Phần 32),  Philippine (Hiến pháp 1987, điều III (7), Thái Lan (Hiến pháp 2007, phần 56) ... Nhiều nước ban hành các đạo luật cụ thể hoá quy định này của Hiến pháp[16].

 Nếu như  năm 1990 chỉ có 13 nước ban hành luật tiếp cận thông tin, thì chỉ trong vòng gần 20 năm qua, đã có gần 90 quốc gia ban hành đạo luật này. Nhiều quốc gia đang nỗ lực soạn thảo đạo luật này và ở một số quốc gia khác Chính phủ đã ban hành nghị định  để  cụ thể hoá quy định trong Hiến pháp về quyền tiếp cận/ tự do thông tin. Khả  năng thực  hiện quyền tiếp  cận/ tự do thông tin  khác nhau giữa các mô hình nhà nước, sự khác biệt này phụ thuộc vào chế độ chính trị, vị thế của báo chí và xã hội dân sự.

 Ý tưởng về tự do thông tin đã xuất hiện từ thế kỷ XVIII trong kỷ nguyên Ánh sáng. Tuyên ngôn Nhân quyền và công dân quyền nổi tiếng của Pháp đã tuyên bố thông tin về ngân sách phải được công bố công khai: “Tất cả các công dân đều có quyền quyết định, tự mình hoặc thông qua người đại diện, về sự cần thiết của các khoản đóng góp của nhân dân và quyền được biết về mục đích sử dụng của các khoản này”. Vào năm 1795, ở Hà Lan, một Tuyên ngôn tương tự cũng được ban hành: “Mọi người đều có quyền yêu cầu các cơ quan hành chính làm rõ tài khoản của mình và cơ sở của việc chi tiêu tài khoản đó”.

 Thụy Điển là nước đầu tiên trên thế giới ban hành Luật tiếp cận thông tin (là phần cơ bản của Luật tự do báo chí) năm 1766, năm mở ra kỷ nguyên tự do ở nước này. Khái niệm về tự do báo chí gắn liền với tự do thông tin cùng với sự ra đời  của Thanh tra nghị viện (Ombudsman) là nền tảng cơ bản trong lịch sử phát triển dân chủ lâu đời và xây dựng luật pháp theo chủ nghĩa tự do ở Bắc Âu. Luật tự do báo chí trở thành một trong bốn đạo luật cơ bản nhất của xã hội Thụy Điển. Phần Lan sau khi tách khỏi Thụy Điển năm 1809 (và tuyên bố độc lập năm 1917) đã  cho ra đời Bộ luật tự do báo chí và Luật tiếp cận thông tin, đưa vào Bộ quy tắc Chính phủ năm 1810 mà bản chất của luật là hướng tới một xã hội mở. Luật tự do thông tin ra đời ở Phần Lan năm 1919, năm 1949 Thụy Điển sửa đổi luật này trong khi Na Uy thông qua luật này đầu tiên năm 1970 và Đan Mạch  năm 1985. Pháp và Hà Lan ban hành luật này năm 1978, Anh  năm 2000. Ngày nay hầu hết quốc gia châu Âu bao gồm nhiều nước thuộc Liên Xô cũ và  các nước Đông Âu chuyển đổi thể chế chính trị đã ban hành luật này:  Hungary (1992), Kirgizstan (1997), Anbani (1999), Bungary (2000), Liên bang Nga (2006), Macedonia (2006)…

 Tại châu Á,  Luật tự do thông tin được ban hành tại Hàn Quốc (1996), Thái Lan (1997), Kirgyzstan (1997), Nhật Bản (2000), Ấn Độ (2002), Azerbaijan (2005), Indonesia (2008)… Các nước Trung Quốc, Pakistan, Uzebekistan, Tajikistan cũng có những văn bản điều chỉnh một số khía cạnh khác nhau, nhưng chưa phải là toàn diện về tự do thông tin. Tại Trung Quốc một số địa phương như Quảng Châu và Thượng Hải đã ban hành các văn bản pháp luật về tự do thông tin như là một biện pháp để phòng chống tham nhũng trong khi Hồng Công đã có một bộ luật về ứng xử từ năm 1996.      

 Những người ủng hộ một xã hội dân sự cũng tích cực đề nghị ban hành Luật tự do thông tin tại Indonesia, Malaysia, Philippines và Campuchia. Năm 2008 Indonesia đã thông qua Luật về  minh bạch thông tin công.

 Tại châu Mỹ, các nước đã ban hành luật tiếp cận thông tin là Colombia (1885,1985),  Hoa Kỳ (1966), Canada (1983), Mexico (2002) , Jamaica (2002), gần đây là các nước Panama, Peru, Equador, Achentina, Bolivia, Guatemala, Dominican và một số nước khác đã ban hành đạo luật này. Colombia đã ban hành Luật tự do thông tin đầu tiên từ năm 1885 và Luật mới nhất ban hành năm 1985 đến nay vẫn còn hiệu lực.  Mexico là nước đi đầu với Luật tự do thông tin cởi mở nhất thế giới, đặt dưới sự giám sát của Uỷ ban Thông tin và một hệ thống thông tin tiên tiến. Ở châu Đại Dương, Úc và New Zealand ban hành luật này năm 1982.

 Ở châu Phi có Luật tăng cường tiếp cận thông tin ở Nam Phi , Luật tiếp cận thông tin và bảo vệ quyền riêng tư ở Zimbabue, Luật tự do thông tin ở Uganda. Một số nước khác như Kenya, Nigeria đang trong quá trình soạn thảo các đạo luật tương ứng về quyền thông tin. Ở Trung Đông mới có các Luật tự do thông tin của Israel, Jordanie, Morocco. Luật các quốc gia có quy định khác nhau về quyền tiếp cận thông tin. Có những quốc gia quy định quyền tiếp cận thông tin trong nhiều văn bản luật khác nhau.

1.3 Nội dung cơ bản của pháp luật tiếp cận thông tin

Về tổng thể  pháp luật tiếp cận thông tin của mỗi nước được cấu thành bởi một số nội dung cơ bản:

- Phạm vi cung cấp thông tin/ giới hạn thông tin

- Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

- Các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin

- Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin

- Nội dung quyền tiếp cận thông tin

- Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin

-  Giải quyết khiếu nai, khiếu kiện quyền tiếp cận thông tin

1.3.1 Phạm vi cung cấp thông tin

   Phạm vi cung cấp thông tin là giới hạn những thông tin mà các cơ quan  có nghĩa vụ cung cấp thông tin phải cung cấp. Theo nguyên tắc số 2 và số 5 của bộ nguyên tắc của Uỷ ban nhân quyền của Liên hợp quốc, các cơ quan công quyền  có trách nhiệm chủ động cung cấp, phổ biến đối với các loại thông tin chủ chốt cần cho công chúng biết một cách rộng rãi và có trách nhiệm cung cấp thông tin theo yêu cầu đối  với loại thông tin cụ thể.

Thể chế hoá các nguyên tắc nói trên, trong các Luật về tiếp cận thông tin của phần lớn các quốc gia đã ban hành đều quy định những loại thông tin chủ chốt sau đây cần được phổ biến công khai và  cung cấp rộng rãi cho công chúng:

  • Thông tin về chức năng, nhiệm vụ, hoạt động, cơ cấu của cơ quan, tổ chức công quyền;
  • Thông tin về  ngân sách gồm mục tiêu ngân sách, chi tiêu ngân sách, thông tin kiểm toán, kết quả đạt được trong hoạt động  của cơ quan công quyền;
  • Thông tin hướng dẫn thủ tục, quy trình sử dụng dịch vụ công do cơ quan công quyền cung cấp hoặc quy trình tham gia vào quá trình xây dựng chính sách,   pháp luật.
  • Thông tin về Nghị viện: những thảo luận trong các  phiên họp, những chính sách mà Nghị viện phê duyệt;
  • Thông tin về quy hoạch đô thị, nông thôn, về các công trình quốc gia, về  chính sách an sinh xã hội và bảo vệ môi trường…
  • Thông tin về dự báo thời tiết, dịch bệnh, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội…

  Phạm vi quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Luật tiếp cận thông tin mỗi nước không hoàn toàn giống nhau. Nhìn chung phạm vi  của quyền tiếp cận thông tin được quy định trong luật theo hai cách chính:

 * Cách thứ nhất, luật liệt kê một loạt các loại thông tin cơ quan công quyền có trách nhiệm phải công bố trong thời hạn luật định và sau đó là những thông tin miễn trừ tiết lộ. Những nước theo cách này như Ấn Độ, Nga , Trung Quốc…

 Luật về quyền tiếp cận thông tin của Ấn Độ (Điều 4) quy định: các nhà chức trách công cộng phải lưu giữ hồ sơ và có trách nhiệm công bố trong vòng 120 ngày đối với những loại thông tin từ điểm (i) đến điểm (xvii). Những thông tin này, chủ yếu là liên quan tới tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và nghĩa vụ, thủ tục ra quyết định, quy tắc nội bộ, danh bạ điện thoại, ngân sách… các chính sách và quyết định quan trọng có ảnh hưởng tới công chúng.

 Bên cạnh đó luật quy định những thông tin mà nhà chức trách không có nghĩa vụ cung cấp (Điều 8). Đó là những thông tin mà việc tiết lộ có thể gây những tác động tiêu cực tới chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ấn Độ, cho an ninh chiến lược hoặc các lợi ích kinh tế, khoa học, quan hệ với các nhà nước khác, hoặc khuyến khích tội phạm; thông tin bị toà án cấm công bố hoặc việc công bố có thể ảnh hưởng đến hoạt động của toà án; thông tin mà nếu tiết lộ  có thể ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lập pháp; thông tin về bí quyết thương mại, kinh doanh…

 Luật về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin của Liên bang Nga cũng xác định các loại thông tin không được hạn chế tiếp cận. Điều 8 của luật quy định: không được hạn chế tiếp cận đối với các văn bản pháp luật liên quan đến quyền, tự do và nghĩa vụ của con người và công dân và các văn bản pháp luật quy định địa vị pháp lý của các tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, các cơ quan chính quyền địa phương; thông tin về trạng thái môi trường; thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương và thông tin về sử dụng ngân sách (trừ các tin tức bí mật quốc gia hoặc bí mật nghề nghiệp); thông tin được lưu trữ trong các thư viện công cộng, bảo tàng, tài liệu lưu trữ và trong các hệ thống thông tin của quốc gia, của các cơ quan nhà nước và của các hệ thống thông tin khác mà chúng được thiết lập nhằm phục vụ công dân (thể nhân) và tổ chức; các thông tin khác mà pháp luật Liên bang không hạn chế tiếp cận.

 Điều 9 của luật quy định mục đích hạn chế tiếp cận thông tin, nhằm bảo vệ chế độ Hiến pháp, đạo đức, sức khoẻ, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, bảo đảm nền quốc phòng và an ninh quốc gia; các thông tin bắt buộc bảo mật, các thông tin mà pháp luật liên bang hạn chế tiếp cận…

 Pháp lệnh của Trung Quốc về công khai thông tin của chính quyền ngày 17--1-2007 cũng quy định phạm vi công bố thông tin. Theo Điều 9, các cơ quan nhà nước phải công bố các thông tin của chính quyền liên quan đến bất kỳ vấn đề nào thuộc quy định dưới đây: (1)lợi ích cốt yếu của công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác; (2) các yêu cầu mở rộng kiến thức hoặc sự tham gia của công chúng; (3) việc  thành lập, nghĩa vụ hoặc các thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước; (4) các thông tin khác phải được công bố theo quy định của các luật, văn bản pháp quy khác.

  Khác với luật một số nước, pháp luật của Trung Quốc quy định danh mục các vấn đề mà chính quyền các cấp (từ cấp xã đến cấp tỉnh) có trách nhiệm cung cấp thông tin cho nhân dân. Điều 10 của luật quy định chính quyền nhân dân và các văn phòng ở cấp huyện hoặc cao hơn phải căn cứ quy định ở điều 8 Pháp lệnh này để quyết định những thông tin của chính quyền nào cần phải công bố phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của cơ quan mình, trong đó phải chú ý đến các dạng thông tin sau đây như các văn bản pháp quy, các quy tắc do cơ quan nhà nước lập ra; các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia, các dự án đặc biệt ở cấp quốc gia và khu vực cùng các chính sách có liên quan, dữ liệu thống kê về sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, các báo cáo chi tiêu tài chính và kiểm toán,…

 Pháp lệnh trên của Trung Quốc không liệt kê các dạng thông tin không được phép tiết lộ mà chỉ quy định nguyên tắc chung tại Điều 8 là các cơ quan nhà nước không được gây tổn hại đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng; an ninh kinh tế và sự ổn định của xã hội khi công bố thông tin của chính quyền và Điều 14 quy định cơ quan nhà nước phải thiết lập một cơ chế toàn diện để kiểm tra và  bảo vệ bí mật thông tin của chính quyền trước khi công bố .

 * Cách thứ hai, luật xác định và liệt kê những loại thông tin không công khai, hạn chế, miễn trừ tiếp cận.

  Luật về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền năm 1996 của Hàn Quốc (Điều 7) liệt kê danh mục thông tin không công khai, từ mục 1-mục 8, gồm những thông tin chứa đựng những bí mật hoặc được luật khác quy định không thể công khai; thông tin nếu tiết lộ sẽ nguy hại lớn đến quyền lợi quốc gia, đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người hoặc lợi ích của cộng đồng; thông tin liên quan đến phòng chống, điều tra tội phạm, khởi tố, thi hành án; kiểm toán, giám sát điều tra, hợp đồng đấu thầu, phát triển khoa học, quản lý nhân sự; thông tin nhận dạng cá nhân; thông tin liên quan tới bí mật thương mại của các công ty, hội đoàn hoặc cá nhân; hoặc thông tin nếu công khai sẽ nguy hại đến cá nhân,…

 Luật tiếp cận thông tin của cơ quan hành chính của Nhật năm 1999 cũng  xác định trách nhiệm cung cấp các văn bản khi có yêu cầu. Tuy nhiên bên cạnh liệt kê các thông tin ngoại trừ không được cung cấp, luật cũng liệt kê thông tin được cung cấp.

 Khác với Hàn Quốc, luật của Nhật Bản còn quy định việc cung cấp một phần thông tin (Điều 6), nếu thông tin đó có thể tách ra khỏi văn bản một cách dễ dàng và người đứng đầu cơ quan hành chính phải cung cấp cho người yêu  cầu các phần văn bản không chứa đựng các thông tin không công khai hoá. Và điều này không áp dụng nếu như sau khi tách thông tin không công khai hoá, các phần còn lại của văn bản chỉ chứa đựng những thông tin không có ý nghĩa. Hoặc cung cấp văn bản khi cần thiết vì lý do lợi ích công cộng (Điều 7) và thông tin liên quan đến tình trạng của các văn bản hành chính (Điều 8).

 Luật về tiếp cận các tài liệu hành chính công của Đan Mạch năm 1985 quy định quyền tiếp cận các tài liệu hành chính do cơ quan hành chính nắm giữ sẽ phải cung cấp cho bất kỳ người nào, khi có yêu cầu, trừ các trường hợp ngoại lệ đối với quyền tiếp cận. Những ngoại lệ được xác định tại Phần III của luật, như tài liệu nội bộ của viên chức. Ngoài ra các điểm từ 8 – 14 còn quy định một loạt các loại miễn trừ tiết lộ.

 Tương tự, Luật về quyền tiếp cận tài liệu của cơ quan hành chính nhà nước, gọi tắt là Luật tự do thông tin có hiệu lực năm 2009 của Na Uy, xác định nguyên tắc chung là: “Các tài liệu công việc, chuyên san và các tài liệu đăng ký dữ liệu tương tự của một cơ quan hành chính phải được công khai trừ trường hợp một đạo luật hoặc quy định hướng dẫn có quy định khác. Bất kỳ người nào đều có thể nộp đơn cho một cơ quan hành chính đề nghị tiếp cận các tài liệu công việc, chuyên san và các tài liệu đăng ký tương tự của cơ quan hành chính đó (Điều 3). Chương 3 của luật quy định các trường hợp ngoại lệ của quyền tiếp cận tài liệu từ Điều 13 đến Điều 27.

1.3.2 Các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

a) Nguyên tắc mở thông tin một cách tối đa

Theo Toby Mendel, chuyên gia cao cấp của Liên hợp quốc về  Luật tiếp cận thông tin, khi xây dựng Luật về tiếp cận thông tin/tự do thông tin, nhà làm luật cần tiếp cận theo nguyên tắc thông tin phải được công khai tối đa. Nguyên tắc này cần được thể hiện trong Luật tiếp cận thông tin của mỗi quốc gia. Nguyên tắc  mở thông tin một cách tối đa nghĩa là thông tin cần được cung cấp theo khả năng cao nhất có thể cung cấp.

 Luật một số nước đều dành riêng một số điều khoản để định nghĩa “thông tin”. Theo Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ năm 2005, thông tin có nghĩa là bất kỳ hình thức nào, bao gồm các hồ sơ, tài liệu, bản ghi nhớ, thư điện tử, các quan điểm, các lời tư vấn, các thông cáo báo chí, thông tư, sắc lệnh, sổ hồ sơ, hợp đồng, báo cáo, bài thuyết trình, vật mẫu, mô hình, tư liệu lưu giữ dưới dạng điện tử và bất kỳ thông tin nào liên quan đến bất kỳ chủ thể tư nhân nào mà có thể phải tiếp cận bởi một nhà chức trách công cộng theo như quy định trong bất kỳ luật nào khác đang có hiệu lực (Điều 2). Pháp lệnh của Trung Quốc về công khai thông tin của chính quyền quy định: thông tin của chính quyền được nêu trong Pháp lệnh này được hiểu là bất cứ thông tin nào được tạo ra hoặc thu được trong quá trình thực thi chức năng nhiệm vụ chính thức của các cơ quan công quyền, mà được ghi chép hoặc lưu giữ dưới bất kỳ hình thức nào (Điều 2).

 Với cách hiểu như vậy, thông tin được khuyến khích mở một cách tối đa cho sự tiếp cận.

Nguyên tắc mở thông tin một cách tối đa được hình thành dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, tiếp cận thông tin là một trong các quyền cơ bản và cần được tôn trọng và bảo vệ. Các quốc gia tham gia Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị thực hiện cam kết của mình bằng cách tạo cơ chế pháp lý cho quyền tiếp cận thông tin mà giải pháp điển hình là ban hành Luật tự do thông tin (tiếp cận thông tin). Về mặt thực tiễn, việc mở thông tin có căn cứ từ những lợi ích mà tự do thông tin mang lại. Muốn có một nền hành chính công tốt thì phải bảo đảm sự tham gia của công chúng. Sự tham gia của công chúng là phương thức thực hiện dân chủ. Về phía cá nhân, tiếp cận thông tin tăng cường và thúc đẩy khả năng thực hiện các quyền chính trị, dân sự và kinh tế. Để sử dụng các quyền của mình, cá nhân cần được cung cấp thông tin. Tiếp cận thông tin nhằm tăng  cường hiệu quả hoạt động của Nhà nước và để cá nhân thực hiện giám sát của mình đối với người đại diện Nhà nước…

 Với những lợi ích to lớn, công khai thông tin một cách tối đa trở thành nguyên tắc của pháp luật về tiếp cận thông tin. Pháp lệnh v ề quyền tiếp cận

thông tin của Trung Quốc nhấn mạnh: Chính quyền nhân dân ở tất cả các cấp phải tăng cường lãnh đạo và tổ chức hoạt động công khai thông tin của chính quyền (Điều 3); Các cơ quan nhà nước phải công bố các thông tin của chính quyền liên quan đến bất kỳ vấn đề nào quy định dưới đây: lợi ích cốt yếu của công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác; các yêu cầu mở rộng kiến thức hoặc sự tham gia của công chúng… (Điều 9). Tất cả các thông tin do các cơ quan công quyền nắm giữ cần phải được cung cấp khi có yêu cầu trừ những thông tin được pháp  luật miễn trừ cung cấp.

 b) Nguyên tắc các cơ quan công quyền có nghĩa vụ công bố thông tin

   Nội hàm của nghĩa vụ công bố thông tin  tập trung ở trách nhiệm của các cơ quan nhà nước công khai một cách rộng rãi, dễ truy cập, tiếp cận, nắm bắt các thông tin về chức năng, nhiệm vụ của mình. Luật mẫu về tự do thông tin  do nhóm Article 19 của Liên hợp quốc chuẩn bị để trợ giúp các quốc gia triển khai xây dựng Luật tiếp cận thông tin đã dành hẳn một điều riêng về trách nhiệm công bố thông tin của các cơ quan công quyền.

 Nguyên tắc các cơ quan công quyền có nghĩa vụ công bố thông tin không chỉ dừng ở việc đáp ứng thông tin khi có yêu cầu từ phía người dân mà đòi hỏi sự tích cực, chủ động của cơ quan nhà nước trong việc công khai thông tin ngay cả khi chưa hay không có yêu cầu.  Một trong những nguyên tắc của Luật Liên bang Nga về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin là “công khai thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cơ quan chính quyền địa phương và tự do tiếp cận các thông tin, trừ các trường hợp được pháp luật Liên bang quy định (Điều 3).

c) Nguyên tắc thúc đẩy “Chính phủ mở”

 Tiếp cận thông tin là một trong những biện pháp thúc đẩy tính minh bạch thực sự của Chính phủ. Cơ quan nhà nước cũng phải chủ động tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật để người dân nhận thức đầy đủ và sử dụng quyền , nghĩa vụ của mình trong tiếp cận thông tin. Luật của Nhật Bản (Điều 1) tuyên bố mục tiêu ban hành là phấn đấu để công khai hoá các thông tin của các cơ quan hành chính, từ đó bảo đảm trách nhiệm giải trình trong các hoạt động khác nhau của Chính phủ trước nhân dân cũng như để hỗ trợ thúc đẩy một nền hành chính công bằng và dân chủ mà là đối tượng của sự phê phán và hiểu biết đúng đắn của nhân dân. Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ tại Điều 26 cũng có quy định chính quyền thích hợp tùy theo khả năng tài chính và sự sẵn có của các nguồn lực khác xây dựng và tổ chức các chương trình giáo dục để thúc đẩy sự hiểu biết của công chúng, đặc biệt là của những cộng đồng thiệt thòi về việc thực hiện các quyền được ghi nhận trong Luật; thúc đẩy các nhà chức trách công cộng phổ biến một cách hiệu quả và kịp thời các thông tin chính xác về hoạt động của các nhà chức trách này.

d) Nguyên tắc hạn chế phạm vi miễn trừ

  Các trường hợp miễn trừ phải được quy định rõ ràng và ở phạm vi hẹp như có thể, tuỳ thuộc hoàn cảnh cụ thể của quốc gia. Luật tiếp cận thông tin của Canada  quy định khả năng từ chối cung cấp thông tin của người đứng đầu cơ quan Chính phủ trong trường hợp nếu tiết lộ sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Chính phủ, đến việc thực hiện công việc quốc tế và quốc phòng của Canada; tài liệu có chứa đựng thông tin mà việc tiết lộ có thể làm nguy hại đến an ninh cá nhân…

  Luật mẫu về tự do thông tin thiết kế một số điều khoản về quy định cấm hoặc hạn chế cũng cấp thông tin. Không dừng ở đó, luật mẫu có quy định ngoại lệ có nghĩa là có quy định cho phép cung cấp thông tin thuộc danh mục không được cung cấp hay hạn chế cung cấp. Người được yêu cầu không thể từ chối cung cấp thông tin, trừ khi lợi ích cần được bảo vệ lớn hơn lợi ích công khai thông tin. Cơ quan được yêu cầu cũng không thể từ chối cung cấp thông tin vì lý do thông tin đó đã được đăng tải rộng rãi.

e)Nguyên tắc cung cấp thông tin nhanh, hiệu quả, chi phí không quá cao hoặc miễn phí

  Luật mẫu thiết kế quy định về trả lời yêu cầu cung cấp thông tin, thông báo trả lời và lệ phí. Về lệ phí, nguyên tắc chung là khoản lệ phí không được vượt quá chi phí thực tế chi trả cho việc tìm kiếm, chuẩn bị và cung cấp thông tin. Các yêu cầu về cung cấp thông tin cá nhân hoặc thông tin về lợi ích công cộng không phải nộp lệ phí.   

 Một trong những nguyên tắc của Luật Liên bang Nga về thông tin, công nghệ thông tin và  bảo vệ thông tin là “thông tin trung thực, kịp thời” (Điều 3).

f. Nguyên tắc công khai về hội họp

  Cần công khai các cuộc họp của cơ quan công quyền vì quyền tự do thông tin bao gồm quyền của công chúng được biết những việc chính quyền đang thay mặt nhân dân làm và quyền được tham gia vào quá trình ra quyết định. Các cuộc họp có thể là họp kín nhưng chỉ được họp kín theo đúng những thủ tục đã định và khi có các lý do thích đáng cho việc tổ chức họp kín.

g) Nguyên tắc bảo vệ cho người cung cấp thông tin (“người thổi còi”)

 Cá nhân tiết lộ thông tin về hành vi vi phạm pháp luật phải được bảo vệ khỏi các chế tài dù là hành chính hay kỷ luật.

 Người “thổi còi” cần nhận được sự bảo vệ trong trường hợp đã hành động một cách ngay tình và có lý do tin tưởng rằng thông tin đưa ra là đúng và có chứng cứ về hành vi vi phạm pháp luật mà người đó đã phát hiện.

 Luật của Ấn Độ tại Điều 21 quy định: Không được kiện, truy tố hoặc có bất kỳ hành vi tố tụng nào khác chống lại bất kỳ người nào đã thực hiện hoặc dự định thực hiện các công việc phù hợp với các quy định của Luật tự do thông tin.

1.3.3 Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin

 Chủ thể mang quyền tiếp cận thông tin có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân có thể là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài hoặc người không có quốc tịch.

 Với quan niệm tiếp cận thông tin là một quyền dân sự - chính trị, Hiến pháp và Luật các nước sử dụng các công thức như “mọi người”, “bất kể người nào”, hay “công chúng”, “người dân” để thể hiện tính phổ quát của quyền này.

  Theo Luật về quyền tiếp cận thông tin trong các tài liệu chính thức của Albani năm 1999, “công chúng” là chỉ bất cứ người nào, “người” là bất kỳ cá nhân nào, thể nhân và pháp nhân, là người Albani hay người nước ngoài (Điều 2).

 Theo Luật tiếp cận thông tin của Canada năm 1985, bất kể ai là: công dân Canada; người thường trú dài hạn theo mục 2(1) của Luật về nhập cư và bảo vệ người tị nạn đều có quyền và dựa theo yêu cầu sẽ được phép tiếp cận bất cứ tài liệu nào thuộc quyền kiểm soát của cơ quan Chính phủ (Mục 4).

  Luật của Nhật Bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính năm 2001 quy định: Bất kể người nào được quy định trong Luật này đều có thể yêu cầu người đứng đầu một cơ quan hành chính cung cấp các văn bản hành chính của các cơ quan đó (Điều 3). Luật còn quy định nghĩa vụ cung cấp văn bản hành chính trong trường hợp cá nhân yêu cầu là quan chức Chính phủ (các công chức quốc gia được nêu tại Luật dịch vụ công cộng quốc gia, tại Luật về các quy tắc chung về các cơ quan hành  chính phối hợp được chỉ định) – điểm c Khoản 1 Điều 5.

  Luật Tự do thông tin Thụy Điển được ban hành vào năm 1949 và được sửa đổi vào năm 1976 (Điều 2) quy định: “Mọi chủ thể và người cư trú của

Thụy Điển có quyền tự do tiếp cận các tài liệu chính thức”. Các cơ quan Nhà nước phải trả lời ngay lập tức các yêu cầu tài liệu chính thức. Yêu cầu có thể được thực hiện dưới mọi hình thức và có thể vô danh.

  Luật về tiếp cận hồ sơ hành chính Nhà nước của Đan Mạch năm 1985 cho phép bất kỳ người nào được quyền tiếp cận các tài liệu trong một hồ sơ hành chính. Các cơ quan phải trả lời càng sớm càng tốt và nếu như việc trả lời kéo dài hơn 10 ngày thì phải thông báo cho người yêu cầu biết lí do tại sao lại trì hoãn và khi nào thì có câu trả lời.

   Luật về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền của Hàn Quốc năm 1996 dành Điều 6 quy định “mọi người dân có quyền yêu cầu cung cấp thông tin”. Những vấn đề liên quan đến yêu cầu cúng cấp thông tin đối với người nước ngoài được quy định ở Sắc lệnh của Tổng thống.

Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là cá nhân:

Một số Luật tự do thông tin hay Luật Bảo vệ dữ liệu cho phép các cá nhân được tiếp cận  tài liệu lưu trữ do các cá nhân và các tổ chức tư nhân nắm giữ cũng như cho phép thực hiện quyền được tiếp cận và được sửa đổi các tài liệu lưu trữ cá nhân và đảm bảo rằng các tài liệu này luôn chính xác và đảm bảo rằng các tài liệu này luôn chính xác và các quyết định được đưa ra không dựa trên các thông tin không có liên quan hoặc không được cập nhật. Quyền này cũng đảm bảo rằng mọi người có thể nhận thức rõ ràng những lợi ích hoặc dịch vụ mà họ có quyền được hưởng và xem họ có được nhận đúng và đủ các lợi ích đó không.

 Tại Nam Phi, các quy định về tiếp cận thông tin trong Luật tăng cường tiếp cận thông tin đã được sử dụng bởi các nhóm cá nhân muốn biết tại sao đơn xin vay tiền của họ bị ngân hàng từ chối hay trong trường hợp các cổ đông thiểu số muốn xem hồ sơ lưu trữ của các công ty tư nhân.

 Hiến pháp và Luật một số nước quy định chủ thể là công dân. Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ (Điều 3) quy định: Tất cả công dân có quyền được thông tin theo luật này. 

Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là tổ chức, pháp nhân:

 Ở Ấn Độ, các nhóm hoạt động xã hội cơ sở đã sử dụng quyền được biết để tiếp cận các thông tin về các dự án, các công trình công cộng ở địa phương để biết các khoản tiền đã chi trả thế nào và để người dân có quyền hỏi về việc dự án đã hoàn thành hay chưa và các khoản chi tiêu cho dự án đó là bao nhiêu.

 Luật về tự do tiếp cận thông tin của Cộng hoà Séc ban hành tháng 5-1999 cho phép các thể nhân và pháp nhân quyền tiếp cận các thông tin do các cơ quan nhà nước, cơ quan cộng đồng và các tổ chức tư nhân quản lý công quỹ nắm giữ.

Một số chủ thể đặc biệt:

 Ngoài các chủ thể trên, cắc văn kiện quốc tế và luật của một số nước còn đề cập đến một số chủ thể được ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận thông tin.

 Luật hành chính công Đan Mạch điều chỉnh việc tiếp cận hồ sơ tài liệu trong trường hợp một người là một bên có liên quan đến quyết định hành chính[17]. Luật này quy định phạm vi tiếp cận tài liệu rộng hơn so với Luật tiếp cận thông tin. Luật về Xử lý dữ liệu cá nhân Đan Mạch cho phép các cá nhân được quyền tiếp cận hồ sơ về bản thân mình do các cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức tư nhân nắm giữ[18].

1.3. 4  Các yếu tố cấu thành quyền tiếp cận thông tin

 Quyền tiếp cận thông tin có mối quan hệ biện chứng với một số quyền có liên quan như quyền tự do ngôn luận, biểu đạt ý kiến, quyền tự do báo chí, tự do phổ biến thông tin. Ở một số quốc gia bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Israel, Pakistan, Toà án tối cao đã ra phán quyết quyền tiếp cận thông tin là quyền Hiến định và là một yếu tố điển hình của quyền tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí. Điều 16 về Tự do ngôn luận và thông tin của Hiến pháp Thụy Sỹ quy định: “(1) Quyền tự do ngôn luận và thông tin được đảm bảo; (2) Mọi người có quyền hình thành, biểu đạt và phổ biến quan điểm một cách tự do; (3) Mọi người đều có quyền tiếp nhận thông tin một cách tự do và thu thập thông tin từ các nguồn công cộng và phổ biến các thông tin đó”. Mục 12 Hiến pháp Phần Lan năm 2000 quy định: “(1) Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền tự do ngôn luận bao gồm quyền biểu đạt, phổ biến và tiếp nhận thông tin, quan điểm và các hình thức thông tin liên lạc khác mà không bị ngăn cản. Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận sẽ được quy định chi tiết trong một đạo luật. Các quy định hạn chế liên quan đến các chương trình đồ hoạ cần thiết để bảo vệ trẻ có thể được được quy định bởi một đạo luật. (2) Tài liệu và hồ sơ lưu trữ do các cơ quan Nhà nước nắm giữ phải được công bố, trừ trường hợp việc này đã bị một đạo luật khác quy định hạn chế vì những lí do thuyết phục. Mọi người đều có quyền tiếp cận các hồ sơ lưu trữ của Nhà nước”.

 Vì những lợi ích to lớn của quyền tiếp cận thông tin, Hiến pháp và luật nhiều nước đều có quy định rộng mở đối với các nội dung của quyền tiếp cận thông tin bao gồm tìm kiếm, thu thập thông tin, yêu cầu cung cấp thông tin và cả truyền bá thông tin (thường được tách khỏi khái niệm “tiếp cận thông tin” nhưng có liên quan đến quyền được thông tin. Luật về minh bạch trong cơ quan hành chính nhà nước của Panama được thông qua tháng 12-2001 trao cho mọi người quyền yêu cầu các cơ quan Chính phủ cung cấp thông tin dưới mọi hình thức. Các cá nhân cũng có quyền tiếp cận và chỉnh sửa các hồ sơ lưu trữ bản thân mình. Các cơ quan của Chính phủ phải trả lời trong thời hạn 30 ngày.

a) Tìm kiếm, thu thập thông tin

  Theo Luật về các quyền thông tin của Ấn Độ (Điều 2 mục j): Quyền được thông tin có nghĩa là quyền được tiếp cận các thông tin theo quy định tại luật này mà đang được quản lý hoặc kiểm soát bởi bất kỳ nhà chức trách công cộng nào. Quyền này bao gồm các quyền được: xem các tác phẩm, tư liệu, hồ sơ; ghi chép, trích dẫn, sao chụp các tư liệu hoặc hồ sơ; có các bản sao có chứng thực các tài liệu; thu thập thông tin dưới dạng đĩa mềm, thẻ nhớ, băng ghi âm, băng hình hoặc bất kỳ dạng thiết bị điện tử nào khác hoặc thông qua các việc in ra các tài liệu ở những nơi lưu trữ tư liệu bằng máy vi tính hoặc bằng các thiết bị khác.

 Các Luật Tự do thông tin quốc gia sử dụng rất nhiều các thuật ngữ khác nhau để mô tả các thông tin mà cá nhân có quyền tiếp cận. Các đạo luật được ban hành từ lâu đời nói chung đều quy định về quyền tiếp cận hồ sơ tài liệu, tài liệu chính thức hoặc tài liệu, trong khi các đạo luật mới được ban hành thì thường quy định về quyền thông tin. Trên thực tế không có nhiều sự khác biệt vì hiện nay hầu hết các luật đã định nghĩa quyền thông tin theo nghĩa rộng nhằm bao hàm tất cả các loại thông tin mà không phụ thuộc vào hình thức chứa đựng các thông tin đó. Tuy nhiên tại một số quốc gia như Thuỵ Điển, thuật ngữ “tài liệu chính thức” không bao gồm các tài liệu đang trong quá trình chuẩn bị hoặc các dự thảo không được sử dụng trong quá trình ra quyết định cuối cùng. Ở Ấn Độ, luật cũng cho phép các cá nhân được yêu cầu lấy mẫu, ví dụ như mẫu thực phẩm được phân phối hoặc mẫu vật liệu sử dụng để làm đường sá.

 Phần lớn Luật tiếp cận thông tin  các nước có quy định quyền tiếp cận tới tất cả các thông tin do chính phủ lưu giữ mà không chỉ là các tài liệu của nhà nước/tài liệu chính thức. Một đặc điểm chung của hầu hết các luật là đều quy định các cơ quan Chính phủ có nghĩa vụ phải cung cấp một số loại thông tin nhất định một cách tích cực. Các thông tin này thường bao gồm chi tiết về cơ cấu tổ chức và các quan chức chủ yếu của Chính phủ, lời văn các đạo luật và quy định, các đề xuất và chính sách hiện hành, các biểu mẫu và quyết định. Các luật mới ban hành có xu hướng quy định cụ thể một danh sách các thông tin cần công bố.

 Mỹ, Canada, các nước Bắc Âu dành cho người dân và các tổ chức quyền tiếp cận các hồ sơ, tài liệu của Chính phủ (ngoài danh mục loại trừ) bằng Luật tiếp cận thông tin. Một số nước còn có luật của các bang (Mỹ, Ấn Độ).

 Luật Liên bang Nga về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin quy định nghĩa vụ của các chủ thể hành chính công công bố thông tin về tài chính công gồm ngân sách, các dự án đầu tư công cộng, thông tin về nhân viên; trách nhiệm của Bộ Kinh tế và tài chính công, Quỹ quốc gia về cung cấp tài chính cho các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, Văn phòng về tiêu chuẩn tạm thời, Hội đồng cao cấp về hợp đồng và mua bán quốc gia công khai một số thông tin (các điều 23-26).

 Luật của Mexico quy định nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước phải công bố 17 nhóm thông tin theo một cách thức có thể dễ dàng tiếp cận và lĩnh hội được. Các nhóm bao gồm thông tin về hoạt động chung của các cơ quan, các dịch vụ cung cấp, trình tự và mẫu, các chương trình trợ giúp, các hợp đồng được thực hiện, chi tiêu tài chính, các báo cáo được đưa ra và các cơ hội tham gia. Danh mục các tài liệu được phân loại cũng phải được công bố. Danh mục này phải được cập nhật theo tiêu đề về nội dung và phải ghi rõ cơ quan hành chính đã tạo ra thông tin, ngày phân loại, lý do, thời gian sẽ được phân loại, và khi thích hợp, phần nào của tài liệu được phân loại. Trong mọi trường hợp, bản thân danh mục không được coi là thông tin mật (Điều 17). Ngoài ra, mỗi cơ quan phải công bố chi tiết về thành phần của cơ quan mình, thẩm quyền, chức năng, các quyết định đã ban hành, các hợp đồng đã giao kết và các báo cáo đã phát hành (Điều 7). Cơ quan phải công bố địa chỉ của phòng thông tin, cũng như địa chỉ điện tử nơi nhận yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 7.V). Luật Mexico còn quy định chi tiết về cách thức công khai thông tin, kể cả thông qua các phương tiện điện tử có thể tiếp cận được ở địa bàn xã.

 Tại Trung Quốc, danh mục thông tin của chính quyền được công bố cần bao gồm bảng xếp loại thông tin theo thứ tự bảng chữ cái, tóm tắt nội dung chính của thông tin, ngày tháng ban hành hoặc các nội dung tương tự (Điều 19 Pháp lệnh về công khai thông tin của chính quyền).  

 Điều 100 Hiến pháp Na Uy năm 1814, sửa đổi tháng 10-2004 có bổ sung về quyền tiếp cận các tài liệu và tham dự các phiên xử và các cuộc họp trong quá trình tố tụng của Toà án. Các thay đổi này là theo khuyến nghị của Uỷ ban về Tự do ngôn luận của Chính phủ[19]. Điều 100 khoản 5 quy định: “Mọi người có quyền tiếp cận các tài liệu của Nhà nước và của chính quyền thành phố cũng như có quyền tham dự các phiên xử của Toà án và các phiên họp của các cơ quan hành chính do nhân dân bầu ra. Luật có thể quy định về các trường hợp ngoại lệ nhằm bảo vệ an ninh dữ liệu cá nhân hoặc với các lí do có sức thuyết phục khác.

 Luật của Na Uy (Điều 10) quy định trách nhiệm của các cơ quan nắm giữ thông tin phải duy trì một chuyên san theo các quy định của Luật Lưu trữ và các văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, Nhà vua có thể quy định trách nhiệm của các cơ quan hành chính duy trì chuyên san điện tử phải công khai chuyên san đó trên Internet và cách thức thực hiện việc công khai. Ngay cả các cơ quan hành chính thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật có thể công bố công khai các tài liệu trên Internet, trừ trường hợp phải giữ bí mật theo quy định của pháp luật.

b)Yêu cầu cung cấp thông tin

 Quyền tiếp cận thông tin cho phép các công dân hoặc bất kỳ người nào có quyền được yêu cầu các cơ quan Chính phủ cung cấp thông tin. Hiến pháp Nam Phi quy định các cá nhân có quyền được cung cấp thông tin do bất kỳ người nào nắm giữ mà việc cung cấp thông tin đó là cần thiết cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền nào của người đó. Hiến pháp Peru 1993 quy định quyền đề nghị tiếp cận thông tin mà không phải đưa ra lí do và nhận thông tin đã đề nghị tiếp cận từ bất kỳ cơ quan nhà nước nào trong thời hạn và chi phí theo quy định của pháp luật.

  Ở Pháp, Luật Tự do tiếp cận các tài liệu hành chính năm 1978 cho phép công dân thực hiện quyền hiến định là được thông báo về tiền thuế được chi tiêu như thế nào và cơ quan hành chính có trách nhiệm phải giải trình việc này. Luật này cho phép tiếp cận các tài liệu của Chính phủ và có định nghĩa rộng về các loại tài liệu do cơ quan hành chính của Chính phủ Pháp lưu giữ được phép tiếp cận.

  Luật Tự do thông tin của Mỹ ban hành năm 1966, được sửa đổi một số lần và gần nhất năm 1996 với sự ra đời của Luật Tự do thông tin điện tử. Luật này cho phép bất kỳ người hoặc tổ chức nào, không kể là công dân hay có xuất xứ từ quốc gia nào, đều có quyền tiếp cận hồ sơ tài liệu do các cơ quan Chính phủ liên bang nắm giữ. Các cơ quan này bao gồm các cơ quan hành chính và quân sự, các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức khác có thực thi chức năng của Chính phủ, ngoại trừ Quốc hội, Toà án, các cơ quan trực thuộc Tổng thống tại Nhà Trắng, bao gồm Hội đồng An ninh quốc gia. Các cơ quan Chính phủ phải trả lời trong thời hạn 20 ngày làm việc. Luật Tự do thông tin  Mỹ cũng yêu cầu các cơ quan Chính phủ công bố các tài liệu về cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ, quy tắc, quyết định, thủ tục, chính sách và các hướng dẫn. Luật Tự do thông tin điện tử  1996 yêu cầu các cơ quan phải thiết lập “phòng đọc điện tử” và công bố dưới hình thức điện tử các thông tin phải được công bố với các tài liệu được yêu cầu.

Luật Thông tin Nhà nước Estonia được thông qua năm 2000 áp dụng đối với các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương, các pháp nhân theo luật công và các tổ chức tư nhân đang thực hiện công vụ, bao gồm việc cung cấp các thông tin đối với giáo dục, y tế…Bất kỳ người nào cũng có quyền yêu cầu cung cấp thông tin và cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin phải trả lời trong thời hạn 05 ngày làm việc. Yêu cầu cung cấp thông tin phải được đăng ký vào sổ. Các khoản lệ phí sẽ được miễn nếu thông tin yêu cầu là nhằm mục đích nghiên cứu.

  Luật về quy tắc hành chính công năm 1992 Tây Ban Nha quy định về việc tiếp cận của công dân đối với các hồ sơ, tài liệu của Chính phủ. Luật này cũng quy định về việc tiếp cận các thủ tục hành chính của cá nhân. Các quy định về tiếp cận được bổ sung nhằm thi hành Chỉ thị của EU năm 1990 về tiếp cận thông tin môi trường. Các tài liệu được tiếp cận phải là một bộ phận của một hồ sơ hoàn chỉnh. Cơ quan được yêu cầu phải trả lời trong thời hạn 03 tháng.

  Luật của Nhật Bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính năm 2001 quy định quyền được yêu cầu cung cấp văn bản hành chính. Việc cung cấp các văn bản hành chính phải được thực hiện bằng cách xem trực tiếp hoặc thông qua việc cung cấp các bản sao của các văn kiện hay sơ đồ, với các hồ sơ điện tử (Điều 14). Luật còn quy định về quyền tiếp tục tiếp cận thông tin: Người đã tiếp cận văn bản hành chính được cung cấp theo một yêu cầu cũng cấp thông tin trong vòng 30 ngày sau lần tiếp cận thứ nhất có thể yêu cầu người đứng đầu cơ quan hành chính có liên quan để tiếp tục được tiếp cận (Khoản 4 Điều 14).

  Pháp lệnh của Trung Quốc về công khai thông tin của chính quyền năm 2007 quy định quyền của các công dân, pháp nhân hoặc tổ chức yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin của chính quyền liên quan đến các vấn đề về thuế, bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế của bản thân và có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước sửa chữa các thông tin liên quan tới họ do các cơ quan nhà nước cung cấp mà không chính xác, nếu cơ quan nhà nước liên quan  không có trách nhiệm sửa chữa thông tin thì phải chuyển tiếp yêu cầu đến cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong việc này và thông báo cho người yêu cầu biết  (Điều 25).

  Luật về minh bạch và tiếp cận thông tin Nhà nước của Peru ban hành năm 2002 quy định  mọi cá nhân đều có quyền yêu cầu cung cấp thông tin dưới mọi hình thức từ các cơ quan của Chính phủ hoặc các tổ chức tư nhân có cung cấp dịch vụ công hay thực thi các chức năng hành chính “và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không phải giải thích lý do”.     

  Luật các kỳ họp và thông tin chính thức của chính quyền địa phương năm 1987 New Zealand quy định việc tiếp cận các thông tin do các cơ quan chính quyền địa phương nắm giữ, quy định khuôn khổ pháp lý về tiếp cận thông tin tương tự như Luật Thông tin chính thức. Ombudsman cũng là cơ quan giám sát việc thực hiện Luật này. Luật về Quyền riêng tư New Zealand cho phép mọi người được quyền tiếp cận và chỉnh sửa hồ sơ lưu trữ cá nhân về bản thân họ hoặc do các cơ quan nhà nước hoặc tổ chức tư nhân nắm giữ[20].

 Luật về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền Hàn Quốc (Điều 21) còn quy định: Cơ quan chính quyền sẽ nỗ lực một cách chủ động trong việc công khai thông tin tuy không được yêu cầu nhưng cần thiết phải công khai cho công luận.

c) Truyền bá thông tin

   Truyền bá thông tin là một khái niệm có phạm vi khác hơn so với tiếp cận thông tin, gắn với tự do thông tin. Quyền tự do thông tin và tự do truyền tải quan điểm có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như nói, viết, in ấn, điện tử hoặc bằng  nghệ thuật…

 Với phạm vi điều chỉnh là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện quyền tìm kiếm, nhận, gửi, sản xuất và truyền bá thông tin; áp dụng công nghệ thông tin và bảo đảm an toàn thông tin, Luật của Liên bang Nga năm 2006 có quy định riêng về truyền bá thông tin. Điều 10 của Luật quy định :Ở Liên bang Nga, truyền bá thông tin được thực hiện tự do, đồng thời tuân thủ các quy định của pháp luật Liên bang Nga. Thông tin được truyền bá không thông qua hệ thống truyền thông đại chúng phải được bảo đảm độ tin cậy các tin tức về người sở hữu hoặc người truyền bá thông tin đó với hình thức và dung lượng đủ để xác định được người đó…Nghiêm cấm tuyên truyền các thông tin kích động chiến tranh, chia rẽ dân tộc, gây thù hằn, đối địch chủng tộc, tôn giáo và các thông tin vi phạm pháp luật hình sự hoặc pháp luật hành chính.

 Nhìn chung, tại các nước, nội dung quyền tiếp cận thông tin có thể được quy định trong các luật khác nhau. Có thể quyền tiếp cận thông tin được hiến pháp hoá (như Thuỵ Điển, Na Uy) và xây dựng nội luật về Tự do thông tin và một số các luật khác liên quan như Luật Bảo vệ dữ liệu thông tin, Luật Bí mật, Luật Chống tham nhũng và một số văn bản pháp lý như Bộ nguyên tắc điều hành Chính phủ (Thuỵ Điển), Nguyên tắc tiếp cận tài liệu công (Thuỵ Điển). Luật của Na Uy loại bỏ các thông tin từ cơ quan lập pháp, tư pháp mà quy định cụ thể về loại thông tin này nằm trong các luật khác hoặc danh mục hạn chế ví dụ tiếp cận thông tin toà án quy định trong luật tố tụng dân sự, hình sự. Hiến pháp Na Uy quy định các phiên họp Quốc hội được mở công khai được trực tiếp nghe hoặc qua các phiên bản ghi và phát trên phương tiện thông tin đại chúng. Nếu như Thuỵ Điển và Na Uy chọn cách thức luật hoá mọi quy tắc thì Đan Mạch để thực thi quyền tự do thông tin còn có các văn bản dưới luật. Đan Mạch lồng ghép các nguyên tắc tự do thông tin vào các luật khác, ví dụ như Luật Minh bạch và Mở trong giáo dục. Luật Tiếp cận tài liệu hành chính công của Đan Mạch áp dụng với hầu hết các cơ quan công, bao gồm công ty và tổ chức khác sử dụng nguồn ngân sách công và có quyền ra chính sách và quyết định do chính quyền trung ương và địa phương trao cho thay cho họ. Luật không áp dụng cho khu vực tư pháp và lập pháp. Đa số luật các nước quy định nội dung quyền tiếp cận thông tin bao gồm thu thập, tìm kiếm thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin.  

1.3.5 Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin

 Để quyền tiếp cận thông tin được thực hiện có hiệu quả, cần có một quy trình cung cấp thông tin nhanh chóng, đơn giản, hợp lý và cần có một thiết chế độc lập xem xét giải quyết bất kỳ sự từ chối nào. Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, về cơ bản, được thể hiệnở các khía cạnh: thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin phải công bố công khai rộng rãi các thông tin; thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định quyền yêu cầu cung cấp các thông tin; quy định thời hạn hợp lý được tiếp cận thông tin, từ chối tiếp cận thông tin và bố trí đầu mối tiếp cận thông tin.

 Ở Nhật Bản, yêu cầu tiếp cận thông tin phải được thể hiện bằng văn bản, kể cả dưới hình thức mẫu điện tử, và phải thể hiện tên của người yêu cầu (hoặc tên của người đại diện cơ quan, tổ chức), địa chỉ và mô tả về tài liệu cần tìm kiếm với chi tiết đầy đủ để có thể tìm được. Khi yêu cầu không đầy đủ, cơ quan nhà nước sẽ thông báo cho người yêu cầu và dành cho người yêu cầu thời gian hợp lý để hoàn thành, đồng thời còn “nỗ lực” dành sự trợ giúp (Điều 4 Luật). Người đứng đầu các cơ quan nhà nước được yêu cầu phải cung cấp thông tin có ích cho người yêu cầu và còn phải thực hiện các biện pháp trợ giúp khác (Điều 23 Luật).

 Tại Mexico, luật quy định cụ thể rằng động cơ yêu cầu không liên quan đến việc quyết định có cung cấp thông tin cần tìm kiếm hay không. Nếu thông tin không được mô tả đầy đủ và rõ ràng, hoặc nếu các cá nhân gặp khó khăn trong việc đưa ra yêu cầu, kể cả do mù chữ, thì bộ phận liên lạc phải trợ giúp (điều 40-41 và Quy định tạm thời thứ 8).

 Tại Ấn Độ, Luật quy định trường hợp yêu cầu không được lập thành văn bản vì bất kỳ lý do nào, có thể do không biết chữ, khuyết tật không thể thể hiện thành văn bản…, thì nhân viên thông tin sẽ thực hiện tất cả sự giúp đỡ cần thiết với người được yêu cầu. Một người nộp đơn yêu cầu cung cấp thông tin không buộc phải trình bày lý do vì sao  họ yêu cầu hoặc bất kỳ thông tin cá nhân nào khác ngoại trừ những thông tin cần thiết để liên hệ với họ. Khi có một đơn yêu cầu cung cấp thông tin gửi tới một nhà chức trách công cộng mà thông tin được yêu cầu đang do một nhà chức trách công cộng khác quản lý hoặc nội dung yêu cầu có liên hệ mật thiết hơn đến chức năng của một nhà chức trách công cộng khác, thì nhà chức trách công cộng nhận được yêu cầu phải chuyển yêu cầu đó hoặc một phần của yêu cầu đó tới nhà chức trách công cộng khác và thông báo ngay cho người yêu cầu về việc chuyển như vậy, miễn là việc chuyển yêu cầu theo như quy định tại tiểu mục này phải đuợc thực hiện một cách nhanh nhất trong điều kiện có thể và trong mọi trường hợp không được chậm quá 5 ngày kể từ ngày nhà chức trách đầu tiên nhận được yêu cầu (Điều 6). 

 Tại Slovenia, người yêu cầu tiếp cận thông tin có thể yêu cầu bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Yêu cầu tiếp cận thông tin bằng lời nói được coi là yêu cầu bằng hình thức không chính thống (Điều 14 Luật tiếp cận thông tin công năm 2003). Trong trường hợp yêu cầu bằng lời nói, cơ quan có trách nhiệm vẫn phải bảo đảm người đó được quyền tiếp cận hoặc sử dụng lại thông tin, trừ các trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, yêu cầu bằng hình thức không chính thống không được coi là yêu cầu theo thủ tục hành chính được quy định tại Luật Thủ tục hành chính, cho nên không có quyền khiếu nại.

 Đối với yêu cầu thông tin bằng văn bản thì người yêu cầu phải nêu cơ quan tiếp nhận yêu cầu; tên người, công ty hoặc pháp nhân, đại diện hoặc đại diện toàn quyền của người/công ty hoặc pháp nhân đó và địa chỉ của họ; trong đơn phải nêu rõ thông tin mà họ muốn được tiếp cận; và cách thức mà người yêu cầu muốn tiếp cận nội dung của thông tin được yêu cầu (xem tại chỗ, được cung cấp bản ghi, bản sao hoặc bản sao điện tử). Người yêu cầu không phải nêu cơ sở pháp lý của việc yêu cầu và lý do tiếp cận thông tin. Trong yêu cầu sử dụng lại thông tin công, người yêu cầu phải nêu rõ thông tin mà họ muốn sử dụng lại; cách thức mà người yêu cầu muốn nắm bắt nội dung của thông tin được yêu cầu; mục đích của việc sử dụng lại thông tin (phục vụ mục đích thương mại hoặc phi thương mại).

 Nếu đơn yêu cầu chưa hoàn chỉnh ở mức đủ để cơ quan có thể xử lý thì cơ quan tiếp nhận yêu cầu có trách nhiệm đề nghị người yêu cầu hoàn thiện đơn yêu cầu trong thời hạn mà cơ quan đưa ra, không được ngắn hơn 3 ngày làm việc. Trong trường hợp người yêu cầu không hoàn thiện đơn yêu cầu hoặc đơn yêu cầu không đáp ứng các điều kiện trên ngay cả khi đã được bổ sung, chỉnh lý khiến cơ quan tiếp nhận đơn không thể xử lý được yêu cầu thì cơ quan này không cung cấp thông tin.

Thời hạn hợp lý được tiếp cận thông tin, từ chối tiếp cận thông tin:

 Theo Luật của Nhật Bản, quyết định về việc cung cấp thông tin thông thường phải được đưa ra trong thời hạn 30 ngày. Khi yêu cầu được trả lại cho người yêu cầu để bổ sung hay làm sáng tỏ, thì thời gian để bổ sung yêu cầu không được tính vào thời hạn 30 ngày. Thời hạn này có thể được kéo dài thêm 30 ngày nữa, “khi có lý do hợp lý như là những khó khăn nảy sinh khi thực hiện công việc”, miến là người được yêu cầu phải được thông báo về sự gia hạn đó bằng văn bản cùng với những lý do kèm theo. Khi yêu cầu bao gồm “một số tài liệu lớn của Nhà nước” và có thể có rủi ro là hoạt động của cơ quan nhà nước sẽ bị “trở ngại đáng kể” bằng việc cố gắng cung cấp tất cả các thông tin trong vòng 60 ngày, thì người đứng đầu cơ quan nhà nước có thể thông tin một cách đơn giản về “phần hợp lý” trong thời hạn đó, việc cung cấp phần còn lại được thực hiện trong “thời gian hợp lý”. Trong trường hợp này, người yêu cầu được thông báo bằng văn bản, kể cả việc áp dụng nguyên tắc này và giới hạn thời gian gia hạn đối với các tài liệu còn lại.

 Yêu cầu có thể chuyển giao cho cơ quan khác khi có căn cứ hợp lệ để chuyển giao, như là tài liệu được chuẩn bị từ cơ quan khác, với điều kiện là phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu.

 Luật bao gồm các quy định gia hạn liên quan đến việc tư vấn với các bên thứ ba có liên quan đến thông tin yêu cầu. Các bên thứ ba có thể có cơ hội đưa ra tuyên bố. Khi bên thứ ba phản đối việc cung cấp thông tin, thì thời hạn 2 tuần được áp dụng giữa quyết định cung cấp thông tin và thực hiện thực tế quyết định đó (cung cấp thông tin thực tế). Bên thứ ba còn phải được thông tin ngay lập tức khi có quyết định phải cung cấp thông tin để có thể khiếu nại về quyết định đó nếu muốn.

 Khi quyết định được đưa ra là cung cấp thông tin, thì người yêu cầu được thông báo về việc đó bằng văn bản cũng như các vấn đề liên quan đến hình thức cung cấp thông tin.  

 Khi quyết định đưa ra là không cung cấp thông tin, kể cả vì lý do thông tin không do cơ quan nhà nước này quản lý, thì người yêu cầu cũng được thông báo. Theo Luật thủ tục hành chính, Luật giải quyết các khiếu nại hành chính, Luật khởi kiện các vụ án hành chính của  Nhật Bản thì quyết định phải đưa ra lý do và phải thông báo về quyền khiếu nại, cả theo đường hành chính và toà án.

 Theo Luật của Mỹ, việc yêu cầu sẽ được trả lời ngay lập tức, thông thường trong thời hạn 20 ngày làm việc. Trong trường hợp bất thường, thời hạn có thể được gia hạn thêm 10 ngày. Đối với những trường hợp này, cơ quan công quyền phải thông báo cho người yêu cầu về việc thông tin mà họ yêu cầu không thể cung cấp được trong thời hạn 20 ngày và cơ quan này có thể trao cơ hội cho người yêu cầu giới hạn phạm vi yêu cầu hoặc thu xếp khoảng thời gian khác thay thế. Với những mục đích này và với sự cần thiết hợp lý cho việc xử lý yêu cầu, “các trường hợp bất thường”, được hiểu là sự cần thiết để tìm hiểu thông tin, nhu cầu để tìm kiếm thông qua một lượng thông tin/tài liệu lớn hoặc nhu cầu tham vấn với cơ quan công quyền khác hoặc tham vấn với hai hoặc các chi nhánh khác của cùng cơ quan công quyền.

 Luật đồng thời cũng quy định cách thức xử lý thông tin dựa trên số lượng công việc có liên quan cũng như quá trình xử lý yêu cầu đối với trường hợp mà người yêu cầu nêu ra được “nhu cầu hợp lý”. Việc xem xét yêu cầu đó có phải là “nhu cầu hợp lý” hoặc việc ra quyết định không được thực hiện trong thời hạn 10 ngày và phải thông báo cho người gửi đơn biết về quyết định đó.

 Luật không quy định việc chuyển giao yêu cầu tới các cơ quan công quyền khác tuy nhiên thực tế nếu xác định cơ quan thực sự nắm giữ thông tin thì cơ quan tiếp nhận yêu cầu lần đầu đều chuyển giao yêu cầu đến cơ quan đó. Luật cũng không quy định sự tham vấn với bên thứ ba. Tuy nhiên Lệnh 12,600 ngày 23-6-2007[21] đã yêu cầu các cơ quan công quyền phải xây dựng thủ tục tham vấn với bên thứ ba khi cơ quan này được yêu cầu phải công khai thông tin thương mại bí mật.

 Phúc đáp lại yêu cầu phải đưa ra lý do giải thích cho quyết định của mình cũng như phải thông tin về quyền kháng cáo nội bộ nào cho người yêu cầu biết. Trong trường hợp tất cả các yêu cầu bị từ chối, thông báo phải đưa ra tên, chức danh, vị trí của người có trách nhiệm đưa ra từ chối cũng như sự tính toán hợp lý về dung lượng thông tin bị từ chối, trừ phi điều này sẽ làm lộ thông tin thuộc trường hợp thuộc trường hợp ngoại lệ không phải công khai.

 Hầu như tất cả các luật đều quy định các cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin bố trí đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin.

 Nhìn chung, luật các nước có những điểm chung nhất định như quy định trách nhiệm chủ động công bố rộng rãi, công khai đến mức tối đa thông tin, tạo cơ sở cho người dân tiếp cận thông tin mà không cần yêu cầu, quy trình cung cấp thuận tiện, dễ tiếp cận, nhanh, rẻ, minh bạch. Gần như tất cả các luật đều quy định yêu cầu bằng văn bản, một số nước như Na Uy, Slovenia,… người yêu cầu có thể gửi yêu cầu bằng miệng hoặc thậm chí qua điện thoại. Luật phần lớn các nước không quy định nghĩa vụ của người  yêu cầu phải nêu lý do trong yêu cầu cung cấp thông tin. Nhiều luật quy định cụ thể yêu cầu phải nộp tới công chức cụ thể, trong khi một số nước quy định có thể gửi yêu cầu tới cơ quan công quyền nắm giữ thông tin.

 Phần lớn các luật đều quy định thời hạn tối đa trả lời yêu cầu từ khoảng 15-30 ngày. Phần lớn các luật đều cho phép gia hạn thời gian cung cấp thông tin. Thông thường thì, thời gian mà người nộp đơn phải trả lời các câu hỏi liên quan đến làm rõ hơn một số chi tiết liên quan đến thông tin hoặc để trả lệ phí sẽ không được tính vào thời hạn yêu cầu trả lời. Ở nhiều nước, việc không trả lời được yêu cầu cung cấp thông tin trong thời gian hạn định được coi như từ chối yếu cầu cung cấp thông tin.

 Phần lớn các nước đều quy định việc chuyển giao yêu cầu, hoặc người nộp đơn sẽ được thông báo về việc thông tin do một cơ quan khác nắm giữ, là nơi mà thông tin có liên quan chặt chẽ nhất tới công việc của họ  (Anh, Ấn Độ) hay nơi mà việc chuyển giao là “hợp lý” (Nhật). 

 Luật nhiều nước cũng yêu cầu cơ quan công quyền gửi thông báo trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu, nếu đơn yêu cầu được đáp ứng thì thông báo có thể sẽ ghi cả số lệ phí phải nộp, dạng thông tin được đáp ứng, một số quy định liên quan đến quyền khiếu nại; còn khi yêu cầu bị từ chối, thông báo thường ghi rõ lý do từ chối, có thể viện dẫn điều khoản cụ thể trong luật về lý do từ chối, đồng thời cũng có thể ghi cả quyền khiếu nại.

1.3. 6 Thủ tục khiếu nại, khiếu kiện:

 Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin thường bằng 3 con đường khác nhau: bằng con đường nội bộ hành chính, bằng Uỷ ban thông tin độc lập/ Cao uỷ viên thông tin độc lập, bằng con đường toà án.

  Ở Ấn Độ, bất cứ ai, kể cả bên thứ ba, người mà không nhận được quyết định cụ thể hoặc người gánh chịu bất lợi một quyết định theo quy định của luật, trong thời hạn 30 ngày có quyền khiếu nại đến quan chức thông tin công cộng liên quan. Đơn khiếu nại phải giải quyết trong vòng 30 ngày, hoặc trong thời hạn đã được gia hạn lâu hơn nhưng không quá 40 ngày. Một khiếu nại lần thứ hai của người yêu cầu thông tin về một quyết định ban hành bởi quan chức thông tin giải quyết khiếu nại lần một gửi tới Uỷ ban Thông tin trung ương hoặc Uỷ ban Thông tin của bang phải thực hịên trong vòng 90 ngày kể từ ngày mà quyết định đó được ban hành hoặc nhận được trên thực tế. Nếu có một khiếu nại về một quyết định do quan chức thông tin công cộng liên quan  đưa ra liên quan đến việc công bố thông tin về một bên thứ ba thì Uỷ ban Thông tin trung ương hoặc Uỷ ban Thông tin của bang phải tạo một cơ hội thuận lợi cho bên thứ ba được trình bày quan điểm trước uỷ ban về vấn đề.

 Trách nhiệm chứng minh bất cứ sự từ chối cung cấp thông tin, không bảo đảm việc cung cấp thông tin theo như quy định, hoặc không đầy đủ, chính xác… thuộc về cán bộ thông tin là người đã từ chối yêu cầu.  

 Phạm vi quyền khiếu nại nêu rõ trong Điều 18 (1) của Luật, theo đó nghĩa vụ Uỷ ban Thông tin là nhận và điều tra về đơn khiếu nại có liên quan: không thể trình một yêu cầu cung cấp thông tin hoặc khiếu nại liên quan đến việc chuyển tiếp yêu cầu cung cấp thông tin; đã bị từ chối tiếp nhận thông tin; đã không được hồi đáp một yêu cầu cung cấp thông tin hoặc tiếp cận với thông tin trong thời hạn quy định; đã bị yêu cầu trả những lệ phí mà người yêu cầu cho là vô lý; đã được cung cấp thông tin sai lạc, không đầy đủ, hoặc nhầm lẫn; các vấn đề khác theo quy định của Luật.

 Nếu Uỷ ban Thông tin trung ương hoặc Uỷ ban Thông tin của bang cho rằng cần thiết phải điều tra về khiếu nại thì có thể mở một cuộc điều tra, có các thẩm quyền như thẩm quyền của một toà án dân sự khi xét xử một vụ kiện theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 1908 trong những vấn đề sau:

-Triệu tập và buộc những người có liên quan phải đến theo sự triệu tập, buộc họ phải cung cấp chứng cứ;

-Thẩm định các tài liệu;

-Tiếp nhận các chứng cứ;

-Trưng thu bất kỳ hồ sơ công cộng hoặc bản sao các hồ sơ này từ bất kỳ toà án/văn phòng có liên quan;

-Tống đạt các lệnh triệu tập để thẩm vấn các nhân chứng hoặc các tài liệu;

-Bất kỳ các hành động nào khác mà có thể thực hiện trong hoạt động điều tra.

 Uỷ ban Thông tin trung ương hoặc Uỷ ban Thông tin của bang có thể kiểm tra bất kỳ hồ sơ nào nằm trong sự quản lý của một nhà chức trách công cộng.

 Quyết định của Uỷ ban Thông tin trung ương hoặc Uỷ ban Thông tin của bang sẽ có hiệu lực bắt buộc. Trong quyết định của mình, Uỷ ban Thông tin có quyền: yêu cầu nhà chức trách công cộng thựuc hiện bất kỳ biện pháp nào cần thiết để tuân thủ các quy định của Luật, bao gồm cung cấp thông tin được yêu cầu, chỉ định một quan chức thông tin nếu cần thiết, công bố những thông tin hoặc loại thông tin nhất định,…; yêu cầu nhà chức trách công cộng bồi thường bất kỳ mất mát hoặc tổn thương nào mà người khiếu nại đã phải gánh chịu; đưa ra bất kỳ hình thức chế tài nào theo quy định của Luật; đình chỉ việc giải quyết khiếu nại. Uỷ ban Thông tin có quyền phạt tiền người vi phạm theo quy định Khoản 1 Điều 20  và khuyến nghị có hình thức kỷ luật người vi phạm theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 Luật.  

 Tại Nhật Bản, khi yêu cầu bị từ chối (một phần hoặc toàn bộ), thì người yêu cầu  có thể ngay lập tức kiện ra toà án để yêu cầu loại bỏ sự từ chối, và họ còn có thể thực hiện khiếu nại về hành chính. Liên quan đến việc khiếu nại hành chính, Luật quy định việc khiếu nại được gửi đến người đứng đầu cơ quan hành chính. Người đứng đầu cơ quan hành chính đưa ra quyết định có liên quan phải tham khảo ý kiến của Uỷ ban Thẩm tra việc cung cấp thông tin khi một khiếu nại là trái pháp luật và bị bác bỏ hoặc khi mà theo một quyết định cung cấp thông tin (ngoại trừ một số quyết định) liên quan tới các khiếu nại bị rút lại hoặc phải sửa chữa, và tất cả các văn bản hành chính liên quan tới một khiếu nại cần phải được công khai tuy nhiên không bao gồm các trường hợp đã có ý kiến bằng văn bản phản đối việc cung cấp thông tin được trình lên. Uỷ ban Thẩm tra việc cung cấp thông tin  là một cơ quan giám sát trực thuộc văn phòng Chính phủ. Không có giới hạn ràng buộc nào về thời gian được quy định cho việc gửi khiếu nại và cũng có một số trường hợp khiếu nại không được chuyển hay bị trì hoãn với thời hạn có thể quá 1 năm, trong trường hợp đó Uỷ ban không có quyền hành động. Người yêu cầu, người khiếu nại, và bên thứ ba có đại diện phải được thông báo về khiếu nại (Điều 18,19 Luật). Mặc dù Uỷ ban Thẩm tra  trực thuộc Văn phòng Chính phủ, nhưng có một số nỗ lực để bảo đảm rằng Uỷ ban là độc lập. Uỷ ban gồm  15 thành viên và các khiếu nại thông thường được giải quyết trong hội đồng gồm 3 thành viên. Năm thành viên của Uỷ ban làm việc chuyên trách, với một thành viên là chủ tịch của mỗi hội đồng. Những thành viên này là công chức chính phủ đã nghỉ hưu. Mười thành viên khác làm việc kiêm nhiệm và bao gồm các nhà khoa học, các luật sư và các thành viên khác của cộng đồng. Chủ tịch Uỷ ban là thẩm phán phúc thẩm đã nghỉ hưu.           Thủ tướng chỉ định các thành viên của uỷ ban trong số các thẩm phán cấp cao được cả hai viện Quốc hội thông qua. Khi còn đương nhiệm, các thành viên Uỷ ban không được đồng thời làm thành viên của một đảng chính trị hoặc hiệp hội chính trị, hoặc tham gia tích cực vào các phong trào chính trị. Khi giải quyết khiếu nại, Uỷ ban có thể yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp hồ sơ tranh chấp hay yêu cầu thông tin thêm từ người nộp đơn hay từ các bên thứ ba. Các khiếu nại đối với quyết định của Uỷ ban có thể được gửi đến Toà án quận.

  Nhìn chung, quyền được khiếu nại hay kháng cáo của cá cá nhân được thừa nhận rộng rãi trong luật các nước. Các luật khác nhau quy định các biện pháp giải quyết khiếu nại cũng khác nhau, khiếu nại nội bộ là cách thức được lựa chọn đầu tiên và phổ biến nhất, tiếp theo là khiếu nại đến một cơ quan giám sát độc lập và/hoặc khởi kiện tới toà án.

 Luật của Nam Phi, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Peru, Slovenia quy định cụ thể về cơ chế khiếu nại nội bộ, tức khiếu nại trực tiếp lên cơ quan hành chính có thẩm quyền cao hơn cơ quan đã từ chối cung cấp thông tin. Ở Anh, khiếu nại nội bộ là một thủ tục bắt buộc trước khi khiếu nại tới một cấp xét xử khác.

 Nhiều luật thiết kế một cơ quan giám sát độc lập đóng vai trò giải quyết các khiếu nại liên quan đến tiếp cận thông tin ví dụ Cao uỷ viên, Uỷ ban Thông tin hay Thanh tra Nhà nước/Thanh tra Nghị viện hoạt động độc lập. Một xu hướng ngày càng phổ biến là thành lập một Uỷ ban Thông tin độc lập, đây có thể là cơ quan của Quốc hội, cơ quan độc lập thuộc Chính phủ (Văn phòng Chính phủ) hoặc một cơ quan hoàn toàn độc lập. Đến năm 2006 đã có 22 nước thành lập cơ quan dạng này. Ở một số nước như Pháp, Canada, cơ quan này có thẩm quyền tương tự như Thanh tra Quốc hội. Tại Slovenia, Serbia, Ireland, Anh, Uỷ ban Thông tin có quyền ban hành các quyết định có tính bắt buộc, trừ một số ít trường hợp. Trong nhiều trường hợp khiếu nại thông qua hệ thống thanh tra nhanh hơn và có thể giải quyết bằng hoà giải hơn là bằng các vụ kiện lên hệ thống tư pháp gây tốn kém và thủ tục lâu hơn.      Tại một số nước thành lập một cơ quan dạng toà án chuyên giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin như Ban Thẩm tra việc Công khai thông tin ở Nhật hay ở Úc, có Tài phán Phúc tra hành chính.  Bên cạnh đó, công dân Úc cũng có thể khiếu nại với Thanh tra Quốc hội liên bang. Tại một số nước như Anh hay Thái Lan, luật quy định cả hai cơ chế: hình thành cơ quan giám sát độc lập và một Toà trọng tài (Tribunal) chuyên biệt có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại. Nhiều nước, nhưng không phải là tất cả, luật quy định cơ quan xét xử phúc thẩm cuối cùng là tòa án. Toà án giải quyết tại Ba Lan là tòa án hành chính ở địa phương có cơ quan là bị đơn, tại Hàn Quốc, Na Uy, Nam Phi, Nga là tòa án thẩm quyền chung, tại Peru là toà án theo thủ tục bảo hiến habeas data , tại Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ là Tòa án hành chính, ở Antigue và Barbuda là Toà thượng thẩm. Ở Ecuado, không chỉ cá  nhân mà Ombudsman cũng có thể khởi kiện, và quyết định của toà án cũng có thể bị kháng cáo lên Toà án Hiến pháp.

1.3.7 Hình phạt, các biện pháp bảo hộ, các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật.

a. Hình phạt

 Phần lớn luật các nước quy định một số hình thức trừng phạt đối với cá nhân có dụng ý cản trở việc tiếp cận thông tin, một số nước khác thì quy trách nhiệm trực tiếp cho cơ quan công quyền. Tại một số nước như Jamaica, Bulgary, Nam Phi và Peru, cản trở có chủ ý việc tiếp cận thông tin được coi là một tội phạm hình sự và hình phạt có thể là hình phạt theo luật hình sự, thông thường là phạt tù. Một số nước khác như Mexico, luật quy định trách nhiệm hành chính đối với các vi phạm này.

b. Các biện pháp bảo vệ

 Nhiều luật đã quy định việc bảo vệ hành động công khai thông tin có thiện chí. Một số luật (Uganda, Ấn Độ, Nam Phi) có quy định bảo vệ công chức đối với bất kỳ hoạt động nào liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc có hàm ý thực hiện nhiệm vụ theo quy định của luật.

 Một số nước quy định nghĩa vụ công khai các thông tin ngoại lệ. Luật của Thụy Điển là một ví dụ, Thụy Điển quy định nghĩa vụ theo Bộ luật Hình sự và cũng đặt ra một số nghĩa vụ trực tiếp.

Luật tiếp cận thông tin của nhiều nước  như Anh, Nam Phi, Hoa Kỳ quy định hình thức bảo vệ “người thổi còi”. Đây là biện pháp an toàn quan trọng nhằm hỗ trợ bảo đảm các thông tin cơ bản vì lợi ích công cộng được công khai.

 c. Các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật

  Một số nước như Mexico, Anh, Nam Phi hay Ấn Độ quy định khá nhiều các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật. Nhiều luật quy định việc bổ nhiệm các công chức tận tụy với công việc đảm nhiệm nhiệm vụ công chức thông tin nhằm hỗ trợ việc thực thi pháp luật.

  Tại Uganda và Nam Phi, người đứng đầu các cơ quan công chịu trách nhiệm thực hiện chức năng của công chức thông tin, mặc dù họ có thể chỉ định những người được uỷ quyền để thực hiện các công việc hàng ngày. Luật của Ấn Độ quy định việc bổ nhiệm nhiều cán bộ mẫn cán làm công chức thông tin. Tại Hoa Kỳ, cơ quan công quyền còn phải chỉ định các trung tâm hỗ trợ người yêu cầu cung cấp thông tin, công chức giám sát việc giải quyết các khiếu nại nội bộ.

  Một số luật cũng quy định việc phải hướng dẫn và giải thích cho công chúng về quyền được tiếp cận thông tin của họ và cách thức gửi đơn yêu cầu, trong khi một số nước khác thì quy định việc xây dựng các hướng dẫn này dưới dạng các quy tắc về thực hành nhiệm vụ. Tại một số nước, cơ quan trung ương sẽ làm nhiệm vụ hướng dẫn, trong khi ở một số nước khác từng cơ quan công phải xây dựng các quy định hướng dẫn. Tại Nam Phi, Uỷ ban Nhân quyền còn có thêm nhiệm vụ xây dựng hướng dẫn trên phạm vi toàn quốc bằng 11 ngôn ngữ chính thức của quốc gia này.

 Nhiều nước quy định tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc quản lý hồ sơ tài liệu, một số hình thức báo cáo về việc thực thi pháp luật và tại một số nước quy định cơ quan giám sát có trách nhiệm chung là thúc đẩy việc thực thi pháp luật. Tại Kyrgyzstan, luật quy định việc rà soát tất cả các văn bản luật có các quy định liên quan đến việc hạn chế công khai thông tin để từ đó xem xét dưới góc độ của luật tiếp cận thông tin.

 Để quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm thiết thực, vai trò của các tổ chức xã hội dân sự là rất quan trọng. Tại nhiều quốc gia, các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội,… có vai trò quan trọng thúc đẩy và giám sát thực thi luật tiếp cận thông tin. Các Ombudsman với tư cách là “người bảo vệ công chúng”, một thiết chế lưỡng tính, kết nối với Nhà nước và xã hội, hoạt động độc lập để bảo vệ lợi ích của người dân, bao gồm cả quyền tiếp cận thông tin.

 

                                                   Chương 2

PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN/ TỰ DO THÔNG TIN TRONG PH ÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LU ẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

2.1 Pháp luật về tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc t ế

      Quyền tiếp cận thông tin đã trở thành mối quan tâm trên phạm vi quốc tế, sau khi Liên hợp quốc ra đời. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng LHQ đã thông qua Nghị quyết số 59(1), quy định: “tự do thông tin là quyền con người cơ bản và….nền tảng của tất cả các tự do khác…”. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người được thông qua vào năm 1948 đã liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của cá nhân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các chính phủ trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền này. Quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và trong một số công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003…Ở cấp độ khu vực và quốc gia, quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Công ước Nhân Quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân Quyền Châu Mỹ (ACHR), và trong Chương trình Hành động Chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái bình dương[22] cũng đã quy định rõ về tiếp cận thông tin: bảo đảm rằng công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng một cách phù hợp với pháp luật trong  nước[23]…Hiện nay, các nước trên thế giới dù khác nhau về thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế hay sự khác biệt về văn hoá trong pháp luật quốc gia đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tính đến năm 2010 đã gần 90 quốc gia ban hành luật tiếp cận thông tin công.

2.2 Luật tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới

2.2.1 Luật tiếp cận thông tin của một số nước Châu Âu

1. Thụy Điển

    Thụy Điển là nước  có luật tự do báo chí lâu đời nhất thế giới, từ 1766. Luật tự do báo chí năm 1766 và Luật Tự do ngôn luận năm 1991 là hai luật chủ đạo liên quan đến quyền tiếp cận thông tin. Thụy Điển là nước đầu tiên nâng luật về tiếp cận thông tin lên hàng có hiệu lực pháp lý như Hiến pháp.

 Tự do ngôn luận và quyền tiếp cận tài liệu công trong luật 1766 của Thụy Điển được coi là tiến bộ nhất thế giới trong thế kỷ XVIII. Luật được coi là phương tiện đấu tranh giảm tham nhũng và các đối xử bất công với công dân, tăng uy tín cho các cơ quan công cũng như các chính trị gia. Luật xây dựng trên nền tảng khái niệm tự do về ngôn luận và tự do thông tin, cũng cụ thể vai trò Ombudsman điển hình trong mô hình dân chủ xã hội (xã hội dân chủ) Thụy Điển. Quan điểm về tiếp cận tài liệu công được nêu rõ như sau: Nền dân chủ yêu cầu sự tham gia của công chúng trong những bản thảo được thông báo về các vấn đề mối quan tâm công cộng. Nó yêu cầu công dân có những biện pháp thực hiện kiểm soát lên chính quyền nhằm tăng tính hiệu quả và xoá bỏ tham nhũng. Nền dân chủ cũng cần bảo đảm tính công khai trong nền hành chính công, cho phép các công dân tham gia tích cực vào quá trình ra quyết định và tăng tính trách nhiệm giải trình và hiệu quả làm việc của các thể chế công[24].

Nguyên tắc tiếp cận thông tin  công có nghĩa là công chúng (bao gồm cả báo chí, truyền hình) được đảm bảo quyền xem xét các hoạt động của chính phủ và chính quyền địa phương; mọi tài liệu do chính quyền nắm giữ đều có thể cho công chúng được biết, trừ những tài liệu được quy định là tài liệu mật. Tuy nhiên, mỗi yêu cầu cung cấp thông tin nhạy cảm đều cần được xem xét theo trường hợp cụ thể và nếu bị từ chối cung cấp thông tin, người yêu cầu có quyền kháng kiện. Nguyên tắc về tiếp cận thông tin bao gồm: tiếp cận các tài liệu chính thức; tự do ngôn luận cho công chức và mọi người dân; tự do trao đổi giữa công chức và người dân; tiếp cận phiên toà; tiếp cận các phiên họp của Quốc hội.

 Điều 1 của Chương II Luật Tự do báo chí còn ghi rõ “mọi công dân Thụy Điển đều có quyền tiếp cận tài liệu chính thức miễn phí, nhằm mục đích tự do trao đổi ý kiến và sự sắn có của thông tin phức hợp”. Điều 2 quy định “Quyền tiếp cận các tài liệu công chỉ có thể bị hạn chế nếu cần thiết trong các bối cảnh có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và quan hệ của quốc  gia với các nước khác và các tổ chức quốc tế; chính sách tài chính, tiền tệ, tỷ giá; các hoạt động điều tra, kiểm soát của cơ quan công quyền; phòng ngừa tội phạm; quyền lợi kinh tế công; bảo vệ tính riêng tư, quyền lợi kinh tế của cá nhân; bảo vệ thiên nhiên và môi trường”. Ngoài ra mọi tài liệu bị cho là mật đều được quy định rõ trong Luật Bí mật năm 1980 với trên 160 mục. Hầu hết các hạn chế về thông tin theo dạng mật đều đòi hỏi phải chứng minh là việc công bố thông tin đó sẽ gây hại tới cộng đồng. Thông tin được giữ bí mật trong khoảng từ 2 đến 70 năm tuỳ loại thông tin.

 Theo Luật năm 1976, Chính phủ, cơ quan trung ương kể cả các cơ quan thương mại công, toà án, chính quyền (hành chính) địa phương đuợc gọi là cơ quan công quyền. Quốc hội và bất kỳ một hội đồng chính phủ địa phương nào được trao quyền ra quyết định phải được coi là một cơ quan công quyền. Các cơ quan công quyền bắt buộc phải lưu giữ các tài liệu chính thức theo hệ thống và tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận được rõ ràng. Một công dân bình thường cũng có thể đến hoặc yêu cầu Thủ tướng cho xem những tài liệu chính thức của Thủ tướng. Khi tài liệu thuộc tài liệu công, cần được in ra, lưu và liệt kê trong công báo. Việc thay đổi hay xoá bỏ tài liệu trong danh sách công báo là vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự.

 Theo Luật dữ liệu cá nhân, cá nhân có quyền tiếp cận và sửa đổi thông tin cá nhân của chính họ do các cơ quan công và tư nắm giữ. Quyền giám sát luật về dữ liệu cá nhân thuộc về Ban Kiểm soát dữ liệu quốc gia.

 Công dân không cần mô tả chính xác về tài liệu cần tìm, tuy nhiên cơ quan nhà nước không có nghĩa vụ tìm kiếm dàn trải một tài liệu nào đó nếu cá nhân yêu cầu không đưa ra được chi tiết về tài liệu đó. Nếu tài liệu có một phần nội dung không mật, những phần không mật phải được cung cấp ở dạng bản sao hoặc bản ghi âm.

 Khiếu nại, khiếu kiện được thực hiện theo hai cấp. Khiếu nại nội bộ sau đó có thể gửi lên Thanh tra Quốc hội, cơ quan có tính chất trung lập chính trị này có thể đưa ra nhận xét và khuyến nghị không có tính bắt buộc. Khiếu kiện thì có thể gửi lên Toà hành chính và Toà hành chính tối cao.

2. Phần Lan

    Hiến pháp Phần Lan có tính chất và nội dung rất tương đồng với Thụy Điển về các quyền cơ bản của con người và công dân. Hệ thống văn bản luật bao gồm Luật Tự do báo chí Thụy Điển phiên bản cho Phần Lan, có quy đinh tự do tiếp cận thông tin. Quyền tiếp cận thông tin được luật hoá và sửa đổi trong Luật Mở tài liệu công năm 1951 và sau đó là Luật Mở về các hoạt động của Chính phủ năm 1999. Uỷ ban Chống Tham nhũng của Hội đồng Châu Âu đã nhận định, luật tự do thông tin của Phần Lan là một trong số yếu tố then chốt để Phần Lan có mức (chỉ số) tham nhũng thấp.

 Luật Mở tài liệu công quy định công khai các tài liệu do nhà nước, chính quyền cơ sở và tổ chức tôn giáo nắm giữ. Luật Mở về các hoạt động của Chính phủ đưa ra nguyên tắc về công khai đối với cả khu vực doanh nghiệp có thực hiện chức năng công, như quỹ hưu. Luật này quy định quyền tiếp cận thông tin và nghĩa vụ của nhà chức trách cung cấp thông tin, nhằm mục tiêu tăng cường công khai về hoạt động quản lý thông tin của chính phủ, tạo cơ hội tốt cho các cá nhân, tổ chức giám sát các hoạt động của cơ quan công quyền và sử dụng nguồn lực công. Mọi người đều có quyền có quan điểm, có thể phản hồi và gây ảnh hưởng lên các hoạt động của cơ quan công quyền. Luật cũng nhằm mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích, mối quan tâm chung của công chúng. Luật cũng cho phép mọi người dân có quyền tiếp cận tài liệu chính thức được đưa lên trang điện tử hoặc thư viện.

 Những hạn chế của tiếp cận thông tin là: tài liệu nội bộ, tài liệu không chính thức; các thông tin hoặc tài liệu chuẩn bị về quá trình ra quyết định. Các thông tin hạn chế (120 loại thông tin) cũng được phân nhóm thành 32 nhóm (theo Điều 24 Luật năm 1999): kể cả đối ngoại, điều tra hình sự, cảnh sát, an ninh, tình báo quân đội và lực lượng vũ trang và cần cân nhắc cả lợi ích công cộng, bí mật doanh nghiệp, thông tin cá nhân. Tuy nhiên Luật năm 1999 (Chương VII) cũng quy định các nguyên tắc tiếp cận với các thông tin bí mật, việc tiếp cận các tư liệu bí mật lưu trữ, tư liệu bí mật của nhà chức trách hay việc một nhà chức trách có thể cho phép tiếp cận với thông tin mật của một số nhà chức trách khác, hay cho phép tiếp cận với những thông tin mật của nhà chức trách của một nước khác hoặc của một tổ chức quốc tế.

   Nghị viện của Phần Lan cũng có cơ quan Thanh tra Nghị viện với chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền và nhà chức trách về thực thi luật và phán quyết về thực thi luật, nhận các khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

 Luật 1999 cũng có những quy định cụ thể về quyền  công dân được tham dự các phiên họp toàn thể của Nghị viện, các phiên họp của Hội đồng địa phương và các cơ quan địa phương khác, các phiên toà và các cuộc họp của các cơ quan tôn giáo.

3. Na Uy

    Luật Tự do thông tin năm 1970 được sửa đổi gần nhất năm 2006. Những sửa đổi cập nhật nhất nhằm vào các vấn đề xử lý yêu cầu thông tin, hạn chế các tài liệu nội bộ, thông tin miễn trừ và sửa đổi để phù hợp với yêu cầu của Liên minh Châu Âu đặc biệt liên quan đến yêu cầu tiếp cận thông tin môi trường và yêu cầu tính minh bạch cao hơn.

 Một đặc điểm nổi bật của Luật Tự do thông tin của Na Uy là quyền được biết hay quyền tự do thông tin đã được hiến pháp hoá theo điều 100 Hiến pháp sửa đổi năm 2004 như sau:

“Quyền tự do ngôn luận: Không ai phải chịu trách nhiệm trước pháp luật vì truyền đạt, phổ biến hoặc nhận thông tin, ý kiến vì quyền này được giải thích bởi cơ sở tự do ngôn luận nói trên, được hiểu là tìm kiếm sự thật, đẩy mạnh dân chủ và tự do cá nhân bày tỏ ý kiến. Mọi người được quyền tiếp cận tài liệu của Nhà nước và chính quyền cơ sở. Hạn chế của quyền này sẽ được quy định bởi pháp luật để bảo vệ tính riêng tư của cá nhân hoặc vì lý do cần thiết”.

  Luật sửa đổi gần nhất đã mở rộng phạm vi áp dụng đối với các công ty, pháp nhân có ít nhất 50% vốn của nhà nước; giảm thiểu phạm vi miễn trừ, tức là không miễn trừ toàn bộ tài liệu có những thông tin bí mật mà chỉ loại trừ thông tin mật đó khỏi tài liệu khi cung cấp thông tin. Theo Luật,  cơ quan công cần cung cấp thông tin là các bộ, ngành hành chính, chính quyền ở cả ba cấp, bao gồm các công ty ít nhất 50% vốn nhà nước ở cả cấp trung ương và địa phương. Một số cơ quan như Tổng cục cảnh sát, Tổng cục an ninh quốc phòng và Tổng cục tình báo thường nằm trong diện miễn trừ. Tuy nhiên với đạo luật mới, các cơ quan này vẫn là đối tượng áp dụng của Luật. Kinh nghiệm hoạt động của các cơ quan này là cơ sở dữ liệu thông tin của họ cần xử lý kỹ càng để mọi thông tin phải mở sẽ được liệt kê trong công báo, mà không có loại thông tin dạng mật nào nằm nhầm trong công báo. Đồng thời các cơ quan áp dụng nhiều hơn hình thức cung cấp tài liệu nhưng bỏ đi phần thông tin thuộc phân loại mật.

 Các thông tin từ cơ quan lập pháp, tư pháp và cảnh sát làm chức năng công tố không nằm trong điều khoản của Luật tự do thông tin, mà thuộc sự điều chỉnh của luật khác.

   Theo Luật tiếp cận thông tin, bất kỳ ai cũng có thể yêu cầu cơ quan hành chính  cho xem những nội dung văn bản về một sự việc cụ thể. Những thông tin đang tranh cãi cũng có thể đưa ra công chúng. Yêu cầu thông tin sẽ được các cơ quan công hoặc công chức xem xét trên nguyên tắc lợi ích công cộng. Kể cả thông tin thuộc dạng mật, nhưng trước yêu cầu cung cấp thông tin, người có trách nhiệm cao nhất của cơ quan có quyền xem xét tính chất mật của tài liệu sẽ phải cân nhắc có cho phép tiếp cận hay không và có thể cho tiếp cận nếu lợi ích công cộng cao hơn.

 Người yêu cầu thông tin không cần phải đưa ra chi tiết hoặc mã số văn bản yêu cầu mà chỉ cần liên quan đến trường hợp cụ thể hoặc nói cách khác là mô tả loại tài liệu hoặc trường hợp cụ thể đó ở mức độ hợp lý. Mọi yêu cầu về thông tin cần phải được trả lời trong vòng 5 ngày và quyết định từ chối cung cấp thông tin phải được trả lời trong vòng 10 ngày, trừ những thông tin nằm trong dạng cần được giải thích về yêu cầu thông tin hoặc có quyết định tạm hoãn không cung cấp thông tin tới một thời gian nhất định trong tương lai (Điều 5). Yêu cầu thông tin hay tiếp cận thông tin không mất lệ phí. Có quy định người yêu cầu có thể yêu cầu nhiều loại tài liệu nhưng tối đa số trang mỗi tài liệu yêu cầu không quá 100 trang. Trên mức đó, người yêu cầu phải trả lệ phí với mức phải chăng.

 Luật quy định quyền khiếu nại và khiếu kiện tới cơ quan chức năng cấp cao hơn và sau cùng là Ombudsman ( Thanh tra Nghị viện) hoặc toà án cấp cao hơn.

4. Đan Mạch

   Luật về tiếp cận các tài liệu hành chính công của Đan Mạch được ban hành năm 1985, quy định áp dụng đối với tất cả các hoạt động được thực thi bởi cơ quan hành chính công, đổng thời áp dụng với một số cơ sở sản xuất, và với công ty, hiệp hội, tổ chức, nghiệp đoàn cụ thể… sử dụng ngân sách nhà nước hay có chức năng công quyền do uỷ quyền.

Bất kể người nào cũng có thể yêu cầu được thông báo cho biết về các tài liệu do cơ quan hành chính tiếp nhận hoặc ban hành trong quá trình hoạt động. Cơ quan hành chính có thể cho phép sự tiếp cận rộng hơn đối với các tài liệu khi điều này không phải tuân theo quy định về bí mật.

  Luật quy định  các tài liệu về  công việc nội bộ của công chức, viên chức thuộc diện loại trừ. Tuy nhiên, các thông tin về sự thật trong tài liệu quy định là tài liệu quan trọng đối với vấn đề đang xem xét thì những thông tin đó, bất kể đã có quy định trước hay không, đều được công bố. Luật cũng quy định các thông tin được miễn liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật nhà nước…

  Các luật có liên quan đến tiếp cận thông tin như Luật Lưu trữ, cho phép các lưu trữ của các cơ quan công được duy trì trong vòng 30 năm, các thông tin cá nhân được lưu trữ trong vòng 80 năm; các thông tin về an ninh quốc gia và các lý do khác có thể đóng theo thời hạn khác nhau.

Cơ quan công quyền cần cung cấp thông tin nếu việc không cung cấp gây tổn hại cho cuộc sống, sức khoẻ, tài sản và môi trường của cộng đồng.

5. Vương quốc Anh   

    Luật Tự do thông tin của Vương quốc Anh ban hành năm 2000, sau hai năm thông qua Luật Nhân quyền. Điều 1 quy định bất kỳ người nào cũng có quyền yêu cầu cơ quan công quyền cung cấp thông tin và có quyền được thông tin. Lụât định nghĩa thông tin một cách đơn giản đó là những tin tức/dữ liệu, tài liệu được ghi lại dưới bất kỳ hình thức nào. Và thông tin này do cơ quan công quyền nắm giữ tại thời điểm nhận được yêu cầu. Luật cũng xác định cơ quan nào được coi là cơ quan công quyền và việc xác định được quy định trong Phụ lục 1. Bản danh sách này bao gồm tất cả cơ quan của Chính phủ, một vài cơ quan lập pháp (Luật không điều chỉnh cơ quan lập pháp của Scotland vì vùng này có luật riêng), lực lượng vũ trang và một số cơ quan khác được liệt kê theo tên riêng. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu công cũng được xác định như là những cơ quan của Hoàng gia hoặc một cơ quan/tổ chức công cộng (không phải cơ quan của Chính phủ) cũng được coi là cơ quan công quyền.

  Cơ quan công quyền có trách nhiệm cung cấp thông tin và trong trường hợp từ chối thì cơ quan này phải thông báo cho người yêu cầu ngay lập tức trong thời hạn 20 ngày.

  Khoảng thời gian giữa thời điểm người yêu cầu trả phí và ngày mà phí yêu cầu được thanh toán là thời điểm không được tính trong thời hạn 20 ngày. Tuỳ theo từng loại thông tin khác nhau mà Bộ trưởng có thể gia hạn thời hạn này nhưng không quá 60 ngày.

 Trong thời hạn 20 ngày, người yêu cầu phải nhận được thông báo về việc thông tin họ yêu cầu cần phải xem xét, thông báo này được tính vào thời hạn đưa ra quyết định. Sau khi hết thời hạn gia hạn cung cấp thông tin, quyết định cuối cùng là không công khai thông tin được yêu cầu công khai, cơ quan nhận được yêu cầu phải gửi thông báo cho người yêu cầu và nêu rõ lý do (phải nêu những ngoại lệ được sử dụng), chi tiết thủ tục khiếu nại nội bộ cũng như quyền khiếu nại lên Uỷ ban Thông tin.

   Luật Tự do thông tin không điều chỉnh việc chuyển yêu cầu hoặc tham vấn cho bên thứ ba một cách trực tiếp, tuy nhiên việc phối hợp này được quy định bằng Bản quy tắc. 

   Luật quy định hai chế độ phí mà người yêu cầu phải trả, và phí phải được thanh toán trong thời hạn 3 tháng. Người yêu cầu không phải trả phí cho thời gian làm việc của nhân viên cơ quan cung cấp thông tin.

   Luật của Anh không quy định danh sách thông tin mà mỗi cơ quan công quyền buộc phải công bố. Điều 19 quy định cơ quan công quyền buộc phải phát triển, công bố và thi hành các kế hoạch đăng tải, xác định các loại thông tin mà cơ quan này sẽ công bố, cách thức công bố và những loại thông tin nào sẽ thu phí. Kế hoạch công bố thông tin phải được Uỷ ban quản lý thông tin thông qua.

 Luật cũng quy định một loạt các trường hợp ngoại lệ như là sự miễn trừ. Phần lớn các ngoại lệ là rõ ràng. Luật quy định trong bất kỳ trường hợp nào, lợi ích công cộng trong việc duy trì ngoại lệ cao hơn so với lợi ích công cộng khi tiết lộ thông tin đó. Do các quy định của Luật chỉ áp dụng cho thông tin, không áp dụng đối với các tài liệu, vì thế bất kỳ thông tin nào không thuộc phạm vi ngoại lệ buộc phải công khai.

 Luật quy định 3 cấp khiếu nại, cấp đầu tiên là trong phạm vi cơ quan nắm giữ thông tin, cấp thứ hai là Uỷ ban Thông tin, và tiếp theo là Toà án (Tribunal) chuyên xét xử các vụ việc liên quan đến tự do thông tin. Cơ chế xét xử ở cấp thứ ba tương tự như cơ chế xét xử của trọng tài thương mại.

6. Pháp

    Luật về tiếp cận thông tin của Pháp ban hành năm 1978, sửa đổi năm 2000. Luật cụ thể hoá và đảm bảo quyền của mọi người được tiếp cận thông tin trong phạm vi mà quyền tiếp cận các tài liệu hành chính đã quy định. Tài liệu hành chính là các văn bản, báo cáo, nghiên cứu, bản sao, bản ghi chép, số liệu, lệnh, hướng dẫn, các thông tư cấp bộ, bản ghi nhớ và các hồi đáp liên quan đến giải thích luật hoặc giải trình thủ tục hành chính, khuyến nghị, dự báo, và các quyết định của nhà nước, cơ quan địa phương, cơ quan công hoặc các tổ chức hoạt động dựa trên luật công hay luật tư để quản lý một dịch vụ công. Các tài liệu này có thể ở dạng viết, nghe, nhìn, các tài liệu trên các phương tiện trung chuyển xử lý dữ liệu, hoặc các tài liệu có thể xem được bằng các quy trình tự động đang được sử dụng.

 Các cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trao các tài liệu về hành chính thuộc quyền sở hữu của mình cho tất cả những người nộp đơn xin sử dụng theo các điều kiện được quy định. Quyền được trao văn bản sẽ chỉ được áp dụng đối với các tài liệu đã hoàn chỉnh. Quyền này sẽ không được thực hiện nếu như tài liệu đã được lưu hành trong công chúng hay các tài liệu được chuẩn bị theo hợp đồng dịch vụ với những điều khoản được thực thi trên tư cách của một hoặc một vài người. Dịch vụ công được yêu cầu sẽ không bắt buộc phải chấp nhận những đề nghị phi lý với lý do là số lần yêu cầu hoặc bởi tính chất lặp đi lặp lại và có hệ thống của những yêu cầu đó. Luật có quy định cụ thể về các trường hợp ngoại lệ. Ngoài ra, những trường hợp tài liệu hành chính chỉ được phép trao cho người có liên quan được quy định: nếu việc trao những tài liệu đó có thể gây ảnh hưởng đến sự riêng tư và bí mật của hồ sơ cá nhân, bí mật về y tế hoặc bí mật về thương mại và sản xuất; tài liệu về những đánh giá hoặc nhận xét về một thể nhân, có thể nhận ra bằng tên hoặc đặc điểm dễ nhận biết; tài liệu nêu ra hành vi của một cá nhân mà có thể gây hại đối với người đó sau này, nếu bị tiết lộ. Thông tin y tế phải được trao cho người liên quan, trực tiếp hoặc thông qua bác sỹ và phải có sự đồng ý của người đó theo các điều kiện  quy định tại Bộ Luật về Sức khoẻ và cộng đồng.

 Luật của Pháp quy định thành lập Uỷ ban về tiếp cận tài liệu hành chính chịu trách nhiệm thực thi quyền tự do tiếp cận các  tài liệu hành chính và tài liệu lưu trữ công. Uỷ ban giải quyết khiếu nại trước khi khởi kiện ra Toà Hành chính.

7. Liên bang Nga

    Luật về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin ban hành năm 2006 có phạm vi điều chỉnh rộng. Điều 8 có quy định về quyền tiếp cận thông tin. Công dân và tổ chức có quyền tìm kiếm và nhận bất kỳ thông tin nào với bất kỳ hình thức nào từ bất kỳ nguồn nào với điều kiện tuân thủ các quy định của Luật này và các luật khác của Liên bang.

 Công nhân có quyền nhận thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và tự do của mình từ các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương và từ cán bộ, công chức có thẩm quyền theo trình tự được pháp luật Liên bang Nga quy định. Tổ chức có quyền nhận từ cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của mình cũng như các thông tin cần thiết khác có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của mình.

 Không được hạn chế tiếp cận đối với: các văn bản pháp luật liên quan đến quyền, tự do và nghĩa vụ của con người và công dân và các văn bản pháp luật quy định địa vị pháp lý của các tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, các cơ quan chính quyền địa phương; thông tin về trạng thái môi trường; thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương và thông tin về sử dụng ngân sách (trừ các tin tức về bí mật quốc gia hoặc bí mật công vụ); thông tin được lưu trữ trong các thư viện công cộng, bảo tàng, kho lưu trữ và trong các hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước, các cơ quan chính quyền địa phương và của các hệ thống thông tin khác được thiết lập nhằm phục vụ công dân và tổ chức; các thông tin khác mà pháp luật liên bang không hạn chế tiếp cận.

 Luật cũng quy định việc hạn chế tiếp cận thông tin nhằm mục đích bảo vệ chế độ Hiến pháp, đạo đức, sức khoẻ, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, bảo đảm nền quốc phòng đất nước và an ninh quốc gia.

8. Ba Lan

    Luật về tiếp cận thông tin công của Ba Lan được thông qua năm 2001. Luật quy định tất cả những thông tin về các vấn đề chung là các thông tin công, và được công khai theo các nguyên tắc và điều khoản ghi trong Luật. Điều 4 quy định công khai các thông tin công cho mọi người được biết là trách nhiệm của các cơ quan công quyền cũng như các cơ quan tổ chức khác thực hiện các chức năng công, đặc biệt: các cơ quan của cơ quan công quyền; các cơ quan kinh tế và chính quyền của địa phương; các pháp nhân đại diện cho Bộ Tài chính được quy định theo các điều khoản riêng biệt; các thực thể đại diện cho pháp nhân của nhà nước hoặc pháp nhân của chính quyền địa phương và chủ thể đại diện cho đơn vị của tổ chức nhà nước hoặc đơn vị của chính quyền địa phương; các chủ thể đại diện cho người khác hoặc đơn vị tổ chức khác thực hiện các chức năng công cộng, phân bổ tài sản công cũng như các chủ thể mà trong đó Bộ Tài chính, đơn vị của chính quyền địa phương hoặc tổ chức kinh tế hoặc chuyên nghiệp của địa phương giữ vị trí quan trọng trong việc hiểu các điều khoản về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. Công khai các thông tin công là trách nhiệm của các đơn vị đại diện tổ chức công đoàn và nhân viên của các tổ chức theo quy định ở Đạo luật ngày 6 tháng Bảy năm 2001 về Uỷ ban Ba bên về các vấn đề kinh tế - xã hội và Uỷ ban về đối thoại xã hội và các đảng phái chính trị. 

 Điều 6 của Luật quy định những thông tin phải được công khai, đặc biệt: chính sách đối nội, đối ngoại; quy chế pháp lý và hình thức các văn bản luật; kê khai tài sản của các cơ quan, tổ chức được luật quy định; tài sản các cơ quan tổ chức nói trên chi dùng; nguyên tắc về phân công nhiệm vụ cho các chủ thể; tài liệu công; tài sản công  bao gồm: tài sản của Bộ tài chính và các pháp nhân của nhà nước, các tài sản khác thuộc về quốc gia và các khoản nợ quốc gia, tài sản của các đơn vị trực thuộc chính quyền địa phương, các khu kinh tế địa phương, cũng như tài sản của pháp nhân thuộc về chính quyền địa phương; tài sản của các thực thể theo quy định của luật có được từ việc bán tài sản được quy định trong luật cũng như lợi tức có được từ tài sản này; nguồn lợi tức và thua lỗ từ các công ty thương mại trong đó các thực thể được quy định trong luật giữ vị trí quan trọng trong việc diễn giải các điều khoản của Luật về các công ty thương mại về việc thất thoát thu nhập và phương pháp thu bù lỗ; nợ công; cứu trợ xã hội; nghĩa vụ công. Việc tiếp cận các thông tin công được miễn phí.

 Điều 13 của Luật quy định việc cung cấp thông tin công dựa trên yêu cầu phải được làm không được chậm trễ, và không vượt quá 14 ngày kể từ ngày nộp đơn yeu cầu. Nếu thông tin công không thể đưa ra trong thời hạn trên, trong thời gian đó, chủ thể có trách nhiệm về việc cung cấp thông tin có nghĩa vụ phải thông báo lý do chậm trễ và ngày mà thông tin sẽ được đưa ra, không muộn hơn 2 tháng kể từ ngày nộp đơn yêu cầu.

 Luật cũng quy định phải công khai các cuộc họp của các cơ quan công quyền được bầu ra trong tổng tuyển cử.

9.Thổ Nhĩ Kỳ

   Luật về quyền được thông tin ban hành năm 2003 nêu rõ mục tiêu của Luật là quy định các thủ tục và cơ sở của quyền được thông tin dựa trên nguyên tắc bình đẳng, toàn vẹn, và cởi mở là những điều kiện cần thiết của một chính phủ dân chủ và minh bạch.

 Luật có định nghĩa về “thông tin” được dùng trong Luật, theo đó thông tin là tất cả mọi dữ liệu nằm trong phạm vi của Luật này và được ghi trong hồ sơ lưu của các cơ quan. Còn “tài liệu” thuộc phạm vi của Luật được định nghĩa tất cả các tài liệu, sách, tạp chí, bản giới thiệu, túi nhỏ, thư, phần mềm, hướng dẫn, bản vẽ, kế hoạch, phim ,ảnh, băng video và cát-sét, bản đồ các tổ chức, dạng viết, in hay sao; các thông tin, tin tức và các dữ liệu khác được ghi âm, thu hình và lưu trữ dưới dạng điện tử.

 Tất cả mọi người đều có quyền được thông tin. Những người nước ngoài sinh sống ở Thổ Nhĩ Kỳ và các pháp nhân nước ngoài hoạt động ở Thổ Nhĩ Kỳ có quyền được thông tin theo Luật này với điều kiện là thông tin họ yêu cầu phải liên quan đến họ hoặc lĩnh vực họ hoạt động và trên cơ sở của nguyên tắc có đi, có lại (Điều 4).

 Theo Điều 8, các thông tin và tài liệu được công bố và xuất bản cho công chúng qua ấn bản, bản giới thiệu, tuyên bố hoặc các phương tiện tương tự khác thì sẽ không cần phải nộp đơn xin tiếp cận. Tuy nhiên người nộp đơn sẽ được thông báo về ngày, phương thức và địa điểm công bố và xuất bản thông tin hay tài liệu đó.

 Phần IV quy định các hạn chế đối với quyền tiếp cận thông tin khá cụ thể và chi tiết. Các thông tin và tài liệu mà việc tiết lộ có thể gây nguy hại đến lợi ích kinh tế  của quốc gia hoặc gây ra cạnh tranh, hoặc làm giàu không công bằng sẽ nằm ngoài phạm vi của Luật này. Các thông tin và tài liệu nói về nghĩa vụ và hoạt động của các cơ sở tình báo dân sự và quân sự đều nằm ngoài phạm vi của Luật này. Tuy nhiên các thông tin và tài liệu có thể ảnh hưởng đến danh dự nghề nghiệp và cuộc sống làm việc của cá nhân đều nằm trong phạm vi quyền tiếp cận thông tin…Điều 28 quy định các thông tin và tài liệu không còn được xếp loại bởi các quyết định về pháp lý hay hành chính được công khai cho các cá nhân nộp đơn xin tiếp cận, với điều kiện là chúng nằm trong phạm vi các ngoại lệ do Luật này đề ra. 

10. Hà Lan

   Luật năm 1991 quy định về quản lý việc tiếp cận chúng đối với các thông tin của Chính phủ quy định cơ quan hành chính nhà nước, trong phạm vi trách nhiệm của mình phải công khai thông tin theo Luật này, nhưng không trái với các quy định ở các Luật khác.

 Tất cả mọi người đều có thể nộp đơn xin tiếp cận các thông tin có trong tài liệu về các vấn đề hành chính, cho các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, dịch vụ hoặc công ty có trách nhiệm của một cơ quan hành chính.

 Các cơ quan hành chính trực tiếp liên quan phải cung cấp thông tin về chính sách, quá trình soạn thảo và thực thi, có trong hồ sơ của cơ quan mình, nếu những quy định về thông tin đó vì lợi ích của quản lý dân chủ và tính hiệu quả. Cơ quan hành chính phải bảo đảm thông tin được cung cấp là toàn diện và những cá nhân hay tổ chức liên quan có thể tiếp cận được với thời gian thích hợp cho phép họ bày tỏ công khai quan điểm của mình đối với cơ quan hành chính biết ở thời điểm thích hợp. Các khuyến nghị về chính sách của những uỷ ban tư vấn độc lập cùng với yêu cầu tư vấn và đề nghị sẽ được công khai khi cần thiết cùng với lời giải thích.

 Điều 10 quy định về trường hợp ngoại lệ. Điều 11 quy định có thể tiếp cận các tài liệu soạn thảo nhằm mục đích tham khảo nội bộ nhưng không thể tiết lộ ý kiến cá nhân đối với chính sách trừ khi vì lợi ích của quản lý dân chủ và hoạt động hiệu quả. Nếu những người bày tỏ ý kiến hoặc ủng hộ ý kiến đồng ý thì thông tin về ý kiến cá nhân có thể được công bố và có thể nhận ra ý kiến đó là của cá nhân.

11. Bulgary

   Luật tiếp cận thông tin công Bulgary ban hành năm 2000, đã sửa đổi một số lần. Luật có một số đặc điểm tích cực bao gồm: cách thức tiếp cận tiến  bộ và có cải cách đối với việc chủ động cung cấp thông tin và đảm bảo quy trình thủ tục đúng đắn. Bên cạnh đó một số khiếm khuyết là thiếu cơ chế hoàn chỉnh về các ngoại lệ và các thiếu sót khác là thiếu quy định về thủ tục hành chính trong việc giải quyết khiếu nại và các biện pháp thúc đẩy rất hạn chế quy định trong luật.

  Điều 3 quy định hai loại tổ chức công thuộc đối tượng điều chỉnh của luật. Loại thứ nhất là cơ quan nhà nước và chính quyền tự quản địa phương và loại thứ hai là các cơ quan/tổ chức được quy định  tại luật công khác, các cá nhân và pháp nhân được hưởng ngân sách nhà nước, truyền thông đại chúng.

 Theo Luật, thông tin công có nghĩa là các loại thông tin liên quan đến đời sống xã hội ở Bulgary, tạo cơ hội cho công dân có chính kiến đối với các hoạt động của mình. Những người có quyền tiếp cận thông tin công bao gồm công dân và người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ và các pháp nhân.

 Trong trường hợp người nộp yêu cầu không miêu tả chính xác thông tin tìm kiếm, thì người nộp đơn có thể làm rõ thêm trong thời hạn 30 ngày, thời gian này không được tính vào thời hạn cung cấp câu trả lời. Thời hạn để trả lời là 14 ngày trừ khi yêu cầu một số lượng lớn văn bản và cần nhiều thời gian để trả lời, thời gian để trả lời có thể được gia hạn đến 10 ngày.

 Luật quy định việc cung cấp thông tin được thực hiện dưới 04 hình thức, gồm có ghi âm, giải thích miệng, bản sao bằng giấy, và hình thức bản sao khác. Hai hình thức đầu sẽ được cung cấp miễn phí, hai hình thức sau sẽ được tính phí theo quy định của Bộ Tài chính và không được vượt quá chi phí thực tế. Thông tư năm 2001 của Bộ Tài chính quy định chỉ tính chi phí vật liệu mà không tính chi phí thù lao cho cán bộ công nhân viên nhà nước.

 Luật quy định chặt chẽ nghĩa vụ công bố. Cơ quan/tổ chức phải công bố những thông tin chính thức trong các văn bản chính thứuc và danh mục các thông tin mà pháp luật yêu cầu phải công bố . Cơ quan/tổ chức phải phổ biến thông tin về hoạt động của họ dưới hình thức công bố hoặc thông báo. Điều 14(2) yêu cầu các cơ quan, tổ chức công chủ động công bố thông tin mà những thông tin này có thể ngăn chặn được các nguy cơ ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khoẻ, an ninh và tài sản, hoặc đính chính những thông tin đã được phổ biến trước đây nhưng không chính xác hoặc được luật khác yêu cầu cần công bố. Điều này cũng được gọi là phổ biến thông tin có thể trở thành lợi ích công cộng.

 Luật của Bulgary không giống như hầu hết các luật về quyền đối với thông tin, không có danh mục các trường hợp ngoại lệ. Thay thế vào đó, thông tin được phân loại là bí mật trong các luật khác và không nằm trong khái niệm thông tin công không bị hạn chế tiếp cận. Luật bảo vệ thông tin được phân loại đã quy định thời hạn phụ thuộc vào mức độ phân loại, có thể là 2, 5, 15 năm.

 Phạm vi thông tin ngoại lệ là khá rộng, hầu hết các ngoại lệ đều dựa trên các ngoại lệ trong các luật khác. Trong một số trường hợp, các toà án sẽ hạn chế phạm vi của ngoại lệ, mặc dù luật quy định rộng hơn, ví dụ có liên quan đến bảo vệ lợi ích của bên thứ ba và bí mật thương mại.

 Luật của Bulgary không quy định việc khiếu nại nội bộ hoặc hành chính. Người nộp đơn bị từ chối thì phải khởi kiện để giải quyết.

12.Albani

   Luật về Quyền tiếp cận thông tin trong các tài liệu chính thức ban hành năm 1999. Điều 3 luật quy định tất cả mọi người, nếu có yêu cầu, đều được tiếp cận thông tin ở tài liệu chính thức mà không có nghĩa vụ phải giải thích về lý do của yêu cầu đó. Các cơ quan công quyền sẽ cung cấp bất cứ thông tin nào liên quan đến tài liệu chính thức hoặc những thông tin an toàn một khi Luật có quy định khác. Thông tin ở tài liệu chính thức đã được cung cấp cho một người thì sẽ không thể bị từ chối cung cấp cho người khác, loại trừ trường hợp thông tin này có chứa dữ liệu cá nhân về bản thân người đã được cung cấp thông tin trước đó.

 Cơ quan công quyền được định nghĩa là các cơ quan hành chính công, tổ chức công, các đơn vị và cá nhân cũng như các thực thể khác theo quy định của Luật thi hành chức năng công cộng và/hoặc các dịch vụ công.

 Điều 5 luật quy định mỗi người đều có quyền được thông tin về dữ liệu cá nhân của những người thi hành chức năng nhà nước hoặc dịch vụ công cộng được lưu trữ trong tài liệu chính thức, chừng nào những dữ liệu đó có liên quan đến những phẩm chất do luật quy định hoặc những hành vi hợp pháp để thực hiện các nghĩa vụ của họ.

 Luật không quy định cơ quan độc lập giám sát, nhưng có quy định về kháng cáo hành chính và kháng cáo ở toà án, cũng như yêu cầu bồi thường.

2.2.13. Slovenia

    Luật tiếp cận thông tin của Slovenia được ban hành năm 2003, sửa đổi năm 2005. Theo luật, cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ở các cấp từ trung ương , khu vực tới địa phương, các cơ quan công quyền, cơ quan, quỹ công, các cơ quan được quy định trong luật công, các cơ quan được sử dụng quyền lực công và các đơn vị hợp đồng thực hiện cung ứng dịch vụ công. Điều 5 (1 )quy định mọi cá nhân và pháp nhân đều có quyền tiếp cận một cách tự do các thông tin công. Điều 5(3) quy định bất kỳ người yêu cầu nào đều có quyền bình đẳng và phải đáp ứng các điều kiện ngang nhau trong việc sử dụng lại thông tin cho cả mục đích thương mại và phi thương mại. Việc sử dụng lại thông tin được định nghĩa là việc cá nhân hoặc pháp nhân sử dụng thông tin, tài liệu do cơ quan công nắm giữ phục vụ mục đích thương mại hoặc phi thương mại nhưng mục đích này khác với mục đích ban đầu khi tài liệu, thông tin được tạo ra là nhằm phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ công.

 Luật quy định các trường hợp ngoại lệ tại Khoản 1 Điều 6, tuy nhiên, yêu cầu tiếp cận thông tin được đáp ứng và không bị coi là trái  quy định tại khoản trên trong trường hợp việc công bố thông tin yêu cầu đem lại lợi ích cho cộng đồng lớn hơn so với lợi ích công cộng hoặc lợi ích của người nào đó nếu như thông tin không được công bố, trừ một số trường hợp.Yêu cầu thông tin cũng được đáp ứng và không bị coi là trái quy định khoản trên nếu thông qua việc xem xét yêu cầu cho thấy thông tin được yêu cầu liên quan đến việc sử dụng các quỹ công, liên quan đến việc thực thi chức năng công…hay liên quan tới tình trạng suy thoái môi trường theo quy định của luật pháp. Trường hợp người yêu cầu cho rằng thông tin được xếp vào diện mật trái với quy định của Luật Bảo mật dữ liệu, người yêu cầu có quyền đề nghị huỷ bỏ chế độ mật đối với thông tin.

 Luật thành lập cơ quan độc lập là Cao uỷ viên về tiếp cận thông tin có thẩm quyền xem xét và quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến việc từ chối đáp ứng yêu cầu hoặc không chấp nhận yêu cầu. Với vai trò chính là cơ quan giám sát, quyết định của cao uỷ viên là quyết định cuối cùng, nhưng có thể khiếu  kiện thêm bằng con đường toà án.

 Trong khi đó Ombudsman có chức năng giám sát chung, và cùng với Bộ Thông tin thực hiện một số chức năng nhằm tăng cường và đẩy mạnh các biện pháp khai thác thông tin có hiệu quả.

2.2.2  Luật tiếp cận thông tin một số nước Châu Mỹ - La tin

1. Hoa Kỳ

   Hiến pháp Mỹ đưa ra sự bảo hộ mạnh mẽ quyền tự do biểu đạt, cấm Quốc hội thông qua bất kỳ đạo luật nào nhằm hạn chế quyền tự do ngôn hoặc quyền tự do báo chí. Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận quyền đối với thông tin sau Thuỵ Điển, Colombia và Phần Lan. Năm 1966  Luật về quyền tự do thông tin được thông qua, được sửa đổi một số lần và gần nhất là năm 2007. Môi trường văn hoá mở đã được tiếp thêm năng lượng còn bởi pháp luật liên quan đến quyền tố cáo và Luật về đời tư.

 Luật về quyền tự do thông tin của Mỹ có những điểm mạnh và điểm hạn chế. Luật bao gồm các điều  khoản hợp lý về phí, quy định cởi mở về thông tin điện tử và một số biện pháp thúc đẩy tự do thông tin được đưa ra trong thời gian gần đây. Điểm hạn chế của luật là thiếu quy định về bộ máy hành chính độc lập để giám sát cơ chế cung cấp thông tin.

  Luật Chính phủ mở ( Open Government Act) quy định về quyền được thông tin là một quyền cơ bản của con người và công dân. Thông tin được tiếp cận theo quy định của luật này được Toà án tối cao Mỹ giải thích  bao gồm thông tin/tài liệu/ghi chép được tạo ra hoặc nắm giữ bởi một cơ quan công quyền nào đó và thuộc về sự kiểm soát của cơ quan đó mà có đơn yêu cầu được tiếp cận. Các cơ quan công quyền có nghĩa vụ phải công khai thông tin bao gồm bất cứ cơ quan hành pháp, cơ quan quân đội, các tập đoàn chịu sự kiểm soát của Chính phủ và những cơ quan/tổ chức khác được thành lập bởi cơ quan hành pháp của Chính phủ (bao gồm cả văn phòng hành pháp của Tổng thống) hoặc bất kỳ các thể chế độc lập khác. Luật không điều chỉnh các cơ quan lập pháp, tư pháp và một số cơ quan khác[25].

 Bất kỳ người nào cũng có thể yêu cầu được tiếp cận thông tin. Nội dung sửa đổi Luật gần đây yêu cầu cơ quan công quyền phải xây dựng cơ sở dữ liệu cho việc yêu cầu và cung cấp cho người yêu cầu thông tin  trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày gửi đơn yêu cầu.

   Luật không áp đặt nghĩa vụ cho cơ quan công quyền trong việc cung cấp hỗ trợ người yêu cầu. Lệnh số 13392 của cơ quan hành pháp thông qua tháng 12-2005 đã quy định nghĩa vụ cho cơ quan công quyền trong việc trả lời các yêu cầu một cách hợp lý. Luật quy định chi tiết về thời hạn, thông thường việc yêu cầu sẽ được trả lời trong thời hạn 20 ngày. Luật không quy định việc chuyển giao yêu cầu tới các cơ quan công quyền khác cũng như sự tham vấn với bên thứ ba. Tuy nhiên Lệnh 12600 đã quy định  các cơ quan công quyền phải xây dựng thủ tục tham vấn với bên thứ ba khi cơ quan này được yêu cầu phải công khai thông tin thương mại bí mật.

 Luật quy định hai nghĩa vụ khác nhau trong việc tạo cơ chế sẵn có của thông tin cho công chúng. Mỗi cơ quan có trách nhiệm công khai: bản mô tả về tổ chức trung tâm và lĩnh vực của cơ quan/tổ chức; cách thức mà theo đó thông tin có thể được yêu cầu cung cấp/công khai; quy định về thủ tục và sự mô tả tất cả các biểu mẫu và giấy tờ của cơ quan/tổ chức sản xuất; tuyên bố chính sách và các quy định pháp luật về tính khả thi chung; và bất kỳ có sự thay đổi về các nội dung nêu trên. Luật cũng yêu cầu các cơ quan công quyền có trách nhiệm, phù hợp với quy định về công khai, tạo sự sẵn có của thông tin cho việc điều tra công cộng và sao chép thông tin trừ phi thông tin này sẽ được công khai ngay lập tức và là loại thông tin dành để bán. Các thông tin tạo lập sau ngày 1-12-1996 phải có sẵn trên các phương tiện điện tử. Thông tin thuộc phạm vi của quy định này gồm cả những  tuyên bố về chính sách và sự giải thích và hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan hành chính.

 Chế độ ngoại lệ được đưa ra một cách rõ ràng hợp lý thông qua việc giải thích tư pháp. Ngoại lệ đầu tiên gồm các thông tin được đánh giá là bí mật, liên quan đến việc phân loại thông tin và bất kỳ thông tin nào không thuộc trường hợp miễn trừ thì buộc phải công khai. Ngoại lệ thứ hai liên quan đến tài liệu mà có liên quan đến các quy tắc nội bộ  của cơ quan/tổ chức đó. Ngoại lệ khác bao gồm liên quan đến các điều khoản bảo mật của các Luật khác, liên quan bí mật thương mại và các thông tin thương mại, liên quan các file tài liệu và việc công khai các file này có thể sẽ gây ra sự xâm lấn một cách không bảo đảm thông tin bảo mật cá nhân, liên quan đến phạm vi/lĩnh vực tài liệu được tập hợp với mục đích thi hành pháp luật. Ngoài trường hợp ngoại lệ thứ nhất, tất cả các thông tin này đều được đưa vào chương trình thử nghiệm sự nguy hại của việc công khai. Ngoại lệ thứ tám liên quan đến những bản báo cáo cụ thể do cơ quan công quyền chuẩn bị để thực hiện trách nhiệm điều tiết các thể chế tài chính, nhưng ngoại lệ này là đối tượng cho các cuộc thử nghiệm. Ngoại lệ cuối cùng liên quan đến thông tin về địa lý và địa chất.

 Luật quy định quyền khiếu nại nhưng không có quy định về việc khiếu nại ở cấp hành chính độc lập. Sửa đổi gần đây là sẽ thành lập bộ phận về dịch vụ thông tin của văn phòng Chính phủ thuộc cơ quan lưu trữu quốc gia, bộ phận này ngoài các chức năng khác còn có nhiệm vụ đưa ra các kiến nghị đối với việc cải cách hệ thống và là người trung gian giải quyết tranh chấp giữa người yêu cầu và cơ quan công quyền nhằm giảm thiểu các vụ kiện về việc cung cấp/công khai thông tin (Điều 10, Luật Chính phủ mở).

 Nếu hệ thống khiếu nại nội bộ không hiệu quả, người khiếu nại có thể gửi đơn lên toà án.

2. Canada

   Luật tiếp cận thông tin của Canada ban hành năm 1985, mở rộng các luật hiện hành của Canada về tiếp cận thông tin. Luật quy định các thông tin  của chính phủ phải được công khai cho mọi người biết  và những ngoại lệ cần thiết về quyền tiếp cận cần phải được hạn chế, cụ thể và các quyết định về việc công khai thông tin của chính phủ cần phải được chính phủ xem xét lại một cách độc lập.

   Yêu cầu tiếp cận tài liệu  phải được làm dưới dạng văn bản và gửi tới cơ quan chính phủ có quyền kiểm soát đối với tài liệu. và phải cung cấp thông tin chi tiết đủ để một nhân viên có kinh nghiệm của cơ quan với một cố gắng hợp lý cũng có thể tìm ra được tài liệu.

 Trong vòng 30 ngày, người đứng đầu cơ quan chính phủ tiếp nhận yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho người có yêu cầu, xem có được tiếp cận tài liệu hay không hoặc là nếu người đó được phép tiếp cận một phần văn bản. Nếu được phép tiếp cận thì phải cho phép người yêu cầu tiếp cận tài liệu hoặc một phần tài liệu. Trong một số trường hợp, người đứng đầu cơ quan chính phủ có thể gia hạn hợp lý. Nếu từ chối thì  người đứng đầu chính phủ phải nói rõ trong thông báo.

 Luật quy định chi tiết các ngoại lệ không được tiếp cận từ Mục 13 đến Mục 24. Theo Mục 25, không kể các quy định khác của Luật, trong trường hợp có yêu cầu về tiếp cận tài liệu đối với một cơ quan chính phủ mà lãnh đạo cơ quan này được uỷ quyền từ chối bởi lý do thông tin hay các lý do khác của tài liệu, thì người đứng đầu cơ quan chính phủ có thể tiết lộ bất cứ phần nào của tài liệu mà không có hoặc có thể phân tách ra khỏi các phần của tài liệu có chứa các thông tin hoặc tài liệu đã nêu.

 Luật cũng quy định can thiệp của bên thứ ba. Trường hợp tài liệu được yêu cầu cung cấp có liên quan đến bên thứ ba, thì người đứng đầu cơ quan chính phủ dự định tiết lộ tài liệu theo yêu cầu phải gửi thông báo bằng văn bản trong vòng 30 ngày từ ngày nhận yêu câu đến bên thứ ba. Trong vòng 20 ngày kể từ ngày thông báo, bên thứ ba được phép cử đại diện đến gặp người đứng đầu cơ quan chính phủ nhận yêu cầu cho ý kiến, và trong vòng 30 ngày sau thông báo, nếu như bên thứ ba đã cử đại diện đến, thì phải ra quyết định và thông báo cho bên thứ ba biết.

 Luật quy định Bộ trưởng được chỉ định có trách nhiệm công bố theo định kỳ không ít hơn 1 lần/năm những nội dung sau: giới thiệu tổ chức, trách nhiệm các cơ quan chính phủ, tất cả các loại tài liệu dưới sự quản lý của mỗi cơ quan đủ chi tiết để phục vụ cho thi hành quyền tiếp cận theo Luật, tất cả các hướng dẫn của nhân viên các cơ quan chính phủ trong việc quản lý và tiến hành các chương trình hay hoạt động của các cơ quan chính phủ, chức vụ và địa chỉ của viên chức mỗi một cơ quan tiếp nhận các yêu cầu xin tiếp cận tài liệu. Bộ trưởng được chỉ định có trách nhiệm công bố ít nhất hai lần/năm bản tin về các thông tin chứa trong thông báo được công bố nói trên cập nhật và cung cấp cho công chúng các thông tin hữu ích khác liên quan đến việc thực thi luật.

 Luật thiết lập cơ chế Uỷ viên thông tin, quan chức làm việc độc lập có quyền lực tương đương Thứ trưởng có trách nhiệm giải quyết khiếu nại và các quyền khác.

3.Mexico

    Sau Thụy Điển, Mexico là nước bảo đảm theo Hiến pháp chi tiết và cơ bản nhất về quyền thông tin. Hiến pháp hiện hành quy định tất cả những thông tin được công khai, chỉ tuỳ thuộc vào những hạn chế tạm thời về việc tiếp cận vì lý do lợi ích nhà nước được pháp luật quy định, cho dù thông tin cá nhân được bảo vệ. Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, Luật về sự minh bạch của liên bang và tiếp cận thông tin quản lý Nhà nước được thông qua năm 2002 để ngăn chặn tham nhũng và thúc đẩy nền dân chủ ở Mexico. Một quy định của Uỷ ban Thông tin  thông qua năm 2003 đề cập  đến một loạt vấn đề.Tất cả 31 bang, cũng như quận của liên bang (thủ đô) cũng thông qua các đạo luật về quyền thông tin.

 Luật quy định tất cả thông tin do chính phủ nắm giữ có thể được các cá nhân tiếp cận. Mục tiêu của luật được quy định bao gồm tiếp cận thông tin thông qua các thủ tục đơn giản, nhanh gọn, thúc đẩy nền hành chính công minh bạch, bảo vệ thông tin cá nhân, thúc đẩy trách nhiệm nhà nước, cải thiện việc quản lý hồ sơ và góp phần vào quá trình dân chủ hoá và nguyên tắc pháp quyền ở Mexico. Điều 6 của luật quy định khi giải thích Luật, nguyên tắc minh bạch của các cơ quan nhà nước phải được đề cao. Luật phải được giải thích phù hợp với Hiến pháp, Tuyên ngôn thế giới về các quyền con người và một số điều ước quốc tế, kể cả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, điều ước cơ bản của Liên Hợp quốc bảo đảm quyền tự do biểu đạt.

 Tất cả những chủ thể bị ràng buộc bởi Luật bao gồm: các cơ quan hành pháp liên bang và cơ quan nhà nước liên bang; các cơ quan lập pháp liên bang, bao gồm Hạ viện, Thượng viện, các uỷ ban và các cơ quan khác của Nghị viện; các toà án liên bang và Hội đồng Toà án liên bang; các cơ quan hiến định; các toà án hành chính liên bang và các cơ quan liên bang khác. Những cơ quan hiến định được xác định thêm bao gồm cả các cơ quan như Cơ quan bầu cử liên bang, Uỷ ban quốc gia về các quyền con người, Ngân hàng Mexico, các trường đại học và các cơ quan khác được Hiến pháp quy định. Luật quy định một tập hợp nghĩa vụ chặt chẽ hơn đối với “các cơ quan và chủ thể” (cơ bản là nhánh hành pháp của chính phủ) và những nghĩa vụ ít chi tiết hơn đối với các cơ quan nhà nước khác.

 Bất kỳ cá nhân nào cũng có thể đưa ra yêu cầu tiếp cận thông tin với bộ phận liên lạc mà tất cả các cơ quan nhà nước phải thiết lập. Việc thông báo quyết định đối với yêu cầu phải được đưa ra sớm nhất có thể nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng phải trong thời hạn 20 ngày làm việc và sau đó thông tin phải được cung cấp trong thời hạn 10 ngày làm việc, khi người yêu cầu đã thanh toán xong các chi phí. Việc không đưa ra quyết định đúng thời hạn sẽ được hiểu là việc chấp nhận yêu cầu, và cơ quan sau đó sẽ có nghĩa vụ cung cấp thông tin trong thời hạn 10 ngày sau đó, trừ  khi Uỷ ban Thông tin quyết định rằng thông tin là bí mật. Khi thông tin được cho là đã được phân loại hay bí mật, Uỷ ban Thông tin  -một đơn vị giám sát “các cơ quan và chủ thể” – phải được thông báo về việc này ngay lập tức, cùng với những lý do phân loại, để mà họ có thể quyết định có phê chuẩn việc phân loại hay huỷ bỏ nó và đảm bảo việc tiếp cận thông tin. Khi yêu cầu được thỏa mãn, người yêu cầu phải được thông báo về chi phí và hình thức tiếp cận. Khi yêu cầu bị từ chối và điều này đã được khẳng định bởi Uỷ ban, thì người yêu cầu phải được thông báo về điều này trong thời hạn quy định, cùng với những lý do từ chối và cách thức để thực hiện khiếu nại quyết định. Phí để đạt đuợc tiếp cận thông tin phải được quy định trong Luật Nghĩa vụ liên bang, không vượt quá chi phí của các tài liệu đuợc sử dụng để tạo ra thông tin và các chi chí gửi tài liệu. Chi phí cho việc tìm kiếm thông tin và chuẩn bị thông tin không được tính. Việc tiếp cận dữ liệu cá nhân được miễn phí, cho dù chi phí có thể được tính vào chi phí gửi thông tin này.  Quy trình trên được áp dụng đối với “các cơ quan và chủ thể”, nhưng một nỗ lực chung được thể hiện ở Điều 61 đòi hỏi các cơ quan nhà nước khác phải giải quyết các yêu cầu theo cách thức tương tự.

 Theo Điều 47, các yêu cầu thông tin và trả lời thông tin phải được công bố. Trong thực tế quá trình giải quyết yêu cầu có thể được xử lý bằng điện tử thông qua Hệ thống yêu cầu Thông tin (SISI) có trang web riêng được thiết  kế riêng cho việc xử lý yêu cầu.

 Điều 7 của Luật quy định một nghĩa vụ rộng về việc công bố, tuỳ thuộc vào các ngoại lệ. Các cơ quan nhà nước căn cứ các quy định được công bố bởi Uỷ ban Thông tin hoặc những cơ quan giám sát khác có liên quan phải công bố 17 nhóm thông tin theo cách thức  có thể dễ tiếp cận và lĩnh hội được. Đặc biệt, Điều 12 quy dịnh các cơ quan nhà nước phải công bố thông tin liên quan đến số tiền và những người nhận từ các nguồn của nhà nước mà các cơ quan đó chịu trách nhiệm. Theo Điều 8, nhánh tư pháp phải công bố tất cả các quyết định, cho dù các cá nhân có thể phản đối việc công bố thông tin của mình. “Các cơ quan và chủ thể” phải công bố tất cả các quyết định và những thoả thuận hành chính chính thức 20 ngày trước khi thông qua chúng, trừ khi điều này có thể không đưa đến thành công. Các báo cáo của các đảng phái và các nhóm chính trị gửi tới Viện Bầu cử liên bang, cũng như các báo cáo kiểm toán chính thức của các cơ quan này, phải được công bố ngay khi hoàn tất.

 Luật bao gồm các ngoại lệ hợp lý rõ ràng, được thực hiện thông qua hệ thống phân loại. Uỷ ban Thông tin (hoặc cơ quan giám sát liên quan đối vơi cơ quan nhà nước không thuộc phạm vi của nó) có nhiệm vụ quy định tiêu chí phân loại và tiết lộ thông tin, cũng như việc giám sát hệ thống, trong khi những người đứng đầu các đơn vị hành chính, được xác định là bộ phận của cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin, chịu trách nhiệm phân loại thực tế. Uỷ ban Thông tin bất cứ khi nào có thể tiếp cận thông tin đã được phân loại để biết rõ thông tin có được phân loại phù hợp hay không. Cấm việc phân loại thông tin khi việc điều tra các vi phạm nghiêm trọng về các quyền con người hay tội phạm chống nhân loại bị đe doạ. Điều 43 quy định về cung cấp từng phần thông tin có thể chia tách được. Luật cũng quy định về giới hạn thời gian phân loại 12 năm. Thông tin được tiết lộ khi có những căn cứ cho việc phân loại không còn tồn tại hoặc khi thời hạn phân loại đã hết.

Luật cũng giành hai Điều 13, 14 quy định những trường hợp ngoại lệ và hai Điều 18 và 19 quy định việc bảo vệ thông tin cá nhân.

 Về việc khiếu nại đối với các cơ quan, luật quy định khiếu nại gửi lên Uỷ ban Thông tin và từ đó đến các toà án. Một uỷ viên Uỷ ban phải điều tra việc khiếu nại và báo cáo cho tất cả các uỷ viên khác trong thời hạn 30 ngày làm việc, và quyết định được đưa ra trong thời hạn 20 ngày tiếp theo, cho dù giới hạn thời gian này có thể được tăng gấp đôi khi có lý do rõ ràng. Khi một cơ quan không trả lời đúng thời hạn, Uỷ ban sẽ giải quyết khiếu nại.

 Uỷ ban Thông tin là một cơ quan nhà nước độc lập chịu trách nhiệm thúc đẩy quyền được thông tin. Uỷ ban có thể chấp nhận hoặc từ chối khiếu nại, hoặc sửa đổi khiếu nại, và việc quyết định sẽ bao hàm thời hạn để tuân thủ. Quyết định là cuối cùng đối với các cơ quan nhưng người yêu cầu có thể khiếu nại đến các toà án liên bang.

 Luật cũng quy định về chế tài đối với các công chức không tuân thủ pháp luật.

4. Jamaica

    Luật tiếp cận thông tin của Jamaica ban hành năm 2002. Mục đích của luật quy định tại Mục 2, là củng cố và tăng cường hiệu lực của các nguyên tắc cơ bản về cơ chế dân chủ theo hiến pháp, đặc biệt là trách nhiệm của chính phủ; sự minh bạch; sự tham gia của công chúng trong việc hoạch định chính sách quốc gia. Quyền tiếp cận được áp dụng với các tài liệu, thông tin. Tài liệu được định nghĩa theo nghĩa rộng bao gồm mọi thứ dưới dạng văn bản, bản đồ, kế hoạch, biểu đồ hay bản vẽ, ảnh, thiết bị ghi âm, ghi hình hoặc số liệu khác mà có thể được tạo ra từ thiết bị đó. Có hai giới hạn, thứ nhất, tài liệu phải gắn với chức năng của cơ quan nhà nước nắm giữ tài liệu đó và thứ hai, luật không áp dụng đối với những tài liệu đã có hơn 30 năm. Người chịu trách nhiệm về luật này là Bộ trưởng Thông tin, tuỳ thuộc vào quyết định cấm, có thể mở rộng việc áp dụng trở về trước vào thời điểm các tài liệu được tạo lập và nắm giữ bởi cơ quan nhà nước đã trên 30 năm. Cơ quan nhà nước được xác định là các bộ, ban, cơ quan hành pháp hoặc cơ quan khác của chính phủ, cơ quan do pháp luật quy định, hội đồng khu vực, hội đồng thành phố Kingston và Tập đoàn St.Andrew và các công ty của chính phủ mà chính phủ hay một cơ quan của chính phủ có từ 50% cổ phần trở lên. Luật cho phép Bộ trưởng Thông tin mở rộng áp dụng đối với các công ty, và cả công ty tư nhân mà chính phủ có ảnh hưởng và công ty tư nhân cung cấp các dịch vụ công cần thiết. Nhưng luật cũng trao cho bộ trưởng hạn chế áp dụng luật với các công ty của chính phủ và không áp dụng luật với các cơ quan nhà nước được thành lập theo pháp luật mà bộ trưởng cho là thích hợp. Điều này có thể dẫn tới loại trừ các cơ quan ra khỏi phạm vi của Luật vì lý do chính trị.

 Mục 7 (2) quy định bất kỳ người nào cũng có thể được tiếp cận tài liệu văn bản bằng điện thoại hay phương tiện điện tử khác. Không được đòi hỏi lý do khi yêu cầu thông tin.

Mục 4 quy định việc công bố trước thông tin được liệt kê trong Phụ lục 1. Trong khi đó Phần III của Luật bao gồm quy định cơ bản về những ngoại lệ. Phần lớn những ngoại lệ phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật cũng quy định về cơ chế khiếu nại. Luật áp dụng khi cơ quan nhà nước trì hoãn hay từ chối bảo đảm tiếp cận tất cả hay từng phần tài liệu, hoặc đặt ra mức phí mà người yêu cầu cho là không hợp lý. Việc xem xét lại có tính nội bộ được thực hiện bởi bộ trưởng chịu trách nhiệm đối với ngoại lệ ở Mục 14,15,16,18 được áp dụng, và bởi người đứng đầu cơ quan nhà nước trong các trường hợp khác. Khiếu nại lên Toà phúc thẩm được thực hiện đối với quyết định xem xét lại có tính chất nội bộ (hoặc về việc không cung cấp quyết định đó trong thời hạn quy định) hoặc đối với quyết định ban đầu mà không được xem xét lại có tính chất nội bộ trong thời hạn 60 ngày của quyết định.

 5. Peru

   Luật Minh bạch và Tiếp cận thông tin thông qua năm 2002 (sửa đổi năm 2003) cụ thể hoá quy định bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong Hiến pháp và phạm vi áp dụng không chỉ giới hạn trong phạm vi thông tin theo yêu cầu.

 Luật quy định rất rộng về phạm vi thông tin mà các cơ quan nhà nước có trách nhiệm công bố. Cơ quan nhà nước được định nghĩa bao gồm cả các bộ phận, dự án, chương trình của nhà nước mà hoạt động của các đơn vị đó có sử dụng quyền lực hành chính và các đơn vị tư nhân cung cấp các dịch vụ công hoặc cung cấp dịch vụ hành chính do nhà nước uỷ quyền, trao quyền hoặc thuê khoán. Các doanh nghiệp nhà nước cũng là đối tượng áp dụng của Luật. Tuy nhiên, trách nhiệm cung cấp thông tin đối với các đơn vị và tổ chức tư nhân hạn chế hơn các cơ quan nhà nước.

 Thông thường, cơ quan được yêu cầu phải trả lời về yêu cầu trong vòng 7 ngày làm việc và thời hạn này có thể gia tăng 5 ngày làm việc nếu việc tìm kiếm và thu thập thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu gặp phải khó khăn. Việc từ chối cung cấp thông tin phải dựa trên cơ sở các trường hợp ngoại lệ theo quy định của luật và lý do từ chối cũng như khoảng thời gian thông tin sẽ được bảo mật phải thông báo cho người yêu cầu.

 Theo Luật, việc thu thêm phí ngoài quy định bị coi là sự hạn chế quyền của người dân trong việc tiếp cận thông tin và đều bị xử lý.

 Điều 13 quy định cơ quan nhà nước không có trách nhiệm phải tạo ra hoặc thu thập để cung cấp thông tin mà họ không nắm giữ hoặc không có chức năng nắm giữ mặc dù trong trường hợp này họ phải thông báo cho người có yêu cầu.  Luật chưa quy định cơ quan nhà nước phải tham khảo ý kiến thứ ba nếu họ liên quan đến thông tin được yêu cầu cung cấp hoặc tiếp cận.

 Luật của Peru đưa ra các quy định rất tích cực và tiến bộ về việc công bố thông tin. Bên cạnh những quy định rải rác trong các phần khác của Luật, Luật dành hẳn Chương IV với tiêu đề: Minh bạch trong quản lý tài sản công với khoảng 14 điều để quy định về việc công bố thông tin. Các cơ quan nhà nước, căn cứ vào nguồn ngân sách, phải công bố trên internet các loại thông tin khác nhau, trong đó có thông tin chung về cơ quan, thông tin về ngân sách, công bố lương các cán bộ, nhân viên, thông tin chi tiết về dịch vụ, thông tin về hoạt động của các cán bộ cấp cao.

Chương IV quy định rõ các nghĩa vụ công bố thông tin một cách chủ động và tích cực. đây là quy định cụ thể, rõ ràng nhất so với luật của các nước khác, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính công - lĩnh vực mà Chương này tập trung điều chỉnh. Trọng tâm nghĩa vụ cung cấp thông tin được đề cập là thông tin về quản lý ngân sách nhà nước, việc làm, dự án, hợp đồng, trưng thu trưng mua tài sản, thông tin kinh tế vĩ mô, dự báo kinh tế. Luật cũng quy định một số thông tin phải được công bố ít nhất là 3 tháng trước các cuộc tổng tuyển cử như thông tin về thành tựu, kết quả hoạt động của kháo cầm quyền sắp mãn hạn, thông tin về dự đoán tài chính cho 5 năm tiếp theo.

 Theo quy định tại Điều 13, các trường hợp ngoại lệ quy định tại Điều 15-15B là cơ sở cho từ chối cung cấp thông tin  thì các quy định này không bị phủ quyết bởi các quy định khác, cần được giải thích và hiểu một cách rất cụ thể. Tuy nhiên, các quy định của Luật tiếp cận thông tin không thể được ưu tiên áp dụng trong trường hợp có quy định khác với các quy định về bảo mật.

 Luật của Peru không quy định ưu tiên lợi ích công cộng. Tuy nhiên Điều 15C  quy định rằng tất cả những thông tin liên quan đến hành vi vi phạm quyền con người quy định tại Công ước Geneva năm 1949 dưới bất cứ hình thức nào, bởi bất kỳ ai không thể được coi là các thông tin bị loại trừ. Luật cũng quy định không được sử dụng các trường hợp ngoại lệ để vi phạm các quy định của Hiến pháp Peru. Một số cơ quan như Quốc hội, cơ quan tư pháp, Cơ quan kiểm soát chung, Cơ quan theo dõi quyền con người được quyền tiếp cận mọi thông tin, kể cả thông tin miễn trừ trong các trường hợp liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm được giao của các cơ quan này. Ví dụ cơ quan theo dõi quyền con người có quyền tiếp cận thông tin để bảo vệ quyền con người. Luật cũng quy định nguyên tắc công bố thông tin một phần tức công bố phần không mật trong một tài liệu nào đó mặc dù các phần còn lại của tài liệu được xếp vào danh mục mật. Ngoài ra luật còn quy định thời hạn một thông tin mật sẽ được công bố. Yêu cầu cung cấp thông tin đối với những thông tin được xếp vào danh mục mật đã kéo dài từ 5 năm trở lên có thể được đáp ứng nếu thủ trưởng cơ quan nắm giữ thông tin đó cho rằng việc công bố thông tin không có hại cho an ninh quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền dân chủ.

  Luật của Peru quy định quyền khiếu nại lên cơ quan chủ quản cấp cao hơn. Nếu đơn bị bác hay không được xem xét trong vòng 10 ngày làm việc thì mở đường cho khiếu kiện lên toà án.

 Để tăng cường quyền tiếp cận thông tin, Luật có một số quy định như Hội đồng Bộ trưởng hàng năm phải báo cáo lên Quốc hội về tình hình yêu cầu cung cấp thông tin.  Điều 21 của Luật quy định nghiêm cấm cơ quan nhà nước tự ý huỷ thông tin trong mọi trường hợp mà thay vào đó, cơ quan nhà nước phải chuyển thông tin về Cục lưu trữ quốc gia theo đúng thời hạn luật định. Cục có thể xem xét huỷ bỏ những thông tin không liên quan hoặc thông tin không còn giá trị theo quy định của luật pháp.

2.2.4  Luật tiếp cận thông tin một số nước Châu Phi

1. Uganda

   Luật tiếp cận thông tin của Uganda ban hành năm 2005. Điểm tích cực của luật là quy định về các trường hợp ngoại lệ là rất hẹp, các quy định về bảo đảm thủ tục cũng được quy định rất chi tiết trong đó đặc biệt là khâu thông báo bằng văn bản phải được thực hiện sau mỗi bước. Luật cũng quy định biện pháp bảo vệ đối với người tố cáo hành vi vi phạm.

 Luật quy định thông tin mà người dân có quyền tiếp cận là thông tin cập nhật và chính xác.

 Điều 3 Luật quy định mục tiêu của luật là nhằm tăng cường một Chính phủ hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm, cụ thể hoá các quy định tại Điều 41 của Hiến pháp, bảo vệ người tố cáo các sai phạm trong hệ thống chính phủ, tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước thông qua việc cho phép công chúng tiếp cận các thông tin một cách chính xác, kịp thời và tạo điều kiện cho người dân được kiểm soát và tham gia vào quá trình ban hành các quyết định có tác động đến họ.

 Quyết định thông tin áp dụng đối với mọi thông tin và bản ghi do cơ quan nhà nước nắm giữ. Cơ quan nhà nước bao gồm: các cơ quan thuộc hệ thống chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương, tổng công ty, uỷ ban, cơ quan quản lý nhà nước.

 Yêu cầu cung cấp thông tin phải được nộp bằng văn bản theo mẫu quy định. Trong trường hợp người yêu cầu là người khuyết tật, không biết chữ thì có thể yêu cầu bằng lời nói, trong trường hợp này, cán bộ cung cấp thông tin phải giúp thể hiện lại yêu cầu đó bằng văn bản và giao bản sao đơn yêu cầu cho người yêu cầu. Điều 12 quy định các nghĩa vụ trợ giúp mà cán bộ cung cấp thông tin phải thực hiện đối với người yêu cầu và sự trợ giúp đó phải miễn phí nay cả trường hợp thông tin do cơ quan nhà nước khác nắm giữ.

 Theo Điều 15, việc cung cấp thông tin có thể bị trì hoãn nếu thông tin đó chuẩn bị được đăng tải trong thời hạn 90 ngày hoặc cần thêm thời gian để in ấn, phát hành, hoặc trong trường hợp luật định thông tin đó phải được công bố hoặc đệ trình lên cơ quan nhà nước khác những tại thời điểm nhận được yêu cầu cung cấp thì thông tin đó vẫn chưa được trình. Người yêu cầu có thể được trình bày nguyện vọng được cung cấp thông tin trước thời hạn trì hoãn và cán bộ phụ trách phải cũng cấp thông tin sớm hơn nếu có cơ sở cho thấy việc trì hoãn sẽ khiến người yêu cầu bị tổn hại hoặc bất lợi.  Khiếm khuyết quy định này là không đưa ra thời hạn cứng.

 Luật có quy định khung các mức phí. Mức phí thu chỉ nhằm mục đích bù đắp chi phí sao chụp thông tin. Thông tin phải được cung cấp ngay sau đóng phí.

 Luật của Uganda không quy định chế độ khiếu nại lên cơ quan hành chính độc lập tuy nhiên có quy định cụ thể thủ tục khiếu kiện lên toà án.

 Điều 44 của Luật quy định biện pháp bảo vệ về mặt pháp lý, hành chính và việc làm đối với người tố cáo các vi phạm hoặc việc tiết lộ thông tin làm đe doạ đối với sức khoẻ, an toàn hoặc môi trường khi họ thực hiện đúng các quy định pháp luật và có cơ sở tin tưởng rằng thông tin đó là xác thực và làm rõ bằng chứng của hành vi vi phạm. Theo quy định này thì hành vi vi phạm có thể là phạm tội hình sự, cố ý làm sai nguyên tắc, tham nhũng, gian dối v.v . Đây là quy định rất đáng chú ý vì ít luật tiếp cận thông tin đưa ra biện pháp bảo vệ đối với những người tố cáo vi phạm. Một số quốc gia có luật riêng để bảo vệ những người này.

 2. Cộng hoà Nam Phi

   Hiến pháp Cộng hoà Nam Phi không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận thông tin do cơ quan nhà nước nắm giữ mà còn quy định quyền tiếp cận thông tin do cơ quan và tổ chức tư      nhân nắm  giữ nếu thông tin đó được coi là cần thiết để thực hiện hoặc bảo vệ những quyền nhất định. Cụ thể hoá quyền trên ghi nhận trong Hiến pháp, Luật Tăng cường quyền tiếp cận thông tin ban hành năm 2000. Đây là một trong những Luật tiếp cận thông tin tiến bộ nhất thế giới. Luật quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục nhằm bảo vệ quyền tiếp cận thông tin và cũng quy định rất rõ về một số ít trường hợp thông tin được coi là ngoại lệ. Nhưng luật không quy định về khiếu nại ra cơ quan hành chính độc lập và cũng không có quy định về nghĩa vụ công khai thông tin một cách chủ động. Tuy vậy, hiệu lực trên thực tế của luật còn yếu.

 Luật quy định quyền tiếp cận đối với tài liệu công tại mục 11(1) và thông tin cá nhân hoặc tổ chức tư nhân nắm giữ tại mục 50(1). Quyền tiếp cận đối với thông tin cá nhân hoặc tổ chức tư nhân giới hạn trong phạm vi nếu việc cung cấp thông tin là cần thiết để thực hiện hoặc bảo vệ quyền của công dân. Các mục tiêu cụ thể hơn của Luật được quy định tại Chương 3.

 Luật không áp dụng đối với hồ sơ một số cơ quan nhà nước, thành viên cơ quan lập pháp, được cho là một sự thiếu sót. Theo quy định của Luật, các cơ quan nhà nước mặc nhiên có quyền yêu cầu tổ chức tư nhân cung cấp thông tin nhưng lại không quy định việc cơ quan nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước khác cung cấp thông tin theo quy định của luật.

 Yêu cầu cung cấp thông tin phải được gửi tới cán bộ chuyên trách cung cấp thông tin theo địa chỉ thư, số fax hoặc địa chỉ email. Yêu cầu cung cấp thông tin không bị ảnh hưởng bởi lý do cần được tiếp cận thông tin hay sự đánh giá của cán bộ cung cấp thông tin về lý do yêu cầu tiếp cận thông tin. Khi cần thiết, cán bộ chuyên trách cung cấp thông tin có trách nhiệm trợ giúp một cách phù hợp và miễn phí nhằm hỗ trợ người yêu cầu cung cấp thông tin đưa ra yêu cầu. Nếu chưa có sự hỗ trợ đối với người yêu cầu thì chưa được bác yêu cầu thông tin. Khi nhận được yêu cầu, cơ quan tiếp nhận phải nhanh chóng ra quyết định trong vòng 30 ngày. Thời hạn này có thể gia hạn thêm 30 ngày nữa theo quy định của luật. Trong trường hợp gia hạn, cơ quan phải thông báo bằng văn bản tới người yêu cầu cung cấp thông tin (Mục 26). Cơ quan nhà nước không trả lời đối với yêu cầu trong thời hạn quy định được coi là từ chối cho phép tiếp cận thông tin. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải được tiếp cận thông tin ngay sau khi đã đóng khoản phí theo quy định.

Luật quy định rất chi tiết, cụ thể về cách thức chuyển tiếp yêu cầu cung cấp thông tin. Việc chuyển tiếp phải được thực hiện sớm và chậm nhất là trong vòng 14 ngày. Đây không phải là khoản thời gian thêm vào thời hạn phải trả lời yêu cầu. Trong trường hợp thông tin không tồn tại hoặc không tìm thấy thì người yêu cầu phải được thông báo về sự thực trên cũng như các nỗ lực mà cơ quan đã thực hiện để tìm kiếm thông tin theo yêu cầu.

   Theo Chương V, Phần II, các trường hợp ngoại lệ bao gồm thông tin được yêu cầu cung cấp có liên quan đến quyền của bên thứ ba như quyền bảo vệ bí mật riêng tư hay bí mật thương mại thì bên thứ ba đó phải được thông báo sớm và chậm nhất là 21 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu cung cấp thông tin. Bên thứ ba có thời hạn 21 ngày để đưa ra lý do đề nghị từ chối cung cấp thông tin hoặc đồng ý với việc cung cấp thông tin. Quyết định công bố thông tin phải được đưa ra trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận thông báo của bên thứ ba về yêu cầu cung cấp thông tin và quyết định cung cấp thông tin phải được thông báo cho bên thứ ba. Trong trường hợp được phép tiếp cận thông tin, người yêu cầu cung cấp thông tin phải được tiếp cận thông tin trong vòng 30 ngày tiếp theo các thời hạn trên, ngoại trừ trường hợp bên thứ ba khiếu nại quyết định công bố thông tin.

 Luật của Nam Phi không quy định trách nhiệm công bố thông tin. Luật có các quy định rất cụ thể, toàn diện về các trường hợp ngoại lệ. Các trường hợp ngoại lệ cũng được xác định trong phạm vi hẹp. Luật bãi bỏ các quy định cấm hoặc hạn chế việc công khai thông tin được quy định trong các luật khác mà trái với tinh thần hoặc quy định cụ thể của Luật này. Tuy nhiên, đối với tài liệu được yêu cầu sử dụng trong các vụ án dân sự, hình sự hoặc đối với tài liệu mà việc tiếp cận đã được quy định trong các luật khác thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này (Mục 7). Tất cả các trường hợp ngoại lệ đều chịu sự điều chỉnh bởi quy định ưu tiên lợi ích cộng đồng. Theo đó tư liệu bắt buộc phải công bố vì lợi ích của công chúng nếu: nếu việc cung cấp thông tin là cần thiết để làm rõ các chứng cứ của một sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc một nguy cơ nghiêm túc và sắp xảy ra với an toàn của cộng đồng hoặc môi trường; hoặc lợi ích của công chúng và môi trường phải được coi là lớn hơn so với những thiệt hại gây ra bởi việc cung cấp thông tin như vậy (Mục 46). Luật cũng quy định về việc công bố thông tin một phần tại Mục 28.

 Luật của Nam Phi không quy định đối với người tố cáo nhưng các đối tượng này đã được bảo vệ theo quy định của các luật khác có liên quan[26].

 Hàng năm, các cơ quan nhà nước phải gửi báo cáo lên Uỷ ban Bảo vệ quyền con người, trong báo cáo phải nêu thông tin cụ thể về số lượng đơn yêu cầu cung cấp thông tin đã tiếp nhận, kể cả yêu cầu đã được chấp nhận hoặc từ chối, các quy định của Luật về việc từ chối chấp tiếp cận, khiếu nại… Uỷ ban Bảo vệ quyền con người có trách nhiệm tổng hợp thành báo cáo hàng năm của Uỷ ban này gửi lên Quốc hội. Uỷ ban có nhiệm vụ tiến hành các chương trình thông tin tuyên truyền; tăng cường phổ biến thông tin một cách chính xác, kịp thời; đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện chất lượng và hiệu quả thực hiện Luật đối với các cơ quan liên quan, bao gồm cả cơ quan nhà nước; giám sát việc thực hiện; trợ giúp công dân thực hiện các quyền được quy định trong Luật (Mục 83).

 

2.2. 5  Luật tiếp cận thông tin một số nước Châu Á và châu Úc

.1. Nhật Bản

   Đạo luật của Nhà nước về tiếp cận thông tin có tên Luật của Nhật Bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính thông qua năm 1999, có hiệu lực năm 2001, được bổ sung năm 2004. Việc tiếp cận thông tin của nhà nước được nhìn nhận là quan trọng để công khai các sai lầm của Chính phủ và hướng tới  xoá bỏ sự ngăn cách những bí mật của nhà nước đối với công chúng. Điều này được phản ánh trong điều đầu tiên về mục đích của Luật, theo đó quy định mục tiêu công khai được bảo đảm, trách nhiệm của Chính phủ đối với công dân về những hoạt động khác nhau, và góp phần thúc đẩy một nền hành chính dân chủ và công bằng tuỳ thuộc sự hiểu biết và chỉ trích tương ứng của công dân. Vào thời điểm luật quốc gia được ban hành năm 1999, đã có hơn 900 thành phố đã thông qua các quy định quyền được thông tin.

 Các cơ quan được định nghĩa trong Luật là “cơ quan hành chính” bao gồm: các cơ quan của Nội các hay các cơ quan chịu sự kiểm soát của Nội các được quy định bởi pháp luật; các cơ quan hành chính được định nghĩa theo các luật khác; và Uỷ ban Kiểm toán. Luật đòi hỏi phải có một đạo luật điều chỉnh về nghĩa vụ thông tin của các công ty nhà nước trong vòng 2 năm sau khi thông qua luật và Luật về tiếp cận thông tin được quản lý bởi các chủ thể hành chính độc lập đã được ban hành và có hiệu lực năm 2002.

 Yêu cầu tiếp cận thông tin phải được lập thành văn bản, kể cả hình thức mẫu điện tử, và luật không đòi hỏi phải có sự giải trình về lý do yêu cầu. Luật cũng yêu cầu có sự giúp đỡ đối với người yêu cầu.

 Quyết định về việc cung cấp thông tin thông thường phải được đưa ra trong thời hạn 30 ngày. Thời hạn này có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa khi có lý do hợp lý là những khó khăn nảy sinh khi thực hiện công việc. Khi yêu cầu bao gồm một khối lượng lớn tài liệu của Nhà nước và có thể có rủi ro là hoạt động của cơ quan nhà nước sẽ bị trở ngại đáng kể bằng việc cố gắng cung cấp tất cả thông tin trong vòng 60 ngày thì người đứng đầu cơ quan nhà nước có thể thông tin một cách đơn giản phần hợp lý trong thời hạn đó, phần còn lại thực hiện trong thời gian hợp lý. Yêu cầu có thể chuyển giao cho cơ quan khác khi có căn cứ hợp lý.

 Luật không quy định nghĩa vụ công bố trước một số loại thông tin, được xem như một thiếu sót.

 Luật đưa ra 6 nhóm thông tin khác nhau có thể bị từ chối, liên quan đến thông tin về cá nhân mà việc cung cấp thông tin có thể gây tổn hại đến các quyền và lợi ích của cá nhân, liên quan đến thông tin của các doanh nghiệp, liên quan đến an ninh của nhà nước, liên quan trật tự xã hội, liên quan đến các cuộc thảo luận hay tư vấn của chính phủ, liên quan đến sự thiệt hại với hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước. Một đạo luật bổ sung được thông qua cùng với Luật trên cũng đưa ra danh mục các văn bản khác mà có thể loại trừ tiếp cận thông tin. Danh mục này bao gồm nhiều luật quy định về các biện pháp lựa chọn tiếp cận thông tin, như Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến các tài liệu của vụ án, Luật đăng ký bất động sản và các luật khác. Hầu hết các ngoại lệ phụ thuộc vào sự đánh giá thiệt hại. Trong một số trường hợp, những ngoại lệ này đòi hỏi thiệt hại thực tế phải bắt nguồn từ việc cung cấp thông tin, cho dù trong một số trường hợp điều này có thể dựa trên sự đánh giá của của cơ quan nhà nước. Điều 6 quy định khi một tài liệu được đề cập trong ngoại lệ, thì phần còn lại của tài liệu phải được công bố khi nó còn có ý nghĩa.

Luật cũng quy định về khiếu nại và khiếu kiện, và dành hẳn Mục 2 Chương III để quy định về Uỷ ban Thẩm tra việc cung cấp thông tin và Mục 3 Chương III để quy định thủ tục điều tra và xem xét của cơ quan này. Uỷ ban trực thuộc Văn phòng Nội các nhưng hoạt động độc lập.     

2. Hàn Quốc

   Từ năm 1989, Toà án Hiến pháp của Hàn Quốc đã ra phán quyết rằng quyền được biết bao gồm quyền yêu cầu công bố thông tin của các cơ quan nhà nước. Năm 1991, mặc dù chưa có bất kỳ luật nào liên quan đến thông tin được ban hành, Hội đồng nhân dân của thành phố Cheongju đã bỏ phiếu thông qua Pháp lệnh về công bố thông tin. Toà án tối cao đã ra phán quyết rằng Pháp lệnh  được ban hành là phù hợp với quy định của pháp luật.

 Luật  về  công khai thông tin của các cơ quan chính quyền được thông qua năm 1996. Điều 1 quy định mục đích của Luật là để đảm bảo quyền của mọi người được biết và tham gia vào công việc quốc gia, và đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động của nhà nước bằng cách cung cấp những vấn đề cần thiết liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin thuộc sở hữu và quản lý của các cơ quan chính quyền khi có yêu cầu của người dân đối với những thông tin đó. Luật định nghĩa thông tin có nghĩa là các tin tức được soạn thảo, sở hữu và quản lý bởi các cơ quan chính quyền trong khi họ thi hành nhiệm vụ của mình. Những thông tin này được sao chép vào các tài liệu, bản vẽ, hình ảnh, film, băng, các bản slide, và các phương tiện trung chuyển được xử lý bằng máy tính v.v. các cơ quan chính quyền phải cung cấp cho công chúng các thông tin thuộc quyền sở hữu và quản lý của cơ quan chính quyền theo các điều khoản của luật. Các cơ quan chính quyền địa phương có thể thiết lập sắc lệnh thành phố về cung cấp thông tin trong phạm vi của các luật và các quy định dưới luật.

 Người yêu cầu được cung cấp thông tin phải nộp đơn yêu cầu, nêu nội dung và mục đích sử dụng thông tin yêu cầu cung cấp. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận đơn, cơ quan chính quyền phải ra quyết định. Thời hạn này có thể được gia hạn thêm 15 ngày vì lý do không thể tránh khỏi. Luật cũng quy định các cơ quan chính quyền phải thông báo với bên thứ ba về thực tế yêu cầu cung cấp thông tin và nếu cần thiết, phải lắng nghe các ý kiến liên quan nếu một phần hoặc toàn bộ thông tin được cung cấp liên quan đến bên thứ ba.

 Luật cũng quy định về thông tin không công khai tại Điều 7. Các thông tin cá nhân và liên quan đến bí mật thương mại của các công ty, hội đoàn hoặc cá nhân có một số trường hợp không liệt vào dạng ngoại trừ, nếu việc công khai là cân thiết vì lợi ích lớn hơn của cộng đồng.

 Điều 12 của Luật quy định công bố một phần thông tin. Nếu như thông tin yêu cầu được cung cấp là kết hợp giữa phần ở Điều 7(1) tức thông tin cần ngoại trừ và những phần được phép công khai, và những thông tin đó có thể chia ra mà không làm thay đổi tính chất của yêu cầu thì phần thông tin không phải là thông tin cần ngoại trừ sẽ được công bố.

 Luật quy định cụ thể về thủ tục kháng cáo bao gồm kháng cáo nội bộ đến cơ quan chính quyền liên quan, kháng cáo hành chính theo thủ tục quy định tại Luật kháng cáo hành chính và kiện tục hành chính theo Luật tố tụng hành chính. Bên thứ ba cũng có quyền phản đối, đệ đơn yêu cầu theo thủ tục kháng cáo hành chính hay tố tụng hành chính theo quy định của pháp luật để bảo vệ lợi ích của mình.

 Luật quy định một cách chung chung về nghĩa vụ công bố thông tin, theo Điều 21 cơ quan chính quyền sẽ nỗ lực một cách chủ động trong việc công khai thông tin tuy không được yêu cầu nhưng cần thiết phải công khai cho công luận. 

 3.Thái Lan

   Thái Lan thông qua Luật tiếp cận thông tin, có hiệu lực ngày 9-12-1997, quy định phạm vi áp dụng rộng rãi, các cơ chế bảo đảm quy trình chung được quy định một cách tương đối hợp lý và diện thông tin thuộc trường hợp ngoại lệ rất hẹp. Tuy nhiên, luật không quy định rõ thời hạn cơ quan nhà nước phải trả lời các yêu cầu cung cấp thông tin, thiếu cơ chế giám sát độc lập và các quy định về tăng cường minh bạch rất hạn chế.

 Theo luật, nếu yêu cầu cung cấp thông tin đáp ứng một số điệu kiện tối thiểu như nêu rõ thông tin thì cơ quan trực tiếp nhận được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin. Luật không yêu cầu người cung cấp thông tin phải đưa ra mục đích hoặc lý do.

 Phạm vi thông tin được quy định rất rộng nhằm bao quát tất cả các tư liệu dùng trong giao tiếp, trao đổi mà không phụ thuộc vào hình thức hay chất liệu. Thông tin chính thức, đối tượng của quyền tiếp cận thông tin được quy định đơn giản là thông tin mà các cơ quan nhà nước đang nắm giữ, cho dù thông tin đó liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước hay cá nhân.

 Theo Điều 4, cơ quan nhà nước là các cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương, cấp tỉnh và địa phương, doanh nghiệp nhà nước, cơ quan của Chính phủ, cơ quan của Quốc hội, toà án (chỉ những thông tin không liên quan đến xét xử, phán quyết các vụ án), cơ quan giám sát chuyên môn, các cơ quan độc lập của nhà nước, các cơ quan khác được quy định trong cơ chế hoạt động các bộ.

 Bất cứ người nào cũng có thể yêu cầu cung cấp những thông tin không quy định phải đăng tải hoặc công khai để công chúng tiếp cận với điều kiện yêu cầu phải đủ chi tiết để cơ quan nắm giữ có thể xác định được thông tin này. Yêu cầu cung cấp thông tin sẽ bị từ chối nếu yêu cầu cung cấp quá nhiều thông tin hoặc yêu cầu liên tục nhiều lần mà không có lý do thuyết phục.

 Thông tin sẽ được cung cấp trong khoảng thời gian hợp lý mà khoảng thời gian này không được quy định rõ trong Luật. Trong trường hợp thông tin có thể hư hỏng, thất thoát do việc tiếp cận gây ra thì cơ quan nhà nước có thể kéo dài thời gian cung cấp thông tin.

 Trong trường hợp cơ quan nhà nước không nắm giữ thông tin được yêu cầu cung cấp thì có thể tư vấn cho người yêu cầu chuyển đến cơ quan nhà nước khác nơi thông tin đang được nắm giữ.

 Luật quy định việc thông báo cho bên thứ ba. Bên thứ ba phải được thông báo bằng yêu cầu cung cấp thông tin trong trường hợp việc cung cấp thông tin có thể gây hại tới lợi ích của họ và họ có ít nhất 15 ngày để có ý kiến phản đối. Trong trường hợp cơ quan nhà nước vẫn quyết định cung cấp thông tin, bên thứ ba được giành 15 ngày để khiếu nại.

 Người yêu cầu phải được thông báo trong trường hợp đơn yêu cầu của họ bị từ chối, quyết định từ chối phải rõ loại loại thông tin từ chối và lý do của việc từ chối.

 Thông tin chỉ có thể được cung cấp nếu được lưu giữ dưới hình thức có thể giao nhận và người yêu cầu không cần phải phân tích, chuẩn bị thêm hoặc biên tập lại thì mới có thể tiếp cận được. Quy định này không áp dụng với các tài liệu lưu trữ dưới dạng điện tử nhưu các tài liệu hình ảnh hay âm thanh. Ngoài ra, khi thông tin được yêu cầu cung cấp không nhằm phục vụ mục đích thương mại mà là bảo vệ quyền của người yêu cầu hoặc lợi ích công cộng thì cơ quan nhà nước phải cung cấp cả thông tin ở dạng có thể phải xử lý thêm.

 Luật của Thái Lan quy định trách nhiệm công bố thông tin trên Công báo của chính phủ và trách nhiệm phải lưu giữ, bố trí thông tin luôn trong trạng thái sẵn sàng để công chúng có thể tiếp cận. Điều 7 quy định đăng lên Công báo cơ cấu tổ chức của cơ quan, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương pháp hoạt động, chi tiết liên hệ phục vụ mục đích gửi yêu cầu tiếp cận thông tin, các văn bản pháp luật và chính sách, các thông tin khác do Uỷ ban thông tin quốc gia quyết định. Điều 9 quy định các cơ quan nhà nước sắp xếp các thông tin sau luôn trong trạng thái sẵn sàng để công chúng có thể tiếp cận: quyết định có tác động trực tiếp đến cá nhân; tất cả các chính sách hoặc sự giải thích không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 7; kế hoạch làm việc và dự toán ngân sách hàng năm; các quy định có ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của cá nhân; các tài liệu đã được công khai về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan nhà nước đó; các hợp đồng độc quyền và liên doanh liên kết; các thông tin khác do Uỷ ban Thông tin quốc gia quy định. Uỷ ban có thể quy định các trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin dưới hình thức tiếp cận theo quy định tại Điều 9. Yêu cầu cung cấp, việc tiếp cận các thông tin này phải chịu mức phí theo quy định do Uỷ ban Thông tin quốc gia.

 Luật quy định rất đầy đủ các trường hợp ngoại lệ. Điều 3 của Luật quy định trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa Luật này và các luật khác thì các quy định của Luật này được áp dụng. Tuy nhiên quy định này không áp dụng đối với các trường hợp ngoại lệ. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm áp dụng các hệ thống hoặc quy tắc ngăn chặn việc công bố hoặc cung cấp thông tin không đúng thẩm quyền theo quy định của Luật Bảo vệ thông tin bí mật. Hầu hết các thông tin thuộc trường hợp ngoại lệ đều yêu cầu thủ tục kiểm tra mức độ nguy hại. Có hai trường hợp ngoại lệ mà không cần dựa trên mức độ nguy hại là các tài liệu nội bộ phục vụ quá trình ban hành chính sách, quyết định và các thông tin được quy là mật. Điều 15 là quy định chủ yếu về các trường hợp ngoại lệ. Điều này quy định khi cơ quan nhà nước ra quyết định cấm công bố một thông tin chính thống nào đó thì cơ quan này phải cân nhắc đến tất cả các yếu tố như chức năng nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của tổ chức và cá nhân có liên quan. Quy định phải xem xét về mặt lợi ích cộng đồng ở đây là hữu ích nhưng không hoàn toàn giống các quy định về ưu tiên lợi ích công cộng bởi vì nguyên tắc ưu tiên lợi ích công cộng phải mang tính bắt buộc và không chỉ xem xét dựa trên một vài yếu tố. Điều 20 quy định rõ hơn về ưu tiên bảo vệ lợi ích công cộng, cụ thể là cán bộ cơ quan nhà nước không bị truy cứu trách nhiệm nếu công bố thông tin để bảo đảm lợi ích cộng đồng và việc công bố thông tin đó là hợp lý.

 Luật không quy định rõ ràng về nguyên tắc công bố thông tin một phần. Tuy nhiên luật quy định nếu thông tin thuộc diện được công khai mà có phần thuộc trường hợp ngoại lệ thì phần này phải được xoá bỏ hoặc xử lý để không bị tiếp cận. Luật không quy định cụ thể thời hạn bảo mật thông tin.     

 Đáng lưu ý trong số các loại thông tin thuộc diện ngoại lệ như các thông tin về thiết chế hoàng gia hay thẩm quyền của nhà vua trong việc ban hành sắc lệnh hoàng gia, ở một số nước khác luật cho phép tiếp cận.

 Luật cũng quy định về việc khiếu nại lên Uỷ ban Thông tin quốc gia và khởi kiện lên Toà án Công khai thông tin.

 4.Ấn Độ

    Đạo luật quốc gia về Tự do thông tin ban hành lần đầu năm 2002, nhưng không bao giờ có hiệu lực và đã được thay thế bởi Luật về quyền được thông tin năm 2005. Luật năm 2005 có ý nghĩa và tiến bộ hơn so với luật trước. Sự khác biệt quan trọng là cơ chế phát triển hơn của việc chủ động công bố, thêm vào đó là cơ quan giám sát độc lập, các biện pháp thúc đẩy luật một cách mạnh mẽ hơn và quy định giới hạn hơn về những ngoại lệ. Luật ràng buộc cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, cũng như thành lập cả hai: Uỷ ban Thông tin nhà nước trung ương và Uỷ ban Thông tin ở địa phương.

 Đối tượng chịu sự điều chỉnh được mở rộng đến các cá nhân được kiểm soát và hỗ trợ tài chính từ chính phủ, bao gồm các tổ chức phi chính phủ. Điều 4 quy định tất cả nhà chức trách công cộng phải lưu giữ tất cả hồ sơ của cơ quan và phải công bố trong vòng 120 ngày kể từ ngày Luật được thông qua những thông tin về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ cơ quan, thẩm quyền và nghĩa vụ của các quan chức và nhân viên trong cơ quan, lương tháng của các quan chức và nhân viên cơ quan, bao gồm cơ chế trả lương theo nội quy cơ quan, ngân sách hoạt động của cơ quan, trong đó nêu chi tiết các khoản chi, mức đề xuất chi và các báo cáo tài chính đã nộp; công bố tất cả các sự kiện khi xây dựng các chính sách quan trọng hoặc công bố các quyết định mà ảnh hưởng tới công chúng; giải thích các lý do đưa ra các quyết định hành chính hoặc quyết định có tính chất bán tư pháp với những người bị ảnh hưởng bởi các quyết định đó. Việc phổ biến tất cả các tư liệu phải tính đến tính hiệu quả về chi phí, về ngôn ngữ địa phương và về các biện pháp thông tin hữu hiệu  có thể sử dụng ở trong khu vực. Việc công bố rộng rãi các thông tin sẽ giảm thiểu yêu cầu tiếp cận thông tin.

 Luật yêu cầu phải có sự giúp đỡ của nhân viên thông tin đối với người yêu cầu. Thông tin trả lời cho người yêu cầu phải được thông báo ngay khi có thể trong thời hạn là 30 ngày. Ở đâu mà thông tin ấy liên quan đến cuộc sống và tự do cá nhân, thì việc trả lời phải được công bố trong vòng 48 giờ. Nếu không trả lời được trong thời hạn nêu trên thì mặc nhiên coi đó là lời từ chối trả lời yêu cầu.

   Luật cũng điều chỉnh về vấn đề chuyển đơn yêu cầu, hay liên quan đến người thứ ba. Điều 8 của Luật quy định chi tiết các các ngoại lệ chủ yếu như: các thông tin mà việc tiết lộ có thể gây tác động tiêu cực đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, các thông tin mà bất kỳ toà án hoặc cơ quan tài phán nào cấm công bố, các thông tin về những bí quyết thương mại, bí mật kinh doanh, sở hữu trí tuệ, hoặc liên quan đến bí mật đời tư.

 Điều 24 quy định không áp dụng Luật đối với các cơ quan an ninh và tình báo do chính Chính phủ trung ương lập hoặc với bất kỳ thông tin nào gửi tới các cơ quan như vậy hoặc gửi Chính phủ (được liệt kê cụ thể tại Phụ lục 2), hay  các cơ quan tình báo và an ninh do Chính phủ các bang lập; tuy nhiên các thông tin liên quan đến những cáo buộc về tham nhũng và vi phạm quyền con người không thuộc quy định trên.   

 Bất cứ ai, bao gồm cả bên thứ ba, người mà không nhận được quyết định trong thời hạn cụ thể hoặc người gánh chịu bất lợi một quyết định theo quy định Luật, trong thời hạn 30 ngày, có quyền khiếu nại đến quan chức phụ trách về thông tin liên quan. Khiếu nại lần hai được gửi tới Uỷ ban Thông tin trung ương hoặc Uỷ ban Thông tin của bang. 

 5. Trung Quốc

    Pháp lệnh của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về công khai thông tin của chính quyền được thông qua tại phiên họp lần thứ 165 của Hội đồng Nhà nước, ngày 17-1-2007, có hiệu lực từ ngày 1-5-2008. Pháp lệnh này vẫn còn có một số hạn chế nên chưa thể có tính hiệu lực và hiệu quả cao, như từ ngữ không rõ ràng dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau, chưa tạo ra cơ chế áp dụng thống nhất, chuẩn mực và thiếu thể chế giám sát. Thay vì có một cơ quan giám sát riêng biệt, ở Trung Quốc trách nhiệm giám sát được giao cho Vụ Tổng hợp của Văn phòng Quốc Vụ viện ( Văn phòng Chính phủ).

  Điều 1 quy định mục đích của Pháp lệnh nhằm bảo đảm rằng mọi công dân, pháp nhân và tổ chức có thể có được thông tin của chính quyền phù hợp với pháp luật, từ đó nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của chính quyền, thúc đẩy sự quản lý bằng pháp luật và thực thi triệt để chức năng dịch vụ thông tin của chính quyền vì lợi ích  của đại bộ phận nhân dân và nhằm tác động tích cực đến tình hình kinh tế, xã hội.

 Pháp lệnh xác định thông tin của chính quyền được nêu trong Pháp lệnh được hiểu là bất cứ thông tin nào được tạo ra hoặc thu được trong quá trình thực thi chức năng nhiệm vụ chính thức của các cơ quan công quyền, mà được ghi chép hoặc lưu giữ dưới bất kỳ hình thức nào.

 Pháp lệnh quy định nguyên tắc cung cấp thông tin tối đa, tạo điều kiện cho công dân tiếp cận thông tin, các cơ quan nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc khách quan, bình đẳng và thuận tiện khi đối xử với công dân khi giải quyết các vấn đề liên quan đến công khai thông tin của chính quyền.

 Điều 9 quy định các cơ quan nhà nước phải công bố các thông tin của chính quyền liên quan đến: lợi ích cốt yếu của công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác; các yêu cầu mở rộng kiến thức hoặc sự tham gia của công chúng; việc thành lập, nghĩa vụ hoặc các thủ tục hnàh chính của các cơ quan nhà nước; các thông tin khác phải được công bố theo quy định của các luật, văn bản pháp quy khác. Luật quy định cụ thể trách nhiệm và phạm vi  công bố thông tin của chính quyền các cấp địa phương. Điều 10 quy định chính quyền cấp huyện cần công bố, trong đó “phải lưu ý” các dạng thông tin: văn bản pháp quy, các quy tắc của cơ quan nhà nước lập ra; các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các dự án đặc biệt; các báo cáo về chi tiêu tài chính và kiểm toán; thông tin về các dự án, phê duyệt hành chính…Thông tin “ưu tiên công bố” của chính quyền cấp tỉnh bao gồm:  thông tin liên quan các dự án lớn về xây dựng, quản lý; về tình hình thực hiện các dự án công ích; liên quan trưng dụng, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và việc đền bù, phân phối tiền trợ cấp và những bối cảnh áp dụng;  Các thông tin chính quyền cấp xã “cần chú trọng” công bố: thông tin liên quan đến tình hình thực hiện các chính sách quốc gia về việc làm ở khu vực nông thôn; tình hình quản lý và sử dụng ngân sách, các khoản chi tiêu và các quỹ đặc biệt; kế hoạch tổng thể về sử dụng đất ở địa phương; việc trưng dựng, thu hồi đất; việc ký kết hợp đồng, cho thuê hoặc đấu thầu của các doanh nghiệp tập thể hoặc các chủ thể kinh doanh khác…

 Trước khi công bố thông tin, các cơ quan nhà nước phải kiểm tra sự phù hợp của thông tin dự định công bố trên cơ sở đối chiếu với Luật về Bảo vệ bí mật nhà nước và các luật, quy định khác liên quan. Các cơ quan nhà nước không được công bố thông tin của chính quyền có chứa đựng bí mật quốc gia, bí mật thương mại và bí mật cá nhân. Tuy nhiên trong trường hợp có sự đồng ý chính thức của bên có liên quan, hoặc nếu cơ quan hành chính nhận thấy rằng việc không công bố thông tin của chính quyền nhất định chứa đựng bí mật thương mại hoặc bí mật cá nhân có thể làm tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích công cộng thì vẫn có thể công bố các thông tin đó.

 Cơ quan nhà nước phải công bố thông tin do mình tạo ra; cơ quan nhà nước đang lưu giữ thông tin thu thập từ công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác có trách nhiệm công bố các thông tin dạng này theo quy định của pháp luật. Phạm vi công bố thông tin của chính quyền được quyết định bởi các luật và quy tắc khác. Thông tin của chín hquyền nằm trong phạm vi cần công bố phải được công bố trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày được lập ra hoặc được cập nhật.

 Pháp lệnh cũng quy định chính quyền phải lập những khu vực riêng trong cơ quan lưu trữ và thư viện công cộng tạo thuận tiện cho công dân, pháp nhân và tổ chức khác tiếp cận thông tin.

 Thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin cũng được quy định. Người yêu cầu phải gửi yêu cầu bằng văn bản (có thể qua email) trừ trường hợp người yêu cầu khó khăn trong việc viết đơn thì có thể trình bày bằng miệng, hoặc nhờ người khác viết đơn. Nếu xét thấy có thể cung cấp thông tin, cơ quan nhà nước phải trả lời có thể cung cấp thông tin cho người yêu cầu. Nếu thấy không thể đáp ứng yêu cầu, cơ quan nhà nước phải thông báo cho người yêu cầu trong vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nếu gia hạn xét yêu cầu cũng không thể quá 15 ngày.

 Pháp lệnh cũng quy định việc cung cấp một phần  tài liệu là những thông tin không thuộc diện ngoại trừ. Nếu thông tin được yêu cầu cung cấp thuộc vào dạng bí mật thương mại, bí mật cá nhân hoặc việc công bố thông tin đó có thể làm tổn hại các quyền hợp pháp của bên thứ ba thì cơ quan đó phải gửi văn bản hỏi ý kiến bên thứ ba. Nếu bên thứ ba không đồng ý thì không được công bố thông tin đó trừ khi cơ quan nhà nước nhận thấy việc không công bố có thể làm tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích công cộng.

 Các công dân, pháp nhân, hoặc tổ chức gửi đơn tới cơ quan nhà nước yêu cầu cung cấp thông tin của chính quyền liên quan tới các vấn đề thuế, bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế…của bản thân họ phải cung cấp những giấy tờ hợp pháp chứng minh cho yêu cầu. Nếu công dân, pháp nhân hoặc tổ chức có thể chứng minh được thông tin mà các cơ quan nhà nước cung cấp mà liên quan tới họ là không chính xác thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước sửa chữa các thông tin đó. Nếu cơ quan nhà nước có liên quan không có trách nhiệm sửa chữa thông tin thì phải chuyển tiếp yêu cầu đến cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong việc này và phải thông báo cho người yêu cầu biết. 

 6. Azerbaijan

   Luật về quyền tiếp cận thông tin được Tổng thống ký ban hành tháng 12-2005. Luật có quy định về cơ quan giám sát hành chính độc lập, quy định cụ thể về nghĩa vụ chủ động  công bố và cung cấp thông tin một cách rộng rãi. Tuy nhiên luật quy định phạm vi thông tin miễn trừ khá rộng và còn thiếu chế tài đối với việc cản trở tiếp cận thông tin  cũng như quy định bảo vệ việc tiết lộ thông tin một cách ngay tình hay biện pháp thúc đẩy việc công bố thông tin.

 Quyền tiếp cận thông tin áp dụng đối với các thông tin được cơ quan/tổ chức công nắm giữ. Cơ quan ,tổ chức công  (theo Điều 3 Luật tiếp cận thông tin 2005) là các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, pháp nhân bất kể thuộc loại hình sở hữu nào, các cá nhân được quy định tại Điều 9.

 Điều 9 định nghĩa tổ chức/cơ quan công là cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và các pháp nhân thực hiện chức năng công, đồng thời các pháp nhân tư nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá và lĩnh vực xã hội trên cơ sở các hoạt động hợp pháp hoặc các hợp đồng. Tất cả hay một phần các cơ quan thuộc sở hữu nhà nước hoặc các đơn vị trực thuộc, đồng thời các pháp nhân đang nắm giữ quyền tham gia hoặc vị trí ưu thế trên thị trường hoặc độc quyền thị trường, hoặc đang hoạt động trong lĩnh vực có bản chất là độc quyền đều được coi là tổ chức công có liên quan đến từng loại thông tin cụ thể.

  Điều 24 quy định thời hạn giải quyết yêu cầu thông tin là 7 ngày làm việc. Nếu tổ chức công không nắm giữ thông tin, cơ quan này nên cố gắng  tìm hiểu và khẳng định cơ quan nào đang nắm giữ thông tin đó và chuyển yêu cầu đến cơ quan đó trong thời gian 5 ngày làm việc. Nghĩa vụ này không áp dụng cho tổ chức tư nhân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật.

 Điều 29 của luật liệt kê 34 loại thông tin phải chủ động công bố bao gồm thông tin về tài chính và ngân sách, thông tin về nhân sự bao gồm cả tiền lương, đặc biệt là danh mục các tài liệu mật. Thông tin liên quan đến các mối đe doạ đến tính mạng con người, sức khoẻ, tài sản, môi trường, các vấn đề khác thuộc lợi ích cộng đồng thì phải tiết lộ ngay lập tức.

 Điều 35 và Điều 38 của luật liệt kê những thông tin bảo mật đó là những thông tin có dự định sử dụng trong nội bộ, thông tin cá nhân và thông tin về cuộc sống gia đình.

 7. Kirgyzstan

    Kirgyzstan lần đầu tiên thông qua Luật về các bảo đảm và tự do tiếp cận thông tin năm 1997. Luật mới có hiệu lực năm 2007 có sự cải thiện cơ bản về quyền được thông tin.

  Luật có quy định phát triển về các cuộc họp công khai, và cũng giống như một số luật thuộc thế hệ mới, luật bao gồm tập hợp chi tiết các quy định về việc chủ động công bố thông tin. Luật quy định tất cả các cơ quan nhà nước bao gồm cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, các cơ quan hoạt động từ ngân sách nhà nước, và cơ quan tự quản ở địa phương được thành lập bởi công chúng ở cấp địa phương có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Các thiết chế hoạt động từ ngân sách nhà nước để thực hiện chức năng không liên quan đến quyền lực nhà nước hay sự tự quản, kể cả cơ quan tập trung vào vấn đề sức khoẻ, giáo dục, thông tin, thống kê, tư vấn và tín dụng  cũng nằm trong đối tượng điều chỉnh của luật. Về thủ tục, các yêu cầu có thể được đưa tra bằng miệng, điện thoại, hoặc văn bản qua đường chuyển phát, bưu điện, thư từ hay các kênh điện tử. Thông tin ngắn được yêu cầu bằng miệng sẽ được trả lời bằng miệng. Theo Điều 10, yêu cầu bằng văn bản phải được trả lời trong thời hạn 2 tuần, kể từ ngày nhận yêu cầu đến ngày trả lời được gửi đi (kể cả việc gửi qua bưu điện). Việc trả lời bằng điện tử có thể hoặc kèm theo tài liệu như một file hoặc chỉ dẫn địa chỉ trang Web  phù hợp. Điều 13  quy định nguyên tắc chung mà việc trả lời các yêu cầu về thông tin được miễn phí, nhưng có quy định chi phí bưu điện do người yêu cầu chịu và chi phí sao chụp không vượt quá chi phí thực tế và phù hợp danh mục giá của chính phủ trung ương (có thể được thu đối với những yêu cầu đòi hỏi quá 5 trang bản sao). Phí có thể miễn  với người nghèo.

 Luật quy định chi tiết và ở phạm vi rộng về việc chủ động công bố thông tin, bao gồm các loại thông tin cụ thể phải được công bố như các đạo luật, báo cáo hàng năm của các cơ quan nhà nước, thông qua ngân sách, sự thay đổi về tỷ giá và thuế, các văn bản pháp luật liên quan quản lý tài sản công, cấp đất hoặc nhà cho người nước ngoài…Luật quy định về việc phổ biến tài liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng và qua sổ tay có thể tiếp cận, kể cả bản tóm tắt về hoạt động, quy định nghĩa vụ chung đối với các cơ quan nhà nước phải cung cấp thông tin cho các phưuơng tiện thông tin về hoạt động của mình.

 Điều 20 quy định danh mục 36 nhóm thông tin phải được công bố hằng năm, như thông tin về hoạt động và tổ chức của cơ quan nhà nước, các thủ tục theo đó các cá nhân có thể tiếp cận cơ quan nhà nước, thông tin về tài liệu cơ quan nắm giữ, và cơ chế quản lý thông tin, thông tin về các dự án đang được cơ quan thực hiện, thông tin tài chính về ngân sách và quỹ nhận được từ các cơ quan nước ngoài, và thông tin chi tiết về việc đấu thầu và các hoạt động cạnh tranh công khai.

 Luật của Kirgyzstan là luật duy nhất có quy định đến việc thiết lập một cơ chế tiếp cận thông tin với các cuộc họp công khai (một số nước có đạo luật riêng về vấn đề này).

 Khác với hầu hết các đạo luật về quyền thông tin, luật của Kirgyzstan không bao gồm một danh mục phổ biến về các ngoại lệ nhưng thay vào đó đề cập đến quy định pháp luật về bí mật.

 Điều 36 của luật  quy định chế tài một cách chung chung đối với những cá nhân không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình theo pháp luật, cho dù thực hiện hay không thực hiện, thì phải chịu trách nhiệm hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật hay trách nhiệm vật chất theo quy định của pháp luật hiện hành

8. Luật tiếp cận thông tin của châu Úc (Australia)

  Luật Tự do thông tin của Úc ban hành năm 1982 sửa đổi năm 2005. Điều 11 của Luật quy định quyền tiếp cận với các tài liệu. Tất cả những chủ thể được đề cập trong Luật có quyền thực tế và hợp pháp được tiếp cận các tài liệu: tài liệu của một cơ quan, ngoại trừ các tài liệu được miễn công bố; tài liệu chính thức của một Bộ trưởng, ngoại trừ các tài liệu được miễn công bố. Quyền tiếp cận tài liệu của các chủ thể được quy định trong Luật không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ lý do nào mà một người đưa ra để được tiếp cận tài liệu; và niềm tin của cơ quan hoặc Bộ trưởng về lý do một người đưa ra để được tiếp cận tài liệu.

 Luật cũng đưa ra một loạt các trường hợp một người không có quyền tiếp cận với các tài liệu. Luật quy định một người không có quyền tiếp cận với một tài liệu mà đã trở thành tài liệu của một cơ quan hoặc với một tài liệu chính thức của một Bộ trưởng trước 5 năm kể từ ngày ban hành tài liệu đó, trừ khi: tài liệu hoặc một phần của tài liệu đó chứa những thông tin sau: thông tin cá nhân của một người; thông tin lên quan đến công việc kinh doanh, các vấn đề về thương mại hoặc tài chính của một người (theo điểm a Khoản 2 Mục 12); tài liệu hoặc một phần của tài liệu đó là một tài liệu hoặc một phần của một tài liệu đòi hỏi người tiếp cận cần phải có hiểu biết phù hợp về tài liệu của một cơ quan, hoặc một tài liệu chính thức của một Bộ trưởng mà đòi hỏi người tiếp cận phải được cho phép theo pháp luật.

 Yêu cầu tiếp cận tài liệu phải thể hiện bằng văn bản, cung cấp thông tin liên quan đến tài liệu đủ để xác định được tài liệu, cụ thể hoá địa chỉ có thể gửi thông báo, được gửi tới cơ quan hoặc Bộ trưởng qua đường bưu điện, hoặc chuyển tới viên chức cơ quna hay nhân viên của Bộ trưởng tại địa chỉ bất kỳ văn phòng trung ương hay khu vực ghi trong danh bạ hiện hành; kèm theo lệ phí.

   Khi nhận được một yêu cầu, cơ quan hoặc Bộ trưởng phải:  thực hiện tất cả các biện pháp có thể trên thực tế để thông báo, trong vòng 14 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu bởi hoặc thay mặt bởi cơ quan hoặc Bộ trưởng, cho người nộp đơn rằng đơn của họ đã được tiếp nhận (điểm a Khoản 5 Mục 15); thực hiện tất cả các biện pháp có thể trên thực tế để thông báo, trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu bởi hoặc thay mặt bởi cơ quan hoặc Bộ trưởng, cho người nộp đơn về quyết định liên quan đến yêu cầu của họ (bao gồm một quyết định theo Mục 21 để hoãn lại việc cung cấp tài liệu) (điểm b Khoản 5 Mục 15). Nếu liên quan đến một yêu cầu liên quan đến tài liệu có thể ảnh hưởng tới quan hệ  giữa các nước trong Khối Thịnh vượng chung, liên quan tới các tài liệu về các vấn đề kinh doanh, chứa đựng những thông tin cá nhân thì cơ quan hoặc Bộ trưởng quyết định bằng văn bản  về những thủ tục nêu cụ thể trong luật để mở rộng thời hạn nêu trong Khoản 5(b): thời hạn giải quyết yêu cầu cần tăng thêm 30 ngày; cơ quan hoặc Bộ trưởng phải, trong thời gian sớm nhất có thể, thông báo cho người nộp đơn về thời gian tăng thêm đó.

   Luật có quy định về vấn đề hỗ trợ người yêu cầu và việc chuyển yêu cầu tới cơ quan khác. Luật cũng quy định cụ thể các yêu cầu liên quan tới việc sử dụng máy vi tính tại Mục 17. Các Mục 26A, 27, 27A giành quy định thủ tục yêu cầu liên quan tới các tài liệu mà có thể ảnh hưởng tới các quan hệ giữa các nước trong Khối Thịnh vượng chung, các tài liệu về các vấn đề kinh doanh và các tài liệu chứa đựng những thông tin cá nhân.

 Tạo thuận lợi cho người tiếp cận, Luật yêu cầu phải nêu rõ địa chỉ của những văn phòng chính phủ Khối Thịnh vượng chung trên khắp nước Úc là các Văn phòng tiếp cận thông tin. Người yêu cầu phải được cung cấp thông tin tại Văn phòng gần với nơi sinh sống của người đó nhất. Một người được cung cấp tài liệu không phải trả thêm bất kỳ một khoản lệ phí nào ngoài khoản lệ phí theo quy định người đó phải trả cho việc tiếp cận tài liệu, cho dù làm tăng thêm phí tổn cho cơ quan hoặc Bộ trưởng so với việc thực hiện việc này ở nơi khác.

2.3. Các đặc điểm chung và đặc thù  của pháp luật tiếp cận thông tin và  thực hiện pháp luật tiếp cận  thông tin  của các nước trên thế giới.

   Theo David Banisar, Các luật tự do thông tin/ tiếp cận thông tin trên khắp thế giới có nhiều điểm tương đồng. Nguyên nhân chủ yếu của sự tương đồng này  là các quốc gia ban hành Luật tiếp cận thông tin  thường học hỏi kinh nghiệm các quốc gia đã đi trước và những quy định hợp lý thường được tiếp nhận như là một yếu tố của hội nhập quốc tế. Cũng theo David Banisar thì gần đây có một số Luật tự về do thông tin đã có một số sáng tạo. Các đạo luật mới ban hành đã có một số quy định mới chưa từng có trong các đạo luật trước đây như việc quy định các Uỷ viên thông tin có quyền hạn và chức năng thi hành luật. Việc xem xét đến các lợi ích công cộng   trong quá trình quyết định giữ bí mật hay công bố thông tin cũng như phạm vi điều chỉnh đối với các cơ quan nhà nước ngày càng sâu rộng hơn.

2.3.1 Các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin

  Hầu hết các luật về tự do thông tin/tiếp cận thông tin đều quy định các cơ quan hành pháp có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Một số quốc gia cũng quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan toà án và cơ quan lập pháp. Nhiều quốc gia quy định các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Khái niệm cơ quan nhà nước thường được hiểu là bất kỳ cơ quan nào thực hiện chức năng của Chính phủ. Luật tiếp cận thông tin của Bồ Đào Nha quy định các cơ quan thực hiện chức năng công đều có nghĩa vụ cung cấp thông tin: “ Các cơ quan nhà nước hoặc các khu vực tự trị có thực thi chức năng hành chính, các cơ quan, các thiết chế nhà nước hoặc hiệp hội công cộng, các cơ quan chính quyền  địa phương, cũng như bất kỳ cơ quan có chức năng thực  thi chức năng công theo quy định của pháp luật đều có nghĩa vụ cung cấp thông tin”. Một số quốc gia như Ireland quy định một danh sách các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho công chúng.

2.3.2 Những người có quyền yêu cầu cung cấp thông tin

 Hầu hết các quốc gia hiên nay đều cho phép  bất kỳ người nào  đều có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà không kể  các lợi ích pháp lý có liên quan hay không, có là công dân hay cư trú tại quốc gia đó hay không[27]. Một số quốc gia như Phần Lan còn cho phép việc đưa ra các yêu cầu vô danh nhằm đảm bảo  rằng người yêu cầu cung cấp thông tin không bị phân biệt đối xử. Theo David Banisar việc đặt ra các hạn chế  nghiêm ngặt hơn có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến  quyền tiếp cận thông tin ví dụ như trên thực tiễn một số quan chức Ấn Độ  yêu cầu phải đưa ra các chứng cứ chứng minh mình là công dân Ấn Độ khi họ yêu cầu tiếp cận thông tin mặc dù biết rằng không nhiều người dân Ấn Độ có hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân.

2.3.3  Các thông tin được miễn trừ cung cấp

  Tuy không hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên hầu hết Luật tiếp cận thông tin/ tự do thông tin trên thế giới thường có những quy định về miễn trừ cung cấp các thông tin sau đây:

  • Tài liệu về vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra;
  • Tài liệu nội bộ đang trong quá trình chuẩn bị chưa được chính thức phê chuẩn hoặc thông qua;
  •  Tài liệu thông tin về an ninh quốc phòng;
  •  Tài liệu liên quan đến bí mật thương mại;
  •  Tài liệu liên quan đến bí mật cá nhân;

2.3.4 Xử lý khiếu nại khiếu kiện về từ chối cung cấp và yêu cầu thông tin

  Luật tiếp cận thông tin của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định về việc xử lý khiếu nại, khiếu kiện về việc từ chối cung cấp thông tin, tuy nhiên cách thức xử lý có thể bằng các con đường khác nhau. Bất kỳ quốc gia nào muốn cho việc xử lý khiếu nại khiếu kiện có hiệu quả cao thì phải đảm bảo tính độc lập của hệ thống cơ quan cơ quan thực hiện quyền giám sát thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Hệ thống cơ quan giám sát độc lập có thẩm quyền tiếp nhận, điều tra và giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện của các cá nhân, tổ chức.  Trên thế giới hiện nay, trừ con đường giải quyết

nội bộ hành chính có hai cách lực chọn khác nhau về việc tổ chức cơ quan giám sát độc lập này. Cách thứ nhất là thành lập Uỷ ban thông tin độc lập hay Thanh tra nhà nước/Thanh tra Quốc hội ( hoặc Cao uỷ viên về quyền tiếp cận thông tin). Ví dụ, các nước Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch có Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của cá nhân cùng với các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội khác của họ.  Luật tiếp cận thông tin của Slovenia 2003 quy định:  Cao uỷ viên về tiếp cận thông tin công là  cơ quan độc lập, có thẩm quyền xem xét  và ra quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến việc từ chối đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin, hoặc không chấp nhận yêu cầu cung cấp thông tin. Cao uỷ viên do Quốc hội nước cộng hoà Slovenia bổ nhiệm theo sự giới thiệu của Tổng thống nước cộng hoà. Nhiệm kỳ của Cao uỷ viên là 5 năm và không quá hai nhiệm kỳ. Ngân sách phục vụ cho hoạt động của Cao uỷ viên do Quốc hội quy định theo đề nghị của Cao uỷ viên. Cao uỷ viên có thể bị Quốc hội bãi nhiệm theo yêu cầu của ít nhất là 1/3 đại biểu Quốc hội và được đa số  đại biểu tán thành  (Điều 27, Điều 28, Điều 29). Cách thứ hai  mà một số quốc gia khác lựa chọn là hệ thống toà án tư pháp giải quyết khiếu kiện về tiếp cận thông tin. Theo

nhận  xét của chuyên gia hàng đầu của Liên hợp quốc về quyền tiếp cận thông tin thì cách mà phần lớn các quốc gia đã ban hành Luật tiếp cận thông tin lựa chọn là thành lập cơ quan giám sát và giải quyết khiếu nại, khiếu kiện độc lập – Cao uỷ viên thông tin.

2.3.5 Các khoản lệ phí cung cấp thông tin

  Luật tiếp cận thông tin/tự do thông tin của đa số các nước trên thế giới cho phép Chính phủ được thu lệ phí đối với người yêu cầu cung cấp thông tin.Cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin sẽ phải chịu hoàn toàn phí tổn của việc sao chép thông tin được yêu cầu. Mức lệ phí sẽ được nêu ở quy định về thủ tục hành chính của mỗi một cơ quan công cộng. Theo David Banisar, các khoản lệ phí thường được quy định trong việc cung cấp thông tin là lệ phí nộp đơn, tìm kiếm, sao chép và lệ phí khiếu nại. Các khoản lệ phí không nên đặt ra quá cao vì nó sẽ làm giảm các yêu cầu cung cấp thông tin. Ở Ireland, sau khi các khoản lệ phí mới ban hành đối với việc yêu cầu cung cấp thông tin và khiếu nại, số yêu cầu đã giảm hơn 50%[28]. Ở Nhật Bản, các cơ quan chính phủ chia các yêu cầu thành nhiều yêu cầu khác nhau do đó thu lệ phí cao hơn và vượt qua khả năng chi trả của một người dân bình thường. Theo Báo cáo tự do thông tin toàn cầu năm 2006 các khoản lệ phí có thể tạo ra các rào cản hành chính không cần thiết và làm giảm số các yêu cầu hơn là một cơ chế để bồi hoàn các chi phí đã bỏ ra.  Ở Ấn Độ, nhiều cơ quan đã yêu cầu phải nộp các hối phiếu ngân hàng có giá trị gấp đôi khoản tiền lệ phí nộp đơn hoặc từ chối việc tiếp cận thông tin bằng việc đặt ra các thủ tục hành chính rườm rà trong việc thu lệ phí[29]. Các quốc gia khi xây dựng  Luật tiếp cận thông tin cần phải lưu ý rằng các khoản lệ phí cũng có thể bị lạm dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật.  Kinh nghiệm thực tiễn ở Canada cho thấy các cơ quan trung ương và tỉnh thường yêu cầu các khoản lệ phí khá lớn khi tiếp nhận yêu cầu và tạo ra một thách thức đối với người yêu cầu cung cấp thông tin. Việc đưa ra những mức lệ phí quá cao đã làm giảm khả năng tiếp cận thông tin của người có thu nhập thấp. Theo David Banisar , Uỷ viên thông tin của Canada đã chỉ trích Chính phủ một cách mạnh mẽ khi Chính phủ yêu cầu phải nộp 1,6 triệu đô la cho một yêu cầu mà Uỷ viên thấy rằng có thể thực hiện một cách nhanh chóng thông qua việc sử dụng phầm mềm hiện có. Ở Australia, các chi phí pháp lý để thực hiện khiếu nại hoặc khởi kiện ra toà quá cao dẫn đến hậu quả tất yếu là chỉ có một số ít người có khả năng chi trả để thực hiện quyền của mình[30].

2.3.6 Văn hoá giữ bí mật – sự khó khăn  và cản trở việc đưa pháp luật vào cuộc sống ở một số quốc gia

   Theo Báo cáo tự do thông tin thế giới năm 2006, do các yêu cầu về minh bạch và cởi mở  trên toàn cầu nên nhiều quốc gia đã ban hành Luật tiếp cân/tự do thông tin, tuy nhiên chỉ trên danh nghĩa mà không phải là thực chất. Về vấn đề này David Banisar đã đưa ra ví dụ ở Zimbabwe: “ Tình huống đáng xấu hổ và dễ gây nhầm lẫn nhất là Luật tiếp cận thông tin và Bảo vệ quyền riêng tư ở Zambabwe. Luật này trên thực tế lại được sử dụng để  đưa ra các quy định nghiêm ngặt đối với các nhà báo cũng như để đóng cửa  gần như tất cả các tờ báo đã không ủng hộ Chính  phủ một cách vô điều kiện và bỏ tù hoặc trục xuất  tất cả các nhà báo không hợp tác. Các quy định về tiếp cận thông tin của luật này gần như không được sử dụng đến, có lẽ do mọi người đã quá sợ hãi và không có đủ can đảm đưa ra các yêu cầu cung cấp thông tin mà biết rằng sẽ bị trừng phạt bởi những người ủng hộ Chính phủ.[31] Các đạo luật cũng được ban hành ở Uzbekistan với rất nhiều khó khăn có thể dự đoán trước và không dể gì có được tự do thông tin với các quốc gia có vấn đề nghiêm trọng về nhân quyền và tự do ngôn luận”.  David Banisar cũng đã đưa ra một ví dụ khác minh chứng về ảnh hưởng tiêu cực của các văn bản pháp quy dưới luật đã không tuân thủ nguyên tắc cơ bản của luật và làm vô hiệu hoá luật. Đó là trường hợp ở Panama Luật tiếp cận thông tin đã được ban hành vào năm 2002 và sau đó Chính phủ ngay lập tức đã đưa ra một quy định yêu cầu các cá nhân khi đưa ra một yêu cầu cung cấp thông tin phải chứng minh mình có lợi ích pháp

lý liên quan, một sự trái ngược với luật. Nghị định này chỉ được bãi bỏ sau khi Chính phủ mới được thành lập.

  Trong thực tiễn ở nhiều Quốc gia, đặc biệt là các nước châu Á và châu Phi  văn hoá bí mật vẫn còn ngự trị. Việc  xây dựng  và phát triển một nền văn hoá minh bạch và cởi mở chắc chắn sẽ gặp nhiều lực cản. Các quan chức Chính phủ  phải có thời gian  học hỏi để thay đổi tư duy chuyển từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ, coi thông tin mình nắm giữ không phải là tài sản của riêng mình mà là tài sản của công chúng. Cung cấp thông tin cho công chúng là nghĩa vụ của công chức, nghĩa vụ của Chính phủ.

2.4. Những kinh nghiệm có thể áp dụng v ào Việt Nam:

    Nhìn chung, luật tiếp cận hay tự do thông tin các quốc gia đặc biệt là các luật ban hành hay sửa đổi trong những năm gần đây đều có quy định cụ thể và cởi mở về quyền tiếp cận thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tiếp cận với các thông tin của các cơ quan nhà nước và các cơ quan thực hiện chức năng công khác. Luật phần lớn các nước đều quy định mục đích của luật nhằm hướng đến xây dựng bộ máy nhà nước dân chủ, minh bạch và cởi mở với người dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào các quyết định của nhà nước, giám sát cơ quan công quyền, phòng và chống tham nhũng, đồng thời cũng tạo điều kiện mọi người được công bằng trong tiếp cận với thông tin được xem như là một nguồn lực để phát triển kinh tế, bảo đảm lợi ích cá nhân, tổ chức.

 Luật của phần lớn các quốc gia quy định rất rộng các cơ quan phải cung cấp thông tin, thường không chỉ bao gồm cơ quan hành chính mà cả các cơ quan khác trong bộ máy chính quyền, các tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng ngân sách nhà nước hay thực hiện chức năng công, được cơ quan nhà nước uỷ quyền hay hỗ trợ, các quỹ công…Một số luật chỉ điều chỉnh phạm vi cung

cấp thông tin của các cơ quan hành chính nhà nước, còn các cơ quan, tổ chức khác có sử dụng ngân sách nhà nước việc cung cấp thông tin thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật khác. Luật đa số các nước cho phép yêu cầu tiếp cận bằng cả các hình thức gửi email hay điện thoại. Luật đa số các nước quy định cụ thể phạm vi ngoại trừ không cung cấp thông tin, và dựa trên đánh giá nguy cơ gây hại của việc cung cấp thông tin với lợi ích công cộng được bảo vệ. Một số nước mở rộng phạm vi thông tin bao gồm cả tài sản công các cơ quan chi dùng, lương cán bộ, nhân viên…Đa phần luật các nước cũng quy định việc công bố thông tin một phần, những thông tin không thuộc phạm vi ngoại lệ có thể tách khỏi các thông tin ngoại lệ thì phải cung cấp cho người dân.

  Thủ tục cung cấp thông tin được nhiều luật quy định chi tiết, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được tiếp cận thông tin một cách bình đẳng, nhanh chóng, thuận tiện, rẻ, chất lượng và cập nhật, coi cung cấp thông tin là một nghĩa vụ của cơ quan nhà nước với người dân. Luật nhiều nước quy định chặt chẽ thời hạn phải trả lời, thời hạn phải cung cấp đầy đủ thông tin, và quy định về việc thông tin có liên quan đến người thứ ba. Các quy định cụ thể, chặt chẽ giúp cho người dân dể dàng tiếp cận thông tin, tránh việc các cán bộ nhà nước phiền nhiễu, hạch sách, đùn đẩy trách nhiệm hay vi phạm quyền và lợi ích của người dân. Luật nhiều nước quy định miễn phí hay mức phí phù hợp, cán bộ nhà nước không thể thu thêm ngoài quy định.

   Luật  tiếp cận thông tin ở phần lớn các nước cũng quy định cụ thể cơ chế giải quyết khiếu nại, cơ chế khiếu kiện ra Toà án. Nhiều nước thiết lập một cơ quan hay hệ thống cơ quan giám sát và giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin hoạt động độc lập. Luật pháp một số nước có quy định cụ thể về các chế tài xử lý người vi phạm, bao gồm xử phạt bằng tiền, các quy định bảo vệ người tố cáo vi phạm, và các quy định thúc đẩy thực thi Luật.

   Tại Việt Nam, các cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách hay thực hiện chức năng công quyền rất rộng và yêu cầu minh bạch hoá hoạt động của hệ thống cơ quan công quyền, chống tham nhũng  là đòi hỏi bức xúc hiện nay, vì thế quá trình xây dựng dự thảo Luật tiếp cận thông tin cần tham khảo luật các nước khác, cả quá trình thực hiện, để có thể ban hành một đạo luật có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Luật cần chi tiết về các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh, quy định cụ thể các thông tin cần công khai, các thông tin ngoại lệ, đặc biệt là thủ tục cung cấp thông tin, cũng như chế tài xử phạt người vi phạm luật, bảo vệ người tố cáo, cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, và có cơ chế thúc đẩy luật có hiệu lực trên thực tế. Từ kinh nghiệm của các nước đã ban hành và thực hiện Luật tiếp cận/tự do thông tin , chúng tôi thấy rằng Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam phải thể hiện  được các nội dung cơ bản sau đây:

 

  • Xác định thông tin do Chính phủ nắm giữ là một trong những tài sản quốc gia, thuộc quyền sở hữu của nhân dân, quyền tiếp cận thông tin do Chính phủ nắm giữ là một trong những quyền quan trọng của con người và công dân, cung cấp thông tin công cho cá nhân là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước.
  • Phạm vi cung cấp thông tin là tất cả các thông tin chính thức ngoại trừ  các thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật thương mại, bí mật cá nhân, và các thông tin liên quan đến hoạt động  điều tra, truy tố tội phạm. Danh sách các thông tin miễn trừ cung cấp phải công khai cho dân chúng được biết.
  • Khi xẩy ra tranh chấp giữa việc xác định một thông tin cần được công khai hay không công khai thì nguyên tắc xác định dựa trên lợi ích cho xã hội từ việc công bố hay không công bố mang lại. Khi lợi ích của việc công bố lớn hơn lợi ích không công bố thì thông tin cần được công bố cho dân chúng biết. Quyền quyết định công bố thông tin thuộc Cao uỷ viên thông tin,một chức vụ hiến định do Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
  • Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là tất cả cá nhân gồm công dân Việt Nam, công dân nước ngoài và người không có quốc tịch;
  • Cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp có trên 50% vốn của nhà nước;
  • Thủ tục tiếp cận thông tin do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định bằng một Pháp lệnh về thủ tục tiếp cận thông tin;
  • Các khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin được giải quyết bởi Uỷ ban thông tin độc lập là cơ quan hiến định do Quốc hội thành lập;
  •  Lệ phí cung cấp thông tin do Pháp lệnh về thủ tục cung cấp thông tin quy định;
  • Các biện pháp đảm bảo thực hiện Luật tíêp cận thông tin bao gồm chế tài hành chính và chế tài hình sự.

                                           

  

                                              

 

                                                   Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬTVỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM  HIỆN NAY

3.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về  tiếp cận thông tin ở Việt Nam

    Ở nước ta quyền được thông tin tuy chưa được quy định trực tiếp trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, tuy nhiên trong mấy chục năm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước vẫn tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận thông tin phù hợp hoàn cảnh của đất nước. Đến Đại hội VII của Đảng năm 1991, quyền được thông tin đã được xác định trong Cương lĩnh của Đảng, là cơ sở để năm 1992, Hiến pháp mới được thông qua bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật”. Sự bổ sung này là kết quả của quá trình đổi mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền được thông tin và thông tin là quyền cơ bản của công dân, do đó đặt trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan Nhà nước phải cung cấp thông tin cho công dân và phải có biện pháp cụ thể để công dân thực hiện quyền này một cách có hiệu quả trên thực tế. Nhiều đạo luật và văn bản pháp quy được ban hành cụ thể hoá quy định của Hiến pháp. Tuy nhiên, việc thể chế và chi tiết hoá quyền được thông tin còn chậm, và chưa có tính hệ thống, đồng bộ, chưa có một cơ chế pháp lý cụ thể để bảo đảm thực hiện quyền này một cách có hiệu quả, nên quyền được thông tin của Việt Nam còn bị vi phạm nghiêm trọng.

   Sau khi Hiến pháp 1992 được ban hành, đã có nhiều văn bản quy định quyền được thông tin trong một số phạm vi cụ thể.

   Nhằm cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền được thông tin, phát huy dân chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân ở cấp cơ sở, năm 1998 Chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, được sửa đổi năm 2003 trong đó quy định những việc chính quyền địa phương phải có trách nhiệm thông tin và công khai để dân được biết những công việc ở địa phương. Gần đây, Quốc hội cũng ban hành nhiều luật, trong đó có quy định về công khai thông tin như thông tin về ngân sách, tài chính công (Luật Ngân sách nhà nước), thông tin về tài chính kế toán doanh nghiệp (Luật Kế toán), thông tin về kiểm toán và kết quả kiểm toán (Luật Kiểm toán nhà nước), công khai về nhà ở, quỹ nhà, nhà ở thương mại (Luật nhà ở) và công khai minh bạch trong hoạt động của nhà nước yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức và cá nhân quy định trong Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; cung cấp thông tin trong lĩnh vực môi trường (Luật bảo vệ môi trường năm 2005); thông tin, truyền thông về phòng chống bệnh truyền nhiễm (Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007). Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, là diễn đàn, tiếng nói của mọi tầng lớp trong xã hội. Xét về mặt lịch sử, các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản được pháp luật quy định từ khá sớm, có thể thấy trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam.

   Luật Báo chí năm 1989 sửa đổi năm 1999 đã quy định: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí (Điều 2). Luật cũng quy định trách nhiệm của báo chí là đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân. Điều 7 Luật báo chí quy định việc cung cấp thông tin cho báo chí vừa là quyền, vừa được coi là nghĩa vụ của các cơ quan và công chức nhà nước. Điều 8 quy định người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người có chức vụ trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí. Cụ thể hoá Luật Báo chí, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 quy định chi tiết việc thi hành Luật Báo chí. Theo Nghị định này, nhà báo có quyền đến cơ quan, tổ chức để thu thập thông tin, tra cứu tài liệu, làm nghiệp vụ báo chí; được thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND các cấp, các đại hội và hội nghị công khai, các cuộc mít tinh, đón tiếp khách của Đảng, Nhà nước, được hoạt động nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên toà xét xử công khai… Ngoài các hình thức yêu cầu cung cấp thông tin một cách trực tiếp và thông qua báo chí, công chúng còn có thể đưa ra yêu cầu tiếp cận với thông tin của các cơ quan nhà nước qua một số kênh khác như thông qua các đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp, hoặc qua các cuộc họp dân, hay thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. 

 Luật xuất bản năm 2004 quy định cho phép các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội và tổ chức khác được thành lập nhà xuất bản và cho phép các nhà xuất bản được liên kết với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về in hoặc phát hành xuất bản phẩm và tổ chức có tư cách pháp nhân để tổ chức bản thảo, in và phát hành từng xuất bản phẩm.

 Các đạo luật tổ chức các cơ quan nhà nước cũng quy định về công khai hoạt động, cung cấp tin tức để người dân được tiếp cận thông tin. Các đạo luật về tố tụng cũng quy định công khai trong hoạt động xét xử.

  Tuy nhiên chưa có một văn bản nào giải thích khái niệm quyền được thông tin của công dân là gì, mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm của cơ quan công quyền, công khai minh bạch trong một số lĩnh vực và quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân, công dân, cơ quan báo chí được yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan, có trách nhiệm cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan, tổ chức.

3.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay

3.2.1. Quyền tìm kiếm, trao đổi thông tin

Quyền tiếp cận thông tin trước hết thể hiện ở quyền tự do tìm kiếm, trao đổi thông tin. Ngoài việc tìm kiếm thông tin bằng các phương tiện nghe, nhìn, và thông tin trong sách, báo truyền thống, việc tìm kiếm thông tin có thể thực hiện thông qua mạng internet. Theo quy định của Luật công nghệ thông tin năm 2006, các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin có quyền tìm kiếm trao đổi, sử dụng thông tin trên môi trường mạng, có quyền yêu cầu khôi phục thông tin của mình hoặc khôi phục  khả năng truy cập  đến nguồn thông tin của mình, từ chối cung cấp  hoặc nhận trên môi trường mạng sản phẩm, dịch vụ trái với quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về việc đó (Điều 8).

3.2.2 Quyền yêu cầu cung cấp thông tin

Các cá nhân và tổ chức có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà các cơ quan công quyền đang nắm giữ loại trừ các thông tin mật. Luật phòng chống tham nhũng ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp thông thông tin của cá nhân, cơ quan, tổ chức ( trong đó có cơ quan báo chí, các phóng viên). Cơ quan, tổ chức được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu đó theo quy định của pháp luật, trường hợp không cung cấp thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do (Điều 86). Luật phòng, chống tham nhũng còn quy định nghĩa vụ của cơ quan thanh tra cung cấp thông tin về phòng chống tham nhũng cho bộ, ngành, địa phương. Theo quy định tại Điều 18 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị về cung cấp thông tin Thanh tra chính phủ có nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu. Theo quy định tại Điều 6  Nghị định số 47- 2007/ NĐ- CP  cơ quan nhà nước có nghĩa vụ cung cấp thông tin về hoạt động của mình trong công tác phòng chống tham nhũng cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.

3.2.3 Quyền phổ biến thông tin

 Quyền phổ biến thông tin là một  yếu tố quan trọng của quyền tiếp cận thông tin. Phổ biến thông tin là quyền được truyền đạt thông tin của mình có cho người khác, nhờ sự truyền đạt này mà thông tin của một cá nhân, tổ chức tạo ra đến được với nhiều cá nhân , tổ chức khác. Thông qua sự phổ biến này mà thông tin thể hiện được  giá trị của mình. Ngày nay với công nghệ tin học, khi một thông tin được đưa lên mạng trong giây lát nó có thể đến với hàng triệu người, nhờ vậy những thông tin có giá trị khoa học và thực tiễn cao có  thể dể dàng thể hiện được giá trị của mình nếu nó được phổ biến. Luật xuất bản năm 2004 đã quy định  nguyên tắc đảm bảo quyền phổ biến tác phẩm và bảo hộ quyền tác giả. Tại Điều 5 Luật này đã quy định: “ Nhà nước đảm bảo quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả”. Dưới hình thức xuất bản phẩm và bảo hộ quyền tác giả các thông tin chứa đựng các ý tưởng sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ sẽ được phổ biến và lưu truyền, quyền của người sáng tạo ra tác phẩm sẽ được bảo vệ. Tuy nhiên, quyền phổ biến thông tin ở Việt Nam hiện nay bên cạnh những ưu điểm, những mặt tích cực trên thực tiễn  vẫn đang tồn tại những biểu hiện lệch lạc. Một mặt, một số nhà xuất bản thiếu mạnh dạn, thiếu can đảm công bố các công trình nghiên cứu nói về mặt trái trong cấu trúc các thiết chế chính trị, chính tri-xã hội, chế độ bầu cử, các biểu  hiện của dân chủ hình thức bằng cách không xuất bản hoặc cắt xén  các phần gai góc trong các công trình nghiên cứu. Nhiều người chỉ muốn cho võ quả trứng luôn tròn trịa, không bị sứt vỡ mà không biết rằng gà con chỉ có thể ra đời khi võ quả trứng bị vỡ. Mặt khác, chúng ta chưa xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm bí mật đời tư, vi phạm các quy tắc bảo vệ thuần phong, mỹ tục khi thỉnh thoảng chúng ta lại phải chứng kiến  những hình ảnh tục tĩu , hoặc những thông tin thuộc bí mật cá nhân lại được phát tán trên mạng.

3.2.4 Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân thông qua các quy định về trách nhiệm công khai thông tin của các cơ quan, tổ chức.

  Ở Việt Nam mặc dù, chưa có đạo luật riêng  về quyền tiếp cận thông tin, nhưng nghĩa vụ của các cơ quan công quyền trong việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin cho công dân đã được thể hiện trong  nhiều văn bản  luật khác nhau. Khoản 3 Điều 3  Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “ Bảo đảm tính công khai trong  quá trình xây dựng, ban  hành văn bản quy phạm pháp luật trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước; đảm bảo tính minh bạch trong các quy định của pháp luật”. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 78  Luật ban hành văn bản quy phạm  pháp luật 2008 Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng công báo thì không có hiệu lực thi hành ( trừ văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước). Trong thời gian chậm nhất là 2 ngày làm việc kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gửi văn bản đến cơ quan Công báo để đăng công báo. Cơ quan Công báo có trách nhiệm đăng toàn văn văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo trong 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 78 của Luật nói trên thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản  nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.

 Theo Điều 3 Luật ngân sách nhà nước năm 2002, ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch;  Khoản 1 Điều 13  của luật này quy định  dự toán, kiểm toán, kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước, ngân sách các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hổ trợ phải công bố công khai. Theo Luật kế toán 2003 đơn vị kế toán  là cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước phải công khai quyết toán thu, chi ngân sách hàng năm và các khoản thu, chi tài chính khác (Điều 32).  Điều 58,  59 Luật kiểm toán năm 2005 quy định báo cáo kiểm toán năm và báo cáo thực hiện kết luận , kiến nghị  kiểm toán của Kiểm toán nhà nước  sau khi trình Quốc hội sẽ được công bố công khai theo các hình thức họp báo, công bố trên công báo và phương tiện thông tin đại chúng…

 Mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về việc công khai thông tin tuy nhiên rất it văn bản quy  định về nghĩa vụ cung cấp thông tin khi công dân yêu cầu.  Do không có một đạo luật riêng quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của tất cả các cơ quan công quyền nên, như kết quả khảo sát đã trình bày ở phần “Tình hình nghiên cứu”hầu hết các cơ quan, cán bộ, công chức chưa nhận thức được một cách sâu sắc rằng họ có nghĩa vụ cung cấp thông tin công do họ đang nắm giữ ( trừ các thông tin mật) cho các cá nhân và tổ chức khi họ yêu cầu.

  3.2.5. Nội dung, phạm vi các vấn đề, lĩnh vực cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai trong hoạt động, bảo đảm quyền được biết của công dân trong một số văn bản pháp luật.

  Các vấn đề, lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan công quyền phải công khai được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

 Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 tại Điều 5 liệt kê 11 lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai cho dân biết, bao gồm liên quan: kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự án, công trình đầu tư, nhiệm vụ, quyền hạn cán bộ công chức của cấp xã; việc quản lý vả sử dụng các loại quỹ, chủ trương kế hoạch cho nhân dân vay vốn để phát triển sản xuất,…

    Luật kế toán năm 2003 quy định nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và đơn vị sự nghiệp không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước

 Luật Kiểm toán năm 2005 quy định: công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58). Báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội được công bố công khai theo quy định của pháp luật. Điều 59 của Luật quy định: công khai báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán sau khi phát hành được công bố công khai cùng với báo cáo tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Luật kế toán.

 Trên lĩnh vực nhà ở, Nghị định số 90/2006 ngày 13/9/2006 quy định chi tiết hướng dẫn Luật Nhà ở năm 2005 có quy định UBND cấp tỉnh cso trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại.

 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 quy định nội dung nguyên tắc công khai, minh bạch tại Điều 11: Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ. Từ Điều 13 đến Điều 30 quy định 18 nội dung các lĩnh vực, cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ công quyền phải công khai như: trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản; trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản; về tài chính và ngân sách nhà nước; trong việc huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân; trong việc quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ; trong quản lý doanh nghiệp nhà nước; trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước; trong quản lý sử dụng đất…v.v.   Điều 33 quy định công khai báo cáo hàng năm về kết quả công tác đấu tranh chống tham nhũng.

 Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005 tại Điều 6 quy định các lĩnh vực công khai bao gồm phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước; tài sản và kế hoạch mua sắm, sử dụng tài sản trong cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước;…v.v.

 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 tại Điều 104 quy định công khai thông tin, dữ liệu về môi trường bao gồm: báo cáo đánh giá tác động môi trường, quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế hoạch thực hiện các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; cam kết bảo vệ môi trường đã đăng ký;…v.v.

 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 tại Điều 8 có quy định văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được đăng Công báo cấp tỉnh. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp quy định tại đoạn 2 Khoản 1 Điều này.

 Trước đó, Nghị định số 104/NĐ-CP ngày 23/3/2004 của Chính phủ về Công báo nước CHXHCN Việt Nam cũng quy định các văn bản phải đăng trên công báo ở trung ương.

Quy định về công khai cũng được quy định tại Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật năng lượng nguyên tử năm 2008, Luật đa dạng sinh học năm 2008, Luật cư trú năm 2006, Luật Điện lực năm 2004, Luật dược năm 2004, Luật đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Xây dựng năm 2003, Luật công nghệ thông tin, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.

 Nhằm tiếp tục bảo đảm tính công khai minh bạch trên lĩnh vực quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, ngày 13/9/2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 92/2006 yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh có trách nhiệm công khai quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội cả nước, các vùng, các tỉnh, huyện, các ngành, lĩnh vực để mọi công dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận nghiên cứu và khai thác…

 Trong các văn bản này và các văn bản hướng dẫn thi hành, có quy định về các hình thức công khai thông tin và cách thức cung cấp thông tin, quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm, thời hạn cơ quan công quyền phải cung cấp trả lời, cũng như các hình thức xử lý vi phạm mặc dù có thể chưa cụ thể, rõ ràng.

 Nhìn chung, pháp luật nước ta đã từng bước hoàn thiện theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy công quyền. Đáng chú ý là các văn bản pháp luật được ban hành sau việc quy định trách nhiệm công khai minh bạch và cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước có phần rõ hơn so với các văn bản ban hành trước. Tuy nhiên nếu nhìn vào hiện trạng pháp luật và quá trình thực thi pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy quyền được tiếp cận thông tin của công dân Việt Nam vẫn còn hạn hẹp, nhiều bất cập khó thực hiện trên thực tế và có lúc có nơi vẫn còn bị vi phạm nghiêm trọng.

 Việc tiếp cận thông tin do các cơ quan công quyền còn rất khó khăn, vì thế tính công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan này chưa được thực hiện, cụ thể như trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai,…Vì thế hiện tượng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật trong các cơ quan công quyền còn phổ biến, dẫn đến hiện tượng khiếu kiện đông người, kéo dài hay vượt cấp…

 Việc thiếu các quy định cụ thể về thủ tục, trình tự yêu cầu, biện pháp xử lý vi phạm dẫn tới việc khai thác, tìm kiếm thông tin từ cơ quan công quyền vẫn thường hay bị gây phiền hà. Quyền được phổ biến thông tin, bày tỏ quan điểm, tiếp nhận thông tin một cách tự do gắn với quyền được thông tin còn thiếu cơ chế để thực hiện, các quy định hiện hành rất mờ nhạt. Hiện tượng bưng bít thông tin của các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất làm thiệt hại đến lợi ích của người dân khá phổ biến . Các phương tiện truyền thông còn bị hạn chế trong tiếp cận các thông tin từ phía các cơ quan công quyền, tổ chức và doanh nghiệp. Công tác phổ biến pháp luật còn yếu kém. Trình độ dân trí còn thấp, các hoạt động báo chí, truyền thanh, truyền hình , xuất bản còn nhiều hạn chế, vì thế người dân chưa nhận thức được đầy đủ quyền của mình, thậm chí có khi thờ ơ với thông tin từ phía nhà nước. Ngoài ra hiện cũng chưa có quy định người phát ngôn của cơ quan công quyền phải tiếp nhân, trả lời các yêu cầu trực tiếp của công chúng.  

 Các văn bản về thông tin miễn trừ tiếp cận (quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật phòng chống tham nhũng, Luật Bảo vệ môi trường, Quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ v.v. ) quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, thiếu tính đồng bộ…cản trở cho việc tiếp cận thông tin của người dân hay gây khó khăn cho cơ quan, cán bộ cung cấp thông tin cho người dân cũng như làm công tác bảo mật.

 Xuất phát từ thực tiến tổ chức, lãnh đạo và quản lý nhà nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra chủ trương nghiên cứu ban hành Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Đây là cơ sở để thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin của người dân, góp phần vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, hủ hoá, quan liêu trong bộ máy nhà nước và các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước.

  1. Thực trạng thực hiện pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay

3.3.1 Thực hiện quyền được thông tin thông qua quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản

Trước hết nói đến quyền được thông tin thì không thể không nói đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và xuất bản vì theo quy định tại Điều 19 Khoản 2 của Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966, quyền được thông tin nằm trong khái niệm quyền tự do ngôn luận[32]; tiếp đó, bảo đảm quyền được thông tin, cần làm rõ nội dung các lĩnh vực/vấn đề mà Nhà nước/cơ quan công quyền nắm giữ thông tin cần phải công khai, minh bạch để người dân biết; và yếu tố đặc biệt quan trọng là các quy định về quy trình, thủ tục, cách thức công khai, và các hình thức xử lý vi phạm.

          Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, là diễn đàn, tiếng nói của mọi tầng lớp trong xã hội. Thông qua báo chí, người dân được bày tỏ quan điểm, nguyện vọng với Đảng, Nhà nước; và đồng thời cũng qua báo chí, Nhà nước cung cấp quan điểm đường lối, chủ trương chính sách, pháp luật của mình đến các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, các cơ quan truyền thông đại chúng, đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải thông tin về các hoạt động của Nhà nước tới quần chúng nhân dân.

     Cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992, Điều 2 Luật Báo chí năm 1989 quy định: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí...Theo Luật này, công dân có quyền: Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới; Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.

          Bên cạnh việc quy định các quyền trên, Luật cũng quy định trách nhiệm của báo chí là: Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do; Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến. Điều 7 quy định việc cung cấp thông tin cho báo chí vừa là quyền, vừa được coi nghĩa vụ của các cơ quan và công chức nhà nước.

Cụ thể hoá Luật Báo chí, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 quy định chi tiết việc thi hành Luật báo chí, theo Điều 8 của Nghị định, nhà báo có quyền: (a) Được đến các cơ quan, tổ chức, thư viện, bảo tàng, triển lãm để thu thập thông tin, tra cứu tài liệu, làm nghiệp vụ báo chí. Khi đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo. Các cơ quan nhà nước không được từ chối cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu không thuộc phạm vi quy định trong Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước; (b) Được thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND các cấp, các đại hội và hội nghị công khai, các cuộc mít tinh, đón tiếp khách của Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức khác theo giấy mời và các quy định cụ thể của Ban Tổ chức các hoạt động đó; (c) Được hoạt động nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên tòa xét xử công khai, được dành chỗ ngồi riêng, được liên lạc trực tiếp với các thẩm phán, luật sư để lấy tin, phỏng vấn theo quy định của pháp luật.

          - Bảo đảm quyền được thông tin qua hoạt động xuất bản, Luật xuất bản năm 2004 quy định cho phép các cơ quan nhà nước, tổ tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức khác được thành lập nhà xuất bản (Điều 11) và cho phép các nhà xuất bản được liên kết với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về in hoặc phát hành xuất bản phẩm và tổ chức có tư cách pháp nhân để tổ chức bản thảo, in và phát hành từng xuất bản phẩm (Điều 20). Đặc biệt, Luật này quy định rõ: (1) Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả; (2) Nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm trước khi xuất bản. (3) Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được lợi dụng quyền phổ biến tác phẩm làm thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 

3.3.2  Thực hiện pháp luật bảo đảm quyền được thông tin trong hoạt động của cơ quan dân cử và cơ quan tư pháp

a) Hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp

Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, Quy chế Hoạt động của Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đều quy định nguyên tắc chung về tính công khai trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Điều 67 Luật Tổ chức Quốc hội quy định: “Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín”.

Điều 31, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: Hội đồng nhân dân họp công khai. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định họp kín theo đề nghị của chủ toạ kỳ họp hoặc của Chủ tịch uỷ ban nhân dân cùng cấp. Ngày họp, nơi họp và chương trình kỳ họp HĐND phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là 5 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.

Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản pháp luật của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đều phải công khai và đăng trên công báo.

b) Tiếp cận thông tin trong hoạt động của cơ quan tư pháp (hoạt động điều tra, truy tố, xét xử)

Điều 29 Luật phòng chống tham nhũng quy định nguyên tắc chung rằng: “Việc thụ lý, điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định của pháp luật về tố tụng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

- Công khai trong hoạt động điều tra: Về nguyên tắc, thông tin trong hoạt động thụ lý vụ án, về điều tra, về truy tố phải được công bố. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của hoạt động điều tra vụ án là một lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ đặc thù; hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, đây là lĩnh vực bí mật công tác. Điều 124 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: cán bộ điều tra không được tiết lộ bí mật điều tra. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải báo trước cho người tham gia tố tụng, người chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều tra. Việc báo này phải được ghi vào biên bản. Và nếu Điều tra viên, Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng, người chứng kiến tiết lộ bí mật điều tra thì tùy trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều 263, 264, 286, 287, 327 và 328 của Bộ luật hình sự[33].

- Trong hoạt động xét xử, nếu như thông tin trong quá trình điều tra vụ án là vấn đề thuộc bí mật nghề nghiệp, cán bộ điều tra không được tiết lộ, thì hoạt động xét xử tất cả các vụ án nói chung đều phải tuân theo nguyên tắc: Toà án xét xử công khai. Trừ trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai (Điều 15 BLTTDS và Điều 18 BLTTHS).

- Về bản án: Nguyên tắc chung bản án được giao cho các bên có liên quan.

          3.3.3 Thực hiện pháp luật về tiếp cận thông tin trong hoạt động hành chính nhà nước

Bảo đảm quyền được thông tin/quyền được biết về các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động của Nhà nước. Vì cơ quan hành chính là cơ quan thực hiện chức năng quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi mọi mặt của nhân dân. Chính vì vậy, một trong các nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là phải tuân theo nguyên tắc công khai, minh bạch, bảo đảm tính trách nhiệm giải trình. Bởi lẽ, chỉ có công khai, minh bạch, tính trách nhiệm giải trình thì người dân mới có thể dễ dàng tiếp cận hồ sơ, tài liệu, văn bản, chính sách, pháp luật của nhà nước, mới biết được cơ quan công quyền đang làm gì và hoạt động như thế nào.

          3.3.3.1 Quy định của pháp luật về chế độ cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của Chính phủ

Điều 20 khoản 9, Luật Tổ chức Chính phủ 2001 quy định: Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ: “Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thông qua những báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, trả lời của Chính phủ đối với chất vấn của đại biểu Quốc hội và ý kiến phát biểu với cơ quan thông tin đại chúng”.

Điều 37 quy định: “Thủ tướng ủy nhiệm cho Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thường xuyên thông báo cho các cơ quan thông tin đại chúng về nội dung phiên họp của Chính phủ và các quyết định của Chính phủ, của Thủ tướng”.

Nghị định số 179/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ, quy định cụ thể về thông tin và hoạt động của Chính phủ cho nhân dân.

Điều 40 Quy chế quy định:

(1) Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thông qua các báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, trả lời của thành viên Chính phủ đối với chất vấn của đại biểu Quốc hội, họp báo và ý kiến phát biểu với cơ quan thông tin đại chúng theo quy định tại khoản 9 Điều 20 Luật Tổ chức Chính phủ;

2) Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức họp báo định kỳ hoặc đột xuất để thông tin cho các cơ quan báo chí và nhân dân về các chính sách và quyết định quan trọng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Khi được yêu cầu, các Bộ, cơ quan liên quan tham dự họp báo, trực tiếp phát biểu và chịu trách nhiệm về các nội dung thuộc phạm vi chuyên ngành của mình;

3) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ:

a) Thực hiện tốt quy định về chế độ phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tiếp cận các thông tin chính xác, kịp thời về các sự kiện xảy ra trong ngành, lĩnh vực, địa phương mình.

b) Tổ chức họp báo theo định kỳ, họp báo khi ban hành các văn bản quan trọng, khi triển khai các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, khi có các sự kiện đáng chú ý khác;

(c) Thường xuyên điểm báo và thực hiện việc trả lời báo chí theo quy định của pháp luật…

3.3.3.2 Nội dung, phạm vi những vấn đề, lĩnh vực cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai trong hoạt động, bảo đảm quyền được biết của công dân trong một số văn bản pháp luật

     Các vấn đề, lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan công quyền, phải công khai, được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

- Phạm vi, nội dung công khai theo quy định của Pháp lệnh dân chủ cơ sở năm 2007. Điều 5 Pháp lệnh liệt kê 11 lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai để dân biết, bao gồm:

1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ph­ương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.

2. Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.

4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.

5. Chủ trư­ơng, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo đư­ợc vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.

6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.

7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.

8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.

9. Đối tư­ợng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu.

10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.

11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.

          - Phạm vi, nội dung công khai theo Luật Kiểm toán năm 2005

Luật Kiểm toán năm 2005 quy định: Công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58). Theo quy định của Luật, Báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội được công bố công khai theo quy định của pháp luật. Tổng Kiểm toán Nhà nước phải tổ chức công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán. 

          Điều 59, Luật Kiểm toán cũng quy định: Công khai báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán sau khi phát hành được công bố công khai cùng với báo cáo tài chính theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và Luật kế toán.

  - Phạm vi, nội dung công khai theo Luật Nhà ở năm 2005

          - Trên lĩnh vực nhà ở, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2006 ngày 13 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở. Theo Nghị định này, UNND cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại trong từng thời kỳ trên phạm vi địa bàn...để người dân có điều kiện được tiếp cận.

- Phạm vi, nội dung công khai theo Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005

          Nội dung nguyên tắc công khai, minh bạch được quy định tại Điều 11 là: Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ.

          Các điều từ 13 đến 30 quy định 18 nội dung các lĩnh vực, cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ công quyền, phải công khai là:

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản; 

- Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản;

- Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong việc huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân;

- Công khai, minh bạch trong việc quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ;

- Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong quản lý sử dụng đất;

- Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng nhà ở;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực y tế;

- Công khai, minh bạch trong khoa học công nghệ;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực thể dục, thể thao;

- Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị cá nhân;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp;

- Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ.

Và Điều 33 quy định về công khai báo cáo hàng năm về kết quả công tác đấu tranh chống tham nhũng. Ngoài các nội dung công khai như trên, phạm vi công khai còn được quy định trong các văn bản pháp luật khác như: Luật thực hành tiết kiệm năm 2005; Luật bảo vệ môi trường năm 2005; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Đấu thầu năm 2005; Luật Công nghệ thông tin 2006; Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 ; Luật Đa dạng sinh học năm 2008…

3.3.3.4 Các hình thức công khai thông tin trong hoạt động hành chính nhà nước

Nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta cho thấy, tuỳ thuộc vào nội dung, tính chất của vấn đề mà hình thức công khai có thể khác nhau. Tuy nhiên hình thức phổ biến được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành, đó là: Đăng công báo (yêu cầu bắt buộc đối với các văn bản quy phạm pháp luật); qua các phương tiện thông tin đại chúng; niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước; công bố tại cuộc họp; phát hành ấn phẩm; đưa lêng mạng điện tử của cơ quan; thông báo bằng văn bản; hay thông qua người phát ngôn chính thức của cơ quan, đơn vị...

3.3.3.5 Quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm, thời hạn cơ quan công quyền phải cung cấp, trả lời

- Luật phòng chống tham nhũng quy định chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin bao gồm: (1) Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của pháp luật; (2) Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; (3) Công dân có quyền yêu cầu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ ban nhân dân  xã, phường, thị trấn đó.

- Về thời hạn: trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu phải cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đó được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức yêu cầu biết và nêu rõ lý do.

- Luật đa dạng sinh học năm 2008, Điều 11 quy định về việc công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước. (1) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được Chính phủ phê duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan có trách nhiệm công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có liên quan công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tại trụ sở Ủy ban nhân dân các cấp có liên quan.

Điều 15 quy định về việc công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. (1) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được Hội đồng nhân dân thông qua, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm công bố quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tại trụ sở Ủy ban nhân dân các cấp có liên quan; (2) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

3.3.3.6 Các hình thức xử lý vi phạm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan công quyền

Nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành, mặc dù đã có quy định về nội dung/phạm vi các vấn đề cơ quan công quyền phải công khai minh bạch; thời hạn công khai, trả lời, yêu cầu, nhưng về hình thức xử lý vi phạm, nhất là các chế tài đối với những người có hành vi vi phạm lại chưa có quy định cụ thể.

3.3.3.7 Giới hạn của việc công khai thông tin

Quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin là quyền có giới hạn. Điều này có nghĩa là tự do thông tin không phải tất cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và tiếp cận thông tin không đồng nhất với việc cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, tiếp cận tất cả các loại hồ sơ, tài liệu lưu giữ thông tin. Điều 19 khoản 3 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 quy định: Việc thực hiện quyền này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, và do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định do pháp luật quy định. Những giới hạn đó là:

- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng[34].

So sánh với tiêu chuẩn quốc tế, các văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam có liên quan đến nội dung, phạm vi công khai thông tin đều quy định nguyên tắc chung rằng, công khai thông tin trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước.

Điều 11 Luật phòng chống tham nhũng; Luật Bảo vệ môi trường quy định công khai thông tin, dữ liệu về môi trường, trừ các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, phải được công khai

3.3.3.8 Một số nhận xét về thực trạng pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

          Ở nước ta chưa có Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân, tuy vậy, so với các quy định quốc tế về bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin, pháp luật nước ta đang từng bước hoàn thiện theo hướng bảo đảm tính công khai, minh bạch. Điều này có thể thấy rất rõ kể từ khi Chính phủ ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở năm 1998, một số các luật được Quốc hội ban hành sau đó, đều ít nhiều đã có những quy định theo hướng bảo đảm tính công khai, minh bạch trong phạm vi/lĩnh vực hoạt động của cơ quan nhà nước. Điểm đáng chú ý là các văn bản pháp luật được ban hành sau, thì quy định trách nhiệm công khai minh bạch và cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước có phần rõ hơn so với các văn bản ban hành trước. Tuy vậy, các văn bản pháp luật đều mới có hiệu lực, hoặc chỉ được thực hiện trong một vài năm trở lại đây, nên chưa thể đánh giá được tính hiệu quả trong việc thi hành luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Và nếu nhìn vào hiện trạng pháp luật và quá trình thực thi pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy quyền được tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập và có lúc có nơi vẫn bị vi phạm nghiêm trọng.

1. Quyền thông tin là quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định, nhưng thực tế trong những năm qua, do chưa được cụ thể hoá chi tiết, hướng dẫn thi hành nên tính hiệu qủa trong các quy định của pháp luật vẫn kém. Tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan công quyền chưa được thực hiện tốt, nên quyền tiếp cận thông tin của công dân chưa được bảo đảm thực hiện có hiệu quả trên thực tế.

- Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Luật phòng chống tham nhũng mới chỉ quy định nguyên tắc chung: “Việc thụ lý, điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định của pháp luật về tố tụng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Tuy vậy, trên thực tế, các quy định về tính công khai trong hoạt động điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án trong các văn bản pháp luật hiện hành về tố tụng lại chưa cụ thể, rõ ràng. Hạn chế lớn nhất về công khai, minh bạch hoạt động trong lĩnh vực tư pháp hiện nay là các cơ quan tư pháp chưa chủ động niêm yết, công bố công khai, rộng rãi thủ tục, trình tự trong hoạt động tư pháp nên người dân gặp khó khăn khi yêu cầu cơ quan tư pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, vấn đề là cần làm rõ như: về tính chất công khai, mức độ công khai, phạm vi công khai, cách thức công khai, cũng như những vùng cấm tiếp cận trong hoạt động tư pháp; hay về quy trình, thủ tục công khai và tiếp cận thông tin trong hoạt động tư pháp nên như thế nào?

- Trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước: Những vấn đề thể hiện rõ nét nhất của tình trạng thiếu công khai, minh bạch là trên lĩnh vực đất đai, đền bù, giải toả, các dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai, về quy hoạch, kế hoạch đô thị...Vì thế, hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật trong cơ quan nhà nước vẫn phổ biến. Điều này dẫn tới hiện tượng khiếu kiện đông người, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp đã xảy ra trong thời gian qua. Một trong những nguyên nhân này, chính là chưa bảo đảm tính công khai, minh bạch, tôn trọng quyền được thông tin của công dân.

2. Các văn bản pháp luật hiện hành đều ít nhiều đã thể chế hoá quyền thông tin của công dân trong Hiến pháp năm 1992, tuy nhiên, các quy định trong luật chuyên ngành cũng mới chỉ dừng lại việc quy định trách nhiệm công khai, minh bạch và cung cấp thông tin về một lĩnh vực cụ thể. Luật phòng chống tham nhũng có liệt kê một loạt lĩnh vực phải công khai, minh bạch, nhưng rất tiếc, các quy định mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung về việc công khai, minh bạch, và cũng đã có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin, nhưng chưa có quy định cụ thể về thủ tục, trình tự yêu cầu, hay biện pháp xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước trong trường hợp không công khai thông tin và trách nhiệm cung cấp thông tin cho công chúng.

Những bất cập đó đang tồn tại, trong khi các biện pháp chế tài lại chưa có trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Bộ luật Hình sự. Điều này dẫn tới tình trạng các quy định pháp luật về quyền tiếp cận thông tin tuy có, nhưng không/hoặc ít đi vào cuộc sống, quy định vẫn chỉ dừng lại ở quy định khung, do đó cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức nhà nước vẫn chưa thực hiện tốt trách nhiệm của họ và người dân vẫn khó tiếp cận thông tin công.

3. Quyền được thông tin của công dân, theo nghĩa người dân có quyền được biết, quyền tìm kiếm, quyền tiếp nhận, quyền phổ biến, bày tỏ và chia sẻ quan điểm một cách tự do về tất cả các vấn đề mà người dân quan tâm, nếu so với quy định quốc tế về quyền tiếp cận thông tin, pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực này vẫn mờ nhạt. Một số văn bản có quy định, nhưng chưa cụ thể, rõ ràng, bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong toàn bộ hệ thống pháp luật, nên cơ chế thực hiện quyền này trên thực tế vẫn còn rất yếu. Hơn nữa, các quy định pháp luật hiện hành chưa làm rõ chủ thể của quyền tiếp cận thông tin, là tất cả mọi cá nhân, công dân, chứ không chỉ là cung cấp thông tin cho báo chí…Việc liệt kê phạm vi, nội dung các vấn đề cơ quan, tổ chức của nhà nước phải công khai minh bạch trong các luật chuyên ngành là cần thiết, nhưng chắc không bao quát được hết các lĩnh vực/phạm vi hoạt động công quyền; do đó không tránh khỏi sẽ có những lĩnh vực hoạt động công lại chưa được luật quy định là phải công khai, và chế độ trách nhiệm cung cấp thông tin cho người dân. 

4. Một số văn bản pháp luật quy định cơ quan, tổ chức liên quan, nhất là trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh phải báo cáo cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động, nhưng lại chưa quy định cơ quan quản lý chuyên ngành nắm giữ thông tin đó có trách nhiệm phải công khai cho công chúng biết. Điều này rất dễ dẫn tới sự bưng bít thông tin, hay ém nhẹm thông tin của cơ quan quản lý nhà nước. Thực tế này đã xảy ra nhiều ở nước ta trong thời gian qua, như vụ nước tương có chứa chất 3 – MCPD gây ung thư vượt mức cho phép. Hoặc chất thải nhà máy, gây ô nhiễm môi trường, tác động và ảnh hưởng tới sức khoẻ, đời sống của dân cư xung quanh…

5. Việc pháp luật quy định về chức danh người phát ngôn của các cơ quan nhà nước (theo Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ) là cần thiết, song nhiệm vụ của người phát ngôn chỉ mới là cung cấp thông tin cho báo chí chứ không bao gồm việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu cung cấp thông tin của công chúng nói chung. Thêm vào đó, về cơ bản, hoạt động của người phát ngôn là không thường xuyên, chỉ mang tính định kỳ và theo một số vụ việc nhất định. Chính vì thế cơ chế người phát ngôn chưa thực sự là một giải pháp hữu hiệu để tăng cường, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công chúng ở nước ta hiện nay. 

                                        Chương 4  

XÂY DỰNG LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam

4.1.1 Cơ sở lý luận xây dựng Luật tiếp cận thông tin

    Như trên đã trình bày, quyền được thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, gắn với quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và là cơ sở để bảo đảm  mỗi cá nhân thực thi hay bảo vệ các quyền và lợi ích khác của bản thân. Quyền được thông tin hay tiếp cận thông tin là một nhu cầu chính đáng của nhân dân, góp phần để nhân dân nắm bắt được và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, xã hội công dân, chống lại tham nhũng, lãng phí, quan liêu từ phía các cơ quan nhà nước, là một nguồn lực mọi công dân được bình đẳng khai thác phục vụ cho mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân.

   Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Điều 19 quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp, và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào và không có biên giới”[35].

    Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị cũng quy định “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới , hình thức tuyên truyền miệng hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác, tuỳ theo sự lựa chọn của họ” [36].

    Nội dung của quyền tiếp cận thông tin đã được quy định trong Điều 19 của Tuyên ngôn của thế giới về nhân quyền có bốn thành tố là: quyền tự do giữ quan điểm không bị sự can thiệp; quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến. Trong xã hội hiện đại thông tin là  nhu cầu thiết yếu của con người, là nền tảng của tất cả tổ chức xã hội. Mọi người, ở bất kỳ đâu phải có cơ hội được tham gia và không ai bị loại ra khỏi lợi ích của Xã hội Thông tin[37].

    Quyền tiếp cận thông tin còn được ghi nhận  trong các văn kiện quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển năm 1992...

   Quyền tự do thông tin cũng được hầu hết các nhà nước trên thế giới nhận thức là một quyền cơ bản, và trên cơ sở sự thúc đẩy thực hiện quyền này của các tổ chức và công dân, Hiến pháp và pháp luật nhiều quốc gia cũng đã có những quy định rộng rãi về tự do thông tin. Gần 90 quốc gia đã ban hành đạo luật riêng về tiếp cận thông tin hay tự do thông tin.

Đứng trước yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, bảo đảm thiết thực quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra không chỉ trên lý thuyết suông mà phải đi vào cuộc sống, trước những đòi hỏi của yêu cầu chống tham nhũng và tạo điều kiện kinh tế dân doanh phát triển, việc xây dựng đạo luật tiếp cận thông tin là hết sức cần thiết, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Đạo luật này cũng là đòi hỏi của xã hội trên cơ sở trình độ dân trí đã nâng cao, nhu cầu tìm kiếm thông tin từ phía người dân, sự phát triển khoa học công nghệ và các phương tiện truyền tải thông tin, sự mở cửa của Việt Nam  hội nhập ngày càng nhiều hơn vào sân chơi quốc tế trên mọi mặt kinh tế, văn hoá- xã hội.

4.1. 2 Cơ sở thực tiễn xây dựng Luật tiếp cận thông tin

   Mặc dù Hiến pháp 1992 đã có quy định về quyền được thông tin của công dân, tuy nhiên hiện nay nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân cũng như của một số cán bộ nhà nước cũng chưa được đáp ứng một cách đầy đủ vì thông tin không được cung cấp thường xuyên và có hệ thống. Việc tìm kiếm, tiếp cận thông tin còn gặp nhiều khó khăn và thiếu tính kịp thời vì việc người dân có được thông tin hay không còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của cơ quan nhà nước hoặc cán bộ công chức. Hơn thế nữa, mặc dù  một số thông tin có trong các  văn bản, tài liệu theo quy định pháp luật hiện hành là phải công khai, song Các quy định về công khai các văn kiện, tài liệu này nằm rãi rác ở trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau gây khó khăn cho việc tìm kiếm của người dân, đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước khi xác định trách nhiệm của mình trong việc xác định thông tin nào phải công khai, công khai dưới hình thức nào và khi nào.[38]

  Trong thực tiễn, liên quan đến khả năng tiếp cận thông tin  cũng như  công tác phòng chống tham nhũng một vấn đề đang vướng mắc hiện nay là phạm vi thông tin được tiếp cận còn nhiều hạn chế. Các quy định về bí mật nhà nước nói chung và danh mục bí mật nhà nước nói riêng chưa thật cụ thể và có một số điểm chưa hợp lý. Do đó, tình trạng lạm dụng các quy định về bí mật nhà nước để không công khai những vấn đề thực sự không thuộc phạm vi bí mật nhà nước dẫn đến hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân.[39]

 Theo chuyên gia pháp luật Phạm Anh Tuấn ngay cả đối với một số tài liệu không đóng dấu mật, không ghi rõ giới hạn về đối tượng được khai thác sử dụng, nhưng cũng không được công khai và người dân khó tiếp cận  những tài liệu đó khi có nhu cầu. Luật phòng chống tham nhũng có quy định 18 lĩnh vực phải công khai thông tin, tuy nhiên quy định này cũng chỉ mới giải quyết một phần vướng mắc vì rất nhiều thông tin nằm ngoài 18 lĩnh vực nói trên cũng phải công bố công khai. Mặc dù, pháp luật hiện hành có quy định về nghĩa vụ công khai thông tin, tuy nhiên lại chưa quy định rõ những thông tin nào cơ quan nhà nước chủ động công bố  để người dân tự tiếp cận, tìm hiểu,  thông tin nào chỉ được cung cấp theo yêu cầu của người dân. Luật

phòng chống tham nhũng và các văn bản pháp luật có liên quan chưa có các quy định đầy đủ để tạo ra một cơ chế thực thi quyền tiếp cận thông tin có hiệu quả. Ví dụ, Nghị định của Chính phủ cụ thể hoá Luật phòng chống tham nhũng quy định  các bộ công chức không cung cấp thông tin sẽ bị kỹ luật nhưng lại chưa quy định rõ chế tài  đối với từng hành vi vi phạm cụ thể là gì[40]vì vậy trên thực tế khó có thể áp dụng được. Do các quy định của pháp luật còn nhiều bất cập nên tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền chưa được đảm bảo thực hiện. Việc thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của  các cơ quan công quyền trong việc công khai thông tin đã dẫn đến tình trạng lợi dụng quyền lực tạo ra đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác dể dàng tiếp cận thông tin để trục lợi cá nhân, gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, đầu tư. Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin có hiệu quả đã làm hạn chế  sự tham gia của các cá nhân và tổ chức vào hoạt động giám sát, phản biện  nhằm hoàn thiện chính sách và các quy định của pháp luật nhà nước. Trong việc thực thi các dự án quy hoạch và  cải tạo thành phố  việc thiếu công khai minh bạch  sẽ dể dàng dẫn đến tình trạng tham nhũng. Đối với một số người dân, do không biết rõ những thông tin về quy hoạch, giải toả, đền bù…sẽ phải chịu những thiệt hại mà lẽ ra họ có thể tránh được. Nhận thức được thực trạng trên đây, Ban chấp hành trung ương Đảng khoá X đã ra Nghị quyết trung ương 3  về công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, trong đó yêu cầu “Xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai”  “Nghiên cứu ban hành Luật đảm bảo quyền tiếp cận thông tin  của công dân”. Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020 quy định: “ Tổng rà soát , sửa đổi pháp luật về về bí mật nhà nước theo hướng thu hẹp phạm vi bí mật nhà nước ở mức cần thiết”; “ Xây dựng và thực hiện cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị”; “ Xây dựng và ban hành Luật về tiếp cận thông tin; có chế tài  đối với người vi phạm quyền được thông tin của công dân”.

 Để thực hiện chủ trương phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hình thành một cơ chế thống nhất trong việc tổ chức thực hiện quyền được thông tin của người dân, bảo đảm về mặt pháp lý cơ chế thực hiện quyền tiếp cận  thông tin, Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội đã đưa Luật tiếp cận thông tin vào danh mục các Dự án được chuẩn bị để trình cơ quan lập pháp xem xét năm 2009.

 Quy trình soạn thảo Luật tiếp cận thông tin đang được tiến hành theo quy định của Luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ban soạn thảo Dự thảo Luật tiếp cận thông tin đã được thành lập theo Quyết định ngày 22/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp là cơ quan được phân công chủ trì chuẩn bị Luật. Tổ Biên tập đã được hình thành để giúp việc Ban Soạn thảo.

 Ban Soạn thảo đã triển khai các nhiệm vụ nhằm khẩn trương xây dựng dự thảo, trong đó có hoạt động tổng kết việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực tiếp cận thông tin và liên quan; nghiên cứu các Điều ước quốc tế, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về cung cấp thông tin và tiếp cận thông tin, đánh giá tác động những nội dung chính của Dự án Luật. Dự thảo Luật đã được tổ chức lấy ý kiến bằng các hình thức đa dạng và đã được chỉnh lý trên cơ sở thu thập và tiếp thu các ý kiến tham gia. Nhiều cuộc toạ đàm, hội thảo với các chuyên gia trong nước và nước ngoài đã được tổ chức. Nhiều cơ quan, tổ chức đã cho ý kiến góp ý vào Dự thảo luật.

 Dự thảo Luật, Dự thảo Tờ trình và Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo Luật đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để các cơ quna, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

 Ngày 24/6/2009, Bộ Tư pháp đã gửi Dự án Luật đến các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan để lấy ý kiến. Ngày 10/7/2009 Hội đồng thẩm định đã họp để thẩm định Dự án Luật. Ý kiến của Hội đồng thẩm định đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý Dự án Luật.

 Việc xây dựng Dự thảo Luật được tiến hành dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:

- Tiếp tục thể chế hoá các quan điểm, chủ trương trong các nghị quyết của Đảng về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, cơ quan, tổ chức; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc tiếp cận thông tin;

- Bảo đảm sự phù hợp của Dự thảo Luật với Hiến pháp và tính thống nhất của Dự thảo Luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật;

- Bảo đảm tính kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến minh bạch, công khai thông tin trong các lĩnh vực;

- Tăng cường tính minh bạch trong hoạt động và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước;

- Bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; phù hợp với điều kiện về cơ sở hạ tầng của Việt Nam, nguồn nhân lực, tổ chức bộ máy và các nguồn lực khác; bảo đảm tính khả thi của Luật;

- Bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam, bảo đảm tính tương thích và phù hợp với thông lệ, pháp luật quốc tế; phù hợp với các nguyên tắc về quyền tự do thông tin của Liên Hợp Quốc.

4.2. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam

  Dự thảo Luật tiếp cận thông tin sau nhiều lần chỉnh lý, đặc biệt là sau khi

có ý kiến của các thành viên của Chính phủ, góp ý của các bộ, ngành và báo cáo về tình hình tiếp cận thông tin của các cơ quan trung ương và địa phương, dự thảo cuối cùng  đã được rút gọn gồm 4 chương 29 điều.

Chương I – Những quy định chung ( từ Điều 1 đến Điều 7)

Chương này quy định về mục đích ban hành luật (Điều 1), phạm vi điều chỉnh của luật (Điều 2), giải thích từ ngữ (Điều 3), cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin (Điều 4),  các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 5), các hành  vi bị  nghiêm cấm (Điều 6),  mối quan hệ giữa Luật tiếp cận thông tin và các luật khác có liên quan (Điều 7).

Chương II – Công bố thông tin, cung cấp thông tin theo yêu cầu ( Từ Điều 8 đến Điều  20). Chương này bao gồm 3 mục:  Phương thức, trách nhiệm cung cấp thông tin ( Mục 1); Chủ động công bố thông tin ( Mục 2); Cung cấp thông tin theo yêu cầu ( Mục 3);

Chương III -  Các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền tiếp cận thông tin ( Từ Điều 21 đến Điều 25);

Chương IV - Điều khoản thi hành ( từ Điều 26 đến Điều 29).

 Dự thảo Luật tiếp cận thông tin  xác định nội hàm của tiếp cận thông tin là đọc, xem, nghe, ghi chép, chụp, trích dẫn nội dung của hồ sơ tài liệu (Khoản 3 Điều 3). Để thực hiện quyền này, Điều 8 Dự thảo Luật quy định hai phương thức cung cấp thông tin, đó là: chủ động cung cấp thông tin và cung cấp thông tin theo yêu cầu của công dân.

 Điều 5 Dự thảo Luật quy định các nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, gồm: - mọi công dân, tổ chức đều bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải công khai, minh bạch, kịp thời; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức tiếp cận thông tin và cán bộ, công chức cung cấp thông tin; việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức phải bảo đảm lợi ích cộng đồng, bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh; nhà nước tạo điều kiện cho công dân, tổ chức tiếp cận thông tin phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội, khoa học, kỹ thuật của đất nước; khuyến khích áp dụng công nghệ thông tin trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.

 Dự thảo Luật xác định rõ mối quan hệ giữa Luật tiếp cận thông tin và các luật khác có liên quan, theo đó Luật này áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin; trong trường hợp luật khác có quy định khác rộng hơn về phạm vi thông tin được tiếp cận, thuận lợi hơn về trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin thì áp dụng quy định của luật đó. Trong trường hợp luật khác quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin cho công dân, tổ chức nhưng không quy định trình tự, thủ tục thì áp dụng quy định của Luật này (Điều 7).

  Mục 2 Chương II quy định về các thông tin được các cơ quan nhà nước chủ động công bố (Điều 10), hình thức công bố thông tin (Điều 11), quy định những thông tin công khai trên trang thông tin điện tử (Điều 12),  thông tin công khai trên phương tiện thông tin đại chúng (Điều 13), quy định về đăng công báo và niêm yết (Điều 14).

  Dự thảo Luật tiếp cận thông tin quy định rõ các loại thông tin phải được cơ quan nhà nước chủ động công bố. Đó là các thông tin mà các văn bản quy

phạm pháp luật quy định phải công bố công khai; thủ tục hành chính và quy trình giải quyết công việc thuộc thủ tục hành chính của cơ quan; các loại thông tin khác nếu thấy việc công bố là cần thiết nhằm bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ của con người, bảo vệ môi trường, lợi ích cộng đồng. Hình thức chủ động công bố thông tin theo dự luật có thể  được thể hiện bằng các hình thức: đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan; công bố trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo; niêm yết tại trụ sở cơ quan và các địa điểm khác; các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan xác định và được ghi rõ trong danh mục thông tin.

Mục 3 Chương II quy định về  thông tin được cung cấp theo yêu cầu (từ Điều 15 đến Điều 20). Mục này quy định  những thông tin có thể cung cấp theo yêu cầu, trách nhiệm của người yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 15),

 nội dung cần có của văn bản yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 16), cách thức cung cấp thông tin theo yêu cầu (Điều 17).Theo quy định của dự thảo việc cung cấp thông tin theo yêu cầu có thể được thể hiện bằng  các cách thức: cung cấp thông tin trực tiếp tại trụ sở cơ quan, cung cấp thông tin qua mạng điện tử, cung cấp bản sao chép, bản chụp hồ sơ, tài liệu. Mục 3 Chương II cũng quy định về thời hạn, trình tự, thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu theo dự thảo chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu cơ quan có trách nhiệm  xem xét quyết định cung cấp hoặc từ chối  cung cấp thông tin. Trong trường hợp cần thiết thêm thời gian để  xem xét, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn tối đa là 15 ngày. Trong Mục 3 Ch ương II cũng quy đ ịnh về chi phí cung cấp thông tin (Điều 19).

Mục 3 đồng thời cũng quy định về việc từ chối yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 20). Theo dự thảo cơ quan được yêu cầu cung cấp thông tin có thể từ chối trong các trường hợp cơ quan không có thông tin theo yêu cầu; thông tin được yêu cầu cung cấp không thuộc loại thông tin được quy định trong Khoản 1 Điều 15 của luật này; thông tin đã được cung cấp cho người yêu cầu 2 lần; văn bản yêu cầu cung cấp thông tin không nêu rõ lý do yêu cầu hoặc lý do yêu cầu cung cấp thông tin không phù hợp; yêu cầu cung cấp thông tin cho người khác; người yêu cầu cung cấp thông tin bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; thông tin được yêu  cầu với số lượng quá lớn, vượt quá  khả năng đáp ứng của cơ quan, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan; thông tin mà việc cung cấp sẽ  ảnh hưởng xấu đến chính sách tài chính tiền tệ, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quan hệ ngoại giao, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, gây nguy hiểm cho tính mạng, sức  khoẻ hoặc sự an toàn của cá nhân hoặc cộng đồng; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan, tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ; các  tài liệu đang trong quá trình soạn thảo mà chưa đến  thời điểm pháp luật quy định phải công bố để lấy ý kiến.

Chương III – Các biện pháp bảo đảm  thực hiện quyền tiếp cận thông tin (từ Điều 21 đến Điều 25).

   Chương này quy định  về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong việc bảo đảm các nguồn lực và biện pháp cần thiết cho việc thực thi Luật tiếp  cận  thông tin (Điều 21). Bên cạnh đó, Chương này cũng quy định cụ thể cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện (Điều 24); xử lý vi phạm (Điều 25); giám sát việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin (Điều 23) và quản lý nhà nước về công tác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 22).

Chương IV – Điều khoản thi hành (từ Điều 26 đến Điều 29).

Chương này xác định trách nhiệm của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin và quy định chi tiết một số điều của Luật (Điều 28); xác định trách nhiệm của Chính phủ quy định cụ thể về việc cung cấp thông tin của tổ chức sự nghiệp dịch vụ công và doanh nghiệp nhà nước (Điều 27). Chương này  cũng xác định thời điểm có hiệu lực của Luật (Điều 29).

4.3 Một số kiến nghị đối với dự thảo Luật tiếp cận thông tin

     So với các dự thảo đầu tiên, dự thảo cuối cùng ( sau khi đã chỉnh sửa theo ý kiến của các thành viên chính phủ và ý kiến của các bộ, ngành) có nhiều ưu điểm nổi trội. Đó là Dự thảo lần này ngắn gọn hơn, chú ý nhiều hơn đến tính khả thi của dự luật. Các điều luật trong dự thảo quy định khá rõ ràng, rành mạch, lời văn trong dự thảo được viết giản dị, dể hiểu. Dự luật không ôm đồm những vấn đề mặc dù rất cần thiết nhưng khó thực hiện được trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay.

  Tuy nhiên, theo chúng tôi dự luật vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục để đảm bảo khi ra đời luật này có thể phát huy hiệu lực cao trong đời sống nhà nước và xã hội:

 - Về cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, dự thảo (Điều 4) quy định 14 loại cơ quan khá cụ thể[41], tuy nhiên phạm vi điều chỉnh của luật áp dụng cho các cơ quan, tổ chức theo điều 4 là khá hạn hẹp, trong khi ở nước ta số lượng các cơ quan nhà nước lớn hơn rất nhiều, hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp là những tổ chức cũng phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Vì thế cần thiết phải quy định tất cả các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp có trách nhiệm cung cấp  thông tin. Ngoài ra cần quy định thêm các tổ chức tư nhân nếu nắm giữ các thông tin cần thiết cho việc thực hiện hoặc bảo vệ một quyền lợi cuả một chủ thể pháp luật nhất định cũng có  nghĩa vụ cung cấp thông tin khi chủ thể đó yêu cầu.

- Việc công khai tài chính nhất là sử dụng ngân sách và các khoản do nhân dân đóng góp cần quy định cụ thể, áp dụng thống nhất với mọi đối tượng sử dụng ngân sách nhà nước, với cả tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; việc công khai và cung cấp thông tin khác do tổ chức đó tự quy định hoặc theo các văn bản pháp luật khác. Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có sử dụng ngân sách nhà nước hay nhà nước nắm cổ phần như nêu trên thì thực hiện theo quy định cụ thể của Chính phủ như đối với doanh nghiệp nhà nước và tổ chức sự nghiệp dịch vụ công. Theo chúng tôi phần quy định các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin không nên dùng phương pháp liệt kê vì không thể tránh khỏi sự bỏ sót và điều luật sẽ rất dài dòng. Phương pháp tốt nhất là quy định một cách khái quát hơn, ví dụ, Điều 6 Luật mẫu về tự do thông tin do nhóm Article 19 của Liên hiệp quốc xây dựng: “ Cơ quan nhà nước bao gồm bất cứ cơ quan nào:

(a) được thành lập bởi hoặc theo quy định của Hiến pháp;

(b) được thành lập theo quy định của luật;

(c) là bộ phận ở bất cứ cấp nào của Chính phủ;

(d) được sở hữu, điều khiển hoặc tài trợ chủ yếu bởi ngân sách nhà nước;

(e) thực hiện chức năng nhà nước do pháp luật quy định.

- Về mối quan hệ với các luật khác , nên có quy định  các luật khác quy định hẹp hơn đối với tiếp cận thông tin  hay trình tự, thủ tục tiếp cận không thuận lợi như luật tiếp cận thông tin mà ban hành trước luật này thì phải áp dụng theo quy định luật này và phải sửa đổi, bổ sung các luật đó. Mặc dù Điều 33 có quy định cụ thể phải rà soát loại bỏ những văn bản không phù hợp và quy định nếu có mâu thuẫn giữa các luật thì quy định của luật sau được áp dụng nhưng trên thực tế việc thực thi sẽ khó khăn nếu không có quy định rõ ràng.  

- Về thông tin công khai rộng rãi cần quy định rộng hơn về công khai tài chính, sử dụng ngân sách, việc phê duyệt các dự án, việc đền bù trưng dụng thu hồi đất, phân phối tiền trợ cấp… và bắt buộc (chứ không chỉ khuyến khích) công khai trên trang thông tin điện tử về các nội dung từ điểm e đến điểm l khoản 1 Điều 9 như trong dự thảo luật; nên quy định cụ thể hơn về thời hạn phải công khai như buộc phải công khai trong vòng bao nhiêu ngày kể từ ngày tạo thông tin. Cần quy định cụ thể hơn thông tin công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Cần quy định thời hạn gia hạn trường hợp công khai rộng rãi thông tin vì lợi ích cộng đồng. Hình thức công khai cần quy định rõ công khai rộng rãi bảo đảm mọi cá nhân, tổ chức có thể tiếp cận được bằng các hình thức. Các thông tin buộc phải công khai trên trang thông tin điện tử không loại trừ công khai bằng các hình thức khác.

- Về thông tin được cung cấp theo yêu cầu, cần mở rộng quy định thông tin do cơ quan nhà nước nhận được để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, và liên quan đến chức năng, nhiệm vụ cơ quan, thuộc sở hữu của cơ quan chứ không chỉ thông tin do cơ quan nhà nước ban hành. Dự thảo trong điểm b khoản 2 Điều 4 có thể gây sự tuỳ tiện áp dụng. Quy định lại như vậy nhằm  tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người yêu cầu.

- Quy định tại khoản 2 Điều 14 cần mở rộng với các đối tượng không có khả năng tiếp cận với các hình thức công khai rộng rãi.

- Cần quy định rõ người yêu cầu không cần phải nêu lý do, trừ một số trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy nhằm tránh trường hợp cán bộ thông tin gây khó khăn cho người yêu cầu hay hạch sách họ. Cần quy định trong trường hợp người yêu cầu có khó khăn khách quan trong việc thể hiện yêu cầu bằng văn bản, cán bộ thông tin phải hướng dẫn họ.

- Thời hạn để cung cấp thông tin cần ngắn hơn quy định trong dự thảo tại điểm b khoản 2 Điều 22, hiện quy định 15 ngày từ ngày thông báo chấp nhận cung cấp thông tin trong trường hợp miễn phí hoặc kể từ ngày người yêu cầu thanh toán đủ chi phí là quá lâu, nên quy định tối đa 10 ngày.

Trường hợp yêu cầu với số lượng thông tin lớn thì cần quy định rõ là thời gian gia hạn thêm tối đa 15 ngày kể từ ngày thông báo chấp nhận cung cấp thông tin. Liên quan đến Điều 20,  đối với  thông tin được yêu cầu quá lớn không thể đáp ứng, cần quy định một cách cụ thể, nếu như cơ quan có thể đáp ứng cung cấp thông tin một phần theo yêu cầu thì phải cung cấp theo yêu cầu của người yêu cầu.

- Cần quy định cụ thể về nguyên tắc tính phí, như mức phí không thể cao hơn giá thị trường hay quá cao so với giá thị trường cho việc sao, chụp, in ấn; đối với  việc cung cấp một số lượng nhỏ thông tin đơn giản nên có quy định miễn phí. Cần quy định cụ thể không tính phí cho công sức của cán bộ thông tin bỏ ra để đáp ứng yêu cầu của người yêu cầu. Các quy định miễn phí cần quy định một cách cụ thể, tránh trường hợp lợi dụng quy định chưa rõ để không phải nộp phí. Cần quy định cụ thể thời hạn đóng phí.

- Cần quy định cụ thể tạo điều kiện cho người yêu cầu có thể tiếp nhận thông tin tại cơ quan thuận lợi nhất cho họ, như gần địa chỉ của họ nhất, điều này là cần thiết, nhất là trong trường hợp có thể có nhiều cơ quan nắm thông tin mà trách nhiệm cung cấp thông tin đều thuộc về các cơ quan đó nhưng đùn đẩy trách nhiệm. Cũng quy định cụ thể trách nhiệm cán bộ thông tin tiếp người yêu cầu khi đến để thực hiện yêu cầu.

- Luật cần quy định vấn đề thông tin liên quan đến người thứ ba. Hiện trong dự thảo chưa quy định.

- Các quy định liên quan đến việc từ chối yêu cầu tại Điều 20 còn chung chung, chưa cụ thể. Phần lớn các nước đã ban hành luật này đều quy định cụ thể các trường hợp từ chối cung cấp thông tin. Nên có quy định phân tách thông tin trong một tài liệu, nếu một tài liệu có cả thông tin không thể cung cấp và thông tin phải cung cấp, thì phần thông tin phải cung cấp cơ quan có trách nhiệm cung cấp cho người yêu cầu.

- Việc từ chối yêu cầu cần quy định rõ trong văn bản từ chối là người yêu cầu có quyền khiếu nại, khiếu kiện đến cơ quan có thẩm quyền, ghi rõ cơ quan giải quyết; lý do từ chối cần viện dẫn quy định của pháp luật cụ thể; trong trường hợp cơ quan không có thông tin theo yêu cầu hoặc thông tin nhận được nhưng không có trách nhiệm phải cung cấp thông tin dựa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 thì cần quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận yêu cầu phải hướng dẫn người yêu cầu đến nơi mà có thể có thông tin mà người yêu cầu có thể tiếp cận hoặc chuyển yêu cầu đến cơ quan đó nếu có thể thực hiện được. Thông tin được cung cấp hai lần dưới hình thức trả lời bằng lời nói không nên đưa vào diện từ chối nếu có yêu cầu bằng văn bản hay hình thức khác, trừ khi yêu cầu lần thứ ba bằng lời nói . Trường hợp thông tin được công khai theo quy định tại điều 9 mà không phải dưới hình thức công khai trên trang điện tử thì cơ quan nhận yêu cầu cũng phải hướng dẫn người yêu cầu để có thể tiếp cận thông tin, trường hợp người yêu cầu không thể tiếp cận được thì cũng phải cung cấp thông tin theo yêu cầu.

- Việc bố trí cán bộ, công chức làm đầu mối cung cấp thông tin là cần thiết, nhưng quy định rõ trách nhiệm của họ đặc biệt là  nên bao gồm cả trách nhiệm liên quan việc quản lý hồ sơ tài liệu của cơ quan và liên quan việc quản lý thông tin được công bố rộng rãi.

- Luật hoặc nghị định hướng dẫn thi hành cần quy định cụ thể về thời hạn các cơ quan phải công bố thông tin rộng rãi, và trách nhiệm của các cơ quan không thực hiện đúng thời hạn theo quy định không có lý do hợp pháp, hợp lý.

- Quy định về khiếu nại, khiếu kiện còn quá sơ sài. Cần quy định thêm quyền khiếu nại đối với trường hợp không tiếp nhận yêu cầu. Nên mở rộng quy định người yêu cầu

có quyền yêu cầu bồi thường nếu thông tin cung cấp không theo đúng quy định của pháp luật (có tính chất cố ý), hay yêu cầu của họ không được đáp ứng  trái pháp luật, gây thiệt hại cho chọ. Đồng thời cũng mở rộng quy định người thứ ba có liên quan có quyền khiếu nại, khiếu kiện.

 Nên quy định hai cấp giải quyết khiếu nại là giải quyết khiếu nại trong nội bộ, và sau đó là khiếu nại lên cơ quan chuyên môn có trách nhiệm trong giám sát thực thi quyền tiếp cận thông tin (không trực thuộc bộ máy hành chính). Đồng thời quy định về quyền khiếu kiện theo hướng người yêu cầu hay người thứ ba có quyền kiện ra cơ quan Toà án kể cả trong trường hợp đã thực hiện quyền khiếu nại. Hiện nhiều quốc gia nhất là các quốc gia ban hành luật trong những năm gần đây đã xây dựng thiết chế giám sát thông tin độc lập (thậm trí cả cấp địa phương), bao gồm cả giải quyết khiếu nại, tại Việt Nam có thể nghiên cứu nâng cấp Ban Dân nguyện thuộc Quốc hội thành Uỷ ban Dân nguyện, một Uỷ ban của Quốc hội để thực thi giải quyết khiếu nại và giám sát. Cơ chế giải quyết khiếu kiện tại nhiều nước theo quy định pháp luật tố tụng hành chính, một số nước thiết lập cơ quan bán Toà án giải quyết khiếu kiện gần giống cơ chế trọng tài thương mại. Việt Nam có thể nghiên cứu để áp dụng.

- Việc xử lý  vi phạm quy định còn quá chung chung, chế tài không đủ mạnh. Nên quy định cụ thể cơ quan giám sát thông tin có quyền  kiến nghị áp dụng chế tài xử lý đối với cán bộ, công chức nếu xét thấy sai phạm. Quy định rõ ràng  xử lý vi phạm cơ quan không công khai thông tin cần công khai rộng rãi theo quy định của pháp luật. Quy định xử lý cả cơ quan tự ý nâng phí tiếp cận thông tin không theo quy định của luật.

- Cần quy định cụ thể cơ chế bảo vệ người tố cáo vi phạm, không nên quy định chung chung và không rõ ràng bao hàm cung cấp thông tin có tính tố cáo như trong dự thảo tại Điều 5. 

- Cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin nên giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông. Tuy nhiên đây là cơ quan thuộc bộ máy hành pháp vì vậy cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thuộc cơ quan lập pháp thực hiện chức năng giám sát, giải quyết khiếu nại. Tránh sự chồng chéo thẩm quyền cơ quan giám sát thuộc cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp.

- Cần quy định rõ việc Chính phủ ban hành quy định công khai thông tin của chính quyền cấp xã trên trang thông tin điện tử phù hợp quy định của luật, không quá 1 năm (ở đô thị) và 2 năm (các địa bàn khác ) sau khi luật có hiệụ lực. 

 

                      

 

 

 

 

 

                       

                  BCÁC BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

Phần 1. CÁC CHUYÊN ĐỀ  NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ  LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN                                          

                                        Chuyên đề  1

 

TỔNG QUAN  TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

                                                       PGS-TS Thái Vĩnh Thắng

                                                          &  TS Tô Văn Hoà

                                                            Đại học luật Hà Nội

1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:

   Quyền được thông tin hay quyền tiếp cận thông tin (Right to access to information) được coi là một trong các  quyền cơ bản  của con người đã được Liên Hợp Quốc cũng như nhiều tổ chức quốc tế và khu vực công nhận. Phần lớn các quốc gia trên thế giới, khi tham gia vào các điều ước quốc tế về quyền con người ở cấp quốc gia và khu vực đều trực tiếp hay gián tiếp công nhận, tôn trọng quyền được thông tin của cá nhân. Sự bùng nổ của internet và tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thông tin, nhận thức về dân chủ, tự do cá nhân và yêu cầu phát triển kinh tế tại các quốc gia đã đưa đến sự bùng phát làn sóng ban hành Luật tự do thông tin/ Luật tiếp cận thông tin lan rộng trên toàn cầu và tại khắp các lục địa. Cho đến nay đã có gần 90 quốc gia trên thế giới ban hành một đạo luật riêng để cụ thể hoá và bảo đảm thực thi quyền được thông tin ở quốc gia mình, từ những nước phát triển như Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật  Bản, Canada cho đến những nước đang phát triển như Thái Lan, Ấn Độ, Hy Lạp, Mexico, Georgia, Ba Lan, Romania, Bulgary, Peru, Azerbaijan , Jordani, hay thậm chí cả những nước còn đang phát triển ở trình độ tương đối thấp như Pakistan, Kyrgyzstan, Albania, Nepal hay Uganda. Sự bùng nổ pháp luật thực định về quyền được thông tin ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế là một dấu hiệu cho thấy sự dồi dào các tài liệu nghiên cứu dưới các hình thức khác nhau cung cấp cơ sở lý luận cũng như thực tiễn cho việc nghiên cứu xây dựng một cách toàn diện pháp luật về quyền được thông tin. Các nghiên cứu quốc tế trong lĩnh vực này đã có sự phát triển từ rất lâu đời và cho đến nay đã ở trình độ cao ở cả khía cạnh chiều rộng và chiều sâu.

 Ở mức độ nghiên cứu khái quát, những công trình nghiên cứu có uy tín cao của các nhà luật học Anh như Freedom of Information: The Law, the Practice and the Ideal ( Tự do thông tin: Pháp luật, thực tiễn và lý tưởng) của Patrick Birkinshaw (2001) hay Blackstone’s Guide to the Freedom of  Information Act ( Bình luận của Blackston về đạo luật  tự do thông tin) của John Wadham, Jonathan Griffiths và Kelly Marris (2002). Đặc biệt là công trình nghiên cứu: “Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin” của chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Luật tiếp cận thông tin là Tony Mendel, xuất bản năm 2008. Các công trình nghiên cứu này đã phân tích, so sánh quyền tiếp cận thông tin trong mối quan hệ với các quyền khác của con người đã được quy định trong các điều ước quốc tế như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí, tự do xuất bản; vai trò của nó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền và đảm bảo thực hiện các quyền công dân và quyền con người…Những tác phẩm này rất có giá trị trong việc cung cấp một cách nhìn về quyền được thông tin từ góc độ pháp luật quốc tế về quyền con người.

   Đi sâu vào nghiên cứu nội dung của quyền được thông tin trong các tác phẩm như Freedom of Information: The Law, the Practice and the Ideal (Tự do thông tin: Pháp luật, thực tiễn và lý tưởng) của Patrick Birkinshaw (2001) hay Blackstone’s Guide to the Freedom of  Information Act (Bình luận Blackstone về đạo luật về quyền tự do thông tin) của John Wadham, Jonathan Griffiths và Kelly Marris (2002)  ta thấy những tác phẩm này phân tích cụ thể những vấn đề liên quan đến quyền được thông tin như vai trò, bối cảnh ra đời, nội dung các quyền, các trường hợp miễn trừ và các cơ chế bảo đảm thực thi. Đặc biệt các đề xuất liên quan tới  kinh nghiệm xây dựng các khung thể chế và thiết chế cụ thể để bảo đảm thực thi quyền được thông tin theo các chuẩn mực quốc tế đã nhận được sự tham gia rộng rãi của cả giới nghiên cứu và những người xây dựng chính sách. Các công trình này cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình quy định và thực thi quyền được thông tin ở một số quốc gia điển hình như Mỹ, Canada, Úc, New Zealand, Đức,… có thể làm cơ sở tham khảo quý về kinh nghiệm đối với vấn đề này từ góc độ so sánh.

 Ở mức độ chuyên sâu hơn nữa trong lĩnh vực này có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí luật học nước ngoài hoặc sách chuyên khảo. Nội dung và các khía cạnh khác nhau của quyền tiếp cận thông tin được đề cập ở các hình thức nghiên cứu  rất đa dạng và phong phú. Ví dụ như bài Freedom of Information and Openness: Fundamental Human Right? (Tự do thông tin và công khai - Quyền cơ bản của con người?) của Patrick Birkinshaw (tạp chí Administrative Law Review, 2006) trình bày và phân tích sâu các quan điểm đa chiều của giới luật học về ưu điểm cũng như hạn chế của pháp luật về quyền được thông tin của một số quốc gia trên thế giới. Trong đó có những lập luận có giá trị tham khảo về ưu điểm của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin như giúp tăng thêm tính dân chủ của chính quyền, tính trách nhiệm của cơ quan hành pháp, tăng cường vai trò giám sát tối cao của Nghị viện,… hay về nhược điểm của pháp luật về quyền này như trong quá trình thực hiện dễ vi phạm đến quyền tự do cá nhân hay quyền lợi của bên thứ ba, hay mối quan hệ với an ninh quốc gia…Các khía cạnh chuyên sâu khác của pháp luật về quyền được thông tin cũng được quan tâm như mối quan hệ giữa quyền được thông tin với bảo đảm bí mật quốc gia trong bài Freedom of  Information and State Secrets (Tự do thông tin và bí mật quốc gia) (tạp chí 9 E. Eur.Const.Rev.102 (2000)), với quyền tự do cá nhân trong bài Freedom of Information: Is Privacy Winning (Tự do thông tin  là chiến thắng của cá nhân) (tạp chí 13 Nottingham L.J. 17 (2004)), với bí mật và an ninh quốc gia trong sách chuyên khảo: “Secrecy and Liberty: National Security, Freedom of Expression and Access to Information” ( Bí  mật và tự do: an ninh quốc gia, tự  do ngôn luận và tiếp cận thông tin) (International Studies in Human Rights) của tập thể tác giả F.D’Souza , Sandra Coliver, Paul Hoffiman, Stephen Bowen, Joan Fitzpatrick, hay vấn đề thực hiện quyền được thông tin qua thiết chế Thanh tra Nghị viện (Ombudsman) trong công trình nghiên cứu: Freedom of Information – An Ombudsman’s Perspective ( Tự do thông tin - viễn cảnh của Thanh tra Quốc hội) (tạp chí 29 Fed.L.Rev. 359 (2001)).

 Các công trình nghiên cứu về việc bảo đảm và thực hiện quyền được thông tin ở các nước, ngoài hình thức là các sách chuyên khảo như đề cập trên đây, cũng được công bố nhiều dưới hình thức các bài báo trên các tạp chí luật học và đều có giá trị tham khảo, như loạt bài: “Human Rights in Theory and Practice: A Time of Change and Development in Central and Eastern Europe”( Các quyền con người trong lý luận và thực tiễn: thời kỳ đổi thay và phát triển ở Trung và Đông Âu” trên tạp chí Conn.J.Int’l L. năm 1993 đề cập chi tiết kinh nghiệm của các nước Đông Âu hay bài: “Freedom of  Information in Australia” (Tự do thông tin ở Úc) của Peter Bayne trên tạp chí Acta Juridica số 15 năm 1993 về kinh nghiệm của Australia.

 Có thể nói các tài liệu nghiên cứu về quyền được thông tin trên thế giới cho đến nay được thực hiện dưới những hình thức khác nhau và có nội dung hết sức phong phú. Đó là những tư liệu cung cấp kiến thức lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn cho các nước đang đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai và hoàn thiện  thiết chế pháp lý trong lĩnh vực này như Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu trong nước

  Có thể nói, pháp luật về tiếp cận thông tin chỉ được các học giả Việt Nam nghiên cứu trong những năm gần đây. Các công trình nghiên cứu này chủ yếu chỉ dừng lại ở những cách tiếp cận khác nhau về quyền tiếp cận thông tin, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và đầy đủ về quyền tiếp cận thông tin. Về hình thức, các công trình này cũng mới chỉ được thực hiện như các bài tham luận, báo cáo khoa học viết cho các hội thảo hoặc đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Hội thảo Tiếp cận thông tin – quy định quốc tế, kinh nghiệm Việt Nam, Đan Mạch, Hà Nội ngày 5-6/10/2006 và Hội thảo khoa học: Tiếp cận thông tin – thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm của Vương quốc Anh tháng 10/2007 với các bài tham luận của các tác giả:

- Nguyễn Chí Dũng – Quyền tiếp cận thông tin: Yêu cầu của quản lý nhà nước hiệu quả, vì phát triển;

- Tường Duy Kiên – Hoàng Mai Hương – Chu Thuý Hằng – Tìm hiểu pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền được đảm bảo thông tin của Việt Nam;

- TS.Dương Thanh Mai – Quyền được thông tin và sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam;

- TS. Đinh Văn Minh – Chuẩn mực tiếp cận thông tin và cuộc đấu tranh chống tham nhũng; 

- TS. Hoàng Minh Thái – Tiếp cận thông tin – Những vẫn đề đang đặt ra;

- TS. Nguyễn Đức Thuỳ - Quyền tiếp cận thông tin- Kinh nghiệm Việt Nam và Vương quốc anh;

- Phạm Quốc Anh – Sự cần thiết và đề xuất khuôn khổ của luật tiếp cận thông tin của Việt Nam;

- TS. Cao Đức Thái – Quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền được thông tin của công dân trong thời kỳ đổi mới;

- GS.TS. Trần Ngọc Đường- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với quyền được tiếp cận thông tin;

- TS. Nguyễn Quốc Việt – Minh bạch hoá pháp luật, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin;

- TS. Ngô Đức Mạnh – Một số vấn đề về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam;

- PGS.TS Vũ Văn Phúc – Công tác tuyên giáo với việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân;

- TS.Đinh Văn Minh – Bảo đảm quyền thông tin, góp phần đấu tranh chống tham nhũng của Việt Nam;

- PGS.TS Hồ Trọng Ngũ – Giới hạn của quyền được thông tin;

- ThS. Vũ Công Giao – Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan ở Việt Nam;

- GS. Paul Okojie – Tiếp cận thông tin – kinh nghiệm của Anh

- TS. Tường Duy Kiên – Quyền được thông tin – cách tiếp cận quốc tế và đặc điểm chung của luật tiếp cận thông tin một số nước trên thế giới. [42]

  Những bài viết trên đây đề cập đến Luật tiếp cận thông tin trên những phương diện và phạm vi khác nhau như  thực trạng pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam, những nội dung cơ bản quyền tiếp cận thông tin ở nước ngoài, những giới  hạn của quyền tiếp cận thông tin, những kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện Luật tiếp cận thông tin ở Anh, tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin trong đời sống hàng ngày của mỗi quốc gia, mối quan hệ giữa việc xây dựng nhà nước pháp quyền và việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, tính cấp thiết của việc ban hành Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay.

 Đóng góp vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy  nghiên cứu và  nâng cao nhận thức về quyền tiếp cận thông tin là việc xuất bản cuốn sách: “ Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin” do Viện nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức dịch và biên soạn, Nhà xuất bản Công an nhân dân phát hành năm 2007. Cuốn sách này  đã dịch toàn văn và trích dịch các

Văn kiện Quốc tế  liên quan đến quyền tiếp cận thông tin như Tuyên ngôn

thế giới về nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về các quyền chính trị và

dân sự năm 1966, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Chương trình hành động chống tham nhũng dành cho châu Á và khu vực châu Á, Thái Bình Dương năm 2001. Cuốn sách này cũng đã dịch nguyên văn và trích dịch các Luật về tiếp cận thông tin/ tự do thông tin của nhiều nước trên thế giới như Luật về tiếp cận thông tin trong các tài liệu chính thức của Anbani năm 1999, Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ năm 2005, Luật về tiếp cận thông tin công của Ba Lan năm 2001, Luật tiếp cận thông tin của Bulgary năm 2000, Luật tiếp cận thông tin của Canada năm 1985, Luật quy định về quản lý tiếp cận chung đối với các thông tin của Chính phủ của Hà lan năm 1991, Luật về công khai thông tin của các  cơ quan chính quyền của Hàn Quốc 1996, Luật về quyền tiếp cận của công chúng đối với các tài liệu hành chính công của Na Uy năm 1970 ( sửa đổi bổ sung năm 2003),  Luật thúc đẩy tiếp cận thông tin của  Nam Phi năm 2000, Luật về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính của Nhật Bản năm 1999 , Luật về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin của Liên Bang Nga năm 2006, Luật về minh bạch và tiếp cận thông tin của Peru năm 2003, Luật về tiếp cận thông tin của Pháp năm 1978, Luật về tiếp cận thông tin của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2004, Luật tự do báo chí của Thụy Điển 1949,  Pháp lệnh về công khai thông tin của chính quyền của Trung Quốc năm 2007, Luật tự do thông tin của Úc năm 1982, Luật tự do thông tin của vương quốc Anh năm 2000.

  Trong khuôn khổ dự án Xây dựng luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam  (Project on Assisting of Law on Access to Information in Vietnam) do Đại

sứ quán Anh tài trợ,  tại Hà Nội vào 2 ngày 06-07/5/2009 Hội thảo quốc tế : “ Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam”( Drafting law on Access to Information in Vietnam) đã được tiến hành. Tại cuộc Hội thảo này một số báo cáo đã được chuẩn bị công phu và đã được  đánh giá cao tại Hội thảo:

  • James Anderson, Chuyên gia cao cấp về quản trị quốc gia của Ngân hàng thế giới - Kinh nghiệm của một số nước Đông Âu trong việc thực thi Luật tiếp cận thông tin;
  • Jairo Acuna  Alfaro, Cố vấn  chính sách về cải cách hành chính và chống tham nhũng của UNDP tại Việt Nam - Quyền tiếp cận thông tin tại các nước khu vực Đông Nam Á;
  • Matt Ottoson,  Bí thư thứ nhất và cố vấn pháp luật của Bộ phận kiểm soát các chương trình phát triển và hợp tác nghiên cứu của Đại sứ quán Thụy Điển – Kinh nghiệm của Thụy Điển về việc thực thi Luật tiếp cận thông tin;
  • Toby Mendel, Chuyên gia cao cấp của Tổ chức Article 19 - Tầm quan trọng của Quyền tiếp cận thông tin: Xu hướng, Địa vị và Đặc điểm;
  • TS. Hoàng Thị Ngân, Chuyên gia nhóm nghiên cứu của Hội luật gia Việt Nam - Kết quả nghiên cứu kinh  nghiệm quốc tế về Luật tiếp  cận thông tin của một số quốc gia trên thế giới;
  • GS-TS Nguyễn Đăng Dung, Đại học quốc gia Hà Nội - Kết quả khảo sát thực tiễn tại địa phương về thực thi quyền được thông tin;
  • TS  Tường Duy Kiên, Trung tâm nghiên cứu về quyền con người, Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh – Chính sách và  hệ thống  các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin;
  • Th.S Ngô Trung Thành, Phó vụ trưởng Vụ pháp luật, Văn phòng Quốc hội -  Mối quan hệ giữa Luật tiếp cận thông tin và các văn bản có liên quan khác của Việt Nam.[43]

 Cuộc Hội thảo ngày 6 -7 tháng 5 năm 2009 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về quyền tiếp cận thông tin và pháp luật về tiếp cận thông tin tại Việt Nam. Với các báo báo của các chuyên gia cao cấp về quản trị quốc gia, về cải cách hành chính, chuyên gia pháp luật có uy tín  của nước ngoài và Việt Nam như James Anderson, Jairo Acuna Alfaro, Matt Ottoson, Toby Melden, Hoàng Thị Ngân, Nguyễn Đăng Dung, Tường Duy Kiên, Ngô Trung  Thành, Hội thảo đã  phân tích những kinh nghiệm thực thi pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở các nước Đông Âu là những nước có nền kinh tế chuyển  đổi như Việt Nam, các nước Đông Nam Á là những nước láng giềng hoặc cận kề với Việt Nam, kinh nghiệm thực thi pháp luật của Thụy Điển, nước đi đầu trong lĩnh vực pháp luật về tiếp cận thông tin. Các báo cáo mang tính chất so sánh trên đây cho chúng ta thấy rõ

bên cạnh những điểm khác nhau,  nội dung cơ bản của Luật tiếp cận thông tin  của các quốc gia khác nhau cũng có những điểm chung giống nhau như đều có những quy định chung mang tính chất nguyên tắc, những thông tin phải công bố rộng rãi, những thông tin không được phép công bố, những cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ cung cấp thông tin, các chủ thể có quyền được cung cấp thông tin, thủ tục cung cấp  thông tin, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin, cơ quan có thẩm quyền giải  quyết các khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin. Bên cạnh các báo cáo của các chuyên gia nước ngoài, các báo cáo của các nhà khoa học trong nước cũng đã nghiên cứu về lý luận và  khảo sát thực tiễn để tìm hiểu  thực trạng pháp luật về tiếp cận thông tin ở Việt Nam.  Báo cáo khảo sát thực tiễn của Đoàn khảo sát do Bộ tư pháp chủ trì tại các địa phương: Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Long An cho chúng ta những kết quả đáng được lưu ý về ý thức pháp luật, tình trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam  hiện nay. Theo báo cáo khảo sát rất ít người dân biết  quyền họ được cung cấp các thông tin  liên quan đến cuộc sống của họ. Mặc dù đã có những quy định đơn lẻ  về việc cung cấp thông tin cho nhân dân ở các văn bản pháp luật đơn ngành nhưng hầu hết các công chức không coi việc cung cấp thông tin là trách nhiệm của họ vì rằng việc cung cấp thông tin không phải là nhiệm vụ chính của việc thực hiện chính sách được quy định trong các văn bản nói trên. Hầu hết các phiếu điều  tra đều cho rằng các cán bộ rất lúng túng khi gặp những trường hợp  yêu cầu phải được cung cấp thông tin. Phần lớn trong số họ đều chuyển yêu  cầu lên cấp trên.  Cán bộ, công chức và thủ trưởng cơ quan đều không quen với việc thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin. Hầu hết đều không nhận thấy thông tin của cơ quan nhà nước là tài sản nhân dân, được tạo ra do các công việc được nhân dân giao phó. Hiện tượng  đóng dấu mật lên các công văn giấy tờ không thuộc phạm trù mật còn tràn lan. Việc khai thác và sử dụng các trang Web chưa được rộng rãi. Quyền được thông tin mặc dù được quy định nhưng không có điều kiện thực thi sở dĩ như vậy là do chưa có một đạo luật riêng quy định đầy đủ về vấn đề này. Tất cả các phiếu điều tra đều nhất trí về việc cần thiết ban hành Luật tiếp cận thông tin[44].

  Với sự  phối hợp tổ chức và tài trợ của Trung tâm nhân quyền Na Uy, Hội luật gia Việt Nam đã tiến hành Hội  thảo quốc tế : “ Luật tiếp cận thông tin – kinh nghiệm một số nước trên thế giới” vào các ngày 19- 20/8/2009 tại thành phố Nha Trang. Tại cuộc Hội thảo này nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã được trình bày:

  • GS-TSKH Đào Trí Úc, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội luật gia Việt Nam - Tổng quan về Luật tiếp cận thông tin và vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở các nước trên thế giới;
  • TS Hoàng Thị Ngân, Phó vụ trưởng Vụ tổ chức hành chính và công vụ, Văn phòng Chính phủ - Tiến trình xây dựng Luật tiếp cận thông tin ở Việt nam;
  • Toje R. Ruud, Cố vấn pháp luật, Vụ lập pháp,Bộ tư pháp và Công an Na Uy - Luật tiếp cận thông tin ở Na Uy và vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng và thực hiện luật này;
  • GS Sung Nak In, Chủ tịch Hội giảng viên luật Hàn Quốc, Đại học quốc gia Seoul, Hàn Quốc - Luật tiếp cận thông tin ( Luật công khai thông tin của các cơ quan nhà nước) ở Hàn quốc và vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng và thực hiện luật này;
  • Th.S Phạm Anh Tuấn, Phó Chánh văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng - Luật tiếp cận thông tin với công tác phòng chống tham nhũng;
  • PGS-TS Phạm Duy Nghĩa, Chủ nhiệm bộ môn Luật kinh tế, Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh – Tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin, Luật báo chí và Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước;
  • Fany Davidova, Chuyên gia Chương trình tiếp cận thông tin của Bulgary – Vai trò của Chương trình tiếp cận thông tin của Bungary trong việc thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin;
  • Ngô Minh Hương, Chuyên gia của Viện nhân quyền  Na Uy -  Kinh nghiệm tiếp cận thông của một số nước Bắc Âu;
  • GS-TSKH Lê Cảm, Tổng biên tập tạp chí : “ Pháp luật và phát triển” – Vai trò của giới luật gia trong việc thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin.[45]

Các bài tham luận của các nhà khoa học luật Việt Nam và nước ngoài trong  hai cuộc Hội thảo khoa học trong tháng 9 năm 2009 tại Hà Nội và Nha Trang đánh dấu sự  phát triển đáng ghi nhận của sự quan tâm và hiểu biết về pháp luật về quyền tiếp cận thông tin/ tự do thông tin ở  Việt Nam. Ở một mức độ sâu rộng hơn so với cuộc Hội thảo đầu tiên hai cuộc Hội thảo này đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng và thực hiện Luật tiếp cận thông tin của nhiều quốc gia trên thế giới  như các nước Đông Âu, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Hàn Quốc , Bungary, Mexico, Thái Lan. Hội thảo đã đề cập đến tính cấp thiết và những nội dung cơ bản của dự thảo Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Hai cuộc Hội thảo này đã góp những ý kiến quan trọng cho việc xây dựng  bản dự thảo Luật tiếp cận thông tin phù hợp với Việt Nam.

  Gần đây, phục vụ cho soạn thảo và ban hành Luật tiếp cận thông tin, có nhiều công trình khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn cao đã được xuất bản. Đặc biệt phải kể đến là công trình nghiên cứu: “Luật Tiếp cận thông tin – Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam” do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên với sự tham gia của các tác giả: GS-TSKH Đào Trí Úc, Th.S Lê Thị Kim Thanh, TS. Hoàng Thị Ngân, TS. Tường Duy Kiên, TS. Nguyễn Thị Kim Thoa.

 Công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về quyền tiếp cận thông tin bao gồm các vấn đề như: quan niệm về quyền tiếp cận thông tin ở nước ngoài và Việt Nam, ý nghĩa của quyền tiếp cận thông tin trong các văn kiện pháp lý quốc tế, phạm vi của quyền tiếp cận thông tin, các nguyên tắc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin, nội dung của quyền tiếp cận thông tin, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, thủ tục khiếu nại khiếu kiện về quyền tiếp cân thông tin, vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong việc thúc đẩy sự phát triển của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin, các kiến nghị cho quá trình soạn thảo Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Công trình nghiên cứu trên đây đã cung cấp cho chúng ta những kiến thức khái quát về pháp luật tiếp cận thông tin ở nước ngoài và Việt Nam, làm cơ sở lý luận để các nhà luật học có thể nghiên cứu sâu hơn về  những khía cạnh khác nhau của Luật tiếp cận thông tin trên cơ sở đó có thể xây dựng và ban hành Luật tiếp cận thông tin phù hợp nhất với điều kiện chính tri,  kinh tế, xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá hiện nay.

Gần đây nhất, ngày 23-24 tháng 9 năm 2010, Tại tỉnh Hoà Bình, với sự tài trợ của Quỹ châu Á, Bộ tư pháp đã tổ chức  Hội thảo: “ Xây dựng luật tiếp cận thông tại Việt Nam”. Tại cuộc Hội thảo này  nhiều nhà luật học đã bày tỏ nguyện vọng chung của nhân dân là Quốc hội cần khẩn trương ban hành Luật tiếp cận thông tin làm công cụ đắc lực thực hiện quyền được tiếp cận thông tin là quyền hiến định của  công dân. Một số báo cáo đã được đánh giá cao tại Hội th ảo n ày:

-  Nhóm  chuyên gia Bộ  tư  pháp -Báo  cáo đánh giá tác động của  dự thảo Luật tiếp c ậ n thông tin

- TS Dương Thanh Mai - Những  vấn đề chung  về quyền tiếp cận thông tin;

- Th.s Đặng Đình Luyến -  Thông tin và tiếp cận thông tin tại Việt Nam;

- TS Nguyễn Ngọc Anh - Giới hạn của quyền tiếp cận th ông tin;

Một số công trình nghiên cứu gần đây của một số tác giả đã được tạp chí Nghiên cứu lập pháp đăng tải  trong số đặc biệt giành cho quyền tiếp cận thông tin ( Số 17 (154) tháng 9/ 2009 và  bao gồm:

  • PGS-TS Thái Vĩnh Thắng - Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện các quyền con người và quyền công dân;
  • Th.S. Dương Thị Bình - Thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
  • Th.S. Nguyễn Thị Hạnh - Sự cần thiết ban hành luật tiếp cận thông tin;
  • Th.S. Mai Thị Kim Huế - Phạm vi chủ thể có trách nhiệm cung cấp

thông tin;

  • Chu Thị Thái Hà - Thông tin được tiếp cận và nội hàm của quyền tiếp

cận thông tin;

  • TS. Nguyễn Thị Thu Vân - Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin;
  • TS. Nguyễn Thị Kim Thoa - Nội dung cơ bản của Luật tiếp cận thông tin một số nước;
  • Th.S. Nguyễn Quỳnh Liên-  Quyền tiếp cận thông tin trong các văn kiện quốc tế.[46]

Cuộc Hội thảo ngày 23- 24/9 2010 là một bước thúc đẩy quan trọng trong tiến trình xây dựng và ban hành Luật tiếp cận thông tin tại việt Nam. Tiến xa hơn các cuộc Hội thảo trước đây, cuộc Hội thảo này đã đánh giá tác động của Dự thảo Luật tiếp cận thông tin ( Regulatory Impact Assessement  - RIA).  Với phương pháp RIA nhóm chuyên gia pháp luật của Bộ tư pháp đã đánh giá trước những tác động tích cực sau đây lên các quan hệ xã hội khi Luật tiếp cận thông tin được ban hành và có hiệu lực:

  • Về mặt kinh tế, việc tăng cường và mở rộng thông tin cũng có nghĩa là tăng cường khả năng nâng cao trí thức, có thể đem đến những chuyển biến cơ bản trong việc sản xuất sản phẩm và dịch vụ hàng hoá. Thông tin công khai, minh bạch có thể giúp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng cho mình một kế hoạch đầu tư dài hạn,  xây dựng được  kế hoạch kinh doanh đảm bảo phát triển bền vững. Các doanh nghiệp được bình đẳng trong việc khai thác và sử dụng các thông tin vào quy hoạch, chính sách thuế để lập kế hoạch đầu tư dài hạn. Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí kinh doanh và các rủi ro khi đầu tư nhờ đó mà đảm bảo được hiệu quả kinh doanh bền vững. Việc ban hành Luật tiếp cận thông tin là tiền đề  thực hiện một nền hành chính công khai, minh bạch tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam[47].
  • Về mặt quản lý nhà nước, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của cá nhân làm tăng khả năng giám sát các cơ quan công quyền từ phía công chúng. Nghĩa vụ cung cấp thông tin đảm bảo công khai, minh bạch sẽ làm cho hoạt động  của các cơ quan công quyền có hiệu lực, hiệu quả cao hơn vì vậy hoạt động quản lý nhà nước sẽ tốt hơn và có thể hạn chế được nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước. 
  • Về đảm bảo thực hiện các quyền con người và quyền công dân,  quyền tiếp cận thông tin là điều kiện tiên quyết để mọi  cá nhân có thể thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình do vậy việc ban hành Luật tiếp cận thông tin sẽ là một bước đột phá, mở rộng khả năng thực hiện các quyền con người và quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật…

  Trong năm 2010, một số công trình nghiên cứu về Luật tiếp cận thông tin

và đóng góp ý kiến cho dự luật tiếp cận thông tin được các tạp chí chuyên ngành luật tiếp tục đăng tải:

-  TS Vũ Văn Nhiêm -  Quyền được thông tin từ góc độ bảo đảm quyền con người và liên hệ với dự luật tiếp cận thông tin  ở Việt Nam (Nghiên cứu

lập pháp số  9  (170) tháng 5/2010;

  • TS. Trương Thị Hồng Hà - Luật về công bố thông tin của các cơ quan

chính quyền Hàn quốc ( Nghiên cứu lập pháp số 9 (170) tháng 5 năm 2010.

  Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 cũng đã dành riêng một số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin” với các bài viết của các tác giả:

- Th.s. Nguyễn Công Hồng và TS. Hoàng Thị Ngân – Nhà nước pháp quyền và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân;

- Th.s. Nguyễn Công Hồng – Lợi ích của việc ban hành Luật tiếp cận thông tin;

- TS. Tường Duy Kiên – Chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam  đảm bảo quyền tiếp cận thông tin;

- TS Nguyễn Thị Kim Thoa - Những vấn đề cơ bản được giải quyết trong Luật tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới;

- GS-TS Nguyễn Đăng Dung - Một số vấn đề về đảm bảo quyền được thông tin của công dân;

-  Lê Huy – Khái niệm và cơ sở chính trị, pháp  lý của quyền tiếp cận thông tin;

-  Hạnh Bình - Thực tiễn về tiếp cận thông tin của các bộ, ngành, địa phương;

-  TS Hoàng Thị Ngân - Quyền tiếp cận thông tin và việc xây dựng chính phủ mở;

 - Th.s Dương Thị Bình - Thực trạng và kiến nghị về thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam;

- Thoa Huế - Cơ quan cung cấp thông tin – Kinh nghiệm quốc tế và hướng quy định trong dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam;

- Mai Nguyễn – Cung cấp thông tin theo yêu cầu – Cơ chế hữu hiệu bảo đảm quyền tiếp cận thông tin;

- Nguyễn  Quỳnh  Liên– Kinh nghiệm xây dựng Luật tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới;

- TS Nguyễn Thị Thu Vân – Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị về cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin trong dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam.[48]

 Những công trình nghiên cứu trên đây trên các bình diện khác nhau đã nghiên cứu sơ lược lịch sử phát triển, khái niệm  quyền được thông tin / quyền tiếp cận thông tin (right to access to information), tiêu chuẩn và các quy định quốc tế về quyền tiếp cận thông tin, trong đó đã khái quát các văn kiện quốc tế và khu vực có liên quan đến quyền tiếp cận thông tin như Tuyên ngôn  thế giới về nhân quyền năm 1948 (Điều 19), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Điều 19), Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 (Điều 12, 13); Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003 (điều 10, 13); Chương trình hành động chống tham nhũng dành cho Châu Á và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương năm 2001; Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề môi trường năm 1998. Các tác giả cũng đã phân tích nội hàm và các khía cạnh khác nhau của quyền tiếp cận thông tin theo pháp luật Việt  Nam và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.

 Phân tích các công trình nghiên cứu nói trên cho thấy các tác giả đều có quan điểm thống nhất là quyền tiếp cận thông tin nên hiểu có nội dung rộng bao gồm  quyền tự do tìm kiếm thông tin, tự do tiếp nhận thông tin và tự do phổ biến thông tin. Ba nội dung trên chính là những nội dung cốt lõi của quyền tiếp cận thông tin theo nghĩa rộng vì chúng có quan hệ biện chứng với nhau, gắn chặt với nhau, đòi hỏi  tất cả các quốc gia phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc bảo đảm cho công dân thực hiện quyền này với đầy đủ các nội dung. Các công trình nghiên cứu này cũng đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nội hàm khái niệm quyền tiếp cận thông tin như: tự do thông tin hay tiếp nhận thông tin được thừa nhận không chỉ là quyền cơ bản của con người được quy định và bảo vệ bởi pháp luật quốc tế và quốc gia mà còn là công cụ thiết yếu để tăng cường tính dân chủ của chính quyền, đảm bảo tính minh bạch nền hành chính, tính trách nhiệm và quản trị tốt của Chính phủ. Tự do thông tin hay tiếp cận thông tin chính là việc công dân được tiếp cận hồ sơ, văn bản của cơ quan công quyền, nắm bắt được các hoạt động của cơ quan công quyền, đảm bảo nguyên tắc các cơ quan công quyền không được giữ thông tin thay mặt chính họ mà là thay mặt hay xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội, và hoạt động trên sự giám sát của nhân dân. Quyền tiếp cận thông tin của cá nhân còn có ý nghĩa thứ hai là quyền được yêu cầu cơ quan nhà nước phải công bố, phổ biến các loại thông tin mà cơ quan đó nắm giữ vì lợi ích của cộng đồng. Quyền tiếp cận thông tin bắt đầu xuất hiện là quyền được biết sự thật, nó phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm mọi người được biết sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và thế giới đến các vấn đề về quản lý tư pháp - hành chính, và các vấn đề liên quan đến quyền con người và bảo vệ các quyền và tự do của con người.  

 Những công trình nghiên cứu trên cũng đề cập đến những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin, như:

- Tôn trọng các quyền, uy tín, bí mật cá nhân của người khác;

- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng;

- Sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng;

 Những công trình nghiên cứu ở trong nước hiện nay cũng đã tiếp cận đặc điểm chung của luật tiếp cận thông tin ở một số nước trên thế giới về phạm vi áp dụng, nội hàm của quyền “tiếp cận thông tin công” (right to access public information), chủ thể yêu cầu cung cấp thông tin, phương thức cung cấp thông tin, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin, các ngoại trừ yêu cầu cung cấp thông tin, cơ chế khiếu nại, giám sát về công khai thông tin, về xử phạt vi phạm quyền tiếp cận thông tin, về lệ phí cung cấp thông tin đối với người có yêu cầu, về thiết chế đặc trách về thông tin…

 Nhiều công trình nghiên cứu cũng đề cập đến việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, đưa ra các đề xuất,  kiến nghị cho quá trình soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin của Việt Nam.

 

                                               

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                      Chuyên đề  2

KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CỦA QUYỀN TIẾP CẬN THÔNGTIN                               

                                                TS. Nguyễn Quốc Hoàn

                                                      Trường Đại học Luật Hà Nội

Một trong những quyền cơ bản của con người là quyền tiếp cận thông tin. Quyền được thông tin hay quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của cá nhân, công dân đã được thừa nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế và văn kiện pháp lý của nhiều quốc gia trên thế giới. Quyền này cho phép và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân bảo vệ các quyền và lợi ích của mình được pháp luật ghi nhận. Ở cấp độ vĩ mô, quyền tự do thông tin được xem là cơ sở quan trọng để chống lại sự lạm dụng quyền lực, sự quản lý kém hiệu quả và tham nhũng. Đây là một sự bảo vệ quan trọng chống lại các hình thức lạm dụng, các việc làm sai trái từ phía các cơ quan công quyền. Trong bối cảnh xây dựng xã hội văn minh, công bằng, dân chủ, hướng tới nhà nước pháp quyền, nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động công quyền cần phải được tuân thủ. Một trong những biện pháp để tuân thủ nguyên tắc này là nhà nước cần phải bảo đảm quyền được thông tin của người dân. Nguyên tắc đó đỏi hỏi nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của các các cơ quan công quyền thay mặt nhà nước thực thi các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước phục vụ cộng đồng xã hội; và các cá nhân, công dân có quyền được biết, được tiếp cận các thông tin liên quan đến các hoạt động của nhà nước và đời sống công cộng do Nhà nước nắm giữ. Ở một khía cạnh khác, quyền tiếp cận thông tin cũng đem lại lợi ích cho các cơ quan công quyền. Bằng việc công khai, minh bạch các hoạt động cũng như trong quá trình ra các chính sách của mình,lòng tin của công chúng đối với nhà nước nói chung và đối với các cơ quan công quyền nói riêng được cải thiện. Vì lẽ đó, cần phải có cơ chế để bảo đảm cho công dân có thể thực hiện được quyền tiếp cận thông tin và bảo đảm trách nhiệm của nhà nước trong việc thực thi các nghĩa vụ cung cấp thông tin.

Để giải quyết được những vấn đề đó, câu hỏi được đặt ra là; Quyền tiếp cận thông tin là gì và nội dung của quyền tiếp cận thông tin bao hàm những vấn đề gì? Chuyên đề này sẽ tập trung giải quyết hai vấn đề đó. 

I –KHÁI NIỆM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin không phải là khái niệm mới. Khái niệm này đã được ghi nhận rất sớm trong văn kiện pháp lý của nhiều quốc gia cùng với sự phát triển của các quyền khác của con người. Đạo luật về Tự do báo chí của Thuỵ Điển được ban hành vào năm 1766 đã trao cho người dân quyền được yêu cầu tiếp cận văn bản/hồ sơ của các cơ quan chính phủ. Bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng như Tuyên ngôn của Hà Lan năm 1795 cũng đã xác lập nguyên tắc bảo đảm khả năng tiếp cận các thông tin từ các cơ quan công quyền hoặc các công chức phải báo cáo các công việc của mình. Đặc biệt, sau khi Liên hợp quốc ra đời năm 1945 và việc ghi nhận quyền tiếp cận thông tin như là một trong số các quyền và tự do cơ bản của cá nhân trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, quyền tiếp cận thông tin đã trở thành mối quan tâm trên bình diện quốc tế và ngày càng được các quốc gia. Kể từ thời điểm đó trở đi, quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế trên phạm vi toàn cầu cũng như khu vực. Chẳng hạn như  Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003, Công ước Nhân Quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân Quyền Châu Mỹ (ACHR), Chương trình Hành động Chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái bình dương Được ký kết vào ngày 30 tháng 11 năm 2001 ở Tookyo (Nhật Bản) cũng xác định việc bảo đảm cho công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng phù hợp với pháp luật trong  nước. Ở cấp độ quốc gia, hiện nay, hơn 80 quốc gia ban hành luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin công dưới những tên gọi khác nhau như Luật về tự do thông tin, Luật tiếp cận thông tin...

Như vậy, tiếp cận thông tin đã trở thành một nhu cầu và một quyền cấp thiết cần được bảo đảm. Nói cách khác, công dân phải có quyền tiếp cận đối với thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật, chính sách cũng như hoạt động của các cơ quan công quyền liên quan đến đời sống xã hội. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được xem là nhân tố then chốt trong hoạt động quản lý của nhà nước đối với đời sống xã hội được vận hành theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.

Trong khoa học pháp lý quốc tế hiện nay cũng như trong thực tiễn ban hành và thực thi pháp luật về quyền tiếp cận thông tin, dường như không có nhiều sự tranh luận về khái niệm quyền tiếp cận thông tin mặc dù, về tên gọi, quyền này có thể được thể hiện trong các văn kiện pháp lý quốc tế cũng như quốc gia không hoàn toàn giống nhau. Các văn kiện quốc tế khác nhau xác định nội dung của quyền tiếp cận thông tin với nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo đó, quyền tiếp cận thông tin có nghĩa rộng nhất bao quát cả quyền tự do thể hiện ý kiến và thông tin thông qua việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá thông tin. Theo nghĩa hẹp hơn, quyền tiếp cận thông tin bao gồm quyền tự do tìm kiếm và có được thông tin. Định nghĩa hẹp nhất về quyền tiếp cận thông tin cho rằng đó là quyền của mỗi cá nhân đối với việc xem xét hoặc sao chụp các tài liệu được các cơ quan nhà nước nắm giữ. Ngày nay, nhiều tài liệu và văn kiện pháp lý quốc tế chấp nhận quan điểm hẹp để tránh việc gay tranh cãi. Như vậy, xét một cách tổng quát, quyền được thông tin hay quyền tiếp cận thông tin là khái niệm được sử dụng để nói đến quyền của công chúng được biết thông tin của nhà nước, theo các cách thức trực tiếp lẫn gián tiếp nhằm thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận.

Thông qua quyền tiếp cận thông tin, công chúng có thể giám sát sự công khai và minh bạch trong hoạt động của nhà nước nhằm bảo đảm sự “cân bằng” giữa quyền lực của nhà nước và quyền lợi của công chúng. Với cách nhìn nhận như vậy, quyền tiếp cận thông tin có thể được xem xét ở các phương diện cơ bản sau đây:

1. Quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của con người, nó có mối quan hệ mật thiết với các quyền khác của con người và nó có vai trò quan trọng trong việc thực thi và bảo vệ các quyền khác của con người. 

 Tự do thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người. Liên Hợp quốc xem việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin như là tiêu chuẩn của sự tự do của con người. Việc thừa nhận quyền tự do thông tin trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người của Liên Hợp quốc được xem như là sự cống hiến của tổ chức này đối với sự phát triển của xã hội nói chung và quyền con người nói riêng.

Tuy vậy, quyền tiếp cận thông tin không tồn tại một cách độc lập, nó có quan hệ chặt chẽ với các quyền dân sự - chính trị khác của cá nhân. Điều này được thể hiện ở chỗ, một mặt, quyền tiếp cận thông tin có thể được hiểu như là bộ phận của nhóm các quyền dân sự và chính trị, nó là bộ phận cấu thành quyền tự do thể hiện ý kiến mà đòi hỏi các cơ quan công quyền của một quốc gia phải tôn trọng và kiềm chế can thiệp vào sự tự do thông tin của công dân. Với ý nghĩa đó, quyền tiếp cận thông tin là một nội dung của không tách rời của quyền tự do ngôn luận. Mặt khác, quyền tiếp cận thông tin cũng có mối quan hệ chặt chẽ với các quyền khác của con người và cần được bảo vệ bởi các quyền đó.[49] Để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của con người, các quyền khác cần phải được tôn trọng. Chẳng hạn, công dân có các quyền về chính trị như: tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia thực hiện giám sát bộ máy nhà nước, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,  tự do hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật, tự do thể hiện ý chí của mình khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý… Các quyền này chỉ được thực hiện và được bảo vệ một cách hữu hiệu khi người dân có đầy đủ thông tin cần thiết. Ngược lại, nếu không có đầy đủ các thông tin cần thiết, người dân không thể thực hiện quyền khiếu nại của mình hoặc không thể thực hiện được quyền ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước hoặc tham gia giám sát việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước.

Thêm vào đó, quyền tiếp cận thông tin còn có vai trò như là người bảo vệ cho các quyền khác của con người được pháp luật ghi nhận. Mặc dù, nhiều nhà bình luận thường tập trung nhiều hơn vào các khía cạnh chính trị của quyền tiếp cận thông tin, nhưng trên thực tế, quyền tiếp cận thông tin còn được xem là phương tiện để bảo đảm các lợi ích khác của người dân. Quyền tiếp cận thông tin của cá nhân nào đó chính là việc tôn trọng các giá trị cơ bản của con người nhưng nó cũng đồng thời có vai trò quan trọng đối với tính hiệu quả của các quyết định mang tính cá nhân, chẳng hạn, việc tiếp cận thông tin đối với hồ sơ bệnh án có thể giúp các cá nhân quyết định về phương pháp điều trị, kế hoạch tài chính…Vì thế, ở mức độ rộng hơn và bao quát hơn, quyền tiếp cận thông tin được sử dụng cho nhiều mục tiêu quan trọng khác mà không phải vì mục đích chính trị. Chúng ta có thể thấy được điều này ở nhiều nước trên thế giới nơi mà người dân sử dụng quyền tiếp cận thông tin để bảo vệ các quyền lợi của mình. Chẳng hạn, người dân Ấn Độ sử dụng quyền tiếp cận thông tin để thực thi việc cung cấp khẩu phần thực phẩm bằng cách công khai rằng những người bán thực phầm không cung cấp thực phẩm đã được hỗ trợ của chính phủ cho những người có nguy cơ chết đói. Nhờ đó, hệ thống cung cấp thực phẩm của Ấn độ đã có sự thay đổi đáng kể. Theo đó, người có nguy cơ bị chết đói có thể nhận thức ăn của mình từ những người bán thực phẩm và những người bán hàng này sẽ nhận được phần bồi hoàn tương ứng từ chính phủ;[50] Hoặc: “Ở Thái Lan, bà mẹ có con gái bị từ chối nhận vào trường học danh tiếng đã yêu cầu xem các kết quả kỳ thi tuyển sinh vào trường. Khi bà mẹ đó bị từ chối, bà đã khiếu kiện lên Uỷ ban thông tin và các toà án. Cuối cùng, bà cũng đã nhận được thông tin rằng con cái của những người có ảnh ưởng đã được chấp nhận vào trường học đó ngay cả khi chúng có kết quả thi thấp. Vì thế, Hội đồng nhà nước đã ban hành lệnh cho rằng tất cả các trường chấp nhận các sinh viên chỉ trên cơ sở phẩm chất và năng lực của học sinh”.[51]

Ở nhiều nước, các cá nhân có thể tiếp cận hồ sơ được lưu giữ bởi các cơ quan công quyền liên quan đến cá nhân mình và người dân có thể hiệu chỉnh các hồ sơ của mình nhằm bảo đảm tính chính xác của các hồ sơ đó để giúp cho các cơ quan nhà nước khi đưa ra các quyết định phải dựa vào các thông tin mới nhất và chính xác nhất. Thậm chí, nhiều ý kiến cũng cho rằng, quyền tiếp cận thông tin cũng bảo đảm rằng mọi người có thể thấy được những lợi ích hoặc các dịch vụ mà họ được hưởng và họ tự kiểm tra xem liệu họ có đang thật sự nhận được giá trị thật của những lợi ích và dịch vụ đó không. Chẳng hạn, người dân Nam Phi có thể sử dụng quyền này để khiếu kiện các ngân hàng khi họ muốn biết tại sao hồ sơ vay tiền của họ bị từ chối… hoặc các nhóm bảo vệ môi trường có thể biết được mức độ thiệt hại đối với môi trường của các dự án mà chính phủ đang thực hiện.

 Ngày nay, quyền tiếp cận thông tin đang được nhiều người quan tâm ở một góc độ khác là việc sử dụng quyền này phục vụ cho các hoạt động kinh doanh. Người dân có thể sử dụng quyền tiếp cận thông tin để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của mình. Trong bối cảnh của bất kỳ một nền kinh tế nào, các thông tin về tất cả các lĩnh vực đặc biệt là thông tin trong lĩnh vực thương mại được nắm giữ bởi các cơ quan công quyền có thể là rất hữu ích đối với các thương gia. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, việc sử dụng quyền tiếp cận thông tin của các thương gia không phải chỉ hữu ích đối với thương gia mà còn hỗ trợ khả năng điều phối của nhà nước. “Quyền đối với thông tin giúp một lượng thông tin được lưu thông giữa chính quyền và các khu vực kinh doanh, làm tối đa hoá khả năng điều phối, phụ trợ lẫn nhau[52]

Tóm lại, quyền tiếp cận thông tin là là một quyền cơ bản của con người và có mối quan hệ mật thiết với các quyền khác. Quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm sẽ là cơ sở để người dân có thể thực thi các quyền khác và ngược lại, việc bảo đảm và thực thi các quyền khác của con người cũng chính là điều kiện để bảo đảm cho quyền tiếp cận thông tin.

2. Quyền tiếp cận thông tin, về bản chất là giải quyết mối quan hệ giữa người dân với nhà nước nó vừa là cơ sở để bảo đảm lợi ích của người dân, vừa là điều kiện để tăng cường được quyền lực nhà nước.

Mặc dù, như đã nói ở trên, quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của con người nhưng, ở một chừng mực nào đó, quyền này là quyền phụ thuộc. Bởi vì, quyền tiếp cận thông tin của cá nhân có thể dễ dàng bị hạn chế bằng các hoạt động hàng ngày của chính phủ có ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền này. Do đó, tương ứng với quyền này của người dân cần có nghĩa vụ của chính phủ. Đó là nghĩa vụ bảo đảm thông tin có thể tiếp cận được của người dân bằng chính các biện pháp có tính chất chủ động (chủ động công bố các thông tin liên quan đến chính sách gắn liền với lợi ích của cộng đồng) hoặc thụ động (cung cấp các thông tin khi được người dân yêu cầu). Như thế, quyền tiếp cận thông tin được hiểu là quyền của người dân nhưng việc thực hiện quyền này lại hướng tới các cơ quan công quyền nắm giữ thông tin và hơn thế, việc thực hiện quyền này cũng có thể hướng đến việc công chúng có thể kiểm soát hoạt động của các cơ cơ quan công quyền. Với ý nghĩa đó, quyền tiếp cận thông tin về bản chất là giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân trong việc lưu giữ, sử dụng và phổ biến thông tin.

Quyền tiếp thông tin là nền tảng căn bản xây dựng niệm tin của công dân với nhà nước. Người dân chỉ thực sự tin tưởng vào chính quyền, vào các cơ quan công quyền khi họ có cơ sở để tin tưởng. Cơ sở đó là những thông tin chính xác và đầy đủ từ phía các cơ quan công quyền về tất cả các quyết định liên quan đến đời sống của họ. Nếu không có đầy đủ thông tin, người dân không thực sự có quyền lựa chọn người đại diện cho mình khi bầu cử, không có khả năng để tham gia tích cực vào quá trình ra quyết định của chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của họ…

Các tài liệu và các công trình đều nói đến tầm quan trọng hay ý nghĩa to lớn của quyền tiếp cận thông tin là bảo đảm trách nhiệm giải trình của chính phủ. Nói cách khác, người dân có thể dựa vào quyền tiếp cận thông tin đề yêu cầu chính phủ giải trình đối với các quyết định của mình và cao hơn là chống tham nhũng, làm giảm đói nghèo, và cuối cùng là sống trong một xã hội thực sự dân chủ. Nhìn từ bên ngoài, người ta có thể cho rằng dường như việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin làm hạn chế vai trò của chính phủ trong việc đưa ra các quyết định của mình và dường như làm giảm đi sức mạnh của quyền lực nhà nước. Thực chất, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân sẽ giúp cho nhà nước thực hiện tốt chức năng và vai trò của mình hơn. Chẳng hạn, việc người dân có được các thông tin về công tác hoạt động của chính phủ hoặc các định hướng, quan điểm về chính sách và lập pháp sẽ giúp cho người dân kiểm soát việc thực hiện của chính quyền. Khi chính quyền có được sự giải trình một cách thỏa đáng đối với người dân về các chính sách hoặc các công việc của mình, sự tin tưởng của người dân đối với chính quyền sẽ ngày càng tăng lên. Mặt khác, người dân cũng sẽ không thể đưa ra những ý kiến đóng góp một cách chính xác và hữu ích cho một chính sách nào đó của chính phủ mà không được tiếp cận với chính sách ấy và thông tin về lý do đề xuất chính sách cũng như những thông tin khác có liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách đó. Vì thế, quyền tiếp cận thông tin này không phải mang lại lợi ích cho người dân mà mang lại lợi ích cho chính nhà nước.

Để thu hút sự tham gia của nhân dân vào các công việc xã hội thì tự do thông tin là yếu tố quan trọng. “Dân chủ là sự trên sự đồng thuận của các công dân và sau đó Chính phủ thông báo cho các công dân về các hoạt động của mình và thừa nhận quyền của các công dân được tham gia vào các các công việc của Chính phủ. Công chúng chỉ thực sự có khả năng tham gia vào các quá trình dân chủ khi họ có đầy đủ các thông tin về các chính sách và hoạt động của chính phủ”.[53] Vì vậy, khi các cơ quan nhà nước nắm giữ các thông tin và tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận các thông tin đó thì sẽ bảo đảm các quyết định và chính sách của chính phủ được người dân thực hiện một cách đầy đủ. Ngược lại, nếu không có thông tin, người dân sẽ không thể có sự thảo luận về phạm vi các khả năng lựa chọn sẵn có, và theo đó, sẽ không có việc biểu quyết phù hợp với lợi ích và sự tin cậy tốt nhất mọi người, và đương nhiên sẽ không có sự thảo luận chính sách công một cách tích cực. Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi các chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Như thế, những thông tin được cung cấp và công khai từ phía các cơ quan nhà nước, người dân sẽ kiểm soát được các hoạt động của chính phủ nhằm giúp cho chính phủ thực hiện tốt vai trò của mình.

Trước đây, người ta thường quan niệm nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người dân là nghĩa vụ có tính chất thụ động thì những năm gần đây, chính phủ các nước đã thừa nhận rằng đây là nghĩa vụ tích cực. Điều này cho thấy việc chính phủ cung cấp thông tin cho người dân không phải là chỉ vì lợi ích của người dân mà còn là vì lợi ích của chính nhà nước. UNDP cho rằng: “Chính phủ khép kín gần như là thường kém hiệu quả theo đó, tự do thông tin là cần thiết nếu các vấn đề đưa ra để xác định và giải quyết. Hơn nữa, văn hoá quản lý khép kín thúc đẩy cho sự nghi ngờ và khuyến khích tin đồn và các lý thuyết về sự thông đồng im lặng. Trong nền văn hóa đó, công chúng dường như xử lý tất cả các thông tin của chính phủ với thái độ hoài nghi kể cả các chiến dịch giáo dục cộng đồng, chẳng hạn như các chiến dịch giải quyết những vấn đề về sức khỏe quan trọng như HIV/AIDS hoặc những chiến dịch có thể là đặc biệt nhạy cảm. Mọi người có thể dễ dàng thích nghi về mặt chính trị và hoài nghi đối với chính phủ và các dự định của nó, và chịu đựng để thay đổi trừ khi được chấp nhận bởi ý kiến của lãnh đạo”.[54]

Cũng có thể có ý kiến rất lạc quan cho rằng, bảo đảm quyền tự do thông tin sẽ chấm dứt mọi bất đồng quan điểm trong xã hội. Ở đây, cần phải nhấn mạnh rằng, tự do thông tin ở mức độ cao không có nghĩa là sẽ chấm dứt được mọi sự bất đồng quan điểm trong xã hội. Tuy nhiên, nếu quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm thực hiện một cách có hệ thống với sự quan tâm thích đáng để cân bằng các nhóm lợi ích khác nhau thì quyền này có thể thu hẹp những bất đồng quan điểm, nhờ đó tăng cường tính hiệu quả của các chính sách được ban hành cũng như nâng cao lòng tin của nhân dân vào nhà nước.

Ở một khía cạnh khác, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ là nền tảng cơ bản để người dân có thể có thể kiểm soát các hoạt động của nhà nước mà ở mức độ cao là tăng cường tính hiệu quả trong việc đấu tranh chống tham nhũng. Việc tiếp cận không bình đẳng đối với thông tin cho phép các công chức “theo đuổi các chính sách phục vụ cho lợi ích của họ hơn là cho lợi ích của người khác từ đó dẫn đến tình trạng tham nhũng mà người dân không thể kiểm soát. Thiếu thông tin sẽ cản trở sự tham gia của người dân trong việc bảo vệ lợi ích của chính mình và đặt họ vào tình trạng dễ bị xâm hại, dễ bị thua thiệt trong quan hệ với các công chức và các cơ quan công quyền và hơn thế nữa, thiếu thông tin, người dân khó có thể đưa ra các sáng kiến để bảo đảm sự phát triển của chính họ về mọi mặt.  Do đó, quyền tiếp cận thông tin sẽ góp phần bảo đảm sự minh bạch của bộ máy nhà nước và nhờ đó, sẽ giúp cho người dân tham gia kiểm soát hoạt động của chính quyền để bảo đảm các hoạt động của nhà nước thực sự vì lợi ích chung của cộng đồng. “Không có quyền tiếp cận thông tin, chính phủ thiếu sự minh bạch và nhân dân sống trong một xã hội bí mật sẽ dẫn đến những đồn thổi, âm mưu và tham nhũng. Tham nhũng, đến lượt nó, gây tổn hại đến các hoạt động kinh tế bằng việc không khuyến khích đầu tư nước ngoài và trong nước, ngăn cản trợ giúp của nước ngoài. Tham nhũng “làm sói mòn đạo đức xã hội”, và nó “gây thiệt hại lớn nhất đối với người nghèo”. Tham nhũng, theo Ngân hàng thế giới là cản trở một cách rõ ràng khả năng người nghèo tự giúp họ thoát nghèo”.[55]

II – NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

Trong quá trình phát triển của quyền tiếp cận thông tin, nội dung của nó đã có sự phát triển ngày càng rộng hơn. Trong các văn kiện pháp lý đầu tiên về quyền con người, quyền tiếp cận thông tin được xem là một nội dung thuộc khái niệm quyền tự do ngôn luận. Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 qui định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào và không có ranh giới” và Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị qui định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bằng bản viết, in hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ”

Cùng với sự phát triển của nền dân chủ, quyền tiếp cận thông tin trở thành một quyền độc lập với nội hàm rộng hơn mà nền tảng của nó là quyền được biết sự thật và đòi hỏi phải có tự do thông tin. Vì vậy, nội dung của quyền tiếp cận thông tin không đơn giản chỉ là quyền của người dân mà còn phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho công dân có được các thông tin sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống. Những thông tin này là những thông tin được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay mặt nhân dân lưu giữ với quan niệm“các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích công cộng”.[56] Đo đó, các cơ quan phải có trách nhiệm bảo quản và tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể tiếp cận đối với chúng.. Với ý nghĩa đó, khi nói đến nội dung của quyền tiếp cận thông tin, có hai nội dung cần phải được giải quyết. Một là, thành tố cơ bản của quyền tiếp cận thông tin; và hai là những thông tin nào sẽ được tiếp cận.

1. Thành tố cơ bản của quyền tiếp cận thông tin

Quyền tiếp cận thông tin theo quan niệm của đa số các luật gia ngày nay bao gồm quyền tự do tìm kiếm thông tin, thu thập thông tin và quyền yêu cầu cung cấp thông tin.

Tìm kiếm, thu thập thông tin

Một trong những nội dung cơ bản của quyền tiếp cận thông tin là quyền được có các thông tin đang được quản lý hoặc kiểm soát bởi các cơ quan công quyền. Để có được các thông tin cần thiết đang được quản lý hoặc kiểm soát bởi các cơ quan công quyền, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin trước hết phải có sự tự do trong việc tìm kiếm, thu thập thông tin. Điều này thể hiện tính chủ động của người có quyền đối với những thông tin cần thiết mà người đó quan tâm. Quyền tìm kiếm, thu thập thông tin được hiểu là chủ thể của quyền tiếp cận thông tin có quyền xem các tác phẩm, hồ sơ, tài liệu chứa đựng các thông tin được các cơ quan công quyền quản lý hoặc kiểm soát; ghi chép, trích dẫn, sao chụp các thông tin đó dưới các hình thức khác nhau và bằng những phương tiện khác nhau; có quyền có các bản sao có chứng thực các tài liệu chứa đựng các thông tin; và thu thập thông tin bằng việc sao chép các thông tin đó vào các thiết bị điện tử hoặc bằng việc in các tài liệu đó trực tiếp từ những nơi lưu giữ chúng. bằng máy vi tính hoặc bằng các thiết bị khác.

Yêu cầu cung cấp thông tin,

Cùng với quyền tìm kiếm, thu thập thông tin, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin còn có quyền yêu cầu cơ quan quản lý hoặc kiểm soát thông tin cung cấp thông tin cho mình. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin được xem là một trong những điều kiện để bảo đảm cho việc tìm kiếm thu thập thông tin.

Sở dĩ như vậy vì, ngoài những thông tin được công bố công khai theo thủ tục pháp luật qui định, nhiều thông tin sẽ chỉ được cung cấp khi có yêu cầu của cá nhân và tổ chức vì thông tin đó có thể chỉ liên quan đến quyền và lợi ích của một hoặc một nhóm người. Chẳng hạn, thông tin về tình trạng bệnh tật của người bệnh, thông tin về một cá nhân nào đó... Trong những trường hợp như vậy, chủ thể của quyền tiếp cận thông tin chỉ có thể tìm kiếm, thu thập thông tin khi yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền lưu giữ thông tin đó cung cấp.

Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của người dân đòi hỏi một nghĩa vụ tương ứng từ phía các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin. Đó là nghĩa vụ cung cấp thông tin. Như đã nói ở trên, quyền tiếp cận thông tin của người dân có thể bị hạn chế bằng các hoạt động của các cơ quan công quyền trong việc cung cấp thông tin hoặc sử dụng các rào cản kỹ thuật và pháp lý để hạn chế khả năng tiếp cận thông tin của người dân. Vì thế, để bảo đảm quyền yêu cầu cung cấp thông tin, đòi hỏi nhà nước cần có cơ chế tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, và cá nhân có thể thực hiện được quyền này. Đồng thời, các cơ quan công quyền phải có trách nhiệm công bố thông tin cũng như tạo điều kiện cho việc tiếp cận thông tin. Thiếu các cơ chế để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đồng nghĩa với việc không bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Hậu quả của việc thiếu cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân đó là tình trạng đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác dễ dàng tiếp cận thông tin, gây nên sự bất bình đẳng, bất công bằng trong xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh. Vì vậy, quyền tiếp cận thông tin cũng gắn liền với quyền yêu cầu nhà nước có rách nhiệm bảo đảm rằng các loại thông tin cần thiết liên quan đến lợi ích của cộng đồng phải luôn sẵn sàng cho việc tiếp cận

Có ý kiến cho rằng, quyền tiếp cận thông tin bao gồm các việc tự do truyền bá, phổ biến thông tin. Theo đó, truyền bá hay phổ biến thông tin có nghĩa là cá nhân, công dân có thông tin được quyền truyền đạt, chia sẻ quan điểm, thông tin mà mình đang nắm giữ cho mọi người mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về ranh giới hay các hình thức đưa tin.[57] Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, truyền bá thông tin là một nội dung gắn với tự do thông tin, một khái nhiệm có phạm vi khác so với khái niệm tiếp cận thông tin. “Tự do thông tin được hiều là quyền cơ bản của cá nhân và công chúng và nằm trong mối quan hệ với tự do thể hiện quan điểm của mình. Theo đó, quyền tự do thông tin sẽ bao hàm việc cá nhân và công chúng được tự do truyền tải quan điểm, ý kiến và những thông tin mình có được. Việc truyền bá hay phổ biến thông tin có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như nói, viết, in ấn, điện tử hoặc các hình thức khác.

2. Những thông tin nào có thể được tiếp cận?

Một câu hỏi lớn được đặt ra là người dân sẽ được tiếp cận đối với những thông tin nào? Có thể nói, đây được xem là vấn đề mấu chốt trong việc bảo đảm và thực thi quyền tiếp cận thông tin của người dân.

Quan niệm cho rằng các cơ quan công quyền nắm giữa các thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích công cộng đã in sâu vào suy nghĩ của mọi người trên khắp thế giới.[58] Nói cách khác, cơ quan công quyền không phải lưu giữ thông tin thay mặt chính họ, mà là thay mặt, hay xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội. Vì thế, về mặt nguyên tắc, tất cả những thông tin liên quan đến lợi ích công cộng là có thể tiếp cận được. Theo đó, các thông tin có thể được tiếp cận là những thông tin về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội... về các vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh về về các quyền và sự tự do của công dân. Như thế, lợi ích công cộng dường như là điều để giải thích cho sự tồn tại của quyền tiếp cận thông tin và những thông tin có thể tiếp cận được.

Tuy nhiên, một trong những vấn đề có tính nguyên tắc là tự do thông tin không có nghĩa là tất cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và tiếp cận thông tin không đồng nhất với việc cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, thu thập và yêu cầu cung cấp bất kỳ thông tin nào được lưu giữ bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiểu theo cách thông thường thì các thông tin này phải có khả năng tiếp cận đối với các thành viên của cộng đồng trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn đòi hỏi những thông tin đó phải được giữ bí mật.[59] Nói cách khác, sẽ có những thông tin liên quan đến lợi ích của cộng đồng nhưng không thể được tiếp cận bởi bất kỳ một cá nhân nào. Chẳng hạn, thông tin liên quan đến an ninh, quốc phòng, đến hệ thống phòng thủ của quốc gia... Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến thời hạn cần thiết phải giữ bí mật. Nói cách khác, có những thông tin ở thời điểm này không thể tiếp cận được nhưng lại có thể tiếp cận ở thời điểm khác. Vấn đề được đặt ra là cần phải có đầy đủ các cơ sở pháp lý để giải quyết được mối quan hệ giữa thông tin có thể tiếp cận và thông tin không thể tiếp cận được. 

KẾT LUẬN

Quyền tiếp cận thông tin ngày càng nhận được nhiều sự công nhận của nhiều quốc gia trên thế giới dựa vào nhiều lý do đầy sức thuyết phục. Điều đáng ngạc nhiên là đã mất một thời gian khá dài để đạt được như một sự công nhận một cách rộng rãi đối với một quyền của con người để làm nền tảng quan trọng cho nền dân chủ. Vì thế, việc làm rõ khái niệm và nội dung của quyền tiếp cận thông tin sẽ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng nền dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, đói nghèo và tạo ra tiền đề cho việc phát triển

                                                   Chuyên đề 3

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ  TIẾP CẬN THÔNG TIN

                                                                  PGS-TS Thái Vĩnh Thắng

                                                                      Đại học luật Hà Nội

1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về tiếp cận thông tin ở nước ngoài.

    Khái niệm quyền được thông tin xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1776 tại Thụy Điển trong Luật về tự do báo chí. Luật tự do báo chí của Thụy Điển năm 1776 là đạo luật đầu tiên trên thế giới quy định về quyền tiếp cận thông tin. Đạo luật này một mặt cho phép công dân quyền tự do ngôn luận, mặt khác công nhận cho công dân có quyền được “tiếp cận tài liệu công”. Đi tiên phong trong lĩnh vực tự do báo chí và tự do thông tin, Thụy Điển cũng là đất nước đầu tiên được thế giới ngợi ca về mô hình nhà nước phúc lợi chung trong đó đã kết hợp những nét ưu việt của cả hai mô hình chế độ chính trị là chế độ dân chủ tư sản và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên thế kỷ thứ 18, 19 quyền tự do thông tin đã có trong pháp luật Thụy Điển chưa được phổ biến rộng rãi sang các quốc gia khác trên thế giới. Chỉ sang đến thế kỷ 20 sau đại chiến thế giới lần thứ 2 khi Liên hiệp quốc được thành lập và sự ra đời của Bản tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội 1966 thì quyền tiếp cận thông tin mới được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đặc biệt vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 một cuộc cách mạng về quyền tự do thông tin đã bùng nổ. Nếu năm 1990 chỉ có 13 nước ban hành Luật tự do thông tin/ tiếp cận thông tin thì đến nay vào thời điểm năm 2010 đã có gần 90 nước ban hành luật này. Sau Thụy Điển những nước đi tiên phong trong việc ban hành Luật tự do thông tin là Colombia (1885), Phần Lan (1919),  Mỹ (1966), Na Uy (1970),  Pháp (1978), Úc (1982), Canada (1983), Đan Mạch (1985), Hà Lan (1991); Hungary (1992), Hàn Quốc (1996), Kirgizstan (1997), Thái Lan (1997), Anbani (1999), Bungary (2000), Nam Phi (2000), Anh (2000), Jamaica (2002), Mexico (2002), Thổ Nhĩ Kỳ (2003), Pêru (2003), Nhật Bản (2004), Ấn Độ (2005), Azerbaijan (2005), Uganda (2005), LB Nga (2006), Indonesia (2007)…  Trung Quốc cũng đã ban hành Pháp lệnh về quyền tiếp cận thông tin năm 2007; 30 quốc gia khác đang nỗ lực xem xét ban hành luật này.  

  Theo Tony Mendel, chuyên gia nghiên cứu hàng đầu của Liên hợp quốc về  quyền tiếp cận thông thì  “Quyền đối với thông tin ngày càng nhận được nhiều sự công nhận với một số lý do đầy thuyết phục. Điều đáng ngạc nhiên là đã mất một thời gian khá dài để đạt được một sự công nhận rộng rãi đối với một quyền của con người để làm nền tảng quan trọng cho nền dân chủ. Quan điểm phổ biến hiện nay là các cơ quan công quyền nắm giữ thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích công cộng đã in sâu và ý nghĩ mọi người trên khắp thế giới”[60]. Tổ chức nhân quyền quốc tế NGO, ARTICLE 19, tổ chức thực hiện chiến dịch toàn cầu về tự do ngôn luận đã mô tả thông tin như là khí ôxi của chế độ dân chủ. Thông tin như một nền tảng thiết yếu của nền dân chủ ở mọi cấp độ. Nói một cách chung nhất thì dân chủ chính là khả năng mà các cá nhân có thể tham gia một cách hiệu quả vào quá trình ra quyết định, những quyết định mà họ sẽ phải chịu sự tác động. Các xã hội dân chủ thường có nhiều cơ chế tham gia khác nhau từ việc bầu cử phổ thông đối với các cơ quan ví dụ như đối với giáo dục và y tế công cho tới cơ chế đóng góp ý kiến của công chúng đối với các dự thảo chính sách, dự thảo luật hoặc dự thảo các chương trình phát triển. Theo Tony Mendel sự tham gia có hiệu quả hay không ở tất cả các cấp độ phụ thuộc vào việc tiếp cận thông tin bao gồm các thông tin được nắm giữ bởi các cơ quan công quyền. Việc bầu cử không phải đơn giản chỉ là một cuộc thi về sắc đẹp chính trị, mục đích của các cuộc bầu cử là để hoàn thành đúng chức năng đích thực của chúng được miêu tả dưới góc độ của pháp luật quốc tế như một sự bảo đảm rằng ý chí của người dân chính là nền tảng của chính quyền[61]. Để một cuộc bầu cử đạt kết quả tốt, toàn bộ cử tri phải nắm được đầy đủ thông tin về cách thức bầu cử, về các ứng cử viên. Như vậy cử tri mới có đủ điều kiện để lựa chọn được người xứng đáng. Sự tham gia của công chúng là vấn đề trung tâm đối với quá trình ra quyết định hợp lý và đúng đắn. Báo cáo về phát triển con người của UNDP năm 2002 đã chỉ ra những lợi ích cơ bản của sự tham gia của dân chúng vào việc quyết định các chính sách công, nó chính là quyền cơ bản của con người mà tất cả xã hội nên hưởng ứng, nó bảo vệ con người khỏi các thảm họa về chính trị và kinh tế. Quyền đối với thông tin cũng có thể giúp đảm bảo một sân chơi công bằng hơn. Stigliz, người giành giải Nobel vì  có tác phẩm nổi tiếng về sự can thiệp có tính không cân xứng của thông tin đối với nền kinh tế, đã chỉ ra rằng việc tiếp cận không bình đẳng đối với thông tin cho phép các công chức theo đuổi các chính sách phục vụ cho lợi ích của họ hơn cho lợi ích của người khác. Những sự cải tiến về thông tin và những quy tắc quản lý việc phổ biến thông tin có thể làm hạn chế sự lạm dụng này[62]. Theo Tony Mendel, sự dân chủ cũng liên quan đến trách nhiệm giải trình, sự quản lý có hiệu quả, công chúng có quyền xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng các hành động của các nhà lãnh đạo của họ và tham gia vào các cuộc tranh luận công khai về các hành động của các nhà lãnh đạo này. Họ phải có khả năng tiếp cận với các hoạt động của chính quyền, phải nắm được các thông tin về tình hình chính trị kinh tế xã hội của đất nước.

 Cũng theo Mendel quyền đối với thông tin cũng là một công cụ mấu chốt trong việc đấu tranh chống tham nhũng và các hành vi sai trái về chính quyền, các nhà báo điều tra và các tổ chức phi chính phủ làm nhiệm vụ giám sát có thể sử dụng quyền tiếp cận thông tin để vạch trần những hành vi sai trái nhằm loại bỏ nó.

 Trên một khía cạnh khác quyền tiếp cận thông tin được nhiều nhà khoa học coi là phương tiện có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thông tin nhanh nhạy và chính xác giúp cho các thương nhân có quyết định đúng đắn.

Ngày nay hầu khắp các quốc gia và các tổ chức quốc tế đều có chung một nhận thức tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người. Thực hiện được quyền này là điều kiện cần thiết để các cá nhân có thể bảo vệ hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, ngăn ngừa và chống lại các hành vi lạm dụng quyền lực, thúc đẩy dân chủ hoá và minh bạch hoá quá trình hoạch định chính sách và ban hành pháp luật, thực thi pháp luật, củng cố lòng tin và tăng cường sự ủng hộ của dân chúng đối với các chủ trương và chính sách của chính quyền, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.

 Quyền tự do thông tin hay tiếp cận thông tin trong xã hội đương đại là quyền đặc biệt quan trọng của con người. Trong một nhà nước của dân, do dân và vì dân, các cơ quan công quyền nắm giữ các thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích của cộng đồng. Hiểu theo cách thông thường thì các thông tin này phải được các thành viên của cộng đồng tiếp cận  và nắm rõ nếu họ có mong muốn, trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc chúng phải được giữ bí mật.  Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin trong các nhà nước đương đại phản ánh một nhu cầu chính đáng của xã hội là Chính phủ của các quốc gia có trách nhiệm phục vụ nhân dân không phải bằng sự bưng bít thông tin mà bằng sự cung cấp đầy đủ và trung thực thông tin cho nhân dân.

  Sự chuyển đổi sang cơ chế dân chủ tại nhiều quốc gia, sự phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin cũng làm cho quyền đối với thông tin ngày càng trở nên quan trọng đối với mọi công dân. Công nghệ thông tin đã tạo điều kiện  và khuyến khích các thành viên của cộng đồng kiểm soát và hạn chế nạn tham nhũng bằng nhiều phương pháp khác nhau như giám sát hoạt động của các nhà lãnh đạo và khuyến khích công chúng tham gia vào quá trình ra quyết định. Nói chính xác hơn thì điều này đã dẫn tới một nhu cầu ngày càng lớn đối với việc tôn trọng đối với thông tin.  Tiếp cận thông tin có một sức hút mạnh mẽ rộng rãi, và ngày nay trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

 Chiến dịch toàn cầu cho tự do ngôn luận đã mô tả thông tin như là “khí ôxy của chế độ dân chủ[63]. Thông tin như một nền tảng thiết yếu của nền dân chủ ở mọi cấp độ. Nói một cách chung nhất, dân chủ chính là khả năng mà các cá nhân có thể tham gia một cách hiệu quả vào quá trình ra các quyết định, những quyết định mà họ sẽ phải chịu sự tác động. Sự tham gia có hiệu quả hay không ở tất cả các cấp độ từ việc bầu cử đến hình thành các tổ chức giám sát của người dân, cho đến đóng góp ý kiến đối với các dự thảo luật, dự thảo chính sách phụ thuộc vào việc tiếp cận thông tin bao gồm các thông tin được nắm giữ bởi các cơ quan công quyền. Mục đích của các cuộc bầu cử là để hoàn thành đúng chức năng đích thực của chúng, bảo đảm ý chí của người dân chính là nền tảng của chính quyền, ý chí này chỉ có thể thực hiện được khi người dân được tiếp cận thông tin đầy đủ về quá trình bầu cử đặc biệt là có thông tin đầy đủ về các ứng cử viên. Điều này cũng đúng với các hình thức tham gia khác. Ví dụ như việc cung cấp các dữ liệu cho một quá trình hoạch định chính sách ví như cho một dự thảo chính sách khó mà thực hiện được nếu như người dân không thể tiếp cận được đối với những tư tưởng mang tính định hướng của chính quyền cũng như các thông tin cơ bản làm nền tảng cho các tư tưởng đó.

 Sự tham gia của công chúng cũng là vấn đề trung tâm đối với quá trình ra quyết định hợp lý và đúng đắn. Báo cáo về phát triển con người của UNDP năm 2002: “Tăng cường dân chủ trong một thế giới chưa hoàn thiện” đã chỉ ra lợi ích cơ bản của sự tham gia của công dân vào việc xây dựng các chính sách công, khẳng định đó là quyền cơ bản của con người  mà tất cả xã hội nên hưởng ứng. Sự tham gia của công chúng vào các chính sách chung bảo vệ con người khỏi các thảm họa về chính trị và kinh tế và nó “có thể khởi sự một chu kỳ đúng đắn  của sự phát triển”[64] . Khi việc tiếp cận thông tin củng cố sự tham gia có hiệu quả của công chúng thì nó đồng thời cũng góp phần tạo nên những lợi ích này. Quyền đối với thông tin cũng có thể giúp bảo đảm một sân chơi công bằng hơn. Stiglitz, người giành giải Nobel nhờ những thành công của các công trình nghiên cứu về sự can thiệp không cân xứng của thông tin đối với nền kinh tế đã chỉ ra rằng việc tiếp cận thông tin không bình đẳng cho phép các công chức “theo đuổi các chính sách phục vụ cho lợi ích của họ hơn là cho lợi ích của người khác. Những sự cải tiến về thông tin và những quy tắc quản lý việc phổ biến thông tin có thể làm hạn chế sự lạm dụng này”[65] . Công khai cùng với bầu cử và tự do báo chí là cần thiết bảo đảm xã hội mở và dân chủ.

  Quá trình phát triển dân chủ  liên quan đến tính chịu trách nhiệm của chính quyền bao hàm trách nhiệm giải trình và sự quản lý có hiệu quả. Công chúng có quyền xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng các hành động của các nhà lãnh đạo của họ và tham gia vào các cuộc tranh luận công khai về các hành động của các nhà lãnh đạo này. Họ phải có khả năng tiếp cận với các hoạt động của chính quyền. Một trong những cách có hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề quản lý yếu kém chính là các cuộc tranh luận công khai và đảm bảo quyền được thông tin.

  Uỷ ban Cải cách pháp luật và Hội đồng giám sát hành chính Australia đã nhận định: “Luật Tự do thông tin đã có ảnh hưởng to lớn đến cách thức mà các cơ quan Nhà nước ra quyết định cũng như cách thức mà họ lưu trữ các thông tin. Luật này nhắc nhở những người ra quyết định phải nhớ rằng  sự ban hành các quyết định  luôn luôn dựa trên các yếu tố có liên quan nên phải lưu trữ lại toàn bộ quá trình soạn thảo và ra quyết định. Việc nhận thức rằng các quyết định và quá trình ra quyết định là minh bạch và chịu sự giám sát của công luận theo quy định của Luật tự do thông tin sẽ tạo ra kỷ cương vững chắc trong khu vực Nhà nước.”

 Quyền đối với thông tin cũng là một công cụ mấu chốt trong việc đấu tranh chống tham nhũng và các hành vi sai trái của chính quyền. Các nhà báo và các tổ chức phi chính phủ làm nhiệm vụ giám sát có thể sử dụng quyền này để vạch trần các hành vi sai trái nhằm loại bỏ nó. Như một thẩm phán toà án tối cao Mỹ  Louis Brandeir đã nói: “Ánh sáng chính là chất tẩy tốt nhất”.  Công ước quốc  tế của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng năm 2005 đã nhấn mạnh về sự minh bạch và cởi mở trong đó bao gồm yếu tố sự tham gia của công chúng và minh bạch trong khu vực doanh nghiệp. Điều 10 của Công ước quy định: “Mỗi quốc gia tham gia sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để tăng tính minh bạch trong khu vực hành chính công bao gồm các thủ tục và quy định cho công chúng có thể nhận thông tin về tổ chức, chức năng, quá trình ra quyết định  hành chính công có tính đến việc bảo vệ dữ liệu cá nhân và sự riêng tư, và cả các quyết định và văn bản pháp lý liên quan đến công chúng”.

 Quyền tiếp cận thông tin cũng đáp ứng các mục tiêu xã hội quan trọng khác chẳng hạn quyền của cá nhân tiếp cận thông tin cá nhân của mình là một phần nhân phẩm của cá nhân đó và là mấu chốt để cá nhân đưa ra quyết định hiệu quả. Ví dụ khả năng tiếp cận thông tin bệnh lý cá nhân có thể giúp cá nhân đó đưa ra quyết định về phương thức điều trị, lên các kế hoạch tài chính…

 Một khía cạnh khác của quyền đối với thông tin thường được phản ánh là việc sử dụng quyền này để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Các cơ quan công quyền nắm giữ một khối lượng lớn các thông tin trong tất cả các lĩnh vực, nhiều loại trong số đó liên quan tới các vấn đề kinh tế và chúng có thể là rất hữu ích cho các doanh nhân.

 Nhìn nhận một cách tổng quát, quyền tiếp cận thông tin đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tăng cường thực hiện và thực hiện tốt, thực hiện một cách công bằng các quyền chính trị, dân sự , kinh tế, văn hoá, xã hội của người dân từ quyền bầu cử, quyền chất vấn, biểu quyết, tham gia đóng góp ý kiến, khiếu nại tố cáo đến quyền yêu cầu bồi thường do hành vi sai trái của cơ quan công quyền, quyền tự do kinh doanh và tiếp cận nguồn vốn, quyền học tập và lao động, quyền được sống trong môi trường trong sạch, tiếp cận với các dịch vụ y tế…Thông tin công là tài sản công và chính sách cung cấp thông tin công phải hình thành trên cơ sở phi lợi nhuận. Quá trình tiếp cận thông tin là quá trình thúc đẩy công bằng và thực thi luật pháp và củng cố nhà nước pháp quyền. 

 Một ví dụ cụ thể về lợi ích tự do thông tin tại Ấn Độ, luật tự do thông tin quy định những người cung cấp thực phẩm không được phép lạm dụng việc cung cấp lương thực được Chính phủ trợ cấp nhằm làm bần cùng hoá người dân. Điều này đã  tạo ra một sự thay đổi căn bản trong hệ thống phân phối lương thực nhằm đảm bảo rằng các công dân được nhận phần lương thực của mình trong khi các nhà cung cấp cũng nhận được tiền công đầy đủ. Nhiều quốc gia khác cũng sử dụng quyền này thúc đẩy các quan chức Chính phủ phải phản ứng và có hành động một cách nhanh chóng hơn đối với các vấn đề đã tồn tại dai dẳng trong xã hội như đường sá, xây dựng và tạo việc làm. Ở Thái Lan, một người mẹ có con bị từ chối không cho nhập học vào một trường công đầy danh tiếng đã yêu cầu nhà trường phải cho xem kết quả thi đầu vào. Khi nhà trường từ chối, người mẹ này nộp đơn lên Uỷ ban Thông tin và cho Toà án. Kết quả là bà nhận được thông tin rằng con cái của nhiều người có ảnh hưởng lớn đã được chấp nhận vào học trong trường mặc dù có điểm thi rất thấp. Sau đó Hội đồng Nhà nước đã ban hành một quyết định rằng các trường chỉ được phép tiếp nhận sinh viên dựa trên một yếu tố duy nhất là kết quả học tập.

  Tự do thông tin cũng có lợi ích hàn gắn vết thương quá khứ. Tại nhiều quốc gia trong quá trình chuyển đổi sang một nền dân chủ, Luật tự do thông tin cho phép các Chính phủ chia sẻ thông tin, tài liệu về quá khứ và cho phép xã hội cũng như các nạn nhân và gia đình của họ, những người từng bị lạm dụng và thương tổn biết và hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra trong quá khứ.    

 Có thể nói, nhận thức tầm quan trọng của tiếp cận thông tin không chỉ là từ phía công chúng, các nhóm xã hội mà còn từ phía Chính phủ. Sự cần thiết

của quyền tiếp cận thông tin cho các mục tiêu dân chủ, chống tham nhũng, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của cá nhân, từng lớp xã hội cũng như coi nó là một nguồn lực xã hội cần tiếp cận và khai thác bình đẳng để giải quyết các vấn đề kinh tế, môi trường và  an sinh xã hội. Xây dựng một Chính phủ điện tử trở thành một nhu cầu thiết yếu trong việc quản lý và điều hành nhanh và có hiệu quả vì vậy tự do thông tin được nhiều lãnh đạo quốc gia đánh giá như là nhu cầu tự thân. Một số yếu tố khác như nhu cầu hiểu đúng và thực thi các chính sách của Nhà nước từ phía công chúng, nhu cầu cân bằng lợi ích các nhóm xã hội, củng cố sự đồng thuận xã hội và tạo điều kiện cơ chế giám sát từ bên trong có hiệu quả… cũng thúc đẩy Chính phủ nhiều nước nhận thức về quyền tự do thông tin. Uỷ ban New Zealand, một trong những cơ quan có sự đóng góp to lớn cho sự ra đời của Luật thông tin chính thức nhận định: “Tự do thông tin ở mức độ cao không có nghĩa là sẽ chấm dứt được mọi sự bất đồng quan điểm trong xã hội cũng như giải quyết được hết các vấn đề chính trị chủ yếu. Tuy nhiên, nếu quyền này được áp dụng một cách hệ thống với sự quan tâm thích đáng nhằm cân bằng các nhóm lợi ích khác nhau thì quyền này có thể làm thu hẹp việc bất đồng quan điểm, tăng cường tính hiệu quả của các chính sách được ban hành cũng như nâng cao lòng tin của nhân dân vào hệ thống chính trị”. Tuy vậy ở nhiều nước vẫn còn có khái niệm “văn hoá giữ bí mật”, nhiều đạo luật về tự do thông tin có mức độ áp dụng rất hạn chế hay người dân rất khó tiếp cận thông tin dẫn đến tình trạng độc quyền thông tin hoặc đầu cơ thông tin, thông tin chỉ đến được với một số người và nhằm đảm bảo quyền lợi của một số người nhất định.

 Tuy nhiên trong bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển, các quyền con người ngày càng cần được coi trọng, các quốc gia trên thế giới đã chú trọng ban hành các đạo luật liên quan quyền tiếp cận thông tin dựa trên các văn kiện quốc tế mà quốc gia đó ký kết, tham gia và dựa trên tình hình cụ thể của đất nước. Đến nay đã có gần 90 nước ban hành đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin và nhiều quốc gia cũng đang chuẩn bị ban hành đạo luật này. Sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của mỗi nước, tác động từ bên ngoài, sứp ép từ phía công chúng, các nhóm xã hội, giới truyền thông, nhu cầu đấu tranh chống tham nhũng vì sự bình đẳng và tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế cũng đòi hỏi mỗi quốc gia không thể tự mình tách ra khỏi thế giới mà phải chuyển mình, mở rộng và thực hiện tốt hơn các quyền công dân bao gồm quyền tiếp cận thông tin cũng như các quyền liên quan. Có thể nói ban hành luật tự do thông tin hay tiếp cận thông tin là một yêu cầu bức thiết của hầu hết các nước trên thế giới. Nó đi đôi với việc ban hành hay sửa đổi các đạo luật khác liên quan đến quyền tiếp cận thông tin từ công chúng , đảm bảo quyền tìm kiếm thông tin, phổ biến, trao đổi thông tin (ngoại trừ một số ít những thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật cá nhân, bí mật thương mại, bí mật điều tra tội phạm)  của mọi  cá nhân phục vụ cho lợi ích của cộng đồng, của tập thể và cá nhân.

2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam

  Ở Việt Nam, quyền được thông tin đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật khác, tuy nhiên cho đến nay Nhà nước ta vẫn chưa có đạo luật riêng quy định  về quyền này. Quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay được thể hiện rãi rác trong nhiều văn bản pháp luật: Luật phòng chống tham nhũng năm 2005, Luật báo chí năm 1989, Luật xuất bản năm 2004, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân  và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật kiểm toán Nhà nước năm 2005, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, Pháp lệnh về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003. Đặc biệt trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết, nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan.

 Những quy định trên đây về việc tiếp cận thông tin của công dân và nghĩa vụ của cơ quan Nhà nước về cung cấp thông tin trong một số lĩnh vực và phạm vi địa bàn áp dụng cũng đã khá rõ tuy nhiên việc thực hiện các quy định nói trên còn rất hạn chế vì trong tất cả các văn bản pháp luật nói trên hầu như rất ít chế tài quy định về vấn đề xử phạt việc không cung cấp thông tin và những quy định nói trên nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau và thiếu tính hệ thống nên vẫn chưa có một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo cho công dân được thực hiện một cách đầy đủ quyền tiếp cận thông tin.

2.1.Bảo đảm quyền được thông tin qua báo chí, xuất bản

 Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, là diễn đàn, tiếng nói của mọi tầng lớp trong xã hội. Xét về mặt lịch sử, các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản được pháp luật quy định từ khá sớm, có thể thấy trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam.

   Luật Báo chí năm 1989 sửa đổi năm 1999 đã quy định: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí (Điều 2). Luật cũng quy định trách nhiệm của báo chí là đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân. Điều 7 Luật báo chí quy định việc cung cấp thông tin cho báo chí vừa là quyền, vừa được coi là nghĩa vụ của các cơ quan và công chức nhà nước. Điều 8 quy định người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người có chức vụ trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí.

 Cụ thể hoá Luật Báo chí, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 quy định chi tiết việc thi hành Luật Báo chí. Theo Nghị định này, nhà báo có quyền đến cơ quan, tổ chức để thu thập thông tin, tra cứu tài liệu, làm nghiệp vụ báo chí; được thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND các cấp, các đại hội và hội nghị công khai, các cuộc mít tinh, đón tiếp khách của Đảng, Nhà nước; được hoạt động nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên toà xét xử công khai…

 Ngoài các hình thức yêu cầu cung cấp thông tin một cách trực tiếp và thông qua báo chí, công chúng còn có thể đưa ra yêu cầu tiếp cận với thông tin của các cơ quan nhà nước qua một số kênh khác như thông qua các đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp, hoặc qua các cuộc họp dân, hay thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. 

   Luật Xuất bản năm 2004 quy định cho phép các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội và tổ chức khác được thành lập nhà xuất bản và cho phép các nhà xuất bản được liên kết với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về in hoặc phát hành xuất bản phẩm và tổ chức có tư cách pháp nhân để tổ chức bản thảo, in và phát hành từng xuất bản phẩm.

2.2. Nội dung, phạm vi các vấn đề, lĩnh vực cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai trong hoạt động, bảo đảm quyền được biết của công dân trong một số văn bản pháp luật.

  Các vấn đề, lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan công quyền phải công khai được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

 Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 tại Điều 5 liệt kê 11 lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai cho dân biết, bao gồm các vấn đề liên quan: kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự án, công trình đầu tư, nhiệm vụ, quyền hạn cán bộ công chức của cấp xã; việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, chủ trương kế hoạch cho nhân dân vay vốn để phát triển sản xuất…

    Luật kế toán năm 2003 quy định nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và đơn vị sự nghiệp không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước

 Luật Kiểm toán năm 2005 quy định: công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58). Báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội được công bố công khai theo quy định của pháp luật. Điều 59 của Luật quy định: công khai báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán sau khi phát hành được công bố công khai cùng với báo cáo tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Luật kế toán.

 Trên lĩnh vực nhà ở, Nghị định số 90/2006 ngày 13/9/2006 quy định chi tiết hướng dẫn Luật Nhà ở năm 2005 có quy định UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại.

 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 quy định nội dung nguyên tắc công khai, minh bạch tại Điều 11: Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ. Từ Điều 13 đến Điều 30 quy định 18 nội dung các lĩnh vực, cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ công quyền phải công khai như: trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản; trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản; về tài chính và ngân sách nhà nước; trong việc huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân; trong việc quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ; trong quản lý doanh nghiệp nhà nước; trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước; trong quản lý sử dụng đất v.v.   Điều 33 quy định công khai báo cáo hàng năm về kết quả công tác đấu tranh chống tham nhũng.

 Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005 tại Điều 6 quy định các lĩnh vực công khai bao gồm phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước; tài sản và kế hoạch mua sắm, sử dụng tài sản trong cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước ...

 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 tại Điều 104 quy định công khai thông tin, dữ liệu về môi trường bao gồm: báo cáo đánh giá tác động môi trường, quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế hoạch thực hiện các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, các giải pháp  đã triển khai trên thực tế và kết quả thực tế đã đạt được.

 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 tại Điều 8 có quy định văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được đăng Công báo cấp tỉnh. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp quy định tại đoạn 2 Khoản 1 Điều này.

 Trước đó, Nghị định số 104/NĐ-CP ngày 23/3/2004 của Chính phủ về Công báo nước CHXHCN Việt Nam cũng quy định các văn bản phải đăng trên công báo ở trung ương.

Quy định về công khai cũng được quy định tại Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật năng lượng nguyên tử năm 2008, Luật đa dạng sinh học năm 2008, Luật cư trú năm 2006, Luật Điện lực năm 2004, Luật dược năm 2004, Luật đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Xây dựng năm 2003, Luật công nghệ thông tin, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.

 Nhằm tiếp tục bảo đảm tính công khai minh bạch trên lĩnh vực quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, ngày 13/9/2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 92/2006 yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh có trách nhiệm công khai quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội cả nước, các vùng, các tỉnh, huyện, các ngành, lĩnh vực để mọi công dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận nghiên cứu và khai thác…

 Trong các văn bản này và các văn bản hướng dẫn thi hành, có quy định về các hình thức công khai thông tin và cách thức cung cấp thông tin, quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm, thời hạn cơ quan công quyền phải cung cấp trả lời, cũng như các hình thức xử lý vi phạm mặc dù có thể chưa cụ thể, rõ ràng.

 Nhìn chung, pháp luật nước ta đã từng bước hoàn thiện theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy công quyền. Đáng chú ý là các văn bản pháp luật được ban hành sau việc quy định trách nhiệm công khai minh bạch và cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước có phần rõ hơn so với các văn bản ban hành trước. Tuy nhiên nếu nhìn vào hiện trạng pháp luật và quá trình thực thi pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy quyền được tiếp cận thông tin của công dân Việt Nam vẫn còn hạn hẹp, nhiều bất cập khó thực hiện trên thực tế và có lúc có nơi vẫn còn bị vi phạm nghiêm trọng.

 Việc tiếp cận thông tin do các cơ quan công quyền còn rất khó khăn, vì thế tính công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan này chưa được thực hiện, cụ thể như trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai…Vì thế hiện tượng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật trong các cơ quan công quyền còn phổ biến, dẫn đến hiện tượng khiếu kiện đông người, kéo dài hay vượt cấp…

 Việc thiếu các quy định cụ thể về thủ tục, trình tự yêu cầu, biện pháp xử lý vi phạm dẫn tới việc khai thác, tìm kiếm thông tin từ cơ quan công quyền vẫn thường hay bị gây phiền hà. Quyền được phổ biến thông tin, bày tỏ quan điểm, tiếp nhận thông tin một cách tự do gắn với quyền được thông tin còn thiếu cơ chế để thực hiện, các quy định hiện hành rất mờ nhạt. Hiện tượng bưng bít thông tin của các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất làm thiệt hại đến lợi ích của người dân khá phổ biến. Các phương tiện truyền thông còn bị hạn chế trong tiếp cận các thông tin từ phía các cơ quan công quyền, tổ chức và doanh nghiệp. Công tác phổ biến pháp luật còn yếu kém. Trình độ dân trí còn thấp, các hoạt động báo chí, truyền thanh, truyền hình, xuất bản còn nhiều hạn chế, vì thế người dân chưa nhận thức được đầy đủ quyền của mình, thậm chí có khi thờ ơ với thông tin từ phía nhà nước. Ngoài ra, hiện nay cũng chưa có quy định các cơ quan công quyền phải tiếp nhận, trả lời các yêu cầu trực tiếp của cá nhân về thông tin mà các cơ quan công quyền đang nắm giữ dù đó không phải là thông tin mật. 

 Các văn bản về thông tin miễn trừ tiếp cận (quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật phòng chống tham nhũng, Luật Bảo vệ môi trường, Quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ v.v. ) quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, thiếu tính đồng bộ cản trở cho việc tiếp cận thông tin của người dân hay gây khó khăn cho cơ quan, cán bộ cung cấp thông tin cho người dân cũng như làm công tác bảo mật.

 Xuất phát từ thực tiến tổ chức, lãnh đạo và quản lý nhà nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra chủ trương nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Đây là cơ sở để thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin của người dân, góp phần vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, hủ hoá, quan liêu trong bộ máy nhà nước và các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước.

                                       

                                              

                                               Chuyên đề  4

VAI TRÒ CỦA QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN ĐỐI VỚI CÔNG

DÂN  TRONG THAM GIA PHẢN BIỆN, GIÁM SÁT XÃ HỘI, TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG VÀ XÂY

 DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH, HIỆU

QUẢ

                                                           Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Vân

                                                        Vụ pháp luật kinh tế -dân sự, Bộ tư pháp

Dẫn đề

Quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và nhiều công ước khác của Liên hợp quốc.

Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm mà không bị can thiệp, tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ cac ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào và không giới hạn”.

Ở Việt nam, quyền tiếp cận thông tin cũng được quy định tại Điều 69 Hiến pháp năm 1992 như sau: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật”.

Mặc dù quyền tiếp cận thông tin đã được đề cập và điều chỉnh bằng Hiến pháp và một số văn bản quy phạm pháp luật, nhưng ở Việt Nam chưa có một đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin, trong đó quy định một cơ chế cụ thể để thực thi quyền này trong thực tế, nhất là với chủ thể thụ hưởng quyền là công dân. Trong bối cảnh Quốc hội Việt Nam đang xem xét ban hành Luật Tiếp cận thông tin, việc nghiên cứu vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong mối quan hệ với hoạt động phản biện, giám sát xã hội; việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xây dựng một nền hành chính công khai, minh bạch, hiệu quả là cần thiết. 

Phạm vi nghiên cứu

Về giới hạn phạm vi nghiên cứu, Báo cáo này chỉ đề cập và phân tích quyền tiếp cận thông tin trong mối quan hệ với ba hoạt động sau đây: hoạt động phản biện xã hội và giám sát xã hội; hoạt động đấu tranh phòng, chống tham nhũng và việc xây dựng một nền hành chính công khai, minh bạch, hiệu quả.

Về chủ thể nghiên cứu, Báo cáo chỉ phân tích những nội dung liên quan đến chủ thể là người dân với tư cách là một cá nhân thụ hưởng quyền tiếp cận thông tin. Báo cáo không đề cập và phân tích quyền tiếp cận thông tin của các tổ chức, pháp nhân.

Về đối tượng nghiên cứu, Báo cáo cũng chỉ tiếp cận quyền tiếp cận thông tin trong phạm vi giới hạn là hoạt động quản lý hành chính nhà nước, không đề cập đến các lĩnh vực khác mà trong đó quyền tiếp cận thông tin cũng có thể được đặt ra (như tiếp cận thông tin thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp)  .

  1. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin đối với công dân trong tham gia phản biện, giám sát xã hội
  1. Sự cần thiết của hoạt động phản biện xã hội, giám sát xã hội

Cuộc sống không đứng yên một chỗ mà luôn biến động và phát triển không ngừng, như Héraclite[66] đã từng nói “Người ta không thế tắm hai lần trên một dòng sông”. Cũng chính với cách tiếp cận này, K. Max và F. Engel đã đưa ra nhận định: “Trong quá trình phát triển, tất cả những gì trước kia là hiện thực thì hiện nay trở thành không hiện thực, mất tính tất yếu, mất quyền tồn tại, mất tính hợp lý của chúng; và hiện thực mới, đầy sinh lực, thay thế cho hiện thực đang tiêu vong”; “đối với triết học biện chứng thì không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả[67].

Không khó để nhất trí với nhận định cho rằng, một trong những đặc tính của hoạt động quản lý nhà nước là tính quan liêu của nó. Đặc tính này là một trong những mặt trái, một điểm yếu cố hữu trong hoạt động quản lý nhà nước. Nó là vật cản ngăn cách nhà quản lý nắm bắt chính xác sự vật và hiện tượng trong thế vận động và phát triển, nó có xu hướng kéo tầm nhìn của nhà quản lý tiếp cận sự vật, hiện tượng trong trạng thái “tĩnh”, trong khi sự vật và hiện tượng đó lại luôn ở trạng thái biến đổi không ngừng. Bởi vậy, trong quá trình điều hành và quản lý xã hội, mỗi khi cần đưa ra một chính sách mới, các nhà hoạch định chính sách luôn cần phân tích chính xác sự vật, hiện tượng vào thời điểm chính sách mới được đưa ra; cần nắm bắt đầy đủ, kịp thời những biến động, thay đổi của sự vật, hiện tượng; cần đo đếm được phản ứng của các nhóm lợi ích trong xã hội đối với chính sách trước khi nó được ban hành.

Việc nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác cho phép nhà hoạch định chính sách điều chỉnh tư duy, nhận thức của mình, kịp thời sửa đổi những bất cập, hoàn thiện ý tưởng về chính sách để khi được ban hành, chính sách đó cân bằng ở mức cao nhất những lợi ích khác nhau của các thành phần xã hội khác nhau. Trong bối xã hội hiện đại khi người ta ngày càng hạn chế nguyên tắc win-lost (bên này thắng- bên kia thua) để hướng tới nguyên tắc win-win (cả hai bên cùng thắng, hai bên cùng có lợi), hoặc win-win-win (tất cả cùng thắng, các bên đều có lợi), thì việc hoạch định một chính sách đáp ứng ở mức độ hài hoà nhất lợi ích của các thành phần trong xã hội là điều vô cùng quan trọng, nó cho phép không chỉ nâng cao tính khả thi, tinh thần tôn trọng của các đối tượng chịu sự tác động của chính sách mà còn đảm bảo sự bền vững của chính sách ấy, góp phần đem đến sự ổn định xã hội.

Trước yêu cầu đó, cơ chế phản biện, giám sát xã hội cho phép các nhà hoạch định chính sách thực hiện được nguyên tắc quan trọng nêu trên. Việc phản biện, giám sát xã hội thực chất là quá trình phản hồi, đối thoại của các đối tượng chịu tác động của chính sách (đối tượng chịu sự quản lý) đối với quá trình điều hành, quản lý xã hội của cơ quan nhà nước (đối tượng quản lý). Quá trình giám sát, phản biện xã hội chính là quá trình các thành phần khác nhau trong xã hội giúp cơ quan quản lý nhà nước phát hiện những bất cập, những điểm chưa hợp lý của chính sách để từ đó nhận thức đúng sự vật, hiện tượng và có hướng quản lý phù hợp, tránh sự quản lý một cách duy ý chí.

Khoa học quản lý nói chung và việc quản lý hành chính nhà nước nói riêng là một quá trình dần hoàn thiện. Những ý kiến đồng thuận hay phản đối trong quá trình phản hồi, đối thoại sẽ giúp cơ quan quản lý tránh được những sai lầm để quản lý xã hội tốt hơn.

“Yêu cầu của phản biện xuất phát từ sự không hoàn thiện của tư duy, vì không ai, thậm chí một tập thể nghĩ một lần là hoàn chỉnh, là tiếp cận chân lý ngay, cho nên cần qua tranh luận, phản biện để hoàn chỉnh. Do đó, phản biện có tinh thần xây dựng rất cao. Cho nên phản biện rất cần thiết để hoàn chỉnh các chủ trương, chính sách, tránh các sai sót, sơ hở”[68].  Thậm chí, với những thông tin bộc lộ trong quá trình đối thoại, cơ quan quản lý nắm bắt được kịp thời tâm tư, nguyện vọng của công chúng để điều chỉnh phương thức quản lý, phòng ngừa xung đột xã hội[69].

Ở góc độ của đối tượng chịu sự quản lý, chính quá trình phản hồi, đối thoại về chính sách sẽ cho phép họ hiểu được căn nguyên của chính sách, giải tỏa được tâm lý, nhận thức một cách hài hoà lợi ích của nhiều nhóm người khác nhau trong xã hội để từ đó ủng hộ hoặc tuân thủ chính sách mà nhà nước đưa ra.

  1.  Quyền tiếp cận thông tin của chủ thể thực hiện hoạt động phản biện xã hội, giám sát xã hội

Chủ thể thực hiện hoạt động phản biện xã hội và giám sát xã hội được hiểu là “nhân dân với tính chất là tập hợp các nhóm người, các tầng lớp trong xã hội”[70]. Với ý nghĩa này, trong phạm vi của hoạt động quản lý hành chính, chủ thể của phản biện xã hội, giám sát xã hội là các cá nhân, tổ chức trong xã hội – những đối tượng chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước.

Một trong những tiêu chí quan trọng về các chủ thể phản biện xã hội, giám sát xã hội đó là vị thế độc lập của họ đối với các đối tượng mà họ sẽ thực hiện hoạt động phản biện, giám sát.

Đối với hoạt động phản biện xã hội, đó là sự “độc lập trong mối quan hệ với người có thẩm quyền”. Đối với hoạt động giám sát xã hội, đó là mối quan hệ “phi công vụ” giữa người giám sát và người được giám sát[71]. Vị thế độc lập của chủ thể phản biện, giám sát xã hội cho phép họ có thể nhận xét, đánh giá, bình luận, phản hồi một cách khách quan về đối tượng phản biện, giám sát.

Tuy nhiên, một điểm cần được lưu ý ở đây là, cơ chế phản biện, giám sát một cách độc lập đối với hoạt động của cơ quan quản lý hành chính nhà nước cần được phân biệt với và không loại trừ sự phản biện, giám sát “nội bộ” mà tự bản thân cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trong quá trình hoạt động của mình. Ví dụ, hoạt động thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành là một loại “phản biện nội bộ” – tự phản biện – do chính các cơ quan nhà nước thực hiện. Hoặc hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban hành cũng là một trong những cơ chế “tự giám sát” mà cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trong phạm vi hệ thống của mình. Dẫu rằng những hoạt động tự giám sát, tự phản biện này là cần thiết và đã có một sự độc lập tương đối giữa chủ thể phản biện, giám sát và chủ thể bị phản biện, bị giám sát, nhưng hiệu quả của nó không giống với cơ chế phản biện xã hội, giám sát xã hội, vì đây là những cơ chế phản biện, giám sát trong lòng hệ thống. Dù nó ít nhiều có tính độc lập, nhưng nó vẫn là sự phản biện, giám sát không phải dưới góc độ của các đối tượng chịu tác động của chính sách mà vẫn là của người nắm quyền quản lý đối với người bị quản lý, và vì vậy, nó chưa phải là ý kiến của người trong cuộc, sự cảm nhận về cái giá phải trả cho chính sách không thể sâu sắc.

Trong khi đó, phản biện, giám sát xã hội, do vị trí đặc biệt (là đối tượng chịu sự tác động của chính sách) và vị thế độc lập của mình (nằm ngoài hệ thống quản lý) chắc chắn sẽ có những lợi thế mà sự phản biện nội bộ không thể có được. Đó là sự độc lập, khách quan. Đó là tiếng nói của chính bản thân người trong cuộc. Đó là sức lan toả có tính chất cộng đồng. Đó là sự thảo luận thật sự (dù có thể căng thẳng và gay gắt) để tìm được tiếng nói chung của các nhóm lợi ích khác nhau. Và vì vậy mà hiệu quả của phản biện xã hội, giám sát xã hội lớn hơn nhiều so với cơ chế phản biện nội bộ trong quá trình tìm ra một chính sách tốt.

Tất nhiên, ở đây cũng không thể không lưu ý rằng, phản biện xã hội, giám sát xã hội không phải là hoạt động chỉ thuộc về những đối tượng chịu sự tác động của chính sách mà nó còn có thể là hoạt động của những cá nhân, tổ chức khác có sự quan tâm tới chính sách xuất phát từ ý thức trách nhiệm của cá nhân hay tổ chức đó.

Một cách cụ thể, các chủ thể thực hiện phản biện xã hội, giám sát xã hội đối với hoạt động của cơ quan quản lý hành chính có thể là các cá nhân (bao gồm các chuyên gia, nhà khoa học, các nhân sĩ, trí thức v.v…), các tổ chức đoàn thể (bao gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của nó), các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hội, hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ (NGO) v.v…

Đối với các chủ thể nêu trên, để họ có thể thực hiện tốt hoạt động phản biện, giám sát xã hội, cần thiết phải cho phép họ được tiếp cận thông tin đối với các tài liệu mà cơ quan hành chính nhà nước nắm giữ.

Pháp luật nhiều quốc gia quy định, chủ thể quyền tiếp cận thông tin có thể là cá nhân, tổ chức.

Về phía cá nhân, một số quốc gia như Thuỵ Điển cho phép tất cả mọi người công dân có quốc tịch Thuỵ Điển hoặc không có quốc tịch Thuỵ Điển, về nguyên tắc, đều có quyền đọc các tài liệu của cơ quan công quyền. Tuy nhiên, quyền này có hai ngoại lệ: đó là công chúng chỉ được đọc những tài liệu là văn bản chính thức, điều này cũng có nghĩa là văn bản dự thảo một quyết định không được coi là văn bản chính thức (trừ văn bản dự thảo được sử dụng khi đưa ra quyết định cuối cùng) và vì vậy công chúng không được quyền tiếp cận. Ngoại lệ thứ hai là không được quyền tiếp cận đối với các văn bản được coi là mật, công chúng không được quyền đọc và cơ quan nhà nước cũng không được công khai về nó.

Một số quốc gia khác, như Tây Ban Nha, quy định công dân Tây Ban Nha có quyền tiếp cận tài liệu hành chính và hồ sơ của nhà nước (Điều 105 khoản b Hiến pháp Tây Ban Nha).

Về phía tổ chức, phần lớn các quốc gia (Ấn Độ, Séc, Nga v.v…) đều quy định tổ chức, pháp nhân đều có quyền tìm kiếm và nhận thông tin dưới bất kỳ hình thức nào. Riêng tại Ấn Độ, các nhóm hoạt động xã hội cơ sở đã sử dụng quyền tiếp cận thông tin để biết về các dự án, công trình công cộng ở địa phương (ví dụ, việc chi trả các khoản tiền được thực hiện như thế nào) qua đó, giám sát, phản biện về việc dự án đã hoàn thành hay chưa và các khoản tiền chi cho dự án đó là bao nhiêu[72].

Ở Việt Nam, mặc dù chưa có một đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin nhưng việc bảo đảm quyền được thông tin đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Luatạ Báo chí, Luật phòng chống tham nhũng, Luật xuất bản, Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở v.v…

  1. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin của công dân trong phản biện xã hội, giám sát xã hội

Trong quá trình phản biện, giám sát xã hội, thông tin nói chung và quyền tiếp cận thông tin nói riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Người ta không thể phản biện nếu không đủ thông tin. Người ta khó có thể giám sát nếu thông tin không được cho phép tiếp cận. Bởi vậy, quyền tiếp cận thông tin là một trong những nội dung không thể thiếu, nếu không nói là quan trọng nhất, của quá trình giám sát xã hội, phản biện xã hội.

Trong quá trình phản biện, giám sát xã hội, người dân phải được chủ động tiếp cận thông tin, điều này thể hiện ở sự tham gia trực tiếp của người dân vào mọi công đoạn của quy trình ban hành chính sách.

Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định:

“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, … cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật” và “cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo … có trách nhiệm tạo điều kiện để … cá nhân tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản”.

Ngay từ khi cơ quan nhà nước có ý tưởng ban hành một chính sách mới hoặc thay đổi chính sách hiện hành, người dân đều phải được biết và có quyền tham gia ý kiến.

Điều 26 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định “dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải được đăng tải trên trang thông tin điện tử của Quốc hội” để người dân biết và có thể tham gia ý kiến. Trong suốt quá trình soạn thảo, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định 104 hướng dẫn thi hành Luật này cũng có nhiều quy định về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào quy trình soạn thảo (Điều 28 Nghị định 104).

Sau khi chính sách được ban hành, để công chúng biết được thông tin, qua đó thực hiện quyền giám sát của mình, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng quy định tại Điều 84, “văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng tải toàn văn trên Trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành văn bản chậm nhất hai ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành và phải đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng”.

Tuy nhiên, trên đây là những quy định liên quan đến việc ban hành chính sách dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật. Trong thực tiễn điều hành, quản lý xã hội, có rất nhiều chính sách được ban hành không dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật mà dưới dạng các đề án, dự án, chương trình, mục tiêu, thậm chí là trong cả các công văn, báo cáo của cơ quan nhà nước. Vậy, làm thể nào để người dân có thể tiếp cận được các thông tin liên quan, qua đó có thể phản biện, giám sát đối với các đề án, dự án, chương trình, mục tiêu đó ? Đây là vị trí và vai trò không thể thay thế được của hệ thống truyền thông, báo chí.

Do những đặc thù của mình, báo chí, truyền thông là phương tiện truyền tải thông tin hữu hiệu và nhanh chóng nhất, là cầu nối giữa nhà nước với người dân. Ngoài việc truyền tải thông tin, báo chí, tự bản thân nó cũng là một kênh phản biện, giám sát vô cùng hiệu quả[73].

Dưới góc độ là thiết chế truyền tải thông tin, báo chí vừa là phương tiện giúp nhà nước giới thiệu ý tưởng chính sách của mình với công chúng vừa là phương tiện phản hồi lại, phản ánh nguyện vọng, tâm tư của người dân đối với chính sách của nhà nước. Thực tế Việt Nam thời gian qua cho thấy, báo chí đã làm tốt vai trò của mình trong lĩnh vực này. Quá trình phản biện xã hội đối với dự án đường sắt cao tốc vừa qua là minh chứng rõ nhất cho sự phản biện xã hội nói chung và vai trò của báo chí trong hoạt động này nói riêng.

“Đề cập đến phản biện xã hội, không thể không nhắc đến vai trò cực kỳ quan trọng của báo chí nói chung., các nhà báo nói riêng. Như về dự án đường sắt cao tốc, chính nhờ có báo chí mà chúng tôi, những cử tri bình thường mới biết rằng trên nghị trường đã có nhiều vị đại biểu Quốc hội thẳng thắn bày tỏ thái độ chưa tán thành dự án đường sắt cao tốc”[74].

Một số chủ thể trực tiếp tham gia phản biện xã hội về dự án đường sắt cao tốc đã đánh giá về vai trò và tác dụng của quá trình này như sau:

“Đối với dự án đường sắt cao tốc Hà Nội - TP.HCM, tôi cho rằng đã có một bước tiến vượt bậc trong hoạt động phản biện xã hội. Đó là bước tiến vượt bậc ở cả hai phía: người chuẩn bị các ý kiến phản biện và người tiếp thu, xử lý các ý kiến phản biện đó, khiến quá trình tương tác trở nên... siêu tốc.

Tôi cho rằng sau những dự án lớn, các đại biểu Quốc hội đã nhìn nhận đúng thực chất tầm quan trọng của phản biện xã hội và Quốc hội đã rất thận trọng lắng nghe các ý kiến nhiều chiều, xem xét và phân tích kỹ trước khi đưa ra quyết định. Ở đây, Quốc hội đã tiếp thu và phân tích các vấn đề mà các nhà khoa học nêu ra và giới truyền thông phản ánh.

Điều này cho thấy phản biện xã hội ngày càng có chỗ đứng đúng nghĩa của nó, thông tin đa chiều đã giúp các nhà hoạch định chính sách, những người ra quyết định sáng suốt, như vậy trí tuệ xã hội đã phát huy hiệu quả”[75].

Một số ví dụ khác về vai trò và tác dụng vô cùng quan trọng của phản biện xã hội:

 Khi báo chí và người dân phản ánh những bất cập trong việc lát đá xanh quanh Hồ Hoàn Kiếm, đồng chí Phạm Quang Nghị - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội đã trực tiếp thị sát tình hình nhiều lần. Ngoài ra, đồng chí còn mời thêm đồng chí Phó Bí thư Thường trực đi cùng để tận mắt xem những vị trí chưa làm, hoặc đang làm như thế nào. Tiếp đó, đồng chí tổ chức tham khảo ý kiến của người dân để so sánh cái được, cái mất của dự án lát đá xanh quanh Hồ Hoàn Kiếm. Kết quả là lãnh đạo Thành phố đã đưa ra quyết định dừng lại việc này. Điều đó không chỉ góp phần tiết kiệm một số kinh phí không nhỏ cho Thành phố mà còn tác động tốt tới dư luận, tạo niềm tin của công chúng đối với cán bộ và cơ quan nhà nước.

Tương tự là chuyện dự kiến xây dựng 5 cổng chào ở các tuyến cửa ngõ dẫn vào trung tâm thành phố. Về lý thuyết, đây là việc nằm trong danh mục các công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội đã được Thủ tướng Chính phủ và Ban Chỉ đạo quốc gia phê duyệt và giao cho địa phương thực hiện. Song cũng có những ý kiến băn khoăn về sự cần thiết, về phác thảo kiến trúc, về kinh phí xây dựng và vị trí lựa chọn... Cuối cùng chủ trương của thành phố là cân nhắc, chỉ thực hiện việc thi công cổng chào ở những tuyến đường trọng điểm với kiểu dáng thiết kế nhận được sự đồng thuận cao. Những công trình này cần tính toán phương thức xây dựng, dự toán kinh phí sao cho ít tốn kém nhất và có thể tháo dỡ, chỉnh sửa khi cần thiết.

Các ví dụ trên cho thấy, những góp ý phản biện mang tính xây dựng của công luận và người dân là hết sức cần thiết và thái độ của lãnh đạo thành phố là cầu thị, nghiêm túc tiếp thu phản ánh từ dư luận. Điều đó góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển, tiết kiệm của cải cho xã hội (thông qua nguồn kinh phí đầu tư) và hạn chế những chi tiêu lãng phí. Cũng dễ dàng nhận thấy, những phản biện trên sẽ không thể có được hoặc không hiệu quả nếu người dân không biết hoặc biết không đầy đủ thông tin về các dự án, công trình nêu trên.

Những phân tích nêu trên cho phép đi đến một kết luận rằng, quyền được thông tin là điều kiện đầu tiên và cơ bản nhất trong quy trình phản biện, giám sát xã hội của công dân. Nói một cách khác, vai trò của quyền tiếp cận thông tin là vô cùng quan trọng trong cơ chế phản biện và giám sát xã hội, nó là tiền đề cơ bản, là sự sống còn, là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động phản biện xã hội và giám sát xã hội.

  1. Phương thức phản biện xã hội, giám sát xã hội và trách nhiệm giải trình

Công dân tham gia phản biện xã hội, giám sát xã hội có thể bằng hai phương thức trực tiếp và gián tiếp.

Phản biện trực tiếp có thể qua hình thức góp ý trực tiếp bằng văn bản, lời nói phát biểu trong các cuộc họp, hội thảo do cơ quan chủ trì dự thảo chính sách tổ chức. Sự góp ý cũng có thể trực tiếp ngay vào dự thảo văn bản được đưa ra lấy ý kiến nhân dân hoặc các đối tượng chịu tác động của văn bản.

Phản biện gián tiếp có thể qua việc chất vấn đại biểu Quốc hội ở những đợt tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp Quốc hội.

Dưới đây là một ví dụ về phương thức phản biện qua việc góp ý tại hội thảo, hội nghị đối với dự án đường sắt cao tốc:

 “Theo đề nghị của Bộ Giao thông vận tải, ngày 11-5, chín ngày trước khi Quốc hội khai mạc, Hội KHKT cầu đường VN (thuộc Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật VN - VUSTA) tổ chức hội thảo với quy mô khá lớn, tập trung rất nhiều nhà khoa học, các chuyên gia từ nhiều hiệp hội khác nhau, từ các góc nhìn khác nhau đến trình bày các quan điểm khác nhau về dự án đường sắt cao tốc Hà Nội - TP.HCM.

Sau khi nghe tất cả ý kiến, VUSTA mới có văn bản riêng nêu lên chính kiến của mình gửi tới Quốc hội, Trung ương Đảng và Thủ tướng Chính phủ”[76].

Một khía cạnh quan trọng gắn liền với hoạt động phản biện, giám sát xã hội đó là trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước. Trách nhiệm giải trình là sự phản hồi, giải thích của cơ quan nhà nước đối với những ý kiến phản biện, đánh giá, nhận xét của các chủ thể thực hiện hoạt động phản biện và giám sát xã hội. Quá trình phản biện, giám sát xã hội chỉ thực sự có tác dụng nếu nó gắn liền với trách nhiệm giải trình, bởi nếu chỉ là một quy trình một chiều, những ý kiến phản biện, nhận xét, đánh giá có nguy cơ trở nên hình thức, không hiệu quả, không có tác dụng, từ đó làm suy yếu long tin của công chúng đối với cơ quan nhà nước.

Phản biện là quá trình nhận xét, đánh giá, phản hồi ý kiến đối với dự thảo chính sách, tìm ra những điểm bất hợp lý hoặc bất hợp pháp của dự thảo chính sách. Mục tiêu của hoạt động phản biện không phải là nhận xét, đánh giá hay phát hiện sai lầm của chính sách. Nhận xét, đánh giá, phát hiện sai lầm, phát hiện những điểm bất hợp lý của chính sách chỉ là phương thức thực hiện để đạt đến mục tiêu là cơ quan có thẩm quyền cần thay đổi chính sách cho phù hợp hơn. Vì vậy, quá trình phản biện, giám sát xã hội phải được sự lắng nghe, đối thoại của chủ thể xây dựng chính sách. Bản thân hoạt động phản biện xã hội, giám sát xã hội không có tính quyền lực nhà nước, không có khả năng cưỡng chế và vì vậy nó không trực tiếp dẫn tới hệ quả làm thay đổi chính sách. Phản biện và giám sát xã hội chỉ có tính chất khuyến nghị, về thực chất chỉ được cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình ban hành chính sách. Tuy nhiên, vì đây là cơ chế phản hồi, góp ý của công chúng nên đó là những ý kiến có sức lan toả và sự thuyết phục mà cơ quan ban hành chính sách không thể bỏ qua.

  1. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin đối với công dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Tham nhũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo và lạc hậu. Tham nhũng, sang đến thế kỷ 21 vẫn còn là vấn nạn của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tham nhũng được coi là một rào cản lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và kìm hãm các chính sách của Nhà nước.

“Tham nhũng làm suy đồi các giá trị xã hội cơ bản, đe doạ nền pháp trị và làm suy giảm niềm tin của công chúng vào các thiết chế chính trị. Nó tạo ra một môi trường làm việc chỉ có hối lộ phát triển. Nó cản trở các công trình khoa học, các nghiên cứu, làm suy yếu chức năng của các ngành nghề và gây trở ngại cho sự phát triển xã hội của tri thức. Nó là một trong những tác nhân chính dẫn đến sự hình thành và kéo dài những nỗi thống khổ của loài người, kìm hãm sự phát triển. Tham nhũng phát triển cực mạnh trong môi trường mà sự bưng bít và thờ ơ là phổ biến”[77].

Một trong những thách thức lớn nhất mà Việt Nam đang gặp phải trong quá trình phát triển của mình đã được Nhóm các nhà tài trợ thuộc Liên minh châu Âu nêu lên và khuyến cáo giải quyết, đó là nạn tham nhũng (bên cạnh các vấn đề về biến đổi khí hậu, khủng hoảng tài chính).

Nguyên nhân của tham nhũng bắt nguồn phần lớn từ cơ chế quản lý không chặt chẽ, thiếu hiệu quả của nền hành chính. Vì vậy, để chống tham nhũng, cần phải làm cho nền hành chính trở nên “trong suốt”. Các thông tin công cần phải được công khai, minh bạch, người dân dễ tiếp cận. Chính sự minh bạch của thông tin và quyền tiếp cận thông tin cho phép người dân giám sát chính quyền, giảm bớt tình trạng nhũng nhiễu của một số cán bộ. Nói cách khác, không thể chống tham nhũng nếu thông tin bị bưng bít hoặc không công khai, minh bạch. Quyền tiếp cận thông tin, bởi vậy, luôn được coi là một loại “vũ khí hữu hiệu chống tham nhũng”.

Việc công khai, minh bạch thông tin liên quan đến đất đai, quy hoạch sẽ tránh được tình trạng đầu cơ đất đai. Công khai thông tin liên quan đến thủ tục hành chính sẽ tránh được hiện tượng “cò” thủ tục trong các lĩnh vực hành chính, y tế, dân sự mà ở đây kẻ yếu thế, người thiệt thòi nhất vẫn luôn là người dân.

Việc công khai thông tin trong nhiều trường hợp đã giúp phát hiện ra nhiều vụ tham nhũng. Ví dụ, đó là các vụ xà xẻo tiền Tết của mấy chục gia đình chính sách tại Sầm Sơn, Thanh Hoá. Hoặc vụ tham nhũng, hối lộ liên quan đến tiền viện trợ ODA của Nhật Bản v.v…

Năm 2005, lần đầu tiên, Ban Nội chính trung ương đã công bố danh sách liệt kê 10 cơ quan tham nhũng phổ biến nhất ở Việt Nam trong đó ba cơ quan dẫn đầu là địa chính nhà đất, hải quan/quản lý xuất nhập khẩu và cảnh sát giao thông[78]. Danh sách các cơ quan trên cho thấy chính sự thiếu minh bạch về thông tin đã dung dưỡng cho sự tham nhũng trong các lĩnh vực đó, nó là vật cản khiến người dân không tiếp cận được thông tin một cách dễ dàng. Bởi vậy, công cuộc đấu tranh chống tham nhũng đã được nhà nước ta xác định cần gắn liền với việc cải cách thủ tục hành chính, cải cách thể chế, sao cho thông tin được người dân tiếp cận một cách công khai, minh bạch và thuận tiện.

  1. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin của công dân trong xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch, hiệu quả

Công khai, minh bạch là yêu cầu, là điều kiện thiết yếu đối với hoạt động của bộ máy quản lý hành chính của mỗi quốc gia. Một nền hành chính hiện đại hướng tới mục tiêu “ hành chính phục vụ” chứ không còn là “hành chính cai trị” lạị càng đòi hỏi hơn nữa sự công khai, minh bạch trong các hoạt động của mình. Công khai, minh bạch là một đòi hỏi của xã hội, nó cho phép người dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động của bộ máy công quyền. Công khai, minh bạch cũng là một trong những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.

Dễ nhận thấy rằng, một nền hành chính không công khai sẽ chứa đựng trong đó nhiều nguy cơ tiềm ẩn. Ngoài nguy cơ về nạn tham nhũng – căn bệnh trầm kha nhất của nền hành chính không công khai – thì sự thiếu minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính còn cản trở người dân, doanh nghiệp tiếp cận với những thông tin liên quan đến đời sống, đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Sự thiếu thông tin sẽ dẫn đến sự bất ổn trong hoạt động của người dân, doanh nghiệp, khiến tích luỹ xã hội bị giảm xuống, ảnh hưởng đến tăng trưởng xã hội.

Thông tin, trong xã hội hiện đại và trong phạm vi của hoạt động quản lý hành chính, là tài sản chung của nhân loại. Trong nhiều trường hợp, nắm được thông tin đồng nghĩa với việc nắm được quyền lực, nắm được thông tin đồng nghĩa với việc kiếm ra tiền. Ở góc độ cá nhân, nắm được thông tin thậm chí có thể giúp người ta giữ được mạng sống của mình. Ở góc độ xã hội, thông tin được coi như là “khí ôxy của nền dân chủ”[79]. Bởi vậy, công khai, minh bạch thông tin trong hoạt động quản lý hành chính là một tiêu chí quan trọng của việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, một nhà nước dân chủ, hướng tới mục tiêu tối cao là phục vụ nhân dân.

Để đạt được sự công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính, điều kiện tiên quyết là phải đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân. Nói cách khác, công khai, minh bạch là một cách tiếp cận khác của quyền tự do thông tin, theo đó, người dân (và doanh nghiệp) được quyền biết về mọi hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, qua đó, họ có thể thực hiện quyền giám sát của mình đối với các cơ quan này. Họ cũng được quyền biết về những thông tin cần thiết ảnh hưởng đến đời sống của họ hay hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Chỉ với việc công khai, minh bạch thông qua quyền được tiếp cận thông tin của công dân mới có đủ điều kiện để xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.

   Với tư cách là một trong những quyền cơ bản của con người, quyền tiếp cận thông tin bao hàm hai khía cạnh: một mặt, đó là quyền của công dân được chủ động tiếp cận, thu thập thông tin mà cơ quan nhà nước nắm giữ; mặt khác, đó là trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải cung cấp thông tin cho công dân. Chính trên cơ sở hai khía cạnh này mà pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định những cơ chế hữu hiệu để bảo đảm cho quyền tiếp cận thông tin của công dân được thực thi trong thực tiễn.

        Công dân có tiếp cận được thông tin hay không phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động của cơ quan nhà nước, đặc biệt là năng lực phục vụ của cán bộ nhà nước, bởi vậy, luật tiếp cận thông tin của các quốc gia đều quy định khá cụ thể trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm cung cấp thông tin cho người dân.

          Chủ động công khai thông tin ngay cả khi không có yêu cầu: Một đặc điểm chung trong pháp luật của hầu hết các quốc gia là đều có quy định các cơ quan Chính phủ có nghĩa vụ phải cung cấp một số loại thông tin nhất định một cách tích cực. Các thông tin này thường bao gồm chi tiết về cơ cấu tổ chức và các quan chức chủ yếu của Chính phủ, lời văn của  các đạo luật và quy định, các đề xuất và chính sách hiện hành, các biểu mẫu và quyết định. Các đạo luật về tiếp cận thông tin mới ban hành có xu hướng quy định minh thị một danh mục các loại thông tin cần phải công bố. Việc công khai thông tin có thể bằng nhiều hình thức: đăng tải trên trang thông tin điện tử, trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua người phát ngôn v.v…

          Việc cung cấp thông tin một cách chủ động và tích cực như trên thực ra, ngoài việc bảo đảm cho công dân được chủ động tiếp cận với các thông tin cần thiết, còn mang lại những lợi ích nhất định cho cơ quan Nhà nước, cụ thể, nó có thể làm giảm gánh nặng hành chính khi phải trực tiếp trả lời những câu hỏi và yêu cầu cung cấp thông tin thông dụng. Việc công bố thông tin khi không có yêu cầu này có thể trực tiếp cải thiện tính hiệu quả của các cơ quan. Hội đồng Liên minh Châu Âu, trong Báo cáo thường niên năm 2003 của mình đã lưu ý rằng “các tài liệu mà công chúng có thể tiếp cận trực tiếp càng tăng lên thì số lượng các yêu cầu tiếp cận tài liệu sẽ càng giảm đi”[80]. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ trong báo cáo năm 2002 đã nêu rõ rằng nhiều cơ quan Chính phủ đã làm giảm đáng kể các yêu cầu cung cấp thông tin thông qua việc đăng công khai các tài liệu mà công chúng quan tâm trên trang tin điện tử của mình[81].

          Đăng tải thông tin trên website của cơ quan: nhiều luật tiếp cận thông tin của các quốc gia quy định, các cơ quan Chính phủ có nghĩa vụ phải công bố các loại thông tin nhất định trên trang tin điện tử của mình theo định kỳ. Biện pháp này cho phép việc tiếp cận thông tin được thực hiện nhanh chóng và đỡ tốn kém cả về phía người dân lẫn cơ quan nắm giữ thông tin.

         Quản lý hồ sơ tài liệu: để có thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin, phải có một hệ thống lưu giữ tài liệu cho phép thu thập, lập danh mục, lưu trữ và cung cấp thông tin một cách dễ dàng. Vì vậy, pháp luật nhiều nước quy định rất cụ thể việc xây dựng, củng cố hệ thống lữu trữ hồ sơ, tài liệu, lập danh mục, thống kê, lưu trữ thông tin một cách thích hợp sao cho có thể dễ dàng trích xuất thông tin và đảm bảo rằng các thông tin giá trị không bị mất mát. Nếu hồ sơ lưu trữ về những vấn đề cụ thể không được tạo ra hoặc không thể xác định hoặc không thể trích xuất thông tin một cách dễ dàng, quyền tiếp cận thông tin sẽ trở thành vô nghĩa. Ngoài ra, pháp luật các nước còn quy định cụ thể việc cập nhật thường xuyên các loại thông tin công khai để đảm bảo rằng những thông tin đó phục vụ một ncách hiệu quả lợi ích của công dân.

          Bố trí cán bộ làm đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin: việc cần có cán bộ phụ trách thông tin tại các cơ quan hành chính nhà nước làm đầu mối để tiếp nhận các yêu cầu cung cấp thông tin của công dân là cần thiết, vì cơ chế này cho phép các yêu cầu cung cấp thông tin được chuyển thẳng đến cho người đứng đầu cơ quan nắm giữ thông tin, trên cơ sở đó giỉa quyết yêu cầu cung cấp thông tin cho họ. Nếu không bố trí được cán bộ đầu mối, việc xử lý và giải quyết yêu cầu sẽ vòng vo, mất nhiều thời gian cho cả cơ quan cung cấp thông tin và công dân. Vì vậy, pháp luật nhiều quốc gia (Ấn Độ, Hàn Quốc, Vương quốc Anh, Canada v.v...) đã quy định trách nhiệm cơ quan có thẩm quyền phải bổ nhiệm cán bộ thông tin làm đầu mối tiếp nhận yêu cầu của công dân. Pháp luật một số nước còn quy định việc thành lập Uỷ ban thông tin với mạng lưới từ trung ương đến địa phương (như Ấn Độ có Uỷ ban thông btin trung ương và Uỷ ban Thông tin của bang), với những chức năng, nhiệm vụ quan trọng và cán bộ thông tin cũng đảm trách những nhiệm vụ rất lớn, thậm chí có thể trực tiếp thực hiện việc điều tra nếu thấy cần thiết (Ấn Độ).

          Quyền tiếp cận thông tin một cách công khai, minh bạch cũng có nghĩa là những quy định về thông tin mật – loại thông tin không được tiếp cận – phải được xây dựng theo một quy trình minh bạch và đúng pháp luật, không để xảy ra tình trạng thông tin mật được quy định tràn lan, sai nguyên tắc, tránh sự lạm dụng. Đây cũng chính là việc thực hiện nguyên tắc “công khai tối đa” mà nhiều quốc gia hiện nay đang hướng tới trong đạo luật về tiếp cận thong tin của mình.

  1. Kết luận và kiến nghị

Trong quá trình công dân tham gia phản biện, giám sát xã hội; đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch, hiệu quả, quyền tiếp cận thông tin có vai trò vô cùng quan trọng, nếu không muốn nói nó chính là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình quản lý, điều hành xã hội.

Để những hoạt động nói trên của công dân phát huy tác dụng, việc nghiên cứu, ban hành một đạo luật riêng về tiếp cận thông tin, trong đó không chỉ một lần nữa khẳng định quyền tiếp cận thông tin đã được nêu tại Điều 69 Hiến pháp 1992 mà còn thiết lập một cơ chế cụ thể, hữu hiệu để quyền tiếp cận thông tin của công dân được thực thi trên thực tế.

                                       

 

                                      

 

                                                  Chuyên đề 5

           GIỚI HẠN CỦA QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

                                                                 PGS-TS Thái Vĩnh Thắng

                                                                  Đại học luật Hà Nội

1. Khái niệm về  giới hạn của quyền tiếp cận thông tin

Quyền tiếp cận thông tin là một quyền có giới hạn bởi có những thông tin do những lý do chính đáng mà các cơ quan công quyền không thể cung cấp cho các chủ thể yêu cầu. Đó là những thông tin chứa đựng bí mật quốc gia, những thông tin gắn với bí mật thương mại hoặc thông tin mà các cơ quan điều tra tội phạm đang trong quá trình tìm kiếm, xác minh nếu để lộ kẻ tội phạm có thể bỏ trốn, gây cản trở cho quá trình điều tra hoặc phá huỷ tang chứng. Những thông tin khác có thể là gắn với bí mật cá nhân mà pháp luật bảo vệ thì các cơ quan công quyền cũng  không thể cung cấp cho các chủ thể yêu cầu. Những thông tin cần giữ bí mật chia làm hai nhóm tuỳ theo mức độ bảo mật: nhóm thứ nhất gọi là thông tin bí mật, nhóm thứ hai thuộc vào nhóm thông tin nội bộ.

Theo Luật mẫu về tự do thông tin do nhóm Article 19 Của Liên hợp quốc biên soạn. Giới hạn của luật tiếp cận thông tin bao gồm những vấn đề sau đây:

 1.Khi lợi ích công bị ảnh hưởng:

 Một cơ quan nắm giữ thông tin có thể  từ chối không cung cấp thông tin khi  việc cung cấp thông tin có thể gây ra thiệt hại lớn hơn không cung cấp thông tin.

2. Thông tin đã được đăng tải rộng rãi

 Khi một thông tin đã được cung cấp rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng  thì các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin không còn nghĩa vụ cung cấp thông tin đó khi có người yêu cầu.

3. Tiếp cận thông tin từng phần

  Nếu một yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến hồ sơ có chứa thông tin ngoại lệ lẫn thông tin không ngoại lệ, thì phần thông tin không ngoại lệ có thể được cấp cho người yêu cầu.

4. Thông tin cá nhân

 Một cơ quan có thể từ chối thông báo có nắm hồ sơ hay không, hoặc từ chối cung cấp thông tin trong trường hợp thông tin được yêu cầu là thông tin cá nhân về bên thứ ba [82].

Hạn chế thông tin cần được  cụ thể hoá bằng luật và cần thu hẹp việc hạn chế thông tin hay rút ngắn  các danh mục hạn chế thông tin. Danh mục thông tin miễn trừ cần được hạn chế theo quy định của từng quốc gia. Danh mục naỳ cần được luật hoá trong luật tự do thông tin hay trong một số luật liên quan khác. Cơ quan công quyền chỉ được từ chối cung cấp thông tin nếu thông tin đó nằm trong danh mục này. Việc quy định danh mục miễn trừ này  dựa trên nguyên tắc nếu việc sử dụng hoặc tiết lộ thông tin  đó gây ảnh hưởng đến quốc gia hoặc trên  hết là quyền lợi chung của công chúng. Việc đưa vào danh mục những thông tin gì không công khai  dựa trên mối quan hệ  và sự cân bằng giữa lý do không cung cấp thông tin và quyền lợi công. Theo nguyên tắc thứ 4 của Bộ nguyên tắc của Liên hợp quốc thì danh mục thông tin được phép miễn trừ có thể là:

  • An ninh quốc gia, quốc phòng và quan hệ quốc tế;
  • Vì an toàn của công chúng;
  •  Phòng ngừa, điều tra và khởi tố hành vi phạm tội hình sự;
  • Bí mật thương mại và lợi ích kinh tế;
  • Các thông tin đang trong quá trình thảo luận chưa có quyết định chính thức của các cơ quan công quyền.

2.   Giới hạn của quyền tiếp cận thông tin theo ph áp luật một số quốc gia trên thế giới

   An ninh quốc gia là rào cản lớn nhất khi xây dựng Luật tiếp cận thông tin và mức độ cởi mở của thông tin. Trong một số chính phủ và chính trị gia vẫn còn duy trì văn hoá bí mật như cách thức xây dựng quyền lực. An ninh thường liên quan đến khu vực cảnh sát và an ninh của Chính phủ là lực lượng nhằm tăng quyền lực của Chính phủ. Việc cân bằng giữa quyền được biết của công chúng và các biện pháp đảm bảo an ninh quốc gia luôn là vấn đề khó nhất khi xây dựng luật tiếp cận thông tin.

 Để hiểu rõ những hạn chế của quyền tiếp cận thông tin, chúng ta sẽ xem xét việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin theo Luật tiếp cận thông tin/Luật Tự do thông tin của một số nước trên thế giới

2.1 Giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo Luật Tự do thông tin của Na-Uy

Theo Luật Tự do thông tin của Na-Uy các thông tin, tài liệu thuộc loại miễn trừ được quy định tại Chương 3 (Từ Điều 13 đến Điều 26) bao gồm:

1. Những tài liệu hoặc thông tin nội bộ hoặc đang soạn thảo kể cả tài liệu trong quá trình tham vấn, trao đổi ở Quốc hội;

2. Những tài liệu là một phần của bảo tàng thư viện;

3. Các tài liệu mà một công chức nhận được dưới danh nghĩa cá nhân;

4. Một số tài liệu trong danh mục miễn trừ gồm:

  • Tài liệu liên quan đến gia đình hoàng gia; tài liệu toà án đang thụ lý (hay liên quan đến một bên trong các bên tham gia tố tụng);
  • Tài liệu về chính sách đối ngoại của Na-Uy hoặc các tài liệu giữa Na-Uy hoặc các quốc gia khác có hiệp định thoả thuận bảo mật thông tin; tài liệu về an ninh quốc gia và quốc phòng;
  •  Tài liệu về ngân sách trong quá trình phân bổ giữa các Bộ, Ngành và Chính phủ khi chưa được Quốc hội công bố;
  • Tài liệu về nhân sự như dự kiến bổ nhiệm nhân sự (trừ danh sách ứng cử viên cho vị trí tuyển dụng) hay xử lý vi phạm pháp luật và hành chính của cá nhân và ảnh cá nhân trong hệ thống lưu trữ cá nhân;
  • Các miễn trừ khác như điểm thi, bài thi, thông tin về người được nhận giải thưởng trước khi công bố;
  • Ngoài ra thông tin thuộc phạm vi của đạo luật khác cũng nằm trong dạng miễn trừ như những thông tin được bảo mật theo quy định của Luật lưu trữ, Luật về bảo mật thông tin, Luật về bí mật quốc phòng… 

2.2 Giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo Luật Tiếp cận thông tin của Bulgaria

 Luật tiếp cận thông tin của Bulgaria không giống như hầu hết các Luật về tiếp cận thông tin của các quốc gia khác, không có danh mục các trường hợp ngoại lệ, thay thế vào đó là thông tin được phân loại là bí mật trong các luật khác và không nằm trong khái niệm thông tin công và luật cũng quy định chi tiết những thông tin không được tiết lộ. Điều 13 của luật nói trên quy định hạn chế tiếp cận các thông tin hành chính công bao gồm các thông tin liên quan đến các công việc chuẩn bị các văn bản chính thức. Theo quy định tại Điều 17 Luật tiếp cận thông tin Bungaria cho phép hạn chế tiếp cận thông tin đối với các bí mật kinh doanh mà việc tiết lộ chúng có thể dẫn tới sự cạnh tranh không lành mạnh. Luật này cũng quy định thêm một trường hợp ngoại lệ khi thông tin ảnh hưởng đến lợi ích của bên thứ ba. Phạm vi thông tin ngoại lệ được quy định trong Luật tiếp cận thông tin của Bulgaria là rất rộng, hầu hết các ngoại lệ đều dựa trên các ngoại lệ trong các luật khác.

2.3 Giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo Luật Tiếp cận thông tin của Ấn Độ

 Những ngoại lệ chủ yếu được ghi nhận trong Điều 8 của Luật về Quyền được thông tin của Ấn Độ. Theo quy định tại Điều 24 có 18 cơ quan được liệt kê trong danh mục được miễn trừ cung cấp thông tin như Cục tình báo, Cục kiểm soát ma tuý, Cục điều tra tội phạm… Theo Luật tiếp cận thông tin của Ấn Độ những ngoại lệ được quy định bao gồm các vấn đề sau:

  • Thông tin mà việc tiết lộ có thể gây ảnh hưởng đến chủ quyền hoặc toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, chiến lược, khoa học hoặc lợi ích kinh tế của quốc gia hoặc liên quan đến nước ngoài hoặc có thể dẫn đến sự kích động tội phạm;
  • Thông tin mà việc công bố đã được toà án cấm hoặc việc tiết lộ đó dẫn đến việc coi thường toà án;
  • Thông tin mà việc tiết lộ có thể vi phạm đặc quyền của Quốc hội hoặc cơ quan ban hành pháp luật;
  • Thông tin chứa đựng bí mật kinh doanh, việc tiết lộ thông tin này có thể gây hại đến vị trí cạnh tranh của bên thứ ba trừ khi lợi ích công cộng có thể lớn hơn đảm bảo cho việc cung cấp;
  • Thông tin của một người trong mối quan hệ uỷ thác của người đó trừ khi lợi ích công cộng khi cung cấp thông tin có thể lớn hơn việc không cung cấp thông tin;
  • Thông tin mật nhận được từ Chính phủ nước ngoài;
  • Thông tin mà việc tiết lộ có thể gây nguy hiểm đến an toàn tính mạng của bất kỳ ai hoặc xác định là nguồn thông tin bí mật có liên quan đến việc cưỡng chế thi hành pháp luật hoặc an ninh;
  • Thông tin mà việc tiết lộ sẽ gây cản trở đối với việc điều tra, bắt giữ, ngăn chặn tội phạm;
  • Tài liệu của Chính phủ lưu trữ các tranh luận của Hội đồng Bộ trưởng mặc dù sau này sẽ được công bố khi quyết định đã được ban hành;
  • Thông tin cá nhân mà không có mối quan hệ với các hoạt động công cộng hoặc lợi ích công cộng hoặc việc tiết lộ thông tin dẫn đến việc xâm hại đời tư trừ khi cán bộ thông tin hoặc cơ quan có thẩm quyền đã xác nhận rằng việc công bố thông tin bảo lợi ích cộng đồng lớn hơn việc  bưng bít thông tin;

2.4 Giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo Luật tiếp cận thông tin của Jamaica

 Theo Luật tiếp cận thông tin của Jamaica năm 2002 có hai giới hạn quan trọng về phạm vi tiếp cận thông tin:

  1. Tài liệu phải gắn với chức năng của cơ quan nhà nước nắm giữ tài liệu đó;
  2. Luật không áp dụng với những tài liệu đã có hơn 30 năm;

Bộ trưởng theo thẩm quyền của mình có thể quy định những hạn chế về tiếp cận thông tin trong lĩnh vực mà Bộ trưởng cho là thích hợp.  Các hạn chế khác được quy định theo Luật bí mật Nhà nước.

2.5 Giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo Luật tiếp cận thông tin của Nhật Bản

  Luật tiếp cận thông tin của Nhật Bản tại Điều 5 đã đưa ra 6 nhóm thông tin khác nhau có thể bị từ chối đối với người yêu cầu. Hầu hết những ngoại lệ này phụ thuộc vào sự đánh giá thiệt hại, những ngoại lệ này đòi hỏi thiệt hại thực tế phải bắt nguồn từ việc cung cấp thông tin. Những ngoại lệ về tiếp cận trong Luật tiếp cận thông tin của Nhật Bản liên quan đến thông tin cá nhân; thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh của các doanh nghiệp; những thông tin liên quan đến an ninh của nhà nước hoặc các mối quan hệ với các tổ chức quốc tế, các nước hoặc gây bất lợi cho việc đàm phán cho các nước khác hay các tổ chức quốc tế; những thông tin mà việc cung cấp sẽ gây rủi ro cho việc ngăn ngừa, trấn áp hoặc điều tra tội phạm, truy tố, thi hành hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến các vấn đề an ninh trật tự công cộng[83].

 -  Hạn chế cung cấp thông tin đối với các cuộc thảo luận hay tư vấn của Chính phủ mà việc cung cấp thông tin sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến việc trao đổi quan điểm thẳng thắn hoặc tính trung lập của việc đưa ra quyết định, những rủi ro không cần thiết dẫn đến sự rối loạn hay đưa đến những thuận lợi hoặc khó khăn không công bằng đối với bất cứ bên nào.

- Ngoại lệ cuối cùng bao gồm các trường hợp cung cấp thông tin có thể dẫn đến việc cản trở nghiên cứu, thiệt hại đến lợi ích kinh doanh hợp pháp, ảnh hưởng đến việc quản lý nhân sự, thiệt hại đến lợi ích của nhà nước trong các hợp đồng hay các cuộc đàm phán và tạo điều kiện cho các hành vi bất hợp pháp và không công bằng.

2.6 Sự giới hạn trong Luật tiếp cận thông tin của Kirgyzstan

 Luật tiếp cận thông tin của Kirgyzxtan quy định về những hạn chế của quyền tiếp cận thông tin là những giới hạn được quy định trong Luật về bí mật bao gồm bí mật nhà nước, bí mật đời tư, bí mật công vụ, bí mật kinh doanh, bí mật nghề nghiệp

2.7 Sự giới hạn trong Luật tiếp cận thông tin của Mêhicô

Theo Điều 14 của Luật tiếp cận thông tin của Mêhicô, quyền tiếp cận thông tin bị hạn chế khi:

  • Thông tin liên quan đến bí mật thương mại, công nghiệp, thuế, ngân hàng & tín dụng;
  • Những thông tin có thể làm tổn hại đến lợi ích của nhà nước và cá nhân;
  • Những thông tin mà việc công bố có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền công dân và quyền con người;
  • Gây tổn hại đến an ninh quốc gia hoặc quốc phòng;
  • Gây tổn hại các các cuộc đàm phán đang được tiến hành hay các quan hệ quốc tế kể cả việc tiết lộ thông tin được cung cấp trên cơ sở bí mật với các nước khác hay các tổ chức quốc tế;
  • Gây thiệt hại cho sự ổn định kinh tế hay tài chính quốc gia;
  • Tạo rủi ro cho tính mạng, an ninh hay sức khoẻ của một cá nhân;
  • Gây tổn hại đến việc thực thi pháp luật kể cả việc phòng ngừa hay truy tố tội phạm, thực thi công lý, thu thuế hay kiểm soát việc nhập cư;

Ngoài ra tại Điều 14 còn bổ sung những ngoại lệ được quy định bởi các Đạo luật khác như về các cuộc điều tra, các hồ sơ liên quan đến các phiên toà trước khi ra quyết định, các vụ kiện chống lại công chức trước khi ra quyết định, các ý kiến khuyến nghị hay quan điểm cho các công chức đưa ra như là một phần của quá trình thảo luận trước khi đưa ra quyết định cuối cùng; những thông tin liên quan đến nguồn gốc dân tộc hay chủng tộc, liên quan đến các đặc điểm thể chất tinh thần hay tình cảm, đời sống tình cảm hay gia đình, nơi cư trú, số điện thoại, tài sản thừa kế, tư tưởng hay quan điểm chính trị, niềm tin tôn giáo hay triết học, tình trạng sức khoẻ về thể chất hay tinh thần, sự ưa thích giới tính hoặc bất cứ thông tin tương tự có thể ảnh hưởng đến đời tư, những thông tin như vậy chỉ có thể được tiết lộ với sự đồng ý của cá nhân có liên quan

2.8 Sự giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo Luật tiếp cận thông tin của Pêru

 Luật Pêru quy định mối quan hệ phức tạp với hệ thống phân loại về độ mật thông tin, luật quy định chỉ thủ trưởng các đơn vị hoặc người được thủ trưởng các đơn vị chỉ định mới có thẩm quyền quy định về độ mật thông tin, Luật cũng quy định danh mục thông tin cần được phân loại mật như thông tin tình báo và phản gián, thông tin trong lĩnh vực quốc phòng, những thông tin liên quan đến các cuộc thảo luận nội bộ trong quá trình xem xét đưa ra quyết định.

 Điều 15 quy định thời hạn một thông tin mật sẽ được công bố đặc biệt là những thông tin thuộc tình báo và quốc phòng, những thông tin sau khi giải mã sẽ được công bố khi việc cung cấp thông tin không có hại cho an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ hay nền dân chủ, danh mục các thông tin mật được quy định trong Luật minh bạch và Luật tiếp cận thông tin của Pêru bao gồm:

  • Thông tin vì lý do quân sự được đưa vào danh mục mật với các nhóm cụ thể được quy định chi tiết tại Điều 15;
  • Thông tin liên quan đến phòng chống tội phạm với các nhóm cụ thể được quy định tại Điều 16;
  • Thông tin liên quan đến đàm phán quốc tế mà việc tiết lộ có thể gây phương hại đối với quá trình đàm phán hoặc ảnh hưởng xấu tới quan hệ quốc tế được quy định tại Điều 17;
  • Thông tin được bảo mật bởi các ngành ngân hàng, thuế, thương mại công nghiệp khoa học kỹ thuật, chứng khoán được quy định tại Điều 17 (2);
  • Thông tin liên quan đến các cuộc điều tra về việc thực hiện quyền hạn của các cơ quan hành chính đang được tiến hành, tuy nhiên các thông tin này chỉ được coi là mật cho đến khi giải quyết xong vấn đề hoặc được công bố 6 tháng sau khi cuộc điều tra bắt đầu – Quy định tại Điều 17 (3);
  • Thông tin, tài liệu do các luật sư công nắm giữ hoặc chuẩn bị mà nếu thông tin này được công khai có thể làm lộ chiến lược pháp lý hoặc ảnh hưởng đến ưu thế hoặc pháp luật. Thông tin này sẽ được công bố trong quá trình tố tụng;
  • Thông tin cá nhân mà việc tiết lộ sẽ vi phạm các quy định về quyền riêng tư;
  • Thông tin được xếp vào loại mật được quy định trong các loại luật khác.

2.9 Giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo Luật tiếp cận thông tin của Cộng hoà Nam Phi

Luật tiếp cận thông tin Nam Phi có các quy định rất cụ thể, toàn diện với các trường hợp ngoại lệ. Hầu hết các trường hợp ngoại lệ quy định trong luật đều yêu cầu phải xem xét mức độ nguy hại khi công bố thông tin. Các trường hợp hạn chế bao gồm:

  • Các thông tin mà việc cung cấp sẽ làm cản trở việc thực thi luật pháp;
  • Các thông tin mà việc cung cấp có thể gây hại tới an toàn xã hội và môi trường;
  • Các thông tin mà việc tiết lộ gây ra sự nguy hại lớn hơn việc không cung cấp thông tin;
  • Luật cũng quy định cấm việc phát tán một cách không phù hợp thông tin mang tính chất riêng tư bởi bên thứ 3;
  • Các thông tin do cục thuế Nam Phi nắm giữ nhằm mục đích thực thi các văn bản pháp luật về thu thuế;
  • Các thông tin thương mại bao gồm các bí mật kinh doanh;
  •  Thông tin mà việc công bố sẽ gây phương hại đến lợi ích thương mại của bên thứ 3;
  • Thông tin mà  việc tiết lộ thông tin có thể gây bất lợi cho bên thứ 3;
  •  Những thông tin không được cung cấp theo quy định của Luật bảo mật;
  • Thông tin mà việc công khai có thể gây ảnh hưởng xấu đến đời sống an toàn sức khoẻ, an ninh của công trình xây dựng, sự an toàn về tài sản nhà cửa, các phương tiện giao thông, các hệ thống bảo vệ công dân, tài sản đều là đối tượng thuộc trường hợp ngoại lệ;
  • Các thông tin trong giai đoạn điều tra tội phạm, các thông tin về an ninh, phòng thủ đất nước và quan hệ quốc tế;
  • Những thông tin mà việc tiết lộ có thể gây tổn hại đến lợi ích kinh tế hoặc tài chính của đất nước hoặc gây phương hại đến năng lực quản lý của Chính phủ.

2.10 Giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo Luật Tiếp cận thông tin của Thụy Điển

Luật tiếp cận thông tin của Thụy Điển quy định về các trường hợp hạn chế về quyền tiếp cận thông tin có liên quan đến 7 nhóm lợi ích. 7 nhóm lợi ích đó là:

  • An ninh hoặc mối quan hệ với nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế;
  • Chính sách tài chính trung ương, chính sách tiền tệ hối đoái;
  • Thanh tra, kiểm tra hoặc các chức năng giám sát khác;
  • Vì lợi của việc ngăn ngừa, phòng chống, truy tố tội phạm;
  • Lợi ích kinh tế công cộng;
  • Bảo vệ danh dự cá nhân hoặc thông tin cá nhân về mặt kinh tế;
  • Bảo tồn các loài động vật.
    1. Giới hạn quyền tiếp cận thông tin theo luật Tiếp cận thông tin của Thái Lan

 Luật tiếp cận thông tin của Thái Lan quy định tại Điều 3 rằng trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa Luật tiếp cận thông tin với các Luật khác thì quy định của Luật tiếp cận thông tin được áp dụng. Tuy nhiên, theo Khoản 1 và Khoản 6 Điều 15, các thông tin có chế độ mật theo quy định của các luật khác được coi là trường hợp ngoại lệ công dân không có quyền tiếp cận các thông tin đó. Hầu hết các thông tin thuộc trường hợp ngoại lệ đều yêu cầu các thủ tục kiểm tra mức độ nguy hại chẳng hạn có thể xếp thông tin vào loại “có thể gây nguy hại” hoặc “chắc chắn gây nguy hại”. Có 2 trường hợp ngoại lệ mà không cần dựa trên mức độ nguy hại là các tài liệu nội bộ phục vụ quá trình ban hành chính sách và các thông tin được quy định là mật. Luật tiếp cận thông tin của Thái Lan không quy định về việc chứng nhận những quy định thông tin mật có thể được cung cấp nếu có sắc chỉ của hoàng gia. Tại Điều 15 Luật tự do thông tin quy định nếu một cơ quan nhà nước quyết định cấm công bố một thông tin thì cơ quan đó trước hết phải cân nhắc đến tất cả các yếu tố như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của cá nhân có liên quan. Điều 20 Luật tiếp cận thông tin của Thái Lan quy định rõ về ưu tiên bảo vệ lợi ích công cộng cụ thể là cán bộ cơ quan nhà nước không bị truy cứu trách nhiệm nếu công bố thông tin để bảo vệ lợi ích cộng đồng và việc công bố thông tin đấy là hợp lý. Quy định như vậy là không giống với Luật tiếp cận thông tin của một số nước khác vì Luật các nước khác thường quy định trên nguyên tắc xem xét việc cân đối giữa nguy cơ gây hại của việc cung cấp thông tin với lợi ích công cộng được bảo vệ trong trường hợp thông tin được công bố.

Điều 15 Luật tiếp cận thông tin Thái Lan quy định các loại thông tin sau đây thuộc trường hợp ngoại lệ:

  • Thông tin mà việc công bố có thể đe dọa đến an ninh quốc gia, an ninh kinh tế quốc gia hoặc quan hệ quốc tế;
  • Thông tin mà việc công bố có thể phương hại tới công tác thực thi pháp luật;
  • Các ý kiến tham mưu, quan điểm nội bộ mà không phải là cơ sở hay báo cáo thực trạng về vấn đề này;
  • Thông tin mà việc công bố sẽ đe doạ tính mạng hoặc sự an toàn cá nhân;
  • Thông tin cá nhân mà việc công bố có thể xâm phạm quyền riêng tư;
  • Thông tin thuộc diện bảo vệ theo quy định của pháp luật;
  • Thông tin thuộc diện bảo vệ theo quy định của pháp luật hoặc được quy định là mật;

2.12 Những hạn chế trong Luật tiếp cận thông tin của Liên hiệp Vương quốc Anh

Luật tiếp cận thông tin của Liên hiệp Vương quốc Anh quy định các trường hợp ngoại lệ sau đây:

  • Biên bản tài liệu ghi chép làm việc của Nội các (Điều 2(2) và Điều 25(1) )
  • Việc công bố một cách thiếu cơ sở các thông tin về cá nhân, về sức khoẻ cá nhân trừ khi được người đó đồng ý hoặc người đó đã được thông báo về việc cung cấp thông tin trong trường hợp thông tin đó thuộc về một thông tin khác thuộc diện phải công bố và thông tin đó đã được công bố trên thực tế; Thông tin về các chức năng, nhiệm vụ của cán bộ công chức nhà nước;
  • Thông tin chứa đựng các bí mật thương mại, bản quyền, phát minh sáng chế, thông tin mà việc công bố có thể gây nguy hại đến lợi ích hoặc hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức nhà nước; Thông tin mật mà việc công bố khiến bên thứ 3 có thể lâm vào tình trạng bất lợi về thương mại trừ khi thông tin đó đã được công bố hoặc bên thứ 3 đó đồng ý hoặc thông tin chứa đựng kết quả kiểm tra sản phẩm hoặc kiểm tra về môi trường mà kết quả đó cho thấy những nguy cơ, mối đe doạ lớn về y tế, môi trường và an toàn xã hội;
  • Thông tin mà việc cung cấp sẽ gây bất lợi về mặt pháp lý hoặc thông tin được quy định là bí mật và việc công bố sẽ khiến việc cung cấp thông tin tương tự sẽ gặp khó khăn trong tương lai; Việc công bố thông tin đi ngược lại lợi ích công cộng trừ khi thông tin đó đã được công bố hoặc bên thứ 3 đồng ý cung cấp;
  • Thông tin mà việc công bố có thể gây nguy hiểm tính mạng hoặc an toàn thân thể của cá nhân hoặc gây nguy hại đối với an ninh về nhà cửa hoặc tài sản, phương tiện, biện pháp, kế hoạch, việc bảo vệ nhân chứng an ninh công cộng (Điều 29).
  • Thông tin mà việc công bố có thể khiến một cá nhân nào đó không được hưởng quá trình xét xử công bằng, việc công bố có thể ảnh hưởng xấu tới hoạt động điều tra, ngăn ngừa, truy tố tội phạm hoặc khiến thực thi pháp luật bị sai lệch hoặc dễ dẫn tới việc phải công bố một thông tin mật khác, hoặc gây nguy hại cho nhân chứng hoặc tạo điều kiện để phạm một tội khác. Thông tin về tình hình giam giữ tội phạm nói chung không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định này (Điều 30).
  • Thông tin liên quan đến quá trình xét xử trừ khi người có thẩm quyền cho phép công bố (Điều 31).
  • Thông tin mà việc công bố có thể gây nguy hại cho an ninh quốc phòng toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ quốc tế hoặc làm lộ thông tin mật của cơ quan nhà nước khác hoặc tổ chức quốc tế, trừ khi thông tin đã được lưu giữ trên 20 năm (Điều 32).
  • Thông tin chứa đựng ý kiến tham mưu, khuyến nghị hoặc đề xuất, góp ý trong quá trình làm việc nội bộ mà việc công bố có thể ngăn cản việc đóng góp ý kiến hoặc làm sai lệch kết quả của quá trình làm việc trừ khi thông tin đã được lưu giữ đã quá 10 năm (Điều 33).

Luật tiếp cận thông tin của Liên hiệp Vương quốc Anh cũng quy định các trường hợp ngoại lệ cụ thể sau đây:

  • Thông tin đã được cung cấp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc liên quan tới danh sách cơ quan an ninh và việc giám sát toà án đối với cơ quan này (Điều 23).
  • Thông tin mà chứa đựng trong đó được yêu cầu cho sự an toàn an ninh quốc gia (Điều 24) hoặc nếu công khai thông tin đó sẽ ảnh hưởng không tốt đến quốc phòng (Điều 26);
  • Thông tin được công bố sẽ hoặc có khả năng sẽ gây hại cho mối quan hệ với các quốc gia khác hoặc các tổ chức quốc tế hoặc lợi ích của nước Anh ở bên ngoài hoặc những thông tin được cung cấp trong mối quan hệ riêng tư với quốc gia khác hoặc giữa các cơ quan liên chính phủ;
  • Thông tin nếu được công khai sẽ hoặc khả năng sẽ gây ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính trong phạm vi nước Anh (Điều 28);
  • Thông tin nếu được công khai sẽ hoặc khả năng sẽ gây ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của nước Anh và lợi ích tài chính của chính phủ (Điều 29);
  • Thông tin nếu được công khai sẽ hoặc có khả năng sẽ gây ảnh hưởng đến việc điều tra hình sự (Điều 30);
  • Thông tin nếu được công khai sẽ hoặc có khả năng sẽ gây ảnh hưởng đến việc khám phá, ngăn chặn, truy tố tội phạm hoặc hành chính tư pháp nói chung (Điều 31).
  • Thông tin nếu được công khai sẽ hoặc có khả năng gây tổn hại đến chức năng kiểm toán hoặc kiểm tra hiệu quả hoạt động của cơ quan công quyền (Điều 33).
  • Thông tin nếu được công khai sẽ hoặc có khả năng sẽ gây tổn haị đến trách nhiệm tập thể của bộ trưởng hoặc ảnh hưởng đến các điều khoản tư vấn tự do hoặc thẳng thắn (Điều 36).
  • Thông tin liên quan đến cuộc trao đổi của vua, hoàng hậu (Điều 37).
  • Thông tin nếu được công khai sẽ hoặc có khả năng sẽ gây tổn hại đến sức khoẻ và sự  an toàn  sức  khoẻ (Điều 38).
  • Thông tin cá nhân (Điều 40).
  • Thông tin nếu được công khai sẽ phá vỡ sự tin cậy (Điều 41).
  • Thông tin bảo mật hợp pháp (Điều 42);
  • Bí mật thương mại và thông tin khác nếu công khai sẽ gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại đến lợi ích thương mại của bất cứ cá nhân nào (Điều 43);
  • Thông tin không được triển khai theo pháp luật của cộng đồng Châu Âu (Điều 44).

3. Nhận xét chung về giới hạn của quyền tiếp cận thông tin

 Qua việc xem xét những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới chúng ta thấy rằng  Luật tiếp cận thông tin của bất kỳ một nước nào cũng đều có những giới hạn về quyền tiếp cận thông tin, những giới hạn đó là hết sức cần thiết vì an ninh quốc gia, vì sức khoẻ cộng đồng, vì bí mật thương mại và kinh tế, vì bí mật cá nhân, vì bí mật của các hoạt động tư pháp, vì bí mật của công việc nội bộ của một số cơ quan nhà nước. Tuy nhiên những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin nếu không bị hạn chế đến mức tối thiểu thì những hạn chế đó sẽ là “gót chân asin” của quyền tiếp cận thông tin. Nếu danh mục những giới hạn đó quá lớn thì Luật tiếp cận thông tin sẽ bị vô hiệu hoá hoặc có hiệu lực, hiệu quả không cao. Vì vậy một nguyên tắc đặt ra cần phải được tuân thủ khi xác định một thông tin bị hạn chế không được công bố cho người dân là sự cân bằng lợi ích giữa công khai và không công khai, nếu lợi ích do công khai thông tin lớn hơn nhiều so với lợi ích do không công khai thông tin thì trong trường hợp đó nhất thiết phải chọn phương án công khai thông tin. Tất nhiên những thông tin liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật đời tư, liên quan đến việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, quyền sống, sức khoẻ, tính mạng của con người thì phải chú trọng đến việc bảo mật. Luật tiếp cận thông tin được xây dựng dựa trên sự cân bằng các nguyên tắc công bằng, công lý của cuộc sống. Việc hạn chế hay không hạn chế những thông tin đối với người tiếp cận phải được xây dựng trên nền tảng của nhà nước pháp quyền trong đó các quyền con người và quyền công dân phải tuyệt đối được tôn trọng và bảo vệ.

 

                                           

 

 

 

 

 

 

 

 

                                              Chuyên đề 6

NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

                                              TS. Bùi Thị Đào

                                     Trường Đại học Luật Hà Nội

Quyền được thông tin là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa trong một số văn bản pháp luật khác. Quyền được thông tin của công dân gắn liền với quyền được nói lên suy nghĩ, nguyện vọng của mình. Hai quyền này liên hệ mật thiết với nhau, trong đó quyền nói lên suy nghĩ, nguyện vọng của người dân chỉ thực sự có ý nghĩa nếu họ có quyền được thông tin một cách đầy đủ. Trên thực tế, nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân và khả năng nhà nước bảo đảm quyền tiếp cận thông tin mỗi lúc một khác. Ở Việt Nam cho đến nay, mức độ quan tâm đến hoạt động công quyền của người dân ngày càng tăng nên nhu cầu được thông tin ngày càng lớn, nhưng người dân hầu như chưa có quyền chủ động yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin, nhất là những thông tin không trực tiếp liên quan đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ của họ. Những thông tin mà người dân được cung cấp thường do sự chủ động từ phía nhà nước và còn khá hạn chế. Thực tế này ảnh hưởng đáng kể đến tính minh bạch trong hoạt động của nhà nước, đã và đang là một trong những nguyên nhân làm cho một bộ phận lớn dân chúng thờ ơ với hoạt động của chính quyền, không tha thiết và khó thực hiện được quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hiện nay, việc đảm bảo cho mọi người được biết và tham gia có hiệu quả vào hoạt động của quốc gia, đảm bảo tính minh bạch, dân chủ trong hoạt động của nhà nước bằng cách cung cấp cho người dân những thông tin được sở hữu, quản lí bởi các cơ quan công quyền trở thành một nhu cầu thiết yếu. Điều này được chứng minh bằng số lượng lớn các quốc gia trên thế giới đã ban hành luật tiếp cận thông tin. Nhận thức được điều đó, Đảng ta đã chỉ rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X cần nghiên cứu ban hành luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Đây là định hướng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu quản lí đất nước trong giai đoạn hiện nay và xu hướng chung của thế giới. Quyền được thông tin có nhiều điểm gần gũi với quyền tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, quyền tiếp cận thông tin thể hiện tính dân chủ ở trình độ cao hơn so với quyền được thông tin. Quyền này đã được luật hóa trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới và đang thu hút được sự quan tâm của các chính trị gia, luật gia và cả các nhà xã hội học ở Việt Nam hiện nay. Lẽ dĩ nhiên, để quyền tiếp cận thông tin của người dân được thừa nhận, được hiện thực hóa, góp phần tích cực vào việc dân chủ hóa đời sống chính trị- xã hội, xây dựng chính quyền gần dân thì quyền này cần được đảm bảo bằng những điều kiện nhất định. Bài viết này đề cập đến một số điều kiện cơ bản đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân như điều kiện về chính trị, điều kiện về kinh tế, điều kiện về nhận thức, điều kiện về tổ chức bộ máy, nhân sự, điều kiện về pháp luật.

1. Điều kiện về chính trị:

Tiếp cận thông tin trước hết là quyền chính trị của công dân. Quyền này chỉ được thực hiện trong mối tương tác của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa một bên là nhà nước, một bên là người dân. Vì vậy, quyền này được hiểu và được thực hiện như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào môi trường chính trị trong đó người dân được phép biết những thông tin gì và được phát biểu những ý kiến nào.

Dưới góc độ lí luận, trong mối quan hệ với nhà nước, người dân luôn đồng thời có hai tư cách: tư cách là chủ thể của quyền lực và tư cách là đối tượng của quyền lực. Quyền lực nhà nước vốn dĩ bắt nguồn từ quyền lực nhân dân nhưng vì nhiều lí do khác nhau mà nhân dân không trực tiếp thực hiện được nên đã trao quyền lực đó cho một bộ máy đặc biệt là nhà nước. Sau khi trao quyền lực cho nhà nước, với tư cách là chủ thể nguyên thủy của quyền lực, nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước trong việc sử dụng quyền lực được trao. Các thông tin công đều ít nhiều phản ánh quá trình nhà nước thực hiện quyền lực công nên tiếp cận thông tin công là phương cách thuận tiện và hữu hiệu để nhân dân kiểm soát việc sử dụng quyền lực của nhà nước. Do đó, với tư cách thứ nhất- tư cách chủ thể của quyền lực- tiếp cận thông tin công là quyền tất yếu của công chúng. Bên cạnh đó, mặc dù quyền lực nhà nước được bảo đảm thực hiện bằng những phương tiện đặc biệt nhưng khi tác động tới người dân thì quyền lực đó chỉ phát huy giá trị tích cực ở mức tối đa nếu có sự đồng tình, ủng hộ của họ. Sự đồng tình, ủng hộ này sẽ mạnh mẽ nếu nhà nước chứng tỏ được mục đích phục vụ công chúng trong các hoạt động của mình, các tác động của nhà nước có thể dự đoán được, không tạo ra những cú sốc cho xã hội. Trong trường hợp ngược lại, sự ủng hộ của công chúng sẽ yếu ớt, thậm chí công chúng có thể chống lại quyền lực nhà nước. Vì vậy, với tư cách là đối tượng tác động của quyền lực, người dân cũng cần được biết các hoạt động của nhà nước đã, đang và sẽ diễn ra như thế nào. Mặt khác, hoạt động quản lí nhà nước sẽ phục vụ thiết thực lợi ích của nhân dân nếu nhà nước có sự nhìn nhận, đánh giá các vấn đề xã hội phù hợp với cách nhìn nhận, đánh giá của nhân dân, thu hút được nhân dân tham gia vào các hoạt động của mình. Điều đó chứng tỏ việc cung cấp thông tin công cho công chúng không chỉ cần thiết cho người dân mà còn cần thiết cho cả nhà nước trong các hoạt động của mình. Như thế, phạm vi thông tin công mà nhà nước cần cho người dân được tiếp cận là rất rộng. Tuy vậy, vì lợi ích của giai cấp cầm quyền, do quan điểm chính trị và các điều kiện quản lí cụ thể chi phối nên phạm vi quyền tiếp cận thông tin trên thực tế thường hẹp hơn trên lí thuyết. Hơn nữa, trong phần lớn các trường hợp, tư cách người dân là đối tượng của quyền lực thường được nhìn nhận rõ ràng hơn so với tư cách là chủ thể của quyền lực nên quyền tiếp cận thông tin có vai trò như là công cụ giúp cân bằng quyền lực giữa nhân dân với nhà nước. Đến đây, quyền tiếp cận thông tin phụ thuộc vào quan niệm về vai trò của nhà nước và của người dân trong đời sống chính trị- xã hội, tức là phụ thuộc vào mức độ dân chủ của nhà nước. Do đó, điều kiện về chính trị tốt nhất để bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin là một chế độ xã hội dân chủ thực sự.

Dân chủ, nói ngắn gọn, là chủ quyền của nhân dân, là sự cai trị thuộc về nhân dân[i] nhưng đây lại là một khái niệm tương đối trừu tượng và được vận dụng khá linh hoạt tùy thuộc vào những điều kiện thực tế cụ thể. Ngay từ năm 1945 Việt Nam đã thành lập nhà nước dân chủ đầu tiên và mức độ dân chủ của nhà nước ngày càng tăng lên. Đảng và nhà nước đã đề ra và tổ chức thực hiện cơ chế “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Theo cơ chế này, quyền tiếp cận thông tin của người dân rất được đề cao vì nếu người dân không có quyền tiếp cận thông tin hoặc phạm vi tiếp cận thông tin hạn chế thì người dân không thể biết, không thể bàn, không thể làm và không thể kiểm tra các công việc của nhà nước. Nội dung, tinh thần cơ chế này được thể hiện trong hàng loạt các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật, Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở… theo đó công dân có quyền được thông tin, quyền tự do ngôn luận, quyền kiến nghị, quyền thảo luận các vấn đề quan trọng của cả nước và địa phương, quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân, quyền đóng góp ý kiến cho các dự thảo văn bản qui phạm pháp luật… Các quyền này ngày càng được qui định cụ thể hơn và được chú ý bảo đảm thực hiện về nhiều phương diện. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân cho dự thảo các văn kiện chính trị, pháp lí quan trọng như dự thảo nghị quyết của Đảng, dự án luật, dự án pháp lệnh được tiến hành thường xuyên trên qui mô rộng tạo thành những đợt sinh hoạt chính trị, pháp lí sôi nổi trong phạm vi cả nước hoặc địa phương. Nhiều dự thảo văn bản qui phạm pháp luật hiện nay được đưa trên các trang thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước để nhân dân có thể trực tiếp đóng góp ý kiến. Các dự án di dân, giải phóng mặt bằng với các phương án đền bù, di rời cũng đã được công khai hóa. Đây là hoạt động cung cấp cho người dân những thông tin cần thiết về những tác động quản lí mà nhà nước chuẩn bị thực hiện để không những tranh thủ ý kiến của người dân mà còn tránh cho xã hội những cú sốc do các tác động được đưa ra quá bất ngờ. Các ý kiến theo cả chiều hướng thuận và nghịch đều được quan tâm tới. Gần đây, vấn đề phản biện xã hội rất được chú ý chứng tỏ tư duy cởi mở của nhà nước về vai trò của các lực lượng xã hội khác nhau trong việc tham gia giải quyết các vấn đề chung của nhà nước và xã hội.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được qua hơn nửa thế kỉ phấn đấu của Đảng, nhà nước và nhân dân nói trên thì quyền tiếp cận thông tin của công chúng vẫn còn những hạn chế nhất định mà nguyên nhân chủ yếu là quan niệm về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân chưa thực sự đổi mới căn bản. Người dân vẫn chưa thực sự được coi là người chủ, nhà nước chưa thực sự coi trọng chức năng phục vụ, những biểu hiện duy ý chí trong hoạt động của nhà nước, của cán bộ, công chức vẫn khá rõ rệt. Tỉ lệ các vụ khiếu nại đông người gia tăng cả về số lượng và về mức độ gay gắt những năm gần đây[ii], nhiều quyết định gây tổn thất cho nền kinh tế hoặc gây sốc cho thị trường như quyết định ngừng xuất khẩu gạo tháng 4/ 2008, quyết định tăng giá xăng dầu đột ngột tháng 7/2008[iii]… ít nhiều đều liên quan đến việc cung cấp thông tin cho người dân không đầy đủ, không kịp thời hoặc không chú ý thích đáng đến ý kiến của nhân dân. Nói gọn lại, mục đích chính trị của nhà nước là giữ gìn và củng cố chính quyền, vì vậy sự đồng thuận trong xã hội là điều cần thiết nhưng các ý kiến, quan điểm ngược chiều cũng hết sức quan trọng bởi nó phản ánh tính không đồng nhất của các lợi ích xã hội mà nhà nước có nhiệm vụ dung hòa, cân bằng. Hơn nữa, chính các ý kiến trái chiều cũng có những giá trị tích cực nhất định trong việc thúc đẩy xã hội phát triển. Lịch sử cho thấy tất cả các cuộc cải cách đều xuất phát từ những ý kiến trái với quan điểm chính thống. Tất cả những sự đồng tình, sự không đồng tình tích cực (kiến nghị, phản biện, đóng góp ý kiến…) đó chỉ thực sự có ý nghĩa nếu môi trường chính trị dân chủ đến mức cho phép người dân biết được phần lớn các thông tin liên quan đến hoạt động của nhà nước và các ý kiến của nhân dân được thực sự chú ý, tiếp thu.

 2. Điều kiện về kinh tế:

Điều kiện kinh tế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin được thể hiện ở hai mức độ. Ở mức độ tổng quát, quan hệ kinh tế mang tính chất quyết định đối với các quan hệ, các quá trình xã hội. Các quan hệ giữa nhà nước và công dân, các qui định của pháp luật được hình thành, thực hiện và bảo đảm thực hiện trên thực tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp bị chi phối bởi điều kiện kinh tế. Để quyền tiếp cận thông tin được thực hiện thì nền kinh tế phải có khả năng đảm bảo các lợi ích căn bản trong xã hội, nhất là các lợi ích chung của cộng đồng để có thể thu hút sự tham gia rộng rãi của mọi người vào các hoạt động chung. Ở mức độ cụ thể, quyền tiếp cận thông tin được quan tâm và được thực hiện thuận lợi khi có những điều kiện kinh tế tương ứng. Kinh tế tác động đến quyền và việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin đối với cả người dân và nhà nước. Về phía người dân, xét theo bản năng sống, con người trước hết quan tâm đến những gì là thiết yếu trong cuộc sống của chính mình. Khi những nhu cầu tối thiểu, trong đó quan trọng nhất là nhu cầu ăn, mặc, ở được thỏa mãn thì họ mới quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống, mới quan tâm nhiều đến các vấn đề chung của xã hội. Đồng thời, để việc trực tiếp thực hiện quyền tiếp cận thông tin được dễ dàng, thuận tiện thì người dân cũng cần có những điều kiện kinh tế nhất định. Chẳng hạn, khi kinh tế phát triển, đời sống được nâng cao, người dân có điều kiện mua sắm các phương tiện truyền thông sẽ dễ dàng tiếp cận nhiều nguồn thông tin khác nhau. Điều đó lại kích thích người dân quan tâm đến các vấn đề của quốc gia, làm tăng nhu cầu thông tin của họ. Điều này rất dễ nhận ra nếu so sánh nhu cầu thông tin, tính tích cực xã hội của người dân trong mối quan hệ với điều kiện kinh tế của họ ở thời điểm hiện tại với những thời kì kinh tế khó khăn trước kia, hoặc của người dân ở thành thị có điều kiện kinh tế thuận lợi và các vùng xa xôi có điều kiện kinh tế hạn chế trong cùng một thời kì. Về phía nhà nước, do khối lượng thông tin được nắm giữ ngày càng lớn và đa dạng nên thông tin cần được tổ chức, lưu giữ bởi những phương tiện ngày càng hiện đại. Sự ứng dụng công nghệ cao giúp cho việc lưu giữ, khai thác, cung cấp thông tin an toàn, chính xác và thuận tiện nhưng lại cần có sự đầu tư đáng kể về cơ sở vật chất- kĩ thuật và con người. Một ví dụ cụ thể, hiện nay, rất nhiều cơ quan nhà nước ở cả trung ương và địa phương đã có các website để truyền tải các thông tin về chức năng, nhiệm vụ, về các hoạt động quan trọng của cơ quan và tạo các diễn đàn để người dân, các nhà quản lí, các nhà khoa học cùng tham gia ý kiến đối với các công việc thuộc thẩm quyền của cơ quan. Trong thời đại công nghệ thông tin, mạng tin học là cầu nối thông tin quan trọng giữa nhà nước với nhân dân. Đầu tư thiết lập, vận hành, khai thác mạng thông tin điện tử là điều kiện quan trọng để người dân tiếp cận thông tin công. Tuy nhiên, việc lập, duy trì và quản trị mạng đảm bảo độ chính xác, đa dạng của thông tin, thuận lợi cho việc truy cập, bảo đảm an ninh mạng… không chỉ là vấn đề kĩ thuật mà còn cần sự đầu tư về cơ sở vật chất, về con người cả của nhà nước và của nhân dân.

Lẽ dĩ nhiên, mạng tin học không phải là kênh thông tin duy nhất để người dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin nhưng rõ ràng đó là kênh thuận tiện và dù nó đòi hỏi đầu tư rất lớn ban đầu nhưng về lâu dài đây là kênh tiết kiệm cả về tiền bạc và thời gian. Bên cạnh đó, những dạng lưu giữ thông tin khác như băng, đĩa ghi âm, ghi hình hay văn bản giấy thì việc lưu trữ, cung cấp cũng cần những điều kiện kinh tế nhất định. Như vậy, để quyền tiếp cận thông tin mang tính hiện thực thì trước hết phải phát triển kinh tế, đồng thời các qui định về phạm vi và cách thức thực hiện quyền này phải dựa trên những điều kiện kinh tế tương ứng và sẽ được thay đổi tùy thuộc khả năng kinh tế cụ thể của đất nước trong từng thời kì.

3. Điều kiện về nhận thức:

Quyền tiếp cận thông tin là quyền của các cá nhân, tổ chức có nhu cầu thông tin, tương ứng với quyền này là nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước- những người nắm giữ thông tin công. Khả năng và hiệu quả của việc thực hiện quyền này phụ thuộc đáng kể vào nhận thức của cả người thực hiện quyền và người đáp ứng quyền đó. 

Về phía cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Một cách tích cực, quyền tiếp cận thông tin là quyền được có các thông tin công để giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước, để thực hiện và bảo vệ bất cứ quyền, lợi ích chính đáng nào của mọi chủ thể trong xã hội. Như vậy, quyền tiếp cận thông tin có thể được thực hiện cả khi việc thực hiện quyền liên quan trực tiếp hoặc không liên quan trực tiếp đến lợi ích của người thực hiện quyền. Do đó, nhận thức của cá nhân, tổ chức trước hết là nhận thức về sự cần thiết phải có quyền tiếp cận thông tin, giá trị và phạm vi quyền tiếp cận thông tin. Thông thường con người dành sự quan tâm, chú ý đến những gì liên quan tới lợi ích của mình trước và tích cực bảo vệ lợi ích của mình hơn bảo vệ lợi ích của các chủ thể khác. Tuy nhiên, với tính cách là một cá thể tồn tại trong cộng đồng, một thành viên tồn tại trong xã hội thì lợi ích của một cá nhân không bao giờ tách rời hoàn toàn lợi ích của các cá nhân khác và của cả xã hội. Vì vậy, khi nhận thức của mỗi người hạn chế trong cái “tôi” thì quyền tiếp cận thông tin chỉ để thực hiện và bảo vệ lợi ích của mình, họ không cần quyền tiếp cận thông tin có phạm vi rộng vì dẫu quyền tiếp cận thông tin có phạm vi rộng đến mấy thì người dân cũng chỉ sử dụng trong giới hạn để phục vụ lợi ích của mình một cách trực tiếp. Nhưng khi nhận thức của con người vượt qua cái “tôi” nhỏ bé, ích kỉ thì họ sẽ thấy cái “tôi” luôn nằm trong cái chung của xã hội và trong cái chung rộng lớn đó bao giờ cũng hàm chứa cái “tôi” của riêng họ. Khi đó, họ đòi hỏi phạm vi quyền tiếp cận thông tin đủ rộng để có thể kiểm soát được tất cả những hoạt động công liên quan đến lợi ích của cả xã hội và từng thành viên trong đó. Mặc dù vậy, cũng không thể phủ nhận thực tế là khi có những lợi ích liên quan trực tiếp thì động cơ thúc đẩy người dân tiếp cận thông tin rõ ràng và mạnh mẽ, nhu cầu chủ động thực hiện quyền của người dân cấp thiết hơn. Điều cần lưu ý là nhu cầu tiếp cận thông tin lúc này nhằm thỏa mãn hay bảo vệ những lợi ích của chính bản thân mình nên đôi khi người dân nóng nảy, thiếu sự kiềm chế cần thiết để thực hiện đúng đắn quyền này. Ngược lại, khi không có những lợi ích liên quan trực tiếp thì người dân có thể bàng quan theo kiểu “cha chung không ai khóc”, hoặc ngược lại vì không sợ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của mình nên không thiện chí khi thực hiện quyền.

Nhận thức về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin cũng ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng và hiệu quả thực hiện quyền này trên thực tế. Cần nhận thức rõ đây là quyền, tức là hành vi được nhà nước cho phép thực hiện và bảo đảm cho sự thực hiện đó, nên người dân sẽ không e ngại thực hiện quyền khi có nhu cầu tiếp cận thông tin một cách chính đáng. Đồng thời, quyền bao giờ cũng có giới hạn và việc thực hiện quyền luôn phải tuân theo trật tự nhất định nên người thực hiện quyền không thể sử dụng quyền này để đòi hỏi, yêu sách nhà nước đáp ứng mọi đề nghị theo bất cứ cách nào mà người thực hiện quyền đưa ra. Nói cách khác, nếu người dân nhận thức đúng đắn về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, về mối quan hệ hợp tác giữa nhà nước và nhân dân trong quá trình thực hiện quyền thì quyền tiếp cận thông tin có thể được thực hiện dễ dàng, mang lại những tác động tích cực cho xã hội. Ngược lại, nếu nhận thức không đúng đắn thì việc thực hiện quyền có thể gặp những khó khăn từ cả hai phía nhà nước và người dân.

Về phía cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng quyền tiếp cận thông tin. So với nhận thức của người dân, nhận thức của cán bộ, công chức nhà nước ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đến việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin vì người dân chỉ thực hiện được quyền này khi cán bộ, công chức nhà nước thực hiện nghĩa vụ tương ứng của mình. Nếu nhìn nhận một cách tích cực, quyền tiếp cận thông tin là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công. Một mặt, quyền này tác động ngược trở lại hoạt động công ở chỗ buộc các cán bộ, công chức phải thận trọng trong tất cả các công việc của mình. Mặt khác, quyền này giúp cho việc phát hiện những sai sót trong hoạt động công được nhanh chóng, kịp thời, hạn chế bớt hậu quả xấu do các hoạt động sai trái gây ra. Tuy nhiên, ở một góc độ khác có thể thấy quyền này tạo ra khả năng là mọi sai sót, yếu kém trong hoạt động công đều có thể bị đưa ra trước công lí, công luận. Đây không phải là điều các cán bộ, công chức có thể dễ dàng đối mặt. Do đó, nếu cán bộ, công chức nhà nước thấm nhuần quan điểm nhà nước có chức năng cơ bản là phục vụ và thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu chung của xã hội và của từng thành viên trong đó, thấu suốt quan điểm công chức nhà nước là công bộc của nhân dân thì không chỉ thấy việc nhân dân kiểm soát hoạt động của nhà nước là tất yếu mà việc thừa nhận và sửa chữa những sai sót của mình cũng trở nên đơn giản, nhẹ nhàng. Khi đó, cán bộ, công chức sẽ tạo thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Trong trường hợp ngược lại, nếu cán bộ, công chức vẫn có tư duy thiên về chức năng cai trị của nhà nước và cán bộ, công chức là các quan cách mạng, là những người thuộc đẳng cấp cao hơn so với công chúng thì việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân đương nhiên sẽ gặp nhiều khó khăn.

Ở Việt Nam, nhận thức của cả người dân và cán bộ, công chức đều in đậm dấu ấn lịch sử đặc thù. Lịch sử Việt Nam trong suốt chiều dài quá khứ là lịch sử của một xã hội thiếu dân chủ. Thời kì phong kiến hàng ngàn năm được tiếp nối bởi thời kì thuộc địa nửa phong kiến. Sau đó nhà nước mới được thành lập nhưng bị chi phối bởi những điều kiện đặc biệt của chiến tranh và sự kéo dài của chế độ bao cấp. Điều kiện lịch sử này tuy cũng có những tác động tích cực trong những điều kiện nhất định, nhưng nếu nhìn từ góc độ quyền tiếp cận thông tin thì những tác động tiêu cực khá rõ nét. Đó là, thứ nhất, người dân dễ bị rơi vào một trong hai thái cực. Một là, thụ động, cam chịu, chấp nhận những bất công, phi lí, hầu như không có phản ứng tích cực nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người khác, của xã hội, thậm chí là của chính mình do những phản ứng đó hoặc là thường không được nhà nước quan tâm thích đáng, hoặc là thiếu an toàn cho bản thân họ. Hai là, do không phản ứng kịp thời nên có thể các quyền và lợi ích bị xâm hại nhiều lần hoặc xâm phạm ở mức khá nghiêm trọng và khi giới hạn của sự chịu đựng đã hết thì họ có thể có phản ứng gay gắt. Thứ hai, cán bộ, công chức dễ bị quan liêu, thiếu tinh thần phục vụ, khó chấp nhận việc người dân giám sát hoạt động của mình. Vì vậy, ngày nay khi trên thế giới rất nhiều quốc gia đã có luật tiếp cận thông tin thì khái niệm quyền tiếp cận thông tin ở nước ta vẫn còn khá mới mẻ. Để quyền tiếp cận thông tin được thực hiện đúng nội dung, mục đích thì phải tiếp tục thay đổi nhận thức, phải giáo dục cho cả nhân dân và cán bộ, công chức nhà nước về địa vị của nhân dân, vai trò của nhà nước trong xã hội, về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân trong những điều kiện, hoàn cảnh quản lí mới, về mục đích, giá trị của quyền tiếp cận thông tin để người dân không thờ ơ cũng không lợi dụng quyền và cán bộ, công chức không gây trở ngại cho việc thực hiện quyền quan trọng này.

4. Điều kiện về tổ chức bộ máy, nhân sự

Tương ứng với quyền tiếp cận thông tin của công chúng là nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Cũng như thực hiện bất cứ nghĩa vụ nào khác, nhà nước cần phải có tổ chức bộ máy và nhân sự hợp lí để thực hiện nghĩa vụ này.

Hiện nay pháp luật Việt Nam mới qui định công dân có quyền được thông tin. Quyền này coi trọng sự chủ động trong việc cung cấp thông tin từ phía nhà nước hơn là sự chủ động yêu cầu được cung cấp thông tin của người dân và mặc dù không có qui định rõ ràng nhưng thực tế cho thấy phạm vi thông tin, lượng thông tin được cung cấp khá hạn chế. Khác với quyền được thông tin, quyền tiếp cận thông tin nhấn mạnh sự chủ động yêu cầu cung cấp thông tin của người dân và theo kinh nghiệm của các quốc gia đã có luật tiếp cận thông tin thì phạm vi thông tin mà người dân có quyền yêu cầu cung cấp rất rộng và đa dạng. Điều đó có nghĩa là khối lượng công việc mà cán bộ, công chức phải làm để đáp ứng quyền tiếp cận thông tin sẽ tăng vọt so với đáp ứng quyền được thông tin nên đương nhiên cần phải có bộ máy và nhân sự phù hợp.

Thứ nhất, bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy của từng cơ quan nhà nước nói riêng phải được tổ chức sao cho trong hầu hết các trường hợp có thể xác định được những thông tin mà người dân yêu cầu được nắm giữ bởi cơ quan hay cá nhân nào. Trên cơ sở đó, trong phần lớn các trường hợp người dân có thể biết cơ quan nào đang nắm giữ thông tin mình cần để đưa ra yêu cầu và cơ quan nhận được yêu cầu cung cấp thông tin nếu không nắm giữ thông tin được yêu cầu thì có thể dễ dàng xác định để chuyển yêu cầu hoặc chỉ dẫn người yêu cầu đến đúng địa chỉ có thông tin mà họ muốn tiếp cận. Mặt khác, do sự phối hợp hoạt động và kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước với nhau nên một thông tin hoặc một số thông tin liên quan đến nhau có thể được nắm giữ bởi những cơ quan, cán bộ, công chức khác nhau mà không phải ai trong số đó cũng nắm giữ đầy đủ những thông tin đó. Nếu thông tin được cung cấp không đầy đủ thì sự đánh giá, nhìn nhận về các vấn đề liên quan không tránh khỏi sai lệch làm cho quyền tiếp cận thông tin mất đi giá trị tích cực vốn có. Vì vậy, cần có cơ chế phối hợp, liên thông giữa các cơ quan để khi người dân yêu cầu thì một trong số các cơ quan, cán bộ, công chức đang nắm giữ một phần thông tin có thể dễ dàng có đầy đủ thông tin để cung cấp, hoặc phối hợp với các cơ quan, cán bộ, công chức có liên quan cùng cung cấp thông tin, đảm bảo tính toàn diện của thông tin được tiếp cận.

Thứ hai, phải có người trực tiếp chịu trách nhiệm cung cấp thông tin. Quyền tiếp cận thông tin của công chúng không thể thực hiện được nếu không có những con người cụ thể được xác định là có trách nhiệm cung cấp thông tin. Người cung cấp thông tin có thể chính là người đang nắm giữ thông tin, có thể là cán bộ chuyên trách. Trong trường hợp người cung cấp thông tin là người đang nắm giữ thông tin thì việc cung cấp thông tin có thuận lợi là người cung cấp thông tin có sẵn thông tin được yêu cầu, người đó cũng biết rõ nội dung của từng thông tin, hình thức tồn tại và giá trị của nó nên có thể hướng dẫn cho người tiếp cận thông tin cách thức, phạm vi tiếp cận thông tin phù hợp nhất với mục đích tiếp cận của họ. Tuy nhiên, người nắm giữ thông tin trong trường hợp này cũng thường là người mà một phần hay toàn bộ hoạt động của họ được phản ánh trong các thông tin đó nên lại tiềm ẩn nguy cơ người có nghĩa vụ cung cấp thông tin không muốn cung cấp những thông tin bất lợi cho mình. Vì vậy, nếu không có cơ chế kiểm soát hữu hiệu thì việc cung cấp thông tin có thể bị lệch theo hướng bảo đảm an toàn cho người cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng người có trách nhiệm cung cấp thông tin trong trường hợp này không chỉ có nghĩa vụ cung cấp thông tin còn phải thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng khác xuất phát từ vị trí, vai trò của họ trong cơ quan và vị trí, vai trò của cơ quan họ trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, cần lưu ý khả năng họ chú ý thực hiện những nhiệm vụ đó mà xao lãng nhiệm vụ cung cấp thông tin. Hơn nữa, như trên đã nói, có những thông tin mà nhiều cơ quan, cán bộ, công chức nắm giữ những phần khác nhau. Vậy nên, nếu người yêu cầu cung cấp thông tin đưa yêu cầu đến một trong số các chủ thể đó thì lại cần có cơ chế sao cho người được yêu cầu cung cấp có thể dễ dàng có được phần còn lại của thông tin ngoài phần mà họ đang trực tiếp nắm giữ hay phối hợp hài hòa trong việc cung cấp thông tin mà không đùn đẩy trách nhiệm cung cấp thông tin cho các chủ thể khác. Trong trường hợp người cung cấp thông tin là cán bộ chuyên trách thì lại có những ưu, nhược điểm gần như ngược lại trường hợp trên. Ưu điểm chính là thông tin được yêu cầu cung cấp không liên quan, phản ánh trực tiếp hoạt động của người có trách nhiệm cung cấp nên tránh được khả năng cung cấp thông tin sai lệch do phải bảo đảm an toàn cho người cung cấp. Người cung cấp thông tin cũng chỉ có nhiệm vụ chính là cung cấp thông tin nên không bị chi phối bởi nhu cầu phải hoàn thành các nhiệm vụ khác. Việc đầu tư các phương tiện kĩ thuật nhằm cung cấp thông tin được tập trung vào một số ít đầu mối nên cũng tiết kiệm đáng kể cho ngân sách nhà nước. Nhược điểm ở đây là người có trách nhiệm cung cấp thông tin không trực tiếp nắm giữ thông tin được yêu cầu nên việc có được thông tin để cung cấp hay không phụ thuộc vào sự hợp tác của các chủ thể đang nắm giữ thông tin. Vì vậy, nếu có cơ chế ràng buộc trách nhiệm hữu hiệu thì việc cung cấp thông tin sẽ khá khách quan và chuyên nghiệp.

Mỗi trường hợp nói trên có những ưu, nhược điểm nhất định. Việc lựa chọn khả năng nào hay kết hợp cả hai khả năng để xác định người có trách nhiệm cung cấp thông tin cần phải xem xét nhiều yếu tố như tính chất thông tin được yêu cầu; năng lực, đạo đức cán bộ; cơ chế phối, kết hợp, kiểm tra, giám sát hoạt động giữa các cá nhân trong một cơ quan, giữa các cơ quan nhà nước với nhau thì quyền tiếp cận thông tin của người dân mới được bảo đảm.

Thứ ba, cơ quan giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền tiếp cận thông tin. Khi người dân yêu cầu cung cấp thông tin có thể có trường hợp yêu cầu đó không được đáp ứng hay được đáp ứng nhưng không đúng qui định của pháp luật hoặc ảnh hưởng bất lợi đến quyền và lợi ích của người yêu cầu hay của người thứ ba. Khi đó có thể có tranh chấp phát sinh và tranh chấp này cần được giải quyết. Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng là vấn đề cần được cân nhắc. Vì tranh chấp này có những điểm khác biệt đáng kể so với tranh chấp hành chính theo pháp luật Việt Nam hiện hành nên nếu giao loại tranh chấp này cho cơ quan giải quyết khiếu nại hiện nay giải quyết thì phải có những thay đổi trong pháp luật giải quyết khiếu nại về những vấn đề như mục đích khiếu nại không chỉ là khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm hại mà còn có mục đích phòng ngừa sai phạm; người có quyền khiếu nại không chỉ giới hạn là người có quyền, lợi ích bị xâm hại trực tiếp mà là tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội; người bị khiếu nại cũng không chỉ là cán bộ, công chức, cơ quan hành chính nhà nước mà là tất cả các cá nhân, tổ chức có sử dụng quyền lực nhà nước đang nắm giữ, quản lí thông tin công… Đồng thời, do phạm vi thông tin được tiếp cận sẽ tương đối rộng nên tính chất giám sát hoạt động công một cách toàn diện của quyền tiếp cận thông tin sẽ được thể hiện rõ rệt và vì thế mà khiếu nại liên quan đến quyền tiếp cận thông tin có thể động chạm đến lợi ích, uy tín của các cơ quan, cán bộ, công chức nhiều hơn so với khiếu nại hành chính theo quan niệm truyền thống. Vì vậy, nếu muốn chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là cơ quan giải quyết khiếu nại hiện nay thì cần chú ý đảm bảo mức độ khách quan, vô tư của người giải quyết tranh chấp. Nếu lựa chọn tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền tiếp cận thông tin thì lại cần quan tâm đến sự hạn chế của tòa án về những kiến thức chuyên môn trong nội dung các thông tin được yêu cầu cung cấp cũng như hoạt động quản lí có liên quan. Nếu thành lập một loại cơ quan chuyên biệt để giải quyết các tranh chấp này thì điều quan trọng là xác định vị trí, tính chất của cơ quan đó trong bộ máy nhà nước, yêu cầu về năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức trong cơ quan đó để sao cho cơ quan này có thể hoạt động độc lập, khách quan, hiệu quả. Dù lựa chọn loại cơ quan nào để giải quyết tranh chấp này cũng cần phải chú ý đến những điểm đặc thù của loại tranh chấp này thì việc giải quyết mới có tác động tích cực đối với việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin.

5. Điều kiện về pháp luật

Trong số các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền tiếp cận thông tin, điều kiện về pháp luật là điều kiện có ý nghĩa quyết định trực tiếp vì khi được pháp luật qui định thì quyền này sẽ được bảo đảm thực hiện bằng những phương tiện pháp lí cần thiết, mọi hành vi vi phạm hay cản trở thực hiện quyền này đều có thể dẫn tới những trách nhiệm pháp lí tương ứng. Những vấn đề cơ bản pháp luật cần qui định về quyền tiếp cận thông tin gồm: nội dung, phương thức thực hiện quyền, giới hạn thực hiện quyền, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền.

Thứ nhất, các qui định về nội dung và phương thức thực hiện quyền

Trước hết, cần xác định quyền tiếp cận thông tin là gì. Trong một số tài liệu, quyền tiếp cận thông tin được coi là đồng nhất với quyền được thông tin[iv]. Tuy nhiên, như trên đã nói, quyền được thông tin thì ưu thế trong việc quyết định có cung cấp thông tin hay không, cung cấp loại thông tin gì, bằng phương thức nào, vào thời điểm nào thuộc về nhà nước. Đối với người dân, quyền này dường như mang tính thụ động, là một sự thụ hưởng khi nhà nước cho phép. Trong khi đó, quyền tiếp cận thông tin mang sắc thái chủ động từ phía công dân nhiều hơn và chính sự chủ động này mới là điều mong muốn của các quốc gia khi qui định và tổ chức thực hiện quyền tiếp cận thông tin vì nó giúp cho công chúng tăng khả năng kiểm soát hoạt động và tham gia quá trình ra các quyết sách của nhà nước. Vì vậy, không nên đánh đồng quyền được thông tin với quyền tiếp cận thông tin. Quyền tiếp cận thông tin là quyền chủ động yêu cầu cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức có thẩm quyền cung cấp thông tin công đang được nắm giữ, quản lí bởi các cơ quan công quyền theo phạm vi, cách thức pháp luật qui định. Bên cạnh đó, thế nào là thông tin công và các dạng tồn tại của chúng cũng cần được xác định phù hợp với thực tế để cả công chúng và người có trách nhiệm cung cấp thông tin biết về nguyên tắc những thông tin nào có thể được tiếp cận và được tiếp cận ở dạng thức nào. Chẳng hạn, do sự ứng dụng các thành tựu khoa học, kĩ thuật trong hoạt động của nhà nước mà thông tin hiện nay không chỉ được lưu giữ dưới dạng giấy tờ mà còn dưới các dạng điện tử như đĩa mềm, thẻ nhớ và nhiều dạng vật chất khác.

Vấn đề thực hiện quyền, các quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu tiếp cận thông tin, của người cung cấp thông tin cần được pháp luật qui định cụ thể, rõ ràng đủ để công dân dễ dàng thực hiện quyền và ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể công. Những qui định về nội dung này có thể bao gồm: một là, qui định nơi tiếp nhận yêu cầu tiếp cận thông tin. Để nêu cao tinh thần trách nhiệm của người tiếp cận thông tin cũng như tiết kiệm thời gian cho các cơ quan nhà nước, cần qui định người yêu cầu cung cấp thông tin phải gửi yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp khó xác định thẩm quyền cung cấp thông tin thì pháp luật nên qui định một cơ quan trung gian nào đó có thể tiếp nhận yêu cầu, xem xét và chuyển yêu cầu tới cơ quan có thẩm quyền. Hai là, qui định trách nhiệm của công dân khi đưa yêu cầu. Yêu cầu phải được thể hiện bằng hình thức thích hợp như bằng đơn, thông qua hộp thư điện tử, fax hay yêu cầu trực tiếp và phải thể hiện đủ rõ để xác định được thông tin mà người yêu cầu tiếp cận là thông tin gì, phạm vi tiếp cận đến đâu (về thời gian, nội dung). Người yêu cầu cũng phải cung cấp những thông tin nhất định về bản thân người yêu cầu để người cung cấp thông tin có thể liên lạc được với họ. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới thì người yêu cầu không cần phải nêu mục đích việc tiếp cận thông tin nhưng người có thẩm quyền cũng có thể xem xét trường hợp yêu cầu tiếp cận thông tin hoàn toàn không có lí do chính đáng. Chẳng hạn, khoản a Điều 45 Luật số 2, 2000 luật thúc đẩy tiếp cận thông tin 2000 của Cộng hòa Nam phi qui định “Quan chức thông tin của một chủ thể công cộng có thể từ chối một yêu cầu tiếp cận thông tin nếu: a, yêu cầu rõ ràng mang tính chất thiếu nghiêm túc”. Ba là, qui định trách nhiệm tiếp cận thông tin, số lần và khoảng cách giữa các lần yêu cầu tiếp cận đối với một thông tin. Để nâng cao trách nhiệm của công chúng, tránh sự làm phiền quá đáng đối với cơ quan, công chức nhà nước, pháp luật cần qui định khi được phép tiếp cận thông tin đối với một thông tin cụ thể, người yêu cầu cung cấp thông tin phải tiếp cận thông tin theo cách thức và trong một thời hạn nhất định. Nếu quá thời hạn đó, người yêu cầu không tiếp cận thông tin thì coi như người đó từ chối quyền tiếp cận thông tin, trừ trường hợp có lí do chính đáng. Đồng thời cũng nên qui định với một thông tin cụ thể, một người chỉ được yêu cầu tiếp cận tối đa là mấy lần và khoảng cách giữa các lần yêu cầu. Chẳng hạn, Điều 37 Luật tiếp cận thông tin của Bulgary không cho phép tiếp cận thông tin nếu yêu cầu đó đã được cho phép đối với người nộp đơn trong khoảng thời gian 6 tháng trước đó. Bốn là, qui định trách nhiệm của công chức có thẩm quyền cung cấp thông tin. Khi nhận được yêu cầu, người có thẩm quyền cung cấp thông tin trong một thời hạn nhất định phải thông báo cho người yêu cầu biết về việc tiếp nhận yêu cầu, nếu yêu cầu không được tiếp nhận phải nêu rõ lí do, nếu yêu cầu được chuyển đến cơ quan khác thì phải thông báo cho người yêu cầu biết. Pháp luật cần qui định cụ thể các cơ sở để từ chối yêu cầu tiếp cận thông tin nhằm tránh sự tùy tiện của người có thẩm quyền cung cấp thông tin. Nếu yêu cầu được chấp nhận thì trong thời hạn nhất định, người có thẩm quyền cung cấp thông tin phải tạo điều kiện cho người yêu cầu được tiếp cận thông tin, hướng dẫn họ tiếp cận thông tin như cho nghiên cứu thông tin tại chỗ, xem hình, nghe băng hay cung cấp cho họ bản sao các loại tài liệu dưới dạng thích hợp. Để tránh sự trì hoãn giải quyết yêu cầu tiếp cận thông tin, có nước còn qui định chỉ những trường hợp pháp luật qui định, người có thẩm quyền cung cấp thông tin mới có quyền gia hạn giải quyết yêu cầu và phải được người yêu cầu đồng ý bằng văn bản, người yêu cầu có quyền khiếu nại về việc gia hạn đó[v]. Các khoản chi phí mà người yêu cầu phải chịu như phí tiếp cận thông tin, chi phí cho việc sao tài liệu cũng cần được qui định đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước và công dân, chẳng hạn miễn phí trong trường hợp việc tiếp cận thông tin nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công, giảm mức phí đối với các đối tượng chính sách…Luật tiếp cận thông tin Nhật bản còn đặc biệt chú ý khả năng chi trả của người yêu cầu khi quyết định mức phí[vi]

Thứ hai, các qui định về giới hạn quyền tiếp cận thông tin. Vì thông tin rất đa dạng, phong phú và được bổ sung thường xuyên nên về cơ bản khó có thể qui định cụ thể những thông tin nào người dân được quyền tiếp cận mà chỉ có thể qui định những loại thông tin người dân không được quyền tiếp cận và những loại thông tin được tiếp cận một cách hạn chế (chỉ được tiếp cận khi có những điều kiện nhất định). Mặt khác, qui định giới hạn quyền tiếp cận thông tin bằng cách này rất phù hợp với nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Về căn bản, pháp luật chỉ cấm những gì mà việc thực hiện chúng gây nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, nhà nước cần phải thật khách quan khi xác định những loại thông tin không được tiếp cận hoặc tiếp cận một cách hạn chế. Về nguyên tắc, thông tin không được tiếp cận hoặc chỉ được tiếp cận hạn chế là những thông tin mà việc tiếp cận có thể gây tác động xấu, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại quyền, lợi ích chính đáng của xã hội, nhà nước, tập thể, cá nhân. Thông thường đó là những thông tin liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật cơ quan, thông tin liên quan đến vụ án hình sự trong quá trình tố tụng, thông tin mà việc cung cấp có thể gây hiểu lầm, thông tin về đời tư của cá nhân, thông tin về thương mại của các tổ chức kinh tế. Trong đó có những thông tin hoàn toàn không được tiếp cận như thông tin liên quan đến bí mật nhà nước, có những thông tin có thể được tiếp cận khi có đủ điều kiện chứng tỏ việc tiếp cận thông tin không gây nguy hiểm cho các chủ thể có liên quan. Ví dụ, có những thông tin trong một vụ án không được tiếp cận trong quá trình đang xử lí vụ án đó, nhưng nếu vụ án đã kết thúc thì có thể tiếp cận; thông tin liên quan đến đời tư của cá nhân có thể được tiếp cận khi được sự đồng ý của cá nhân đó hoặc sau khi họ chết một khoảng thời gian nhất định. Có trường hợp thông tin được yêu cầu nằm trong thể thống nhất với các thông tin khác không thể chia tách mà phần khác của thông tin thuộc loại thông tin không được tiếp cận thì thông tin được yêu cầu cũng sẽ không được phép tiếp cận. Đối với một số thông tin không thuộc loại bắt buộc phải công khai thì cần qui định cơ quan có thẩm quyền quyết định khi nào thì những thông tin đó được phép tiếp cận. Ví dụ, có những thông tin thuộc bí mật nhà nước, thông tin liên quan đến quá trình giải quyết một vụ việc cụ thể sau một khoảng thời gian nào đó việc tiếp cận sẽ không còn khả năng gây hậu quả xấu nữa thì cần cho phép công chúng tiếp cận nếu có nhu cầu. Như vậy, quyền tiếp cận thông tin chỉ được thực hiện nếu việc thực hiện đó không làm tổn hại hoặc có nguy cơ gây tổn hại đến các quyền và lợi ích chính đáng khác. Vì vậy, đối với các thông tin không được tiếp cận hoặc tiếp cận có điều kiện đôi khi cũng có ngoại lệ mà pháp luật cần dự liệu. Chẳng hạn việc tiếp cận thông tin đó thực sự là cần thiết nhằm làm rõ hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc nguy cơ sắp xảy ra đe dọa sự an toàn của cộng đồng, của môi trường. Lẽ dĩ nhiên, trường hợp này, lợi ích cần bảo vệ phải lớn hơn thiệt hại có thể gây ra do việc cung cấp thông tin. Vấn đề cần lưu ý là pháp luật phải qui định sao cho quyền tiếp cận thông tin không bị lạm dụng, phải bảo vệ được các quyền và lợi ích khác nhau trong mối tương quan hợp lí. Do đó, pháp luật cần qui định cụ thể những loại thông tin nào không được phép tiếp cận, thông tin nào được phép tiếp cận có điều kiện và điều kiện để tiếp cận là gì, những ngoại lệ có thể có và điều kiện áp dụng những ngoại lệ đó để không vô tình hay cố ý hạn chế quyền tiếp cận  thông tin của công chúng.

Thứ ba, các qui định bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin

Một là, qui định các thông tin nhà nước chủ động công khai và cách thức công khai các thông tin đó. Công khai hóa, minh bạch hóa các hoạt động công quyền là yêu cầu cấp thiết của tất cả các quốc gia trên thế giới trong những năm gần đây vì nhiều lí do khác nhau. Đặc biệt là khi thế giới phải thừa nhận rằng “Tham nhũng là hiện tượng hiện đang vượt qua các biên giới quốc gia và ảnh hưởng đến mọi xã hội và nền kinh tế” và “Các vụ tham nhũng liên quan đến số lượng lớn tài sản, chiếm một phần quan trọng nguồn lực của các quốc gia, và việc sử dụng sai trái nguồn lực này sẽ gây hại nghiêm trọng cho ổn định chính trị và phát triển bền vững của các nước đó[vii] thì tính công khai, minh bạch trong hoạt động của nhà nước được coi là phương cách hữu hiệu kiềm chế tham nhũng. Đây cũng là lí do chính cho sự ra đời của quyền tiếp cận thông tin- quyền có giá trị cơ bản là đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động công, giúp nhân dân kiểm soát hoạt động của nhà nước. Quyền này phải được thực hiện sao cho vừa thuận tiện cho dân, vừa tiết kiệm cả thời gian, sức người, sức của cho nhà nước. Để làm được điều đó, pháp luật các nước đều qui định những loại thông tin bắt buộc các cơ quan nhà nước phải chủ động công khai không cần có yêu cầu của bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Việc công khai thông tin giúp cho công chúng có thể tiếp cận dễ dàng mà không cần thông qua bất cứ một thủ tục phức tạp nào. Phần lớn các nước qui định những thông tin bắt buộc phải công khai gồm: thông tin về các văn bản pháp qui; các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội; các dữ liệu thống kê, các báo cáo tài chính; thông tin liên quan đến các chính sách, biện pháp quản lí kinh tế, xã hội; thông tin về việc cung cấp dịch vụ, đấu thầu cung cấp dịch vụ; thông tin về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng; phân phối tiền trợ cấp; các nghiên cứu, thống kê là phần không thể tách rời những thông tin về khả năng, lí do ban hành một quyết định, kế hoạch…[viii]. Các thông tin này phải được công bố công khai bằng những hình thức thuận lợi nhất cho việc tiếp cận của công chúng như đưa trên các website của các cơ quan, đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành các ấn phẩm, thông báo trên bảng tin của cơ quan… Quyền tiếp cận thông tin cũng là một phương cách thu hút nhân dân tham gia quá trình ra quyết định của các chủ thể công nên công khai hóa các thông tin liên quan đến quá trình xây dựng văn bản qui phạm pháp luật, xây dựng chính sách rất được chú ý. Ở Việt Nam tuy chưa có luật tiếp cận thông tin nhưng nhiều thông tin trong số các loại thông tin trên đã được nhà nước chủ động công khai hoặc pháp luật qui định bắt buộc phải công khai. Chẳng hạn, pháp luật qui định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật phải được đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan soạn thảo, cơ quan ban hành[ix]. Việc đăng tải toàn văn các dự thảo văn bản qui phạm pháp luật đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của nhân dân vào các hoạt động của nhà nước. Một mặt, tạo điều kiện cho nhân dân đóng góp ý kiến cho các dự thảo văn bản, mặt khác, đây là hình thức thông tin sớm về các quyết sách của nhà nước để nhân dân có thể chuẩn bị các điều kiện về tinh thần, vật chất cho việc thực hiện chúng, tránh những tác động quá bất ngờ gây xáo trộn đời sống xã hội. Điều 79 qui định văn bản qui phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản qui phạm không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và văn bản qui định biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp hoặc để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh chưa kịp đăng Công báo. Công khai hóa các văn bản qui phạm pháp luật là yêu cầu tất yếu đối với nhà nước pháp quyền khi mà pháp luật được coi là yếu tố điều chỉnh xã hội quan trọng nhất thì mọi đối tượng tác động của pháp luật phải biết pháp luật có những qui định nào liên quan đến mình thì mới có thể thực hiện pháp luật đầy đủ và nghiêm túc.

Không nhằm mục đích hạn chế mà đơn giản là để thuận tiện cho công chúng, các cơ quan nhà nước có thể định kì công bố danh mục các tài liệu được tiếp cận, cách thức tiếp cận, phí tiếp cận thông tin. Việc công bố này giúp cho phần lớn công dân- những người không phải là các chuyên gia pháp lí- không cần tìm hiểu nhiều các qui định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin cũng có thể biết những thông tin cụ thể nào họ có thể tiếp cận.

Hai là, qui định trách nhiệm của công chức, cơ quan, tổ chức lưu giữ, cung cấp thông tin, thủ tục đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin. Các thông tin công thuộc loại được tiếp cận cần được lưu giữ dưới các dạng thuận tiện cho việc tiếp cận. Trong trường hợp cần thiết, những thông tin thể hiện dưới dạng lời nói hay thông tin về các hoạt động cụ thể phải được văn bản hóa hoặc được ghi âm. Chẳng hạn, Luật Khiếu nại, tố cáo qui định nội dung khiếu nại phải được thể hiện bằng đơn hoặc được cán bộ tiếp dân ghi lại, có chữ kí của người khiếu nại. Nội dung tố cáo phải được thể hiện bằng đơn hoặc được cán bộ tiếp dân ghi lại hoặc ghi âm lời tố cáo. Việc gặp gỡ, đối thoại trực tiếp của người giải quyết khiếu nại với người khiếu nại, người bị khiếu nại phải lập thành biên bản… Nếu những thông tin như vậy không được lưu lại bằng những hình thức thích hợp thì việc tiếp cận thông tin đó sẽ rất khó khăn.

Khi nhận được yêu cầu tiếp cận thông tin, công chức có trách nhiệm cung cấp thông tin phải xác định thông tin được yêu cầu có thuộc loại được tiếp cận không, người yêu cầu có rơi vào trường hợp không được tiếp cận thông tin không. Ở đây pháp luật cần qui định thời hạn xem xét yêu cầu cung cấp thông tin và thời hạn cung cấp thông tin. Kể từ khi tiếp nhận yêu cầu, công chức cung cấp thông tin phải xem xét và quyết định cho phép tiếp cận thông tin hay từ chối yêu cầu tiếp cận thông tin. Trong trường hợp từ chối yêu cầu thì phải nêu rõ lí do. Nếu quá thời hạn pháp luật qui định mà công chức cung cấp thông tin không trả lời người yêu cầu thì coi như từ chối cung cấp thông tin và người dân có quyền đưa yêu cầu lên cấp trên hoặc khiếu nại về hành vi từ chối cung cấp đó. Trong thời hạn cung cấp thông tin, công chức cung cấp thông tin phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người có yêu cầu được tiếp cận thông tin. Các chế tài cần thiết cũng được đặt ra đối với công chức cung cấp thông tin giả mạo, chậm trễ trong việc cung cấp hay từ chối cung cấp thông tin trong trường hợp yêu cầu hợp pháp và chính đáng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần qui định người không có trách nhiệm cung cấp thông tin mà cung cấp thông tin có thể phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi cung cấp thông tin của mình.

Ba là, qui định trách nhiệm báo cáo về hoạt động đáp ứng quyền tiếp cận thông tin. Nếu tiếp cận thông tin công là quyền của nhân dân thì tương ứng với quyền đó là nghĩa vụ cung cấp thông tin của các chủ thể công. Cũng như mọi hoạt động khác, hoạt động đáp ứng quyền tiếp cận thông tin phải được kiểm soát bởi các chủ thể có thẩm quyền. Pháp luật cần qui định các chủ thể công có trách nhiệm định kì báo cáo công tác này trước các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nội dung báo cáo phải hàm chứa các thông tin về số lượng, nội dung yêu cầu đã nhận được; số lượng yêu cầu đã được đáp ứng, đã bị từ chối; số lượng, nội dung khiếu nại liên quan đến quyền tiếp cận thông tin… Các báo cáo này cho phép nhà nước đánh giá nhận thức, nhu cầu, mức độ quan tâm của công chúng đối với từng lĩnh vực hoạt động của nhà nước, khả năng đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin của các chủ thể công, năng lực công chức có trách nhiệm cung cấp thông tin và các vấn đề khác có liên quan. Trên cơ sở đó, nhà nước có thể đưa ra các qui định, thay đổi cơ cấu bộ máy nhà nước, điều chỉnh nhân lực để quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm thực hiện có hiệu quả phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội.

Bốn là, qui định về quyền của bên thứ ba. Trong số các thông tin mà công chúng được phép tiếp cận có những thông tin liên quan đến tổ chức, cá nhân không phải là người yêu cầu hay người cung cấp thông tin. Các tổ chức, cá nhân đó được gọi là bên thứ ba. Như trên đã nói, việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin không được gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của bất cứ cá nhân, tổ chức nào, trừ trường hợp vì phải bảo vệ một lợi ích lớn hơn. Vì vậy, trong trường hợp công chức cung cấp thông tin xét thấy thông tin được yêu cầu liên quan đến thông tin cá nhân hoặc thông tin thương mại của bên thứ ba mà việc cung cấp có thể gây tổn hại cho họ thì người có trách nhiệm cung cấp thông tin phải thông báo cho bên thứ ba biết về yêu cầu tiếp cận thông tin đó và họ, tên người yêu cầu tiếp cận thông tin. Trong trường hợp này, bên thứ ba có quyền yêu cầu không cung cấp thông tin hay đồng ý cho cung cấp thông tin. Nếu không đồng ý cho cung cấp thông tin thì phải nêu rõ lí do. Nếu người có trách nhiệm cung cấp thông tin vẫn quyết định cung cấp thông tin thì phải thông báo việc cung cấp thông tin đó cho bên thứ ba biết. Bên thứ ba có quyền khiếu nại về việc cung cấp thông tin.

Năm là, qui định về giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền tiếp cận thông tin. Trong quá trình thực hiện quyền tiếp cận thông tin chắc chắn sẽ có những trường hợp người dân không đồng ý với các hành vi, quyết định của các chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin. Khi đó tranh chấp liên quan đến quyền tiếp cận thông tin đã nảy sinh và cần được giải quyết. Như trên đã nói, việc giải quyết tranh chấp này có thể thực hiện bằng con đường giải quyết tranh chấp hành chính hiện nay ở nước ta là khiếu nại, giải quyết khiếu nại và khởi kiện vụ án, giải quyết tranh chấp tại tòa án, hoặc chỉ trao quyền giải quyết tranh chấp cho tòa án, hoặc thành lập một loại cơ quan chuyên trách giải quyết loại tranh chấp này. Cho dù chọn giải pháp nào thì pháp luật cũng phải có những qui định về các vấn đề: ai có quyền được đưa tranh chấp tới cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết; những hành vi, quyết định nào thì được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét lại về tính hợp pháp, hợp lí; ai có thẩm quyền giải quyết tranh chấp; thủ tục giải quyết tranh chấp; quyền, nghĩa vụ của các bên tranh chấp, người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và những người có liên quan. Các qui định về giải quyết tranh chấp có giá trị bảo đảm quyền tiếp cận thông tin phải được các chủ thể công tôn trọng, tạo điều kiện thực hiện đúng qui định của pháp luật.

Tóm lại, tiếp cận thông tin là quyền thiết yếu của công chúng trong xã hội dân chủ hiện đại. Việc thừa nhận, ghi nhận, bảo đảm thực hiện quyền này trên thực tế phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi thời kì. Cùng với việc học hỏi kinh nghiệm của các nước khác, Việt Nam cần cân nhắc, xem xét tất cả các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể của đất nước để cụ thể hóa quyền tiếp cận thông tin của công chúng sao cho quyền này vừa là phương thức để nhân dân kiểm soát hoạt động của nhà nước một cách hữu hiệu, vừa thu hút mọi người dân tham gia tích cực vào việc giải quyết các công việc chung của quốc gia, của cộng đồng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.

                               

                                  Chuyên đề 7

THỦ TỤC THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG       TIN,THỦ TỤC KHIẾU NẠI, KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

 (Bài viết dựa trên kinh nghiệm của 10 nước trên thế giới về vấn đề này và kiến nghị đối với Việt Nam)

 

TS. Nguyễn Kim Thoa

 

1.Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin

1.1 Kinh nghiệm quốc tế về thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin

  Qua báo cáo nghiên cứu của ông Toby cho thấy, để quyền tiếp cận thông tin được thực hiện một cách hiệu quả, thì cần có một quy trình cung cấp thông tin nhanh chóng, đơn giản và hợp lý và cần có một thiết chế độc lập xem xét giải quyết bất kỳ sự từ chối nào. Cũng theo ông, tất cả các cơ quan công/công quyền cần phải thiết lập một hệ thống thông tin mở, có thể tiếp cận được để đảm bảo rằng người dân thực hiện được quyền tiếp nhận thông tin. Nói chung, mỗi cơ quan cần chỉ định một cán bộ chịu trách nhiệm đối với việc tiếp nhận và xử lý yêu cầu cung cấp thông tin và đảm bảo tuân thủ pháp luật. Các cơ quan công/công quyền cũng cần được qui định giúp đỡ hay hỗ trợ những người có yêu cầu mà yêu cầu của họ liên quan đến những thông tin đã đăng tải, hoặc không rõ ràng, quá rộng khi cần tập hợp ban hành lại. Các cơ quan công quyền không nhất thiết phải cung cấp cho cá nhân yêu cầu về thông tin trong một ấn phẩm đã xuất bản nhưng trong trường hợp đó cơ quan nên hướng dẫn họ tìm tới nguồn thông tin đã xuất bản hay đã được đăng tải ở địa chỉ cụ thể. Luật cần qui định thời hạn cho việc giải quyết xử lý những yêu cầu và phải đặt ra trách nhiệm trả lời bằng văn bản về lý do từ chối cung cấp thông tin theo yêu cầu. Đối với các đối tượng chịu thiệt thòi trong xã hội, như người khiếm thính, người mù... cũng cần có cơ chế để giúp họ thực hiện quyền tiếp cận thông tin.

          Thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, về cơ bản, được thể hiện ở các khía cạnh: thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin phải công bố công khai rộng rãi các thông tin; thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định quyền yêu cầu cung cấp các thông tin; quy định thời hạn hợp lý được tiếp cận thông tin, từ chói tiếp cận thông tin và bố trí đầu mối tiếp nhận thông tin.

 * Thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin phải công bố công khai rộng rãi các thông tin

         Để bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin một cách nhanh, rẻ, hiệu quả và kịp thời nhất, nhiều nước đã quy định trách nhiệm của các cơ quan nắm gĩư thông tin phải chủ động công bố một cách rộng rãi nhất, nhiều như có thể các thông tin mà mình đang nắm giữ. Cụ thể ở Slovenia, chỉ có một số ngoại lệ được quy định rõ trong Luật tiếp cận thông tin công và các ngoại lệ này phải được cân nhắc rất kỹ trước khi đưa ra quyết định từ chối cung cấp thông tin. Luật dành hẳn 1 điều (Điều 10) quy định trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin phải đăng trên mạng của cơ quan mình càc loại thông tin nhất định, đó là:

  1. Bản hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực hoạt động của cơ quan và có đường link đến địa chỉ trang web của cơ quan quốc gia về đăng ký văn bản pháp luật.
  2. Các chương trình, chiến lược, quan điểm và hướng dẫn chung về những vấn đề quan trọng trong quan hệ giữa cơ quan với cá nhân và pháp nhân nhằm tạo điều kiện cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ tương ứng của mình, các công trình nghiên cứu và các tài liệu tương tự liên quan đến lĩnh vực hoạt động của cơ quan;
  3. Đề xuất xây dựng văn bản pháp luật, chương trình, chiến lược và các tài liệu khác liên quan đến lĩnh vực hoạt động của cơ quan;
  4. Tất cả các ấn phẩm và tài liệu về đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu và giao dịch công;
  5. Thông tin về các hoạt động của cơ quan và các dịch vụ hành chính, tư pháp và các dịch vụ khác mà cơ quan cung ứng;
  6. Tất cả những thông tin đã được yêu cầu cung cấp ít nhất là 3 lần;
  7. Các thông tin công khác.

         Hay ở Ấn Độ, Luật về Quyền được thông tin của Ấn Độ quy định rất nhiều các nghĩa vụ về chủ động và lịch trình công bố. Mọi tổ chức công,  trong thời hạn 100 ngày kể từ ngày Luật có hiệu lực và theo đó được cập nhật hàng năm, phải công bố phạm vi của thông tin, gồm các nội dung sau: chi tiết về tổ chức, chức năng và nhiệm vụ; quyền và nghĩa vụ của nhân viên; qui trình thủ tục trong quá trình đưa ra những quyết định, hay bất cứ  một chỉ tiêu nào có thể chấp nhận việc đảm nhiệm chức năng; những quy định, nội quy, hướng dẫn và chỉ dẫn, các loại tài liệu lưu trữ và dưới dạng hình thức điện tử; hợp đồng tư vấn công liên quan đến việc hình thành hoặc thực hiện chính sách; miêu tả về các ban, uỷ ban, hội đồng và các cơ quan khác, và dù có hay không các cuộc thảo luận hay cuộc họp nào được tổ chức; giám đốc của các nhân viên và tiền lương của họ; ngân sách phân phối cho mỗi cơ quan và đặc biệt là cho các kế hoạch, đề xuất tiêu dùng và báo cáo về số tiền chi tiêu, thông tin về các chương trình trợ cấp và phúc lợi; đặc biệt về người nhượng quyền, giấy phép hay giấy uỷ quyền khác; phương tiện cho công dân để tiếp cận thông tin (bao gồm các phòng đọc); chi tiết liên lạc về thông tin các văn phòng, và các thông tin khác có thể được miêu tả. Các cơ quan công phải công bố mọi sự thật liên quan khi đưa ra chính sách hoặc thông qua các quyết định có thể ảnh hưởng đến cộng đồng, và đưa ra lí do cho những quyết định hành chính và quyết định mang tính chất tư pháp cho những bên liên quan (Điều 4).

Ở Mêhicô, Điều 7 của Luật quy định một nghĩa vụ về việc công bố, trừ các ngoại lệ. Điều này quy định các cơ quan nhà nước, căn cứ các quy định được công bố bởi IFAI (dành cho các cơ quan và chủ thể) hoặc những cơ quan giám sát khác có liên quan (đối với những cơ quan nhà nước khác phải thiết lập hoặc chỉ định các thiết chế riêng của mình), phải công bố 17 nhóm thông tin theo một cách thức có thể dễ tiếp cận và lĩnh hội được. Các nhóm bao gồm thông tin về hoạt động chung của cơ quan, các dịch vụ cung cấp, trình tự và mẫu, các chương trình trợ giúp, các hợp đồng được thực hiện, chi tiêu tài chính,  các báo cáo được đưa ra và các cơ hội tham gia. Luật bao gồm những quy định chi tiết về cách thức đưa ra thông tin, kể cả thông qua các phương tiện điện tử có thể tiếp cận được ở những địa phương xã và qua hệ thống sở tại.

Luật cũng quy định một số hướng dẫn cụ thể liên quan đến việc công bố thông tin. Theo Điều 8, nhánh tư pháp phải công bố tất cả các quyết định, cho dù các cá nhân có thể phản đối việc công bố thông tin của mình. Các cơ quan và chủ thể phải công bố tất cả các quyết định và những thoả thuận hành chính chính thức 20 ngày trước khi thông qua chúng, trừ khi điều này có thể không đưa đến thành công. Các báo cáo của các đảng phái và các nhóm chính trị gửi tới Viện bầu cử liên bang, cũng như các báo cáo kiểm toán chính thức của các cơ quan này, phải được công bố ngay khi hoàn tất (Điều 10-11). Các cơ quan cũng được yêu cầu phải tạo ra, dựa trên cơ sở  nửa năm một lần, một phụ lục các hồ sơ mà các cơ quan đã phân loại, chỉ ra số đơn vị tạo ra tài liệu và ngày và thời gian phân loại, và bản chỉ dẫn này trong bất cứ hoàn cảnh nào có thể không được coi là đã phân loại (Điều 17).

Ở nước Mỹ, Luật quy định mỗi cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin nhất định tại cơ quan đăng ký Liên bang, bao gồm những thông tin sau:

 

  • bản mô tả về tổ chức trung tâm và lĩnh vực của cơ quan/ tổ chức;
  • cách thức mà theo đó thông tin có thể được yêu cầu cung cấp/công khai;
  • tổng quan về các chức năng chung và tất cả các thủ tục chính thức và không chính thức;
  • quy định về thủ tục và sự mô tả tất cả các biểu mẫu và giấy tờ của cơ quan/tổ chức sản xuất;
  • tuyên bố chính sách và các quy định pháp luật về tính khả thi chung; và
  • bất kỳ có sự thay đổi về các nội dung nêu trên.

 

Luật đồng thời cũng yêu cầu cơ quan công quyền có trách nhiệm, phù hợp với quy định về công khai, tạo sự sẵn có của thông tin cho việc điều tra công cộng và sao chép thông tin. Các thông tin được tạo lập sau ngày 1/12/1996 phải có sẵn trên các phương tiện điện tử. Thông tin thuộc về phạm vi của quy định này bao gồm cả những ý kiến cuối cùng, lệnh, các tuyên bố về chính sách và sự giải thích và hướng dẫn nghiệp vụ của nhân viên hành chính. Ngoài ra, cơ quan công quyền phải duy trì danh mục tất cả tài liệu thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định này và danh mục này phải được công khai ít nhất một quý một lần (Điều 2, điểm a).

         Tại Nauy, Luật (Điều 10) quy định trách nhiệm của các cơ quan nắm giữ thông tin phải duy trì một chuyên san theo các quy định của Luật Lưu trữ và các văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, Nhà vua có thể quy định về việc các cơ quan hành chính có duy trì chuyên san điện tử sẽ phải công khai chuyên san đó trên Internet và quy định về cách thức thực hiện việc này. Ngay cả các cơ quan hành chính thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật có thể công bố công khai các tài liệu trên Internet trừ trường hợp các tài liệu đó có nghĩa vụ phải giữ bí mật hoặc phải giữ bí mật theo quy định của pháp luật. Nhà vua có thể quy định về việc công bố các tài liệu trên Internet và đối với một số dữ liệu cá nhân nhất định theo quy định của Điều 2 Khoản 1 Luật Dữ liệu cá nhân và các tài liệu mà bên thứ 3 có quyền sở hữu trí tuệ liên quan, thì sẽ không công bố dưới hình thức này.

 

          Thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua việc quy định quyền yêu cầu cung cấp các thông tin

Ở nước Nhật, Yêu cầu tiếp cân thông tin phải được thể hiện bằng văn bản, kể cả dưới hình thức mẫu điện tử, và phải thể hiện tên của người yêu cầu (hoặc tên của người đại diện, đối với cơ quan, tổ chức), địa chỉ và mô tả về tài liệu cần tìm kiếm với chi tiết đầy đủ để có thể tìm được. Luật không đòi hỏi phải có sự giải trình về lý do yêu cầu. Khi yêu cầu không đầy đủ, cơ quan nhà nước sẽ thông báo cho người yêu cầu và dành cho người yêu cầu thời gian hợp lý để hoàn chỉnh, đồng thời còn "nỗ lực" dành sự trợ giúp (Điều 4). Người đứng đầu các cơ quan nhà nước được yêu cầu phải cung cấp thông tin có ích cho người yêu cầu và còn phải thực hiện các biện pháp trợ giúp khác (Điều 23).

Tại Mêhicô, Bất kỳ cá nhân nào cũng có thể đưa ra yêu cầu tiếp cận thông tin với bộ phận liên lạc mà tất cả các cơ quan nhà nước phải thiết lập hoặc dưới dạng thư (kể cả thư điện tử) hoặc mẫu được quy định. Yêu cầu phải bao gồm tên và địa chỉ của người yêu cầu mô tả rõ ràng về thông tin cần tìm kiếm, những tình tiết liên liên quan khác và hình thức mà ở đó người yêu cầu muốn cung cấp thông tin. Luật quy định cụ thể rằng động cơ yêu cầu không liên quan đến việc quyết định có cung cấp thông tin cần tìm kiếm hay không. Nếu thông tin không được mô tả đầy đủ và rõ ràng, hoặc nếu các cá nhân gặp khó khăn trong việc đưa ra yêu cầu, kể cả do mù chữ, thì bộ phận liên lạc phải trợ giúp (Điều 40-41 và Quy định tạm thời thứ 8).

Ở Ấn Độ[84], Những đơn yêu cầu, được nêu ở Điều 6, phải được lập thành văn bản hoặc thông qua phương tiện điện tử phải lập bằng tiếng Anh, tiếng Ấn Độ hoặc tiếng của cơ quan thông tin có thẩm quyền tại địa phương (hoặc trung ương hoặc địa phương ). Tường hợp yêu cầu không được lập thành văn bản vì bất kỳ lý do nào, có thể do không biết chữ, khuyết tật không thể thể hiện thành văn bản..., thì nhân viên thông tin sẽ thực hiện tất cả sự giúp đỡ cần thiết với người yêu cầu.

Theo Luật của Mỹ, bất kỳ người nào cũng có thể yêu được tiếp cận/cung cấp thông tin. Nếu yêu cầu miêu tả hợp lý thông tin cần tìm, phù hợp với các quy định về công khai thông tin như thời gian, địa điểm, phí và tuân thủ đầy đủ thủ tục về yêu cầu cung cấp thông tin thì cơ quan công quyền phải cung cấp thông tin, trừ những thông tin là đối tượng của sự ngoại lệ (Điều  (a)(3)(A). Người yêu cầu không phải giải thích lý do về việc yêu cầu cung cấp. Nội dung sửa đổi Luật gần đây yêu cầu cơ quan công quyền phải xây dựng cơ sở dữ liệu cho việc yêu cầu và cung cấp cho người yêu cầu số thứ tự về yêu cầu của họ trong thời gian 10 ngày kể từ ngày gửi đơn yêu cầu.[85]

Luật về Tiếp cận thông tin của Canađa quy định các công dân Canada, người thường trú và các công ty ở Canada có quyền nộp đơn[86] yêu cầu tiếp cận một tài liệu (dưới dạng văn bản) và gửi tới cơ quan chính phủ có quyền kiểm soát đối với tài liệu, và sẽ phải cung cấp thông tin chi tiết đủ để một nhân viên có kinh nghiệm của cơ quan, với một cố gắng hợp lý cũng có thể tìm ra được tài liệu, để nhận được bản sao của các hồ sơ tài liệu do các cơ quan Chính phủ nắm giữ. 

         Theo Luật của Slovenia thì người yêu cầu tiếp cận thông tin có thể yêu cầu bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Yêu cầu tiếp cận thông tin bằng lời nói được coi là yêu cầu bằng hình thức không chính thống (Điều 14). Trong trường hợp yêu cầu bằng lời nói, cơ quan có trách nhiệm vẫn phải bảo đảm người đó được tiếp cận hoặc sử dụng lại thông tin, trừ các trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên,  yêu cầu bằng hình thức không chính thống không được coi là yêu cầu theo thủ tục hành chính được quy định tại Luật thủ tục hành chính, cho nên không có quyền khiếu nại.

 

Đối với yêu cầu thông tin bằng văn bản (Điều 15) thì người yêu cầu phải nêu các nội dung(Điều 17) sau: 

“(Những nội dung cần phải có trong đơn yêu cầu)

  1. Đơn yêu cầu phải nêu rõ cơ quan tiếp nhận yêu cầu; tên người, công ty hoặc pháp nhân, đại diện hoặc đại diện toàn quyền của người/công ty hoặc pháp nhân đó và địa chỉ của họ.
  2. Trong đơn yêu cầu tiếp cận thông tin, người yêu cầu phải nêu rõ:
  1. Thông tin mà họ muốn được tiếp cận;
  2. Cách thức mà người yêu cầu muốn tiếp cận nội dung của thông tin được yêu cầu (xem tại chỗ, được cung cấp bản ghi, bản sao hoặc bản sao điện tử).
  1. Người yêu cầu không phải nêu cơ sở pháp lý của việc yêu cầu và cũng không phải nêu lý do tiếp cận thông tin. Căn cứ vào tính chất và nội dung yêu cầu, nếu yêu cầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này thì cơ quan quản lý thông tin phải xem xét yêu cầu theo quy định của Luật.
  2. Trong yêu cầu sử dụng lại thông tin công, người yêu cầu phải nêu rõ:
    1. Thông tin mà họ muốn được sử dụng lại;

 

2. Cách thức mà người yêu cầu muốn nắm bắt nội dung của thông tin được yêu cầu (bản ghi theo cách truyền thống hoặc điện tử và thông thường là cả hình thức và công cụ chứa đựng bản ghi).

3. Mục đích của việc sử dụng lại thông tin (phục vụ mục đích thương mại hoặc phi thương mại)”.

Trường hợp đơn không bảo đảm các nội dung thì người yêu cầu phẩi bổ sung hò sơ theo quy định tại Điều 18. Theo đó:

 

“Điều 18

(Bổ sung nội dung đơn yêu cầu)

  1. Nếu đơn yêu cầu chưa hoàn chỉnh ở mức đủ để cơ quan có thể xử lý thì cơ quan tiếp nhận yêu cầu có trách nhiệm đề nghị người yêu cầu hoàn thiện đơn yêu cầu trong thời hạn mà cơ quan đưa ra. Thời gian này không được ngắn hơn 3 ngày làm việc.
  2. Cán bộ thông tin quy định tại Điều 9 của Luật này có trách nhiệm cung cấp cho người yêu cầu những trợ giúp cần thiết trong việc bổ sung và hoàn thiện đơn yêu cầu.
  3. Trường hợp người yêu cầu không hoàn thiện đơn yêu cầu trong thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều này hoặc đơn yêu cầu không đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 17 của Luật này ngay cả khi đã được bổ sung, chỉnh lý khiến cơ quan tiếp nhận đơn không thể xử lý được yêu cầu, thì cơ quan này sẽ giải quyết yêu cầu theo quy định tại Điều 19 của Luật, tức là không cung cấp thông tin.

 

 

 Về vấn đề này, Nauy  quy định: Bất kỳ người nào đều có thể nộp đơn cho một cơ quan hành chính đề nghị tiếp cận các tài liệu công việc, chuyên san và các tài liệu đăng ký tương tự của cơ quan hành chính đó (Điều 3). Tuy nhiên, người yêu cầu cũng có thể đề nghi tiếp cận bằng lời nói (Điều 28).

 

1.2 Quy định thời hạn hợp lý được tiếp cận thông tin, từ chối tiếp cận thông tin

Điều 7 Luật của Canađa  quy định:

“ Khi có yêu cầu tiếp cận tài liệu theo Luật này, trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, người đứng đầu cơ quan chính phủ mà tiếp nhận đơn yêu cầu, theo qui định ở mục 8,9 và 11, sẽ phải:

(a) Thông báo bằng văn bản cho người có yêu cầu, xem có được phép tiếp cận tài liệu hay không, hoặc là nếu như người đó được phép tiếp cận một phần văn bản; và

(b) Nếu được phép tiếp cận tài liệu, thì phải cho phép người có yêu cầu được tiếp cận tài liệu hoặc một phần của tài liệu. R.S.1985, chương A-1, câu7.

Trong trương hợp yêu cầu xin tiếp cận thông tin, nhưng xét thấy cơ quan khác lưu giữ liệu này nhiều hơn, thì lãnh đạo cơ quan đó, xét theo các điều kiện qui định bởi luật, trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu, sẽ chuyển yêu cầu và nếu thấy cần thiết, sẽ chuyển tài liệu đến cơ quan chính phủ khác. Trong trường hợp đó, lãnh đạo của cơ quan chuyển yêu cầu sẽ phải thông báo bằng văn bản đến người yêu cầu. Tuy nhiên, người đứng đầu cơ quan có thể gia thêm (Điều 9)  thời hạn hợp lý theo qui định ở Điều 7 hoặc là Điều 8 khoản 1 trong các trường hợp sau:

(a) Yêu cầu với số lượng tài liệu lớn hoặc là cần thiết phải tìm kiếm trong số lượng lớn tài liệu và việc hoàn thành đúng thời hạn sẽ ảnh hưởng không hợp lý đến hoạt động của cơ quan chính phủ;

(b) Cần thiết phải tham khảo ý kiến để thực hiện theo yêu cầu mà không thể thực hiện được một cách hợp lý theo đúng như thời hạn ban đầu, hoặc;

(c) Thông báo đối với yêu cầu được đưa ra theo mục 27 (1) cùng với thông báo về việc gia hạn, trong trường hợp ở khoản (a) hoặc (b), thời hạn kéo dài đối với người đã có yêu cầu trong thời gian 30 ngày kể từ ngày tiếp cận yêu cầu. Thông báo cũng phải nêu rõ rằng người đó có thể khiếu nại lên ủy viên thông tin về việc gia hạn.

Nếu như người người đứng đầu cơ quan chính phủ gia hạn thời hạn theo khoản (1) vượt quá 30 ngày, lãnh đạo đó sẽ phải thông báo về việc gia hạn đó với Uy viên thông tin cùng lúc với thông báo qui định ở khoản (1). R.S.1985, chương A-1,Câu 9.

10.

(1) Trong trường hợp người đứng đầu cơ quan chính phủ từ chối việc tiếp cận tài liệu hoặc một phần của tài liệu theo yêu cầu qui định ở Luật này thì người đứng đầu cơ quan chính phủ sẽ phải nói rõ trong thông báo qui định ở đoạn 7(a):

(a) Rằng tài liệu đó không tồn tại, hoặc

(b) Điều khoản cụ thể của Luật này qui định việc từ chối nếu như lãnh đạo của cơ quan không chỉ rõ liệu tài liệu đó có hay không, và phải chỉ rõ điều khoản có thể áp dụng nếu như có tồn tại tài liệu đó, và sẽ chỉ rõ trong thông báo rằng người làm đơn yêu cầu có quyền khiếu nại với ủy viên thông tin về việc bị từ chối.

(2) Người đứng đầu cơ quan chính phủ có thể nhưng không bắt buộc phải chỉ ra theo khoản (1) tài liệu có tồn tại hay không?

(3) Nếu như người đứng đầu cơ quan chính phủ không thể cho phép tiếp cận với tài liệu hoặc một phần tài liệu theo yêu cầu ở Luật này thì theo Luật này sẽ được hiểu là lãnh đạo đó từ chối cho phép tiếp cận R.S.1985, chương A-1, Câu10

Ấn Độ, Câu trả lời phải được thông báo ngay khi có thể trong thời hạn là 30 ngày, mặc dù điều khoản thực tế của thông tin có thể là tuỳ thuộc vào việc trả phí. Ở đâu mà thông tin ấy liên quan đến cuộc sống và tự do cá nhân, thì việc trả lời phải được công bố trong thời hạn 48 tiếng. Nếu không trả lời được trong thời hạn nêu trên thì mặc nhiên coi đó là lời từ chối trả lời yêu cầu(Điều 7(1) và (2)). Việc bao gồm thời hạn ngắn cho các thông tin liên quan đến cuộc sống và tự do là một điểm mới nằm trong một số Luật về quyền được thông tin.

Khi có đơn yêu cầu liên quan đến thông tin hoặc thông tin đó được quản lý bởi  cơ quan nhà nước khác hoặc liên quan mật thiết đến việc hoạt động của cơ quan đó, thì nhân viên thông tin sẽ chuyển đơn yêu cầu đến cơ quan đó và thông báo ngay cho người co yêu cầu biết ( Điều 6.3 ). Nhân viên thông tin có ý định tiết lộ thông tin mà có liên quan hoặc được cung cấp bởi bên thứ ba và được cơ quan này xử lý một cách kín đáo, thì trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được đơn, người đó phải đưa ra thông báo cho bên thứ ba đó về ý định tiết lộ thông tin, và sẽ được ấn định trong thời hạn 10 ngày. Những trường hợp thời hạn được đề cập đến trong Điều 7 thì không áp dụng, thay vào đó việc trả lời phải được đưa ra trong vòng 40 ngày (Điều 7. 7 và 1).

Trong khi ở Nhật lại quy định: Quyết định về việc cung cấp thông tin thông thường phải được đưa ra trong thời hạn 30 ngày. Khi yêu cầu được trả lại cho người yêu cầu để bổ sung hay làm sáng tỏ, thì thời gian để bổ sung yêu cầu không được tính vào thời hạn 30 ngày. Thời hạn này có thể được kéo dài thêm 30 ngày nữa, "khi có lý do hợp lý như là những khó khăn nảy sinh khi thực hiện công việc", miễn là người yêu cầu phải được thông báo về sự gia hạn đó bằng văn bản cùng với những lý do kèm theo (Điều 10). Khi yêu cầu bao gồm "một số lượng lớn tài liệu của Nhà nước" và có thể có rủi ro là hoạt động của cơ quan nhà nước sẽ bị "trở ngại đáng kể" bằng việc cố gắng cung cấp tất cả các thông tin trong thời hạn 60 ngày, thì người đứng đầu cơ quan nhà nước có thể thông tin một cách đơn giản về "phần hợp lý" trong thời hạn đó, việc cung cấp phần còn lại được thực hiện trong "thời gian hợp lý". Trong trường hợp này, người yêu cầu được thông báo bằng văn bản, kể cả việc áp dụng nguyên tắc này và giới hạn thời gian gia hạn đối với các tài liệu còn lại, cho dù không có chế tài nào được áp dụng khi cơ quan nhà nước không tuân thủ thời hạn chót như đã thông báo cho người yêu cầu (Điều 11).

Những nguyên tắc này tạo sự thận trọng nhất định đối với cơ quan nhà nước  khi phải trì hoãn cung cấp thông tin. Ở thời gian gia hạn thứ nhất, với thời gian bổ sung thêm 30 ngày, chỉ phụ thuộc vào rào cản ở mức thấp là "các căn cứ hợp lý", và sự trì hoãn tiếp sau có thể có điều kiện là 'hợp lý' mà không được định nghĩa trong Luật. Nhiều đạo luật về quyền thông tin không cho phép việc gia hạn không xác định như vậy, nhưng thay vào đó là đưa ra giới hạn thời gian 'cứng' để trả lời các yêu cầu.

Yêu cầu có thể được chuyển giao cho cơ quan khác khi có 'căn cứ hợp lý' để chuyển giao, như là tài liệu được chuẩn bị bởi cơ quan khác, với điều kiện là phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu (Điều 12 và 12.2).

Luật bao gồm các quy định gia hạn liên quan đến việc tư vấn với các bên thứ ba có liên quan đến thông tin yêu cầu. Các bên thứ ba có thể có cơ hội đưa ra tuyên bố. Khi bên thứ ba phản đối việc cung cấp thông tin, thì thời hạn 2 tuần được áp dụng giữa quyết định cung cấp thông tin và thực hiện thực tế quyết định đó (cung cấp thông tin thực tế). Bên thứ ba còn phải được thông tin ngay lập tức khi có quyết định phải cung cấp thông tin để có thể khiếu nại về quyết định đó nếu muốn (Điều 13).

Khi quyết định được đưa ra là phải cung cấp thông tin, thì người yêu cầu được thông báo về việc đó bằng văn bản cũng như các vấn đề liên quan đến hình thức cung cấp thông tin. Khi quyết định đưa ra là không cung cấp thông tin, kể cả vì lý do thông tin không do cơ quan nhà nước này quản lý, thì người yêu cầu cũng được thông báo, cho dù Luật không quy định rõ việc thông báo bao gồm những gì (Điều 9). Tuy nhiên, Điều 8 của Luật thủ tục hành chính đòi hỏi phải đưa ra lý do,202 và phải thông báo về quyền khiếu nại, cả theo đường hành chính và toà án.203

Tại Mêhicô, việc thông báo quyết định đối với yêu cầu phải được đưa ra sớm nhất có thể nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng phải trong thời hạn 20 ngày làm việc và sau đó thông tin phải được cung cấp trong thời hạn 10 ngày làm việc, khi người yêu cầu đã thanh toán xong các chi phí (Điều 44). Một quy định đáng lưu ý quy định rằng việc không đưa ra quyết định đúng thời hạn sẽ được hiểu là việc chấp nhận yêu cầu, và cơ quan sau đó sẽ có nghĩa vụ cung cấp thông tin trong thời hạn 10 ngày sau đó, trừ khi IFAI quyết định rằng thông tin là bí mật (Điều 53).

Khi thông tin được cho là đã được phân loại hay bí mật, thì Uỷ ban - một đơn vị giám sát trong đất cả các cơ quan và chủ thể (xem ở dưới) - phải được thông báo về việc này ngay lập tức, cùng với những lý do phân loại, để mà họ có thể quyết định có phê chủan việc phân loại hay huỷ bỏ nó và đảm bảo việc tiếp cận thông tin. Tương tự, khi tài liệu không có, Uỷ ban phải được thông báo và sau khi tiến hành “các biện pháp cần thiết”, để tìm kiếm thông tin không thành công, thì sẽ khẳng định rằng cơ quan hay chủ thể đó không nắm giữ thông tin (Điều 44-46).

Các cơ quan chỉ được yêu cầu cung cấp việc tiếp cận thông tin mà các cơ quan này nắm giữ (Điều 42). Tuy nhiên, khi một cơ quan nhận được yêu cầu về thông tin mà cơ quan không nắm giữ, thì cơ quan này phải ‘định hướng đúng đắn’ cho người yêu cầu đến cơ quan nắm giữ thông tin (Điều 40). Luật không có những quy định về thông báo cho bên thứ ba, nhưng Luật đòi hỏi rằng tài liệu đưa ra khiếu nại chỉ ra các bên thứ ba quan tâm (Điều 54), và Điều 55, về việc xem xét các khiếu nại, nói chung được hiểu là dành các quyền nhất định cho các bên thứ ba. Luật cũng quy định chung chung rằng “các thủ tục nội bộ” để giải quyết yêu cầu sẽ được quy định bởi pháp luật (Điều 44).

Khi yêu cầu được thoả mãn, người yêu cầu phải được thông báo về chi phí và hình thức tiếp cận (Điều 44). Khi yêu cầu bị từ chối và điều này đã được khẳng định bởi Uỷ ban, thì người yêu cầu phải được thông báo về điều này trong thời hạn quy định, cùng với những lý do từ chối và cách thức để thực hiện khiếu nại quyết định (Điều 45). Việc khẳng định cũng phải được đưa ra đối với người yêu cầu khi cơ quan không nắm giữ thông tin cần tìm kiếm (Điều 46).

Tại Mỹ, Luật cũng quy định các quy tắc chi tiết về thời hạn. Việc yêu cầu sẽ được trả lời ngay lập tức, thông thường trong thời hạn 20 ngày làm việc. Trong trường hợp bất thường, thời hạn có thể được gia hạn thêm 10 ngày. Đối với những trường hợp này, cơ quan công quyền phải thông báo cho người yêu cầu về việc thông tin mà họ yêu cầu không thể cung cấp được trong thời hạn 20 ngày và cơ quan này có thể trao cơ hội cho người yêu cầu giới hạn phạm vi yêu cầu hoặc thu xếp khoảng thời gian khác thay thế. Với những mục đích này và với sự cần thiết hợp lý cho việc xử lý yêu cầu, “các trường hợp bất thường”, được hiểu là sự cần thiết để tìm hiểu thông tin, nhu cầu để tìm kiếm thông qua một lượng thông tin/tài liệu lớn hoặc nhu cầu tham vấn với cơ quan công quyền khác hoặc hoặc tham vấn với hai hoặc các chi nhánh khác của cùng cơ quan công quyền, (Điều (a)(6)(B)).

 

Luật đồng thời cũng quy định cách thức xử lý thông tin dựa trên số lượng công việc có liên quan (Điều (a)(6)(D)) cũng như quá trình xử lý yêu cầu đối với trường hợp mà người yêu cầu nêu ra được “nhu cầu hợp lý”. Việc xem xét yêu cầu đó có phải là “nhu cầu hợp lý” hoặc việc ra quyết định không được thực hiện trong thời hạn 10 ngày và  phải thông báo cho người gửi đơn biết về quyết định đó.

Luật không quy định việc chuyển giao yêu cầu tới các cơ quan công quyền khác cũng như sự tham vấn với bên thứ ba. Tuy nhiên, Lệnh 12,600 ngày 23/6/2007[87] đã yêu cầu các cơ quan công quyền phải xây dựng thủ tục tham vấn với bên thứ ba khi cơ quan này được yêu cầu phải công khai thông tin thương mại bí mật.

Phúc đáp lại yêu cầu phải đưa ra lý do giải thích cho quyết định của mình cũng như phải thông tin về quyền kháng cáo nội bộ nào cho người yêu cầu biết (khoản (a)(6)(A)(i)). Trong trường hợp tất cả các yêu cầu bị từ chối, thông báo phải đưa ra tên, chức danh, vị trí của người có trách nhiệm đưa ra từ chối (a)(6)(C)(i)) cũng như sự tính toán hợp lý về dung lượng thông tin bị từ chối, trừ phi điều này sẽ làm lộ thông tin thuộc trường hợp ngoại lệ không phải công khai (tiết (a)(6)(F)).

 

Theo quy định tại Điều 31 Luật của Nauy thì việc từ chối một yêu cầu tiếp cận tài liệu phải được thực hiện bằng văn bản. Cơ quan hành chính phải luôn luôn chỉ rõ việc từ chối được dựa trên cơ sở của quy định nào và xa hơn là của điều khoản cụ thể nào trong quy định đó. Trong trường hợp việc từ chối được dựa trên quy định của Điều 13, cơ quan từ chối cũng phải chỉ rõ điều khoản nào đặt ra nghĩa vụ phải giữ bí mật. Trong trường hợp việc từ chối được dựa trên các quy định của pháp luật, cơ quan từ chối phải nêu rõ quy định này và chỉ ra điều khoản cụ thể trong quy định đó đã tạo cơ sở cho việc từ chối. Thông báo từ chối cũng phải nêu rõ quyền khiếu nại cũng như thời hạn khiếu nại của người bị từ chối tiếp cận tài liệu.

 

         Bất kỳ người nào bị từ chối tiếp cận tài liệu, trong thời hạn 3 tuần kể từ khi nhận được thông báo từ chối, tiếp tục yêu cầu giải thích thêm về việc từ chối trong đó nêu rõ các cơ sở chủ chốt, mang tính quyết định liên quan đến việc từ chối. Cơ quan hành chính phải đưa ra cơ sở và lý do từ chối bằng văn bản một cách sớm nhất và trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ khi nhận được yêu cầu.

         Luật Slovenia (Điều 20) quy định về việc xử sự của cơ quan trong trường hợp cơ quan không lưu giữ thông tin được yêu cầu như sau:

Trong trường hợp cơ quan tiếp nhận đơn yêu cầu nhưng không nắm giữ thông tin thì ngay lập tức trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày khi tiếp nhận yêu cầu, cơ quan này có trách nhiệm chuyển yêu cầu tới cơ quan có liên quan đến nội dung yêu cầu hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu và thông báo về sự việc này cho người người yêu cầu. Cơ quan quản lý thông tin phải nhanh chóng ra quyết định đối với yêu cầu tiếp cận thông tin, chậm nhất là 20 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận đơn yêu cầu hoàn chỉnh (Điều 23).  Trong trường hợp cơ quan quản lý thông tin cần thêm thời gian để xử lý yêu cầu do cần xử lý để cho tiếp cận một phần thông tin quy định tại Điều 7 của Luật hoặc cần thêm thời gian tổng hợp thông tin, thì có thể gia hạn thời gian quy định tại Điều 23 nhưng thời gian gia hạn không được quá 30 ngày làm việc. Cơ quan ra quyết định về việc gia hạn thời hạn, trong đó phải giải thích rõ cơ sở của việc gia hạn và phải thông báo cho người yêu cầu cung cấp thông tin. Cơ quan quyết định việc gia hạn thời hạn chậm nhất là trong khoảng thời gian 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu (Điều 24).

Trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 được áp dụng, cơ quan quản lý thông tin có trách nhiệm đề xuất cơ quan có thẩm quyền ra quyết định trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu và cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định đối với yêu cầu trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề xuất của cơ quan quản lý thông tin.

 

          Bố trí đầu mối tiếp nhận thông tin

 Sau khi nghiên cứu luật của một số nước cho thấy, hầu như tất cả các luật đều quy định các cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin bố trí đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin.

 

  1. Thực trạng Việt Nam về thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin

Các hình thức công khai thông tin và cách thức cung cấp thông tin

Nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành cho thấy, tuỳ thuộc vào nội dung, tính chất của vấn đề mà hình thức công khai có thể khác nhau; tuy nhiên hình thức phổ biến là: Đăng công báo (đó là bắt buộc đối với các văn bản quy phạm pháp luật); qua các phương tiện thông tin đại chúng; niêm yết tại trụ sở, cơ quan nhà nước; công bố cuộc họp; phát hành ấn phẩm; đưa lêng mạng điện tử của cơ quan; thông báo bằng văn bản; hay thông qua người phát ngôn chính thức của cơ quan, đơn vị...

- Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở, hình thức công khai thông tin được quy định tại Điều 6 như sau: Những nội dung quy định tại Điều 5 của Pháp lệnh được công khai bằng các hình thức: a) Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã; b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; c) Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.

K2 quy định: Chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai quy định tại khoản 1 Điều này; thực hiện việc cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 32 của Luật phòng, chống tham nhũng.

 

- Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005, hình thức công khai được quy định tại Điều 12 của Luật như: a) Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; b) Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; c) Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; d) Phát hành ấn phẩm; đ) Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; e) Đưa lên trang thông tin điện tử; g) Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Luật còn quy định rõ, ngoài những trường hợp pháp luật có quy định về hình thức công khai, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm lựa chọn một hoặc một số hình thức công khai.

- Luật bảo vệ môi trường 2005, các hình thức công khai không được quy định cụ thể, mà quy định chung rằng: Hình thức công khai phải bảo đảm thuận tiện cho những đối tượng có liên quan tiếp nhận thông tin; Cơ quan công khai thông tin về môi trường chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của thông tin được công khai. (K2 Điều 104).

- Luật thực hành tiết kiệm, Điều 6 quy định, các hình thức công khai bao gồm: a) Phát hành ấn phẩm; b) Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin điện tử; c) Công bố trong kỳ họp hằng năm; niêm yết tại trụ sở làm việc và gửi văn bản đến các cơ quan, tổ chức có liên quan. Khoản 3, còn quy định: Chính phủ quy định các lĩnh vực khác cần công khai không thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều này và hướng dẫn thực hiện công khai trong các lĩnh vực; quy định việc công khai quy trình, thủ tục giải quyết công việc giữa cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân.

- Luật kế toán, Điều 33 quy định các hình thức công khai được thực hiện như: a) Phát hành ấn phẩm; b) Thông báo bằng văn bản; c) Niêm yết; và d) Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Ngoài việc quy định các hình thức công khai, Luật kế toán còn quy định rõ về thời hạn công khai, theo đó đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước phải công khai báo cáo tài chính năm trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày được cấp có thẩm quyền duyệt; Đơn vị kế toán là cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và đơn vị sự nghiệp, tổ chức không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, đơn vị kế toán có sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân phải công khai báo cáo tài chính năm trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được cấp có thẩm quyền duyệt; Đơn vị kế toán thuộc hoạt động kinh doanh phải công khai báo cáo tài chính năm trong thời hạn một trăm hai mươi ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm.

- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quy định quy định, ngoài việc đăng trên công báo, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương, được niêm yết tại trụ sở của cơ quan ban hành và những địa điểm khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định; Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải được gửi đến các cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp, các cơ quan có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan ở địa phương chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ; văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được gửi đến Đoàn đại biểu Quốc hội; Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.

- Bên cạch các hình thức công khai thông tin như trên, Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí còn quy định, các cơ quan nhà nước thực hiện việc cung cấp thông tin cho báo chí thông qua người phát ngôn (Điều 2). Người phát ngôn có thể là người đứng đầu cơ quan hoặc là người được người đứng đầu cơ quan giao nhiệm vụ phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí. Họ tên và chức vụ người phát ngôn của cơ quan phải được công bố bằng văn bản cho các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.

Khoản 2 Điều này quy định, trong trường hợp cần thiết, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có thể ủy quyền cho người có trách nhiệm thuộc cơ quan mình phát ngôn hoặc phối hợp cùng người phát ngôn để phát ngôn hoặc cung cấp thông tin cho báo chí về những vấn đề cụ thể được giao. Điều 5 Quy chế quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của người phát ngôn, theo đó, người phát ngôn được nhân danh, đại diện cơ quan hành chính nhà nước phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; chỉ những thông tin do người phát ngôn cung cấp mới được coi là thông tin chính thống của cơ quan hành chính nhà nước (Khoản 1).

Người phát ngôn có quyền yêu cầu các đơn vị, cá nhân có liên quan trong cơ quan mình cung cấp thông tin, tập hợp thông tin để phát ngôn, cung cấp thông tin định kỳ, đột xuất cho báo chí và để trả lời các phản ánh, kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo của tổ chức, công dân do cơ quan báo chí chuyển đến hoặc đăng, phát trên báo chí theo quy định của pháp luật (Khoản 2).

Về mặt nghĩa vụ, theo Khoản 4 Điều này, người phát ngôn chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung phát ngôn và thông tin cung cấp cho báo chí. Trong trường hợp người phát ngôn không phải là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước thì còn phải chịu trách nhiệm trước người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước về tính chính xác, tính trung thực của nội dung phát ngôn và thông tin cung cấp cho báo chí.

         Khoản 2 Điều này quy định, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí về hoạt động của cơ quan mình, về lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình, thông qua các hình thức: a) Hàng tháng hoặc ít nhất 3 tháng một lần cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí trên trang tin điện tử của cơ quan mình; b) Ít nhất 6 tháng một lần tổ chức họp báo để cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí. Việc tổ chức họp báo thực hiện theo quy định hiện hành; c) Khi thấy cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước tổ chức cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí bằng văn bản hoặc thông tin trực tiếp tại các cuộc giao ban hàng tuần do Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Hội Nhà báo Việt Nam thực hiện ; d) Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho Trang tin điện tử của Chính phủ.

 1.3    Quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm, thời hạn cơ quan công quyền phải cung cấp, trả lời

- Luật phòng chống tham nhũng quy định quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức và cá nhân tại Điều 31, 32. Theo đó:

    + Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu phải cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đó được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức yêu cầu biết và nêu rõ lý do.

    + Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.

    + Công dân có quyền yêu cầu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ ban nhân dân  xã, phường, thị trấn đó. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đó được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu biết và nêu rõ lý do.

Điều 32, quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân: (1). Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; (2). Công dân có quyền yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đó; (3). Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu biết và nêu rõ lý do…

 

- Luật bảo vệ môi trường 2005, Điều 103. Công bố, cung cấp thông tin về môi trường, quy định: (1) Tổ chức, cá nhân quản lý khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường có trách nhiệm báo cáo các thông tin về môi trường trong phạm vi quản lý của mình với cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh; (2). Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này có trách nhiệm cung cấp thông tin về môi trường liên quan đến hoạt động của mình cho cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp huyện hoặc cán bộ phụ trách về bảo vệ môi trường cấp xã nơi cơ sở hoạt động và công bố thông tin về môi trường để cộng đồng dân cư được biết; (3). Cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường các cấp có trách nhiệm báo cáo các thông tin về môi trường trên địa bàn cho cơ quan cấp trên trực tiếp và công bố các thông tin chủ yếu về môi trường theo định kỳ hoặc theo yêu cầu; (4). Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm định kỳ cung cấp cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, cơ quan quản lý nhà nước về thống kê ở trung ương thông tin về môi trường liên quan đến ngành, lĩnh vực mình quản lý.

 

- Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Điều 12 quy định: Trách nhiệm thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm của các bộ, cơ quan nhà nước có liên quan và cơ quan thông tin đại chúng. Theo đó, (1). Cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm; (2). Bộ Y tế có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp chính xác và kịp thời thông tin về bệnh truyền nhiễm; (3). Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng thường xuyên thông tin, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm, lồng ghép chương trình phòng, chống bệnh truyền nhiễm với các chương trình thông tin, truyền thông khác; (4). Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan xây dựng nội dung giáo dục phòng, chống bệnh truyền nhiễm kết hợp với các nội dung giáo dục khác; (5). Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm cho nhân dân địa phương; (6). Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng để thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo hình, báo điện tử theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trên các phương tiện thông tin đại chúng không thu phí, trừ trường hợp thực hiện theo hợp đồng riêng với chương trình, dự án hoặc do tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài tài trợ.

- Luật đa dạng sinh học năm 2008, Điều 11 quy định về việc công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước. (1). Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được Chính phủ phê duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan có trách nhiệm công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có liên quan công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tại trụ sở Ủy ban nhân dân các cấp có liên quan.

Điều 15 quy định về việc công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. (1). Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được Hội đồng nhân dân thông qua, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm công bố quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tại trụ sở Ủy ban nhân dân các cấp có liên quan; (2). Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

 

- Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Điều 9 quy định về: Trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội dung công khai, theo đó, (1). Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm lập, thông qua kế hoạch thực hiện những nội dung công khai, trong đó nêu rõ cách thức triển khai thực hiện, thời gian thực hiện và trách nhiệm tổ chức thực hiện; (2). Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch, phương án đã được thông qua; (3). Uỷ ban nhân dân cấp xã báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về quá trình và kết quả thực hiện các nội dung công khai tại kỳ họp gần nhất của Hội đồng nhân dân.

 

3.  So sánh và kiến nghị

          Về phía quốc tế

Các thủ tục bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin

Luật của nhiều nước khác nhau có những quy định khác nhau về quy trình thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin nhưng tựu chung thì các quy định này đạt độ thống nhất rất cao.

Gần như tất cả các luật đều quy định việc yêu cầu bằng văn bản, bao gồm cả dạng văn bản điện tử, trong đó nêu rõ tên và địa chỉ liên hệ của người nộp đơn yêu cầu, cùng với những miêu tả chi tiết về thông tin cần tìm để giúp cơ quan tiếp nhận có thể xác định được thông tin. Ở nhiều nước, như Nauy, Slovenia, người yêu cầu có thể gửi yêu cầu miệng hoặc thậm chí qua điện thoại.

Luật ở phần lớn các nước không quy định phải nêu lý do trong yêu cầu cung cấp thông tin. Luật của Ấn Độ quy định cụ thể rằng người nộp đơn yêu cầu không phải khai các chi tiết về cá nhân, mà chỉ khai những chi tiết nhằm mục đích liên hệ với người nộp đơn. Nhiều luật quy định cụ thể rằng yêu cầu phải nộp tới các công chức cụ thể, ví dụ như các công chức phụ trách thông tin được bổ nhiệm, trong khi một số nước chỉ quy định đơn giản là yêu cầu có thể gửi tới cơ quan công quyền nơi nắm giữ thông tin.

Tại một vài nước, đơn yêu cầu sẽ phải được thừa nhận một cách chính thức, người yêu cầu được cung cấp biên nhận để phòng trường hợp có vấn đề xảy ra hoặc để phục vụ mục đích khiếu nại (Slovenia). Phần lớn các luật đều quy định cụ thể về việc hỗ trợ cho những người có đơn yêu cầu, ví dụ như khi người yêu cầu gặp khó khăn trong việc mô tả thông tin đầy đủ thông tin cần tìm hoặc họ không thể tự viết đơn yêu cầu do mù chữ hay tàn tật. Ở Ấn Độ, luật còn quy định hỗ trợ người tàn tật tiếp cận các thông tin đã được công khai. Mức độ hỗ trợ có khác nhau song nhiều luật quy định một cách đơn giản là hỗ trợ “một cách hợp lý”.

Phần lớn các luật đều quy định thời hạn trả lời yêu cầu khoảng từ 15 ngày tới khoảng 30 ngày (nhiều nước), và phần lớn các nước đều yêu cầu việc cung cấp thông tin phải được thực hiện càng nhanh càng tốt, thời gian quy định nêu trên là thời hạn tối đa. Phần lớn các luật đều cho phép gia hạn thời gian cung cấp thông tin, ví dụ như đối với trường hợp yêu cầu phức tạp, đòi hỏi phải tìm hồ sơ tài liệu không sẵn có tại cơ quan cung cấp mà để ở các nơi khác hoặc phải tham vấn ý kiến của các cơ quan, tổ chức/cá nhân khác. Thông thường thì, thời gian mà người nộp đơn phải trả lời các câu hỏi liên quan đến làm rõ hơn một số chi tiết liên quan đến thông tin hoặc để trả lệ phí sẽ không được tình vào thời hạn yêu cầu trả lời. Ở nhiều nước, việc không trả lời được yêu cầu cung cấp thông tin trong thời gian hạn định được coi như việc từ chối yêu cầu cung cấp thông tin.

Phần lớn các nước đều quy định việc chuyển giao yêu cầu, hoặc người nộp đơn sẽ được thông báo về việc thông tin do một cơ quan khác nắm giữ. Mức độ thực hiện việc chuyển giao này rất đa dạng,  chuyển từ cơ quan ban đầu (mà người nộp đơn yêu cầu) nơi không giữ thông tới nơi mà thông tin có liên quan chặt chẽ nhất tới công việc của cơ quan khác - trường hợp của Anh và Ấn Độ - tới nơi mà việc chuyển giao  là “hợp lý” - trường hợp của Nhật Bản.

Luật của nhiều nước cũng yêu cầu các cơ quan công quyền gửi thông báo trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu. Đối với các đơn yêu cầu được đáp ứng, thông báo có thể sẽ ghi cả số lệ phí phải nộp, dạng thông tin được đáp ứng, một số quy định liên quan đến quyền khiếu nại.  Khi yêu cầu bị từ chối, thông báo sẽ thường ghi rõ lý do từ chối, có thể viện dẫn điều khoản cụ thể trong luật về lý do từ chối, đồng thời cũng có thể ghi cả quyền khiếu nại. Điều này cho phép người yêu cầu xác định liệu có phải khiếu nại hay không và thông báo này cũng là cơ sở để người yêu cầu xuất trình khi khiếu nại.

          Tuy các văn bản luật của các nước có quy định khác nhau về hình thức công bố rộng rãi thông tin, quy trình cung cấp thông tin khác nhau, nhưng đều có những điểm thống nhất cơ bản như sau:

  • Quy định trách nhiệm chue động công bố rộng rãi, công khai  đến mức tôí đa thông tin, tạo cơ sở cho người dân tiếp cận mà không cần yêu cầu; hạn chế đến mức tối đa thông tin không cung cấp;
  • Quy định quy trình cung cấp thuận tiện, dễ tiếp cận, nhanh, rẻ, minh bạch. Theo đó, quy định quyền yêu cầu tiếp cận thông tin có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản (với các nội dung nhất định); quy định thời hạn đáp ứng yêu cầu, các trường hợp gia hạn; quy định tường hợp từ chối phải nêu rõ lý do;
  • Quy định các trường hợp tiếp cận một phần thông tin;
  • Quy định phí tiếp cận thông tin...

Về phía Việt Nam

  • Chưa có các quy định cụ thể về hình thức công bố các loại thông tin rộng rãi;
  • Trong trường hợp có yêu cầu về tiếp cận thông tin, người dân chưa biết bứt đầu từ đâu? Có tể yêu cầu bằng lời nói? Bằng thư điện tử? Nếu bằng văn bản thì nội dung đơn phải chứa đựng những gi? Đơn nộp đến đêu? Thời gian bao nhiêu thì cơ quan nắm giữ thông tin phải trả lời?
  • Từ chối quyết định thông tin bằng hình thức nào? Lý do của việc từ chối?
  • Phí tiếp cận thông tin?
  • Chưa quy định phải có bộ phận/cán bộ cung cấp thông tin

...

          Kiến nghị

          Từ những nhận xét trên, tôi kiến nghị cần phải đưa vào Luật tiếp cận thông tin các nội dung sau đây:

  • Đưa ra danh mục thông tin phải công bố công khai rộng rãi;
  • Quy định trách nhiệm đăng một số thông tin nhất định trên trang Web;
  • Quy các hình thức yêu cầu cung cấp thông tin;
  • Quy định quy trình giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin (Phải nhanh, kịp thời, chính xãc, rõ trách nhiệm...;
  • Quy định phí cung cấp thông tin;

...

Các kiến  nghị được xây dựng thành các điều trong Dự thảo Luật

II. Thủ tục khiếu nại, khiếu kiện

1. Kinh nghiệm quốc tế

Ấn Độ[88], Căn cứ vào Điều 19 của Luật về Quyền được thông tin, bất cứ ai, bao gồm cả bên thứ ba, người mà không nhận được quyết định trong thời hạn cụ thể hoặc người gánh chịu bất lợi một quyết định theo quy định Luật, trong thời hạn 30 ngày, có quyền khiếu nại đến nhân viên có thâm niên phụ trách về thông tin. Đơn khiếu nại phải được giải quyết trong thời hạn 90 ngày, hoặc thời hạn lâu hơn nếu xét thấy là cần thiết, đến Uỷ ban Thông tin liên quan (xem phần sau). Khiếu nại lần đầu phải được giải quyết trong thời hạn 30 ngày, hoặc thời hạn kéo dài là 45 ngày, vì bất cứ lí do kéo dài thời hạn nào cũng phải thông báo bằng văn bản. Trách nhiệm chứng minh bất cứ sự từ  chối cung cấp thông tin thuộc về cán bộ thông tin là người đã từ chối yêu cầu (Điều 19). Trách nhiệm của người khiếu nại có liên quan đến các vấn đề khác – như chi phí vượt quá hoặc chậm chễ bất hợp lý - cũng phụ thuộc vào cán bộ thông tin theo như Điều 20 (1).

Phạm vi quyền khiếu nại được nêu rõ trong Điều 18 (1), mà nghĩa vụ của Ủy ban thông tin là nhận và điều tra về đơn khiếu nại có liên quan: không có quyền đệ trình đơn yêu cầu, bao gồm cả việc không có cán bộ thông tin được chỉ định; từ chối tiết lộ thông tin, không thể hồi đáp yêu cầu trong thời hạn đã được xác định; chi phí phải trả, viện dẫn các điều khoản không đầy đủ, thông tin sai lệch hoặc không chính xác, hoặc bất cứ vấn đề nào có liên quan đến việc yêu cầu hoặc sử dụng ghi chép tiếp cận. Có rất nhiều lí do để khiếu nại.

Để đưa ra quyết định giải quyết vụ việc, Uỷ ban thông tin cần “khởi đầu điều tra”, trong trường hợp có cùng thẩm quyền trong xét xử tại toà án dân sự theo như Bộ Luật Tố tụng Dân sự, năm 1908, đặc biệt là triệu tập nhân chứng và thuyết phục họ cung cấp chứng cứ; yêu cầu cung cấp các tài liệu, bao gồm bất cứ ghi chép công khai nào; nhận biên bản chứng cứ; và bất cứ nội dung nào khác được miêu tả (Điều 18 (2)-(3)).

Quyết định của Uỷ ban Thông tin là bắt buộc thực hiện. Uỷ ban Thông tin có thẩm quyền khắc phục bằng cách gồm: ra lệnh cho cơ quan nhà nước thực hiện các bước cần thiết để đảm bảo việc tuân thủ theo như quy định của Luật, theo hình thức đặc biệt, thông qua việc chỉ định cán bộ thông tin, công bố thông tin xác định, đưa ra sự lựa chọn đối với hệ thống quản lý các ghi chép, gia tăng các điều khoản về đào tạo cho các nhân viên hoặc thông qua việc cung cấp cho Uỷ ban báo cáo hàng năm; yêu cầu cơ quan nhà nước bồi thường cho người khiếu nại; hoặc ra các chế tài khác theo như quy định của Luật, ví dụ như để xử phạt cán bộ thông tin về việc gây trở ngại cho việc tiếp cận (Điều 19 (7) – (8)).

         Tại Nhật, khi yêu cầu bị từ chối, một phần hay toàn bộ, thì người yêu cầu có thể ngay lập tức kiện ra toà án để yêu cầu loại bỏ sự từ chối, và họ còn có thể thực hiện khiếu nại về hành chính. Liên quan đến việc khiếu nại về hành chính, Luật RTI quy định việc khiếu nại được gửi đến người đứng đầu cơ quan nhà nước, người mà sau này được yêu cầu gửi các khiếu nại đến Uỷ ban xét lại việc bảo vệ thông tin cá nhân và việc cung cấp thông tin, một cơ quan giám sát trực thuộc Văn phòng Nội các, trừ khi khiếu nại là không hợp pháp và quyết định đưa ra là cung cấp tài liệu. Không có giới hạn ràng buộc nào về thời gian được quy định cho việc gửi khiếu nại và cũng có một số trường hợp khiếu nại không được chuyển hay bị trì hoãn với thời hạn có thể quá 1 năm, trong trường hợp đó Uỷ ban không có quyền hành động. Người yêu cầu, người khiếu nại (nếu khác nhau) và bên thứ ba có đại diện phải được thông báo về khiếu nại (Điều 18-19).

Mặc dù Uỷ ban xét lại trực thuộc Văn phòng Nội các, nhưng có một số nỗ lực để đảm bảo rằng Ủy ban là độc lập. Uỷ ban gồm 15 thành viên và các khiếu nại thông thường được giải quyết trong hội đồng gồm 3 thành viên.205 Năm thành viên của Uỷ ban làm việc chuyên trách, với một thành viên là chủ tịch của mỗi hội đồng. Những thành viên này là công chức chính phủ đã nghỉ hưu. Mười thành viên khác làm việc kiêm nhiệm và bao gồm các nhà khoa học, các luật sư và các thành viên khác của cộng đồng. Chủ tịch Uỷ ban là thẩm phán phúc thẩm đã nghỉ hưu (tuổi nghỉ hưu quy định của thẩm phán đó là 65). Thủ tướng chỉ định các thành viên trong số những người "xét xử có địa vị cao" được cả hai viện của Quốc hội thông qua nhằm đảm bảo sự công khai và sự giám sát về chính trị. Nhiệm kỳ làm việc là 3 năm và các thành viên có thể được bổ nhiệm lại. Các thành viên có thể bị bãi nhiệm bởi Thủ tướng khi có sự đồng ý của hai viện của Quốc hội. Căn cứ để bãi nhiệm được giới hạn ở việc không có năng lực, có hành vi sai trái hoặc có hành vi trái với công vụ.

Riêng ở Mêhicô, đối với các cơ quan, các khiếu nại được gửi tới IFAI và từ đó đến các toà án. Khiếu nại phải được đưa ra trong 15 ngày kể từ khi có thông báo về việc từ chối cho tiếp cận, khi mà thông tin không được cung cấp, hoặc đầy đủ hoặc từng phần, khi việc chỉnh sửa thông tin cá nhân bị từ chối hoặc phải xem xét đúng thời hạn, chi phí hoặc hình thức tiếp cận (Điều 50). Đây là thời hạn rất ngắn mà có thể cản trở người yêu cầu đưa ra khiếu nại. Khiếu nại phải bao hàm tên của cơ quan hay chủ thể, cá nhân đưa ra khiếu nại và các bên thứ ba, ngày nguyên nhân khiếu nại phát sinh, vấn đề chính của khiếu nại, ý kiến và bản sao các tài liệu chính thức liên quan đến vụ việc (như là thông báo về việc từ chối tiếp cận) (Điều 54). Các khiếu nại có thể được gửi cho bộ phận liên lạc của cơ quan để gửi tiếp tới IFAI vào ngày tiếp sau (Điều 49). Các khiếu nại có thể cũng được đưa ra trực tiếp với IFAI hoặc thông qua SISI, cơ quan tự động gửi thông báo cho cơ quan nhà nước  và khởi động quá trình xử lý trong IFAI.

Một uỷ viên phải điều tra khiếu nại và báo cáo cho tất cả các uỷ viên trong thời hạn 30 ngày làm việc, và quyết định phải được đưa ra trong thời hạn 20 ngày tiếp theo, cho dù giới hạn thời gian này có thể được tăng gấp đôi khi có lý do rõ ràng (Điều 55). Khi một cơ quan không trả lời đúng thời hạn, IFAI sẽ giải quyết khiếu nại (Điều 54). Khiếu nại có thể bị từ chối  khi nó được đưa ra quá thời hạn quy định, khi IFAI đã có quyết định về khiếu nại, khi khiếu nại không liên quan đến quyết định do một uỷ ban đưa ra, hoặc khi khiếu nại đã được toà án giải quyết (Điều 57).

Khi hết 1 năm kể từ khi có quyết định của IFAI khẳng định quyết định ban đầu của một cơ quan nhà nước, người yêu cầu có thể yêu cầu IFAI xem xét lại quyết định của mình, và quyết định thứ hai phải được ban hành trong thời hạn 60 ngày từ khi có yêu cầu như vậy (Điều 60).

Điều 33 quy định việc thành lập IFAI như là một cơ quan nhà nước độc lập chịu trách nhiệm thúc đẩy quyền thông tin. Luật bao hàm một số quy định nhằm thúc đẩy sự độc lập của IFAI. 5 Uỷ viên được bổ nhiệm bởi nhánh hành pháp, nhưng việc bổ nhiệm có thể bị bác bỏ bởi đa số phiếu hoặc của Thượng viện hoặc của Uỷ ban thường trực, miễn là họ hành động trong thời hạn 30 ngày. Các cá nhân có thể không được bổ nhiệm làm các uỷ viên trừ khi họ là cong dân, không bị kết án về tội lừa đảo, ít nhất 35 tuổi, không có sự liên hệ chính trị chắc chắn, và “thể hiện sự nổi trội trong hoạt động nghề nghiệp” (Điều 34 và 35).

Các uỷ viên hội đồng giữ chức vụ trong 7 năm, nhưng có thể bị thay thế vì lý do vi phạm nghiêm trọng hiến pháp hoặc Luật QUYềN ĐốI VớI THÔNG TIN, cho dù hành động hay không hành động làm tổn hại đến hoạt động của IFAI hoặc nếu họ bị kết án về tội phạm mà bị phạt tù (Điều 34). Hai trong số 5 Uỷ viên ban đầu được bổ nhiệm trong thời hạn 4 năm, với khả năng được khôi phục theo thời hạn 7 năm khác (Quy định chuyển tiếp thứ 5).

IFAI có thể chấp nhận hoặc từ chối khiếu nại, hoặc sửa đổi khiếu nại, và việc quyết định sẽ bao hàm thời hạn để tuân thủ (Điều 56). Quyết định là cuối cùng đối với các cơ quan nhưng người yêu cầu có thể khiếu nại đến các toà án liên bang (Điều 59).

Các cơ quan nhà nước khác cũng có nghĩa vụ quy định các trình tự khiếu nại phù hợp với các trình tự hiện có thông qua IFAI cho các cơ quan và thủ thể (Điều 61).

Đầu tiên, ở Mỹ, người yêu cầu phải khiếu nại về bất kỳ sự từ chối cung cấp thông tin nào tới người đứng đầu cơ quan công quyền có liên quan. Khiếu nại có tính chất nội bộ này phải được quyết định trong vòng 20 ngày làm việc, nếu việc khiếu nại bị từ chối một phần hoặc toàn bộ, người yêu cầu phải được thông báo về khả năng của việc phúc thẩm tư pháp đối với việc từ chối này (khoản(a)(6)(A)(ii)). Trong trường hợp bất thường, như đã khái quát nêu trên mà liên quan đến yêu cầu gốc, thời hạn này có thể được gia hạn không quá 10 ngày dưới hình thức thông báo bằng văn bản. Nếu vẫn không có phúc đáp trong thời hạn nêu trên, người yêu cầu có thể khiếu nại trực tiếp đến Toà án.

 

Không có quy định nào quy định về việc khiếu nại ở cấp hành chính độc lập. Đây là một thiếu sót quan trọng của Luật. Tuy nhiên, gần đây đã có những nỗ lực để cải thiện bất cập này. Một trong những nội dung sửa đổi gần đây nhất là Luật sẽ thành lập  bộ phận về dịch vụ thông tin của văn phòng Chính phủ thuộc cơ quan lưu trữ quốc gia, bộ phận này, ngoài các chức năng khác còn có nhiệm vụ đưa ra các kiến nghị đối với việc cải cách hệ thống và là người trung gian giải quyết tranh chấp giữa người yêu cầu và cơ quan công quyền nhằm giảm thiểu các vụ kiện về việc cung cấp/công khai thông tin.[89]

 

Nếu hệ thống khiếu nại  nội bộ không hiệu quả, người khiếu nại có thể  gửi đơn khiếu nại của mình đến toà án (tiết (a)(4)(B)). Khiếu nại cũng sẽ được chuyển đến toà án nếu thời hạn cho việc trả lời đã hết, trừ các trường hợp ngoại lệ khác (Điều (a)(6)(C)(i))

 

Bên bị kiện – cơ quan công quyền buộc phải gửi trả lời của mình trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản bào chữa về vụ việc (tiết (a)(4)(C). Toà án có thể yêu cầu cơ quan công quyền xuất trình tài liệu để toà án thẩm tra và yêu cầu cơ quan này phải công khai tài liệu.

 

Toà án sẽ kiểm tra vụ việc lại một lần nữa và nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên cơ quan công quyền nhằm bào chữa cho việc không công khai của mình. Tuy nhiên, Toà án cũng phải chấp nhận” trách nhiệm nặng nề” đối với bản khai tuyên thệ của cơ quan công quyền liên quan đến liệu thông tin này có thuộc vào phạm vi ngoại lệ hay không (tiết (a)(4)(B). Nếu tòa án coi việc khiếu nại liên quan đến việc miễn phí, toà án sẽ xem xét lại vụ việc nhưng chỉ dựa trên tài liệu trước cơ quan công quyền (khoản (a)(4)(A)(vii)).

 

Trong trường hợp mà người khiếu nại “ thắng thế một cách rõ ràng”, Toà án có thể yêu cầu Chính phủ trả phí thuê luật sư và các chi phí tố tụng khác. Nếu không tuân thủ lệnh của Toà án, cán bộ có trách nhiệm có thể bị xử phạt vì tội chống lệnh của toà (đoạn (a)(4)(G)).

 

Canađa, Việc từ chối cung cấp thông tin có thể được khiếu nại đến Văn phòng Ủy viên Thông tin của Canada[90]. Ủy viên tiếp nhận các khiếu nại phải tiến hành điều tra và đưa ra các khuyến nghị. Ủy viên không có thẩm quyền ban hành các mệnh lệnh mang tính ràng buộc. Ủy viên có thể yêu cầu tòa án xét xử vụ việc nếu như các khuyến nghị của mình không được thực hiện. Tòa án liên bang Canada đã ra phán quyết là Chính phủ có nghĩa vụ phải trả lời tất cả các yêu cầu tiếp cận thông tin mà không kể động cơ đưa ra các yêu cầu đó là gì. Một cách tương tự, Ủy viên phải tiến hành điều tra các khiếu nại ngay cả trong trường hợp Chính phủ tìm cách ngăn cản Ủy viên thực hiện công việc này với lí do là các khiếu nại được đưa ra với các mục đích sai trái.

Theo quy định tại Điều 30 luật Canada thì việc khiếu nại, khiếu kiện như sau:

“30.

(1). Theo Luật này, ủy viên Thông tin sẽ tiếp nhận các vụ điều tra về khiếu nại:

(a) Từ những người bị từ chối cho phép tiếp cận tài liệu hoặc một phần của tài liệu được yêu cầu theo qui định của Luật này;

(b) Từ những người đã phải trả những khoản tiền theo phần 11 mà họ cho là không hợp lý;

(c) Từ những người đã có yêu cầu xin tiếp cận tài liệu và thời hạn đã bị gia hạn theo phần 9, và họ cho rằng việc gia hạn là không hợp lý;

(d) Từ những người không được tiếp cận tài liệu hay một phần của tài liệu bằng ngôn ngữ chính thức theo yêu cầu, qui định ở mục 12(2), hoặc không được tiếp cận với tài liệu ở ngôn ngữ mà họ yêu cầu trong một thời gian theo họ là hợp lý;

(d1) Từ những người không được tiếp cận với tài liệu hoặc một phần của tài liệu ở một dạng khác theo yêu cầu đã qui định ở mục 12(3), hoặc không được phép tiếp cận tài liệu đó trong khỏang thời gian mà họ cho là hợp lý;

(e) Về bất cứ ấn phẩm hay bản tin nào đề cập ở mục 5; hoặc

(f) Về bất cứ các vấn đề khác liên quan đến yêu cầu hay được tiếp cận với tài liệu theo Luật này.

(2) Không một qui định nào trong Luật này ngăn cấm ủy viên thông tin tiếp nhận và điều tra các khiếu nại được nêu ở khoản (1) do người được ủy quyền của người có khiếu nại để thay mặt cho người đó trình và tham chiếu đến người khiếu nại trong bất cứ phần nào khác bao gồm một sự tham chiếu đến người được ủy quyền như vậy.

(3) Nếu như ủy viên thông tin thấy rằng có đủ cơ sở để điều tra một vấn đề liên quan đến yêu cầu và tiếp cận tài liệu theo Luật này, thì ủy viên sẽ có thể khởi xướng một cuộc điều tra về vấn đề đó. R.S.1985, chương A-1, câu 30; 1992,chương 21, câu 4.

Điều 31.

Một khiếu nại theo Luật này sẽ được gửi đến ủy viên thông tin bằng văn bản trừ khi ủy viên có qui định khác và nếu như khiếu nại liên quan đến yêu cầu tiếp cận tài liệu, thì sẽ được thực hiện trong vòng 1 năm kể từ lúc tiếp nhận yêu cầu về tài liệu mà có khiếu nại.R.S.1985, chương A-1, câu 32

Điều tra

32.

Trước khi bắt đầu một cuộc điều tra về khiếu nại theo Luật này, ủy viên thông tin sẽ thông báo với người đứng đầu cơ quan chính phủ liên quan về dự định tiến hành vụ điều tra và sẽ thông báo với lãnh đạo cơ quan đó về tính chất của khiếu nại.R.S.1985, chương A-1, câu 32.

33.

Trong trường hợp người đứng đầu cơ quan chính phủ từ chối tiết lộ tài liệu hay một phần của tài liệu, được yêu cầu theo Luật này mà lại nhận được thông báo theo mục 32, có khiếu nại về việc bị từ chối thì người đứng đầu cơ quan chính phủ sẽ phải thông báo với ủy viên thông tin về bên thứ ba mà lãnh đạo của cơ quan đã thông báo hoặc lẽ ra đã thông báo theo mục 27(1) về yêu cầu nếu như người đứng đầu cơ quan chính phủ đã từng có ý định tiết lộ tài liệu hay một phần của tài liệu R.S.1985, chương A-1, câu 33.

34.

Theo Luật này, ủy viên thông tin sẽ quyết định thủ tục phải tuân theo trong việc thực thi các nhiệm vụ hoặc chức năng của ủy viên theo Luật này. R.S.1985, chương A-1, câu 34.

35.

(1) Tất cả các cuộc điều tra về khiếu nại của ủy viên thông tin theo Luật này sẽ được thực hiện riêng.

(2) Trong khi ủy viên thông tin điều tra một khiếu nại theo Luật này, sẽ có đại diện của:

(a) Người khiếu nại;

(b) Người đứng đầu cơ quan chính phủ liên quan; và

(c) Nếu như ủy viên thông tin có dự định khuyến nghị theo mục 37(1) về tiết lộ tài liệu hoặc một phần của tài liệu có chứa các thông tin hoặc ủy viên thông tin có cơ sở để tin rằng tài liệu đó có thông tin:

(i) Bí mật thương mại của bên thứ ba;

(ii) Các thông tin qui định ở đoạn 20(1)(b) do bên thứ ba cung cấp;

(iii) các thông tin mà ủy viên thông tin có cơ sở để thấy hậu quả nếu bị tiết lộ, theo qui định ở đoạn 20(1)(c) hoặc (d) liên quan đến bên thứ ba, thì sẽ là bên thứ ba, nếu như bên này có thể xác định được.

Tuy nhiên, không một ai có quyền tham gia trong suốt quá trình hoặc có quyền tiếp cận, hoặc nhận xét các đại diện của các bên khác trước ủy viên.R.S.1985, chương A-1, câu 35.

36.

(1) Ủy viên thông tin, liên quan đến việc điều tra các khiếu nại theo Luật này, có quyền:

(a) Triệu tập và bắt buộc sự có mặt của các bên trước ủy viên Thông tin và yêu cầu các bên đưa ra chứng cứ bằng văn bản hoặc lời nói có tuyên thệ và phải làm các tài liệu và các việc khác mà ủy viên thấy cần thiết để điều tra và xem xét đầy đủ khiếu nại, giống như thủ tục và phạm vi của Tòa phúc thẩm.

(b) Chứng kiến tuyên thệ;

(c) Tiếp nhận và chấp nhận các chứng cứ và thông tin, hoặc bằng tuyên thệ hay bằng bản khai có tuyên thệ hoặc cách khác, nếu như ủy viên thông tin thấy phù hợp, bất kể là chứng cứ hay thông tin đó có thể được Tòa án chấp nhận hay không;

(d) Vào bất kỳ cơ sở nào của cơ quan chính phủ điều tra xem cơ sở đó có đảm bảo yêu cầu về an ninh của cơ quan đó hay không;

(e) Trao đổi cá nhân với bất cứ người nào trong cơ sở của cơ quan chính phủ theo khoản (d) và tiến hành các điều tra trong phạm vi thẩm quyền của ủy viên thông tin theo Luật này, nếu như ủy viên thấy điều đó là phù hợp; và

(f) Kiểm tra các bản sao hay bản trích các sách, các tài liệu khác được tìm thấy trong cơ sở, theo đoạn (d) có chứa các thông tin liên quan đến việc điều tra.

(2) Không kể các Luật khác của Quốc hội hoặc các đặc quyền theo qui định của luật về bằng chứng, ủy viên Thông tin, trong quá trình điều tra khiếu nại, có thể kiểm tra bất cứ tài liệu nào có thể áp dụng Luật này, và nằm dưới quyền kiểm soát của cơ quan chính phủ; những tài liệu đó không thể bị tước đi khỏi ủy viên thông tin vì bất cứ lý do gì.

(3) Ngoại trừ việc xét xử một người vì phạm tội theo qui định ở mục 131, Bộ luật hình sự liên quan đến các tuyên bố theo qui định của Luật này, trong một bản luận tội theo Luật này, hoặc trong phiên xét xử trước Tòa theo Luật này hoặc trong một kháng án, chứng cứ do một cá nhân đưa ra theo thủ tục của Luật này, và chứng cứ về sự tồn tại của thủ tục không thể được dùng để chống lại người đó trong phiên Tòa hoặc các thủ tục tố tụng nào khác.

(4) Bất cứ cá nhân nào được triệu tập đến trước ủy viên thông tin và nếu như được triệu tập xuất hiện trước Tòa án Liên bang theo qui định ở mục này đều được quyền nhận được tiền hay trợ cấp theo cân nhắc của ủy viên.

(5) Bất cứ tài liệu hay vật gì được cá nhân hay cơ quan chính phủ chuẩn bị theo khoản này sẽ được ủy viên thông tin trả lại trong vòng 10 ngày sau khi ủy viên nhận được yêu cầu của cá nhân hay cơ quan đó, nhưng khống có gì có thể ngăn được ủy viên có lại các tài liệu đó theo qui định của điều này.R.S.1985, chương A-1, câu 36; R.S.1985, chương 27 (phụ lục số 1), câu 187 (PhầnV mục 1(1).

Điều 37.

(1) Nếu như trong khi điều tra một khiếu nại về tài liệu theo qui định của Luật này, ủy viên thông tin thấy rằng khiếu nại đó có cơ sở thì ủy viên sẽ gửi một thông báo đến cho người đứng đầu cơ quan chính phủ có quyền kiểm soát tài liệu. Thông báo đó sẽ có thông tin sau:

(a) Những phát hiện của vụ điều tra và các khuyến nghị mà ủy viên thấy là đúng đắn; và

(b) Nếu thấy phù hợp, đưa ra yêu cầu rằng trong khoảng thời gian ghi cụ thể ở thông báo, phải nộp cho ủy viên bản thông báo về các hoạt động đã hoặc dự kiến sẽ có để thực hiện các khuyến nghị ở trong thông báo, và lý do tại sao mà hành động như vậy đã không hoặc không được đề nghị thực hiện.

Slovenia,  người yêu cầu có quyền khiếu nại đối với quyết định từ chối đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cũng như quyết định không chấp nhận yêu cầu tiếp cận thông tin. Người yêu cầu cũng có quyền khiếu nại đối với trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 25 của Luật này hoặc đối với trường hợp thông tin được cung cấp không ở hình thức yêu cầu theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 17 của Luật này. Cao uỷ viên về tiếp cận thông tin công xem xét và quyết định giải quyết khiếu nại. Trình tự, thủ tục khiếu nại được thực hiện theo quy định của Luật thủ tục hành chính.

 

 Cao uỷ viên về tiếp cận thông tin công (sau đây gọi tắt là “Cao uỷ viên") là cơ quan độc lập có thẩm quyền xem xét và ra quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến việc từ chối đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin hoặc không chấp nhận yêu cầu cung cấp thông tin.  Cao uỷ viên do Quốc hội nước Cộng hòa Slovenia bổ nhiệm, theo đề nghị của Tổng thống nước Cộng hòa Slovenia.

          Tại Nauy, Điều 32 quy định cụ thể về khiếu nại. Theo đó quyết định từ chối tiếp cận tài liệu theo quy định của Luật này có thể được khiếu nại đến cơ quan hành chính là cấp trên trực tiếp của cơ quan hành chính đã ra quyết định từ chối. Tuy nhiên, các quyết định cho phép tiếp cận tài liệu thì không thể bị khiếu nại. Trong trường hợp việc từ chối do một cơ quan chính quyền thành phố hoặc hạt thực hiện, Thống đốc hạt sẽ có thẩm quyền giải quyết việc khiếu nại. Nhà vua có thể đưa ra các quy định về việc cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với các quyết định do các cơ quan Chính phủ trung ương đưa ra. Nhà vua cũng có thể ban hành các quy định về việc cơ quan nào sẽ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với các quyết định do các pháp nhân quy định tại Điều 2 Đoạn b đến d ban hành. Trong trường hợp quyết định của một cơ quan bộ bị khiếu nại, bộ đó sẽ thông báo cho người khiếu nại về việc quyền khiếu nại lên Cơ quan giám sát hành chính công Ombudsman của Quốc hội sẽ không áp dụng đối với các quyết định do Nhà vua tại Hội đồng đưa ra.

 

 Trong trường hợp người đưa ra yêu cầu tiếp cận tài liệu không nhận được trả lời trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ khi cơ quan hành chính nhận được yêu cầu, điều này được xem như là một hình thức từ chối và có thể bị khiếu nại theo quy định của Đoạn thứ nhất nói trên. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp Nhà vua tại Hội đồng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Các quy định ở Đoạn thứ nhất nói trên cũng không áp dụng đối với các trường hợp thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 13 Đoạn thứ 3 hoặc trong trường hợp phải giải mật thông tin trước khi có thể cho phép tiếp cận tài liệu.

 

 Việc khiếu nại sẽ được xem xét và quyết định mà không bị trì hoãn một cách không cần thiết. Ngoài ra, các quy định của Chương VI của Luật Hành chính công sẽ được áp dụng trong phạm vi thích hợp.

 

 Quyết định của cơ quan giải quyết khiếu nại có giá trị thi hành đặc biệt theo quy định của Chương 13 Luật Thi hành đối với các cơ quan chính quyền thành phố và hạt và các pháp nhân quy định tại Điều 2 Đoạn thứ nhất từ b đến d.

 

2. Thực trạng giải quyết khiếu nại, khiếu kiện tại Việt Nam

          Như đã trình bầy ở trên, do chưa có quy trình cụ thể quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của người dân, chưa quy định thời hạn phải trả lời cung cấp thông tin, chưa quy định trách nhiệm của các cơ quan phải trả lởi yêu cầu của người dân, chưa có các quy định về phí… cho nên trên thực tế, rất ít có trường hợp người dân khiếu nại, khiếu kiện vì không cung cấp thông tin, chậm trễ cung cấp thông tin, cung cấp thông tin không chính xác…

3. Nhận xét và kiến nghị

Về kinh nghiệm quốc tế

Quyền được khiếu nại hay kháng cáo của các cá nhân được thừa nhận rộng rãi, các cá nhân có quyền khiếu nại hay kháng cáo khi họ cảm thấy yêu cầu cung cấp thông tin của họ  không được giải quyết thoả đáng, đặc biệt khi họ bị từ chối tiếp cận các thông tin mà họ muốn tìm kiếm. Các luật khác nhau quy định các biện pháp giải quyết  khiếu nại cũng khác nhau, khiếu nại nội bộ là cách thức được lựa chọn đầu tiên và phổ biến nhất, tiếp theo mới đến cách thức khiếu nại tới một cơ quan giám sát độc lập và/hoặc khiếu nại tới cơ quan tố tụng là toà án. Cơ chế giám sát độc lập rõ ràng là rất cần thiết bởi lẽ các quyết định về việc có công khai thông tin hay không phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của các công chức nhà nước.

Nhiều luật, trong đó có luật của  Hoa Kỳ, Ấn Độ, Slovenia quy định cụ thể về cơ chế khiếu nại nội bộ, có nghĩa là khiếu nại trực tiếp lên cơ quan hành chính có thẩm quyền cao hơn của cơ quan đã từ chối cung cấp thông tin. Đối với một số trường hợp, như ở Anh chẳng hạn, khiếu nại nội bộ là một thủ tục bắt buộc trước khi khiếu nại tới một cấp xét xử khác.  Luật của nhiều nước  quy định một thiết chế giám sát độc lập đóng vai trò giải quyết các khiếu nại liên quan đến tiếp cận thông tin. Cơ chế này chứng tỏ là một cơ chế hiệu quả để thực hiện quyền được thông tin. Khiếu nại, khiếu kiện tới toà án tuy là một cơ chế độc lập và có sẵn song thường gây tốn kém quá nhiều thời gian và chi phí cho tất cả các bên, trừ một vài nhóm thiểu số những người khiếu nại. Tầm quan trọng của cơ chế giám sát độc lập này đã phần nào được phản ánh trong trào lưu một số quốc gia trước đây  chưa có cơ chế giám sát độc lập thì nay đã đưa mô hình này vào áp dụng. Sau hàng loạt những lần sửa đổi luật, cuối cùng Hoa Kỳ đã thiết lập cơ quan giám sát với tôn chỉ hỗ trợ việc giải quyết các khiếu nại về thông tin. Cũng có một số luật giao việc giải quyết khiếu kiện cho Ombudsman (Thanh tra Nghị viện). Trường hợp cơ quan giải quyết khiếu nại là Ombudsman cũng có một số điểm hạn chế, kể cả thẩm quyền của cơ quan đó cũng không phù hợp với yêu cầu cụ thể để có thể giải quyết các khiếu nại về thông tin và cơ quan đó không được thiết lập riêng với các chuyên gia có chuyên môn sâu có thể giải quyết một cách chính xác các khiếu nại về thông tin. Trong khi đó, thì phương án này lại được coi là một giải pháp lựa chọn hấp dẫn đối với một số nước nhỏ hoặc không có tiềm lực kinh tế mạnh. Tại một số nước, ví dụ như Anh và Thái Lan, luật quy định cả hai cơ chế: hình thành cơ quan giám sát độc lập (Uỷ ban thông tin) và một toà trọng tài (Tribunal) chuyên biệt có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại. Một vấn đề quan trọng là, để cơ quan giám sát có thể thực hiện nhiệm vụ hoà giải tranh chấp giữa một bên là người khiếu nại và một bên là công chức, họ phải được độc lập và không bị can thiệp, đặc biệt là các can thiệp mang tính chất chính trị. Các luật khác nhau có những phương án tiếp cận khác nhau nhằm bảo đảm tính độc lập của các cơ quan này. Quy trình bổ nhiệm rõ ràng là điểm mấu chốt để bảo đảm tính độc lập. Tại Nhật Bản, Thủ tướng bổ nhiệm các Uỷ viên sau khi được cả hai viện của Nghị viện thông qua. Tại Mexico, cơ quan hành pháp thực hiện việc bổ nhiệm nhưng Nghị viện hoặc Uỷ ban Thường trực của Nghị viện lại có quyền phủ quyết việc bổ nhiệm đó. Tại Ấn Độ, Tổng thống bổ nhiệm Uỷ viên thông tin nhưng dựa trên đề cử của một hội đồng gồm Thủ tướng, Lãnh đạo đảng đối lập và một bộ trưởng trong nội các.

Kiến nghị

         Quy trình khiếu nại, khiếu kiện là không thể thiếu, nó góp phần quan trọng vào tính khả thi, hiệu quả thực hiện luật. Do vậy, trong Dự thảo Luật cần có một số quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, cơ quan nào giải quyết khiếu nại, khiếu kiện là hiệu quả nhất, cần phải được nghiên cứu, cân nhắc thêm. Qua kinh nghiệm quốc tế cho thấy, một cơ quan độc lập theo dõi, giám sát việc thực thi luật, giải quyết khiếu nại vẫn là phương án tối ưu!

 

Phần 2. QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT N ƯỚC NGOÀI

                                            Chuy ên đ ề 8   

QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP   LUẬT QUỐC TẾ                                

                               PGS-TS Tường Duy Kiên &CN Phạm Hồng Sơn

                             Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh                              

 1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế

Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin là quyền cơ bản của con người, đây không phải là khái niệm mới, mà đã xuất hiện trong thời kỳ Ánh Sáng vào thế kỷ 18. Chính trong đạo Luật về Tự do báo chí của Thuỵ Điển được ban hành vào năm 1766 đã thiết lập nguyên tắc các hồ sơ của chính phủ không được thiếu vắng, mà sẽ phải công khai cho công chúng và trao cho người dân quyền được yêu cầu tiếp cận văn bản/hồ sơ của các cơ quan chính phủ. Trong bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng xác lập nguyên tắc: “Việc tự do trao đổi về tư tưởng và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người; mọi công dân có thể phát ngôn, viết hay tiến hành in ấn một cách tự do, nhưng phải chịu trách nhiệm về sự lạm dụng quyền tự do đó (điều 11); và “Mọi công dân đều có quyền trực tiếp hoặc thông qua các đại diện của mình được xem xét cần thiết của thuế công cộng, được tự do thoả thuận đóng góp, được theo dõi việc sử dụng và được ấn định chỉ tiêu thuế, cách thức và thời hạn đóng góp; xã hội có quyền bắt mọi công chức phải báo cáo về công việc quản lý của họ[91]”. Tương tự, các nguyên tắc này, cũng được quy định trong Tuyên ngôn của Hà Lan vào năm 1795.

     Như vậy, khái niệm tiếp cận thông tin đã được quy định khá sớm và đó là một trong những quyền cơ bản của con người, nếu so sánh với sự phát triển các quyền và tự do khác của con người. Tuy nhiên, thời điểm đó, quyền tiếp cận thông tin công mới chỉ được quy định trong phạm vi một vài quốc gia. Quyền tiếp cận thông tin chỉ trở thành mối quan tâm trên phạm vi quốc tế, sau khi Liên hợp quốc ra đời. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng LHQ đã thông qua Nghị quyết số 59(1), quy định: “tự do thông tin là quyền con người cơ bản và….nền tảng của tất cả các tự do khác…”. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người được thông qua vào năm 1948 đã liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của cá nhân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các chính phủ trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền này. Quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và trong một số công ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003…

     Ở cấp độ khu vực và quốc gia, quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Công ước Nhân Quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân Quyền Châu Mỹ (ACHR), và trong Chương trình Hành động Chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái bình dương[92] cũng đã quy định rõ về tiếp cận thông tin: bảo đảm rằng công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng một cách phù hợp với pháp luật trong  nước[93]…Hiện nay, các nước trên thế giới dù khác nhau về thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế hay sự khác biệt về văn hoá trong pháp luật quốc gia đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tính đến năm 2010 đã gần 90 quốc gia ban hành luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin công. Ví dụ: Canađa ban hành năm 1983, Hunggari năm 1992, Vương Quốc Anh năm 2000, Nam Phi năm 2000, Mỹ năm 1966, Liên Bang Nga năm 2006...Ở Châu Á, một số nước cũng đã ban hành luật về tiếp cận thông tin như Thái Lan năm 1997, Hàn Quốc năm 1996, Nhật Bản năm 2004, Ấn Độ năm 2005, Trung Quốc năm 2007…

Các khía cạnh khác nhau của quyền tiếp cận thông tin               

     - Tự do thông tin hay tiếp cận thông tin, chính là mọi cá nhân, công dân được quyền tiếp cận hồ sơ, tài liệu của cơ quan nhà nước, hoặc các tổ chức có chức năng thực hiện nhiệm vụ công (cơ quan công quyền). Điều này phản ánh nguyên tắc cơ quan công quyền không được lưu giữ thông tin thay mặt chính họ, mà là thay mặt, hay xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích của tất cả các thành viên trong xã hội. Do đó, cá nhân, công dân có quyền được tiếp cận thông tin công, trừ khi những thông tin thuộc phạm trù giới hạn không được phép tiếp cận. Quyền tiếp cận thông tin của cá nhân còn có ý nghĩa thứ hai, là quyền chủ động được yêu cầu, và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước là phải công bố, phổ biến rộng rãi các loại thông tin vì lợi ích của cộng đồng;       Quyền tiếp cận thông tin, xuất hiện trong các văn kiện pháp lý đầu tiên về quyền con người, nằm trong khái niệm tự do biểu đạt, bao gồm các thành tố như: quyền tìm kiếm, quyền được tiếp nhận, quyền được tuyền bá thông tin, chứ chưa thành một quyền riêng biệt. Dần dần do đòi hỏi của dân chủ, quyền tiếp cận thông tin, được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là quyền được biết sự về thật, đòi hỏi có sự tự do thông tin. Và vì thế tiếp cận thông tin hay tự do thông tin phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho mọi công dân biết sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, đến quản lý tư pháp, quản lý hành chính của đất nước; về các vấn đề liên quan đến quốc kế, dân sinh nói chung; về bảo vệ quyền và các tự do của mọi cá nhân, công dân. Các thông tin này được xác định đó là thông tin công, được cơ quan công quyền lưu giữ thay mặt nhân dân, do đó có trách nhiệm bảo quản, và tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân, công dân được quyền tiếp cận hồ sơ chứa đựng các thông tin này. Và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin là cơ chế khế ước quyền lực nhà nước, phát huy dân chủ, hạn chế lạm quyền, lộng quyền, các hành vi sai trái, quan liêu của cơ quan công quyền và qua đó phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng.

2. Ý nghĩa của quyền tiếp cận thông tin trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật của các nước

Từ sự phát triển khái niệm quyền tiếp cận thông tin trong các văn kiện quốc tế đến pháp luật của nhiều nước trên thế giới, đã có nhiều học giả cho rằng, trước kia người ta quan niệm “Tri thức là sức mạnh”, ngày nay khi cuộc cách mạng thông tin đang diễn ra, câu nói trên vẫn đúng, nhưng nếu chỉnh sửa lại để phản ánh chính xác hơn thế giới hiện nay thì “thông tin là sức mạnh[94]”. Chính sự phát triển mạnh mẽ cuộc cách mạng thông tin như hiện nay, đã làm thay đổi quan điểm, nhận thức rõ ràng hơn của cộng đồng thế giới về tầm quan trọng và sức mạnh của thông tin, do đó công chúng có quyền được đòi hỏi cơ quan công quyền có trách nhiệm công khai thông tin công. Và vì thế, tiếp cận thông tin có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường nền dân chủ, bảo đảm tính minh bạch, chịu trách nhiệm giải trình trong hoạt động công quyền; qua đó, sẽ ngăn ngừa quan liêu tham nhũng trong bộ máy nhà nước, tăng cường nhân phẩm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân và đặc biệt quan trọng là nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.

- Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ tăng cường nền dân chủ

Mô tả tầm quan trọng của tiếp cận thông tin, trong chiến dịch toàn cầu vì tự do biểu đạt, Tổ chức phi chính phủ quốc tế về nhân quyền có tên ARTICLE 19, đã mô tả thông tin là “Khí ô xy của nền dân chủ. Thông tin là nguồn sống cơ bản của nền dân chủ…Nền dân chủ về bản chất là khả năng của cá nhân tham gia một cách hiệu quả vào quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến cá nhân đó[95]”. Và như vậy, quyền tiếp cận thông tin công được quy định và thừa nhận rộng rãi trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người và pháp luật của nhiều nước trên thế giới, chính là tạo cơ sở pháp lý để công dân có điều kiện tham gia vào công việc nhà nước, quản lý, giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền.

     Một khi người dân chủ động tham gia vào các hoạt động của nhà nước và xã hội; đóng góp ý kiến vào xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật, sẽ giúp cho nhà nước hoạch định chính sách, pháp luật vừa sát thực tế, vừa hợp với lòng dân, sẽ bảo đảm sự đồng thuận xã hội trước khi ban hành quyết định, qua đó giúp cho điều hành và quản trị xã hội được hiệu quả hơn. Từ thực tiễn nhiều quốc gia cho thấy, có thể xây dựng nhiều cơ chế để người dân tham gia vào hoạt động của nhà nước, từ việc bầu cử, ứng cử, giám sát các dịch vụ xã hội, góp ý xây dựng chính sách, phản biện xã hội, đến trưng cầu dân ý…

  Vì củng cố nền dân chủ, tăng cường mối quan hệ hai chiều giữa nhà nước và cá nhân, công dân, các văn kiện quốc tế có liên quan tới bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đều nhấn mạnh sự tham gia của công chúng trong việc ban hành các quyết định.

Ví dụ: Điều 13, Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng năm 2003 quy định: Mỗi quốc gia thành viên của Công ước, trong khả năng có thể và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp nước mình, áp dụng các biện pháp thích hợp, nhằm thúc đẩy sự tham gia chủ động của các cá nhân và tổ chức ngoài khu vực công như xã hội dân sự, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức cộng đồng, vào công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng; và nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về sự tồn tại, nguyên nhân và tính chất nghiêm trọng cũng như sự đe doạ của tham nhũng. Sự tham gia đó cần được tăng cường thông qua các biện pháp như: (a) Tăng cường tính minh bạch trong các quy trình ra quyết định, thúc đẩy đóng góp của công chúng vào các quy trình ra quyết định; (b) Đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin một cách hiệu quả; (c) Tổ chức các hoạt động thông tin cho công chúng góp phần đấu tranh không khoan nhượng chống tham nhũng, cũng như các chương trình giáo dục công chúng, bao gồm cả chương trình giảng dạy trong nhà trường và trường đại học; (d) Tôn trọng, tăng cường và bảo vệ sự tự do tìm kiếm, nhận, xuất bản và tuyên truyền thông tin về tham nhũng.

Tăng cường sự tham gia của công chúng, còn được đề cập trong lĩnh vực môi trường. Tại Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp quốc năm 1992, Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển đã được ban hành kêu gọi các quốc gia tăng cường khả năng tiếp cận và tham gia của công chúng. Nguyên tắc số 10 quy định: “Các vấn đề môi trường sẽ được giải quyết một cách tốt nhất nếu như có sự tham gia của tất cả các công dân liên quan với các mức độ phù hợp. Ngoài ra còn được quy định trong Công ước về Tiếp cận thông tin, Tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định và Tiếp cận công lý đối với các vấn đề môi trường (hay còn gọi là Công ước Aarhus) được thông qua vào tháng 6/1998 và có hiệu lực vào tháng 10/2001.

- Thông tin công khai và bảo đảm quyền tiếp cận công bằng sẽ giảm thiểu sự độc quyền và lũng đoạn thông tin, nâng cao tính trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người

     Như trên đã đề cập, thông tin là sức mạnh, là tài sản chung, vì thế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, buộc chính quyền phải công khai các thông tin công, như thế sẽ giảm thiểu sự lũng đoạn, độc quyền của một nhóm người trong xã hội nắm giữ thông tin. Những người nắm giữ thông tin, nếu không có cơ chế kiểm soát, họ sẽ sử dụng thông tin công để làm lợi cho chính bản thân họ hơn là mang lợi ích cho mọi người. Vì thế trong một xã hội cởi mở, dân chủ, tự do thông tin sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh lành mạnh trong xã hội qua đó, củng cố lòng tin của người dân đối với nhà nước và chế độ xã hội. Đồng thời chính tự do thông tin sẽ mở rộng các hoạt động chính trị, xã hội và làm cho đất nước ngày một phồn thịnh, an ninh trật tự được giữ vững; các nhóm lợi ích trong xã hội được duy trì và bảo đảm công bằng, phát triển hài hòa. Bên cạnh đó, tự do thông tin còn giúp cho việc nâng cao tính trách nhiệm của nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền khác của con người được tốt hơn. Người dân có điều kiện kiểm chứng quyền và nghĩa vụ của người dân được cơ quan công quyền tôn trọng và thực hiện ở mức độ nào.

Hiện nay quyền tiếp cận thông tin được thừa nhận rộng rãi là quyền con người, mà nội hàm của nó là quyền được tìm kiếm, nhận và truyền bá thông tin. Nhiều nước trong khu vực và thế giới quy định thành một điều luật riêng trong Hiến pháp. Chẳng hạn Mục 48 Hiến pháp năm 1997 của Thái Lan quy định: “Mọi người có quyền tiếp cận thông tin do cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước hoặc tổ chức chính quyền địa phương quản lý…”. Để tăng cường khả năng bảo vệ quyền con người, luật của nhiều nhiều nước còn quy định, chẳng hạn như Luật về Thông tin, Công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin của Liên Bang Nga quy định: “công dân có quyền nhận thông tin có liên quan tới quyền và tự do của mình từ các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương, và từ cán bộ, công chức có thẩm quyền…các văn bản pháp luật liên quan tới quyền, tự do và nghĩa vụ của con người và công dân…là những thông tin không bị hạn chế tiếp cận[96]”.

     - Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ tăng cường tính trách nhiệm giải trình, bảo đảm tính công khai, minh bạch, qua đó sẽ hạn chế quan liêu, tham nhũng

Về lý thuyết, nhà nước là người đại diện, chịu trách nhiệm trước nhân dân, tuy nhiên trên thực tế, rất khó để quy trách nhiệm cá nhân. Trong một xã hội dân chủ, không khai thông tin là cơ chế hữu hiệu để người dân kiểm chứng hoạt động của nhà nước. Công khai thông tin đòi hỏi trách nhiệm của nhà nước phải báo cáo công khai, minh bạch về các hoạt động của nhà nước. Và đây, được cộng đồng quốc tế kiểm chứng là phương thức hữu hiệu để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả nạn tham nhũng.

Điều 10 Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng quy định: xét đến sự cần thiết phải đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả, cần tăng cường minh bạch trong quản lý hành chính công, khi cần thiết kể cả trong hoạt động tổ chức, thực hiện chức năng và ra quyết định. Các biện pháp đó, ngoài các biện pháp khác, bao gồm: (a) Ban hành những trình tự thủ tục hoặc quy định cho phép công chúng, khi thích hợp, có được thông tin về việc tổ chức, thực hiện chức năng và ra quyết định của các cơ quan hành chính của họ, mà sự riêng tư và thông tin cá nhân vẫn được bảo vệ, và thông tin về những quyết định và hành vi pháp lý liên quan đến công chúng; (b) Đơn giản hóa thủ tục hành chính ở những khâu thích hợp nhằm tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận với cơ quan ra quyết định có thẩm quyền; (c) Xuất bản thông tin, có thể bao gồm báo cáo định kỳ, về nguy cơ tham nhũng trong các cơ quan hành chính nước mình.

     - Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, tiếp cận thông tin bình đẳng sẽ tăng cường hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm quyền và lợi ích của người tiêu dùng

     Nếu nhìn vào danh mục các nước có luật về tiếp cận thông tin, dễ dàng nhận thấy, đa số những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, họ ban hành luật tiếp cận thông tin sớm hơn so với các nước chậm phát triển hoặc có nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Vì thực tiễn đã qua hoạt động sản xuất kinh doanhh, chứng minh rằng, tiếp cận thông tin, sẽ giúp cho các nhà đầu tư, nhà sản xuất, kinh doanh lựa chọn thị trường, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu, về chính sách, pháp luật, sẽ giảm được chi phí khởi nghiệp, tránh rủi ro; và qua đó tin tưởng hơn vào các kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình; xây dựng cho mình các chiến lược, kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh doanh ngắn hạn và dài hạn, dự liệu và tiên đoán được những thay đổi và kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp.

     Tiếp cận được thông tin về trình tự, các thủ tục hành chính, tư pháp sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với các cơ quan công quyền trong việc thực hiện các thủ tục cần thiết liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh...Minh bạch hóa các thủ tục này cũng góp phần giảm thiểu khả năng nhũng nhiễu và lạm dụng quyền lực từ phía cơ quan công quyền. Bên cạnh đó, tiếp cận được thông tin về những phán quyết của toà án và các cơ quan có thẩm quyền khác liên quan đến giải quyết tranh chấp trong đầu tư, kinh doanh, thương mại sẽ giúp các doanh nghiệp tiên lượng được những gì có thể xảy ra và tránh được những điều cần tránh. Hơn nữa, công khai các phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp sẽ bảo đảm các cơ quan giải quyết được khách quan hơn, tự nâng cao trách nhiệm đối với việc ban hành quyết định và ra các bản án.

     Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tự do thông tin về những cam kết trong hội nhập kinh tế, quốc tế, về luật lệ, nguyên tắc kinh doanh, làm ăn với các đối tác nước ngoài còn là cơ sở giúp doanh nghiệp, các nhà đầu tư tự tin, sẵn sàng, chủ động hơn trong quá trình hội nhập, giảm thiểu khả năng rơi vào tình thế bị động trước các đối thủ cạnh tranh và, đối với người tiêu dùng, tự do thông tin giúp cho người tiêu dùng lựa chọn được sản phẩm hàng hóa đúng mẫu mã, chất lượng và giá thành; tránh mua phải hàng nhái, hàng kém chất lượng; qua đó cải thiện cuộc sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.

                                        

                                       Chuyên đề  9

   LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN MỘT SỐ NƯỚC CHÂU ÂU

                 PGS-TS Thái Vĩnh Thắng  & LG  Nguyễn Chu Dương

1.Thụy Điển

  Thụy Điển là nước  có luật tự do báo chí lâu đời nhất thế giới, từ 1766. Luật tự do báo chí năm 1766 và Luật Tự do ngôn luận năm 1991 là hai luật chủ đạo liên quan đến quyền tiếp cận thông tin. Thụy Điển là nước đầu tiên nâng Luật về tiếp cận thông tin lên hàng có hiệu lực pháp lý như Hiến pháp.

 Tự do ngôn luận và quyền tiếp cận tài liệu công trong luật 1766 của Thụy Điển được coi là tiến bộ nhất thế giới trong thế kỷ XVIII. Luật được coi là phương tiện đấu tranh giảm tham nhũng và các đối xử bất công với công dân, tăng uy tín cho các cơ quan công cũng như các chính trị gia. Luật xây dựng trên nền tảng khái niệm tự do về ngôn luận và tự do thông tin, cụ thể hoá vai trò Ombudsman  trong việc giám sát đảm bảo thực hiện quyền tiếp cận thông  cũng như các  quyền khác của cá nhân. Quan điểm về tiếp cận tài liệu công được nêu rõ như sau: Nền dân chủ yêu cầu sự tham gia của công chúng trong việc xây dựng chính sách công. Nó yêu cầu công dân có những biện pháp thực hiện kiểm soát lên chính quyền nhằm tăng tính hiệu quả và xoá bỏ tham nhũng. Nền dân chủ cũng cần bảo đảm tính công khai trong nền hành chính công, cho phép các công dân tham gia tích cực vào quá trình ra quyết định và tăng tính trách nhiệm giải trình và hiệu quả làm việc của các thể chế công[97].

Nguyên tắc tiếp cận thông tin  công có nghĩa là công chúng (bao gồm cả báo chí, truyền hình) được đảm bảo quyền xem xét các hoạt động của chính phủ và chính quyền địa phương; mọi tài liệu do chính quyền nắm giữ đều có thể cho công chúng được biết, trừ những tài liệu được quy định là tài liệu mật. Tuy nhiên, mỗi yêu cầu cung cấp thông tin nhạy cảm đều cần được xem xét theo trường hợp cụ thể và nếu bị từ chối cung cấp thông tin, người yêu cầu có quyền kháng kiện. Nguyên tắc về tiếp cận thông tin bao gồm: tiếp cận các tài liệu chính thức; tự do ngôn luận cho công chức và mọi người dân; tự do trao đổi giữa công chức và người dân; tiếp cận phiên toà; tiếp cận các phiên họp của Quốc hội.

 Điều 1 của Chương II Luật Tự do báo chí còn ghi rõ “mọi công dân Thụy Điển đều có quyền tiếp cận tài liệu chính thức miễn phí, nhằm mục đích tự do trao đổi ý kiến và sự sắn có của thông tin phức hợp”. Điều 2 quy định “Quyền tiếp cận các tài liệu công chỉ có thể bị hạn chế nếu cần thiết trong các bối cảnh có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và quan hệ của quốc  gia với các nước khác và các tổ chức quốc tế; chính sách tài chính, tiền tệ, tỷ giá; các hoạt động điều tra, kiểm soát của cơ quan công quyền; phòng ngừa tội phạm; quyền lợi kinh tế công; bảo vệ tính riêng tư, quyền lợi kinh tế của cá nhân; bảo vệ thiên nhiên và môi trường”. Ngoài ra mọi tài liệu bị cho là mật đều được quy định rõ trong Luật Bí mật năm 1980 với trên 160 mục. Hầu hết các hạn chế về thông tin theo dạng mật đều đòi hỏi phải chứng minh là việc công bố thông tin đó sẽ gây hại tới cộng đồng. Thông tin được giữ bí mật trong khoảng từ 2 đến 70 năm tuỳ loại thông tin.

 Theo Luật năm 1976, Chính phủ, cơ quan trung ương kể cả các cơ quan thương mại công, toà án, chính quyền (hành chính) địa phương đuợc gọi là cơ quan công quyền. Quốc hội và bất kỳ một hội đồng chính phủ địa phương nào được trao quyền ra quyết định phải được coi là một cơ quan hành chính công. Các cơ quan công bắt buộc phải lưu giữ các tài liệu chính thức theo hệ thống và tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận được rõ ràng. Một công dân bình thường cũng có thể đến hoặc yêu cầu Thủ tướng cho xem những tài liệu chính thức của Thủ tướng. Khi tài liệu thuộc tài liệu công, cần được in ra, lưu và liệt kê trong công báo. Việc thay đổi hay xoá bỏ tài liệu trong danh sách công báo là vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự.

 Theo Luật dữ liệu cá nhân, cá nhân có quyền tiếp cận và sửa đổi thông tin cá nhân của chính họ do các cơ quan công và tư nắm giữ. Quyền giám sát luật về dữ liệu cá nhân thuộc về Ban Kiểm soát dữ liệu quốc gia.

 Công dân không cần mô tả chính xác về tài liệu cần tìm, tuy nhiên cơ quan nhà nước không có nghĩa vụ tìm kiếm dàn trải một tài liệu nào đó nếu cá nhân yêu cầu không đưa ra được chi tiết về tài liệu đó. Nếu tài liệu có một phần nội dung không mật, những phần không mật phải được cung cấp ở dạng bản sao hoặc bản ghi âm.

 Khiếu nại, khiếu kiện được thực hiện theo hai cấp. Khiếu nại nội bộ sau đó có thể gửi lên Thanh tra Quốc hội, cơ quan có tính chất trung lập chính trị này có thể đưa ra nhận xét và khuyến nghị không có tính bắt buộc. Khiếu kiện thì có thể gửi lên Toà hành chính và Toà hành chính tối cao.

2. Phần Lan

   Hiến pháp Phần Lan có tính chất và nội dung rất tương đồng với Thụy Điển về các quyền cơ bản của con người và công dân. Hệ thống văn bản luật bao gồm Luật Tự do báo chí Thụy Điển phiên bản cho Phần Lan, có quy đinh tự do tiếp cận thông tin. Quyền tiếp cận thông tin được luật hoá và sửa đổi trong Luật Mở tài liệu công năm 1951 (Act of openess of public Documents of 1951)  và sau đó là Luật Mở về các hoạt động của Chính phủ năm 1999 ( Act of openess of Government Activities of 1999)[98]. Uỷ ban Chống Tham nhũng của Hội đồng Châu Âu đã nhận định, luật tự do thông tin của Phần Lan là một trong số yếu tố then chốt để Phần Lan có mức (chỉ số) tham nhũng thấp.

 Luật Mở tài liệu công quy định công khai các tài liệu do nhà nước, chính quyền cơ sở và tổ chức tôn giáo nắm giữ. Luật Mở về các hoạt động của Chính phủ đưa ra nguyên tắc về công khai đối với cả khu vực doanh nghiệp có thực hiện chức năng công, như quỹ hưu. Luật này quy định quyền tiếp cận thông tin và nghĩa vụ của nhà chức trách cung cấp thông tin, nhằm mục tiêu tăng cường công khai về hoạt động quản lý thông tin của chính phủ, tạo cơ hội tốt cho các cá nhân, tổ chức giám sát các hoạt động của cơ quan công quyền và sử dụng nguồn lực công. Mọi người đều có quyền có quan điểm, có thể phản hồi và gây ảnh hưởng lên các hoạt động của cơ quan công quyền. Luật cũng nhằm mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích, mối quan tâm chung của công chúng. Luật cũng cho phép mọi người dân có quyền tiếp cận tài liệu chính thức được đưa lên trang điện tử hoặc thư viện[99].

 Những hạn chế của tiếp cận thông tin là: tài liệu nội bộ, tài liệu không chính thức; các thông tin hoặc tài liệu chuẩn bị về quá trình ra quyết định. Các thông tin hạn chế (120 loại thông tin) cũng được phân nhóm thành 32 nhóm (theo Điều 24 Luật năm 1999): kể cả đối ngoại, điều tra hình sự, cảnh sát, an ninh, tình báo quân đội và lực lượng vũ trang và cần cân nhắc cả lợi ích công cộng, bí mật doanh nghiệp, thông tin cá nhân. Tuy nhiên Luật năm 1999 (Chương VII) cũng quy định các nguyên tắc tiếp cận với các thông tin bí mật, việc tiếp cận các tư liệu bí mật lưu trữ, tư liệu bí mật của nhà chức trách hay việc một nhà chức trách có thể cho phép tiếp cận với thông tin mật của một số nhà chức trách khác, hay cho phép tiếp cận với những thông tin mật của nhà chức trách của một nước khác hoặc của một tổ chức quốc tế.

   Nghị viện của Phần Lan cũng có cơ quan Thanh tra Nghị viện với chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền và nhà chức trách về thực thi luật và phán quyết về thực thi luật, nhận các khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

  Luật 1999 cũng có những quy định cụ thể về quyền  công dân được tham dự các phiên họp toàn thể của Nghị viện, các phiên họp của Hội đồng địa phương và các cơ quan địa phương khác, các phiên toà và các cuộc họp của các cơ quan tôn giáo.

3. Na Uy

    Luật Tự do thông tin năm 1970 được sửa đổi gần nhất năm 2006. Những sửa đổi cập nhật nhất nhằm vào các vấn đề xử lý yêu cầu thông tin, hạn chế các tài liệu nội bộ, thông tin miễn trừ và sửa đổi để phù hợp với yêu cầu của Liên minh Châu Âu đặc biệt liên quan đến yêu cầu tiếp cận thông tin môi trường và yêu cầu tính minh bạch cao hơn.

 Một đặc điểm nổi bật của Luật Tự do thông tin của Na Uy là quyền được biết hay quyền tự do thông tin đã được hiến pháp hoá theo điều 100 Hiến pháp sửa đổi năm 2004 như sau:

“Quyền tự do ngôn luận: Không ai phải chịu trách nhiệm trước pháp luật vì truyền đạt, phổ biến hoặc nhận thông tin, ý kiến vì quyền này được giải thích bởi cơ sở tự do ngôn luận nói trên, được hiểu là tìm kiếm sự thật, đẩy mạnh dân chủ và tự do cá nhân bày tỏ ý kiến. Mọi người được quyền tiếp cận tài liệu của Nhà nước và chính quyền cơ sở. Hạn chế của quyền này sẽ được quy định bởi pháp luật để bảo vệ tính riêng tư của cá nhân hoặc vì lý do cần thiết”.

  Luật sửa đổi gần nhất đã mở rộng phạm vi áp dụng đối với các công ty, pháp nhân có ít nhất 50% vốn của nhà nước; giảm thiểu phạm vi miễn trừ, tức là không miễn trừ toàn bộ tài liệu có những thông tin bí mật mà chỉ loại trừ thông tin mật đó khỏi tài liệu khi cung cấp thông tin. Theo Luật,  cơ quan công cần cung cấp thông tin là các bộ, ngành hành chính, chính quyền ở cả ba cấp, bao gồm các công ty ít nhất 50% vốn nhà nước ở cả cấp trung ương và địa phương. Một số cơ quan như Tổng cục cảnh sát, Tổng cục an ninh quốc phòng và Tổng cục tình báo thường nằm trong diện miễn trừ. Tuy nhiên với đạo luật mới, các cơ quan này vẫn là đối tượng áp dụng của Luật. Kinh nghiệm hoạt động của các cơ quan này là cơ sở dữ liệu thông tin của họ cần xử lý kỹ càng để mọi thông tin phải mở sẽ được liệt kê trong công báo, mà không có loại thông tin dạng mật nào nằm nhầm trong công báo. Đồng thời các cơ quan áp dụng nhiều hơn hình thức cung cấp tài liệu nhưng bỏ đi phần thông tin thuộc phân loại mật.

 Các thông tin từ cơ quan lập pháp, tư pháp và cảnh sát làm chức năng công tố không nằm trong điều khoản của Luật tự do thông tin, mà thuộc sự điều chỉnh của luật khác.

   Theo Luật tiếp cận thông tin, bất kỳ ai cũng có thể yêu cầu cơ quan hành chính  cho xem những nội dung văn bản về một sự việc cụ thể. Những thông tin đang tranh cãi cũng có thể đưa ra công chúng. Yêu cầu thông tin sẽ được các cơ quan công hoặc công chức xem xét trên nguyên tắc lợi ích công cộng. Kể cả thông tin thuộc dạng mật, nhưng trước yêu cầu cung cấp thông tin, người có trách nhiệm cao nhất của cơ quan có quyền xem xét tính chất mật của tài liệu sẽ phải cân nhắc có cho phép tiếp cận hay không và có thể cho tiếp cận nếu lợi ích công cộng cao hơn.

 Người yêu cầu thông tin không cần phải đưa ra chi tiết hoặc mã số văn bản yêu cầu mà chỉ cần liên quan đến trường hợp cụ thể hoặc nói cách khác là mô tả loại tài liệu hoặc trường hợp cụ thể đó ở mức độ hợp lý. Mọi yêu cầu về thông tin cần phải được trả lời trong vòng 5 ngày và quyết định từ chối cung cấp thông tin phải được trả lời trong vòng 10 ngày, trừ những thông tin nằm trong dạng cần được giải thích về yêu cầu thông tin hoặc có quyết định tạm hoãn không cung cấp thông tin tới một thời gian nhất định trong tương lai (Điều 5). Yêu cầu thông tin hay tiếp cận thông tin không mất lệ phí. Có quy định người yêu cầu có thể yêu cầu nhiều loại tài liệu nhưng tối đa số trang mỗi tài liệu yêu cầu không quá 100 trang. Trên mức đó, người yêu cầu phải trả lệ phí với mức phải chăng.

 Luật quy định quyền khiếu nại và khiếu kiện tới cơ quan chức năng cấp cao hơn và sau cùng là Ombudsman ( Thanh tra Nghị viện) hoặc toà án cấp cao hơn.

4. Đan Mạch

   Luật về tiếp cận các tài liệu hành chính công của Đan Mạch được ban hành năm 1985, quy định áp dụng đối với tất cả các hoạt động được thực thi bởi cơ quan hành chính công, đổng thời áp dụng với một số cơ sở sản xuất, và với công ty, hiệp hội, tổ chức, nghiệp đoàn cụ thể… sử dụng ngân sách nhà nước hay có chức năng công quyền do uỷ quyền.

Bất kể người nào cũng có thể yêu cầu được thông báo cho biết về các tài liệu do cơ quan hành chính tiếp nhận hoặc ban hành trong quá trình hoạt động. Cơ quan hành chính có thể cho phép sự tiếp cận rộng hơn đối với các tài liệu khi điều này không phải tuân theo quy định về bí mật.

  Luật quy định  các tài liệu về  công việc nội bộ của công chức, viên chức thuộc diện loại trừ. Tuy nhiên, các thông tin về sự thật trong tài liệu quy định là tài liệu quan trọng đối với vấn đề đang xem xét thì những thông tin đó, bất kể đã có quy định trước hay không, đều được công bố. Luật cũng quy định các thông tin được miễn liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật nhà nước…

  Các luật có liên quan đến tiếp cận thông tin như Luật Lưu trữ, cho phép các lưu trữ của các cơ quan công được duy trì trong vòng 30 năm, các thông tin cá nhân được lưu trữ trong vòng 80 năm; các thông tin về an ninh quốc gia và các lý do khác có thể đóng theo thời hạn khác nhau.

Cơ quan công quyền cần cung cấp thông tin nếu việc không cung cấp gây tổn hại cho cuộc sống, sức khoẻ, tài sản và môi trường của cộng đồng.

5. Vương quốc Anh   

    Luật Tự do thông tin của Vương quốc Anh ban hành năm 2000, sau hai năm thông qua Luật Nhân quyền. Điều 1 quy định bất kỳ người nào cũng có quyền yêu cầu cơ quan công quyền cung cấp thông tin và có quyền được thông tin. Lụât định nghĩa thông tin một cách đơn giản đó là những tin tức/dữ liệu, tài liệu được ghi lại dưới bất kỳ hình thức nào. Và thông tin này do cơ quan công quyền nắm giữ tại thời điểm nhận được yêu cầu. Luật cũng xác định cơ quan nào được coi là cơ quan công quyền và việc xác định được quy định trong Phụ lục 1. Bản danh sách này bao gồm tất cả cơ quan của Chính phủ, một vài cơ quan lập pháp (Luật không điều chỉnh cơ quan lập pháp của Scotland vì vùng này có luật riêng), lực lượng vũ trang và một số cơ quan khác được liệt kê theo tên riêng. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu công cũng được xác định như là những cơ quan của Hoàng gia hoặc một cơ quan/tổ chức công cộng (không phải cơ quan của Chính phủ) cũng được coi là cơ quan công quyền.

  Cơ quan công quyền có trách nhiệm cung cấp thông tin và trong trường hợp từ chối thì cơ quan này phải thông báo cho người yêu cầu ngay lập tức trong thời hạn 20 ngày.

  Khoảng thời gian giữa thời điểm người yêu cầu trả phí và ngày mà phí yêu cầu được thanh toán là thời điểm không được tính trong thời hạn 20 ngày. Tuỳ theo từng loại thông tin khác nhau mà Bộ trưởng có thể gia hạn thời hạn này nhưng không quá 60 ngày.

 Trong thời hạn 20 ngày, người yêu cầu phải nhận được thông báo về việc thông tin họ yêu cầu cần phải xem xét, thông báo này được tính vào thời hạn đưa ra quyết định. Sau khi hết thời hạn gia hạn cung cấp thông tin, quyết định cuối cùng là không công khai thông tin được yêu cầu công khai, cơ quan nhận được yêu cầu phải gửi thông báo cho người yêu cầu và nêu rõ lý do (phải nêu những ngoại lệ được sử dụng), chi tiết thủ tục khiếu nại nội bộ cũng như quyền khiếu nại lên Uỷ ban Thông tin.

   Luật Tự do thông tin không điều chỉnh việc chuyển yêu cầu hoặc tham vấn cho bên thứ ba một cách trực tiếp, tuy nhiên việc phối hợp này được quy định bằng Bản quy tắc. 

   Luật quy định hai chế độ phí mà người yêu cầu phải trả, và phí phải được thanh toán trong thời hạn 3 tháng. Người yêu cầu không phải trả phí cho thời gian làm việc của nhân viên cơ quan cung cấp thông tin.

   Luật của Anh không quy định danh sách thông tin mà mỗi cơ quan công quyền buộc phải công bố. Điều 19 quy định cơ quan công quyền buộc phải phát triển, công bố và thi hành các kế hoạch đăng tải, xác định các loại thông tin mà cơ quan này sẽ công bố, cách thức công bố và những loại thông tin nào sẽ thu phí. Kế hoạch công bố thông tin phải được Uỷ ban quản lý thông tin thông qua.

 Luật cũng quy định một loạt các trường hợp ngoại lệ như là sự miễn trừ. Phần lớn các ngoại lệ là rõ ràng. Luật quy định trong bất kỳ trường hợp nào, lợi ích công cộng trong việc duy trì ngoại lệ cao hơn so với lợi ích công cộng khi tiết lộ thông tin đó. Do các quy định của Luật chỉ áp dụng cho thông tin, không áp dụng đối với các tài liệu, vì thế bất kỳ thông tin nào không thuộc phạm vi ngoại lệ buộc phải công khai.

 Luật quy định 3 cấp khiếu nại, cấp đầu tiên là trong phạm vi cơ quan nắm giữ thông tin, cấp thứ hai là Uỷ ban Thông tin, và tiếp theo là Toà án (Tribunal) chuyên xét xử các vụ việc liên quan đến tự do thông tin. Cơ chế xét xử ở cấp thứ ba tương tự như cơ chế xét xử của trọng tài thương mại.

6. Pháp

   Luật về tiếp cận thông tin của Pháp ban hành năm 1978, sửa đổi năm 2000. Luật cụ thể hoá và đảm bảo quyền của mọi người được tiếp cận thông tin trong phạm vi mà quyền tiếp cận các tài liệu hành chính đã quy định. Tài liệu hành chính là các văn bản, báo cáo, nghiên cứu, bản sao, bản ghi chép, số liệu, lệnh, hướng dẫn, các thông tư cấp bộ, bản ghi nhớ và các hồi đáp liên quan đến giải thích luật hoặc giải trình thủ tục hành chính, khuyến nghị, dự báo, và các quyết định của nhà nước, cơ quan địa phương, cơ quan công hoặc các tổ chức hoạt động dựa trên luật công hay luật tư để quản lý một dịch vụ công. Các tài liệu này có thể ở dạng viết, nghe, nhìn, các tài liệu trên các phương tiện trung chuyển xử lý dữ liệu, hoặc các tài liệu có thể xem được bằng các quy trình tự động đang được sử dụng.

 Các cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trao các tài liệu về hành chính thuộc quyền sở hữu của mình cho tất cả những người nộp đơn xin sử dụng theo các điều kiện được quy định. Quyền được trao văn bản sẽ chỉ được áp dụng đối với các tài liệu đã hoàn chỉnh. Quyền này sẽ không được thực hiện nếu như tài liệu đã được lưu hành trong công chúng hay các tài liệu được chuẩn bị theo hợp đồng dịch vụ với những điều khoản được thực thi trên tư cách của một hoặc một vài người. Dịch vụ công được yêu cầu sẽ không bắt buộc phải chấp nhận những đề nghị phi lý với lý do là số lần yêu cầu hoặc bởi tính chất lặp đi lặp lại và có hệ thống của những yêu cầu đó. Luật có quy định cụ thể về các trường hợp ngoại lệ. Ngoài ra, những trường hợp tài liệu hành chính chỉ được phép trao cho người có liên quan được quy định: nếu việc trao những tài liệu đó có thể gây ảnh hưởng đến sự riêng tư và bí mật của hồ sơ cá nhân, bí mật về y tế hoặc bí mật về thương mại và sản xuất; tài liệu về những đánh giá hoặc nhận xét về một thể nhân, có thể nhận ra bằng tên hoặc đặc điểm dễ nhận biết; tài liệu nêu ra hành vi của một cá nhân mà có thể gây hại đối với người đó sau này, nếu bị tiết lộ. Thông tin y tế phải được trao cho người liên quan, trực tiếp hoặc thông qua bác sỹ và phải có sự đồng ý của người đó theo các điều kiện  quy định tại Bộ Luật về Sức khoẻ và cộng đồng.

 Luật của Pháp quy định thành lập Uỷ ban về tiếp cận tài liệu hành chính chịu trách nhiệm thực thi quyền tự do tiếp cận các  tài liệu hành chính và tài liệu lưu trữ công. Uỷ ban giải quyết khiếu nại trước khi khởi kiện ra Toà Hành chính.

7. Liên bang Nga

  Luật về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin ban hành năm 2006 có phạm vi điều chỉnh rộng. Điều 8 có quy định về quyền tiếp cận thông tin. Công dân và tổ chức có quyền tìm kiếm và nhận bất kỳ thông tin nào với bất kỳ hình thức nào từ bất kỳ nguồn nào với điều kiện tuân thủ các quy định của Luật này và các luật khác của Liên bang.

 Công dân có quyền nhận thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và tự do của mình từ các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương và từ cán bộ, công chức có thẩm quyền theo trình tự được pháp luật Liên bang Nga quy định. Tổ chức có quyền nhận từ cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của mình cũng như các thông tin cần thiết khác có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của mình.

  Không được hạn chế tiếp cận đối với: các văn bản pháp luật liên quan đến quyền, tự do và nghĩa vụ của con người và công dân và các văn bản pháp luật quy định địa vị pháp lý của các tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, các cơ quan chính quyền địa phương; thông tin về trạng thái môi trường; thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương và thông tin về sử dụng ngân sách (trừ các tin tức về bí mật quốc gia hoặc bí mật công vụ); thông tin được lưu trữ trong các thư viện công cộng, bảo tàng, kho lưu trữ và trong các hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước, các cơ quan chính quyền địa phương và của các hệ thống thông tin khác được thiết lập nhằm phục vụ công dân và tổ chức; các thông tin khác mà pháp luật liên bang không hạn chế tiếp cận.

  Luật cũng quy định việc hạn chế tiếp cận thông tin nhằm mục đích bảo vệ chế độ Hiến pháp, đạo đức, sức khoẻ, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, bảo đảm nền quốc phòng đất nước và an ninh quốc gia.

8. Ba Lan

   Luật về tiếp cận thông tin công của Ba Lan được thông qua năm 2001. Luật quy định tất cả những thông tin về các vấn đề chung là các thông tin công, và được công khai theo các nguyên tắc và điều khoản ghi trong Luật. Điều 4 quy định công khai các thông tin công cho mọi người được biết là trách nhiệm của các cơ quan công quyền cũng như các cơ quan tổ chức khác thực hiện các chức năng công, đặc biệt: các cơ quan của cơ quan công quyền; các cơ quan kinh tế và chính quyền của địa phương; các pháp nhân đại diện cho Bộ Tài chính được quy định theo các điều khoản riêng biệt; các thực thể đại diện cho pháp nhân của nhà nước hoặc pháp nhân của chính quyền địa phương và chủ thể đại diện cho đơn vị của tổ chức nhà nước hoặc đơn vị của chính quyền địa phương; các chủ thể đại diện cho người khác hoặc đơn vị tổ chức khác thực hiện các chức năng công cộng, phân bổ tài sản công cũng như các chủ thể mà trong đó Bộ Tài chính, đơn vị của chính quyền địa phương hoặc tổ chức kinh tế hoặc chuyên nghiệp của địa phương giữ vị trí quan trọng trong việc hiểu các điều khoản về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. Công khai các thông tin công là trách nhiệm của các đơn vị đại diện tổ chức công đoàn và nhân viên của các tổ chức theo quy định ở Đạo luật ngày 6 tháng Bảy năm 2001 về Uỷ ban Ba bên về các vấn đề kinh tế - xã hội và Uỷ ban về đối thoại xã hội và các đảng phái chính trị. 

 Điều 6 của Luật quy định những thông tin phải được công khai, đặc biệt: chính sách đối nội, đối ngoại; quy chế pháp lý và hình thức các văn bản luật; kê khai tài sản của các cơ quan, tổ chức được luật quy định; tài sản các cơ quan tổ chức nói trên chi dùng; nguyên tắc về phân công nhiệm vụ cho các chủ thể; tài liệu công; tài sản công  bao gồm: tài sản của Bộ tài chính và các pháp nhân của nhà nước, các tài sản khác thuộc về quốc gia và các khoản nợ quốc gia, tài sản của các đơn vị trực thuộc chính quyền địa phương, các khu kinh tế địa phương, cũng như tài sản của pháp nhân thuộc về chính quyền địa phương; tài sản của các thực thể theo quy định của luật có được từ việc bán tài sản được quy định trong luật cũng như lợi tức có được từ tài sản này; nguồn lợi tức và thua lỗ từ các công ty thương mại trong đó các thực thể được quy định trong luật giữ vị trí quan trọng trong việc diễn giải các điều khoản của Luật về các công ty thương mại về việc thất thoát thu nhập và phương pháp thu bù lỗ; nợ công; cứu trợ xã hội; nghĩa vụ công. Việc tiếp cận các thông tin công được miễn phí.

 Điều 13 của Luật quy định việc cung cấp thông tin công dựa trên yêu cầu phải được làm không được chậm trễ, và không vượt quá 14 ngày kể từ ngày nộp đơn yeu cầu. Nếu thông tin công không thể đưa ra trong thời hạn trên, trong thời gian đó, chủ thể có trách nhiệm về việc cung cấp thông tin có nghĩa vụ phải thông báo lý do chậm trễ và ngày mà thông tin sẽ được đưa ra, không muộn hơn 2 tháng kể từ ngày nộp đơn yêu cầu.

 Luật cũng quy định phải công khai các cuộc họp của các cơ quan công quyền được bầu ra trong tổng tuyển cử.

9.Thổ Nhĩ Kỳ

    Luật về quyền được thông tin ban hành năm 2003 nêu rõ mục tiêu của Luật là quy định các thủ tục và cơ sở của quyền được thông tin dựa trên nguyên tắc bình đẳng, toàn vẹn, và cởi mở là những điều kiện cần thiết của một chính phủ dân chủ và minh bạch.

 Luật có định nghĩa về “thông tin” được dùng trong Luật, theo đó thông tin là tất cả mọi dữ liệu nằm trong phạm vi của Luật này và được ghi trong hồ sơ lưu của các cơ quan. Còn “tài liệu” thuộc phạm vi của Luật được định nghĩa tất cả các tài liệu, sách, tạp chí, bản giới thiệu, túi nhỏ, thư, phần mềm, hướng dẫn, bản vẽ, kế hoạch, phim ,ảnh, băng video và cát-sét, bản đồ các tổ chức, dạng viết, in hay sao; các thông tin, tin tức và các dữ liệu khác được ghi âm, thu hình và lưu trữ dưới dạng điện tử.

 Tất cả mọi người đều có quyền được thông tin. Những người nước ngoài sinh sống ở Thổ Nhĩ Kỳ và các pháp nhân nước ngoài hoạt động ở Thổ Nhĩ Kỳ có quyền được thông tin theo Luật này với điều kiện là thông tin họ yêu cầu phải liên quan đến họ hoặc lĩnh vực họ hoạt động và trên cơ sở của nguyên tắc có đi, có lại (Điều 4).

 Theo Điều 8, các thông tin và tài liệu được công bố và xuất bản cho công chúng qua ấn bản, bản giới thiệu, tuyên bố hoặc các phương tiện tương tự khác thì sẽ không cần phải nộp đơn xin tiếp cận. Tuy nhiên người nộp đơn sẽ được thông báo về ngày, phương thức và địa điểm công bố và xuất bản thông tin hay tài liệu đó.

 Phần IV quy định các hạn chế đối với quyền tiếp cận thông tin khá cụ thể và chi tiết. Các thông tin và tài liệu mà việc tiết lộ có thể gây nguy hại đến lợi ích kinh tế  của quốc gia hoặc gây ra cạnh tranh, hoặc làm giàu không công bằng sẽ nằm ngoài phạm vi của Luật này. Các thông tin và tài liệu nói về nghĩa vụ và hoạt động của các cơ sở tình báo dân sự và quân sự đều nằm ngoài phạm vi của Luật này. Tuy nhiên các thông tin và tài liệu có thể ảnh hưởng đến danh dự nghề nghiệp và cuộc sống làm việc của cá nhân đều nằm trong phạm vi quyền tiếp cận thông tin…Điều 28 quy định các thông tin và tài liệu không còn được xếp loại bởi các quyết định về pháp lý hay hành chính được công khai cho các cá nhân nộp đơn xin tiếp cận, với điều kiện là chúng nằm trong phạm vi các ngoại lệ do Luật này đề ra. 

10. Hà Lan

    Luật năm 1991 quy định về quản lý việc tiếp cận chúng đối với các thông tin của Chính phủ quy định cơ quan hành chính nhà nước, trong phạm vi trách nhiệm của mình phải công khai thông tin theo Luật này, nhưng không trái với các quy định ở các Luật khác.

 Tất cả mọi người đều có thể nộp đơn xin tiếp cận các thông tin có trong tài liệu về các vấn đề hành chính, cho các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, dịch vụ hoặc công ty có trách nhiệm của một cơ quan hành chính.

 Các cơ quan hành chính trực tiếp liên quan phải cung cấp thông tin về chính sách, quá trình soạn thảo và thực thi, có trong hồ sơ của cơ quan mình, nếu những quy định về thông tin đó vì lợi ích của quản lý dân chủ và tính hiệu quả. Cơ quan hành chính phải bảo đảm thông tin được cung cấp là toàn diện và những cá nhân hay tổ chức liên quan có thể tiếp cận được với thời gian thích hợp cho phép họ bày tỏ công khai quan điểm của mình đối với cơ quan hành chính biết ở thời điểm thích hợp. Các khuyến nghị về chính sách của những uỷ ban tư vấn độc lập cùng với yêu cầu tư vấn và đề nghị sẽ được công khai khi cần thiết cùng với lời giải thích.

 Điều 10 quy định về trường hợp ngoại lệ. Điều 11 quy định có thể tiếp cận các tài liệu soạn thảo nhằm mục đích tham khảo nội bộ nhưng không thể tiết lộ ý kiến cá nhân đối với chính sách trừ khi vì lợi ích của quản lý dân chủ và hoạt động hiệu quả. Nếu những người bày tỏ ý kiến hoặc ủng hộ ý kiến đồng ý thì thông tin về ý kiến cá nhân có thể được công bố và có thể nhận ra ý kiến đó là của cá nhân.

11. Bulgary

   Luật tiếp cận thông tin công Bulgary ban hành năm 2000, đã sửa đổi một số lần. Luật có một số đặc điểm tích cực bao gồm: cách thức tiếp cận tiến  bộ và có cải cách đối với việc chủ động cung cấp thông tin và đảm bảo quy trình thủ tục đúng đắn. Bên cạnh đó một số khiếm khuyết là thiếu cơ chế hoàn chỉnh về các ngoại lệ và các thiếu sót khác là thiếu quy định về thủ tục hành chính trong việc giải quyết khiếu nại và các biện pháp thúc đẩy rất hạn chế quy định trong luật.

  Điều 3 quy định hai loại tổ chức công thuộc đối tượng điều chỉnh của luật. Loại thứ nhất là cơ quan nhà nước và chính quyền tự quản địa phương và loại thứ hai là các cơ quan/tổ chức được quy định  tại luật công khác, các cá nhân và pháp nhân được hưởng ngân sách nhà nước, truyền thông đại chúng.

 Theo Luật, thông tin công có nghĩa là các loại thông tin liên quan đến đời sống xã hội ở Bulgary, tạo cơ hội cho công dân có chính kiến đối với các hoạt động của mình. Những người có quyền tiếp cận thông tin công bao gồm công dân và người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ và các pháp nhân.

 Trong trường hợp người nộp yêu cầu không miêu tả chính xác thông tin tìm kiếm, thì người nộp đơn có thể làm rõ thêm trong thời hạn 30 ngày, thời gian này không được tính vào thời hạn cung cấp câu trả lời. Thời hạn để trả lời là 14 ngày trừ khi yêu cầu một số lượng lớn văn bản và cần nhiều thời gian để trả lời, thời gian để trả lời có thể được gia hạn đến 10 ngày.

 Luật quy định việc cung cấp thông tin được thực hiện dưới 04 hình thức, gồm có ghi âm, giải thích miệng, bản sao bằng giấy, và hình thức bản sao khác. Hai hình thức đầu sẽ được cung cấp miễn phí, hai hình thức sau sẽ được tính phí theo quy định của Bộ Tài chính và không được vượt quá chi phí thực tế. Thông tư năm 2001 của Bộ Tài chính quy định chỉ tính chi phí vật liệu mà không tính chi phí thù lao cho cán bộ công nhân viên nhà nước.

 Luật quy định chặt chẽ nghĩa vụ công bố. Cơ quan/tổ chức phải công bố những thông tin chính thức trong các văn bản chính thứuc và danh mục các thông tin mà pháp luật yêu cầu phải công bố . Cơ quan/tổ chức phải phổ biến thông tin về hoạt động của họ dưới hình thức công bố hoặc thông báo. Điều 14(2) yêu cầu các cơ quan, tổ chức công chủ động công bố thông tin mà những thông tin này có thể ngăn chặn được các nguy cơ ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khoẻ, an ninh và tài sản, hoặc đính chính những thông tin đã được phổ biến trước đây nhưng không chính xác hoặc được luật khác yêu cầu cần công bố. Điều này cũng được gọi là phổ biến thông tin có thể trở thành lợi ích công cộng.

   Luật của Bulgary không giống như hầu hết các luật về quyền đối với thông tin, không có danh mục các trường hợp ngoại lệ. Thay thế vào đó, thông tin được phân loại là bí mật trong các luật khác và không nằm trong khái niệm thông tin công không bị hạn chế tiếp cận. Luật bảo vệ thông tin được phân loại đã quy định thời hạn phụ thuộc vào mức độ phân loại, có thể là 2, 5, 15 năm.

 Phạm vi thông tin ngoại lệ là khá rộng, hầu hết các ngoại lệ đều dựa trên các ngoại lệ trong các luật khác. Trong một số trường hợp, các toà án sẽ hạn chế phạm vi của ngoại lệ, mặc dù luật quy định rộng hơn, ví dụ có liên quan đến bảo vệ lợi ích của bên thứ ba và bí mật thương mại.

 Luật của Bulgary không quy định việc khiếu nại nội bộ hoặc hành chính. Người nộp đơn bị từ chối thì phải khởi kiện để giải quyết.

12.Albani

   Luật về Quyền tiếp cận thông tin trong các tài liệu chính thức ban hành năm 1999. Điều 3 luật quy định tất cả mọi người, nếu có yêu cầu, đều được tiếp cận thông tin ở tài liệu chính thức mà không có nghĩa vụ phải giải thích về lý do của yêu cầu đó. Các cơ quan công quyền sẽ cung cấp bất cứ thông tin nào liên quan đến tài liệu chính thức hoặc những thông tin an toàn một khi Luật có quy định khác. Thông tin ở tài liệu chính thức đã được cung cấp cho một người thì sẽ không thể bị từ chối cung cấp cho người khác, loại trừ trường hợp thông tin này có chứa dữ liệu cá nhân về bản thân người đã được cung cấp thông tin trước đó.

 Cơ quan công quyền được định nghĩa là các cơ quan hành chính công, tổ chức công, các đơn vị và cá nhân cũng như các thực thể khác theo quy định của Luật thi hành chức năng công cộng và/hoặc các dịch vụ công.

 Điều 5 luật quy định mỗi người đều có quyền được thông tin về dữ liệu cá nhân của những người thi hành chức năng nhà nước hoặc dịch vụ công cộng được lưu trữ trong tài liệu chính thức, chừng nào những dữ liệu đó có liên quan đến những phẩm chất do luật quy định hoặc những hành vi hợp pháp để thực hiện các nghĩa vụ của họ.

 Luật không quy định cơ quan độc lập giám sát, nhưng có quy định về kháng cáo hành chính và kháng cáo ở toà án, cũng như yêu cầu bồi thường.

13. Slovenia

   Luật tiếp cận thông tin của Slovenia được ban hành năm 2003, sửa đổi năm 2005. Theo luật, cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ở các cấp từ trung ương , khu vực tới địa phương, các cơ quan công quyền, cơ quan, quỹ công, các cơ quan được quy định trong luật công, các cơ quan được sử dụng quyền lực công và các đơn vị hợp đồng thực hiện cung ứng dịch vụ công. Điều 5 (1 )quy định mọi cá nhân và pháp nhân đều có quyền tiếp cận một cách tự do các thông tin công. Điều 5(3) quy định bất kỳ người yêu cầu nào đều có quyền bình đẳng và phải đáp ứng các điều kiện ngang nhau trong việc sử dụng lại thông tin cho cả mục đích thương mại và phi thương mại. Việc sử dụng lại thông tin được định nghĩa là việc cá nhân hoặc pháp nhân sử dụng thông tin, tài liệu do cơ quan công nắm giữ phục vụ mục đích thương mại hoặc phi thương mại nhưng mục đích này khác với mục đích ban đầu khi tài liệu, thông tin được tạo ra là nhằm phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ công.

 Luật quy định các trường hợp ngoại lệ tại Khoản 1 Điều 6, tuy nhiên, yêu cầu tiếp cận thông tin được đáp ứng và không bị coi là trái  quy định tại khoản trên trong trường hợp việc công bố thông tin yêu cầu đem lại lợi ích cho cộng đồng lớn hơn so với lợi ích công cộng hoặc lợi ích của người nào đó nếu như thông tin không được công bố, trừ một số trường hợp.Yêu cầu thông tin cũng được đáp ứng và không bị coi là trái quy định khoản trên nếu thông qua việc xem xét yêu cầu cho thấy thông tin được yêu cầu liên quan đến việc sử dụng các quỹ công, liên quan đến việc thực thi chức năng công…hay liên quan tới tình trạng suy thoái môi trường theo quy định của luật pháp. Trường hợp người yêu cầu cho rằng thông tin được xếp vào diện mật trái với quy định của Luật Bảo mật dữ liệu, người yêu cầu có quyền đề nghị huỷ bỏ chế độ mật đối với thông tin.

 Luật thành lập cơ quan độc lập là Cao uỷ viên về tiếp cận thông tin có thẩm quyền xem xét và quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến việc từ chối đáp ứng yêu cầu hoặc không chấp nhận yêu cầu. Với vai trò chính là cơ quan giám sát, quyết định của cao uỷ viên là quyết định cuối cùng, nhưng có thể khiếu  kiện thêm bằng con đường toà án.

 Trong khi đó Ombudsman có chức năng giám sát chung, và cùng với Bộ Thông tin thực hiện một số chức năng nhằm tăng cường và đẩy mạnh các biện pháp khai thác thông tin có hiệu quả.

                             

                                           Chuyên đề 10

LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN MỘT SỐ NƯỚC CHÂU MỸ- LATIN VÀ CHÂU PHI

                   PGS-TS Thái Vĩnh Thắng & LG Nguyễn Chu Dương

1.  Luật tiếp cận thông tin một số nước Châu Mỹ- Latin

1.1. Hoa Kỳ

 Hiến pháp Mỹ đưa ra sự bảo hộ mạnh mẽ quyền tự do biểu đạt, cấm Quốc hội thông qua bất kỳ đạo luật nào nhằm hạn chế quyền tự do ngôn hoặc quyền tự do báo chí. Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận quyền đối với thông tin sau Thuỵ Điển, Colombia và Phần Lan. Năm 1966  Luật về quyền tự do thông tin được thông qua, được sửa đổi một số lần và gần nhất là năm 2007. Môi trường văn hoá mở đã được tiếp thêm năng lượng còn bởi pháp luật liên quan đến quyền tố cáo và Luật về đời tư.

 Luật về quyền tự do thông tin của Mỹ có những điểm mạnh và điểm hạn chế. Luật bao gồm các điều  khoản hợp lý về phí, quy định cởi mở về thông tin điện tử và một số biện pháp thúc đẩy tự do thông tin được đưa ra trong thời gian gần đây. Điểm hạn chế của luật là thiếu quy định về bộ máy hành chính độc lập để giám sát cơ chế cung cấp thông tin.

  Luật Chính phủ mở ( Open Government Act) quy định về quyền được thông tin là một quyền cơ bản của con người và công dân. Thông tin được tiếp cận theo quy định của luật này được Toà án tối cao Mỹ giải thích  bao gồm thông tin/tài liệu/ghi chép được tạo ra hoặc nắm giữ bởi một cơ quan công quyền nào đó và thuộc về sự kiểm soát của cơ quan đó mà có đơn yêu cầu được tiếp cận. Các cơ quan công quyền có nghĩa vụ phải công khai thông tin bao gồm bất cứ cơ quan hành pháp, cơ quan quân đội, các tập đoàn chịu sự kiểm soát của Chính phủ và những cơ quan/tổ chức khác được thành lập bởi cơ quan hành pháp của Chính phủ (bao gồm cả văn phòng hành pháp của Tổng thống) hoặc bất kỳ các thể chế độc lập khác. Luật không điều chỉnh các cơ quan lập pháp, tư pháp và một số cơ quan khác[100].

 Bất kỳ người nào cũng có thể yêu cầu được tiếp cận thông tin. Nội dung sửa đổi Luật gần đây yêu cầu cơ quan công quyền phải xây dựng cơ sở dữ liệu cho việc yêu cầu và cung cấp cho người yêu cầu thông tin  trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày gửi đơn yêu cầu.

 Luật không áp đặt nghĩa vụ cho cơ quan công quyền trong việc cung cấp hỗ trợ người yêu cầu. Lệnh số 13392 của cơ quan hành pháp thông qua tháng 12-2005 đã quy định nghĩa vụ cho cơ quan công quyền trong việc trả lời các yêu cầu một cách hợp lý. Luật quy định chi tiết về thời hạn, thông thường việc yêu cầu sẽ được trả lời trong thời hạn 20 ngày. Luật không quy định việc chuyển giao yêu cầu tới các cơ quan công quyền khác cũng như sự tham vấn với bên thứ ba. Tuy nhiên Lệnh 12600 đã quy định  các cơ quan công quyền phải xây dựng thủ tục tham vấn với bên thứ ba khi cơ quan này được yêu cầu phải công khai thông tin thương mại bí mật.

 Luật quy định hai nghĩa vụ khác nhau trong việc tạo cơ chế sẵn có của thông tin cho công chúng. Mỗi cơ quan có trách nhiệm công khai: bản mô tả về tổ chức trung tâm và lĩnh vực của cơ quan/tổ chức; cách thức mà theo đó thông tin có thể được yêu cầu cung cấp/công khai; quy định về thủ tục và sự mô tả tất cả các biểu mẫu và giấy tờ của cơ quan/tổ chức sản xuất; tuyên bố chính sách và các quy định pháp luật về tính khả thi chung; và bất kỳ có sự thay đổi về các nội dung nêu trên. Luật cũng yêu cầu các cơ quan công quyền có trách nhiệm, phù hợp với quy định về công khai, tạo sự sẵn có của thông tin cho việc điều tra công cộng và sao chép thông tin trừ phi thông tin này sẽ được công khai ngay lập tức và là loại thông tin dành để bán. Các thông tin tạo lập sau ngày 1-12-1996 phải có sẵn trên các phương tiện điện tử. Thông tin thuộc phạm vi của quy định này gồm cả những  tuyên bố về chính sách và sự giải thích và hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan hành chính.

 Chế độ ngoại lệ được đưa ra một cách rõ ràng hợp lý thông qua việc giải thích tư pháp. Ngoại lệ đầu tiên gồm các thông tin được đánh giá là bí mật, liên quan đến việc phân loại thông tin và bất kỳ thông tin nào không thuộc trường hợp miễn trừ thì buộc phải công khai. Ngoại lệ thứ hai liên quan đến tài liệu mà có liên quan đến các quy tắc nội bộ  của cơ quan/tổ chức đó. Ngoại lệ khác bao gồm liên quan đến các điều khoản bảo mật của các Luật khác, liên quan bí mật thương mại và các thông tin thương mại, liên quan các file tài liệu và việc công khai các file này có thể sẽ gây ra sự xâm lấn một cách không bảo đảm thông tin bảo mật cá nhân, liên quan đến phạm vi/lĩnh vực tài liệu được tập hợp với mục đích thi hành pháp luật. Ngoài trường hợp ngoại lệ thứ nhất, tất cả các thông tin này đều được đưa vào chương trình thử nghiệm sự nguy hại của việc công khai. Ngoại lệ thứ tám liên quan đến những bản báo cáo cụ thể do cơ quan công quyền chuẩn bị để thực hiện trách nhiệm điều tiết các thể chế tài chính, nhưng ngoại lệ này là đối tượng cho các cuộc thử nghiệm. Ngoại lệ cuối cùng liên quan đến thông tin về địa lý và địa chất.

  Luật quy định quyền khiếu nại nhưng không có quy định về việc khiếu nại ở cấp hành chính độc lập. Sửa đổi gần đây là sẽ thành lập bộ phận về dịch vụ thông tin của văn phòng Chính phủ thuộc cơ quan lưu trữu quốc gia, bộ phận này ngoài các chức năng khác còn có nhiệm vụ đưa ra các kiến nghị đối với việc cải cách hệ thống và là người trung gian giải quyết tranh chấp giữa người yêu cầu và cơ quan công quyền nhằm giảm thiểu các vụ kiện về việc cung cấp/công khai thông tin (Điều 10, Luật Chính phủ mở).

 Nếu hệ thống khiếu nại nội bộ không hiệu quả, người khiếu nại có thể gửi đơn lên toà án.

1.2. Canada

  Luật tiếp cận thông tin của Canada ban hành năm 1985, mở rộng các luật hiện hành của Canada về tiếp cận thông tin. Luật quy định các thông tin  của chính phủ phải được công khai cho mọi người biết  và những ngoại lệ cần thiết về quyền tiếp cận cần phải được hạn chế, cụ thể và các quyết định về việc công khai thông tin của chính phủ cần phải được chính phủ xem xét lại một cách độc lập.

 Yêu cầu tiếp cận tài liệu  phải được làm dưới dạng văn bản và gửi tới cơ quan chính phủ có quyền kiểm soát đối với tài liệu và phải cung cấp thông tin chi tiết đủ để một nhân viên có kinh nghiệm của cơ quan với một cố gắng hợp lý cũng có thể tìm ra được tài liệu.

 Trong vòng 30 ngày, người đứng đầu cơ quan chính phủ tiếp nhận yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho người có yêu cầu, xem có được tiếp cận tài liệu hay không hoặc là nếu người đó được phép tiếp cận một phần văn bản. Nếu được phép tiếp cận thì phải cho phép người yêu cầu tiếp cận tài liệu hoặc một phần tài liệu. Trong một số trường hợp, người đứng đầu cơ quan chính phủ có thể gia hạn hợp lý. Nếu từ chối thì  người đứng đầu chính phủ phải nói rõ trong thông báo.

 Luật quy định chi tiết các ngoại lệ không được tiếp cận từ Mục 13 đến Mục 24. Theo Mục 25, không kể các quy định khác của Luật, trong trường hợp có yêu cầu về tiếp cận tài liệu đối với một cơ quan chính phủ mà lãnh đạo cơ quan này được uỷ quyền từ chối bởi lý do thông tin hay các lý do khác của tài liệu, thì người đứng đầu cơ quan chính phủ có thể tiết lộ bất cứ phần nào của tài liệu mà không có hoặc có thể phân tách ra khỏi các phần của tài liệu có chứa các thông tin hoặc tài liệu đã nêu.

  Luật cũng quy định can thiệp của bên thứ ba. Trường hợp tài liệu được yêu cầu cung cấp có liên quan đến bên thứ ba, thì người đứng đầu cơ quan chính phủ dự định tiết lộ tài liệu theo yêu cầu phải gửi thông báo bằng văn bản trong vòng 30 ngày từ ngày nhận yêu câu đến bên thứ ba. Trong vòng 20 ngày kể từ ngày thông báo, bên thứ ba được phép cử đại diện đến gặp người đứng đầu cơ quan chính phủ nhận yêu cầu cho ý kiến, và trong vòng 30 ngày sau thông báo, nếu như bên thứ ba đã cử đại diện đến, thì phải ra quyết định và thông báo cho bên thứ ba biết.

 Luật quy định Bộ trưởng được chỉ định có trách nhiệm công bố theo định kỳ không ít hơn 1 lần/năm những nội dung sau: giới thiệu tổ chức, trách nhiệm các cơ quan chính phủ, tất cả các loại tài liệu dưới sự quản lý của mỗi cơ quan đủ chi tiết để phục vụ cho thi hành quyền tiếp cận theo Luật, tất cả các hướng dẫn của nhân viên các cơ quan chính phủ trong việc quản lý và tiến hành các chương trình hay hoạt động của các cơ quan chính phủ, chức vụ và địa chỉ của viên chức mỗi một cơ quan tiếp nhận các yêu cầu xin tiếp cận tài liệu. Bộ trưởng được chỉ định có trách nhiệm công bố ít nhất hai lần/năm bản tin về các thông tin chứa trong thông báo được công bố nói trên cập nhật và cung cấp cho công chúng các thông tin hữu ích khác liên quan đến việc thực thi luật.

 Luật thiết lập cơ chế Uỷ viên thông tin, quan chức làm việc độc lập có quyền lực tương đương Thứ trưởng có trách nhiệm giải quyết khiếu nại và các quyền khác.

1. 3.Mexico

 Sau Thụy Điển, Mexico là nước bảo đảm theo Hiến pháp chi tiết và cơ bản nhất về quyền thông tin. Hiến pháp hiện hành quy định tất cả những thông tin được công khai, chỉ tuỳ thuộc vào những hạn chế tạm thời về việc tiếp cận vì lý do lợi ích nhà nước được pháp luật quy định, cho dù thông tin cá nhân được bảo vệ. Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, Luật về sự minh bạch của liên bang và tiếp cận thông tin quản lý Nhà nước được thông qua năm 2002 để ngăn chặn tham nhũng và thúc đẩy nền dân chủ ở Mexico. Một quy định của Uỷ ban Thông tin  thông qua năm 2003 đề cập  đến một loạt vấn đề.Tất cả 31 bang, cũng như quận của liên bang (thủ đô) cũng thông qua các đạo luật về quyền thông tin.

 Luật quy định tất cả thông tin do chính phủ nắm giữ có thể được các cá nhân tiếp cận. Mục tiêu của luật được quy định bao gồm tiếp cận thông tin thông qua các thủ tục đơn giản, nhanh gọn, thúc đẩy nền hành chính công minh bạch, bảo vệ thông tin cá nhân, thúc đẩy trách nhiệm nhà nước, cải thiện việc quản lý hồ sơ và góp phần vào quá trình dân chủ hoá và nguyên tắc pháp quyền ở Mexico. Điều 6 của luật quy định khi giải thích Luật, nguyên tắc minh bạch của các cơ quan nhà nước phải được đề cao. Luật phải được giải thích phù hợp với Hiến pháp, Tuyên ngôn thế giới về các quyền con người và một số điều ước quốc tế, kể cả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, điều ước cơ bản của Liên Hợp quốc bảo đảm quyền tự do biểu đạt.

  Tất cả những chủ thể bị ràng buộc bởi Luật bao gồm: các cơ quan hành pháp liên bang và cơ quan nhà nước liên bang; các cơ quan lập pháp liên bang, bao gồm Hạ viện, Thượng viện, các uỷ ban và các cơ quan khác của Nghị viện; các toà án liên bang và Hội đồng Toà án liên bang; các cơ quan hiến định; các toà án hành chính liên bang và các cơ quan liên bang khác. Những cơ quan hiến định được xác định thêm bao gồm cả các cơ quan như Cơ quan bầu cử liên bang, Uỷ ban quốc gia về các quyền con người, Ngân hàng Mexico, các trường đại học và các cơ quan khác được Hiến pháp quy định. Luật quy định một tập hợp nghĩa vụ chặt chẽ hơn đối với “các cơ quan và chủ thể” (cơ bản là nhánh hành pháp của chính phủ) và những nghĩa vụ ít chi tiết hơn đối với các cơ quan nhà nước khác.

 Bất kỳ cá nhân nào cũng có thể đưa ra yêu cầu tiếp cận thông tin với bộ phận liên lạc mà tất cả các cơ quan nhà nước phải thiết lập. Việc thông báo quyết định đối với yêu cầu phải được đưa ra sớm nhất có thể nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng phải trong thời hạn 20 ngày làm việc và sau đó thông tin phải được cung cấp trong thời hạn 10 ngày làm việc, khi người yêu cầu đã thanh toán xong các chi phí. Việc không đưa ra quyết định đúng thời hạn sẽ được hiểu là việc chấp nhận yêu cầu, và cơ quan sau đó sẽ có nghĩa vụ cung cấp thông tin trong thời hạn 10 ngày sau đó, trừ  khi Uỷ ban Thông tin quyết định rằng thông tin là bí mật. Khi thông tin được cho là đã được phân loại hay bí mật, Uỷ ban Thông tin  -một đơn vị giám sát “các cơ quan và chủ thể” – phải được thông báo về việc này ngay lập tức, cùng với những lý do phân loại, để mà họ có thể quyết định có phê chuẩn việc phân loại hay huỷ bỏ nó và đảm bảo việc tiếp cận thông tin. Khi yêu cầu được thỏa mãn, người yêu cầu phải được thông báo về chi phí và hình thức tiếp cận. Khi yêu cầu bị từ chối và điều này đã được khẳng định bởi Uỷ ban, thì người yêu cầu phải được thông báo về điều này trong thời hạn quy định, cùng với những lý do từ chối và cách thức để thực hiện khiếu nại quyết định. Phí để đạt đuợc tiếp cận thông tin phải được quy định trong Luật Nghĩa vụ liên bang, không vượt quá chi phí của các tài liệu đuợc sử dụng để tạo ra thông tin và các chi chí gửi tài liệu. Chi phí cho việc tìm kiếm thông tin và chuẩn bị thông tin không được tính. Việc tiếp cận dữ liệu cá nhân được miễn phí, cho dù chi phí có thể được tính vào chi phí gửi thông tin này.  Quy trình trên được áp dụng đối với “các cơ quan và chủ thể”, nhưng một nỗ lực chung được thể hiện ở Điều 61 đòi hỏi các cơ quan nhà nước khác phải giải quyết các yêu cầu theo cách thức tương tự.

 Theo Điều 47, các yêu cầu thông tin và trả lời thông tin phải được công bố. Trong thực tế quá trình giải quyết yêu cầu có thể được xử lý bằng điện tử thông qua Hệ thống yêu cầu Thông tin (SISI) có trang web riêng được thiết  kế riêng cho việc xử lý yêu cầu.

 Điều 7 của Luật quy định một nghĩa vụ rộng về việc công bố, tuỳ thuộc vào các ngoại lệ. Các cơ quan nhà nước căn cứ các quy định được công bố bởi Uỷ ban Thông tin hoặc những cơ quan giám sát khác có liên quan phải công bố 17 nhóm thông tin theo cách thức  có thể dễ tiếp cận và lĩnh hội được. Đặc biệt, Điều 12 quy dịnh các cơ quan nhà nước phải công bố thông tin liên quan đến số tiền và những người nhận từ các nguồn của nhà nước mà các cơ quan đó chịu trách nhiệm. Theo Điều 8, nhánh tư pháp phải công bố tất cả các quyết định, cho dù các cá nhân có thể phản đối việc công bố thông tin của mình. “Các cơ quan và chủ thể” phải công bố tất cả các quyết định và những thoả thuận hành chính chính thức 20 ngày trước khi thông qua chúng, trừ khi điều này có thể không đưa đến thành công. Các báo cáo của các đảng phái và các nhóm chính trị gửi tới Viện Bầu cử liên bang, cũng như các báo cáo kiểm toán chính thức của các cơ quan này, phải được công bố ngay khi hoàn tất.

 Luật bao gồm các ngoại lệ hợp lý rõ ràng, được thực hiện thông qua hệ thống phân loại. Uỷ ban Thông tin (hoặc cơ quan giám sát liên quan đối vơi cơ quan nhà nước không thuộc phạm vi của nó) có nhiệm vụ quy định tiêu chí phân loại và tiết lộ thông tin, cũng như việc giám sát hệ thống, trong khi những người đứng đầu các đơn vị hành chính, được xác định là bộ phận của cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin, chịu trách nhiệm phân loại thực tế. Uỷ ban Thông tin bất cứ khi nào có thể tiếp cận thông tin đã được phân loại để biết rõ thông tin có được phân loại phù hợp hay không. Cấm việc phân loại thông tin khi việc điều tra các vi phạm nghiêm trọng về các quyền con người hay tội phạm chống nhân loại bị đe doạ. Điều 43 quy định về cung cấp từng phần thông tin có thể chia tách được. Luật cũng quy định về giới hạn thời gian phân loại 12 năm. Thông tin được tiết lộ khi có những căn cứ cho việc phân loại không còn tồn tại hoặc khi thời hạn phân loại đã hết.

Luật cũng giành hai Điều 13, 14 quy định những trường hợp ngoại lệ và hai Điều 18 và 19 quy định việc bảo vệ thông tin cá nhân.

 Về việc khiếu nại đối với các cơ quan, luật quy định khiếu nại gửi lên Uỷ ban Thông tin và từ đó đến các toà án. Một uỷ viên Uỷ ban phải điều tra việc khiếu nại và báo cáo cho tất cả các uỷ viên khác trong thời hạn 30 ngày làm việc, và quyết định được đưa ra trong thời hạn 20 ngày tiếp theo, cho dù giới hạn thời gian này có thể được tăng gấp đôi khi có lý do rõ ràng. Khi một cơ quan không trả lời đúng thời hạn, Uỷ ban sẽ giải quyết khiếu nại.

 Uỷ ban Thông tin là một cơ quan nhà nước độc lập chịu trách nhiệm thúc đẩy quyền được thông tin. Uỷ ban có thể chấp nhận hoặc từ chối khiếu nại, hoặc sửa đổi khiếu nại, và việc quyết định sẽ bao hàm thời hạn để tuân thủ. Quyết định là cuối cùng đối với các cơ quan nhưng người yêu cầu có thể khiếu nại đến các toà án liên bang.

 Luật cũng quy định về chế tài đối với các công chức không tuân thủ pháp luật.

1.4. Jamaica

  Luật tiếp cận thông tin của Jamaica ban hành năm 2002. Mục đích của luật quy định tại Mục 2, là củng cố và tăng cường hiệu lực của các nguyên tắc cơ bản về cơ chế dân chủ theo hiến pháp, đặc biệt là trách nhiệm của chính phủ; sự minh bạch; sự tham gia của công chúng trong việc hoạch định chính sách quốc gia. Quyền tiếp cận được áp dụng với các tài liệu, thông tin. Tài liệu được định nghĩa theo nghĩa rộng bao gồm mọi thứ dưới dạng văn bản, bản đồ, kế hoạch, biểu đồ hay bản vẽ, ảnh, thiết bị ghi âm, ghi hình hoặc số liệu khác mà có thể được tạo ra từ thiết bị đó. Có hai giới hạn, thứ nhất, tài liệu phải gắn với chức năng của cơ quan nhà nước nắm giữ tài liệu đó và thứ hai, luật không áp dụng đối với những tài liệu đã có hơn 30 năm. Người chịu trách nhiệm về luật này là Bộ trưởng Thông tin, tuỳ thuộc vào quyết định cấm, có thể mở rộng việc áp dụng trở về trước vào thời điểm các tài liệu được tạo lập và nắm giữ bởi cơ quan nhà nước đã trên 30 năm. Cơ quan nhà nước được xác định là các bộ, ban, cơ quan hành pháp hoặc cơ quan khác của chính phủ, cơ quan do pháp luật quy định, hội đồng khu vực, hội đồng thành phố Kingston và Tập đoàn St.Andrew và các công ty của chính phủ mà chính phủ hay một cơ quan của chính phủ có từ 50% cổ phần trở lên. Luật cho phép Bộ trưởng Thông tin mở rộng áp dụng đối với các công ty, và cả công ty tư nhân mà chính phủ có ảnh hưởng và công ty tư nhân cung cấp các dịch vụ công cần thiết. Nhưng luật cũng trao cho bộ trưởng hạn chế áp dụng luật với các công ty của chính phủ và không áp dụng luật với các cơ quan nhà nước được thành lập theo pháp luật mà bộ trưởng cho là thích hợp. Điều này có thể dẫn tới loại trừ các cơ quan ra khỏi phạm vi của Luật vì lý do chính trị.

 Mục 7 (2) quy định bất kỳ người nào cũng có thể được tiếp cận tài liệu văn bản bằng điện thoại hay phương tiện điện tử khác. Không được đòi hỏi lý do khi yêu cầu thông tin.

Mục 4 quy định việc công bố trước thông tin được liệt kê trong Phụ lục 1. Trong khi đó Phần III của Luật bao gồm quy định cơ bản về những ngoại lệ. Phần lớn những ngoại lệ phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật cũng quy định về cơ chế khiếu nại. Luật áp dụng khi cơ quan nhà nước trì hoãn hay từ chối bảo đảm tiếp cận tất cả hay từng phần tài liệu, hoặc đặt ra mức phí mà người yêu cầu cho là không hợp lý. Việc xem xét lại có tính nội bộ được thực hiện bởi bộ trưởng chịu trách nhiệm đối với ngoại lệ ở Mục 14,15,16,18 được áp dụng, và bởi người đứng đầu cơ quan nhà nước trong các trường hợp khác. Khiếu nại lên Toà phúc thẩm được thực hiện đối với quyết định xem xét lại có tính chất nội bộ (hoặc về việc không cung cấp quyết định đó trong thời hạn quy định) hoặc đối với quyết định ban đầu mà không được xem xét lại có tính chất nội bộ trong thời hạn 60 ngày của quyết định.

1.5. Peru

  Luật Minh bạch và Tiếp cận thông tin thông qua năm 2002 (sửa đổi năm 2003) cụ thể hoá quy định bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong Hiến pháp và phạm vi áp dụng không chỉ giới hạn trong phạm vi thông tin theo yêu cầu.

  Luật quy định rất rộng về phạm vi thông tin mà các cơ quan nhà nước có trách nhiệm công bố. Cơ quan nhà nước được định nghĩa bao gồm cả các bộ phận, dự án, chương trình của nhà nước mà hoạt động của các đơn vị đó có sử dụng quyền lực hành chính và các đơn vị tư nhân cung cấp các dịch vụ công hoặc cung cấp dịch vụ hành chính do nhà nước uỷ quyền, trao quyền hoặc thuê khoán. Các doanh nghiệp nhà nước cũng là đối tượng áp dụng của Luật. Tuy nhiên, trách nhiệm cung cấp thông tin đối với các đơn vị và tổ chức tư nhân hạn chế hơn các cơ quan nhà nước.

 Thông thường, cơ quan được yêu cầu phải trả lời về yêu cầu trong vòng 7 ngày làm việc và thời hạn này có thể gia tăng 5 ngày làm việc nếu việc tìm kiếm và thu thập thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu gặp phải khó khăn. Việc từ chối cung cấp thông tin phải dựa trên cơ sở các trường hợp ngoại lệ theo quy định của luật và lý do từ chối cũng như khoảng thời gian thông tin sẽ được bảo mật phải thông báo cho người yêu cầu.

 Theo Luật, việc thu thêm phí ngoài quy định bị coi là sự hạn chế quyền của người dân trong việc tiếp cận thông tin và đều bị xử lý. Điều 13 quy định cơ quan nhà nước không có trách nhiệm phải tạo ra hoặc thu thập để cung cấp thông tin mà họ không nắm giữ hoặc không có chức năng nắm giữ mặc dù trong trường hợp này họ phải thông báo cho người có yêu cầu.  Luật chưa quy định cơ quan nhà nước phải tham khảo ý kiến thứ ba nếu họ liên quan đến thông tin được yêu cầu cung cấp hoặc tiếp cận.

 Luật của Peru đưa ra các quy định rất tích cực và tiến bộ về việc công bố thông tin. Bên cạnh những quy định rải rác trong các phần khác của Luật, Luật dành hẳn Chương IV với tiêu đề: Minh bạch trong quản lý tài sản công với khoảng 14 điều để quy định về việc công bố thông tin. Các cơ quan nhà nước, căn cứ vào nguồn ngân sách, phải công bố trên internet các loại thông tin khác nhau, trong đó có thông tin chung về cơ quan, thông tin về ngân sách, công bố lương các cán bộ, nhân viên, thông tin chi tiết về dịch vụ, thông tin về hoạt động của các cán bộ cấp cao.

Chương IV quy định rõ các nghĩa vụ công bố thông tin một cách chủ động và tích cực. đây là quy định cụ thể, rõ ràng nhất so với luật của các nước khác, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính công - lĩnh vực mà Chương này tập trung điều chỉnh. Trọng tâm nghĩa vụ cung cấp thông tin được đề cập là thông tin về quản lý ngân sách nhà nước, việc làm, dự án, hợp đồng, trưng thu trưng mua tài sản, thông tin kinh tế vĩ mô, dự báo kinh tế. Luật cũng quy định một số thông tin phải được công bố ít nhất là 3 tháng trước các cuộc tổng tuyển cử như thông tin về thành tựu, kết quả hoạt động của kháo cầm quyền sắp mãn hạn, thông tin về dự đoán tài chính cho 5 năm tiếp theo.

 Theo quy định tại Điều 13, các trường hợp ngoại lệ quy định tại Điều 15-15B là cơ sở cho từ chối cung cấp thông tin  thì các quy định này không bị phủ quyết bởi các quy định khác, cần được giải thích và hiểu một cách rất cụ thể. Tuy nhiên, các quy định của Luật tiếp cận thông tin không thể được ưu tiên áp dụng trong trường hợp có quy định khác với các quy định về bảo mật.

 Luật của Peru không quy định ưu tiên lợi ích công cộng. Tuy nhiên Điều 15C  quy định rằng tất cả những thông tin liên quan đến hành vi vi phạm quyền con người quy định tại Công ước Geneva năm 1949 dưới bất cứ hình thức nào, bởi bất kỳ ai không thể được coi là các thông tin bị loại trừ. Luật cũng quy định không được sử dụng các trường hợp ngoại lệ để vi phạm các quy định của Hiến pháp Peru. Một số cơ quan như Quốc hội, cơ quan tư pháp, Cơ quan kiểm soát chung, Cơ quan theo dõi quyền con người được quyền tiếp cận mọi thông tin, kể cả thông tin miễn trừ trong các trường hợp liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm được giao của các cơ quan này. Ví dụ cơ quan theo dõi quyền con người có quyền tiếp cận thông tin để bảo vệ quyền con người. Luật cũng quy định nguyên tắc công bố thông tin một phần tức công bố phần không mật trong một tài liệu nào đó mặc dù các phần còn lại của tài liệu được xếp vào danh mục mật. Ngoài ra luật còn quy định thời hạn một thông tin mật sẽ được công bố. Yêu cầu cung cấp thông tin đối với những thông tin được xếp vào danh mục mật đã kéo dài từ 5 năm trở lên có thể được đáp ứng nếu thủ trưởng cơ quan nắm giữ thông tin đó cho rằng việc công bố thông tin không có hại cho an ninh quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền dân chủ.

  Luật của Peru quy định quyền khiếu nại lên cơ quan chủ quản cấp cao hơn. Nếu đơn bị bác hay không được xem xét trong vòng 10 ngày làm việc thì mở đường cho khiếu kiện lên toà án.

 Để tăng cường quyền tiếp cận thông tin, Luật có một số quy định như Hội đồng Bộ trưởng hàng năm phải báo cáo lên Quốc hội về tình hình yêu cầu cung cấp thông tin.  Điều 21 của Luật quy định nghiêm cấm cơ quan nhà nước tự ý huỷ thông tin trong mọi trường hợp mà thay vào đó, cơ quan nhà nước phải chuyển thông tin về Cục lưu trữ quốc gia theo đúng thời hạn luật định. Cục có thể xem xét huỷ bỏ những thông tin không liên quan hoặc thông tin không còn giá trị theo quy định của luật pháp.

2.  Luật tiếp cận thông tin một số nước Châu Phi

2.1 Uganda

  Luật tiếp cận thông tin của Uganda ban hành năm 2005. Điểm tích cực của luật là quy định về các trường hợp ngoại lệ là rất hẹp, các quy định về bảo đảm thủ tục cũng được quy định rất chi tiết trong đó đặc biệt là khâu thông báo bằng văn bản phải được thực hiện sau mỗi bước. Luật cũng quy định biện pháp bảo vệ đối với người tố cáo hành vi vi phạm.

 Luật quy định thông tin mà người dân có quyền tiếp cận là thông tin cập nhật và chính xác.

 Điều 3 Luật quy định mục tiêu của luật là nhằm tăng cường một Chính phủ hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm, cụ thể hoá các quy định tại Điều 41 của Hiến pháp, bảo vệ người tố cáo các sai phạm trong hệ thống chính phủ, tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước thông qua việc cho phép công chúng tiếp cận các thông tin một cách chính xác, kịp thời và tạo điều kiện cho người dân được kiểm soát và tham gia vào quá trình ban hành các quyết định có tác động đến họ.

 Quyết định thông tin áp dụng đối với mọi thông tin và bản ghi do cơ quan nhà nước nắm giữ. Cơ quan nhà nước bao gồm: các cơ quan thuộc hệ thống chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương, tổng công ty, uỷ ban, cơ quan quản lý nhà nước.

 Yêu cầu cung cấp thông tin phải được nộp bằng văn bản theo mẫu quy định. Trong trường hợp người yêu cầu là người khuyết tật, không biết chữ thì có thể yêu cầu bằng lời nói, trong trường hợp này, cán bộ cung cấp thông tin phải giúp thể hiện lại yêu cầu đó bằng văn bản và giao bản sao đơn yêu cầu cho người yêu cầu. Điều 12 quy định các nghĩa vụ trợ giúp mà cán bộ cung cấp thông tin phải thực hiện đối với người yêu cầu và sự trợ giúp đó phải miễn phí nay cả trường hợp thông tin do cơ quan nhà nước khác nắm giữ.

 Theo Điều 15, việc cung cấp thông tin có thể bị trì hoãn nếu thông tin đó chuẩn bị được đăng tải trong thời hạn 90 ngày hoặc cần thêm thời gian để in ấn, phát hành, hoặc trong trường hợp luật định thông tin đó phải được công bố hoặc đệ trình lên cơ quan nhà nước khác những tại thời điểm nhận được yêu cầu cung cấp thì thông tin đó vẫn chưa được trình. Người yêu cầu có thể được trình bày nguyện vọng được cung cấp thông tin trước thời hạn trì hoãn và cán bộ phụ trách phải cũng cấp thông tin sớm hơn nếu có cơ sở cho thấy việc trì hoãn sẽ khiến người yêu cầu bị tổn hại hoặc bất lợi.  Khiếm khuyết quy định này là không đưa ra thời hạn cứng.

 Luật có quy định khung các mức phí. Mức phí thu chỉ nhằm mục đích bù đắp chi phí sao chụp thông tin. Thông tin phải được cung cấp ngay sau đóng phí.

 Luật của Uganda không quy định chế độ khiếu nại lên cơ quan hành chính độc lập tuy nhiên có quy định cụ thể thủ tục khiếu kiện lên toà án.

 Điều 44 của Luật quy định biện pháp bảo vệ về mặt pháp lý, hành chính và việc làm đối với người tố cáo các vi phạm hoặc việc tiết lộ thông tin làm đe doạ đối với sức khoẻ, an toàn hoặc môi trường khi họ thực hiện đúng các quy định pháp luật và có cơ sở tin tưởng rằng thông tin đó là xác thực và làm rõ bằng chứng của hành vi vi phạm. Theo quy định này thì hành vi vi phạm có thể là phạm tội hình sự, cố ý làm sai nguyên tắc, tham nhũng, gian dối v.v . Đây là quy định rất đáng chú ý vì ít luật tiếp cận thông tin đưa ra biện pháp bảo vệ đối với những người tố cáo vi phạm. Một số quốc gia có luật riêng để bảo vệ những người này.

2.2. Cộng hoà Nam Phi

 Hiến pháp Cộng hoà Nam Phi không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận thông tin do cơ quan nhà nước nắm giữ mà còn quy định quyền tiếp cận thông tin do cơ quan và tổ chức tư   nhân nắm  giữ nếu thông tin đó được coi là cần thiết để thực hiện hoặc bảo vệ những quyền nhất định. Cụ thể hoá quyền trên ghi nhận trong Hiến pháp, Luật Tăng cường quyền tiếp cận thông tin ban hành năm 2000. Đây là một trong những Luật tiếp cận thông tin tiến bộ nhất thế giới. Luật quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục nhằm bảo vệ quyền tiếp cận thông tin và cũng quy định rất rõ về một số ít trường hợp thông tin được coi là ngoại lệ. Nhưng luật không quy định về khiếu nại ra cơ quan hành chính độc lập và cũng không có quy định về nghĩa vụ công khai thông tin một cách chủ động. Tuy vậy, hiệu lực trên thực tế của luật còn yếu.

 Luật quy định quyền tiếp cận đối với tài liệu công tại mục 11(1) và thông tin cá nhân hoặc tổ chức tư nhân nắm giữ tại mục 50(1). Quyền tiếp cận đối với thông tin cá nhân hoặc tổ chức tư nhân giới hạn trong phạm vi nếu việc cung cấp thông tin là cần thiết để thực hiện hoặc bảo vệ quyền của công dân. Các mục tiêu cụ thể hơn của Luật được quy định tại Chương 3.

 Luật không áp dụng đối với hồ sơ một số cơ quan nhà nước, thành viên cơ quan lập pháp, được cho là một sự thiếu sót. Theo quy định của Luật, các cơ quan nhà nước mặc nhiên có quyền yêu cầu tổ chức tư nhân cung cấp thông tin nhưng lại không quy định việc cơ quan nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước khác cung cấp thông tin theo quy định của luật.

 Yêu cầu cung cấp thông tin phải được gửi tới cán bộ chuyên trách cung cấp thông tin theo địa chỉ thư, số fax hoặc địa chỉ email. Yêu cầu cung cấp thông tin không bị ảnh hưởng bởi lý do cần được tiếp cận thông tin hay sự đánh giá của cán bộ cung cấp thông tin về lý do yêu cầu tiếp cận thông tin. Khi cần thiết, cán bộ chuyên trách cung cấp thông tin có trách nhiệm trợ giúp một cách phù hợp và miễn phí nhằm hỗ trợ người yêu cầu cung cấp thông tin đưa ra yêu cầu. Nếu chưa có sự hỗ trợ đối với người yêu cầu thì chưa được bác yêu cầu thông tin. Khi nhận được yêu cầu, cơ quan tiếp nhận phải nhanh chóng ra quyết định trong vòng 30 ngày. Thời hạn này có thể gia hạn thêm 30 ngày nữa theo quy định của luật. Trong trường hợp gia hạn, cơ quan phải thông báo bằng văn bản tới người yêu cầu cung cấp thông tin (Mục 26). Cơ quan nhà nước không trả lời đối với yêu cầu trong thời hạn quy định được coi là từ chối cho phép tiếp cận thông tin. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải được tiếp cận thông tin ngay sau khi đã đóng khoản phí theo quy định.

Luật quy định rất chi tiết, cụ thể về cách thức chuyển tiếp yêu cầu cung cấp thông tin. Việc chuyển tiếp phải được thực hiện sớm và chậm nhất là trong vòng 14 ngày. Đây không phải là khoản thời gian thêm vào thời hạn phải trả lời yêu cầu. Trong trường hợp thông tin không tồn tại hoặc không tìm thấy thì người yêu cầu phải được thông báo về sự thực trên cũng như các nỗ lực mà cơ quan đã thực hiện để tìm kiếm thông tin theo yêu cầu.

Theo Chương V, Phần II, các trường hợp ngoại lệ bao gồm thông tin được yêu cầu cung cấp có liên quan đến quyền của bên thứ ba như quyền bảo vệ bí mật riêng tư hay bí mật thương mại thì bên thứ ba đó phải được thông báo sớm và chậm nhất là 21 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu cung cấp thông tin. Bên thứ ba có thời hạn 21 ngày để đưa ra lý do đề nghị từ chối cung cấp thông tin hoặc đồng ý với việc cung cấp thông tin. Quyết định công bố thông tin phải được đưa ra trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận thông báo của bên thứ ba về yêu cầu cung cấp thông tin và quyết định cung cấp thông tin phải được thông báo cho bên thứ ba. Trong trường hợp được phép tiếp cận thông tin, người yêu cầu cung cấp thông tin phải được tiếp cận thông tin trong vòng 30 ngày tiếp theo các thời hạn trên, ngoại trừ trường hợp bên thứ ba khiếu nại quyết định công bố thông tin.

 Luật của Nam Phi không quy định trách nhiệm công bố thông tin. Luật có các quy định rất cụ thể, toàn diện về các trường hợp ngoại lệ. Các trường hợp ngoại lệ cũng được xác định trong phạm vi hẹp. Luật bãi bỏ các quy định cấm hoặc hạn chế việc công khai thông tin được quy định trong các luật khác mà trái với tinh thần hoặc quy định cụ thể của Luật này. Tuy nhiên, đối với tài liệu được yêu cầu sử dụng trong các vụ án dân sự, hình sự hoặc đối với tài liệu mà việc tiếp cận đã được quy định trong các luật khác thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này (Mục 7). Tất cả các trường hợp ngoại lệ đều chịu sự điều chỉnh bởi quy định ưu tiên lợi ích cộng đồng. Theo đó tư liệu bắt buộc phải công bố vì lợi ích của công chúng nếu: nếu việc cung cấp thông tin là cần thiết để làm rõ các chứng cứ của một sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc một nguy cơ nghiêm túc và sắp xảy ra với an toàn của cộng đồng hoặc môi trường; hoặc lợi ích của công chúng và môi trường phải được coi là lớn hơn so với những thiệt hại gây ra bởi việc cung cấp thông tin như vậy (Mục 46). Luật cũng quy định về việc công bố thông tin một phần tại Mục 28.

 Luật của Nam Phi không quy định đối với người tố cáo nhưng các đối tượng này đã được bảo vệ theo quy định của các luật khác có liên quan[101].

 Hàng năm, các cơ quan nhà nước phải gửi báo cáo lên Uỷ ban Bảo vệ quyền con người, trong báo cáo phải nêu thông tin cụ thể về số lượng đơn yêu cầu cung cấp thông tin đã tiếp nhận, kể cả yêu cầu đã được chấp nhận hoặc từ chối, các quy định của Luật về việc từ chối chấp tiếp cận, khiếu nại… Uỷ ban Bảo vệ quyền con người có trách nhiệm tổng hợp thành báo cáo hàng năm của Uỷ ban này gửi lên Quốc hội. Uỷ ban có nhiệm vụ tiến hành các chương trình thông tin tuyên truyền; tăng cường phổ biến thông tin một cách chính xác, kịp thời; đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện chất lượng và hiệu quả thực hiện Luật đối với các cơ quan liên quan, bao gồm cả cơ quan nhà nước; giám sát việc thực hiện; trợ giúp công dân thực hiện các quyền được quy định trong Luật (Mục 83).

                                          

                                        

 

                                            Chuyên  đề  11

 

LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á VÀ CHÂU ÚC

               PGS-TS Thái Vĩnh Thắng & LG Nguyễn Chu Dương

1. Luật tiếp cận thông tin một số nước châu Á

1.1. Nhật Bản

 Đạo luật của Nhà nước về tiếp cận thông tin có tên Luật của Nhật Bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính thông qua năm 1999, có hiệu lực năm 2001, được bổ sung năm 2004. Việc tiếp cận thông tin của nhà nước được nhìn nhận là quan trọng để công khai các sai lầm của Chính phủ và hướng tới  xoá bỏ sự ngăn cách những bí mật của nhà nước đối với công chúng. Điều này được phản ánh trong điều đầu tiên về mục đích của Luật, theo đó quy định mục tiêu công khai được bảo đảm, trách nhiệm của Chính phủ đối với công dân về những hoạt động khác nhau, và góp phần thúc đẩy một nền hành chính dân chủ và công bằng tuỳ thuộc sự hiểu biết và chỉ trích tương ứng của công dân. Vào thời điểm luật quốc gia được ban hành năm 1999, đã có hơn 900 thành phố đã thông qua các quy định quyền được thông tin.

 Các cơ quan được định nghĩa trong Luật là “cơ quan hành chính” bao gồm: các cơ quan của Nội các hay các cơ quan chịu sự kiểm soát của Nội các được quy định bởi pháp luật; các cơ quan hành chính được định nghĩa theo các luật khác; và Uỷ ban Kiểm toán. Luật đòi hỏi phải có một đạo luật điều chỉnh về nghĩa vụ thông tin của các công ty nhà nước trong vòng 2 năm sau khi thông qua luật và Luật về tiếp cận thông tin được quản lý bởi các chủ thể hành chính độc lập đã được ban hành và có hiệu lực năm 2002.

 Yêu cầu tiếp cận thông tin phải được lập thành văn bản, kể cả hình thức mẫu điện tử, và luật không đòi hỏi phải có sự giải trình về lý do yêu cầu. Luật cũng yêu cầu có sự giúp đỡ đối với người yêu cầu.

 Quyết định về việc cung cấp thông tin thông thường phải được đưa ra trong thời hạn 30 ngày. Thời hạn này có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa khi có lý do hợp lý là những khó khăn nảy sinh khi thực hiện công việc. Khi yêu cầu bao gồm một khối lượng lớn tài liệu của Nhà nước và có thể có rủi ro là hoạt động của cơ quan nhà nước sẽ bị trở ngại đáng kể bằng việc cố gắng cung cấp tất cả thông tin trong vòng 60 ngày thì người đứng đầu cơ quan nhà nước có thể thông tin một cách đơn giản phần hợp lý trong thời hạn đó, phần còn lại thực hiện trong thời gian hợp lý. Yêu cầu có thể chuyển giao cho cơ quan khác khi có căn cứ hợp lý.

 Luật không quy định nghĩa vụ công bố trước một số loại thông tin, được xem như một thiếu sót.

 Luật đưa ra 6 nhóm thông tin khác nhau có thể bị từ chối, liên quan đến thông tin về cá nhân mà việc cung cấp thông tin có thể gây tổn hại đến các quyền và lợi ích của cá nhân, liên quan đến thông tin của các doanh nghiệp, liên quan đến an ninh của nhà nước, liên quan trật tự xã hội, liên quan đến các cuộc thảo luận hay tư vấn của chính phủ, liên quan đến sự thiệt hại với hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước. Một đạo luật bổ sung được thông qua cùng với Luật trên cũng đưa ra danh mục các văn bản khác mà có thể loại trừ tiếp cận thông tin. Danh mục này bao gồm nhiều luật quy định về các biện pháp lựa chọn tiếp cận thông tin, như Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến các tài liệu của vụ án, Luật đăng ký bất động sản và các luật khác. Hầu hết các ngoại lệ phụ thuộc vào sự đánh giá thiệt hại. Trong một số trường hợp, những ngoại lệ này đòi hỏi thiệt hại thực tế phải bắt nguồn từ việc cung cấp thông tin, cho dù trong một số trường hợp điều này có thể dựa trên sự đánh giá của của cơ quan nhà nước. Điều 6 quy định khi một tài liệu được đề cập trong ngoại lệ, thì phần còn lại của tài liệu phải được công bố khi nó còn có ý nghĩa.

Luật cũng quy định về khiếu nại và khiếu kiện, và dành hẳn Mục 2 Chương III để quy định về Uỷ ban Thẩm tra việc cung cấp thông tin và Mục 3 Chương III để quy định thủ tục điều tra và xem xét của cơ quan này. Uỷ ban trực thuộc Văn phòng Nội các nhưng hoạt động độc lập.     

1.2. Hàn Quốc

  Từ năm 1989, Toà án Hiến pháp của Hàn Quốc đã ra phán quyết rằng quyền được biết bao gồm quyền yêu cầu công bố thông tin của các cơ quan nhà nước. Năm 1991, mặc dù chưa có bất kỳ luật nào liên quan đến thông tin được ban hành, Hội đồng nhân dân của thành phố Cheongju đã bỏ phiếu thông qua Pháp lệnh về công bố thông tin. Toà án tối cao đã ra phán quyết rằng Pháp lệnh  được ban hành là phù hợp với quy định của pháp luật.

 Luật  về việc thông tin công khai thông tin của các cơ quan chính quyền được thông qua năm 1996. Điều 1 quy định mục đích của Luật là để đảm bảo quyền của mọi người được biết và tham gia vào công việc quốc gia, và đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động của nhà nước bằng cách cung cấp những vấn đề cần thiết liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin thuộc sở hữu và quản lý của các cơ quan chính quyền khi có yêu cầu của người dân đối với những thông tin đó. Luật định nghĩa thông tin có nghĩa là các tin tức được soạn thảo, sở hữu và quản lý bởi các cơ quan chính quyền trong khi họ thi hành nhiệm vụ của mình. Những thông tin này được sao chép vào các tài liệu, bản vẽ, hình ảnh, film, băng, các bản slide, và các phương tiện trung chuyển được xử lý bằng máy tính v.v. các cơ quan chính quyền phải cung cấp cho công chúng các thông tin thuộc quyền sở hữu và quản lý của cơ quan chính quyền theo các điều khoản của luật. Các cơ quan chính quyền địa phương có thể thiết lập sắc lệnh thành phố về cung cấp thông tin trong phạm vi của các luật và các quy định dưới luật.

 Người yêu cầu được cung cấp thông tin phải nộp đơn yêu cầu, nêu nội dung và mục đích sử dụng thông tin yêu cầu cung cấp. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận đơn, cơ quan chính quyền phải ra quyết định. Thời hạn này có thể được gia hạn thêm 15 ngày vì lý do không thể tránh khỏi. Luật cũng quy định các cơ quan chính quyền phải thông báo với bên thứ ba về thực tế yêu cầu cung cấp thông tin và nếu cần thiết, phải lắng nghe các ý kiến liên quan nếu một phần hoặc toàn bộ thông tin được cung cấp liên quan đến bên thứ ba.

 Luật cũng quy định về thông tin không công khai tại Điều 7. Các thông tin cá nhân và liên quan đến bí mật thương mại của các công ty, hội đoàn hoặc cá nhân có một số trường hợp không liệt vào dạng ngoại trừ, nếu việc công khai là cân thiết vì lợi ích lớn hơn của cộng đồng.

 Điều 12 của Luật quy định công bố một phần thông tin. Nếu như thông tin yêu cầu được cung cấp là kết hợp giữa phần ở Điều 7(1) tức thông tin cần ngoại trừ và những phần được phép công khai, và những thông tin đó có thể chia ra mà không làm thay đổi tính chất của yêu cầu thì phần thông tin không phải là thông tin cần ngoại trừ sẽ được công bố.

 Luật quy định cụ thể về thủ tục kháng cáo bao gồm kháng cáo nội bộ đến cơ quan chính quyền liên quan, kháng cáo hành chính theo thủ tục quy định tại Luật kháng cáo hành chính và kiện tục hành chính theo Luật tố tụng hành chính. Bên thứ ba cũng có quyền phản đối, đệ đơn yêu cầu theo thủ tục kháng cáo hành chính hay tố tụng hành chính theo quy định của pháp luật để bảo vệ lợi ích của mình.

 Luật quy định một cách chung chung về nghĩa vụ công bố thông tin, theo Điều 21 cơ quan chính quyền sẽ nỗ lực một cách chủ động trong việc công khai thông tin tuy không được yêu cầu nhưng cần thiết phải công khai cho công luận. 

1.3.Thái Lan

   Thái Lan thông qua Luật tiếp cận thông tin, có hiệu lực ngày 9-12-1997, quy định phạm vi áp dụng rộng rãi, các cơ chế bảo đảm quy trình chung được quy định một cách tương đối hợp lý và diện thông tin thuộc trường hợp ngoại lệ rất hẹp. Tuy nhiên, luật không quy định rõ thời hạn cơ quan nhà nước phải trả lời các yêu cầu cung cấp thông tin, thiếu cơ chế giám sát độc lập và các quy định về tăng cường minh bạch rất hạn chế.

   Theo luật, nếu yêu cầu cung cấp thông tin đáp ứng một số điệu kiện tối thiểu như nêu rõ thông tin thì cơ quan trực tiếp nhận được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin. Luật không yêu cầu người cung cấp thông tin phải đưa ra mục đích hoặc lý do.

  Phạm vi thông tin được quy định rất rộng nhằm bao quát tất cả các tư liệu dùng trong giao tiếp, trao đổi mà không phụ thuộc vào hình thức hay chất liệu. Thông tin chính thức, đối tượng của quyền tiếp cận thông tin được quy định đơn giản là thông tin mà các cơ quan nhà nước đang nắm giữ, cho dù thông tin đó liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước hay cá nhân.

 Theo Điều 4, cơ quan nhà nước là các cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương, cấp tỉnh và địa phương, doanh nghiệp nhà nước, cơ quan của Chính phủ, cơ quan của Quốc hội, toà án (chỉ những thông tin không liên quan đến xét xử, phán quyết các vụ án), cơ quan giám sát chuyên môn, các cơ quan độc lập của nhà nước, các cơ quan khác được quy định trong cơ chế hoạt động các bộ.

  Bất cứ người nào cũng có thể yêu cầu cung cấp những thông tin không quy định phải đăng tải hoặc công khai để công chúng tiếp cận với điều kiện yêu cầu phải đủ chi tiết để cơ quan nắm giữ có thể xác định được thông tin này. Yêu cầu cung cấp thông tin sẽ bị từ chối nếu yêu cầu cung cấp quá nhiều thông tin hoặc yêu cầu liên tục nhiều lần mà không có lý do thuyết phục.

 Thông tin sẽ được cung cấp trong khoảng thời gian hợp lý mà khoảng thời gian này không được quy định rõ trong Luật. Trong trường hợp thông tin có thể hư hỏng, thất thoát do việc tiếp cận gây ra thì cơ quan nhà nước có thể kéo dài thời gian cung cấp thông tin.

  Trong trường hợp cơ quan nhà nước không nắm giữ thông tin được yêu cầu cung cấp thì có thể tư vấn cho người yêu cầu chuyển đến cơ quan nhà nước khác nơi thông tin đang được nắm giữ.

  Luật quy định việc thông báo cho bên thứ ba. Bên thứ ba phải được thông báo bằng yêu cầu cung cấp thông tin trong trường hợp việc cung cấp thông tin có thể gây hại tới lợi ích của họ và họ có ít nhất 15 ngày để có ý kiến phản đối. Trong trường hợp cơ quan nhà nước vẫn quyết định cung cấp thông tin, bên thứ ba được giành 15 ngày để khiếu nại.

  Người yêu cầu phải được thông báo trong trường hợp đơn yêu cầu của họ bị từ chối, quyết định từ chối phải rõ loại loại thông tin từ chối và lý do của việc từ chối.

  Thông tin chỉ có thể được cung cấp nếu được lưu giữ dưới hình thức có thể giao nhận và người yêu cầu không cần phải phân tích, chuẩn bị thêm hoặc biên tập lại thì mới có thể tiếp cận được. Quy định này không áp dụng với các tài liệu lưu trữ dưới dạng điện tử nhưu các tài liệu hình ảnh hay âm thanh. Ngoài ra, khi thông tin được yêu cầu cung cấp không nhằm phục vụ mục đích thương mại mà là bảo vệ quyền của người yêu cầu hoặc lợi ích công cộng thì cơ quan nhà nước phải cung cấp cả thông tin ở dạng có thể phải xử lý thêm.

  Luật của Thái Lan quy định trách nhiệm công bố thông tin trên Công báo của chính phủ và trách nhiệm phải lưu giữ, bố trí thông tin luôn trong trạng thái sẵn sàng để công chúng có thể tiếp cận. Điều 7 quy định đăng lên Công báo cơ cấu tổ chức của cơ quan, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương pháp hoạt động, chi tiết liên hệ phục vụ mục đích gửi yêu cầu tiếp cận thông tin, các văn bản pháp luật và chính sách, các thông tin khác do Uỷ ban thông tin quốc gia quyết định. Điều 9 quy định các cơ quan nhà nước sắp xếp các thông tin sau luôn trong trạng thái sẵn sàng để công chúng có thể tiếp cận: quyết định có tác động trực tiếp đến cá nhân; tất cả các chính sách hoặc sự giải thích không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 7; kế hoạch làm việc và dự toán ngân sách hàng năm; các quy định có ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của cá nhân; các tài liệu đã được công khai về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan nhà nước đó; các hợp đồng độc quyền và liên doanh liên kết; các thông tin khác do Uỷ ban Thông tin quốc gia quy định. Uỷ ban có thể quy định các trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin dưới hình thức tiếp cận theo quy định tại Điều 9. Yêu cầu cung cấp, việc tiếp cận các thông tin này phải chịu mức phí theo quy định do Uỷ ban Thông tin quốc gia.

 Luật quy định rất đầy đủ các trường hợp ngoại lệ. Điều 3 của Luật quy định trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa Luật này và các luật khác thì các quy định của Luật này được áp dụng. Tuy nhiên quy định này không áp dụng đối với các trường hợp ngoại lệ. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm áp dụng các hệ thống hoặc quy tắc ngăn chặn việc công bố hoặc cung cấp thông tin không đúng thẩm quyền theo quy định của Luật Bảo vệ thông tin bí mật. Hầu hết các thông tin thuộc trường hợp ngoại lệ đều yêu cầu thủ tục kiểm tra mức độ nguy hại. Có hai trường hợp ngoại lệ mà không cần dựa trên mức độ nguy hại là các tài liệu nội bộ phục vụ quá trình ban hành chính sách, quyết định và các thông tin được quy là mật. Điều 15 là quy định chủ yếu về các trường hợp ngoại lệ. Điều này quy định khi cơ quan nhà nước ra quyết định cấm công bố một thông tin chính thống nào đó thì cơ quan này phải cân nhắc đến tất cả các yếu tố như chức năng nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của tổ chức và cá nhân có liên quan. Quy định phải xem xét về mặt lợi ích cộng đồng ở đây là hữu ích nhưng không hoàn toàn giống các quy định về ưu tiên lợi ích công cộng bởi vì nguyên tắc ưu tiên lợi ích công cộng phải mang tính bắt buộc và không chỉ xem xét dựa trên một vài yếu tố. Điều 20 quy định rõ hơn về ưu tiên bảo vệ lợi ích công cộng, cụ thể là cán bộ cơ quan nhà nước không bị truy cứu trách nhiệm nếu công bố thông tin để bảo đảm lợi ích cộng đồng và việc công bố thông tin đó là hợp lý.

 Luật không quy định rõ ràng về nguyên tắc công bố thông tin một phần. Tuy nhiên luật quy định nếu thông tin thuộc diện được công khai mà có phần thuộc trường hợp ngoại lệ thì phần này phải được xoá bỏ hoặc xử lý để không bị tiếp cận. Luật không quy định cụ thể thời hạn bảo mật thông tin.     

 Đáng lưu ý trong số các loại thông tin thuộc diện ngoại lệ như các thông tin về thiết chế hoàng gia hay thẩm quyền của nhà vua trong việc ban hành sắc lệnh hoàng gia, ở một số nước khác luật cho phép tiếp cận.

 Luật cũng quy định về việc khiếu nại lên Uỷ ban Thông tin quốc gia và khởi kiện lên Toà án Công khai thông tin.

1.4.Ấn Độ

  Đạo luật quốc gia về Tự do thông tin ban hành lần đầu năm 2002, nhưng không bao giờ có hiệu lực và đã được thay thế bởi Luật về quyền được thông tin năm 2005. Luật năm 2005 có ý nghĩa và tiến bộ hơn so với luật trước. Sự khác biệt quan trọng là cơ chế phát triển hơn của việc chủ động công bố, thêm vào đó là cơ quan giám sát độc lập, các biện pháp thúc đẩy luật một cách mạnh mẽ hơn và quy định giới hạn hơn về những ngoại lệ. Luật ràng buộc cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, cũng như thành lập cả hai: Uỷ ban Thông tin nhà nước trung ương và Uỷ ban Thông tin ở địa phương.

 Đối tượng chịu sự điều chỉnh được mở rộng đến các cá nhân được kiểm soát và hỗ trợ tài chính từ chính phủ, bao gồm các tổ chức phi chính phủ. Điều 4 quy định tất cả nhà chức trách công cộng phải lưu giữ tất cả hồ sơ của cơ quan và phải công bố trong vòng 120 ngày kể từ ngày Luật được thông qua những thông tin về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ cơ quan, thẩm quyền và nghĩa vụ của các quan chức và nhân viên trong cơ quan, lương tháng của các quan chức và nhân viên cơ quan, bao gồm cơ chế trả lương theo nội quy cơ quan, ngân sách hoạt động của cơ quan, trong đó nêu chi tiết các khoản chi, mức đề xuất chi và các báo cáo tài chính đã nộp; công bố tất cả các sự kiện khi xây dựng các chính sách quan trọng hoặc công bố các quyết định mà ảnh hưởng tới công chúng; giải thích các lý do đưa ra các quyết định hành chính hoặc quyết định có tính chất bán tư pháp với những người bị ảnh hưởng bởi các quyết định đó. Việc phổ biến tất cả các tư liệu phải tính đến tính hiệu quả về chi phí, về ngôn ngữ địa phương và về các biện pháp thông tin hữu hiệu  có thể sử dụng ở trong khu vực. Việc công bố rộng rãi các thông tin sẽ giảm thiểu yêu cầu tiếp cận thông tin.

 Luật yêu cầu phải có sự giúp đỡ của nhân viên thông tin đối với người yêu cầu. Thông tin trả lời cho người yêu cầu phải được thông báo ngay khi có thể trong thời hạn là 30 ngày. Ở đâu mà thông tin ấy liên quan đến cuộc sống và tự do cá nhân, thì việc trả lời phải được công bố trong vòng 48 giờ. Nếu không trả lời được trong thời hạn nêu trên thì mặc nhiên coi đó là lời từ chối trả lời yêu cầu.

   Luật cũng điều chỉnh về vấn đề chuyển đơn yêu cầu, hay liên quan đến người thứ ba. Điều 8 của Luật quy định chi tiết các các ngoại lệ chủ yếu như: các thông tin mà việc tiết lộ có thể gây tác động tiêu cực đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, các thông tin mà bất kỳ toà án hoặc cơ quan tài phán nào cấm công bố, các thông tin về những bí quyết thương mại, bí mật kinh doanh, sở hữu trí tuệ, hoặc liên quan đến bí mật đời tư.

 Điều 24 quy định không áp dụng Luật đối với các cơ quan an ninh và tình báo do chính Chính phủ trung ương lập hoặc với bất kỳ thông tin nào gửi tới các cơ quan như vậy hoặc gửi Chính phủ (được liệt kê cụ thể tại Phụ lục 2), hay  các cơ quan tình báo và an ninh do Chính phủ các bang lập; tuy nhiên các thông tin liên quan đến những cáo buộc về tham nhũng và vi phạm quyền con người không thuộc quy định trên. Bất cứ ai, bao gồm cả bên thứ ba, người mà không nhận được quyết định trong thời hạn cụ thể hoặc người gánh chịu bất lợi một quyết định theo quy định Luật, trong thời hạn 30 ngày, có quyền khiếu nại đến quan chức phụ trách về thông tin liên quan. Khiếu nại lần hai được gửi tới Uỷ ban Thông tin trung ương hoặc Uỷ ban Thông tin của bang. 

1.5. Trung Quốc

 Pháp lệnh của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về công khai thông tin của chính quyền được thông qua tại phiên họp lần thứ 165 của Hội đồng Nhà nước, ngày 17-1-2007, có hiệu lực từ ngày 1-5-2008. Pháp lệnh này vẫn còn có một số hạn chế nên chưa thể có tính hiệu lực và hiệu quả cao, như từ ngữ không rõ ràng dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau, chưa tạo ra cơ chế áp dụng thống nhất, chuẩn mực và thiếu thể chế giám sát. Thay vì có một cơ quan giám sát riêng biệt, ở Trung Quốc trách nhiệm giám sát được giao cho Vụ Tổng hợp của Văn phòng Quốc Vụ viện ( Văn phòng Chính phủ).

  Điều 1 quy định mục đích của Pháp lệnh nhằm bảo đảm rằng mọi công dân, pháp nhân và tổ chức có thể có được thông tin của chính quyền phù hợp với pháp luật, từ đó nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của chính quyền, thúc đẩy sự quản lý bằng pháp luật và thực thi triệt để chức năng dịch vụ thông tin của chính quyền vì lợi ích  của đại bộ phận nhân dân và nhằm tác động tích cực đến tình hình kinh tế, xã hội.

  Pháp lệnh xác định thông tin của chính quyền được nêu trong Pháp lệnh được hiểu là bất cứ thông tin nào được tạo ra hoặc thu được trong quá trình thực thi chức năng nhiệm vụ chính thức của các cơ quan công quyền, mà được ghi chép hoặc lưu giữ dưới bất kỳ hình thức nào.

   Pháp lệnh quy định nguyên tắc cung cấp thông tin tối đa, tạo điều kiện cho công dân tiếp cận thông tin, các cơ quan nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc khách quan, bình đẳng và thuận tiện khi đối xử với công dân khi giải quyết các vấn đề liên quan đến công khai thông tin của chính quyền.

 Điều 9 quy định các cơ quan nhà nước phải công bố các thông tin của chính quyền liên quan đến: lợi ích cốt yếu của công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác; các yêu cầu mở rộng kiến thức hoặc sự tham gia của công chúng; việc thành lập, nghĩa vụ hoặc các thủ tục hnàh chính của các cơ quan nhà nước; các thông tin khác phải được công bố theo quy định của các luật, văn bản pháp quy khác. Luật quy định cụ thể trách nhiệm và phạm vi  công bố thông tin của chính quyền các cấp địa phương. Điều 10 quy định chính quyền cấp huyện cần công bố, trong đó “phải lưu ý” các dạng thông tin: văn bản pháp quy, các quy tắc của cơ quan nhà nước lập ra; các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các dự án đặc biệt; các báo cáo về chi tiêu tài chính và kiểm toán; thông tin về các dự án, phê duyệt hành chính…Thông tin “ưu tiên công bố” của chính quyền cấp tỉnh bao gồm:  thông tin liên quan các dự án lớn về xây dựng, quản lý; về tình hình thực hiện các dự án công ích; liên quan trưng dụng, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và việc đền bù, phân phối tiền trợ cấp và những bối cảnh áp dụng;  Các thông tin chính quyền cấp xã “cần chú trọng” công bố: thông tin liên quan đến tình hình thực hiện các chính sách quốc gia về việc làm ở khu vực nông thôn; tình hình quản lý và sử dụng ngân sách, các khoản chi tiêu và các quỹ đặc biệt; kế hoạch tổng thể về sử dụng đất ở địa phương; việc trưng dựng, thu hồi đất; việc ký kết hợp đồng, cho thuê hoặc đấu thầu của các doanh nghiệp tập thể hoặc các chủ thể kinh doanh khác…

  Trước khi công bố thông tin, các cơ quan nhà nước phải kiểm tra sự phù hợp của thông tin dự định công bố trên cơ sở đối chiếu với Luật về Bảo vệ bí mật nhà nước và các luật, quy định khác liên quan. Các cơ quan nhà nước không được công bố thông tin của chính quyền có chứa đựng bí mật quốc gia, bí mật thương mại và bí mật cá nhân. Tuy nhiên trong trường hợp có sự đồng ý chính thức của bên có liên quan, hoặc nếu cơ quan hành chính nhận thấy rằng việc không công bố thông tin của chính quyền nhất định chứa đựng bí mật thương mại hoặc bí mật cá nhân có thể làm tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích công cộng thì vẫn có thể công bố các thông tin đó.

  Cơ quan nhà nước phải công bố thông tin do mình tạo ra; cơ quan nhà nước đang lưu giữ thông tin thu thập từ công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác có trách nhiệm công bố các thông tin dạng này theo quy định của pháp luật. Phạm vi công bố thông tin của chính quyền được quyết định bởi các luật và quy tắc khác. Thông tin của chín hquyền nằm trong phạm vi cần công bố phải được công bố trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày được lập ra hoặc được cập nhật.

 Pháp lệnh cũng quy định chính quyền phải lập những khu vực riêng trong cơ quan lưu trữ và thư viện công cộng tạo thuận tiện cho công dân, pháp nhân và tổ chức khác tiếp cận thông tin.

 Thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin cũng được quy định. Người yêu cầu phải gửi yêu cầu bằng văn bản (có thể qua email) trừ trường hợp người yêu cầu khó khăn trong việc viết đơn thì có thể trình bày bằng miệng, hoặc nhờ người khác viết đơn. Nếu xét thấy có thể cung cấp thông tin, cơ quan nhà nước phải trả lời có thể cung cấp thông tin cho người yêu cầu. Nếu thấy không thể đáp ứng yêu cầu, cơ quan nhà nước phải thông báo cho người yêu cầu trong vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nếu gia hạn xét yêu cầu cũng không thể quá 15 ngày.

 Pháp lệnh cũng quy định việc cung cấp một phần  tài liệu là những thông tin không thuộc diện ngoại trừ. Nếu thông tin được yêu cầu cung cấp thuộc vào dạng bí mật thương mại, bí mật cá nhân hoặc việc công bố thông tin đó có thể làm tổn hại các quyền hợp pháp của bên thứ ba thì cơ quan đó phải gửi văn bản hỏi ý kiến bên thứ ba. Nếu bên thứ ba không đồng ý thì không được công bố thông tin đó trừ khi cơ quan nhà nước nhận thấy việc không công bố có thể làm tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích công cộng.

 Các công dân, pháp nhân, hoặc tổ chức gửi đơn tới cơ quan nhà nước yêu cầu cung cấp thông tin của chính quyền liên quan tới các vấn đề thuế, bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế…của bản thân họ phải cung cấp những giấy tờ hợp pháp chứng minh cho yêu cầu. Nếu công dân, pháp nhân hoặc tổ chức có thể chứng minh được thông tin mà các cơ quan nhà nước cung cấp mà liên quan tới họ là không chính xác thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước sửa chữa các thông tin đó. Nếu cơ quan nhà nước có liên quan không có trách nhiệm sửa chữa thông tin thì phải chuyển tiếp yêu cầu đến cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong việc này và phải thông báo cho người yêu cầu biết. 

1.6. Azerbaijan

  Luật về quyền tiếp cận thông tin được Tổng thống ký ban hành tháng 12-2005. Luật có quy định về cơ quan giám sát hành chính độc lập, quy định cụ thể về nghĩa vụ chủ động  công bố và cung cấp thông tin một cách rộng rãi. Tuy nhiên luật quy định phạm vi thông tin miễn trừ khá rộng và còn thiếu chế tài đối với việc cản trở tiếp cận thông tin  cũng như quy định bảo vệ việc tiết lộ thông tin một cách ngay tình hay biện pháp thúc đẩy việc công bố thông tin.

 Quyền tiếp cận thông tin áp dụng đối với các thông tin được cơ quan/tổ chức công nắm giữ. Cơ quan ,tổ chức công  (theo Điều 3 Luật tiếp cận thông tin 2005) là các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, pháp nhân bất kể thuộc loại hình sở hữu nào, các cá nhân được quy định tại Điều 9.

 Điều 9 định nghĩa tổ chức/cơ quan công là cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và các pháp nhân thực hiện chức năng công, đồng thời các pháp nhân tư nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá và lĩnh vực xã hội trên cơ sở các hoạt động hợp pháp hoặc các hợp đồng. Tất cả hay một phần các cơ quan thuộc sở hữu nhà nước hoặc các đơn vị trực thuộc, đồng thời các pháp nhân đang nắm giữ quyền tham gia hoặc vị trí ưu thế trên thị trường hoặc độc quyền thị trường, hoặc đang hoạt động trong lĩnh vực có bản chất là độc quyền đều được coi là tổ chức công có liên quan đến từng loại thông tin cụ thể.

  Điều 24 quy định thời hạn giải quyết yêu cầu thông tin là 7 ngày làm việc. Nếu tổ chức công không nắm giữ thông tin, cơ quan này nên cố gắng  tìm hiểu và khẳng định cơ quan nào đang nắm giữ thông tin đó và chuyển yêu cầu đến cơ quan đó trong thời gian 5 ngày làm việc. Nghĩa vụ này không áp dụng cho tổ chức tư nhân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật.

 Điều 29 của luật liệt kê 34 loại thông tin phải chủ động công bố bao gồm thông tin về tài chính và ngân sách, thông tin về nhân sự bao gồm cả tiền lương, đặc biệt là danh mục các tài liệu mật. Thông tin liên quan đến các mối đe doạ đến tính mạng con người, sức khoẻ, tài sản, môi trường, các vấn đề khác thuộc lợi ích cộng đồng thì phải tiết lộ ngay lập tức.

 Điều 35 và Điều 38 của luật liệt kê những thông tin bảo mật đó là những thông tin có dự định sử dụng trong nội bộ, thông tin cá nhân và thông tin về cuộc sống gia đình.

1.7. Kirgyzstan

  Kirgyzstan lần đầu tiên thông qua Luật về các bảo đảm và tự do tiếp cận thông tin năm 1997. Luật mới có hiệu lực năm 2007 có sự cải thiện cơ bản về quyền được thông tin.

  Luật có quy định phát triển về các cuộc họp công khai, và cũng giống như một số luật thuộc thế hệ mới, luật bao gồm tập hợp chi tiết các quy định về việc chủ động công bố thông tin. Luật quy định tất cả các cơ quan nhà nước bao gồm cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, các cơ quan hoạt động từ ngân sách nhà nước, và cơ quan tự quản ở địa phương được thành lập bởi công chúng ở cấp địa phương có nghĩa vụ cung cấp thông tin. Các thiết chế hoạt động từ ngân sách nhà nước để thực hiện chức năng không liên quan đến quyền lực nhà nước hay sự tự quản, kể cả cơ quan tập trung vào vấn đề sức khoẻ, giáo dục, thông tin, thống kê, tư vấn và tín dụng  cũng nằm trong đối tượng điều chỉnh của luật. Về thủ tục, các yêu cầu có thể được đưa tra bằng miệng, điện thoại, hoặc văn bản qua đường chuyển phát, bưu điện, thư từ hay các kênh điện tử. Thông tin ngắn được yêu cầu bằng miệng sẽ được trả lời bằng miệng. Theo Điều 10, yêu cầu bằng văn bản phải được trả lời trong thời hạn 2 tuần, kể từ ngày nhận yêu cầu đến ngày trả lời được gửi đi (kể cả việc gửi qua bưu điện). Việc trả lời bằng điện tử có thể hoặc kèm theo tài liệu như một file hoặc chỉ dẫn địa chỉ trang Web  phù hợp. Điều 13  quy định nguyên tắc chung mà việc trả lời các yêu cầu về thông tin được miễn phí, nhưng có quy định chi phí bưu điện do người yêu cầu chịu và chi phí sao chụp không vượt quá chi phí thực tế và phù hợp danh mục giá của chính phủ trung ương (có thể được thu đối với những yêu cầu đòi hỏi quá 5 trang bản sao). Phí có thể miễn  với người nghèo.

  Luật quy định chi tiết và ở phạm vi rộng về việc chủ động công bố thông tin, bao gồm các loại thông tin cụ thể phải được công bố như các đạo luật, báo cáo hàng năm của các cơ quan nhà nước, thông qua ngân sách, sự thay đổi về tỷ giá và thuế, các văn bản pháp luật liên quan quản lý tài sản công, cấp đất hoặc nhà cho người nước ngoài…Luật quy định về việc phổ biến tài liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng và qua sổ tay có thể tiếp cận, kể cả bản tóm tắt về hoạt động, quy định nghĩa vụ chung đối với các cơ quan nhà nước phải cung cấp thông tin cho các phưuơng tiện thông tin về hoạt động của mình.

 Điều 20 quy định danh mục 36 nhóm thông tin phải được công bố hằng năm, như thông tin về hoạt động và tổ chức của cơ quan nhà nước, các thủ tục theo đó các cá nhân có thể tiếp cận cơ quan nhà nước, thông tin về tài liệu cơ quan nắm giữ, và cơ chế quản lý thông tin, thông tin về các dự án đang được cơ quan thực hiện, thông tin tài chính về ngân sách và quỹ nhận được từ các cơ quan nước ngoài, và thông tin chi tiết về việc đấu thầu và các hoạt động cạnh tranh công khai.

 Luật của Kirgyzstan là luật duy nhất có quy định đến việc thiết lập một cơ chế tiếp cận thông tin với các cuộc họp công khai (một số nước có đạo luật riêng về vấn đề này).

 Khác với hầu hết các đạo luật về quyền thông tin, luật của Kirgyzstan không bao gồm một danh mục phổ biến về các ngoại lệ nhưng thay vào đó đề cập đến quy định pháp luật về bí mật.

 Điều 36 của luật  quy định chế tài một cách chung chung đối với những cá nhân không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình theo pháp luật, cho dù thực hiện hay không thực hiện, thì phải chịu trách nhiệm hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật hay trách nhiệm vật chất theo quy định của pháp luật hiện hành ./.

2. Luật tiếp cận thông tin của châu Úc (Australia)

     Luật Tự do thông tin của Úc ban hành năm 1982 sửa đổi năm 2005. Điều 11 của Luật quy định quyền tiếp cận với các tài liệu. Tất cả những chủ thể được đề cập trong Luật có quyền thực tế và hợp pháp được tiếp cận các tài liệu: tài liệu của một cơ quan, ngoại trừ các tài liệu được miễn công bố; tài liệu chính thức của một Bộ trưởng, ngoại trừ các tài liệu được miễn công bố. Quyền tiếp cận tài liệu của các chủ thể được quy định trong Luật không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ lý do nào mà một người đưa ra để được tiếp cận tài liệu; và niềm tin của cơ quan hoặc Bộ trưởng về lý do một người đưa ra để được tiếp cận tài liệu.

 Luật cũng đưa ra một loạt các trường hợp một người không có quyền tiếp cận với các tài liệu. Luật quy định một người không có quyền tiếp cận với một tài liệu mà đã trở thành tài liệu của một cơ quan hoặc với một tài liệu chính thức của một Bộ trưởng trước 5 năm kể từ ngày ban hành tài liệu đó, trừ khi: tài liệu hoặc một phần của tài liệu đó chứa những thông tin sau: thông tin cá nhân của một người; thông tin lên quan đến công việc kinh doanh, các vấn đề về thương mại hoặc tài chính của một người (theo điểm a Khoản 2 Mục 12); tài liệu hoặc một phần của tài liệu đó là một tài liệu hoặc một phần của một tài liệu đòi hỏi người tiếp cận cần phải có hiểu biết phù hợp về tài liệu của một cơ quan, hoặc một tài liệu chính thức của một Bộ trưởng mà đòi hỏi người tiếp cận phải được cho phép theo pháp luật.

 Yêu cầu tiếp cận tài liệu phải thể hiện bằng văn bản, cung cấp thông tin liên quan đến tài liệu đủ để xác định được tài liệu, cụ thể hoá địa chỉ có thể gửi thông báo, được gửi tới cơ quan hoặc Bộ trưởng qua đường bưu điện, hoặc chuyển tới viên chức cơ quna hay nhân viên của Bộ trưởng tại địa chỉ bất kỳ văn phòng trung ương hay khu vực ghi trong danh bạ hiện hành; kèm theo lệ phí.

  Khi nhận được một yêu cầu, cơ quan hoặc Bộ trưởng phải:  thực hiện tất cả các biện pháp có thể trên thực tế để thông báo, trong vòng 14 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu bởi hoặc thay mặt bởi cơ quan hoặc Bộ trưởng, cho người nộp đơn rằng đơn của họ đã được tiếp nhận (điểm a Khoản 5 Mục 15); thực hiện tất cả các biện pháp có thể trên thực tế để thông báo, trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu bởi hoặc thay mặt bởi cơ quan hoặc Bộ trưởng, cho người nộp đơn về quyết định liên quan đến yêu cầu của họ (bao gồm một quyết định theo Mục 21 để hoãn lại việc cung cấp tài liệu) (điểm b Khoản 5 Mục 15). Nếu liên quan đến một yêu cầu liên quan đến tài liệu có thể ảnh hưởng tới quan hệ  giữa các nước trong Khối Thịnh vượng chung, liên quan tới các tài liệu về các vấn đề kinh doanh, chứa đựng những thông tin cá nhân thì cơ quan hoặc Bộ trưởng quyết định bằng văn bản  về những thủ tục nêu cụ thể trong luật để mở rộng thời hạn nêu trong Khoản 5(b): thời hạn giải quyết yêu cầu cần tăng thêm 30 ngày; cơ quan hoặc Bộ trưởng phải, trong thời gian sớm nhất có thể, thông báo cho người nộp đơn về thời gian tăng thêm đó.

 Luật có quy định về vấn đề hỗ trợ người yêu cầu và việc chuyển yêu cầu tới cơ quan khác. Luật cũng quy định cụ thể các yêu cầu liên quan tới việc sử dụng máy vi tính tại Mục 17. Các Mục 26A, 27, 27A giành quy định thủ tục yêu cầu liên quan tới các tài liệu mà có thể ảnh hưởng tới các quan hệ giữa các nước trong Khối Thịnh vượng chung, các tài liệu về các vấn đề kinh doanh và các tài liệu chứa đựng những thông tin cá nhân.

 Tạo thuận lợi cho người tiếp cận, Luật yêu cầu phải nêu rõ địa chỉ của những văn phòng chính phủ Khối Thịnh vượng chung trên khắp nước Úc là các Văn phòng tiếp cận thông tin. Người yêu cầu phải được cung cấp thông tin tại Văn phòng gần với nơi sinh sống của người đó nhất. Một người được cung cấp tài liệu không phải trả thêm bất kỳ một khoản lệ phí nào ngoài khoản lệ phí theo quy định người đó phải trả cho việc tiếp cận tài liệu, cho dù làm tăng thêm phí tổn cho cơ quan hoặc Bộ trưởng so với việc thực hiện việc này ở nơi khác.

                                            

                                                Chuyên đề 12

KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

                                                              Th.s Nguyễn Thị Hạnh

                                         Vụ pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ tư pháp

1.  NA  UY

      Đạo Luật Tự do Thông tin năm 1970 (Theo nghị quyết ngày 19/6/1970 về tiếp cân tài liệu công trong khu vực hành chính công). Luật này được sửa đổi theo nghị quyết số 47 ngảy 11/6/1982 và tiếp theo là nghị quyết số 10 năm 1997 và số 45 ngày 20/6/2003. Luật sửa đổi gần nhất có hiệu lực từ 1/1/2009. Về những sửa đổi cập nhật nhất nhằm vào các vấn đề xử lý yêu cầu thông tin, hạn chế các tài liệu nội bộ, thông tin miễn trừ và sửa đổi để phù hợp với yêu cầu của Liên Minh Châu Châu đặc biệt liên quan đến yêu cầu tiếp cận thông tin môi trường (theo Công Uớc Aarhus) và yêu cầu minh bạch cao hơn.

Mục tiêu của Luật Tự do thông tin (bản sửa đổi mới nhất hiệu lực 1.1.2009) của Na Uy là nhằm tăng tính minh bạch của hệ thông hành chính công vfa năng lực tiếp cận tài liệu chính thức, làm cho các tài liệu này dễ tiếp cận hơn cho công chúng và cả cho hệ thông hành chính và cuối cùng là đáp ứng những khă năng áp dụng và sự phát triển của công nghệ mới.

Phạm vi áp dụng của Luật là quy định những thiết chế nào nằm trong quy định của Luật, loại thông tin và hình thức thông tin cần có và cần cung cấp, đối tượng có thể yêu cầu tiếp cận. …

Các thiết chế công áp dụng trong Luật Tự do thông tin

Cơ quan công cần cung cấp thông tin bao gồm bộ ngành hành chính, chính quyền trung ương, vùng và địa phương (3 cấp), bao gồm các công ty ít nhất 50% cổ phần của nhà nước ở cả cấp trung ương và địa phương (tuy nhiên liên quan đến công ty (có ít nhất 50% vốn nhà nước hay công ty có hơn 50% hội đồng quản trị do chính quyền bổ nhiệm) thì trách nhiệm theo luật này sẽ không áp dụng với công ty có các điều kiện cạnh tranh trực tiếp (các công ty phải chứng minh về bản chất của pháp nhân, các điều kiện cạnh tranh và các yếu tố kinh doanh độc lập khác để được quyền miễn trừ trách nhiệm cung cấp thông tin).

Luật Tự do thông tin cũng không áp dụng với các công ty độc quyền Nhà nước (ở Nauy có các dịch vụ như Công ty kinh doanh rượu, Đánh bạc/Sổ số là kinh doanh độc quyền nhà nước)

Một số thiết chế công đặc biệt như Tổng cục cảnh sát (thuộc Bộ Tư pháp và cảnh sát), Tổng cục An Ninh Quốc Phòng và Tổng cục tình báo hoạt động theo một số đạo luật cụ thể như Luật An Ninh, Luật bí mật quốc phòng v.v Các cơ quan này mang những nhiệm vụ đặc biệt và thường nằm trong dạng miễn trừ của Tiếp cận thông tin. Tuy nhiên với đạo luật mới, các cơ quan này cũng vẫn là trong đối tượng áp dụng của Luật tự do thông tin. Những thông tin thuộc loại mật trong những phân loại của Luật An Ninh hay Luật bí mật quốc phòng vẫn có hiệu lực khi thực thi luật Tự do thông tin. Kinh nghiệm hoạt đông của các cơ quan này là cơ sở dữ liệu thông tin của họ cần xử lý kỹ càng để mọi thông tin phải mở sẽ được liệt kê trong công báo, mà không có loại thông tin dạng mật nào nằm nhầm trong công báo. Đồng thời các cơ quan áp dụng nhiều hơn hình thức cung cấp tài liệu nhưng bỏ đi phần thông tin được phân loại mật.

Na Uy loại bỏ các thông tin từ hệ thống cơ quan lập pháp và tư pháp và cơ quan cảnh sát làm chức năng công tố, mà quy định cụ thể về loại thông tin này nằm trong các luật khác hoặc danh mục hạn chế chứ không nằm trong điều khoản Luật tự do thông tin. Ví dụ, tiếp cận thông tin tòa án được quy định trong Luật Tố Tụng Dân sự và Tố tụng hình sự.

Tuy nhiên, Hiến pháp Nauy lại quy định các phiên họp quốc hội lại được mở công khai cho công chúng được trực tiếp nghe hoặc qua các phiên bản ghi và phát trên phương tiên thông tin đại chúng (đài, TV, internet). Công chúng cũng được dự các phiên xử của tòa.

Ai được quyền tiếp cận thông tin?

Khái niệm “quyền tiếp cận” được hiểu là quyền của mọi người bất kể là quốc tịch (quốc tịch Na Uy hay các quốc tịch khác, người cư trú dài hạn, ngắn hạn), tổ chức v.v hoặc bất kể vì lý do nào (tức là không phải công bố lý do yêu cầu thông tin). Quyền Tiếp cận thông tin hướng tới các cơ quan công nắm giữt thông tin nhưng thực hiện quyền này cũng có thể hướng tới việc công chúng có thể kiểm soát hoạt động của các cơ quan này.

Công dân yêu cầu thông tin phải lựa chọn văn bản nào họ muốn biết và họ có thể hiểu văn bản này theo cách hiểu của họ. Do vậy, cũng cần nhấn mạnh là với điều kiện phát triển của công nghệ thông tin, sự tham gia mạnh mẽ của giới báo chí và truyền thông, công dân có quyền lựa chọn và trách nhiệm hình thành việc hiểu vấn đề qua văn bản gốc hay các nguồn thông tin thứ cấp khác, các hình thức bình luận của báo, hình thức giải thích của các cơ quan hành chính khi cung cấp thông tin.

Loại thông tin được quyền tiếp cận?

Thông tin công thông thường liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của công dân cũng như tiêu chuẩn sống, sức khỏe, giáo dục, an toàn v.v... Tuy nhiên, công dân hoàn toàn có thể yêu cầu các thông tin khác như về các vấn đề chính trị, xã hội, và các chính sách của chính phủ có liên quan và yêu cầu thông tin để tham gia trong quá trình hoạch định chính sách [102]. Những thông tin đang tranh cãi cũng có thể được đưa ra công chúng. Ví dụ, những tranh luận của các bên về một kế hoạch xây dựng nhà máy thủy điện hay nhà máy gas được công chúng và các tổ chức môi trường rất quan tâm. Họ có thể đưa ra các mối quan ngại tới Quốc hội. Các tổ chức môi trường này cũng có thể yêu cầu được tiếp cận các tài liệu công liên quan đến vụ việc chuyển thẳng cho họ hoặc yêu cầu tài liệu được tải lên internet và họ có thể đọc và tự hiểu tài liệu này theo cách hiểu của họ.

Một số ví dụ thông tin công cộng cần cung cấp phổ biến gồm những văn bản luật và quy định của các cơ quan cần phổ biến toàn bộ và đầy đủ văn bản. Các văn bản luật và quy định cũng được tải lên một cơ sở hợp nhất văn bản luật của Na Uy là Lawdata[103]. Các báo cáo, khuyến nghị, tài liệu vụ việc công, giải thich chính thống cũng có thể đưa lên trang web của các bộ ngành và quốc hội.[104]

Theo đạo luật mới nhất của Nauy (hiệu lực 1.1.2009) thì thông tin và tài liệu phải “mở” gồm “tài liệu công việc, công báo hoặc các đăng ký danh mục tài liệu” (điều 3 chương 2), bao gồm: các tài liệu công việc của cơ quan hành chính, các tài liệu được liệt kê trong danh mục công báo, các tài liệu được chuyển vào dữ liệu lưu trữ. Hình thức tài liệu thông tin có thể bằng giấy tờ, điện tử, băng hình, băng ghi, ảnh, emails.

  Yêu cầu thông tin sẽ được các cơ quan công hoặc công chức xem xét trên nguyên tắc lợi ích công cộng (điều khoản 11). Kể cả trong trường hợp thông tin tài liệu được liệt vào dạng mật, nhưng trước yêu cầu cung cấp thông tin, người có trách nhiệm cao nhất của cơ quan hay quyền xem xét tính chất mật của tài liệu sẽ phải cân nhắc có cho phép tiếp cận không và có thể cho tiếp cận nếu lợi ích công cộng cao hơn. Cũng có thể có hình thức loại bỏ thông tin mật là một phần của tài liệu và cung cấp phần còn lại của tài liệu (điều khoản 12)

   Ngoài ra thông tin và tài liệu thuộc phạm vi của đạo luật khác cũng nằm trong dạng miễn trừ như Luật Lưu trữ (về bảo mật thông tin, Luật dữ liệu cá nhân (về thông tin cá nhân), Luật Hành chính công (về thông tin nhân sự), những đạo luật thuộc trách nhiệm của Tổng cục cảnh sát như luật An Ninh, Luật Nhập cư, Luật Quốc Tịch, Luật An Ninh cảnh sát, đạo luật thuộc trách nhiệm của Tổng cục quốc phòng Luật Bí mật quốc phòng (có quy định rõ các phân loại thông tin mật).

Thủ tục yêu cầu thông tin và khiếu nại

  Cá nhân hoặc tổ chức yêu cầu thông tin không phải cung cấp lý do cần hay mục đích sử thông tin đó và yêu cầu thông tin có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc văn bản (điều khoản 28 của Luật không quy định về điều kiện phải cung cấp lý do, do vậy được hiểu là người yêu cầu thông tin không cần phải cung cấp lý do). Người có thông tin công có quyền hiểu thông tin đó theo cách của họ. 

Người yêu cầu thông tin không cần phải đưa ra chi tiết hoặc mã số văn bản yêu cầu mà chỉ cần “liên quan đến trường hợp cụ thể” hoặc nói cách khác mô tả loại tài liệu hoặc trường hợp cụ thể đó ở mức độ hợp lý (điều 28)
Mọi yêu cầu về thông tin cần đựợc trả lời trong vòng 5 ngày và quyết định từ chối cung cấp thông tin phải đựoc trả lời trong vòng 10 ngày hay nói cách khác, quyết định từ chối thông tin phải được trả lời bằng văn bản (nếu thông tin đó trong danh mục mật) trong vòng 10 ngày (điều khoản 31), trừ những thông tin nằm trong dạng cần được giải thích về yêu cầu thông tin hoặc có quyết định tạm hoãn không cung cấp thông tin tới một thời gian nhất định trong tương lai (điều khoản 5). Nếu yêu cầu thông tin không được trả lời sẽ bị coi là từ chối.

  Yêu cầu thông tin hay tiếp cận thông tin không mất lệ phí. Người yêu cầu thông tin có thể yêu cầu nhiều loại tài liệu tuy nhiên, có quy định tối đa số trang của mỗi tài liệu (không quá 100 trang). Trên mức đó người yêu cầu thông tin phải trả mức phải chăng (1 NOK/trang). Việc quy định cung cấp miến phí có thể tạo thêm chi phí cho hành chính, nhưng có thể tăng khả năng tiếp cận thông tin một cách tối đa nhất, và giảm những dịch vụ kiếm lời từ việc bán thông tin công.   

Quyền khiếu nại:

  Nếu yêu cầu tiếp cận thông tin bị từ chối, trong thời hạn 3 tuần, các cá nhân có thể gửi đơn khiếu nại hoặc khiếu kiện tới cơ quan chức năng cấp cao hơn và sau cùng là Cơ quan Thanh tra (Ombudsman) Quốc hội về Hành chính công hoặc tòa án cấp cao hơn. Ở cấp địa phương, thẩm quyền giải quyết và quyết định về khiếu nại khiếu kiện là thống đốc tỉnh, thành phố, hạt. Ở cấp trung ương liên quan đến bộ ngành thì là Chính phủ hay Ombudsman của Quốc hội.

Cơ quan Thanh tra Quốc hội về Hành chính công[105] có chức năng điều tra các đơn khiếu nại của công dân kể cả các khiếu nại về sự không công minh và quản lý sai trái của các chính quyền trung ương và  địa phương có thể xử lý theo cách của họ. Có nghĩa là Thanh tra quốc hội về hành chính công này có chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan chính phủ. Các hoạt động của Thanh Tra quốc hội được coi là bổ trợ cho hệ thống tư pháp. Các quyết định của cơ quan Thanh Tra này không có tính bắt buộc, hầu hết các cơ quan công của Na Uy đều thực hiện các yêu cầu và khuyến nghị trong các quyết định.

Chế tài và Xử phạt

  Những thông tin thuộc dạng mật quy định bởi  các luật như Luật Tự do thông tin, Luật Hành chính công, Luật Dữ liệu cá nhân, Luật lưu trữ, Luật An Ninh, Luật Bí Mật quốc phòng, và các thông tin nội bộ không thuộc dạng thông tin mở. Trách nhiệm bảo mật là của cá nhân công chức. Tuy nhiên, nếu thông tin đã lọt ra ngoài cơ quan sẽ không đựợc coi là mật. Cơ quan đó sẽ chịu trách nhiệm điều tra vụ việc và truy cứu trách nhiệm hành chính hoặc dân sự đối với người vi phạm. Cảnh sát (không phải cảnh sát công tố) có thể điều tra khi có yêu cầu nhưng không có quyền phán quyết. Các chứng cứ điều tra và kết luận sẽ chuyển lại cho cơ quan quản lý trực tiếp của vụ việc để ra quyết định hành chính.

2- THỤY ĐIỂN

Thụy Điển có niềm tự hào là nước có Luật Tự do Báo chí đầu tiên trên thế giới, từ năm 1766. Tự do báo chí và các hình thức ngôn luận khác đã được luật hóa trong 2 trong 4 luật căn bản nhất của Thụy Điển[106]. Mặc dù được làm thành 2 luật riêng là Luật Tự do Báo chí 1766 (sửa đổi nhiều năm 1772, 1819, 1812, và bản sửa đổi áp dụng gần nhất là 1949 sửa đổi năm 1976) và Luật Tự do Ngôn Luận bản 1991 . Hai luật này là chủ đạo liên quan đến quyền tiếp cận thông tin. Ngoài ra còn có bộ Quy tắc điều hành chính phủ (1974) có nhiều điều khoản về hoạt động bộ máy hành chính công.

Luật tự do báo chí 1766 đã quy định quyền tiếp cận công các tài liệu chính phủ. Quyền này cũng được đề cập trong Hiến pháp và được coi là bộ luật tiến bộ nhất thời bấy giờ về quyền tự do thông tin. Ví dụ, Bộ luật 1766 cho phép tự do ngôn luận trừ trường hợp “vi phạm” có nghĩa là báng bổ và chỉ trích Nhà nước.

Tự do Ngôn luận và Quyền tiếp cận tài liệu công trong luât 1766 của Thụy Điển được coi là tiến bộ nhất thế giới vào thế kỷ 18 và là phần quan trọng của Luât 1766. Tiếp cận tài liệu công được cho là phương thức đấu tranh giảm tham nhũng và các đối xử bất công với công dân và tăng uy tín của các cơ quan công cũng như của các chính trị gia. Luật cho phép mọi công dân có quyền tiếp cận tới các văn bản do chính phủ nắm giữ. Nó cũng yêu cầu các tài liệu chính thức cần được cung cấp cho mọi người theo yêu cầu và không phải chịu phí tổn. Luật này xây dựng trên nền tảng khái niệm về tự do về ngôn luận và tự do thông tin, cũng cụ thể vai trò của Thanh Tra điển hình trong mô hình xã hội Thụy Điển.

Luật tự do ngôn luận quy định tự do ngôn luận trong mọi phương tiện truyền thông (như TV, internet, đài v.v) trừ sách in và tạp chí. Luật này bảo vệ quyền của công chức trong việc cung cấp thông tin, nếu họ nghĩ là thông tin đó phục vụ cho lợi ích công. Có nghĩa là công chức được quyền cung cấp thông tin cho các nhà báo khi họ nghĩ thông tin này là cần thiết vì lợi ích công cộng và nhà báo có quyền sử dụng nguồn thông tin này mà không cần trích dẫn nguồn. Tuy nhiên, công chức cũng phải có trách nhiệm với thông tin mà họ cung cấp.

Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến tiếp cận thông tin

Theo luật 1976 của Thụy Điển, Chính phủ, cơ quan trung ương kể cả các cơ quan thương mại công, tòa án, chính quyền (hành chính) địa phương được coi là cơ quan công quyền. Tuy nhiên, công ty, các hiệp hội và tổ chức không được coi là cơ quan công kể cả nhà nước có vốn và nắm kiểm soát. Quốc hội, Hội đồng Hạt và Hội đồng địa phương (dân bầu) cũng không phải là cơ quan công.

Các cơ quan công bắt buộc phải lưu trữ các tài liệu chính thức theo hệ thống và tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận được dễ dàng. Hệ thống và tài liệu chính thức này được chuyển tải lưu trong hệ thống thông tin quốc gia, trách nhiệm của từng cơ quan, trừ những tài liệu như không quan trọng, tài liệu không biết rõ nguồn; tài liệu thuộc loại mật và những tài liệu do các cơ quan khác đã đưa vào hệ thống lưu trữ quốc gia. Tính tiếp cận tài liệu có nghĩa là một công dân bình thường cũng có thể đến hoặc yêu cầu văn phòng Thủ tướng cho xem những tài liệu chính thức của Thủ tướng. (lưu ý, tài liệu chính thức, tài liệu công khác với tài liệu thuôc về cá nhân hay liên quan đến cá nhân). Ví dụ, thủ tướng hay các bộ trưởng nắm giữ tài liệu công và cả những thông tin cá nhân, qua email, thư từ, tin nhắn. Luật tiếp cận thông tin chỉ áp dụng với những tài liệu công. Khi tài liệu qua email thuộc tài liệu công, chúng cần được in ra, lưu và liệt kê trong công báo. Việc thay đổi hay xóa bỏ tài liệu trong danh sách công báo là vi phạm trách nhiệm hình sự.

Thủ tục khiếu nại, khiếu kiện:

Trình tự khiếu nại, khiếu kiện được thực hiện theo hai cấp. Đánh giá các khiếu nại hành chính nội bộ sau đó gửi lên Thanh tra (Ombudsman). Nếu khiếu kiện thì lên tòa hành chính và Tòa hành chính tối cao.

  • Khiếu nại: Khiếu nại có thể được gửi lên cho Thanh tra Quốc hội. Cơ quan thanh tra này có quyền tiến hành những thủ tục nguyên tắc đối với viên chức không thực hiện đúng luật về cung cấp thông tin. Cơ quan thanh tra có thể đưa ra nhận xét và khuyến nghị (không phải là phán quyết) và không có tính bắt buộc. Tuy nhiên cân nhấn mạnh là cơ quan Thanh Tra này có tính chất trung lập về chính trị.
  • Khiếu kiện: Khiếu kiện (vụ án) có thể gửi lên tòa án các cấp theo thủ tục của Luật Tố tụng Hình sự
  • Kháng cáo: Chủ thể kháng cáo lại quyết định của cơ quan công khi từ chối quyền tiếp cận thông tin và tài liệu chính chức. Kháng nghị có thể mang tính nội bộ. Theo cách tiếp cận tư pháp thì kháng cáo có thể gửi tới tòa án hành chính hoặc Tòa Hành chính cấp trên. Việc kháng cáo có thể vì lý do bị các cơ quan công quyền từ chối không cung cấp thông tin hay hạn chế quyền được tiếp cận thông tin. Tuy nhiên đối với việc bị từ chối từ các cơ quan của Quốc Hội  và không có điều khoản kháng cáo đối với các cơ quan hành chính độc lập là các yếu tố hạn chế thiếu sót của Luật Tự do thông tin của Thụy Điển.
  • Luật Hình sự có điều khoản phạt tù tối đa là 1 năm với vi phạm cố tình tiết lộ thông tin mật.

3- ĐAN MẠCH

Hệ thống luật của Đan Mạch phức tạp hơn của Thụy Điển và Na Uy, với các quy định dưới luật và các chỉ thị để thực hiện luật. Hệ thống đa cấp này cũng áp dụng với Luật Tự do Thông tin. Có nghĩa là Đan Mạch lồng ghép các nguyên tắc tự do thông tin vào các luật khác, ví dụ như Luật Minh Bạch và Mở trong Giáo dục, yêu cầu các trường duy trì cổng điện tử cung cấp thông tin về kế hoạch dạy, khóa học và hệ thống cho điểm và các thông tin khác.

Ở Đan Mạch, Luật Tiếp cận tài liệu hành chính công (Access to Public Administration Files Act 1985) áp dụng với hầu hết cơ quan công, gồm cả điều khoản quy định bao gồm công ty và tổ chức khác sử dụng nguồn ngân sách công và có quyền ra chính sách và quyết định thay mặt cho chính quyền trung ương và địa phương. Luật này cũng bao gồm đối tượng công ty cung cấp năng lương công và tư nhân. Tuy nhiên về đối tựợng, Luật của Đan Mạch không áp dụng cho khu vực tư pháp (tòa án) và lập pháp.

Các luật có liên quan đến tiếp cận thông tin như Luật Lưu trữ, cho phép các lưu trữ của các cơ quan công được duy trì trong vòng 30 năm, các thông tin cá nhân đươc lưu trữ trong 80 năm; các thông tin về an ninh quốc gia và các lý do khác có thể đóng theo thời hạn khác nhau. Cơ quan công quyền cần cung cấp thông tin nếu việc không cung cấp gây tổn hại cho cuộc sống, sức khỏe, tài sản và môi trường của cộng đồng.

4. PHẦN LAN

   Hệ thống văn bản Luật bao gồm Luật Tự Do báo chí Thụy Điển phiên bản cho Phần Lan. Luật này quy định tự do tiếp cận thông tin do chính phủ nắm giữ và quy định về chức năng của Cơ quan Thanh Tra. Về quyền tiếp cận thông tin của Phần Lan được luật hóa và sửa đổi trong Luật phát hành tài liệu 1951 (Publicity of Documents Act 1951) và sau đó là Luật Mở về các hoạt động của Chính Phủ 1999. Luật Mở Tài liệu Công (9.2.1951/83- Act on the Openness of Public Documents of 1951) quy định công khai các tài liệu do nhà nước, chính quyền cơ sở và tổ chức tôn giáo nắm giữ. Luật này có điều khoản về hạn chế thông tin cũng được ghi trong luật hoặc trong Thông tư/Nghị định/Quy định có đề cập lý do hạn chế, ví dụ như an ninh quốc phòng. Không bắt buộc phải cung cấp những tài liệu không chính thức hay dự thảo và việc cung cấp hoàn toàn do công chức cân nhắc và quyết định.  Đây là điểm yếu của luật mà Luật sửa đổi năm 1999 (Luật Công khai về các hoạt động của Chính Phủ). Luật  sửa đổi này thay thế luật 1951 và đưa các nguyên tắc về công khai đối với cả khu vực doanh nghiệp có thực hiện chức năng công, như quỹ hưu.[107].

Nhìn chung, Luật tiếp cận Thông Tin của Phần Lan được coi là tiến bộ và là một ví dụ tốt, nó đem lại tác động quan trọng trong đời sống xã hội. Lấy ví dụ cụ thể là  Ủy ban Chống Tham nhũng của Hội Đồng Châu Âu nhận định rằng, luật tự do thông tin của Phần Lan là một trong yếu tố then chốt để Phần Lan có mức (chỉ số) tham nhũng thấp. Luật này quy định các quyền tiếp cận thông tin và nghĩa vụ của nhà chức trách cung cấp thông tin, nhằm mục tiêu tăng cường công khai và hoạt động quản lý thông tin của chính phủ, tạo cơ hội cho các cá nhân, cá thể, công ty giám sát các hoạt động của cơ quan công quyền và sử dụng nguồn lực công. Mọi người đều có quyền có quan điểm, có thể phản hồi và gây ảnh hưởng lên các hoạt động của cơ quan công quyền. Luật nhằm mục tiêu bảo vệ quyền, quyền lợi, mối quan tâm chung của công chúng. Luật cũng cho phép mọi người dân có quyền tiếp cận tài liệu chính thức, được đưa lên trang điển tử hoặc thu viện.

Các thông tin hạn chế (120 loại thông tin) cũng được phân nhóm thành 32 nhóm: kể cả đối ngoại, điều tra hình sự, cảnh sách, an ninh, tình báo quân đội và lực lượng vũ trang và cần cân nhắc cả lợi ích cộng đồng, bí mật doanh nghiệp, thông tin cá nhân và cả các công ước chính trị.

Hệ thống của Phần Lan cũng có cơ quan Thanh tra Quốc Hội với chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền và nhà chức trách về thực thi luật và phát quyết về thực thi luật. Cơ quan Thanh tra quốc hội này cũng có chức năng nhận các khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

5. HOA KỲ

   Đạo luật tự do thông tin đầu tiên của Hoa Kỳ là năm 1966. Với đạo luật đầu tiên này cho phép được tiếp cận tài liệu khi chứng minh đựợc sự cần thiết (nêu mục đích sử dụng) và cho phép các thể chế có quyền từ chối khi thấy cần thiết (không quy định rõ chế tài). Đạo luật sửa đổi năm 1974 đã mở hơn, cho quyền tiếp cận thông tin mà không cần cung cấp lý do mục đích sử dụng thông tin. Trải qua nhiều áp lực và đòi hỏi cải cách về tự do thông tin, vi nhiều lý do như chi phí hành chính cao cho việc lưu trữ và cung cấp tài liệu, Đạo luật 1986 đã ra đời với sửa đổi căn bản. Đạo luật mới đưa ra cơ chế chế tài thực thi luật, cho phép một số điều kiện không cung cấp thông tin nếu việc cung cấp thông tin ảnh hưởng đến quá trình tố tụng, điều tra, truy tố, đến an toàn của cá nhân. Cũng có đạo luật quy định xử lý vi phạm việc tiết lộ thông tin không hợp pháp. Việc yêu cầu thông tin ở Hoa Kỳ không đựợc miễn phí (trừ một số thông tin về giáo dục, thông tin khoa học phi lợi nhuận, thông tin báo chí) do vậy tạo ra nhiều kẽ hở, phát sinh nhiều dịch vụ tư nhân thu thập thông tin công và bán lấy lợi nhuận.

Đạo luật mới sửa đổi của Hoa Kỳ năm 2007 đưa ra những sửa đổi chính về:

  • Bảo vệ chủ thể làm tin tức truyền thông (kể cả dạng nhà báo tự do, nhà báo có hợp đồng, đại diện báo chí truyền thông)
  • Hoàn trả tiền phí tư pháp
  • Kỷ luật với hành vi từ chối yêu cầu thông tin: trách nhiệm giám sát thuộc về Công tố trưởng và Công tố đặc biệt phải báo cáo cho Nghị viện về tình hình thực hiện
  • Thời hạn trả lời: tối đa 20 ngày, tuy nhiên phải có trao đổi về thời hạn nếu cần bàn bạc với ngừời yêu cầu về lệ phí, hay làm rõ yêu cầu thông tin
  • Thông tin tài liệu của cơ quan công quyền do bên thư 3 nắm giữ cần công khai (chương 9). Có nghĩa là đối tượng áp dụng của luật công khai thông tin tài liệu gồm cả những đơn vị đang có hợp đồng với các cơ quan của chính phủ
  • Thành lập Văn phòng Dịch vụ thông tin chính phủ, thuộc Cục Lưu trữ và Hành chính văn thư quốc gia (chương 10): có chức năng giám sát thực hiện chính sách liên quan đến tự do thông tin của khu vực công, kể cả các tư vấn, giải quyết khiếu nại tranh chấp của người yêu cầu và cơ quan công quyền, thanh tra các cơ quan về tình hình thực hiện.
  • Các cơ quan công quyền có thêm chức danh Giám đốc phụ trách Tự do thông tin
  • Thông tin miễn trừ: sửa đổi là được quyền không cung cấp thông tin trong danh mục miễn trừ (mật) và xóa khỏi tài liệu cung cấp nhưng cần bổ sung lý do loại bỏ thông tin hay tham chiếu tiêu chí mật của thông tin theo quy định của luật (Chương 12)

6. CANADA

   Luật Tiếp cận thông tin (Access to Information Act) 1983 với nhiều sửa đổi dựa trên kinh nghiệm. Đạo luật sửa đổi tháng 10 năm 2008 là kết quả của các yêu cầu cải cách theo xu hướng công nghệ thông tin mới, và nhăm tăng hiệu quả của tiếp cận thông tin và giải quyết yêu cầu cũng như khiếu nại về tiếp cận thông tin. Luật sửa đổi cũng nhằm đảm bảo thông tin do chính phủ nắm giữ được mở cho công chúng, phục vụ lợi ích công chúng và do vậy cần hạn chế tối thiểu những điều khoản miễn trừ. Đạo luật sửa đổi cũng tăng tính kiểm soát hoạt động cung cấp thông tin của chính phủ thông qua hình thức và thể chế đánh giá độc lập. Ủy ban Thông tin (có thể gọi là Ombudsman giống mô hình Bắc Âu) là cơ quan độc lập, có quyền thanh tra, nhận khiếu nại và điều tra xử lý khiếu nại và báo cáo quốc hội về tình hình thực hiện của các cơ quan công quyền. Một hình thức thúc đẩy các cơ quan công quyền tăng hiệu quả hoạt động là thẻ báo cáo (report card) do ủy ban này gửi sau mỗi cuộc thanh tra giúp các cơ quan hiểu thực trạng họat động và nhận những khuyến nghị của ủy ban để tăng hiệu quả. Cá nhân có quyền gửi khiếu nại lên Ủy ban thông tin (nếu bị từ chối cung cấp thông tin, hay thông tin bị trả lời chậm, hay không đồng ý với chi phí phải trả v.v). Sau khi Ủy ban điều tra xem xét, cá nhân có quyền khiếu kiện tới tòa án. Với nhiều chức năng kể cả nhận khiếu nại của Ủy Ban Thông tin, Ủy ban đang phải gặp khó khăn với số lượng khiếu nại lớn.

                                               Chuyên đề 13

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, KHIẾU KIỆN VÊ TIẾP CẬN THÔNG TIN: THỰC TIỄN CÁC NƯỚC VÀ LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM

Nguyễn Đức Lam

Văn phòng Quốc hội

I- GIỚI THIỆU

Khoảng hai thập niên gần đây, thế giới chứng kiến xu hướng rộng rãi thừa nhận quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan công quyền lưu giữ, một quyền con người cơ bản của cá nhân [108]. Ngoài các vấn đề then chốt khác, một trong những nguyên tắc chính của quyền này là phải có cơ chế độc lập để kiểm tra lại quyết định từ chối cung cấp thông tin công. Có nghĩa là, khi công dân yêu cầu được tiếp cận thông tin, nhưng cơ quan công quyền từ chối, và công dân thấy không thỏa mãn với lập luận của cơ quan công quyền, thì có nơi mà kêu. Nơi đó có thể là cơ quan cấp trên trực tiếp; một cơ quan độc lập giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin, có thể là tòa án, hoặc cả hai hoặc cả ba.

Cùng chung xu hướng của nhiều nước, ở Việt Nam đã khởi động xây dựng Luật tiếp cận thông tin[109]. Trong quá trình soạn thảo và ban hành luật này, việc nghiên cứu tiếp nhận kinh nghiệm nước ngoài là cần thiết để có cách tiếp cận phù hợp với Việt Nam. Nhất là cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin lại nằm trong cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện chung vốn đang có rất nhiều vấn đề đang cần được giải quyết.

Do đó, bài viết này có hai phần lớn: Phần I tìm hiểu quy định pháp luật và thực tiễn các nước trong giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin; Phần II phân tích và đề xuất kiến nghị về cơ chế này ở Việt Nam. Trong mỗi phần có ba nội dung: một là, cơ sở để khiếu nại, khiếu kiện; hai là, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, khiếu kiện; ba là, quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện. Kết luận chung của bài này là: đặt trong cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện chung ở nước ta hiện nay, vẫn có thể tìm cách quy định trong Luật để bảo vệ quyền tiếp cận thông tin ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, trong khuôn khổ hiện hành, để được thực thi đầy đủ, quyền tiếp cận thông tin sẽ gặp nhiều trở ngại. Các quy định của Luật tiếp cận thông tin về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện cần đến sự thay đổi lớn hơn trong cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện nói chung.

II- THỰC TIỄN CÁC NƯỚC

Trừ một số nước như Đan Mạch (Luật năm 1985), Hà Lan (Luật năm 1991) không quy định trực tiếp về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện trong Luật liên quan, còn lại Luật của đại đa số các nước đều có quy định riêng về cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của công dân liên quan đến quyền tiếp cận thông tin[110]. Dù mức độ, phạm vi quy định khác nhau, nhưng nói chung, cơ chế đó gồm các yếu tố sau: Cơ sở khiếu nại, khiếu kiện; cơ quan giải quyết khiếu nại, khiếu kiện; quy trình, thủ tục khiếu nại, khiếu kiện và giải quyết khiếu nại, khiếu kiện.

1- Cơ sở khiếu nại, kiếu kiện

Nói chung có ba xu hướng quy định cơ sở khiếu nại, khiếu kiện về tiếp cận thông tin: một là, không quy định cụ thể trong luật; hai là, chỉ quy định chung là khi có sự vi phạm các quy định của Luật; ba là, quy định một số cơ sở cụ thể để có thể khiếu nại, khiếu kiện.

Trường hợp thứ nhất chỉ có rất ít nước như Nhật. Tuy nhiên, tại những nước đó, người ta vẫn khiếu nại, khiếu kiện về tiếp cận thông tin. Như vậy, có thể hiểu là họ mặc nhiên quyền tiếp cận thông tin do Luật quy định là cơ sở để khiếu nại, khiếu kiện.

Trường hợp thứ hai có một số nước như ở Albania, Luật năm 1999 quy định, cơ sở khiếu nại, khiếu kiện là sự vi phạm các quy định của Luật; Theo Luật năm 1996 của Hàn Quốc, khi cho rằng lợi ích pháp lý bị vi phạm, công dân có thể khiếu nại về quyết định của cơ quan công quyền; còn ở Na Uy, Luật năm 2003 cho phép khiếu nại khi bị từ chối cung cấp thông tin.

Những nước quy định cụ thể các điều kiện để có thể khiếu nại, khiếu kiện là nhóm nước đông nhất. Tuy nhiên, mức độ cụ thể có khác nhau ở từng nưcớ. Chẳng hạn, ở Ấn Độ, theo Luật năm 2005, cơ sở khiếu nại gồm: không được tạo điều kiện cung cấp thông tin; bị từ chối cung cấp thông tin; không phản hồi đúng thời hạn; phải trả lệ phí vô lý; thông tin sai lạc, không  đầy đủ. Còn ở Ba Lan, Luật năm 2001 quy định: Khi không thỏa mãn với giải trình của cơ quan công quyền không cung cấp thông tin theo phương cách được yêu cầu hoặc từ chối cung cấp thông tin theo quy định của Luật, chủ thể có quyền khiếu nại.

Luật năm 1985 của Canada liệt kê cụ thể nhất các cơ sở pháp lý để khiếu nại về tiếp cận thông tin. Đó là: khi người yêu cầu bị từ chối tiếp cận thông tin theo quy định của Luật; phải trả phí được coi là bất hợp lý; cơ quan công quyền gia hạn thời gian trả lời bất hợp lý; cung cấp tài liệu không bằng ngôn ngữ chính thức hoặc không bằng ngôn ngữ mà công dân yêu cầu; không cung cấp tài liệu ở dạng dành riêng cho người khiếm thị, khiếm thính; cơ quan công quyền bị coi là không thực hiện nghĩa vụ công bố định kỳ các thông tin theo quy định tại Điều 5 của Luật.

Ở Nam Phi, Luật năm 2000 quy định cơ sở để khiếu nại và khiếu kiện. Đối với khiếu nại, đó là khi người yêu cầu bị từ chối yêu cầu tiếp cận thông tin; cơ quan công quyền thu phí tiếp cận thông tin không đúng quy định; trả lời không đúng thời hạn; cung cấp thông tin không đúng yêu cầu về nội dung, cách thức; việc cung cấp thông tin ảnh hưởng đến bên thứ ba. Đối với khiếu kiện ở tòa, người yêu cầu hoặc bên thứ ba có thể khởi kiện sau khi vận dụng hết thủ tục khiếu nại nội bộ; còn riêng gười yêu cầu có thể khởi kiện khi: không hài lòng với quyết định không xem xét đơn khiếu nại khi đã hết thời hạn; bị từ chối yêu cầu tiếp cận thông tin; bị thu phí  tiếp cận thông tin không đúng quy định; được phản hồi không đúng thời hạn; không đúng yêu cầu về nội dung, cách thức.

Luật năm 2006 của Liên bang Nga quy định, có thể khiếu nại các quyết định và hành động hoặc không hành động của cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội, người có thẩm quyền vi phạm quyền tiếp cận thông tin: từ chối tiếp cận thông tin trái pháp luật; không cung cấp thông tin kịp thời; cung cấp thông tin thiếu độ tin cậy, không đúng với yêu cầu.

Còn ở Peru, theo Luật năm 2003, người yêu cầu thông tin được khiếu nại khi bị từ chối trái quy định của Luật này (trong vòng 7 ngày mà không trả lời; hoặc được gia hạn thêm 5 ngày nếu thông tin khó thu thập mà không trả lời hoặc không giải thích thì cũng được coi là bị từ chối).

Theo Luật năm 2004 của Thổ Nhĩ Kỳ, người yêu cầu thông tin có thể khiếu nại khi bị từ chối cung cấp thông tin vì lý do ngoại lệ - giữ bí mật quốc gia; các thông tin mà việc tiết lộ có thể gây nguy hại đến lợi ích kinh tế của quốc gia hoặc làm giàu không công bằng

2- Cơ quan giải quyết

Nói chung trên thế giới thông thường có ba cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về tiếp cận thông tin[111]: cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính nội bộ; trao cho cơ quan độc lập giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin; và giải quyết khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin ở tòa án, kể cả theo thủ tục tố tụng bảo hiến như ở các nước Nam Mỹ. Hiệu quả của từng cơ chế phụ thuộc vào bối cảnh mỗi nước, nhưng theo ý kiến của các chuyên gia, mô hình cơ quan độc lập có hiệu quả nhất[112].

2.1. Giải quyết khiếu nại nội bộ

Hầu như các nước đều có cơ chế giải quyết khiếu nại nội bộ, theo đó cơ quan cấp trên trực tiếp xem xét lại quyết định của cơ quan cấp dưới về tiếp cận thông tin. Trên thực tế, cơ chế này mang lại những kết quả khác nhau. Một mặt, nó không tốn kém và có thể nhanh chóng. Tuy nhiên, kinh nghiệm các nước cho thấy, cơ quan cấp trên có xu hướng đồng tình với quyết định của cơ quan cấp dưới. Ví dụ ở Anh, năm 2005, 77% số đơn khiếu nại nội bộ bị bác bỏ hoàn toàn[113].

 

2.2. Cơ quan độc lập giải quyết khiếu nại

Cơ chế tiếp theo là cơ quan độc lập giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin với ba mô hình- Thanh tra Quốc hội; Cao ủy viên, Ủy ban thông tin; hoặc cơ quan dạng bán tòa án (Xem thêm Hộp dưới đây).

Tại khoảng 20 nước, Thanh tra Quốc hội thực hiện chức năng này như một trong các thẩm quyền của mình[114]. Thanh tra Quốc hội thường không có thẩm quyền ra các quyết định bắt buộc, nhưng các kiến nghị của họ có ảnh hưởng lớn và được tuân thủ.

Một xu hướng ngày càng phổ biến trên thế giới là thành lập một Ủy ban thông tin độc lập. Đây có thể là: cơ quan của Quốc hội; cơ quan độc lập thuộc chính phủ hoặc Văn phòng Chính phủ; hoặc là một cơ quan hoàn toàn độc lập. Vào thời điểm năm 2006, có 22 nước thành lập cơ quan dạng này[115]. Ở một số nước như Pháp, Canada, cơ quan này có thẩm quyền tương tự như Thanh tra Quốc hội. Ở Slovenia, Serbia, Ireland, UK, Ủy ban thông tin có quyền ban hành các quyết định có tính bắt buộc, trừ một số ít trường hợp.

Hộp: Mô hình cơ quan giải quyết khiếu nại độc lập[116]

1. Ấn Độ:  Ủy ban Thông tin Liên bang hoặc của tiểu bang

- Tiếp nhận khiếu nại và có thể tiến hành điều tra;

- Có thẩm quyền của toà án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 1908 về các vấn đề tố tụng;

- Trong quá trình điều tra khiếu nại, có thẩm quyền kiểm tra bất kỳ hồ sơ nào đang được cơ quan công quyền quản lý, và cơ quan đó không được từ chối với bất kỳ lý do gì, kể cả có quy định không tương thích trong các luật khác của liên bang hoặc tiểu bang;

- Quyết định của Ủy ban có hiệu lực bắt buộc. Trong quyết định của mình, Ủy ban có quyền: (a) Yêu cầu nhà chức trách phải cung cấp thông tin mà công dân yêu cầu, phải chỉ định một quan chức thông tin công cộng nếu cần thiết, phải công bố những thông tin nhất định, phải thay đổi cách duy trì, quản lý thông tin, phải tăng cường tập huấn cho nhân viên, phải công bố các báo cáo hàng năm về cơ quan đó theo quy định của Luật; (b) yêu cầu nhà chức trách bồi thường thiệt hại mà người khiếu nại phải gánh chịu; (c) áp dụng bất kỳ hình thức chế tài nào theo quy định của Luật, trong đó có phạt tiền; (d) đình chỉ việc giải quyết khiếu nại;

- Khuyến nghị hình thức kỷ luật hành chính đối với quan chức sai phạm.

2. Canada: Cao ủy viên thông tin

+ Do Toàn quyền Canada bổ nhiệm sau khi tham vấn lãnh đạo các đảng trong Quốc hội liên bang và phải được Quốc hội liên bang chấp thuận; có nhiệm kỳ 7 năm; quyền lực ngang Thứ trưởng, lương ngang Thẩm phán Tòa án Liên bang; tiếp nhận và điều tra khiếu nại về tiếp cận thông tin; có các thẩm quyền sau:

+ Triệu tập và bắt buộc các bên cung cấp mọi chứng cứ thấy phù hợp bằng văn bản hoặc bằng miệng và làm những việc cần thiết để điều tra toàn diện về khiếu nại, bất kể chứng cứ đó có thể được tòa án chấp nhận hay không;

+ Đến bất kỳ cơ quan chính phủ nào để điều tra xem các yêu cầu về an ninh của cơ quan đó có phù hợp với yêu cầu về tiếp cận thông tin không, trao đổi với bất kỳ nhân viên nào của cơ quan đó, kiểm tra các tài liệu của cơ quan đó;

+ Nếu thấy khiếu nại có cơ sở, Cao ủy viên gửi thông báo đến người đứng đầu cơ quan chính phủ liên quan gồm các thông tin sau: những phát hiện của vụ điều tra và các khuyến nghị; yêu cầu sau một khoảng thời gian cụ thể báo cáo lại với Cao ủy viên về những việc đã làm hoặc dự kiến sẽ làm để thực hiện các khuyến nghị đó, lý do tại sao không làm.

3. Nhật Bản:[117]Ban thẩm tra về việc công khai thông tin

 Thuộc Văn phòng Chính phủ; 12 thành viên, trong đó không quá 4 người làm toàn thời gian; Thủ tướng chỉ định các thành viên này từ các thẩm phán cấp cao và phải được Quốc hội chấp thuận; nhiệm kỳ 3 năm có thể tái bổ nhiệm; Thủ tướng có thể bãi nhiệm với sự chấp thuận của Quốc hội; không tham gia đảng, hiệp hội hoặc phong trào chính trị; thành viên toàn thời gian không được kiêm nhiệm; có Chủ tịch Ủy ban; Hội đồng thẩm tra 3 người để xem xét một vụ việc; Văn phòng do Chánh Văn phòng điều hành theo mệnh lệnh của Chủ tịch Ủy ban.

4. Thổ Nhĩ Kỳ:Hội đồng xem xét việc tiếp cận thông tin

Có 9 thành viên, nhiệm kỳ 4 năm có thể tái bổ nhiệm; xem xét lại các quyết định từ chối cung cấp thông tin vì lý do ngoại lệ; gửi báo báo hàng năm cho Quốc hội.

5. Pháp-Ủy ban về tiếp cận tài liệu hành chính

Do Hội đồng Nhà nước ra đạo luật quy định chức năng, thành phần; tiếp nhận khiếu nại của cá nhân về việc gặp khó khăn trong tiếp cận tài liệu hành chính hoặc tài liệu lưu trữ công; đề xuất khuyến nghị; thay đổi các điều khoản và biện pháp nhằm thực thi dễ dàng hơn quyền; công bố báo cáo thường niên tóm tắt các khó khăn thường gặp đối với cá nhân khi yêu cầu tiếp cận tài liệu.

Một số nước khác thành lập một cơ quan dạng tòa án chuyên giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin. Chẳng hạn ở Nhật, Ban thẩm tra việc Công khai thông tin (Information Disclosure Review Board) sẽ xem xét các đơn khiếu nại về các quyết định ban đầu về tiếp cận thông tin của các cơ quan công quyền. Tuy nhiên, ở Nhật các cơ quan công quyền thường chậm trễ trong việc chuyển các vụ khiếu nại ra cơ quan này. Ở Úc có Tài phán Phúc tra hành chính (Administrative Appeals Tribunal-AAT) có thẩm quyền xem xét lại các quyết định của các cơ quan hành chính dựa trên sự kiện, luật, chính sách và có thể ra quyết định mới bác bỏ, sửa đổi hoặc đồng ý với quyết định ban đầu của cơ quan hành chính[118]. Bên cạnh đó, công dân Úc cũng có thể khiếu nại trực tiếp về tiếp cận thông tin với Thanh tra Quốc hội liên bang. Còn ở UK có cả Cao ủy viên Thông tin và Tòa Thông tin (Information Tribunal). Cao ủy viên thông tin có thẩm quyền tiếp nhận khiếu nại và ra các quyết định có tính bắt buộc. Còn Tòa thông tin có thẩm quyền bác bỏ quyết định của Cao ủy viên thông tin.

Nói chung, dù theo mô hình nào, để cơ quan giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin hoạt động hiệu quả, cần có những yếu tố nhất định. Trước hết, cơ quan này cần được độc lập, độc lập ngay từ lúc thành lập, tức là phải do cơ quan lập pháp thành lập hoặc phê chuẩn sự bổ nhiệm với một quy trình minh bạch, ứng viên phải là những người có uy tín cao về đạo đức, chuyên môn, không vướng víu về quyền lợi; có ngân sách hoạt động không do Chính phủ kiểm soát, văn phòng riêng.

Thứ hai, cơ quan này cần có những quyền lực thực tế như điều tra các đơn khiếu nại, triệu tập nhân chứng, thẩm vấn, và quan trọng là có quyền buộc các cơ quan công quyền cung cấp thông tin, dữ liệu; có thẩm quyền bác bỏ khiếu nại, hoặc bắt buộc cơ quan công quyền công khai thông tin, hoặc/và điều chỉnh phí cung cấp thông tin mà cơ quan công quyền đã thu của công dân, hoặc/và phạt tiền cơ quan công quyền, hoặc/và buộc cơ quan công quyền trả phí giải quyết khiếu nại.

Thứ ba, thủ tục khiếu nại trước cơ quan này phải dễ dàng, thuận tiện, nhanh chóng và ít tốn kém cho người khiếu nại. Điều này nhằm bảo đảm mọi thành viên trong xã hội có điều kiện tiếp cận cơ chế này, từ đó khuyến khích họ thực thi quyền thông tin của mình. Chẳng hạn, trong thực tiễn xét xử tại Na Uy, rất ít trường hợp khiếu kiện liên quan đến tiếp cận thông tin được đưa ra toà án xét xử, mà các đơn khiếu nại thường được gửi tới Ombudsman nhiều hơn vì thủ tục nhanh gọn, đơn giản và quyết định của Ombudsman tuy không có hiệu lực pháp lý song các bên vi phạm luôn tuân thủ quyết định này[119].

2.3. Tòa án

Tại hầu hết các nước, tòa án là cấp giải quyết khiếu kiện cuối cùng về quyền tiếp cận thông tin, có thẩm quyền ra các quyết định bắt buộc. Ở một số nước, luật quy định công dân có quyền khởi kiện ngay ra tòa mà không qua các bước khiếu nại. Ở một số nước có Ủy ban Thông tin hoặc Cao Ủy viên Thông tin, tòa chỉ xem xét các vấn đề về luật mà không xem xét các vấn đề về sự kiện.

Một xu hướng lớn trên thế giới về tiếp cận thông tin là phải có hệ thống tòa án có thẩm quyền và khả năng giải thích luật, áp dụng luật vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt. Đặc biệt quan trọng, tòa án thường giải thích quyền này gắn với quyền hiến định cơ bản về tự do bày tỏ chính kiến. Ví dụ, năm 1982 Tòa án Tối cao Ấn Độ tuyên rằng: “Khái niệm về một Chính phủ mở xuất phát trực tiếp từ quyền được biết của công dân gián tiếp thể hiện trong quyền bày tỏ chính kiến do Điều 19 của Hiến pháp quy định. Bởi vậy, việc công bố thông tin liên quan đến hoạt động của Chính phủ phải trở thành thông lệ, việc giữ bí mật chỉ là ngoại lệ và chỉ được biện luận khi có yêu cầu khắt khe nhất về lợi ích công cộng. Cách tiếp cận của Tòa án Tối cao là phải thu hẹp phạm vi mật càng hẹp càng tốt theo yêu cầu của lợi ích công cộng, trong khi luôn luôn phải nhớ rằng, việc công bố thông tin cũng là một khía cạnh quan trọng của lợi ích công cộng”[120]. Cách tiếp cận của Tòa án Tối cao Ấn Độ phù hợp với tinh thần của các công ước quốc tế lớn về quyền con người.

Điều quan trọng là cả công chúng và cơ quan công quyền đều có quyền khiếu kiện ra tòa về quyết định của cơ quan giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin. Tòa án cũng cần được trao thẩm quyền xét xử lại vụ việc theo nội dung, chứ không chỉ xem xét cơ quan giải quyết khiếu nại đã phán quyết có đúng thủ tục không[121]. Điều này nhằm bảo đảm sự thống nhất trong cách tiếp cận về quyền thông tin.

Chẳng hạn, ở Mỹ, Luật Tự do thông tin năm 1966 bị phê phán là không có quy định về cơ chế để công dân khiếu kiện khi cơ quan công quyền từ chối cho tiếp cận thông tin[122]. Nhưng sau đó, Luật đã được sửa đổi, theo đó, người yêu cầu thông tin có quyền kiện cơ quan công quyền tại Tòa án quận liên bang, các thẩm phán liên bang phải xem xét theo quy trình de novo (xem xét lại từ đầu bởi một hội đồng xét xử khác cả các vấn đề về luật và vấn đề về sự kiện) liệu các cơ quan công quyền từ chối có cơ sở đúng đắn không theo các quy định về ngoại lệ đã được quy định trong Luật. Hơn thế, khác với quy trình xem xét thông thường đối với các quyết định của các cơ quan công quyền liên bang, bên nguyên nếu thắng kiện cũng được quyền đòi lại phí tòa từ phía các cơ quan công quyền.

Tuy nhiên, không nên chỉ dựa vào tòa án để bảo vệ quyền tiếp cận thông tin. Kinh nghiệm cho thấy, ở những nước như Mỹ, Bulgaria, nơi tòa án là cơ chế bên ngoài duy nhất có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện về tiếp cận thông tin, cơ chế này tỏ ra kém hiệu quả hơn ở những nước có cả các cơ chế độc lập khác[123]. Sở dĩ như vậy vì khiếu kiện ở tòa án thường tốn kém và mất nhiều thời gian hơn.

Hộp: Khiếu kiện ở tòa án về quyền tiếp cận thông tin[124]

Ba Lan: tòa án hành chính ở địa phương có cơ quan là bị đơn.

Bulgary: Tòa án khu vực hoặc Tòa án hành chính Tối cao tùy vào cấp ra quyết định cung cấp thông tin bị kiện. Tòa có thẩm quyền hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần quyết định, hoặc sửa đổi quyết định đó.

Canada: Tòa án liên bang: Xem xét đơn khiếu kiện của người đã gửi khiếu nại đến Cao ủy viên, hoặc đơn của chính Cao ủy viên.

Hàn Quốc: tòa án thẩm quyền chung.

Nhật Bản: Mặc dù đến năm 2001 Luật của Nhật mới được ban hành, nhưng trước đó, chính quyền ở nhiều địa phương của Nhật đã có những quy định liên quan, làm cơ sở cho các tòa án, kể cả Tòa án Tối cao bảo vệ quyền được biết của công dân[125].

Na Uy: khiếu kiện ra toà thẩm quyền chung.

Nam Phi: tòa án thẩm quyền chung giải quyết khiếu kiện.

Liên bang Nga: tòa án thẩm quyền chung.

Peru: tòa án theo thủ tục bảo hiến habeas data

Phần Lan: Tòa án Hành chính và Tòa án Hành chính Tối cao

Pháp: Tòa án Hành chính

Thổ Nhĩ Kỳ: Tòa án hành chính.

 

3- Quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện

Quy trình giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về tiếp cận thông tin có những điểm khác biệt với nhau ở từng nước. Nhưng nói chung có một số nét lớn sau đây[126].

Trước hết, hầu hết các nước đều có cả quy trình khiếu nại và khiếu kiện ở tòa án, chẳng hạn như ở Ba Lan, khiếu nại về quyết định từ chối cung cấp thông tin hoặc dừng quá trình cung cấp thông tin theo phương thức được yêu cầu sẽ được khởi xướng điều tra trong vòng 14 ngày kể từ khi nhận được khiếu nại; về khiếu kiện, Luật tố tụng hành chính 2002 sẽ được áp dụng để xem xét khiếu kiện, khi chủ thể bị từ chối cung cấp thông tin vì lý do bảo vệ thông tin cá nhân, quyền riêng tư, bí mật quốc gia.

Có một số nước quy định người yêu cầu thông tin có thể khiếu kiện thẳng ra tòa mà không cần qua bước khiếu kiện. Nhưng ở nhiều nước khác, chỉ có thể khiếu kiện ra tòa án nếu đã qua các bước khiếu nại. Ví dụ, ở Pháp bắt buộc phải có yêu cầu Ủy ban về tiếp cận tài liệu hành chính đưa ra khuyến nghị trước khi khiếu kiện ra Tòa án Hành chính; Tòa này sẽ ra phán quyết trong vòng 6 tháng kể từ ngày đệ đơn.

Thứ hai, ở một số nước, khiếu nại có thể chỉ mang tính chất nội bộ, tức là khiếu nại lên cơ quan công quyền trực tiếp của cơ quan đã từ chối yêu cầu tiếp cận thông tin; hoặc khiếu nại với quan chức thông tin công cộng. Nhưng ở nhiều nước, khiếu nại còn được gửi đến cơ quan giải quyết khiếu nại độc lập như Thanh tra Quốc hội, Cao ủy viên thông tin, Ủy ban thông tin. Ở một số nước, cơ quan này có quyền chuyển tiếp khiếu nại thành khiếu kiện ở tòa án.

Thứ ba, ở một số nước quy trình, thủ tục tiếp nhận và giải quyết khiếu nại và  khiếu kiện tuân theo quy trình, thủ tục khiếu nại hành chính và khiếu kiện chung có sẵn. Nhưng ở nhiểu nước, luật quy định riêng về quy trình, thủ tục tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến tiếp cận thông tin. Ở Peru và một số nước Nam Mỹ khác, theo thủ tục tố tụng hành chính; hoặc theo thủ tục tố tụng hiến pháp habeas data, tiếng La tinh có nghĩa là “ta ra lệnh ngươi phải có dữ liệu”, là thủ tục khiếu kiện đòi quyền được tiếp cận cơ sở dữ liệu về cá nhân, đòi hỏi sự minh bạch trong việc thu thập, lưu giữ và xử lý thông tin đó[127].

Thứ tư, luật nhiều nước có những quy định về thủ tục tiếp nhận, giải quyết khiếu nại tạo điều kiện thuận lợi cho người khiếu nại. Chẳng hạn, quy định thời hạn tiếp nhận đơn khiếu nại, nhưng có thể gia hạn nếu nhận thấy người khiếu nại gặp khó khăn; hoặc bắt buộc các cơ quan giải quyết khiếu nại phải thông báo đúng thời hạn, rõ ràng những thông tin cần thiết, cung cấp đơn theo mẫu; thời hạn phải trả lời khiếu nại...

Thứ năm, thủ tục tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, khiếu kiện phải công khai, minh bạch. Ví dụ, công bố đơn khiếu nại; thông báo kết quả điều tra, giải quyết khiếu nại đến tất cả các bên; xem xét khiếu nại một cách công khai, đối chất; cơ quan giải quyết khiếu nại, khiếu kiện có thẩm quyền bắt buộc tiết lộ thông tin bí mật; thông báo quyền của người khiếu nại được khiếu kiện ra tòa. Chẳng hạn, ở Nam Phi, ngay sau khi ra quyết định, nhà chức trách phải thông báo cho người khiếu nại và bên thứ ba (nếu cần), trong đó phải nêu lý lẽ, quyền được khởi kiện lên tòa án của người khiếu nại, bên thứ ba; nếu không thông báo thì bị coi là vi phạm quyền được khiếu nại.

Thứ sáu, cơ quan công quyền phải có nghĩa vụ chứng minh cơ sở từ chối đáp ứng yêu cầu về thông tin của công dân, tổ chức. Ví dụ, ở Ấn Độ, quan chức thông tin công cộng phải có trách nhiệm giải trình lý do từ chối cung cấp thông tin; trách nhiệm chứng minh vụ việc trước Ủy ban thông tin.

Thứ bảy, trong trường hợp cần thiết, Tòa có thể nghe riêng từng bên trình bày hoặc xét xử kín để tránh lộ những thông tin bí mật. Ví dụ, ở Canada, đối với thông tin đối ngoại hoặc quốc phòng, Chánh án Tòa án Liên bang hoặc một thẩm phán của Tòa do Chánh án chỉ định sẽ xem xét vụ việc theo quy trình kín; nếu phía cơ quan chính phủ có yêu cầu, Tòa sẽ nghe riêng bên cơ quan chính phủ trình bày.

Thứ tám, ở các nước có cơ quan giải quyết khiếu nại độc lập, thông thường cơ quan này sẽ có báo báo hàng năm trước Quốc hội về tình hình đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin, tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại, những khó khăn của công dân về tiếp cận thông tin, kiến nghị các giải pháp. Ví dụ ở Canada, Cao ủy viên thông tin nộp báo cáo hàng năm cho Quốc hội trong vòng 3 tháng sau khi hết năm tài khóa; hoặc trình báo cáo đặc biệt lên Quốc hội nếu thấy vấn đề có tính chất khẩn cấp và quan trọng; báo cáo sẽ được chuyển đến Chủ tịch Thượng viện và Hạ viện để họ quyết định đưa vào chương trình nghị sự, nếu được đưa vào chương trình, báo cáo sẽ được chuyển đến các Ủy ban của Quốc hội xem xét.

Thứ chín, phán quyết của cơ quan giải quyết khiếu nại và tòa án thường gồm các nội dung như: hoặc khẳng định, hoặc sửa đổi, hoặc hủy bỏ quyết định; yêu cầu quan chức thông tin, hoặc nhà chức trách công quyền, hoặc người đứng đầu chủ thể tư nhân phải làm hoặc không làm một việc trong thời gian tiến hành tố tụng; ban hành lệnh cấm, buộc bồi thường, đưa ra lời giải thích; án phí.

Hộp: Canada - Quy trình giải quyết khiếu nại, khiếu kiện

1. Quy trình của Cao ủy viên thông tin:

+ Tiếp nhận đơn khiếu nại;

+ Quyết định khởi xướng điều tra;

+ Thông báo với người đứng đầu cơ quan chính phủ về việc điều tra, tính chất của khiếu nại;

+ Triệu tập các bên: đại diện của người khiếu nại, của người đứng đầu cơ quan chính phủ, có thể có đại diện của bên thứ ba nếu thông tin liên quan đến bên thứ ba;

+ Tiếp nhận, chấp nhận các chứng cứ;

+ Tiến hành các hoạt động điều tra: đến cơ quan chính phủ; thẩm vấn nhân chứng; kiểm tra tài liệu;

+ Thông báo kết quả điều tra và khuyến nghị đến người đứng đầu cơ quan chính phủ;

+ Thông báo kết quả điều tra đến người khiếu nại và bên thứ ba;

+ Nếu trong thời hạn đã nêu, cơ quan chính phủ vẫn không thông báo với Cao ủy viên về việc cho phép tiếp cận tài liệu, Cao ủy viên sẽ thông báo với người khiếu nại rằng người đó có quyền nộp đơn đề nghị Tòa án liên bang xem xét vụ việc;

+ Nộp báo cáo hàng năm cho Quốc hội trong vòng 3 tháng sau khi hết năm tài khóa; hoặc trình báo cáo đặc biệt lên Quốc hội nếu thấy vấn đề có tính chất khẩn cấp và quan trọng; báo cáo sẽ được chuyển đến Chủ tịch Thượng viện và Hạ viện để họ quyết định đưa vào chương trình nghị sự, nếu được đưa vào chương trình, báo cáo sẽ được chuyển đến các Ủy ban của Quốc hội xem xét.

2. Quy trình ở Tòa án liên bang

+ Nộp đơn kiện: người đã khiếu nại với Cao ủy viên, hoặc chính Cao ủy viên, trong vòng 45 ngày sau khi kết quả điều tra đã được gửi, có thể nộp đơn đề nghị Tòa án xem xét vụ việc; hoặc bên thứ ba cũng có thể nộp đơn;

+ Các bên của vụ kiện: Người đứng đơn; người đứng đầu cơ quan chính phủ; bên thứ ba;

+ Tòa xem xét theo thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 46 Luật Tòa án Liên bang;

+ Trong trường hợp cần thiết, Tòa có thể nghe riêng từng bên trình bày hoặc xét xử kín để tránh lộ những thông tin bí mật;

+ Cơ quan chính phủ phải có trách nhiệm chứng minh quyền từ chối cung cấp thông tin;

+ Nếu xét thấy cơ quan chính phủ từ chối cung cấp tài liệu thiếu cơ sở, Tòa sẽ yêu cầu cung cấp với những điều kiện Tòa cho là đúng đắn; hoặc ngược lại;

+ Đối với thông tin đối ngoại hoặc quốc phòng, Chánh án Tòa án Liên bang hoặc một thẩm phán của Tòa do Chánh án chỉ định sẽ xem xét vụ việc theo quy trình kín; nếu phía cơ quan chính phủ có yêu cầu, Tòa sẽ nghe riêng bên cơ quan chính phủ trình bày;

+ Án phí sẽ do Tòa quyết định; nếu cho rằng việc khởi kiện đã tạo ra một nguyên tắc mới quan trọng liên quan đến Luật này, Tòa sẽ quyết định người đứng đơn được hưởng án phí thu được cho dù người đó không được xử thắng kiện.

 

III- LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM

Sau khi nghiên cứu thực tiễn các nước và đối chiếu với bối cảnh Việt Nam, có thể nhận thấy, trong khuôn khổ hiện hành rất khó áp dụng tất cả những nét tốt đẹp nhất từ các nước liên quan đến cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, cũng không nên chỉ vì thấy “ta khác” mà e ngại, không tiếp nhận, và chỉ quy định một cách giản đơn rằng “theo quy định của pháp luật về khiếu nại hành chính hiện hành”. Điều đó sẽ làm mất tác dụng của Luật tiếp cận thông tin. Do đó, chúng tôi cố gắng cân bằng giữa thực tế và mong muốn khi đưa ra các kiến nghị dưới đây. Chúng tôi cũng kiến nghị chung về việc tiếp nhận kinh nghiệm nước ngoài và xây dựng Luật của ta: đây là đạo luật về quyền, do đó mọi cân nhắc đều cần phải nghiêng về có lợi cho quyền, các cân nhắc khác đi sau.

1- Cơ sở khiếu nại, kiếu kiện

Trong bối cảnh Việt Nam, khi cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính còn nhiều bất cập như hiện nay[128], Luật Tiếp cận thông tin càng quy định rõ các cơ sở để khiếu nại, khiếu kiện càng tốt. Cách làm này vừa giúp công dân dễ dàng nhận biết lúc nào, khi nào có thể khiếu nại, khiếu kiện; vừa hỗ trợ các cơ quan giải quyết khiếu nại, khiếu kiện thuận lợi hơn khi xem xét; đồng thời cũng ràng buộc họ chặt chẽ hơn. Như vậy, trong Luật tiếp cận thông tin cần quy định, cơ sở để công dân khiếu nại, khiếu kiện gồm:

- Cơ quan công quyền từ chối không đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin của công dân;

- Cơ quan công quyền không phản hồi trước yêu cầu tiếp cận thông tin. Điều này có nghĩa các cơ quan công quyền không có những hành động cần thiết theo chức năng, nhiệm vụ của mình cũng có thể bị khiếu nại, ví dụ: một công dân có đơn yêu cầu tiếp cận thông tin, nhưng cơ quan có thẩm quyền im lặng không có hành động gì (cho phép, không cho phép, trả lời lý do...).

- Cũng tương tự, phải coi trường hợp cơ quan công quyền không phản hồi đúng thời hạn đối với yêu cầu tiếp cận thông tin; gia hạn thời gian trả lời bất hợp lý (nếu có quy định được gia hạn trong một số trường hợp) là không hành động và là cơ sở để khiếu nại;

- Người khiếu nại cho rằng phải trả phí tiếp cận thông tin bất hợp lý;

- Quyết định đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba;

- Không cung cấp tài liệu ở dạng dành riêng cho một số nhóm người như người khiếm thị, khiếm thính (nếu có quy định phải cung cấp);

- Không thực hiện nghĩa vụ công bố định kỳ các thông tin theo quy định của Luật (nếu có quy định). Đây là một cơ sở rất quan trọng để các chủ thể trong xã hội có thể khiếu nại, khiếu kiện đòi quyền tiếp cận thông tin của mình, bởi lẽ nó bắt buộc các cơ quan công quyền phải chủ động công bố thông tin, chứ không phải chờ có yêu cầu mới cung cấp. Như một tác giả nhận xét về việc thực thi Luật Tự do thông tin của Mỹ, cơ quan công quyền coi trách nhiệm của mình chỉ phản hồi yêu cầu về thông tin, chứ không chủ động công bố hoặc cung cấp thông tin[129]. Và đó là “gót chân Asin” của Luật, vì nó gây ra sự chậm trễ, khiến cho thực tế diễn ra không như mong đợi.

Ngoài các cơ sở khiếu nại, khiếu kiện trên đây phải được quy định trực tiếp trong Luật, cần theo cách tiếp cận suy đoán có lợi cho công dân mà nhiều nước áp dụng (Xem hộp). Đặc biệt, cách tiếp cận ở nhiều nước là Luật về tiếp cận thông tin có hiệu lực cao hơn Luật về bảo mật (Secrecy Law)[130]. Để tòa án có thêm cơ sở thụ lý và xem xét khiếu kiện liên quan đến tiếp cận thông tin, cần tiếp nhận cách làm này và quy định thêm trong Luật Tiếp cận thông tin về suy đoán có lợi cho quyền của công dân và hiệu lực cao hơn của Luật tiếp cận thông tin khi có mâu thuẫn với các quy định khác. Như đã nói, đây là đạo luật về quyền, cho nên điều gì bảo đảm tốt nhất cho quyền thì chúng ta nên theo.

Hộp: Suy đoán có lợi cho công dân

Ví dụ của Nhật: ngay cả khi chưa có Luật của quốc gia về tiếp cận thông tin, Tòa án vẫn tuyên có lợi cho bên nguyên đơn[131]; hoặc lập luận của Tòa án Tối cao Ấn Độ như đã dẫn ở Phần I. Thông thường, tòa án các nước xuất phát từ quyền liên quan của công dân do Hiến pháp quy định để luận giải theo chiều hướng có lợi cho công dân. Hoặc trong một vụ kiện liên quan đến tiếp cận thông tin ở Bulgaria, tòa án khu vực đã bác bỏ quyết định của cơ quan công quyền từ chối cung cấp cho công dân bản đánh giá tác động môi trường của một công trình. Một trong những lập luận của tòa là bản đánh giá tác động môi trường nhằm bảo đảm quyền được hưởng không khí sạch của công dân, do đó chính quyền không được phép từ chối cung cấp[132]. Hoặc trong nhiều trường hợp, ngay cả khi nhận thấy, việc công bố thông tin có thể tổn hại đến quyền riêng tư của công dân, tòa án nhiều nước vẫn nghiêng về quyền tiếp cận thông tin bằng cách buộc cơ quan công quyền công bố thông tin, nhưng không công bố tên tuổi cá nhân liên quan. Do đó, nếu cơ quan công quyền từ chối cung cấp thông tin với lý do bảo vệ quyền riêng tư, đây vẫn có thể là cơ sở để khiếu nại.

 

2- Cơ quan giải quyết

2.1. Cơ quan giải quyết khiếu nại

Về cơ quan giải quyết khiếu nại liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, Việt Nam có ba phương án lựa chọn. Một là, theo cách làm của một số nước, cơ quan công quyền cấp trên trực tiếp sẽ giải quyết khiếu nại về cơ quan cấp dưới. Phương án này sẽ không làm xáo trộn cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là phải chấp nhận “sống chung” với những “khuyết tật” khó có thể chữa trị cùng với những hệ quả của nó, ảnh hưởng nhiều đến các quyền của công dân[133]. Khuyết tật lớn nhất của cơ chế đó là nó mang nặng " tính hành chính ", khép kín trong hệ thống, khó bảo đảm được tính khách quan, vô tư.Việc giải quyết của cơ quan hành chính (CQHC) cấp trên đối với quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) của cấp dưới chưa bảo đảm tính độc lập vì mối quan hệ hành chính phụ thuộc. Thực tế có nhiều QĐHC, HVHC được thực hiện bởi ý chí (sự chỉ đạo) của CQHC cấp trên[134]. Vì vậy, khi những quyết định hoặc hành vi này bị khiếu nại thì việc giải quyết của CQHC cấp trên khó bảo đảm tính khách quan, độc lập. Như thế, e rằng nếu áp dụng cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay để giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin, người khiếu nại khó mà đòi được quyền của mình.

Phương án hai là giao cho một cơ quan hiện hành có đủ thẩm quyền theo dõi, giám sát, giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin. Chẳng hạn ở Trung Quốc, Văn phòng Hội đồng Nhà nước có thẩm quyền này trên toàn quốc, và những cơ quan tương tự ở các địa phương[135]. Ở Trung Quốc, sự lựa chọn này có điều thuận ở chỗ Văn phòng có vị thế cao hơn các bộ. Tuy nhiên, như một tác giả nhận xét, cơ quan này khó giữ được sự khách quan, vô tư-một điều kiện cần thiết để gây dựng lòng tin của công chúng khi có khiếu nại xảy ra[136]. Phương án này khó thực hiện ở Việt Nam cũng vì nó chứa đựng rủi ro không cải thiện được thực trạng giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay chủ yếu do thiếu tính khách  quan, vô tư.

Tuy nhiên, nếu theo phương án một và hai nói trên, ngay trong khuôn khổ hiện hành, vẫn có thể tìm cách để ràng buộc chặt chẽ hơn các cơ quan giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin. Chẳng hạn, ở nhiều nước như ở Anh[137], Bulgaria, cơ quan chịu trách nhiệm tiếp nhận và điều tra khiếu nại có mẫu đơn khiếu nại với các mục như thông tin cá nhân; người được ủy quyền trình bày vấn đề; cơ quan đối tượng của khiếu nại; quan hệ của người khiếu nại với cơ quan đó; chi tiết nội dung khiếu nại; các tài liệu gửi kèm…Việt Nam có thể dễ dàng tiếp nhận cách làm mang tính kỹ thuật này. Theo đó, cần quy định tương tự trong Luật tiếp cận thông tin yêu cầu cơ quan giải quyết khiếu nại phải có mẫu đơn để công dân điền và gửi. Đặc biệt, phải dành số lượng trang đủ để người khiếu nại mô tả chi tiết nội dung khiếu nại; hoặc cơ quan giải quyết khiếu nại phải đưa ra các phương án có sẵn về nội dung khiếu nại để người khiếu nại điền vào.

Phương án ba, thành lập một cơ quan độc lập chuyên tiếp nhận, giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin. Như đã nói, cơ quan dạng này có 3 mô hình: Thanh tra Quốc hội; Cao Ủy viên thông tin; hoặc Tài phán hành chính. Ngày càng có nhiều nước nhận thấy sự cần thiết phải có cơ quan này. Ngay như ở Mỹ đã vài thập niên không có cơ quan dạng này, nhưng nhận thấy nếu chỉ có cơ chế giải quyết khiếu kiện ở tòa án sẽ nảy sinh nhiều khó khăn, cho nên năm 2007, Luật Chính phủ mở được ban hành, theo đó, cần thành lập Văn phòng Dịch vụ thông tin Chính phủ có một trong những chức năng là hòa giải tranh chấp giữa người yêu cầu thông tin và cơ quan công quyền; nếu không thành, Văn phòng được quyền kiến nghị với cơ quan công quyền[138].

Cân nhắc các phương án dựa trên thực tiễn ở Việt Nam, dường như phương án ba là cần thiết hơn cả. Thế nhưng, cần trả lời một số câu hỏi. Trước hết, liệu việc thành lập một cơ quan mới có tạo ra sự mâu thuẫn về thẩm quyền hay không? Câu trả lời là không, vì nó sẽ xem xét các khiếu nại sau khi đã đơn khiếu nại đã được xem xét bởi cơ quan hành chính. Thậm chí ở nhiều nước có giải quyết khiếu nại nội bộ, tài phán hành chính, tòa án, vẫn có Cao ủy viên Thông tin hoặc Thanh tra Quốc hội giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin với trình tự, thủ tục riêng.

Thứ hai, có thể sẽ có ý kiến rằng, phương án này gây tốn kém, phiền phức vì phải thành lập một cơ quan mới. Tuy nhiên, những lợi thế mà nó có lại còn nhiều hơn: cơ quan chuyên trách sẽ tập trung được kiến thức, kinh nghiệm, thời gian, nguồn lực; bảo đảm được sự độc lập tương đối mà cơ chế hiện nay còn thiếu; và quan trọng nhất là nó có quyền buộc cơ quan hành chính công bố thông tin. Hơn nữa, kinh nghiệm thế giới cũng cho thấy, mô hình cơ quan độc lập đạt hiệu quả nhất so với các mô hình khác[139]. Hiệu quả đó đáng để chi thêm một khoản ngân sách. Phương án này cũng đáp ứng tiêu chí chung đã nêu ở đầu Phần II: đây là đạo luật về quyền, cho nên điều gì bảo đảm tốt nhất cho quyền thì chúng ta nên theo.

Như vậy, cơ quan về tiếp cận thông tin do Quốc hội thành lập, quyết định ngân sách, thành phần, bổ nhiệm người đứng đầu. Cơ quan này có thẩm quyền tiếp nhận, điều tra khiếu nại về tiếp cận thông, trong đó có yêu cầu tiếp cận thông tin do cơ quan công quyền nắm giữ, và cơ quan công quyền không được từ chối yêu cầu. Ngoài việc giải quyết khiếu nại, cơ quan thông tin còn có nhiệm vụ bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật liên quan đến tiếp cận thông tin, nhất là các quy định về bí mật nhà nước.

Cơ quan này sẽ thiết lập mối quan hệ công tác chặt chẽ với Ban Dân nguyện của Quốc hội trong lĩnh vực tiếp cận thông tin. Hàng năm, cơ quan về tiếp cận thông tin sẽ có báo cáo trước Quốc hội về tình hình công khai thông tin của các cơ quan công quyền, tình hình giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin. Dựa trên báo cáo này, Quốc hội có thể ra nghị quyết liên quan. Toàn bộ báo cáo này phải được công bố cho công chúng, báo chí dễ dàng tiếp cận.

Việt Nam có thể áp dụng một cách làm khác của nhiều nước, đó là: Quy định trong Luật buộc cơ quan giải quyết khiếu nại, dù đó là mô hình nào, phải giải thích rõ, tốt nhất là bằng văn bản, các quyền của người khiếu nại như quyền nhận được trả lời của cơ quan đó trong thời hạn luật định; quyền và cơ sở để người khiếu nại được tiếp tục khiếu kiện ra tòa án. Đây cũng là các thao tác kỹ thuật, cho nên tiếp nhận không mấy khó khăn.

Cơ quan giải quyết khiếu nại về quyền tiếp cận thông tin cần tiến hành các hoạt động giáo dục cộng đồng như tổ chức soạn thảo, phát hành rộng rãi các tài liệu như sách hướng dẫn, cẩm nang, tờ rơi; tổ chức các khóa tập huấn cho cán bộ; mở các chương trình trên phát thanh, truyền hình. Ở nhiều nước, đây là công việc dĩ nhiên phải làm của các cơ quan dạng này. Còn ở Việt Nam, có thể phải quy định rõ nghĩa vụ này trong Luật tiếp cận thông tin để tăng tính ràng buộc trách nhiệm.

2.2. Tòa án

Như đã nói, cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam còn nhiều điều cần hoàn thiện[140]. Liên quan đến tòa án, tổ chức, cá nhân khiếu nại QĐHC, HVHC sẽ không có cơ hội được yêu cầu Toà án xét xử nếu như  vấn đề không thuộc các loại việc mà toà án được thụ lý, giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Do đó, không phải bất kỳ khiếu nại đối với quyết QĐHC, HVHC nào cũng được Toà án xem xét, giải quyết. Những quy định này đã hạn chế quyền khiếu nại của tổ chức, cá nhân và đây cũng là bất cập lớn nhất của cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay. Như vậy, để người khiếu nại có thể khiếu kiện tiếp ra tòa về tiếp cận thông tin, cần quy định rõ trong Luật Tiếp cận thông tin về quyền này của người khiếu nại và thẩm quyền thụ lý của tòa án.

Bên cạnh đó, như trên đã nói về cơ sở khiếu kiện, Việt Nam có thể tiếp nhận cách làm của nhiều nước nhằm tìm ra một lối vào cho người dân tiếp cận kho lưu trữ thông tin của nhà nước, chính xác hơn, để tòa án có thể giúp người dân vào. Đó là, nghiên cứu để quy định trong Luật tiếp cận thông tin về nghĩa vụ của tòa án dựa trên quy định của Hiến pháp lập luận có lợi cho người khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin của mình[141]. Đó là các quy định về quyền con người và quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp 10092, trước hết là quyền được biết, quyền được cung cấp thông tin; sau đó là các quyền khác. Trong bối cảnh Việt Nam, cách tiếp cận này cũng có tác dụng làm cho Hiến pháp thành “cơ thể sống”, có hiệu lực trên thực tế hơn. Nhất là Hiến pháp nước ta đã quy định trực tiếp cả quyền tự do bày tỏ chính kiến và quyền được biết của công dân.

Như kinh nghiệm ở Thượng Hải, cho đến năm 2006, mặc dù trong số 73 vụ kiện về tiếp cận thông tin tại tòa án thành phố không có vụ nào công dân thắng kiện, nhưng số lượng đơn kiện ngày càng tăng cho thấy, công chúng đã biết sử dụng các quy định về tiếp cận thông tin để đòi quyền của mình[142]. Giống như ở Trung Quốc, tòa án ở Việt Nam không có thẩm quyền giải thích luật, văn hóa pháp lý trong dân có những nét tương tự, khi người dân không sử dụng tòa án nhiều như ở phương Tây. Nhưng với quy định cụ thể trong Luật tiếp cận thông tin về nghĩa vụ suy đoán có lợi cho người khiếu kiện, có thể công chúng ở nước ta sẽ đến với tòa án nhiều hơn để đòi quyền tiếp cận thông tin.

3- Quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện

Ngoài việc hoàn thiện trong lâu dài các quy định hiện hành, Luật tiếp cận thông tin cần quy định, gánh nặng chứng minh phải thuộc về cơ quan công quyền, chứ không phải người khiếu kiện phải mang gánh nặng đó. Có nghĩa là trong quá trình giải quyết khiếu kiện, cơ quan công quyền phải có nghĩa vụ chứng minh trước tòa, tại sao họ từ chối cung cấp thông tin. Trong đó, họ không những phải chứng minh việc từ chối cung cấp thông tin là tuân theo các quy định về ngoại lệ, mà còn phải chứng minh, việc công bố thông tin đó sẽ dẫn đến những thiệt hại đáng kể cho các bên liên quan[143]. Họ phải trả được “bài trắc nghiệm ba bước” để chứng minh rằng: một, thông tin họ từ chối cung cấp liên quan đến những mục đích hợp pháp được quy định trong luật; hai, việc công bố sẽ làm tổn hại đến các mục đích đó; ba, tổn hại đó phải lớn hơn lợi ích công cộng có được từ việc công khai thông tin[144]. Nếu họ không chứng minh hoặc không chứng minh được, tòa án phải phán quyết rằng, việc từ chối cung cấp thông tin là trái pháp luật, và tòa phải buộc cơ quan công quyền cung cấp thông tin mà người khiếu kiện yêu cầu (Xem thêm ví dụ trong Hộp dưới đây).

Hộp: Không chứng minh được, cơ quan công quyền thua kiện

Trong một vụ kiện ở Bulgaria, một tòa án cấp khu vực đã lập luận, việc chính quyền quận từ chối cung cấp thông tin cho công dân là trái luật, ít nhất là vì họ không giải thích tại sao từ chối; họ cũng không giải thích được điều đó trước tòa, mà trong khi đó, họ phải có nghĩa vụ chứng minh. Vì vậy, cùng với lập luận về lợi ích công cộng, tòa án đã tuyên buộc chính quyền phải cung cấp những thông tin mà công dân yêu cầu[145]. Cuối cùng, nguyên đơn đã được cung cấp mọi thông tin mà họ yêu cầu chính quyền cung cấp.

Quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện cần bảo đảm công dân được tiếp cận công lý dễ dàng hơn. Như kinh nghiệm của Nam Phi cho thấy, mặc dù công dân có quyền khiếu kiện lên Tòa án Tối cao, nhưng Tòa án Tối cao lại là đất của các luật sư, chứ không phải của người nghèo, mà trong khi đó, người nghèo vốn cần thông tin lại không có tiền để thuê luật sư[146]. Ở đây có thể nghiên cứu áp dụng cách làm của một số nước: một là, miễn án phí cho người nghèo; hai là, quy định nếu nguyên đơn thắng kiện thì được hoàn lại án phí và chi phí luật sư. Để tăng cường hiệu quả giải quyết các vụ án khiếu kiện hành chính, đảm bảo quyền lợi cho đương sự và giảm bớt gánh nặng cho TA trong kiểm tra hồ sơ, thu thập chứng cứ, cần có quy định về một số trường hợp bắt buộc phải có sự tham gia của luật sư, bào chữa viên nhân dân, chuyên gia trợ giúp pháp lý ngay từ trước khi tòa án thụ lý. Những trường hợp này là các vụ án phức tạp, đối tượng bị khiếu kiện là quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, thủ trưởng cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh trở lên.

Nếu thành lập cơ quan độc lập giải quyết khiếu nại về tiếp cận thông tin, cần quy định rõ trong Luật tiếp cận thông tin trình tự, thủ tục giải quyết của cơ quan đó, cũng như mối quan hệ giữa trình tự, thủ tục của nó với trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại nói chung hiện nay (trong Hộp).

Hộp: Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính

Với việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2005 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính được tiến hành như sau:

Trước tiên, khiếu nại sẽ do cơ quan có quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại xem xét và giải quyết. Tiếp đó, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại hoặc quá thời hạn luật định mà khiếu nại vẫn chưa được giải quyết, thì người khiếu nại có quyền tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án. Nếu người khiếu nại tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp mà họ vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc quá thời hạn luật định mà khiếu nại vẫn không được giải quyết, thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án cùng cấp với cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.

Nếu người khiếu nại lựa chọn theo con đường khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án ngay, thì đương nhiên họ cũng có quyền kháng cáo nếu không đồng ý với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc đề nghị Viện kiểm sát kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Luật cũng ấn định thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày (45 ngày cho những vụ việc phức tạp) hoặc không quá 45 ngày (60 ngày cho những vụ việc phức tạp) đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn; thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày (60 ngày cho những vụ việc phức tạp) hoặc không quá 60 ngày đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn (70 ngày cho những vụ việc phức tạp). Trong thời hạn trên, nếu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không giải quyết thì phải bị xem xét kỷ luật.

Phán quyết, quyết định giải quyết khiếu nại phải đáp ứng những yêu cầu sau: Bằng văn bản và công khai; Nêu rõ căn cứ để ra quyết định giải quyết khiếu nại; Phải dựa trên chứng cứ mà các bên đã có cơ hội trình bày ý kiến; Ghi rõ quyền khiếu nại hoặc khiếu kiện tiếp của người khiếu nại; Gửi cho các bên liên quan theo đúng thời hạn luật định; Có cơ chế thi hành có hiệu quả các quyết định giải quyết khiếu nại.

IV-KẾT LUẬN

Có tác giả ví “thông tin là một dạng tiền tệ của nền dân chủ”[147]. Có người lại coi “thông tin là khí trời của nền dân chủ”[148]. Nếu như thế, Luật tiếp cận thông tin là chìa khóa để mở ngân khố của nền dân chủ đó; cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện buộc người giữ chìa khóa không được giữ chìa khóa cho riêng mình hoặc một nhóm người, mà phải mở ngân khố cho tất cả công chúng. Cũng tương tự, được hít thở khí trời là lẽ tự nhiên, quyền tự nhiên vốn có của con người; Luật tiếp cận thông tin chỉ khẳng định lại và bảo vệ lẽ tự nhiên đó là thôi. Còn tại một cuộc hội thảo góp ý cho dự thảo Luật Tiếp cận thông tin, một bác hưu trí được mời đến dự đã nói, “đối với người dân chúng tôi, Luật này như là phao cứu sinh”[149]. Theo cách ví von này, thiếu một cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hiệu quả, cái phao cứu sinh kia sẽ treo lơ lửng tít trên cao, ngoài tầm với của người đi biển, và lúc cần thiết sẽ khó lấy nó để cứu người gặp nạn.

Như vậy, quyền tiếp cận thông tin, cũng như những quyền khác, nếu chỉ nằm trên giấy thì mất tác dụng. Chỉ khi có những cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hiệu quả, quyền tiếp cận thông tin mới được bảo đảm trên thực tế. Mà như thế, nhìn vào tình hình giải quyết khiếu nại, khiếu kiện nói chung ở nước ta hiện nay, thấy ngổn ngang “trăm mối tơ vò”, còn quá nhiều việc phải làm phía trước cùng với việc ban hành luật trên giấy.

Tuy nhiên, trong khuôn khổ hiện hành, như đã phân tích, một số điểm về cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện có thể đưa được vào trong Luật tiếp cận thông tin. Nói tóm lại, Luật Tiếp cận thông tin, cụ thể trong bài này là các quy định về cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về tiếp cận thông tin cần được thiết kế theo hướng bám sát tinh thần hiện thực hóa và bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công dân đã được Hiến pháp quy định; áp dụng phương án có lợi cho quyền tiếp cận thông tin nhất. Cơ chế đó phải dễ đến, dễ gần, nhanh chóng, tiện lợi, ít tốn kém, coi việc cung cấp thông tin phải là thông lệ, coi các ngoại lệ chỉ là ngoại lệ hiếm hoi được quy định rõ trong Luật, và luôn suy đoán có lợi cho dân mỗi khi có thể.

Bên cạnh đó, nhìn về xa hơn, theo chúng tôi, cần làm một số việc sau đây liên quan đến giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về quyền tiếp cận thông tin: Sửa đổi Luật Khiếu nại, tố cáo; sửa đổi Pháp lệnh TTGQCVAHC; sửa đổi các quy định về bí mật nhà nước. Và cùng với việc thành lập cơ chế bảo hiến trong tương lai, hy vọng, công dân sẽ có thêm một kênh để bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của mình.

 

Phần 3. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ VIỆC ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở  VIỆT NAM HIỆN NAY

                                            

                                           Chuyên đề 14

SỰ HÌNH THÀNH , PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

                        PGS-TS Thái Vĩnh Thắng & PGS-TS Tường Duy Kiên

1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin  trong pháp luật Việt Nam

 Tại Việt Nam, quyền được thông tin chưa được đưa vào các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, tuy nhiên trong mấy chục năm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước vẫn tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận thông tin phù hợp hoàn cảnh của đất nước. Đến Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991, quyền được thông tin đã được xác định trong Cương lĩnh của Đảng, là cơ sở để năm 1992, Hiến pháp mới được thông qua bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật”. Sự bổ sung này là kết quả của quá trình đổi mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền được thông tin  là quyền cơ bản của công dân, do đó đặt trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan Nhà nước phải cung cấp thông tin cho công dân và phải có biện pháp cụ thể để công dân thực hiện quyền này một cách có hiệu quả trên thực tế. Nhiều đạo luật và văn bản pháp quy được ban hành cụ thể hoá quy định của Hiến pháp. Tuy nhiên, việc thể chế và chi tiết hoá quyền được thông tin còn chậm, chưa có tính hệ thống, đồng bộ, chưa có một cơ chế pháp lý cụ thể để bảo đảm thực hiện quyền này một cách có hiệu quả nên quyền được thông tin của cá nhân ở Việt Nam còn bị vi phạm nghiêm trọng.

   Sau khi Hiến pháp 1992 được ban hành, đã có nhiều văn bản quy định quyền được thông tin trong một số  lĩnh vực và phạm vi cụ thể.

   Nhằm cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền được thông tin, nhằm phát huy dân chủ ở cơ sở, năm 1998 Chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ- CP ngày 11/5/1998, được sửa đổi năm 2003 trong đó quy định những việc chính quyền địa phương phải có trách nhiệm thông tin và công khai để dân được biết những công việc ở địa phương. Năm 2007 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tại Điều 1 Pháp lệnh đã xác định phạm vi điều chỉnh theo đó pháp lệnh này quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn của cán bộ thôn, làng, ấp, bản , phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Tại Điều 5 pháp lệnh này đã quy định những vấn đề cần công khai:

  • Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của xã;
  • Dự án công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã;
  • Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân;
  • Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã, các khoản huy động nhân dân đóng góp ;
  • Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn; phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế;
  • Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã;
  • Kết quả thanh tra, kiểm tra giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã;
  • Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân tại Điều 19 pháp lệnh này;
  • Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu;
  • Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện;
  • Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết .

Theo quy định tại Điều 6 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 hình thức công khai được quy định như sau:

a, Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã;

b, Công khai trên hệ thống truyền thanh cấp xã;

c, Công khai qua trưởng thôn, tổ trưởng dân phố để thông báo đến nhân dân.

Chính quyền cấp xã có thể áp dụng đồng thời nhiều hình thức công khai nói trên.

Điều 7 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã xác định địa điểm và thời gian công khai thông tin:

  • Việc công khai các nội dung bằng hình thức niêm yết công khai tại trụ sở  Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã.
  • Chính quyền cấp xã có trách nhiệm niêm yết những nội dung quy định tại Khoản 1 Điều này chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản được thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận được văn bản đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên.
  • Thời gian niêm yết các nội dung quy định tại khoản 2 và khoản 9 Điều 5 của Pháp lệnh này ít nhất là ba mươi ngày liên tục, kể từ ngày niêm yết; các nội dung quy định tại khoản 3 và khoản 10 Điều 5 của Pháp lệnh này được niêm yết thường xuyên.

Điều 8 của Pháp lệnh này quy định những công việc công khai trên hệ thống truyền thanh và thông qua trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân:

  • Những nội dung quy định tại các khoản 1, 4, 5, 6, 7, 8 và 11 Điều 5 của Pháp lệnh này được công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã hoặc gửi đến trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.
  • Chính quyền cấp xã có trách nhiệm công khai những nội dung quy định tại khoản 1 Điều này chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản được thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận được văn bản đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên.
  • Trường hợp công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã thì thời hạn công khai là ba ngày liên tục.

Những vấn đề cần  được nhân dân tham gia ý kiến được quy định trong Điều 19 của Pháp lệnh:

  • Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã;
  • Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã;
  • Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư;
  • Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã;
  • Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết;

Hình thức để nhân dân tham gia ý kiến được xác định tại Điều 20 của Pháp lệnh, bao gồm:

  • Họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố;
  • Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình;
  • Thông qua hòm thư góp ý.

Luật báo chí năm 1989 đã quy định tại Điều 2 với mục đích đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí, nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí. Nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được nhà nước bảo hộ. Không  một tổ chức, cá nhân nào được cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được làm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng.

Theo quy định tại Điều 4 Luật báo chí công dân có quyền:

  1. Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới;
  2. Tiếp xúc, cung cấp cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, ảnh, bài viết và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin;
  3. Phát biểu ý kiến  của mình về tình hình đất nước và thế giới;
  4. Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật và nhà nước;
  5. Góp ý kiến phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của tổ chức đó.

Theo quy định tại Điều 5 Luật báo chí, cơ quan báo chí có trách nhiệm:

  • Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời, nói rõ lý do;
  • Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc  trả lời trực tiếp trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến.

Theo quy định tại Điều 7 Luật báo chí trong phạm vi quyền hạn của mình, các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin. Đối với những vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử thì các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền cung cấp thông tin cho báo chí nhưng báo chí có quyền thông tin theo các nguồn tài liệu của mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin. Báo chí có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ tên người không cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân hoặc Chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở nên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm nghiêm trọng.

 Theo quy định tại Điều 8 của Luật báo chí, người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người có chức vụ trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí và các tổ chức, người có chức vụ liên quan có trách nhiệm phải trả lời. Tổ chức, công dân có quyền yêu cầu cơ quan báo chí trả lời về vấn đề mà báo chí đã thông tin, cơ quan báo chí có trách nhiệm phải trả lời vấn đề  mà tổ chức hoặc công dân yêu cầu. Cơ quan báo chí phát hiện hoặc nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân về những việc có dấu hiệu phạm tội thì phải báo cáo ngay cho cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát bằng văn bản.

Theo quy định tại Điều 9 Luật báo chí, báo chí thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân thì phải cải chính và xin lỗi hoặc đăng, phát sóng lời cải chính của tổ chức, công dân. Trong trường hợp báo chí không cải chính hoặc cải chính không thoả đáng, không đăng, phát sóng cả lời cải chính của tổ chức, công dân mà không có lý do chính đáng thì họ có quyền khiếu nại với cơ quan chủ quản báo chí hoặc yêu cầu toà án xét xử. Lời cải chính của cơ quan báo chí của tổ chức, công dân phải được đăng, phát sóng kịp thời và tương xứng với thông tin cần cải chính. Theo quy định tại Điều 10, để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được thực hiện một cách đúng đắn, báo chí phải tuân theo những quy định sau đây:

  1. Không được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân;
  2. Không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ô, đồi trụy, tội ác;
  3. Không được tiết lộ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định;
  4. Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự nhân phẩm của công dân.

 Gần đây, Quốc hội cũng ban hành nhiều luật, trong đó có quy định về công khai thông tin như thông tin về ngân sách, tài chính công (Luật Ngân sách nhà nước), thông tin về tài chính kế toán doanh nghiệp (Luật Kế toán), thông tin về kiểm toán và kết quả kiểm toán (Luật Kiểm toán nhà nước), công khai về nhà ở, quỹ nhà, nhà ở thương mại (Luật nhà ở) và công khai minh bạch trong hoạt động của nhà nước yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức và cá nhân quy định trong Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; cung cấp thông tin trong lĩnh vực môi trường (Luật bảo vệ môi trường năm 2005); thông tin, truyền thông về phòng chống bệnh truyền nhiễm (Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007)…Các đạo luật tổ chức các cơ quan nhà nước cũng quy định về công khai hoạt động, cung cấp tin tức để người dân được tiếp cận thông tin. Các đạo luật về tố tụng cũng quy định công khai trong hoạt động xét xử.

  Tuy nhiên chưa có một văn bản nào giải thích khái niệm quyền được thông tin của công dân là gì, mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm của cơ quan công quyền, công khai minh bạch trong một số lĩnh vực và quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân, công dân, cơ quan báo chí được yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan, có trách nhiệm cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan, tổ chức.

2. Thực trạng pháp luật bảo đảm quyền được thông tin ở Việt Nam

hiện nay

2.1.Bảo đảm quyền được thông tin qua báo chí, xuất bản

 Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, là diễn đàn, tiếng nói của mọi tầng lớp trong xã hội. Xét về mặt lịch sử, các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản được pháp luật quy định từ khá sớm, có thể thấy trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam.

   Luật Báo chí năm 1989 sửa đổi năm 1999 đã quy định: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí (Điều 2). Luật cũng quy định trách nhiệm của báo chí là đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân. Điều 7 Luật báo chí quy định việc cung cấp thông tin cho báo chí vừa là quyền, vừa được coi là nghĩa vụ của các cơ quan và công chức nhà nước. Điều 8 quy định người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người có chức vụ trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí…

  Cụ thể hoá Luật Báo chí, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 quy định chi tiết việc thi hành Luật Báo chí. Theo Nghị định này, nhà báo có quyền đến cơ quan, tổ chức… để thu thập thông tin, tra cứu tài liệu, làm nghiệp vụ báo chí; được thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND các cấp, các đại hội và hội nghị công khai, các cuộc mít tinh, đón tiếp khách của Đảng, Nhà nước…được hoạt động nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên toà xét xử công khai.

 Ngoài các hình thức yêu cầu cung cấp thông tin một cách trực tiếp và thông qua báo chí, công chúng còn có thể đưa ra yêu cầu tiếp cận với thông tin của các cơ quan nhà nước qua một số kênh khác như thông qua các đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp, hoặc qua các cuộc họp dân, hay thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. 

 Luật Xuất bản năm 2004  cho phép các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội và tổ chức khác được thành lập nhà xuất bản và cho phép các nhà xuất bản được liên kết với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứung nhận đăng ký kinh doanh về in hoặc phát hành xuất bản phẩm và tổ chức có tư cách pháp nhân để tổ chức bản thảo, in và phát hành từng xuất bản phẩm.

2.2. Nội dung, phạm vi các vấn đề, lĩnh vực cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai trong hoạt động, bảo đảm quyền được biết của công dân trong một số văn bản pháp luật.

  Các vấn đề, lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan công quyền phải công khai được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

 Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 tại Điều 5 liệt kê 11 lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai cho dân biết, bao gồm các thông tin liên quan  đến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự án, công trình đầu tư, nhiệm vụ, quyền hạn cán bộ công chức của cấp xã; việc quản lý vả sử dụng các loại quỹ, chủ trương kế hoạch cho nhân dân vay vốn để phát triển sản xuất,…

    Luật kế toán năm 2003 quy định nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và đơn vị sự nghiệp không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.

 Luật Kiểm toán năm 2005 quy định công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58). Báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội được công bố công khai theo quy định của pháp luật. Điều 59 của Luật quy định công khai báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán sau khi phát hành được công bố công khai cùng với báo cáo tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Luật kế toán.

  Trên lĩnh vực nhà ở, Nghị định số 90/2006 ngày 13/9/2006 quy định chi tiết hướng dẫn Luật Nhà ở năm 2005 có quy định UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại.

  Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 quy định nội dung nguyên tắc công khai, minh bạch tại Điều 11: Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ. Từ Điều 13 đến Điều 30 quy định 18 nội dung các lĩnh vực, cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ công quyền phải công khai như: trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản; trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản; về tài chính và ngân sách nhà nước; trong việc huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân; trong việc quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ; trong quản lý doanh nghiệp nhà nước; trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước; trong quản lý sử dụng đất. Điều 33 quy định công khai báo cáo hàng năm về kết quả công tác đấu tranh chống tham nhũng.

 Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005 tại Điều 6 quy định các lĩnh vực công khai bao gồm phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước; tài sản và kế hoạch mua sắm, sử dụng tài sản trong cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước…

 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 tại Điều 104 quy định công khai thông tin, dữ liệu về môi trường bao gồm: báo cáo đánh giá tác động môi trường, quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế hoạch thực hiện các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; cam kết bảo vệ môi trường đã đăng ký.

 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 tại Điều 8 có quy định văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được đăng Công báo cấp tỉnh. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp quy định tại đoạn 2 Khoản 1 Điều này.

 Trước đó, Nghị định số 104/NĐ-CP ngày 23/3/2004 của Chính phủ về Công báo nước CHXHCN Việt Nam cũng quy định các văn bản phải đăng trên công báo ở trung ương.

  Quy định về công khai cũng được quy định tại Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật năng lượng nguyên tử năm 2008, Luật đa dạng sinh học năm 2008, Luật cư trú năm 2006, Luật Điện lực năm 2004, Luật dược năm 2004, Luật đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Xây dựng năm 2003, Luật công nghệ thông tin, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.

 Nhằm tiếp tục bảo đảm tính công khai minh bạch trên lĩnh vực quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, ngày 13/9/2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 92/2006 yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh có trách nhiệm công khai quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội cả nước, các vùng, các tỉnh, huyện, các ngành, lĩnh vực để mọi công dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận nghiên cứu và khai thác…

 Trong các văn bản này và các văn bản hướng dẫn thi hành, có quy định về các hình thức công khai thông tin và cách thức cung cấp thông tin, quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm, thời hạn cơ quan công quyền phải cung cấp trả lời, cũng như các hình thức xử lý vi phạm mặc dù có thể chưa cụ thể, rõ ràng.

 Nhìn chung, pháp luật nước ta đã từng bước hoàn thiện theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy công quyền. Đáng chú ý là các văn bản pháp luật được ban hành sau việc quy định trách nhiệm công khai minh bạch và cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước có phần rõ hơn so với các văn bản ban hành trước. Tuy nhiên nếu nhìn vào hiện trạng pháp luật và quá trình thực thi pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy quyền được tiếp cận thông tin của công dân Việt Nam vẫn còn hạn hẹp, nhiều bất cập khó thực hiện trên thực tế và có lúc có nơi vẫn còn bị vi phạm nghiêm trọng.

 Việc tiếp cận thông tin do các cơ quan công quyền còn rất khó khăn, vì thế tính công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan này chưa được thực hiện, cụ thể như trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai…Vì thế hiện tượng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật trong các cơ quan công quyền còn phổ biến, dẫn đến hiện tượng khiếu kiện đông người, kéo dài hay vượt cấp.

 Việc thiếu các quy định cụ thể về thủ tục, trình tự yêu cầu, biện pháp xử lý vi phạm dẫn tới việc khai thác, tìm kiếm thông tin từ cơ quan công quyền vẫn thường hay bị gây phiền hà. Quyền được phổ biến thông tin, bày tỏ quan điểm, tiếp nhận thông tin một cách tự do gắn với quyền được thông tin còn thiếu cơ chế để thực hiện, các quy định hiện hành rất mờ nhạt. Hiện tượng bưng bít thông tin của các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất làm thiệt hại đến lợi ích của người dân khá phổ biến . Các phương tiện truyền thông còn bị hạn chế trong tiếp cận các thông tin từ phía các cơ quan công quyền, tổ chức và doanh nghiệp. Công tác phổ biến pháp luật còn yếu kém. Trình độ dân trí còn thấp, các hoạt động báo chí, truyền thanh, truyền hình , xuất bản còn nhiều hạn chế, vì thế người dân chưa nhận thức được đầy đủ quyền của mình, thậm chí có khi thờ ơ với thông tin từ phía nhà nước. Ngoài ra hiện cũng chưa có quy định người phát ngôn của cơ quan công quyền phải tiếp nhận, trả lời các yêu cầu trực tiếp của công chúng. 

 Các văn bản về thông tin miễn trừ tiếp cận (quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật phòng chống tham nhũng, Luật Bảo vệ môi trường, Quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ… ) quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, thiếu tính đồng bộ, cản trở cho việc tiếp cận thông tin của người dân hay gây khó khăn cho cơ quan, cán bộ cung cấp thông tin cho người dân cũng như làm công tác bảo mật.

 Xuất phát từ thực tiễn tổ chức, lãnh đạo và quản lý nhà nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra chủ trương nghiên cứu ban hành Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Đây là cơ sở để thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin của người dân, góp phần vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, hủ hoá, quan liêu trong bộ máy nhà nước và các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước. 

                                            

                                                   Chuyên đề 15

          C Ơ CH Ế B ẢO Đ ẢM  QUYỀN TIẾPCẬN THÔNG TIN

          CỦA CÔNG DÂN VI ỆT NAM HI ỆN NAY

                                                       PGS- TS. Tường Duy Kiên

                             Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

    

  Quyền được thông tin/tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của cá nhân, công dân. Xây dựng xã hội văn minh, công bằng, dân chủ, hướng tới nhà nước pháp quyền, phải dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động công quyền và bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Trên nguyên tắc đó, nhà nước sẽ là chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của nhà nước; cá nhân, công dân có quyền được biết, được tiếp cận các thông tin công do Nhà nước nắm giữ. Và vì vậy, Nhà nước có trách nhiệm xây dựng cơ chế và hoàn thiện thể chế để nhân dân tham gia giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; qua đó sẽ hạn chế tình trạng quan liêu, tham nhũng, tăng cường tính trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Đó chính là điều kiện cần thiết cho hoạt động quản lý dân chủ, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước.

1. Nhận thức và sự phát triển khái niệm quyền được thông tin của công dân trong pháp luật Việt Nam

  Ở Việt Nam, quyền được thông tin đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH năm 1991; trong Hiến pháp năm 1992 và quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

+ Về thuật ngữ, khái niệm

Trong các văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta hiện nay, chủ yếu sử dụng khái niệm “quyền được thông tin và/hoặc trách nhiệm cung cấp thông tin từ phía cơ quan nhà nước”. Không có khái niệm/thuật ngữ tự do thông tin trong các văn bản của Đảng và pháp luật của Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH[150] xác định: “Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời, chân thực và bổ ích”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành TW Đảng (Khoá VIII) về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, quy định: “Hoàn chỉnh các vǎn bản luật pháp về vǎn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường; ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo vǎn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ vǎn hóa của nhân dân”.

Từ tổng kết thực tiễn, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban chấp hành TW Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí[151] đã chính thức đề ra chủ trương, “Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị” đòi hỏi “Thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch; bổ sung  quy định bảo đảm minh bạch quá trình ra quyết định, bao gồm cả chính sách, văn bản quy phạm pháp luật và quyết định giải quyết một vụ việc cụ thể của cơ quan nhà nước các cấp.

 Xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai. Hoàn thiện, công khai hóa và thực hiện đúng các chế độ, định mức, tiêu chuẩn sử dụng lao động, ngân sách và tài sản công. Nghiên cứu ban hành Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân.

+ Sự phát triển khái niệm và nội dung quyền tiếp cận thông tin trong các văn bản pháp luật Việt Nam

Điều 69 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin...theo quy định của pháp luật”.

     Nghiên cứu các bản Hiến pháp trước đó (Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980) chưa có quy định về quyền được thông tin của công dân. Tuy nhiên, bảo đảm tính công khai trong hoạt động nghị viện, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946, Điều 30 đã quy định nguyên tắc chung: “Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị viện[152]”.

Như vậy, nếu xét quyền được thông tin với tư cách là quyền độc lập, theo nghĩa rộng gồm cả các thành tố như: quyền yêu cầu được biết, được tìm kiếm, được tiếp nhận, và phổ biến thì mới chỉ có trong Hiến pháp năm 1992. Sự bổ sung này là kết quả của quá trình đổi mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền được thông tin và thông tin là quyền cơ bản của công dân, do đó đặt trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước phải cung cấp thông tin cho công dân và phải có biện pháp cụ thể để công dân thực hiện quyền này một cách có hiệu quả trên thực tế.

Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền được thông tin, nhằm phát huy dân chủ ở cơ sở, năm 1998 Chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, được sửa đổi năm 2003 trong đó quy định những việc chính quyền địa phương phải có trách nhiệm thông tin và công khai để dân biết những công việc ở địa phương. Tiếp đó, trong những năm gần đây, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều văn  bản pháp luật, trong đó có quy định về công khai, minh bạch, bảo đảm quyền  được thông tin của công dân. Tuy nhiên, nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta hiện nay cho thấy, chưa có một văn bản nào giải thích khái niệm quyền được thông tin của công dân là gì[153]; mà mới chỉ dừng lại việc quy định trách nhiệm của cơ quan công quyền có trách nhiệm công khai, minh bạch trong một số lĩnh vực và quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân, công dân, cơ quan báo chí được yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan, có trách nhiệm cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan, tổ chức.

+ Về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin

Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi hoạt động của Nhà nước đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do vậy nguyên tắc trong hoạt động của Nhà nước là bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân là mục tiêu hoạt động.

Với bản chất đó, nguyên tắc công khai, minh bạch, tính trách nhiệm giải trình là nguyên tắc áp dụng chung cho toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Và nguyên tắc đó là cơ sở, bảo đảm cho người dân có thể tham gia giám sát hoạt động của Nhà nước. Vì vậy, chế độ cung cấp thông tin và công khai về hoạt động của Nhà nước đòi hỏi, không chỉ áp dụng cho cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ quan thuộc nhánh quyền lập pháp và tư pháp.

Lẽ tất nhiên, xuất phát từ tính chất hoạt động của mỗi cơ quan mà mức độ công khai, cách thức công khai và trình tự, thủ tục cung cấp thông tin không hoàn toàn giống nhau.

  1. Thực trạng pháp luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân

2.1 Nguyên tắc bảo đảm quyền được thông tin qua báo chí (quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản)

Trước hết nói đến quyền được thông tin thì không thể không nói đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và xuất bản vì theo quy định tại Điều 19 Khoản 2 của Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966, quyền được thông tin nằm trong khái niệm quyền tự do ngôn luận[154]; tiếp đó, bảo đảm quyền được thông tin, cần làm rõ nội dung các lĩnh vực/vấn đề mà Nhà nước/cơ quan công quyền nắm giữ thông tin cần phải công khai, minh bạch để người dân biết; và yếu tố đặc biệt quan trọng là các quy định về quy trình, thủ tục, cách thức công khai, và các hình thức xử lý vi phạm.

          Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, là diễn đàn, tiếng nói của mọi tầng lớp trong xã hội. Thông qua báo chí, người dân được bày tỏ quan điểm, nguyện vọng với Đảng, Nhà nước; và đồng thời cũng qua báo chí, Nhà nước cung cấp quan điểm đường lối, chủ trương chính sách, pháp luật của mình đến các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, các cơ quan truyền thông đại chúng, đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải thông tin về các hoạt động của Nhà nước tới quần chúng nhân dân.

     Cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992, Điều 2 Luật Báo chí năm 1989 quy định: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí...Theo Luật này, công dân có quyền: Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới; Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.

          Bên cạnh việc quy định các quyền trên, Luật cũng quy định trách nhiệm của báo chí là: Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do; Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến. Điều 7 quy định việc cung cấp thông tin cho báo chí vừa là quyền, vừa được coi nghĩa vụ của các cơ quan và công chức nhà nước.

Cụ thể hoá Luật Báo chí, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 quy định chi tiết việc thi hành Luật báo chí, theo Điều 8 của Nghị định, nhà báo có quyền: (a) Được đến các cơ quan, tổ chức, thư viện, bảo tàng, triển lãm để thu thập thông tin, tra cứu tài liệu, làm nghiệp vụ báo chí. Khi đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo. Các cơ quan nhà nước không được từ chối cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu không thuộc phạm vi quy định trong Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước; (b) Được thực hiện các hoạt động nghiệp vụ tại các kỳ họp Quốc hội, HĐND các cấp, các đại hội và hội nghị công khai, các cuộc mít tinh, đón tiếp khách của Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức khác theo giấy mời và các quy định cụ thể của Ban Tổ chức các hoạt động đó; (c) Được hoạt động nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên tòa xét xử công khai, được dành chỗ ngồi riêng, được liên lạc trực tiếp với các thẩm phán, luật sư để lấy tin, phỏng vấn theo quy định của pháp luật.

          - Bảo đảm quyền được thông tin qua hoạt động xuất bản, Luật xuất bản năm 2004 quy định cho phép các cơ quan nhà nước, tổ tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức khác được thành lập nhà xuất bản (Điều 11) và cho phép các nhà xuất bản được liên kết với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về in hoặc phát hành xuất bản phẩm và tổ chức có tư cách pháp nhân để tổ chức bản thảo, in và phát hành từng xuất bản phẩm (Điều 20). Đặc biệt, Luật này quy định rõ: (1) Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả; (2) Nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm trước khi xuất bản. (3) Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được lợi dụng quyền phổ biến tác phẩm làm thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 

2.2 Pháp luật bảo đảm quyền được thông tin trong hoạt động của cơ quan dân cử và cơ quan tư pháp

a) Hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp

Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, Quy chế Hoạt động của Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đều quy định nguyên tắc chung về tính công khai trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Điều 67 Luật Tổ chức Quốc hội quy định: “Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín”.

Điều 31, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: Hội đồng nhân dân họp công khai. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định họp kín theo đề nghị của chủ toạ kỳ họp hoặc của Chủ tịch uỷ ban nhân dân cùng cấp. Ngày họp, nơi họp và chương trình kỳ họp HĐND phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là 5 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.

Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản pháp luật của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đều phải công khai và đăng trên công báo.

b) Tiếp cận thông tin trong hoạt động của cơ quan tư pháp (hoạt động điều tra, truy tố, xét xử)

Điều 29 Luật phòng chống tham nhũng quy định nguyên tắc chung rằng: “Việc thụ lý, điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định của pháp luật về tố tụng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

- Công khai trong hoạt động điều tra: Về nguyên tắc, thông tin trong hoạt động thụ lý vụ án, về điều tra, về truy tố phải được công bố. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của hoạt động điều tra vụ án là một lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ đặc thù; hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, đây là lĩnh vực bí mật công tác. Điều 124 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: cán bộ điều tra không được tiết lộ bí mật điều tra. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải báo trước cho người tham gia tố tụng, người chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều tra. Việc báo này phải được ghi vào biên bản. Và nếu Điều tra viên, Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng, người chứng kiến tiết lộ bí mật điều tra thì tùy trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều 263, 264, 286, 287, 327 và 328 của Bộ luật hình sự[155].

- Trong hoạt động xét xử, nếu như thông tin trong quá trình điều tra vụ án là vấn đề thuộc bí mật nghề nghiệp, cán bộ điều tra không được tiết lộ, thì hoạt động xét xử tất cả các vụ án nói chung đều phải tuân theo nguyên tắc: Toà án xét xử công khai. Trừ trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai (Điều 15 BLTTDS và Điều 18 BLTTHS).

- Về bản án: Nguyên tắc chung bản án được giao cho các bên có liên quan.

          2.3 Tiếp cận thông tin trong hoạt động hành chính nhà nước

Bảo đảm quyền được thông tin/quyền được biết về các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động của Nhà nước. Vì cơ quan hành chính là cơ quan thực hiện chức năng quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi mọi mặt của nhân dân. Chính vì vậy, một trong các nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là phải tuân theo nguyên tắc công khai, minh bạch, bảo đảm tính trách nhiệm giải trình. Bởi lẽ, chỉ có công khai, minh bạch, tính trách nhiệm giải trình thì người dân mới có thể dễ dàng tiếp cận hồ sơ, tài liệu, văn bản, chính sách, pháp luật của nhà nước, mới biết được cơ quan công quyền đang làm gì và hoạt động như thế nào.

          2.3.1 Quy định của pháp luật về chế độ cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của Chính phủ

Điều 20 khoản 9, Luật Tổ chức Chính phủ 2001 quy định: Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ: “Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thông qua những báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, trả lời của Chính phủ đối với chất vấn của đại biểu Quốc hội và ý kiến phát biểu với cơ quan thông tin đại chúng”.

Điều 37 quy định: “Thủ tướng ủy nhiệm cho Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thường xuyên thông báo cho các cơ quan thông tin đại chúng về nội dung phiên họp của Chính phủ và các quyết định của Chính phủ, của Thủ tướng”.

Nghị định số 179/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ, quy định cụ thể về thông tin và hoạt động của Chính phủ cho nhân dân.

Điều 40 Quy chế quy định:

(1) Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thông qua các báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, trả lời của thành viên Chính phủ đối với chất vấn của đại biểu Quốc hội, họp báo và ý kiến phát biểu với cơ quan thông tin đại chúng theo quy định tại khoản 9 Điều 20 Luật Tổ chức Chính phủ;

2) Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức họp báo định kỳ hoặc đột xuất để thông tin cho các cơ quan báo chí và nhân dân về các chính sách và quyết định quan trọng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Khi được yêu cầu, các Bộ, cơ quan liên quan tham dự họp báo, trực tiếp phát biểu và chịu trách nhiệm về các nội dung thuộc phạm vi chuyên ngành của mình;

3) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ:

a) Thực hiện tốt quy định về chế độ phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tiếp cận các thông tin chính xác, kịp thời về các sự kiện xảy ra trong ngành, lĩnh vực, địa phương mình.

b) Tổ chức họp báo theo định kỳ, họp báo khi ban hành các văn bản quan trọng, khi triển khai các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, khi có các sự kiện đáng chú ý khác;

(c) Thường xuyên điểm báo và thực hiện việc trả lời báo chí theo quy định của pháp luật…

2.3.2 Nội dung, phạm vi những vấn đề, lĩnh vực cơ quan nhà nước có trách nhiệm công khai trong hoạt động, bảo đảm quyền được biết của công dân trong một số văn bản pháp luật

     Các vấn đề, lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan công quyền, phải công khai, được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

- Phạm vi, nội dung công khai theo quy định của Pháp lệnh dân chủ cơ sở năm 2007. Điều 5 Pháp lệnh liệt kê 11 lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai để dân biết, bao gồm:

1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ph­ương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.

2. Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.

4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.

5. Chủ trư­ơng, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo đư­ợc vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.

6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.

7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.

8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.

9. Đối tư­ợng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu.

10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.

11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.

          - Phạm vi, nội dung công khai theo Luật Kiểm toán năm 2005

Luật Kiểm toán năm 2005 quy định: Công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58). Theo quy định của Luật, Báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước sau khi trình Quốc hội được công bố công khai theo quy định của pháp luật. Tổng Kiểm toán Nhà nước phải tổ chức công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán. 

          Điều 59, Luật Kiểm toán cũng quy định: Công khai báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán sau khi phát hành được công bố công khai cùng với báo cáo tài chính theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và Luật kế toán.

  - Phạm vi, nội dung công khai theo Luật Nhà ở năm 2005

          - Trên lĩnh vực nhà ở, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2006 ngày 13 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở. Theo Nghị định này, UNND cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại trong từng thời kỳ trên phạm vi địa bàn...để người dân có điều kiện được tiếp cận.

- Phạm vi, nội dung công khai theo Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005

          Nội dung nguyên tắc công khai, minh bạch được quy định tại Điều 11 là: Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ.

          Các điều từ 13 đến 30 quy định 18 nội dung các lĩnh vực, cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ công quyền, phải công khai là:

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản; 

- Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản;

- Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong việc huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân;

- Công khai, minh bạch trong việc quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ;

- Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong quản lý sử dụng đất;

- Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng nhà ở;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực y tế;

- Công khai, minh bạch trong khoa học công nghệ;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực thể dục, thể thao;

- Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị cá nhân;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp;

- Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ

Và Điều 33 công khai báo cáo hàng năm về kết quả công tác đấu tranh chống tham nhũng.

Ngoài các nội dung công khai như trên, phạm vi công khai còn được quy định trong các văn bản pháp luật khác như: Luật thực hành tiết kiệm năm 2005; Luật bảo vệ môi trường năm 2005; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Đấu thầu năm 2005; Luật Công nghệ thông tin 2006; Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007; Luật năng lượng nguyên tử năm 2008; Luật Đa dạng sinh học năm 2008…

2.4 Các hình thức công khai thông tin trong hoạt động hành chính nhà nước

Nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta cho thấy, tuỳ thuộc vào nội dung, tính chất của vấn đề mà hình thức công khai có thể khác nhau. Tuy nhiên hình thức phổ biến được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành, đó là: Đăng công báo (yêu cầu bắt buộc đối với các văn bản quy phạm pháp luật); qua các phương tiện thông tin đại chúng; niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước; công bố tại cuộc họp; phát hành ấn phẩm; đưa lêng mạng điện tử của cơ quan; thông báo bằng văn bản; hay thông qua người phát ngôn chính thức của cơ quan, đơn vị...

2.5 Quyền yêu cầu cung cấp thông tin và trách nhiệm, thời hạn cơ quan công quyền phải cung cấp, trả lời

- Luật phòng chống tham nhũng quy định chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin bao gồm: (1) Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của pháp luật; (2) Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; (3) Công dân có quyền yêu cầu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ ban nhân dân  xã, phường, thị trấn đó.

- Về thời hạn: trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu phải cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đó được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức yêu cầu biết và nêu rõ lý do.

- Luật đa dạng sinh học năm 2008, Điều 11 quy định về việc công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước. (1) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được Chính phủ phê duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan có trách nhiệm công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có liên quan công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tại trụ sở Ủy ban nhân dân các cấp có liên quan.

Điều 15 quy định về việc công bố, tổ chức thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. (1) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được Hội đồng nhân dân thông qua, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm công bố quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tại trụ sở Ủy ban nhân dân các cấp có liên quan; (2) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

2.6 Các hình thức xử lý vi phạm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan công quyền

Nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành, mặc dù đã có quy định về nội dung/phạm vi các vấn đề cơ quan công quyền phải công khai minh bạch; thời hạn công khai, trả lời, yêu cầu, nhưng về hình thức xử lý vi phạm, nhất là các chế tài đối với những người có hành vi vi phạm lại chưa có quy định cụ thể.

2.7 Giới hạn của việc công khai thông tin

Quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin là quyền có giới hạn. Điều này có nghĩa là tự do thông tin không phải tất cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và tiếp cận thông tin không đồng nhất với việc cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, tiếp cận tất cả các loại hồ sơ, tài liệu lưu giữ thông tin. Điều 19 khoản 3 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 quy định: Việc thực hiện quyền này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, và do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định do pháp luật quy định. Những giới hạn đó là:

- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng[156].

So sánh với tiêu chuẩn quốc tế, các văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam có liên quan đến nội dung, phạm vi công khai thông tin đều quy định nguyên tắc chung rằng, công khai thông tin trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước.

Điều 11 Luật phòng chống tham nhũng; Luật Bảo vệ môi trường quy định công khai thông tin, dữ liệu về môi trường, trừ các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, phải được công khai

3. Một số nhận xét và kiến nghị

3.1. Nhận xét chung

          Ở nước ta chưa có Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân, tuy vậy, so với các quy định quốc tế về bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin, pháp luật nước ta đang từng bước hoàn thiện theo hướng bảo đảm tính công khai, minh bạch. Điều này có thể thấy rất rõ kể từ khi Chính phủ ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở năm 1998, một số các luật được Quốc hội ban hành sau đó, đều ít nhiều đã có những quy định theo hướng bảo đảm tính công khai, minh bạch trong phạm vi/lĩnh vực hoạt động của cơ quan nhà nước. Điểm đáng chú ý là các văn bản pháp luật được ban hành sau, thì quy định trách nhiệm công khai minh bạch và cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước có phần rõ hơn so với các văn bản ban hành trước. Tuy vậy, các văn bản pháp luật đều mới có hiệu lực, hoặc chỉ được thực hiện trong một vài năm trở lại đây, nên chưa thể đánh giá được tính hiệu quả trong việc thi hành luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Và nếu nhìn vào hiện trạng pháp luật và quá trình thực thi pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy quyền được tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập và có lúc có nơi vẫn bị vi phạm nghiêm trọng.

1. Quyền thông tin là quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định, nhưng thực tế trong những năm qua, do chưa được cụ thể hoá chi tiết, hướng dẫn thi hành nên tính hiệu qủa trong các quy định của pháp luật vẫn kém. Tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan công quyền chưa được thực hiện tốt, nên quyền tiếp cận thông tin của công dân chưa được bảo đảm thực hiện có hiệu quả trên thực tế.

- Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Luật phòng chống tham nhũng mới chỉ quy định nguyên tắc chung: “Việc thụ lý, điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định của pháp luật về tố tụng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Tuy vậy, trên thực tế, các quy định về tính công khai trong hoạt động điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án trong các văn bản pháp luật hiện hành về tố tụng lại chưa cụ thể, rõ ràng. Vấn đề là cần làm rõ như: về tính chất công khai, mức độ công khai, phạm vi công khai, cách thức công khai, cũng như những vùng cấm tiếp cận trong hoạt động tư pháp; hay về quy trình, thủ tục công khai và tiếp cận thông tin trong hoạt động tư pháp nên như thế nào?

- Trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước: Những vấn đề thể hiện rõ nét nhất của tình trạng thiếu công khai, minh bạch là trên lĩnh vực đất đai, đền bù, giải toả, các dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai, về quy hoạch, kế hoạch đô thị...Vì thế, hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật trong cơ quan nhà nước vẫn phổ biến. Điều này dẫn tới hiện tượng khiếu kiện đông người, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp đã xảy ra trong thời gian qua. Một trong những nguyên nhân này, chính là chưa bảo đảm tính công khai, minh bạch, tôn trọng quyền được thông tin của công dân.

2. Các văn bản pháp luật hiện hành đều ít nhiều đã thể chế hoá quyền thông tin của công dân trong Hiến pháp năm 1992, tuy nhiên, các quy định trong luật chuyên ngành cũng mới chỉ dừng lại việc quy định trách nhiệm công khai, minh bạch và cung cấp thông tin về một lĩnh vực cụ thể. Luật phòng chống tham nhũng có liệt kê một loạt lĩnh vực phải công khai, minh bạch, nhưng các quy định mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung về việc công khai, minh bạch, và cũng đã có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin, nhưng chưa có quy định cụ thể về thủ tục, trình tự yêu cầu, hay biện pháp xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước trong trường hợp không công khai thông tin và trách nhiệm cung cấp thông tin cho công chúng. Những bất cập đó đang tồn tại, trong khi các biện pháp chế tài lại chưa có trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Bộ luật Hình sự. Điều này dẫn tới tình trạng các quy định pháp luật về quyền tiếp cận thông tin tuy có, nhưng không/hoặc ít đi vào cuộc sống, quy định vẫn chỉ dừng lại ở quy định khung, do đó cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức nhà nước vẫn chưa thực hiện tốt trách nhiệm của họ và người dân vẫn khó tiếp cận thông tin công.

3. Quyền được thông tin của công dân, theo nghĩa người dân có quyền được biết, quyền tìm kiếm, quyền tiếp nhận, quyền phổ biến, bày tỏ và chia sẻ quan điểm một cách tự do về tất cả các vấn đề mà người dân quan tâm, nếu so với quy định quốc tế về quyền tiếp cận thông tin, pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực này vẫn mờ nhạt. Một số văn bản có quy định, nhưng chưa cụ thể, rõ ràng, bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong toàn bộ hệ thống pháp luật, nên cơ chế thực hiện quyền này trên thực tế vẫn còn rất yếu. Hơn nữa, các quy định pháp luật hiện hành chưa làm rõ chủ thể của quyền tiếp cận thông tin, là tất cả mọi cá nhân, công dân, chứ không chỉ là cung cấp thông tin cho báo chí…Việc liệt kê phạm vi, nội dung các vấn đề cơ quan, tổ chức của nhà nước phải công khai minh bạch trong các luật chuyên ngành là cần thiết, nhưng chắc không bao quát được hết các lĩnh vực/phạm vi hoạt động công quyền; do đó không tránh khỏi sẽ có những lĩnh vực hoạt động công lại  chưa được luật quy định là phải công khai. 

4. Một số văn bản pháp luật quy định cơ quan, tổ chức liên quan, nhất là trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh phải báo cáo cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động, nhưng lại chưa quy định cơ quan quản lý chuyên ngành nắm giữ thông tin đó có trách nhiệm phải công khai cho công chúng biết. Điều này rất dễ dẫn tới sự bưng bít thông tin, hay ém nhẹm thông tin của cơ quan quản lý nhà nước. Thực tế này đã xảy ra nhiều ở nước ta trong thời gian qua, như vụ nước tương có chứa chất 3 – MCPD gây ung thư vượt mức cho phép. Hoặc chất thải nhà máy, gây ô nhiễm môi trường, tác động và ảnh hưởng tới sức khoẻ, đời sống của dân cư xung quanh…

5. Việc pháp luật quy định về chức danh người phát ngôn của các cơ quan nhà nước (theo Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ) là cần thiết, song nhiệm vụ của người phát ngôn chỉ mới là cung cấp thông tin cho báo chí chứ không bao gồm việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu cung cấp thông tin của công chúng nói chung. Thêm vào đó, về cơ bản, hoạt động của người phát ngôn là không thường xuyên, chỉ mang tính định kỳ và theo một số vụ việc nhất định. Chính vì thế cơ chế người phát ngôn chưa thực sự là một giải pháp hữu hiệu để tăng cường, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công chúng ở nước ta hiện nay. 

3.2. Một số khuyến nghị

1. Rà soát các văn bản pháp luật hiện hành trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt các lĩnh vực liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước/lĩnh vực hành chính công và cả trong lĩnh vực tư pháp; từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành theo hướng bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động nhà nước phù hợp với quy chuẩn chung của quốc tế.

2. Trong điều kiện nước ta hiện nay nhằm đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh lấy phục vụ nhân dân là nguyên tắc tối thượng trong hoạt động công vụ, đặt ra yêu cầu cấp bách là nghiên cứu ban hành Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân, trong đó chế định cụ thể nghĩa vụ cung cấp thông tin từ phía các cơ quan nhà nước; người dân có quyền tiếp cận tất cả các thông tin trừ những thông tin thuộc bí mật quốc gia, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh, thông tin ảnh hưởng đến quá trình điều tra các vụ án...Tuy nhiên các quy định hạn chế tiếp cận cần phải được làm rõ, và hạn chế đó phải là cần thiết, khi và chỉ khi các thông tin đó nếu bị tiết lộ sẽ có sự nguy hại đến lợi ích của cộng đồng, nguy hại đến an ninh quốc gia, chủ quyền, ảnh hưởng quan hệ quốc tế, đến phát triển kinh tế, xã hội, hay ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của cá nhân, công dân…

3. Bảo đảm quyền được thông tin của công dân, pháp luật phải quy định cụ thể trình tự, thủ tục bảo đảm quyền được biết, quyền nhận, quyền tiếp cận và quyền phổ biến, chia sẻ thông tin một cách tự do của công dân. Bảo đảm các quyền đó, cần có các quy định cụ thể về yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân, công dân và nghĩa vụ cung cấp thông tin (cung cấp theo yêu cầu, cung cấp định kỳ và cung cấp cả khi không có yêu cầu của người dân); thời hạn cung cấp, lệ phí tiếp cận, khiếu nại, và đặc biệt cần có chế tài xử lý kèm theo khi khước từ cung cấp thông tin cho người dân; hay cung cấp thông tin sai sự thật.

4. Cần nghiên cứu sửa đổi Luật báo chí, theo hướng bảo đảm thực sự quyền tự do ngôn luận trên báo chí; bảo đảm báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng là kênh chuyển tải thông tin chính thức về hoạt động của nhà nước và thể hiện được quan điểm, ý kiến khác nhau của các tầng lớp nhân dân, của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức trên báo chí. Theo đó, báo chí được phán ánh, đưa tải các thông tin khác nhau; không bị truy cứu, bị xét hỏi về nguồn gốc có được thông tin; và nhà báo chỉ phải chịu trách nhiệm về độ trung thực/tính chính xác của thông tin.

5. Bảo đảm quyền được thông tin, cần tăng cường bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân. Hiến pháp năm 1992, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự…đều ít nhiều đã có quy định bảo đảm quyền này, tuy nhiên, các quy định hiện hành vẫn chỉ dừng lại quy định chung, mang tính nguyên tắc và chưa được quy định cụ thể, làm rõ những thông tin nào thuộc đời tư không được tiết lộ. Chính vì thế quyền này, đang bị vi phạm ở nước ta hiện nay; do đó cùng với việc ban hành Luật tiếp cận thông tin cũng cần nghiên cứu và sớm ban hành Luật về bảo vệ bí mật đời tư hay bảo vệ dữ liệu cá nhân.

6. Để bảo đảm thực hiện tốt quyền được thông tin của công dân, cần thiết sửa đổi Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW khoá X. Một trong những nội dung cần sửa là làm rõ cả về mặt thuật ngữ, khái niệm, cấp độ bảo mật, văn bản có chứa đựng thông tin như thế nào mới cần thiết bảo vệ theo chế độ mật; thẩm quyền, quy trình quy định, quy trình bảo mật, quy trình kiểm tra, giám sát như thế nào; kể cả thời hiệu của văn bản được bảo vệ theo chế độ mật cũng cần làm rõ; qua đó nhằm hạn chế việc từ chối trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan công quyền hoặc quy định tài liệu bảo mật một cách tuỳ tiện.

                                      

                                 Chuyên đề 16

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VỀ QUYỀN ĐƯỢC THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

                                                                  PGS-TS Thái Vĩnh Thắng

                                                                  PGS-TS Tường Duy Kiên

1. Quyền tiếp cận thông  thể hiện trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

 Quyền được thông tin hay quyền tiếp cận thông tin được coi là một trong các quyền con người cơ bản đã được Liên hiệp quốc cũng như nhiều tổ chức quốc tế cũng như khu vực công nhận. Phần lớn các quốc gia trên thế giới khi tham gia vào các điều ước quốc tế về quyền con người ở cấp quốc gia và khu vực đều trực tiếp hoặc gián tiếp công nhận, tôn trọng quyền được thông tin của cá nhân. Cho đến nay đã có gần 90 quốc gia trên thế giới ban hành một đạo luật riêng để cụ thể hoá và đảm bảo thực thi quyền tiếp cận thông tin ở quốc gia mình, từ những nước phát triển như Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Mỹ, Pháp, Đức , Nhật Bản cho đến những nước đang phát triển như Thái Lan, Hy Lạp, Geogia, Ba Lan, Rumani, Pakistan hay thậm chí cả những nước có trình độ phát triển thấp như Anbania hay Uganđa. Vào những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 một cuộc cách mạng về quyền được thông tin đã bùng nổ khắp thế giới. Quyền được thông tin ngày nay đã được đa số quốc gia coi đó là một quyền cơ bản của con người và công dân và thông tin được coi là tài sản của quốc gia.

 Ở Việt Nam quyền được thông tin đã được xác định trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên Xã hội chủ nghĩa năm 1991 trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) và được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trong các văn kiện của đảng và pháp luật của nhà nước ta hiện nay chủ yếu sử dụng thuật ngữ “Quyền được thông tin” và thuật ngữ này được sử dụng tương đương như “Quyền tiếp cận thông tin”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 năm 1991 đã xác định: “Đảm bảo quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời, chân thực và bổ ích”. Nghị quyết hội nghị lần thứ 5, ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, quy định: “Hoàn chỉnh các văn bản pháp lụât về văn hoá, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện cơ chế thị trường, ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hoá và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân”. Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành trung ương Đảng khoá X năm 2006 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí đã chính thức đề ra chủ trương: “Đảm bảo công khai minh bạch trong các hoạt động của các cơ quan tổ chức đơn vị”, Nghị quyết yêu cầu “Thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch; bổ sung quy định đảm bảo minh bạch trong quá trình ra quyết định bao gồm cả chính sách, văn bản quy phạm pháp luật và quyết định giải quyết một vụ việc cụ thể  của cơ quan nhà nước các cấp”. Đảng còn chủ trương xem xét sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn sử dụng lao động, ngân sách và tài sản công.

 Thực hiện các nghị quyết nói trên của Đảng pháp luật Việt Nam đã từng bước hoàn thiện các quy định về quyền tiếp cận thông tin trong các văn bản pháp luật khác nhau. Trước hết trong Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quyền được thông tin đã được chính thức ghi nhận: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin…theo quy định của pháp luật” (Điều 69). Trong các Hiến pháp trước đây tuy rằng quyền tiếp cận thông tin chưa được quy định một cách trực tiếp tuy nhiên nhiều quy định cũng đã thể hiện tinh thần của quyền này ví dụ Điều 30 Hiến pháp 1946 đã quy định: “Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của nghị viện”. Nếu xem xét quyền được thông tin với tư cách là một quyền độc lập bao gồm các yếu tố: quyền yêu cầu được biết, được tìm kiếm, được tiếp nhận và phổ biến thì quyền này lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp 1992. Để cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về quyền tiếp cận thông tin, chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Năm 1998, ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/05/1998, được sửa đổi năm 2003 trong đó những việc chính quyền địa phương phải có trách nhiệm thông tin để dân biết những công việc ở địa phương. Trong những năm gần đây Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản Luật trong đó có quy định về công khai, minh bạch, đảm bảo quyền được thông tin của công dân. Hạn chế của pháp luật hiện hành của nhà nước ta về quyền tiếp cận thông tin là chưa có một văn bản Luật riêng quy định về vấn đề này nên quyền được thông tin/ quyền tiếp cận thông tin chưa được quy định một cách đầy đủ, hệ thống và chưa có cơ chế thống nhất đảm bảo thực thi quyền tiếp cận thông tin.

2. Quyền tiếp cận thông tin/ được thông tin  trong các văn bản pháp luật Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

2.1 Quyền được thông tin thể hiện trong Luật xuất bản năm 2004

 Luật xuất bản năm 2004 quy định cho phép các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội và tổ chức khác được thành lập nhà xuất bản (Điều 11) và cho phép các nhà xuất bản được liên kết với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về in hoặc phát hành xuất bản phẩm và tổ chức có tư cách pháp nhân để tổ chức bản thảo, in và phát hành từng xuất bản phẩm (Điều 20). Luật này đã quy định rõ: “Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả; nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm khi xuất bản; không một cơ quan tổ chức cá nhân nào được lợi dụng phổ biến tác phẩm làm thiệt hại lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”;

2.2 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân năm 2003

 Điều 67 Luật tổ chức Quốc hội 2001 quy định: “Quốc hội họp công khai trong trường hợp cần thiết theo đề nghị của chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ quốc hội, Thủ tướng chính phủ hoặc của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu, Quốc hội quyết định họp kín”. Điều 31 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1994 (sửa đổi năm 2003) quy định Hội đồng nhân dân họp công khai. Khi cần thiết Hội đồng nhân dân quyết định họp kín theo đề nghị của chủ tọa kỳ họp hoặc của chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Ngày họp, nơi họp và chương trình họp HĐND phải được thông báo cho nhân dân biết chậm nhất là 5 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản pháp luật của Quốc hội, HĐND các cấp đều phải công khai và đăng trên công báo.

2.3 Trong Bộ luật tố tụng hình sự và tố tụng dân sự

 Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự phải công khai các hoạt động về điều tra. Tuy nhiên trong Bộ luật tố tụng hình sự cũng có quy định về việc miễn trừ tiếp cận thông tin. Tại Điều 124 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Cán bộ điều tra không được tiết lộ bí mật điều tra. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra, điều tra viên, kiểm sát viên phải báo trước cho người tham gia tố tụng, người chứng kiến, không được tiết lộ bí mật điều tra. Việc thông báo này phải được ghi vào biên bản và nếu điều tra viên, kiểm sát viên, người tham gia tố tụng, người chứng kiến tiết lộ bí mật điều tra thì tuỳ theo trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự theo các Điều 263, 264, 286, 287, 327 và 328 của Bộ luật hình sự. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự, toà án phải xét xử công khai, trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, giữ bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì toà án xét xử kín nhưng phải tuyên bố công khai bản án. (Điều 15 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 18 Bộ luật tố tụng hình sự).

2.4 Luật tổ chức chính phủ 2001

 Điều 20, khoản 9 Luật tổ chức chính phủ quy định: “Thủ tướng chính phủ có nhiệm vụ thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thông qua những báo cáo của chính phủ trước quốc hội, trả lời của chính phủ đối với chất vấn của đại biểu quốc hội và trả lời phỏng vấn của các cơ quan thông tin đại chúng”. Theo quy định tại Điều 37, Thủ tướng uỷ nhiệm cho Bộ trưởng, chủ nhiệm văn phòng chính phủ thường xuyên thông báo cho các cơ quan thông tin đại chúng về nội dung phiên họp của chính phủ và các quyết định của chính phủ, của thủ tướng. Nghị định số 179/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 ban hành quy chế làm việc của chính phủ, quy định cụ thể về thông tin, về hoạt động của chính phủ cho nhân dân. Điều 40 của quy chế làm việc của chính phủ đã quy định:

  •  Thủ tướng chính phủ và các thành viên khác của chính phủ có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thông qua các báo cáo của chính phủ trước Quốc hội, trả lời của thành viên chính phủ đối với chất vấn của đại biểu Quốc hội, họp báo và phát biểu ý kiến của chính phủ với cơ quan thông tin đại chúng theo quy định tại Khoản 9, Điều 20 Luật tổ chức chính phủ;
  •  Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức họp báo định kỳ hoặc đột xuất để thông tin cho các cơ quan báo chí và nhân dân về các chính sách và quyết định quan trọng của chính phủ, thủ tướng chính phủ. Khi được yêu cầu, các bộ, cơ quan liên quan tham dự họp báo trực tiếp phát biểu và chịu trách nhiệm về các nội dung thuộc phạm vi chuyên ngành của mình;
  •  Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ: Thực hiện tốt quy định về chế độ phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tiếp cận các thông tin chính xác, kịp thời về các sự kiện xảy ra trong ngành, lĩnh vực địa phương mình;
  •  Tổ chức họp báo theo định kỳ, họp báo khi ban hành các văn bản quan trọng, khi triển khai các chính sách lớn của Đảng và nhà nước, khi có các sự kiện đáng chú ý khác;
  •  Thường xuyên điểm báo và thực hiện việc trả lời báo chí.

2.5  Pháp lệnh dân chủ cơ sở năm 2007

 Điều 5 Pháp lệnh dân chủ cơ sở năm 2007 đã liệt kê 11 lĩnh vực chính quyền địa phương phải công khai để nhân dân biết bao gồm:

  1. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của cấp xã.
  2. Dự án công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
  3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.
  4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
  5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.
  6. Đề án thành lập mới, nhập chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
  7. Kết quả thanh tra, kiểm tra giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm của chủ tịch và phó chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch và phó chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã.
  8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.
  9. Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
  10.  Các quy định về pháp luật của thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
  11.  Những nội dung khác theo quy định của pháp luật theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.

2.6 Luật kế toán năm 2003

 Luật kế toán năm 2003 đã quy định nội dung công khai báo cáo tài chính. Theo Điều 32 của Luật nói trên nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu chi ngân sách nhà nước, cơ quan hành chính đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước và đơn vị sự nghiệp, tổ chức không sử dụng kinh phí, ngân sách nhà nước bao gồm:

  • Đơn vị kế toán thuộc hoạt động thu chi ngân sách nhà nước, công khai quyết toán thu chi ngân sách nhà nước hàng năm;
  • Đơn vị kế toán là cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng kinh phí, ngân sách nhà nước công khai quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước năm và các khoản thu, chi tài chính khác;
  • Đơn vị kế toán là đơn vị sự nghiệp, tổ chức không sử dụng kinh phí, ngân sách nhà nước công khai quyết toán thu, chi tài chính năm;
  • Đơn vị kế toán có sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân công khai mục đích huy động các khoản đóng góp, đối tượng đóng góp, mức huy động, kết quả sử dụng và quyết toán thu chi từng khoản đóng góp;
  • Nội dung công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán thuộc hoạt động kinh doanh gồm: Tình hình tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Kết quả hoạt động kinh doanh; trích lập và sử dụng các quỹ; thu nhập của người lao động. Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán đã được kiểm toán khi công khai phải kèm theo kết luận của tổ chức kiểm toán.

2.7 Luật kiểm toán năm 2005

   Luật kiểm toán năm 2005 quy định công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán (Điều 58). Theo quy định của Luật nói trên báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị của kiểm toán nhà nước sau khi trình Quốc hội được công bố công khai theo quy định của pháp luật. Tổng kiểm toán nhà nước phải tổ chức công khai báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận kiến nghị kiểm toán. Theo quy định tại Điều 59 Luật kiểm toán, báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán sau khi phát hành được công bố công khai cùng với báo cáo tài chính theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và Luật kế toán.

2.8 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005

   Theo quy định tại Điều 11, để phòng chống tham nhũng, các chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện phải công khai, minh bạch, đảm bảo công bằng dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của chính phủ. Theo Luật phòng chống tham nhũng 2005, 18 nội dung các lĩnh vực cần phải công khai, minh bạch là:

  • Mua sắm công và xây dựng cơ bản;
  • Quản lý, đầu tư xây dựng cơ bản;
  • Tài chính và ngân sách nhà nước;
  • Huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân;
  • Quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ;
  • Quản lý doanh nghiệp nhà nước;
  • Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước;
  • Kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước;
  • Quản lý sử dụng đất;
  • Lĩnh vực giáo dục;
  • Lĩnh vực y tế;
  • Khoa học công nghệ;
  • Thể dục thể thao;
  • Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, kiểm toán nhà nước;
  • Giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân;
  • Lĩnh vực tư pháp;
  • Công tác tổ chức cán bộ;

2.9 Luật chứng khoán

   Theo Điều 101, cần công bố các thông tin sau của công ty đại chúng:

1. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày có báo cáo tài chính năm được kiểm toán, công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính năm theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 16 của Luật này.

2. Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn hai mươi bốn giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

  1.  Tài khoản của công ty tại ngân hàng bị phong toả hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong toả;
  2.  Tạm ngừng kinh doanh;
  3.  Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc Giấy phép hoạt động;
  4.  Thông qua các quyết định của Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại Điều 104 của Luật doanh nghiệp;
  5.  Quyết định của Hội đồng quản trị về việc mua lại cổ phiếu của công ty mình hoặc bán lại số cổ phiếu đã mua; về ngày thực hiện quyền mua cổ phiếu của người sở hữu trái phiếu kèm theo quyền mua cổ phiếu hoặc ngày thực hiện chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi sang cổ phiếu và các quyết định liên quan đến việc chào bán theo quy định tại khoản 2 Điều 108 của Luật doanh nghiệp;
  6.  Có quyết định khởi tố đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc , Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng của công ty; có bản án, quyết định của Toà án liên quan đến hoạt động của công ty; có kết luận của cơ quan thuế về việc công ty vi phạm pháp luật về thuế.

3. Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn bảy mười hai giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

  1. Quyết định vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ ba mươi phần trăm vốn thực có trở lên;
  2. Quyết định của Hội đồng quản trị về chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; quyết định thay đổi phương pháp kế toán áp dụng;
  3. Công ty nhận được thông báo của Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp.

4. Công ty đại chúng phải công bố thông tin theo yêu cầu của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước khi xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

  1. Có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư;
  2. Có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán và cần phải xác nhận thông tin đó.

 Theo Điều 102 của Luật này, quy định công bố thông tin của tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng:

1. Tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng Phải công bố thông tin định kỳ theo quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật này.

2. Tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn bảy mươi hai giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện quy định tại các điểm a, b và c khoản 2 và khoản 3 Điều 101 của Luật này.

 Ngoài ra, Luật chứng khoán còn quy định về công bố thông tin của tổ chức niêm yết (Điều 103); quy định về công bố thông tin của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ (Điều 104); công bố thông tin về quỹ đại chúng (Điều 105); quy định về công bố thông tin của công ty đầu tư chứng khoán (Điều 106).

2.10 Luật doanh nghiệp

   Điều 28 của Luật này quy định về công bố nội dung đăng ký kinh doanh:

1. Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp về các nội dung chủ yếu sau đây:

  1. Tên doanh nghiệp;
  2. Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện;
  3. Ngành, nghề kinh doanh;
  4. Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; số cổ phần và giá trị vốn cổ phần đã góp và số cổ phần được quyền phát hành đối với công ty cổ phần; vốn đầu tư ban đầu đối với doanh nghiệp tư nhân; vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định;
  5. Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của chủ sở hữu, của thành viên hoặc cổ đông sáng lập;
  6. Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
  7. Nơi đăng ký kinh doanh.

2. Trong trường hợp thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải công bố nội dung những thay đổi đó trong thời hạn và theo phương thức quy định tại khoản 1 Điều này.

2.11 Luật quy hoạch đô thị

-  Điều 9 của Luật này quy định về lưu trữ, lưu giữ hồ sơ đồ án quy hoạch đô thị.  Hồ sơ đồ án quy hoạch đô thị đã được phê duyệt phải được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ. Cơ quan quản lý về quy hoạch đô thị, cơ quan quản lý đất đai các cấp có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ đồ án quy hoạch đô thị và cung cấp tài liệu về đồ án quy hoạch đô thị cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.

-  Điều 16 quy định các hành vi bị cấm. Trước hết là cấm  “Từ chối cung cấp thông tin, trừ trường hợp thông tin thuộc bí mật nhà nước; cung cấp sai thông tin về quy hoạch đô thị”.

 - Điều 53 quy định về công bố công khai quy hoạch đô thị, theo đó trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được phê duyệt, đồ án quy hoạch đô thị phải được công bố công khai bằng các hình thức sau đây:

  1. Trưng bày thường xuyên, liên tục bản vẽ, mô hình tại trụ sở cơ quan quản lý nhà nước các cấp có liên quan về quy hoạch đô thị, trung tâm triển lãm và thông tin về quy hoạch đô thị và tại khu vực được lập quy hoạch;
  2. Thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng;
  3. In thành ấn phẩm để phát hành rộng rãi.

 Nội dung công bố công khai gồm các nội dung cơ bản của đồ án và Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị đã được ban hành, trừ những nội dung liên quan đến quốc phòng, an ninh, bí mật quốc gia. Cơ quan quản lý quy hoạch đô thị có trách nhiệm cập nhật đầy đủ tình hình triển khai thực hiện đồ án quy hoạch đô thị đã được phê duyệt để cơ quan có thẩm quyền công bố công khai kịp thời cho các tổ chức, cá nhân biết và giám sát thực hiện.

-  Điều 54 quy định về trách nhiệm công bố công khai quy hoạch đô thị, theo đó Uỷ ban nhân dân thành phố, thị xã, thị trấn phải công bố công khai đồ án quy hoạch chung được lập cho thành phố, thị xã, thị trấn do mình quản lý. Uỷ ban nhân dân quận, huyện thuộc thành phố trực thuộc trung ương, Uỷ ban nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn có trách nhiệm công bố công khai đồ án quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết được lập cho các khu vực thuộc phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý.

2.12 Luật xây dựng

  Điều 32 Luật xây dựng quy định về công bố quy hoạch xây dựng theo đó cần phải lấy ý kiến nhân dân và công bố những vấn đề sau đây:

- Trong quá trình lập kế hoạch chi tiết xây dựng phải lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân liên quan theo nhiệm vị của từng loại quy hoạch xây dựng.

- Trong thời hạn ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch xây dựng. Uỷ ban nhân dân các cấp phải công bố rộng rãi quy hoạch chi tiết xây dựng trong phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý để tổ chức, cá nhân trong khu vực quy hoạch biết, kiểm tra và thực hiện. Đối với việc công bố quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch chung xây dựng do người thẩm quyền phê duyệt quyết định về nội dung công bố.

-  Người có trách nhiệm công bố quy hoạch xây dựng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc không thực hiện hoặc thực hiện chậm việc công bố quy hoạch gây thiệt hại về kinh tế khi giải phóng mặt bằng để đầu tư xây dựng công trình.

- Đối với quy hoạch chi tiết xây dựng được duyệt, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công bố mà chưa thực hiện hoặc thực hiện không đạt yêu cầu của quy hoạch chi tiết xây dựng được duyệt thì người có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng phải có trách nhiệm áp dụng các biện pháp khắc phục và thông báo cho tổ chức cá nhân trong khu vực quy hoạch biết. Trường hợp quy hoạch chi tiết xây dựng không thể thực hiện được thì phải điều chỉnh hoặc huỷ bỏ và công bố lại theo quy định của pháp luật.

 Theo quy định tại Điều 33 cơ quan có thẩm quyền phải cung cấp thông tin về quy hoạch xây dựng:

- Cơ quan quản lý về xây dựng các cấp chịu trách nhiệm cung cấp thông tin, chứng chỉ quy hoạch xây dựng cho các chủ đầu tư xây dựng công trình khi có nhu cầu xây dựng theo phạm vi được phân cấp quản lý.

- Việc cung cấp thông tin được thực hiện dưới các hình thức sau đây: Công khai đồ án quy hoạch xây dựng bao gồm sơ đồ, mô hình, bản vẽ quy hoạch xây dựng; giải thích quy hoạch xây dựng; cung cấp chứng chỉ quy hoạch xây dựng.

- Chứng chỉ quy hoạch xây dựng bao gồm các thông tin về sử dụng đất, các quy hoạch về hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, về kiến trúc, về an toàn phòng chống cháy, nổ; bao vệ môi trường và các quy định khác theo quy hoạch chi tiết xây dựng.

2.13 Luật đấu thầu

  Theo quy định tại Điều 5 Luật đấu thầu, các thông tin sau đây về đấu thầu phải được đăng tải trên tờ báo về đấu thầu và trang thông tin điện tử về đấu thầu của các cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu:

  1. Kế hoạch đấu thầu;
  2. Thông báo mời sơ tuyển, kết quả sơ tuyển;
  3. Thông báo mời thầu đối với đấu thầu rộng rãi;
  4. Danh sach nhà thầu đươợ mời tham gia đấu thầu;
  5. Kết quả lựa chọn nhà thầu;
  6. Thông tin xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu;
  7. Văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu hiện hành;
  8. Các thông tin liên quan khác.

- Các thông tin quy định tại khoản 1 Điều này sau khi được đăng tải trên tờ báo về đấu thầu và trang thông tin điện tử về đấu thầu có thể đăng tải trên các phương tin thông tin đại chúng khác để tạo thuận tiện trong việc tiếp cận của các tổ chức và cá nhân có quan tâm.

Điều 7 của Luật quy định về Báo Đấu thầu và trang thông tin điện tử về đấu thầu, theo đó việc đăng tải thông tin về đấu thầu quy định tại Điều 5 của Luật Đấu thầu được thực hiện miễn phí đối với các cơ quan, tổ chức gửi thông tin về đăng tải và báo Đấu thầu được phát hành hàng ngày.

Điều 7 Luật đấu thầu cũng quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin

+ Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan khác ở Trung ương và Uỷ ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm cung cấp thông tin nêu tại điểm g và điểm h khoản 1 Điều 5 của Luật đấu thầu.

+ Chủ đầu tư, bên mời thầu chịu trách nhiệm cung cấp các thông tin nêu từ điểm a đến điểm e và điểm h khoản 1 Điều 5 của Luật Đầu thầu.

  1. Thời hạn cung cấp thông tin

 Đối với thông báo mời sơ tuyển, thông báo mời thầu, thông báo mời nộp hồ sơ quan tâm, thông báo mời chào hàng, thời hạn cung cấp thông tin chậm nhất là 5 ngày trước ngày dự kiến đăng tải các thông tin này. Đối với các thông tin còn lại quy định tại khoản 1 Điều 5 của Luật Đấu thầu, thời hạn cung cấp thông tin chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày ký văn bản.

Việc cung cấp thông tin và lộ trình đăng tải thông tin về đấu thầu trên Báo Đấu thầu và trên trang thông tin điện tử về đấu thầu được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

2.14  Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng

   - Điều 14  Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng quy định: “Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có đăng ký kinh doanh phải đăng ký, công bố tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật và thực hiện đúng cam kết với người tiêu dùng; phải thường xuyên kiểm tra về an toàn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, thực hiện việc cân, đong, đo, đếm chính xác.

-  Điều 15 quy định: “Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải thông tin, quảng cáo chính xác và trung thực về hàng hoá, dịch vụ; niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ; công bố điều kiện, thời hạn, địa điểm bảo hành và hướng dẫn sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình cho người tiêu dùng”.

2.15 Luật nhà ở

   Điều 31 của Luật này quy định về quy hoạch phát triển nhà ở: “Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải công bố công khai quy hoạch phát triển nhà ở, các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cụ thể đối với từng dự án phát triển nhà ở”.

 Điều 36 quy định về Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân phát triển nhà ở thương mại: “Công khai tại trụ sở Ban quản lý dự án, địa điểm có dự án và trên phương tiện thông tin đại chúng về quy hoạch chi tiết của dự án, số lượng nhà ở bán, cho thuể; số lượng nhà ở đã bán, cho thuê; số lượng nhà ở còn lại; giá bán, giá cho thuê; phương thức thanh toán; thủ tục đăng ký mua, thuê nhà ở, điều kiện được mua, thuê nhà ở”.

 Điều 50 quy định về Chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở xã hội: “Chủ đầu tư có trách nhiệm sau đây: Công khai, minh bạch quy hoạch chi tiết của dự án, số lượng nhà ở, số lượng nhà ở đã cho thuê và cho thuê mua, số lượng nhà ở còn lại, giá cho thuê, nội dung đăng ký thuê, thuê mua nhà ở và thủ tục ký hợp đồng thuê, thuê mua nhà ở tại trụ sở của chủ đầu tư và trên phương tiện thông tin đại chúng;

2.16 Luật đất đai

  Điều 28 Luật đất đai quy định về việc công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, theo đó trong thời hạn không quá ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định hoặc xét duyệt, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được công bố công khai theo quy định sau đây:

  • Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm công bố công khai quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết của địa phương tại trụ sở Uỷ ban nhân dân;
  • Cơ quan quản lý đất đai các cấp có trách nhiệm công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương tại trụ sở cơ quan và trên các phương tiện thông tin đại chúng;
  • Việc công bố công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân và cơ quan quản lý đất đai được thực hiện trong suốt thời gian của kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có hiệu lực.

 Điều 56  Luật đất đai quy định về việc công khai giá đất do Nhà nước quy định, theo đó giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định được công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 hàng năm được sử dụng làm căn cứ để tính thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; tính tiền sử dụng đất và tiền thuê đất khi giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất; tính giá trị quyền sử dụng đất khi giao đất không thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; tính tiền bồi thường đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà nước.

2.17 Luật hoạt động chữ thập đỏ

Điều 19  Tiếp nhận, quản lý, sử dụng tiền, hiện vật từ tổ chức, cá nhân và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho hoạt động chữ thập đỏ

  • Hội Chữ thập đỏ có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý, sử dụng tiền, hiện vật từ các tổ chức, cá nhân và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước phục vụ hoạt động chữ thập đỏ.
  • Hội Chữ thập đỏ phối hợp với Uỷ ban nhân dân các cấp kịp thời lập danh sách và tổ chức trao tiền, hiện vật cho đối tượng cần cứu trợ, trợ giúp.
  • Việc quản lý, sử dụng tiền, hiện vật do vận động, quyên góp, tiếp nhận phải bảo đảm đúng mục đích, đúng đối tượng theo quy định của pháp luật và phải được công khai, minh bạch theo quy định tại Điều 21 của Luật này.

 Điều 21 Công khai, minh bạch trong vận động, quyền góp, tiếp nhận, quản lý và sử dụng tiền, hiện vật cho hoạt động chữ thập đỏ

  • Việc quyền góp, tiếp nhận, quản lý, sử dụng tiền, hiện vật từ tổ chức, cá nhân cho hoạt động chữ thập đỏ phải được công khai, minh bạch và phải chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật.
  • Nội dung phải công khai, minh bạch bao gồm mục đích vận động, quyên góp, kết quả vận động, quyên góp, việc sử dụng, kết quả sử dụng và báo cáo quyết toán.
  • Thời điểm công khai được quy định như sau:
    1. Mục đích vận động, quyên góp phải được công khai trước khi tiến hành vận động, quyền góp;
    2. Kết quả vận động, quyên góp phải được công khai trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kết thúc việc vận động, quyên góp;
    3. Việc sử dụng, kết quả sử dụng tiền, hiện vật và báo cáo quyết toán phải được công khai trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày báo cáo quyết toán được phê duyệt;

2.18 Luật sở hữu công nghiệp

    Điều 99 Luật sở hữu công nghiệp quy định về việc công bố các quyết định liên quan đến văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, theo đó “Quyết định cấp, chấm dứt, huỷ bỏ, sửa đổi văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp  được cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định”.

2.19 Luật đặc xá

    Điều 9 Luật đặc xá quy định về việc Công bố và thông báo Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước, theo đó Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước được công bố và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau khi Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước được công bố thì Quyết định này được niêm yết tại trại giam, trại tạm giam.

 Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị đặc xá  được quy định tại Điều 15, theo

đó Giám thị trại giam, Giám thị trại giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có trách nhiệm rà soát, lập danh sách và hồ sơ người đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều hiện đề nghị đặc xá theo quy định của pháp luật, thông báo, niêm yết công khai danh sách người được đề nghị đặc xá tại trại giam, trại tạm giam và làm văn bản đề nghị Bộ truởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét.

2.20 Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá

 Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá  quy định về  việc Công bố tiêu chuẩn áp dụng (Điều 23), theo đó  người sản xuất, người nhập khẩu tự công bố các đặc tính cơ bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hoá hoặc một trong các phương tiện sau đây:

  1. Bao bì hàng hoá;
  2. Nhãn hàng hoá;
  3. Tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hoá.

 Nội dung của tiêu chuẩn công bố áp dụng không được trái với yêu cầu của quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Điều 24  của luật này quy định về việc công bố sự phù hợp của hàng hoá giao lưu với chuẩn mực yêu cầu, theo đó người sản xuất có nghĩa vụ phải thông báo sản phẩm của mình phù hợp với tiêu chuẩn (sau đây gọi là công bố hợp chuẩn) hoặc với quy chuẩn kỹ thuật (sau đây gọi là công bố hợp quy). Việc công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy được thực hiện theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.

  Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá tại Điều 30 đã quy định về việc  xử lý vi phạm trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất. Trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất, khi phát hiện người sản xuất không thực hiện đúng các yêu cầu về tiêu chuẩn công bố áp dụng , quy chuẩn kỹ thuật tương ứng đối với sản phẩm và điều kiện liên quan đến quá trình sản xuất thì việc xử lý được thực hiện theo quy định sau đây:

  1. Đoàn kiểm tra yêu cầu người sản xuất thực hiện các biện pháp khắc phục, sửa chữa để bảo đảm chất lượng sản phẩm trước khi đưa ra thị trường;
  2. Sau khi có yêu cầu của đoàn kiểm tra mà người sản xuất vẫn tiếp tục vi phạm thì cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày có kết luận về vi phạm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng tên, địa chỉ của người sản xuất, tên sản phẩm không phù hợp và mức độ không phù hợp của sản phẩm;
  3. Sau khi bị thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng mà người sản xuất vẫn tiếp tục vi phạm thì cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

 Trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất, mà kết quả thử nghiệm khẳng định sản phẩm không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng đe doạ đến sự an toàn của người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường thì cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, tạm đình chỉ sản xuất sản phẩm không phù hợp và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

2.21 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật

   Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 35 đã quy định về

việc lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, theo đó  trong quá trình soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Cơ quan soạn thảo nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; đăng tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là 60 ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến. Theo quy định tại Điều 57 của luật này Chủ tịch nước ban hành lệnh để công bố luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày luật, pháp lệnh, nghị quyết được thông qua.

 Việc xây dựng lệnh, quyết định của Chủ tịch nước cũng phải đảm bảo yêu

cầu công khai, tuỳ theo nội dung của các văn bản này Chủ tịch nước quyết định việc đăng tải toàn văn trên Trang thông tin điện tử của cơ quan soạn thảo. Việc đăng tải dự thảo phải bảo đảm thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia ý kiến.

 Theo quy định tại Điều 59, việc lập chương trình xây dựng Nghị định của Chính phủ cũng phải được Văn phòng Chính phủ đăng tải dự kiến chương trình trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến. Điều 62  quy  định về việc lấy ý kiến đối với dự thảo Nghị định, theo đó  trong quá trình soạn thảo Nghị định, cơ quan chủ

trì soạn thảo  phải lấy ý kiến của Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Cơ quan soạn thảo nêu các vấn đề cần xin ý kiến và xác  định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến đóng góp; đăng tải toàn văn bản trên trang thông tin điện tử của Chính phủ  hoặc của cơ quan  chủ trì soạn thảo  trong thời gian ít nhất 60 ngày để cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến. Đối với việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật khác như Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết của  Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước, Nghị quyết liên tịch cũng đòi hỏi phải đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan chủ trì soạn thảo  it nhất 60 ngày trước ngày ban hành để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp ý kiến.

 

                                               Chuyên đề 17

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VÀ YÊU CẦU ĐẢM BẢO QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN

                                                                             PGS-TS Thái Vĩnh Thắng

                                                                                  Đại học luật Hà Nội

 Nhà nước pháp quyền ( Rule of law, the State based on law) là  một mô hình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà  nước phổ biến trong thời kỳ đương đại. Nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng  tôn pháp luật, coi pháp luật không những là công cụ để nhà nước quản lý đời sống xã hội mà còn coi pháp luật là công cụ giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước, công cụ để nhân dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhà nước pháp quyền là thành quả đấu tranh lâu dài của tư tưởng dân chủ và đã trở thành giá trị văn hoá chung của nhân loại. Xây dựng nhà nước pháp quyền trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay.  Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã quy định: “Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công dân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Nhà nước pháp  quyền XHCN với đặc tính là đề cao vị trí tối thượng của pháp luật (Rule of law)  có mục đích  xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh  tuân theo  các nguyên tắc cơ bản sau đây:

     -    Tất cả quyền lực nhà nước  xuất phát từ nhân dân, chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân;

  • Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và Luật.
  •  Thực hiện sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nướ, chống sự tha hoá và lạm dụng quyền lực nhà nước;
  • Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có tốc độ tăng trưởng bền vững;
  • Bảo vệ thiên nhiên và môi trường;
  • Thực hiện tốt chính sách  an sinh xã hội;
  • Chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước;
  • Thực hiện nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật;
  • Thực hiện nền dân chủ XHCN, bảo vệ các và quyền con người và quyền công dân.

   Việc xây dựng nhà nước pháp quyền có mối quan hệ mật thiết với việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân. Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân là điều kiện tiên quyết để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thực hiện quyền làm chủ của mình. Điều này phù hợp với việc thiết lập các nguyên tắc  quan trọng nhất và cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền.

 1. Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin là điều kiện cần thiết để thực hiện nguyên tắc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân

 Trong một nhà nước khi nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân  dân, chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân  thì điều đó có nghĩa là nhân dân thành lập nên chính quyền nhà nước, nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước và nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Điều này có thể  diễn giải theo một cách khác là xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân ( the State of the people  by the people for the people) và mọi công việc quan trọng của nhà nước “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Một chuyên gia nước ngoài về pháp luật về tiếp cận thông tin đã phân tích rất đúng khi viết rằng: “ dân biết nhờ có thông tin, dân bàn nhờ có thông tin, dân làm nhờ có thông tin, dân kiểm tra nhờ có thông tin”. Như vậy, có thể thấy rằng, nếu người dân thiếu thông tin thì phương châm: “dân biết, dân bàn , dân làm, dân kiểm tra” khó có thể thực hiện được.

Trong việc xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ta có thể hình dung rất rõ ràng nhờ có thông tin đầy đủ người dân mới có thể lựa chọn người xứng đáng bầu vào các cơ quan quyền lực  nhà nước. Nhờ có thông tin đầy đủ, người dân  có thể tham gia đóng góp ý kiến vào các quyết sách, các dự luật của nhà nước, có thể thể hiện đúng đắn các ý kiến của mình khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý. Nhờ có thông tin đầy đủ người dân có thể  tham gia kiểm soát các hoạt động của nhà nước, có thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo khi cần thiết. Nhờ có thông tin đầy đủ, người dân có thể giải quyết các công việc quan trọng trong cuộc  sống mà không mắc phải sai lầm như chọn trường để học, chọn nghề để làm,  lấy vợ, lấy chồng, mua sắm động sản, bất động sản, nhờ đó mà có khả năng tốt nhất tạo nên cuộc sống tốt đẹp cho mình và đóng góp cho xã hội.

2. Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin để xây dựng chính quyền trong sạch, không tham nhũng

  Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin cho công dân đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải công khai minh bạch các hoạt động của mình do đó hạn chế được nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước.

  Theo Điều 11 Luật phòng  chống tham nhũng  thì “ Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật phải được công khai, minh bạch, đảm bảo công bằng, dân chủ” và “ cơ quan, tổ chức, đơn vị  phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ”.  Hình thức công khai  thông tin bao gồm:

  • Công bố tại cuộc họp của tổ chức, đơn vị;
  • Niêm yết tại trụ sở làm việc của tổ chức, đơn vị;
  •  Thông báo bằng văn bản đến tổ chức, đơn vị. cá nhân có liên quan;
  •  Phát hành ấn phẩm;
  •  Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
  •  Đưa lên trang thông tin điện tử;
  • Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Luật phòng chống tham nhũng, tại các Điều 13, 14, 15, 16, 17, 18,19,20, 21, 22, 23,24,25,26,27,28,29,30 liệt kê các lĩnh vực cần phải công khai minh bạch cho người dân được biết bao gồm 18 lĩnh vực:

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản; 

- Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản;

- Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong việc huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân;

- Công khai, minh bạch trong việc quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ;

- Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong quản lý sử dụng đất;

- Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng nhà ở;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực y tế;

- Công khai, minh bạch trong khoa học công nghệ;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực thể dục, thể thao;

- Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị cá nhân;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp;

- Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ.

2.1. Công khai minh bạch trong lĩnh vực mua sắm công và xây dựng cơ bản

Tại Điều 13 Luật phòng chống tham nhũng đã quy định cụ thể về vấn đề

công khai minh bạch trong lĩnh vực mua sắm công như sau:

  • Việc mua sắm công và xây dựng cơ bản phải được công khai theo quy định của pháp luật.
  • Trường hợp mua sắm công và xây dựng cơ bản mà pháp luật quy định phải đấu thầu thì nội dung công khai bao gồm:

a, Kế hoạch đấu thầu, mời sơ tuyển và kết quả sơ tuyển, mời thầu;

b, Danh mục các nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế, danh sách ngắn nhà đầu thầu tham gia đấu thầu hạn chế, kết quả lựa chọn nhà thầu;

c, Thông tin về cá nhân, tổ chức thuộc chủ dự án, bên mời thầu, nhà thầu, cơ quan quản lý hoặc đối tượng khác vi phạm pháp luật về đấu thầu; thông tin về nhà thầu bị cấm tham gia và thông tin về xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu;

d, Văn bản quy phạm, pháp luật về đấu thầu, hệ thống thông tin dữ liệu về đấu thầu;

đ, Báo cáo tổng kết công tác đấu thầu trên phạm vi toàn quốc của bộ kế hoạch đầu tư; báo cáo tổng kết công tác đấu thầu của bộ, ngành, địa phương và cơ sở;

e, Thẩm quyền thủ tục tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong đấu thầu.

Điều 14 Luật chống tham nhũng năm 2005 đã quy định về công khai minh bạch trong quản lý đầu tư xây dựng như sau:

  • Dự án quy hoạch đầu tư xây dựng phải được lấy ý kiến của nhân dân, địa phương nơi quy hoạch;
  • Dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách địa phương phải được Hội đồng nhân dân xem xét quyết định;
  • Dự án đầu tư xây dựng sau khi được quyết định, phê duyệt phải được công khai để nhân dân giám sát.

2.2 . Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước

Việc công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước được Luật chống tham nhũng quy định tại Điều 15 bao gồm các vấn đề sau đây:

  • Các cấp ngân sách, đơn vị dự toán ngân sách phải công khai chi tiết số liệu dự toán và quyết toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê chuẩn, kể cả khoản ngân sách bổ sung;
  • Đơn vị dự toán ngân sách có nguồn thu và các khoản chi từ các khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật phải công khai mục đích huy động, kết quả huy động và hiệu quả việc sử dụng các nguồn huy động.
  • Tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ phải công khai các nội dung sau đây:

a, Số liệu dự toán, quyết toán;

b, Các khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân (nếu có);

c, Cơ sở xác định mức hỗ trợ và số tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ.

Dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước phải công khai các nội dung sau đây:

a, Việc phân bổ vốn đầu tư trong dự toán ngân sách nhà nước được giao hàng năm cho các dự án;

b, Dự toán ngân sách của dự án đầu tư theo kế hoạch đầu tư được duyệt, mức vốn đầu tư của dự án được giao trong dự toán ngân sách năm;

c, Quyết toán vốn đầu tư của dự án vốn hàng năm; quyết toán vốn đầu tư khi dự án hoàn thành đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Quỹ có từ nguồn ngân sách nhà nước phải công khai các nội dung sau đây:

a, Quy chế hoạt động và cơ chế tài chính của quỹ;

b, Kế hoạch tài chính hàng năm trong đó có chi tiết các khoản thu, chi, có quan hệ với ngân sách nhà nước theo quy định của cấp có thẩm quyền;

c, Kết quả hoạt động của quỹ;

d, Quyết toán năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Việc phân bổ sử dụng ngân sách tài sản của nhà nước cho các dự án, chương trình mục tiêu đã được nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt phải công khai cho cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan và nhân dân nơi trực tiếp thụ hưởng biết.

2.3. Công khai minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản thu đóng góp của nhân dân

 Việc công khai minh bạch huy động và sử dụng các khoản thu đóng góp của nhân dân được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 16 bao gồm các vấn đề sau đây:

  • Việc huy động các khoản đóng góp của nhân dân để đầu tư xây dựng công trình, lập quỹ trong phạm vi địa phương phải lấy ý kiến nhân dân và được hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét quyết định;
  • Việc huy động sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định trên đây phải được công khai để nhân dân giám sát và phải chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật;
  • Nội dung phải công khai bao gồm mục đích huy động, mức đóng góp, việc sử dụng, kết quả sử dụng và báo cáo quyết toán.
  • Công trình cơ sở hạ tầng tại xã, phường, thị trấn sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân phải công khai các nội dung sau đây:

a, Nội dung phải công khai quy định là mục đích huy động, mức đóng góp, việc sử dụng, kết quả sử dụng và báo cáo quyết toán;

b, Dự toán cho từng công trình theo kế hoạch đầu tư được duyệt;

c, Nguồn vốn đầu tư cho từng công trình;

d, Kết quả huy động của từng đối tượng cụ thể, thời gian huy động;

đ, Kết quả lựa chọn nhà thầu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;

e, Tiến độ thi công và kết quả nghiệm thu khối lượng, chất lượng công trình và quyết toán công trình.

Việc huy động sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân vì mục đích từ thiện, nhân đạo cũng phải được công khai để nhân dân giám sát và phải chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật như quy định về công trình cơ sở, hạ tầng tại xã, phường, thị trấn sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân.

Việc công khai minh bạch, quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ được Luật chống tham nhũng quy định tại Điều 17, theo đó việc quản lý, phân bổ, sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được thực hiện theo quy định về công khai minh bạch tài chính và ngân sách nhà nước quy định tại Điều 15 Luật chống tham nhũng.

Đối với các khoản viện trợ phi chính phủ phải được công khai cho các đối tượng thụ hưởng biết.

2.4. Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của nhà nước

   Việc công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của nhà nước được quy định trong Luật chống tham nhũng tại Điều 18. Theo quy định tại Điều này doanh nghiệp của nhà nước có trách nhiệm công khai vốn và tài sản của nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, vốn vay ưu đãi, báo cáo tài chính và kết quả kiểm toán, việc trích, lập và sử dụng quỹ của doanh nghiệp, việc tuyển dụng lao động, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp và nội dung khác theo quy định của pháp luật.

2.5.Công khai minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp của nhà nước

   Việc công khai minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp của nhà nước được quy định trong Luật chống tham nhũng năm 2005 tại Điều 19. Theo quy định tại Điều này việc cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước phải công khai, minh bạch, không cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. Doanh nghiệp được cổ phần hoá có trách nhiệm công khai thực trạng tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm công khai giá trị doanh nghiệp được cổ phần hoá và việc điều chỉnh giá trị doanh nghiệp (nếu có). Việc bán cổ phần lần đầu của doanh nghiệp được cổ phần hoá phải thực hiện bằng phương thức bán đấu giá.

2.6. Kiểm toán sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước

   Việc kiểm toán sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước được Luật chống tham nhũng quy định tại Điều 20, theo đó cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thực hiện kiểm toán và chịu sự kiểm toán việc sử dụng ngân sách tài sản nhà nước theo quy định của pháp luât về kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải được công khai theo các hình thức đã quy định tại Điều 12 của Luật chống tham nhũng.

2.7.Công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng ngân sách

  Việc công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng ngân sách được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 21 theo đó việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải bảo đảm dân chủ và công khai. Trong quá trình lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết, cơ quan, tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch đó phải thông báo công khai cho nhân dân địa phương nơi được quy hoạch, điều chỉnh biết. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết, việc giải phóng mặt bằng, giá đền bù khi thu hồi đất sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt hoặc điều chỉnh phải được công khai. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quy hoạch chi tiết và việc phân lô đất ở, đối tượng được giao đất làm nhà ở phải được công khai.

2.8. Công khai minh bạch trong quản lý sử dụng nhà ở

   Việc công khai minh bạch trong quản lý sử dụng nhà ở được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 22. Theo quy định tại Điều này thẩm quyền, trình tự, thủ tục và việc cấp giấy phép xây dựng nhà ở và giấy chứng nhận quyền sở hữu phải được công khai, việc hoá giá nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, đối tượng được hoá giá nhà ở và các khoản tiền phải nộp khi hoá giá nhà ở phải được công khai. Việc bán nhà ở cho người tái định cư, người có thu nhập thấp và những đối tượng ưu tiên khác phải được công khai.

2.9. Công khai minh bạch trong lĩnh vực giáo dục

   Việc công khai minh bạch trong lĩnh vực giáo dục được Luật chống tham nhũng quy định tại Điều 23, theo đó việc tuyển sinh, thi, kiểm tra, cấp văn bằng, chứng chỉ phải được công khai. Cơ quản quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục có sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước phải công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước, việc thu, quản lý sử dụng học phí, lệ phí tuyển sinh, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, các khoản hỗ trợ, đầu tư cho giáo dục và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

2.10. Công khai minh bạch trong lĩnh vực y tế

   Việc công khai minh bạch trong lĩnh vực y tế được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 24. Theo quy định tại Điều này, thẩm quyền, trình tự thủ tục và việc cấp, thu hồi chứng chỉ hành nghề y dược, tư nhân, giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề cho các cơ sở hành nghề y, dược phải được công khai. Cơ quan quản lý y tế, cơ sở khám chữa bệnh có sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước phải công khai việc thu, quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước, giá thuốc, việc thu, quản lý, sử dụng các loại phí liên quan đến việc khám, chữa bệnh và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

2.11.Công khai  minh bạch trong lĩnh vực khoa học công nghệ

  Việc công kha minh bạch trong lĩnh vực khoa học công nghệ được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 25 theo đó việc xét, tuyển chọn, giao trực tiếp, tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và việc đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ phải được tiến hành công khai. Cơ quan quản lý khoa học công nghệ, đơn vị nghiên cứu khoa học công nghệ phải công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước, các khoản hỗ trợ, viện trợ, đầu tư, các khoản thu từ hoạt động khoa học công nghệ.

2.12. Công khai minh bạch trong lĩnh vực thể dục thể thao

  Việc công khai minh bạch trong lĩnh vực thể dục thể thao được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 26. Theo quy định tại Điều này cơ quan quản lý thể dục, thể thao, Uỷ ban Ô-lim-pích Việt Nam, các liên đoàn thể thao, cơ sở thể dục, thể thao có trách nhiệm công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước, các khoản thu từ hoạt động và dịch vụ từ hoạt động thể dục thể thao, các khoản tài trợ, hỗ trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài cho hoạt động thể dục, thể thao.

2.13.Công khai minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, kiểm toán nhà nước

  Việc công khai minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, kiểm toán nhà nước được Luật chống tham nhũng 2005 quy định tại Điều 27. Theo quy định tại Điều này, hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, kiểm toán nhà nước phải được tiến hành công khai theo quy định của pháp luật. Các văn bản quyết định sau đây phải được công khai trừ trường hợp pháp luật có quy định khác:

a, Kết luận thanh tra;

b, Quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định giải quyết tố cáo;

c, Báo cáo kiểm toán.

2.14. Công khai minh bạch trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân

  Việc công khai minh bạch trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 28. Theo quy định của Điều này cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nhà đất, xây dựng, đăng ký kinh doanh, xét duyệt dự án, cấp vốn ngân sách nhà nước, tín dụng, ngân hàng, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý hộ khẩu, thuể, hải quan, bảo hiểm và các cơ quan tổ chức cá nhân khác trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân phải công khai thủ tục hành chính, giải quyết đúng thời hạn, đúng pháp luật và đúng yêu cầu hợp pháp của cơ quan tổ chức đơn vị cá nhân. Cơ quan, tổ chức, đơn vị cá nhân có quyền đề nghị với cơ quan tổ chức cá nhân có thẩm quyền giải quyết công việc của mình, giải thích rõ những nội dung có liên quan. Khi nhận được đề nghị của cơ quan, tổ chức đơn vị cá nhân thì cơ quan tổ chức cá nhân có thẩm quyền phải kịp thời giải thích công khai, trong trường hợp cơ quan tổ chức cá nhân có thẩm quyền giải thích chưa thoả đáng hoặc cố tình gây khó khăn, phiền hà thì cơ quan tổ chức đơn vị cá nhân có quyền kiến nghị lên cơ quan tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.

 2. 15.Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp

   Việc công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp được Luật chống tham nhũng quy định tại Điều 29 theo đó việc thụ lý, điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định của pháp luật về tố tụng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2.16.Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ

  Việc công khai, minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 30. Theo quy định tại Điều này việc tuyển dụng cán bộ công chức, viên chức và người lao động khác vào cơ quan, tổ chức đơn vị phải được công khai về số lượng, tiêu chuẩn, hình thức và kết quả tuyển dụng. Việc quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, chuyển ngạch, luân chuyển, điều động, khen thưởng, cho thôi việc, cho thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật, hưu trí đối với cán bộ công chức, viên chức và người lao động khác phải được công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó làm việc.

2. 17. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức

   Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại Điều 31. Theo quy định tại điều này cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan tổ chức đơn vị được yêu cầu phải cung cấp thông tin trừ trường hợp nội dung thông tin được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai, trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan tổ chức yêu cầu biết và nêu rõ lý do.

2.18. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân

   Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân được Luật chống tham nhũng năm 2005 quy định tại điều 32. Theo quy định tại điều này cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của các cơ quan, tổ chức đơn vị đó. Công dân có quyền chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ bản nhân dân xã, phường, thị trấn đó. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu biết và nêu rõ lý do.

2. 19. Công khai báo cáo hàng năm về phòng chống tham nhũng

   Việc công khai báo cáo hàng năm về phòng chống tham nhũng được Luật phòng chống tham nhũng quy địng tại điều 33. Theo quy định tại điều này hàng năm chính phủ có trách nhiệm báo cáo quốc hội về công tác phòng chống tham nhũng trong phạm vi cả nước. Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về công tác phòng chống tham nhũng ở địa phương. Báo cáo về phòng chống tham nhũng phải được công khai.

3.. Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân và việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, chống sự tha hoá và lạm dụng quyền lực, bảo vệ các quyền con người và quyền công dân

Trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực của ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp là đặc biệt quan trọng. Trước hết nói về quyền lập pháp, từ việc bầu cử Quốc hội đến việc phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý chí của mình đối với Quốc hội, đóng góp ý kiến vào các dự luật của Quốc hội, vào việc quyết định các công việc quan trọng của nhà nước, việc lựa chọn những người xứng đáng giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy hành pháp và tư pháp. Tất cả các công việc đó chỉ có thể thực hiện tốt khi nhân dân có đầy đủ thông tin. Không có cơ chế hợp lý để công dân có thể tiếp cận thông tin một cách đầy đủ thì nhân dân không thể có mối quan hệ gắn bó mật thiết với Quốc hội. Nếu Quốc hội do nhân dân bầu ra  không có mối quan hệ mật thiết với nhân dân thì không thể đại diện cho ý chí của nhân dân và không thể hoàn thành sứ mệnh chính trị của mình.

  Việc thực hiện đúng các  quyền hành pháp và tư pháp  của các  cơ quan nhà nước có mối liên hệ mật thiết với quyền tiếp cận thông tin của  công dân. Khi quyền tiếp cận thông tin của công dân được đảm bảo, công dân có khả năng giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, nhờ đó làm hạn chế được sự lạm dụng quyền lực. Khi thực hiện đầy đủ quyền tiếp cận thông tin công dân sẽ mở rộng được khả năng bảo vệ các quyền và lợi ích của mình. Chẳng hạn khi một quyền của công dân bị vi phạm, công dân có thể biết một cách rõ ràng quyền lợi hợp pháp nào của mình bị vi phạm, công dân có thể khiếu nại ở đâu và cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc này. Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin cho công dân đồng nghĩa với việc mở rộng khả năng để công dân tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội. Nhờ có thông tin đầy đủ, công dân có thể có nhiều đóng góp, nhiều kiến nghị về các chính sách xã hội và các giải pháp thực hiện. Công dân có thể tham gia giám sát hoạt động của cơ quan công quyền, nhờ đó hoạt động của các cơ quan công quyền được công khai, minh bạch và hạn chế được sự lạm dụng quyền lực nhà nước.

 

 

                                            Chuyên đề 18

NHỮNG HẠN CHẾ VÀ BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

                                                GS-TS  Nguyễn Đăng Dung

                                               Đại học Quốc gia Hà Nội

  "Một chính phủ của đại chúng mà không có thông tin rộng rãi hoặc không có phương tiện nào để có được những thông tin đó thì chỉ là đoạn mở đầu của một tấn hài kịch hoặc bi kịch, hay có thể là của cả hai.”

“Tri thức sẽ luôn thống trị sự ngu dốt; và một dân tộc muốn tự làm chủ bản thân mình thì phải trang bị cho mình sức mạnh của tri thức." (Madison, Tổng thống thứ 4 của Hợp chúng quốc Hoa kỳ (1822) ) .

           Những câu nói trên của Tổng thống thứ 4 của Hợp chúng quốc Hoa kỳ, đồng thời cũng là cha đẻ bản Hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới về tầm quan trọng của thông tin vẫn có ý nghĩa cho đến tận ngày nay.  Thông tin minh bạch là một yêu cầu cấp thiết trong một xã hội văn minh. Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, lạm quyền. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay việc cung cấp thông tin cho người dân như là một trong những trách nhiệm quan trọng hiện nay của nhà nước Việt Nam. Thông tin có giá trị rất lớn đối với đời sống của con người: Thông tin là tiền bạc, Thông tin là sức khỏe, Thông tin là sự sống; Thông tin là sức mạnh; Thông tin là tri thức; Thông tin là phát triển.. Chẳng khác nào như câu thành ngữ dân giã đã và đang hình thành trong cuộc sống của chúng ta về tiền bạc làm vây: Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi già, là nụ cười của tuổi trẻ… Có lẽ thông tin trong thời hiện đại còn hơi cả tiền bạc. Vì như trên thông tin còn tạo ra tiền bạc.  Hơn thế nữa trong mối quan hệ giữa người dân và đảng, nhà nước hiện nay thông tin là niềm tin của người dân vào nhà nước. 

Như thực ra không cung cấp thông tin cho người dân không phải bây giờ nhà nước Việt Nam mới đặt ra mà đã có từ rất rất lâu kể từ khi xây dựng chế độ chính trị dân chủ.  Điều 69 của Hiến Pháp 1992 đã có quy định quyền được thông tin của công dân. Theo quy định trong Công ước về quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc, mà Việt Nam đã tham gia - quyền được thông tin là quyền con người, một phần của quyền tự do ngôn luận. Điều 19 của Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc quy đinh: Mọi người đều có quyền twj d và bày tỏ quan điểm,…tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin.

Điều 19 Công ước của Liên Hợp quốc năm 1966 về quyền con người trong lĩnh vực chính trị và dân sự quy định: Mọi người có quyền TDNL. Quyền này gồm: Tự do tìm kiếm; tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền miệng, viết, hoặc hình thức nghệ thuật, thông qua phương tiện thông tin đại chúng tùy theo sự lựa chọn của họ.  Thực ra quyền tự do thông tin được quy định trong Hiến Pháp 1992 là một quyền rất mới so với trước đây, Hiến Pháp năm 1980, 1959 không có quy định về quyền này. Quyền này cũng là quyền mới phát triển của Thế giới đương đại khi có thông tin, internet…

Quyền lực trong xã hội xuất hiện ở nhiều nơi, nhưng trong thời hiện đại quyền lực quan trọng nhất là ai nắm được thông tin và xử lý thông tin. Thông tin là tiền bạc, thông tin là sức khoẻ, thông tin là tất cả mọi thứ. Nếu anh không nắm được thông tin anh có thể mất tiền bạc, mất danh dự, mất sức khoẻ thậm chí là mất cả tính mạng. Người Châu Âu văn minh đã quan tâm đến quyền thông tin của người dân từ rất lâu. Theo như lịch sử phát triển thì các nước này đã có luật thông tin cách đây mấy trăm năm. Sớm nhất là Thụy Điển đã có cách đây những 300 năm.

Quyền tiếp cận thông tin có thể được hiểu ở nghĩa rộng bao  gồm hai loại quyền cơ bản: Thứ nhất, quyền được phổ biến các thông tin từ phía nhà nước, như cách hiểu phổ biến tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước hiện nay. Thứ hai, là quyền được thu nhận các thông tin cần thiết của  người dân.  Ở quyền thứ nhất sự chủ động nằm ở phía nhà nước, còn ở loại thứ hai sự chủ động nằm ở phía người dân. Nếu hiểu ở nghĩa này thì quyền tiếp cận thông tin của chúng ta chỉ được hiểu ở nghĩa rộng, mà không được hiểu ở nghĩa hẹp ở quyền chủ động của người dân và trách nhiệm phải cung cấp từ phí nhà nước. Ở những nước phương Đông, trong đó có Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi nhiều điều kiện lịch sử. Quyền lực nhà nước rất ít được khẳng định là của công cộng, của chung. Cả một thời kỳ dài của chế độ phong kiến với nh thức phổ quát quyền lực nhà nước là của riêng nhà Vua, quyền được thông tin các công việc nhà nước không thể   Vào thời kỳ kháng chiến giành độc lập, thông tin luôn được bảo mật một trong những đảm bảo quan trọng cho các cuộc kháng chiến của chúng ta thành công. Các phong trào: không nói, không biết, không tin – phong trào 3 không, trong giai đoạn đó được coi là “quốc sách”.  Rồi đến thời kì tập trung bao cấp chúng ta cũng chỉ có thông tin một phía. Trong lịch sử phát triển của nước ta hầu như chỉ có nhu cầu tuyên truyền một chiều từ Trung ương, Nhà nước xuống cho người dân. Người dân luôn là người bị động, phải tiếp thu các nguồn thông tin của nhà nước khi được nhà nước cho phép. Những biểu hiện này trở thành nét văn hóa bí mật trong xã hội Việt Nam. Người dân Việt Nam chúng ta  thường có thói quen nếp thụ động nên nhiều khi có thái độ “mặc kệ” trước thông tin, chỉ khi động tới lợi ích của mình, mới “nhảy dựng lên”… thì đã muộn. Đây cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng khiếu nại tràn lan hiện nay ở Việt Nam, mà khó có một biện pháp nào có thể giải quyết hết được . Thực ra quyền thông tin của chúng ta hiện nay chưa được hiểu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Chúng ta chỉ hiểu một phía, đó là sự tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với người dân. Nhưng còn một phía nữa rất quan trọng thì chúng ta lại ít quan tâm, đó là tâm tư nguyện vọng của người dân, những khiếu nại tố cáo sai trái của các quan chức chính quyền… Tức là ít có phản biện từ phía người dân. Các thông tin được công khai cho đến hiện nay bao giờ cũng trên tinh thần “hướng lên trên.” Tinh thần này có nguồn gốc từ những quy định của pháp luật phong kiến, cũng như Đạo Khổng đã từng ngự trị ở Việt Nam chúng ta.Đó là lỗi bất cập thứ nhất về nhận thức được thể hiện trong pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của Việt Nam chúng ta hiện nay. 

Quyền tiếp cận thông tin là thứ quyền thời thượng, quyền quý tộc và cũng có những người đánh giá rằng đó là thứ quyền khá nhạy cảm. Thông tin về nguyên tắc là phải mở, đầu tiên là Chính phủ phải mở, cơ cấu tổ chức phải mở, các quyết định phải mở để mọi người đều biết, và dễ tiếp cận khi cần thiết.

Trong bộ máy nhà nước có 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, chỉ hành pháp là thiếu sự “mở” bởi chúng ta hoạt động vẫn theo cơ chế thủ trưởng, quyết định được đưa ra không có sự bàn bạc hoặc có bàn bạc đi chăng nữa, thì khi quyết định người Thủ trưởng quyết định vẫn là người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân. Trong khi có bản án chỉ  500 triệu có thể dẫn tới án tử hình,  thì các quyết định hành chính có khi làm mất của người dân hàng tỷ tỷ đồng, thu lợi cho một cá nhân hàng tỷ tỷ đồng thì lại bị “ỉm” đi và chẳng có ai chịu trách nhiệm. Câu trả lời chính là sự bưng bít thông tin của các cơ quan công quyền.

Công dân có quyền: Được thông tin qua báo chí về mọi mặt; Gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm về nội dung thông tin; Phát biểu ý kiến về t.hình đất nước & thế giới; Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước ;Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.

Các cơ quan báo chí có trách nhiệm: Đăng, phát sóng tác phẩm, kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do; Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; Cung cấp thông tin cho báo chí vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của các cơ quan và công chức nhà nước.

Các chính quyền cơ sở phải có trách nhiệm công khai kế hoạch kinh tế xã hội, phương án cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm; Dự án đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư; quy hoạch và kế hoạch  sử dụng đất.

   Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức của chính quyền cấp cơ sở  được quy định trong Pháp lệnh về dân chủ ở cơ sở trong việc cung cấp các loại thông tin như sau:  Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ; các khoản huy động đóng góp; Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân; Điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã; Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết tiêu cực, tham nhũng xã, thôn, tổ dân phố; kết quả phiếu tín nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã;  Kết quả tiếp thu ý kiến đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của xã; Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã thu; Các quy định pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết công việc liên quan; và những nội dung khác..

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền công bố công khai danh mục các dự án phát triển nhà ở thương mại trong từng thời kỳ trên phạm vi địa bàn...để người dân có điều kiện được tiếp cận. Cơ quan, tổ chức cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cơ quan tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin.

Ngoài những quy định như nói trên của các văn bản có thể nói là chuyên biệt có liên quan đến quyền thông tin, ở phần cuối mỗi văn bản bao giờ cũng có những quy định nói về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc phải triển khai thực hiện văn bản. Đây là trách nhiệm tuyên truyên phố biến pháp luật, mà không phải là trách nhiệm phải cung cấp thông tin cho người dân theo tinh thần của luật tiếp cận thông tin theo tiêu chuẩn của Công ước quốc tế. 

Đây cũng là hạn chế tiếp theo của pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin.

Trong thời hạn 10 ngày cơ quan tổ chức và cá nhân được yêu cầu phải cung cấp thông tin; Không cung cấp, chưa cung cấp thì phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do.

Luật tiếp cận thông thông tin luôn luận là đối lập với trách nhiệm phải giữa bí mật của các cơ quan nhà nước. Do nhu càu của các cuộc chiến tranh trong lịch sử, và cả của chế độ tập trung quan liêu của cơ chế xã hội chủ nghĩa trước đây, pháp luật về việc giữ gìn bí mật quốc gia được quy định rất đầy đủ. Có 3 cấp độ mật: Mật, Tuyệt Mật và Tối mật như:

Các chủ trương, chính sách về đối nội, đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không công bố hoặc chưa công bố thuộc vào loại tuyệt mật.

Danh mục bí mật thuộc độ Mật do người đứng đầu hoặc người được uỷ quyền của cơ quan, tổ chức đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an quyết định. Thủ t­ướng Chính phủ quyết định danh mục bí mật thuộc độ Tuyệt mật và Tối mật của các cơ quan, tổ chức ở Trung ­ơng và địa ph­ương.Bộ tr­ưởng Bộ Công an quyết định danh mục bí mật nhà n­ước thuộc độ mật. Bộ trư­ởng, Chánh sán Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng VKSND tối cao; Chủ tịch UBND tỉnh lập danh mục bí mật nhà n­ớc trên cơ sở đề xuất của các Ban, ngành và UBND cấp dư­ới trực tiếp.

    Việc bưng bít thông tin diễn ra rõ nhất trên các lĩnh vực đất đai, đền bù giải tỏa, dự án ưu đãi… Lòng dân hiện nay không an vì tham nhũng, vì khiếu nại đất đai. Mà nguyên nhân chủ yếu của các vụ khiếu nại đất đai là do chính quyền không thông tin đến dân.

Ví dụ, Quy hoạch đất đai của chúng ta không công khai, minh bạch nên nhiều đối tượng trục lợi từ việc này. Một mảnh đất sắp lên đô thị, thông tin sẽ rò rỉ “kín đáo” cho một đối tượng nào đó, anh ta sẽ mua trước với giá rất rẻ. Đến khi đất đó trở thành đô thị, anh ta bán với giá đắt gấp hàng trăm, nghìn lần. Lợi nhuận ấy rơi vào túi cá nhân, nhà nước không hề có. Bao nhiêu người dân ngày càng nghèo đi, bao nhiêu người giàu càng giàu lên mà không phát hiện ra ai là người vi phạm phạm luật.  Bưng bít thông tin như thế gây bất bình đẳng về thông tin dẫn đến những thiệt hại nhất định cho

 người dân không có thông tin và người có thông tin thì trục lợi.

   Chúng ta có thể ví dụ Pháp lệnh bí mật như là là một pháo đài kiên cố “bất khả xâm phạm” còn quyền tự do thông tin lại là một căn nhà tranh nhỏ bé, tuềnh toàng… Chúng ta không những có Pháp lệnh bí mật Nhà Nước, mà còn có cả những Hướng dẫn của các văn bản dưới luật rất cụ thể để các cơ quan nhà nước thực hiện sự giữ gìn bí mật nhà nước. Nhưng điều đáng ghi ngại ở đây là những gì bí mật đều do  chính cơ quan nhà nước đề xuất. Các cơ quan nhà nước không ngần ngại  quy định một cách tràn lan những vấn đề cần phải bảo mật của họ. Theo nguyên tắc “cẩn tắc vô áy náy”  các cơ quan công quyền “vin” vào đó “bảo mật” tràn lan. Một động tác rất nhỏ nhưng bắn được nhiều mục đích. Dễ làm, vì quen như thế và nhất là lại  đỡ ngay vào việc vi phạm vấn đề để lộ bí mật quốc gia, thì quá là nguy hiểm  nhiều lắm.

Ngược lại các quy định về công khai thông thin  cho đến nay đã được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật: Như Luật Đất đai, Luật bảo vệ Môi trường, Luật Phòng chống Tham nhũng, Luật Kiểm toán …. một cách chung chung , với mục đích để thi hành những đạo luật kể trên được thuận lợi.

Bên cạnh việc khó khăn cho việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của pháp lệnh bí mật quốc gia là những động cơ bưng bít thông tin của những người giữ thông tin nhà nước. Động cơ này rất là khác nhau, có người bưng bít để vụ lợi cho chính bản thân và người thân của mình, có người lại bưng bít để dễ dàng hơn cho việc thực hiện các nhiệm vụ thuộc chức năng của mình.   Có người bưng bít chỉ vì một thói quen…

Điểm rất thiếu của các quy định trên là vắng bóng các thủ tục thực hiện các quyền và trách nhiệm cung cấp thông tin, như hình thức yêu cầu tiếp cận, hình thức cung cấp thông tin, và thời hạn thực hiện chúng. …. Hệ thống pháp luật của chúng ta là hệ thống văn bản thiếu đ ồng b ộ, nhất là còn có tình trạng tuân thủ pháp luật chưa nghiêm, cộng với cách làm của người công chức đã từng quen theo cơ chế bí mật của thời chiến và tập trung, việc thiếu các quy định về mặt thủ tục, thì các quy định  ph áp lu ật v ật ch ất khó có thể thực thi trên thực tế hoặc là  kẽ hở rất lớn cho người khác lợi dụng.

Một trong những điểm khó nhất khi xây dựng dự luật Tiếp cận thông tin này chính là việc xác định ranh giới giữa cái “mật” và “không mật”. Cái cần công khai lại bị giữ bí mật (như quy hoạch đô thị bị giữ bí mật nên nhiều người được lợi và nhiều người bị thiệt không chính đáng), nhưng có những thông tin đang trong giai đoạn phải giữ bí mật thì lại công khai, tạo thành dư luận xã hội, gây ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của các cơ quan công quyền (nhất là quá trình tố tụng).

   Báo chí là một kênh để người dân tiếp cận thông tin. Bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của báo chí cũng là bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công chúng. Chúng tôi sẽ có những quy định cụ thể loại thông tin, tài liệu nào cần được công khai, loại thông tin, tài liệu nào là mật. Nghĩa là không phải bất cứ thông tin nào mà anh không muốn cho người khác biết thì anh cũng có thể đóng dấu “mật”. Chúng tôi sẽ quy định dựa vào lợi ích cá nhân và lợi ích quốc gia dân tộc.

Hiện nay ở Việt Nam thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc công khai thông tin đã dẫn đến tình trạng lợi dụng đặc quyền, đặc lợi của một số cá nhân, tổ chức có quyền, gây ra sự bất bình đẳng, công bằng trong xã hội. khi phát hiện thì lại bị “đánh bài lờ” không đưa ra biện pháp xử lý. Các quy định về quyền được thông tin của người dân đã được thể hiện khá phong phú trong các văn bản pháp lý như Hiến pháp 1992, Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Báo chí... Tuy nhiên, việc thực hiện quyền này từ trước đến nay tỏ ra kém hiệu quả, mà nguyên nhân chính là thiếu chế tài xử lý vi phạm. Vấn đề bưng bít thông tin, thông tin “mật” tràn lan… là nhằm “trục lợi” cho một đối tượng cụ thể mà trách nhiệm thuộc về cơ quan công quyền. Đây là hạn chế và lỗi bất cập lớn nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.

   Từ những điều phân tích ở trên về lĩnh vực quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam có rất nhiều việc phải làm. Trước hết về mặt nhận thức, chúng ta phải thay đổi từ việc hiểu quyền tiếp cận thông tin ở nghĩa rất rộng, nặng về trách nhiệm tuyên truyền phố biến pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực có liên quan, sang nghĩa hẹp theo tiêu chuẩn của Liên Hợp quốc chủ yếu là trách nhiệm phải cung cấp các đòi hỏi thông tin của người dân, theo yêu cầu một cách chủ động của họ.

Thứ hai, cần phải gấp rút dự thảo Luật tiếp cận thông tin, đưa Luật Tiếp cận thông tin vào thực tế. Luật cần phải đặt ra trách nhiệm của công chức trong việc cung cấp thông tin. Nếu anh không cung cấp, cung cấp thông tin sai hoặc không đúng hạn thì anh phải chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước, thậm chí có thể phải đến tòa.  Không đơn giản chỉ dừng lại ở việc  từ chức, bãi nhiệm, bãi miễn... mà có thể phải lãnh án tùy mức độ nặng nhẹ. 

Với Luật này xã hội sẽ tạo một thói quen mới trong quá trình tiếp cận thông tin. Thói quen cung cấp thông tin, đón nhận thông tin phản hồi thì xã hội mới phát triển được. Mà điều đó không chỉ phụ thuộc vào những người soạn thảo dự luật như chúng tôi mà quan trọng là phải được sự đồng thuận của nhân dân cả nước. Đó là một thứ văn hóa mới mà chúng ta phải tạo dựng trong tương lai của việc xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền thông tin là quyền cơ bản, quyền phát triển, tạo công bằng, bình đẳng. Nó không chỉ “xóa đói” mà còn ‘xóa sự lạc hậu”. 

Luật tiếp cận thông tin sẽ quy định cụ thể thủ tục làm việc với chính quyền để người dân không còn lúng túng, không còn bị “lừa”, để các công chức không còn thái độ “đùn đẩy”, “hách dịch”. 

Kết luận

Từ những điều đã được phân tích ở phần trên, chúng ta chưa có một đạo luật riêng điều chỉnh, mà chỉ trong phần triển khai thực hiện của các luật khác, chưa có cách hiểu đầy đủ về quyền tiếp cận thông tin. Việc tiếp cận thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ vẫn khó khăn, dẫn tới tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan công quyền chưa được thực hiện. Quyền tiếp cận  thông tin bị lấn át bởi trách nhiệm nặng nề của pháp lệnh Bí mật quốc gia, tức là quyền được giữ bí mật của các cơ quan nhà nước. Pháp luật về giữ bí mật cụ thể hơn pháp luật tiếp cận thông tin. Trách nhiệm giữ bí mật rất dễ thực hiện hơn việc cung cấp thông tin. Văn hóa giữa bí mật thịnh hành hơn văn hóa tiếp cận thông tin. Chế độ nhà nước của cả một thời kỳ chiến tranh, bao cấp. Bên cạnh đó, ở hệ thống pháp luật hiện nay không có các quy định thủ tục cung cấp thông tin, không có quy định chiều ngược lại phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của người dân. Quyền được cung cấp thông tin của người dân chưa được quy định riêng, chưa thành một chủ trương chính sách của nhà nước. Nhà nước và phần lớn các chủ thể pháp luật chưa cập nhật quan niệm hiện đại và phổ biến về  quyền thông tin. Cần phải có quan niệm mới về quyền tiếp cận thông tin cho người dân. Quyền được thông tin, phải được quy định cụ thể thành trình tự, thủ tục bảo đảm quyền được biết, quyền được nhận, quyền được tiếp cận và quyền được phổ biến, được chia sẻ thông tin một cách tự do.  Những điều cần thiết nay là những đòi hỏi của việc cần phải Pháp điển hóa pháp luật của lĩnh vực này thành luật Quyền tiến cận thông tin.

Phần 4. XÂY DỰNG DỰ LUẬT VỀ TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM TRONG GIAI  ĐOẠN HIỆN NAY

                                              Chuyên đề 19

SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

                                                         PGS-TS Thái Vĩnh Thắng

                                                                 Đại học luật Hà Nội

1. Nội dung cơ bản của quyền tiếp cận thông tin

  Quyền tiếp cận thông tin là gì? Quyền tiếp cận thông tin (Right to access to information) là quyền của  mọi công dân được quyền tiếp cận các thông tin, được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền đặc biệt là các cơ quan hành chính Nhà nước. Các cơ quan công quyền nắm giữ thông tin không vì bản thân họ mà với tư cách là người bảo vệ lợi ích của công chúng. Thông tin được coi là tài sản Quốc gia và cũng như mọi tài sản khác không thể để cho một cá nhân hay tổ chức nào độc quyền chiếm đoạt nếu đó không phải là các thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân. Quyền tiếp cận thông tin được coi là một trong những quyền cơ bản của con người và công dân. Điều 19 tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào mà không có biên giới”. Điều 19 công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã quy định: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp vào. Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tuỳ theo sự lựa chọn của họ. Nhận thức được tầm quan trọng của công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Việt Nam tham gia  Công ước này vào năm 1982.

Ở Việt Nam quyền tiếp cận thông tin đã được thể hiện trong Hiến pháp 1992 và trong một số văn bản  pháp luật khác đặc biệt là trong Luật phòng chống tham nhũng năm 2005. Tại Điều 11 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 đã quy định:

  • Chính sách pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật phải được công khai, phải minh bạch đảm bảo công bằng dân chủ;
  • Cơ quan tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình trừ nội dung thuộc bí mật Nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ.

Hình thức công khai theo quy định của Luật này bao gồm công bố tại cuộc họp của cơ quan tổ chức đơn vị; niêm yết tại trụ sở của cơ quan tổ chức đơn vị; thông báo bằng văn bản đến cơ quan tổ chức đơn vị cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử; cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan tổ chức cá nhân. Ngoài những trường hợp Pháp luật có quy định về hình thức công khai, người đứng đầu cơ quan tổ chức đơn vị có trách nhiệm lựa chọn một hoặc một số hình thức công khai quy định tại khoản 1 điều này.

Các lĩnh vực cần phải công khai theo quy định của Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 bao gồm:

- Công khai minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản (Điều 13).

Trong lĩnh vực này phải công khai kế hoạch đấu thầu, mời sơ tuyển và kết quả sơ tuyển mời thầu; danh mục các nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế; kết quả lựa chọn nhà thầu; thông tin về cá nhân tổ chức thuộc chủ dự án bên nhà thầu, mời thầu…

- Công khai minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng (Điều 14). Dự án quy hoạch đầu tư xây dựng phải được tổ chức lấy ý kiến của nhân dân địa phương nơi quy hoạch. Dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách địa phương phải được Hội đồng nhân dân xem xét quyết định. Dự án đầu tư xây dựng sau khi được quyết định phê duyệt phải được công khai để nhân dân giám sát.

- Công khai và minh bạch về ngân sách Nhà nước (Điều 15). Các cấp ngân sách, đơn vị dự toán ngân sách phải công khai chi tiết số liệu dự toán và quyết toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê chuẩn kể cả ngân sách bổ sung. Đơn vị dự toán ngân sách có nguồn thu và các khoản chi từ các khoản đóng góp của tổ chức cá nhân theo quy định của pháp luật phải công khai mục đích huy động, kết quả huy động và hiệu quả viẹc sử dụng các nguồn huy động.

- Tổ chức được ngân sách Nhà nước hỗ trợ phải công khai các nội dung liên quan đến số liệu dự toán quyết toán; các khoản đóng góp của tổ chức cá nhân (nếu có); cơ sở xác định mức hỗ trợ và số tiền ngân sách Nhà nước hỗ trợ.

- Dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn từ Ngân sách Nhà nước phải công khai các nội dung về việc phân bổ vốn đầu tư trong dự án ngân sách được giao hàng năm trong các dự án, dự toán ngân sách của dự án đầu tư theo kế hoạch đầu tư được duyệt, mức vốn đầu tư của dự toán được giao trong dự toán ngân sách hàng năm; quyết toán vốn đầu tư của dự toán hàng năm;

- Công khai minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân (Điều 16);

- Công khai minh bạch việc quản lý sử dụng các khoản viện trợ, hỗ trợ;

- Công khai minh bạch trong việc quản lý doanh nghiệp của Nhà nước (Điều 18). Doanh nghiệp của Nhà nước có trách nhiệm công khai vốn và tài sản của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, vốn vay ưu đãi, báo cáo tài chính và kết quả kiểm toán, việc trích lập và sử dụng quỹ của doanh nghiệp, việc tuyển dụng lao động, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý của doanh nghiệp và nội dung khác theo quy định của pháp luật;

- Công khai minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước (Điều 19);

- Báo cáo kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước phải được công khai (Điều 20);

- Công khai minh bạch trong quản lý và sử dụng đất (Điều 21);

- Công khai minh bạch trong quản lý và sử dụng nhà ở (Điều 22);Thẩm quyền, trình tự, thủ tục và việc cấp giấy phép xây dựng nhà ở và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở phải được công khai, việc hoá giá nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, đối tượng được hoá giá nhà ở và các khoản tiền phải nộp khi hoá giá nhà ở phải được công khai; Việc bán nhà ở cho người tái định cư, người có thu nhập thấp và những đối tượng ưu tiên khác phải được công khai;

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực giáo dục (Điều 23);

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực y tế (Điều 24);

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực khoa học công nghệ (Điều 25); Việc xét tuyển chọn giao trực tiếp, tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ và việc đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ khoa học công nghệ phải được tiến hành công khai, cơ quan quản lý khoa học công nghệ, đơn vị nghiên cứu khoa học công nghệ phải công khai việc quản lý sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản của nhà nước, các khoản hỗ trợ, viện trợ, đầu tư, các khoản thu từ các hoạt động khoa học công nghệ;

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực thể dục thể thao (Điều 26);

- Công khai minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán Nhà nước (Điều 27);

- Công khai minh bạch trong các hoạt động giải quyết các công việc của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền (Điều 28);

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực tư pháp (Điều 29). Việc thụ lý, điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định của pháp luật về tố tụng và các quy định khác về pháp luật có liên quan;

- Công khai minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ (Điều 30). Việc tuyển dụng cán bộ công chức, viên chức và người lao động khác vào cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai về số lượng tiêu chuẩn, hình thức và kết quả tuyển dụng. Việc quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, chuyển ngạch, luân chuyển, điều động, khen thưởng, cho thôi việc, cho thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật, hưu trí đối với cán bộ công chức, viên chức và nguời lao động khác phải được công khai trong cơ quan tổ chức đơn vị nơi người đó làm việc.

 Luật phòng chống tham nhũng, tại Điều 31, đã quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan tổ chức, theo đó cơ quan Nhà nước tổ chức chính trị xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan tổ chức đơn vị mình theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu phải cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phầm và các niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức yêu cầu biết và nếu rõ lý do. Tại Điều 32 của Luật nói trên đã quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân theo đó cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu tổ chức cơ quan, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó (Khoản 1 Điều 32). Công dân có quyền yêu cầu chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp về hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đó (Khoản 2 Điều 32). Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu biết và nêu rõ lý do (Khoản 3 Điều 32).

 Ngoài các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin các cơ quan Nhà nước theo Luật phòng chống tham nhũng năm 2005, các văn bản pháp luật sau đây cũng đã quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các cơ quan Nhà nước và quyền tiếp cận thông tin của công dân: Luật báo chí năm 1989, Luật xuất bản năm 2004, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân  và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm2008, Luật kiểm toán Nhà nước năm 2005, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí năm 2005, Pháp lênh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, Pháp lệnh về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003. Đặc biệt trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết, nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan. Trong Điều 5 của Pháp lệnh nói trên đã quy định 11 vấn đề cần phải công khai:

  1. Kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; Phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của cấp xã.
  2. Dự án công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên tiến độ thực hiện phương án đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã , quy hoạch kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã, phường, thị trấn.
  3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyêt các công việc của nhân dân.
  4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư tài trợ theo chương trình dự án đối với cấp xã (phường, thị trấn); các khoản huy động nhân dân đóng góp.
  5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo, phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn để phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.
  6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
  7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyêt các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của các cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tìn nhiệm Chủ tịch và Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
  8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân.
  9.  Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
  10.  Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
  11.  Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.

Tại Điều 6 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định về các hình thức công khai thông tin:

a, Niêm yết công khai tại trụ sở của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

b, Công khai trên hệ thống truyền thanh của xã, phường, thị trấn.

c, Công khai qua trưởng thôn, tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.

 Tại Điều 10 Pháp lệnh nói trên đã quy định về những nội dung nhân dân tham gia ý kiến:

  1. Dự thảo phát triển kinh tế, xã hội của cấp xã (phường, thị trấn); phương án chuyển đổi kinh tế, cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, đề án định canh định cư vùng kinh tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã.
  2. Dự thảo quy hoạch kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh việc quản lý sử dụng quỹ đất của cấp xã.
  3. Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình dự án trên địa bàn cấp xã; chủ trương phương án đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng tái định cư, phương án quy hoạch khu dân cư.
  4. Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã .
  5. Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.

Theo quy định tại của Điều 20 Pháp lệnh nói trên, có 3 hình thức để nhân dân tham gia ý kiến:

  1. Họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố.
  2. Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
  3. Thông qua hòm thư góp ý.

 Những quy định trên đây về việc tiếp cận thông tin của công dân và nghĩa vụ của cơ quan Nhà nước về cung cấp thông tin trong một số lĩnh vực và phạm vi địa bàn áp dụng cũng đã khá rõ tuy nhiên việc thực hiện các quy định nói trên còn rất hạn chế vì trong tất cả các văn bản pháp luật nói trên hầu như rất ít chế tài quy định về vấn đề xử phạt việc không cung cấp thông tin và những quy định nói trên nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau và thiếu tính hệ thống nên vẫn chưa có một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo cho công dân được thực hiện một cách đầy đủ quyền tiếp cận thông tin.

 Quyền tiếp cận thông tin của công dân Việt Nam mặc dù đã được thể hiện rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau nhưng cho đến nay Việt Nam vẫn chưa ban hành được một đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin. Theo Toby Mendel, một chuyên gia trong lĩnh vực tiếp cận thông tin, trong công trình nghiên cứu “Tầm quan trọng của Quyền tiếp cận thông tin: Xu hướng, Địa vị và Đặc điểm” [157] năm 1990 chỉ có 13 nước trên thế giới có Luật tiếp cận thông tin tuy nhiên đến năm 2009 đã có trên 80 Quốc gia ban hành Luật tiếp cận thông tin và khoảng 30 Quốc gia khác đang trong quá trình xây dựng Luật tiếp cận thông tin trong đó có Việt Nam. Tổ chức phi Chính phủ Quốc tế về nhân quyền có tên là ARTICLE 19 đã coi thông tin là “khí oxy của nền dân chủ”. Thông tin là nguồn sống cơ bản của nền dân chủ vì về bản chất dân chủ là khả năng của cá nhân tham gia một cách hiệu quả vào quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến cá nhân đó [158].

 Theo chúng tôi quyền tiếp cận thông tin không những là “oxy của nền dân chủ” mà suy cho cùng nó là quyền để thực hiện mọi quyền. Vì không có thông tin thì người dân không thể biết, không thể bàn, không thể làm, không thể kiểm tra về bất cứ vấn đề gì. Nói một cách khác tất cả các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội của công dân đều chỉ có thể đảm bảo thực hiện trên cơ sở đảm bảo quyền tiếp cận thông tin.

2. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong việc đảm bảo thực hiện các quyền  chính trị  và dân sự của công dân.

 Quyền chính trị của công dân bao gồm các quyền: tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, tham gia xây dựng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia thực hiện giám sát bộ máy nhà nước, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,  tự do hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật, tự do thể hiện ý chí của mình khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý . Muốn thực hiện các quyền trên đây trước hết công dân phải có đầy đủ các thông tin. Nếu không có thông tin hoặc thông tin không đầy đủ công dân không thể thực hiện các quyền Hiến định đó của mình; chẳng hạn để thực hiện quyền bầu cử nếu các cơ quan có thẩm quyền không cung cấp đầy đủ các thông về các ứng cử viên trong danh sách bầu cử, người dân không biết lựa chọn người nào vì vậy mặc dù có quyền lựa chọn nhưng người dân không thể thực hiện được quyền này. Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ trong các phiên họp của Quốc hội nhưng nếu các đại biểu Quốc hội không được cung cấp thông tin đầy đủ hoặc không có bộ máy giúp việc  có năng lực hoặc không có các cơ quan chuyên môn của Quốc hội như Thanh tra Quốc hội  (Ombudsman) hay Kiểm toán Quốc hội (Parliamentary Audit), các đại biểu Quốc hội không thể có thông tin để đối chiếu với những số liệu mà các Bộ trưởng đã đưa ra khi trả lời chất vấn thì quyền chất vấn cũng chỉ là hình thức. Ngay quyền bỏ phiếu để thông qua kế hoạch dài hạn và ngắn hạn nếu không có thông tin đầy đủ thì các đại biểu Quốc hội cũng không dám chắc việc “bấm nút” của mình đúng hay sai ;chẳng hạn do khủng hoảng kinh tế thế giới mà chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế Quốc hội đặt ra lần đầu là 9% đã không đạt được, trước tình hình đó trong phiên họp của Quốc hội gần đây Chính phủ đã yêu cầu Quốc hội điều chỉnh lại chỉ số tăng trưởng kinh tế thấp hơn 9% để phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Đại biểu Nguyễn Ngọc Đào thuộc Đoàn đại biểu Hà Nội trong một phiên họp của Quốc hội đã phát biểu: “Tôi là đại biểu Quốc hội nhưng không phải là một nhà kinh tế và không có đầy đủ thông tin để có thể xác định tốc độ tăng trưởng trong năm tới của nước ta là 6%, 7% hay 8%. Tôi biểu quyết theo số liệu của Chính phủ đưa ra là thể hiện sự tin tưởng đối với Chính phủ và tôi cũng đề nghị các đại biểu khác nên tin tưởng vào số liệu mà Chính phủ đưa ra nếu có gì không đúng chúng ta sẽ xem xét trong các kỳ họp sau”. Từ phát biểu trên đây của đại biểu Nguyễn Ngọc Đào có thể khẳng định nếu không có thông tin đầy đủ do các cơ quan công quyền cung cấp thì các đại biểu Quốc hội cũng khó có thể hoàn thành được các quyền mà pháp luật đã trao cho người đại biểu của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng các hình thức trực tiếp hay gián tiếp đều dựa trên sự hiểu biết của công dân. Sự hiểu biết này chủ yếu được hình thành trên cơ sở các thông tin mà công dân nắm được; chẳng hạn nếu không có thông tin công khai về tài sản của Nghị sĩ và các quan chức khác của Nhà nước trước và sau các nhiệm kỳ bầu cử các cử tri cũng không thể biết được liệu những người được nhân dân lựa chọn hoặc được các cơ quan Nhà nước cấp trên bổ nhiệm vào những chức vụ nhất định có tham nhũng hay không. Việc các khu đô thị mới ở Hà Nội hình thành một cách nhanh chóng với dân số ngày càng tăng theo mức độ phát triển của các khu đô thị, tuy nhiên các trường học từ mẫu giáo đến tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở các khu vực đó lại không được xây dựng dẫn đến tình trạng các trường học ở Hà Nội bị quá tải, trẻ em các khu vực đô thị mới phải đi học xa hoặc phải chịu mọi sự bất tiện do thiếu trường học trên địa bàn của mình cũng là hệ quả của việc thiếu các thông tin toàn diện và việc thiếu vai trò điều hoà, phối hợp giữa các bộ, ngành do các bộ ngành này không nắm được thông tin của các bộ ngành khác.

 Do không có các thông tin đầy đủ, việc thực hiện quyền khiếu nại tố cáo của công dân sẽ rất khó khăn. Chẳng hạn họ không biết gửi đơn khiếu kiện đến cơ quan nào, thủ tục giải quyết khiếu kiện sẽ ra sao, ai là người chịu trách nhiệm chính về loại vụ việc này. Do không có thông tin đầy đủ người dân có thể buộc phải chịu đựng tình trạng vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền, vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà không dám đấu tranh vì các cơ quan công quyền đặc biệt là các cơ quan hành chính Nhà nước đã bưng bít các thông tin.

  Mọi công dân đều có đầy đủ các quyền dân sự của mình. Một trong các quyền dân sự của công dân là quyền được yêu cầu bồi thường khi họ là nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp. Công dân chỉ có thể đấu tranh để thực hiện quyền này khi họ được cung cấp thông tin về điều kiện và mức độ bồi thường, cơ quan bồi thường. Nếu không có các thông tin đó người dân sẽ rất khó khăn khi bảo vệ các quyền của mình. Quyền tài sản là quyền dân sự đặc biệt quan trọng của công dân. Khi vì lợi ích công các bất động sản của công dân có thể bị nhà nước trưng dụng với sự đền bồi thoả đáng. Tuy nhiên, công dân chỉ có thể bảo vệ được quyền đền bù thoả đáng này khi họ được nhà nước cung cấp đầy đủ và chính xác về giá cả đền bù và các thủ tục cần thiết trong việc đền bù do giải phóng mặt bằng.

 Như vậy nếu không có thông tin đầy đủ thì các quyền dân sự của người dân khó có thể được đảm bảo thực hiện.

3. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong việc đảm bảo thực hiện các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội của công dân.

 Quyền tự do kinh doanh là một quyền  cơ bản của công dân, tuy nhiên muốn thực hiện quyền này công dân phải có đầy đủ thông tin trong lĩnh vực kinh tế chẳng hạn công dân cần phải có đầy đủ các thông tin về nhu cầu tiêu dùng của xã hội, về thị trường tiêu thụ hàng hoá trên cơ sở đó người dân đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả. Khi có đầy đủ thông tin công dân có thể xác định đúng sản xuất mặt hàng gì, yêu cầu chất lượng như thế nào và tiêu thụ ở đâu. Tình trạng nhiều nơi nông dân trồng mía,  nuôi bò sữa, trồng các loại hoa quả, chăn nuôi các loại gia cầm, gia súc nhưng không bán được sản phẩm của mình do nhu cầu tiêu thụ ít nhưng sản xuất lại nhiều, mặt hàng cần thì không có, mặt hàng có thì không cần chính là do sự thiếu thông tin theo quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường. Hoặc, ví dụ khác, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền không cung cấp cho người dân biết những thông tin về nguy cơ phá sản hay tình trạng đã phá sản của một số doanh nghiệp của Nhà nước cũng như tư nhân thì người dân có thể sẽ mất trắng hàng trăm triệu, hàng chục tỷ đồng nếu làm ăn với các doanh nghiệp đã hoặc đang trên đà phá sản mà họ không biết.

 Đối với quyền học tập của công dân cũng vậy. Các cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền phải có nghĩa vụ cung cấp cho người dân những thông tin cần thiết về các nghề nghiệp mà xã hội đang cần, mặt khác cũng cần cung cấp các thông tin về những ngành nghề mà nhiều người đã tốt nghiệp được cấp các bằng đại học, cao đẳng hoặc trung cấp chuyên nghiệp nhưng không có việc làm . Nếu không có thông tin đầy đủ về các chỉ số trên đây thì sẽ dẫn đến tình trạng đào tạo tràn lan, đào tạo theo nhu cầu cảm tính, cán bộ vừa thừa vừa thiếu. Con số chỉ có 40% sinh viên các trường đại học sau khi tốt nghiệp có việc làm hiện nay ở Việt Nam đã nói lên tình trạng này, chưa nói đến những sai lầm về đào tạo cán bộ trong thời kỳ theo cơ chế hành chính quan liêu bao cấp. Trong thời kỳ đó do thiếu thông tin cần thiết nên chúng ta đã gửi các con em đi đào tạo ở nước ngoài không đúng trọng tâm, trọng điểm. Do không biết ngành gì đào tạo ở trường nào, ở nước nào thì có chất lượng cao nhất nên hầu như trong thời kỳ theo cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, các sinh viên đi học nước ngoài bất cứ ngành gì cũng gửi đi đào tạo ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trong khi đó các trường có chất lượng cao nhất trong lĩnh vực đó như ở  Anh, Nhật Bản, Hà Lan, Mỹ, Canađa và các nước tư bản phát triển thì Nhà nước không gửi người đi đào tạo. Do thiếu thông tin khoa học đặc biệt là những thông tin khoa học cập nhật, các lĩnh vực khoa học đặc biệt là khoa học xã hội của Việt Nam đã lạc hậu so với nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Cũng do thiếu thông tin về hình thức và phương pháp đào tạo ở nước ngoài nên trong một thời gian dài chỉ có hình thức đào tạo công lập đồng thời phương pháp đào tạo mang tính chất cổ truyền, đào tạo theo chương trình tín chỉ chỉ được đào tạo trong thời gian gần đây.

Quyền tiếp cận thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các chính sách tạo công ăn việc làm cho công dân đặc biệt là các chính sách xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Do không có thông tin đầy đủ và chính xác về việc làm và chế độ tiền lương ở nước ngoài mà một số công nhân xuất khẩu lao động với những chi phí tốn kém để ra nước ngoài lao động ở nước ngoài nhưng  khi ra nước ngoài họ đã thất vọng vì công việc nặng nhọc mà đồng lương thấp, hoặc không có việc làm buộc họ phải trở về nước với những khoản nợ nặng nề do chi phí cho các dịch vụ môi giới tìm kiếm việc làm ở nước ngoài. Sự thiếu thông tin cần thiết và đầy đủ cũng tước đi khả năng của công dân có thể hưởng thụ những tinh hoa văn hoá của nhân loại như thông tin về  những thành tựu mới trong văn học nghệ thuật, âm nhạc, trong phát minh sáng chế, trong các thành tựu y học về giải phẩu về khả năng chữa các căn bệnh hiểm nghèo, các thành tựu trong lĩnh vực vật liệu xây dựng và công nghệ sinh học tạo ra các giống cây mới, vật nuôi mới có năng suất và giá trị kinh tế cao.

Việc cung cấp đầy đủ các thông tin cho công dân về  môi trường, chất lượng đào tạo, ngành nghề đào tạo, phương pháp đào tạo ở nước ngoài có thể giúp cho các bậc phụ huynh chọn đúng trường, đúng ngành nghề, phù hợp với khả năng kinh tế của mình để có thể định hướng cho con em họ có thể đến những nơi tốt nhất để học tập, rèn luyện để sớm thành đạt trong nghề nghiệp của mình khi ra trường.

Một trong các quyền thuộc về lĩnh vực các quyền kinh tế,văn hoá, xã hội là quyền được sống trong môi trường trong sạch, tuy nhiên nếu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không cung cấp thường xuyên các số liệu về mức độ ô nhiễm không khí, sự trong sạch của các nguồn nước thì người dân có thể không biết họ đang sống trong một môi trường bị ô nhiễm về mức độ tiếng ồn, về mức độ bụi trong không khí, về các nguồn nước uống có chứa các chất độc hại, các thực phẩm mà người dân sử dụng hàng ngày nếu không có thông tin đầy đủ người dân cũng có thể sử dụng các thực phẩm độc hại như hoa quả được tẩm hoá chất để bảo quản lâu ngày, các loại rau quả bị nhiễm thuốc trừ sâu, các loại thịt có nguy cơ được đưa đến từ một vùng mà súc vật đang bị các bệnh dịch.

Từ những phân tích trên đây có thể đi đến kết luận quyền tiếp cận thông tin chính là điều kiên tiên quyết để đảm bảo thực hiện các quyền con người và quyền công dân. Việc ban hành Luật tiếp cận thông tin đối với Việt nam hiện nay là cần thiết và cấp bách. Trong thời đại hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá quyền tiếp cận thông tin đã và đang trở nên một quyền cơ bản và là một trong những quyền quan trọng nhất của con người và công dân.

 

 

                                        

                                              Chuyên đề 20

 

       NHỮNG NGUYÊN TĂC CƠ BẢN CỦA DỰ LUẬT TIẾP CẬN

TH ÔNG TIN

                                           TS T ô V ăn Ho à

                                           Đ ại h ọc lu ật H à N ội

 

Từ giữa Thế kỷ 20, trên toàn thế giới đã diễn ra một “làn sóng” công nhận và đưa vào áp dụng trong thực tiễn quyền tiếp cận thông tin ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế. Cho đến nay, hầu hết các văn kiện về chính trị pháp lý của các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như hiến pháp các quốc gia trên thế giới đều đã công nhận và bảo hộ quyền tiếp cận thông tin dưới các hình thức khác nhau.[159] Các đạo luật quy định cụ thể hóa về quyền tiếp cận thông tin cũng đã và đang được hình thành ngày càng mạnh mẽ trong những thập kỷ qua. Nếu như trong những năm 1980 mới chỉ có khoảng 10 quốc gia có luật tiếp cận thông tin thì đến nay đã có 85 quốc gia có luật tiếp cận thông tin và luật này cũng đang được thảo luận sôi nổi trong giới lập pháp của khoảng 20 – 30 quốc gia khác. Đặc biệt trong số 85 quốc gia có luật tiếp cận thông tin, hơn 65 quốc gia mới ban hành luật này trong khoảng 10 năm trở lại đây.[160]

Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin lần đầu tiên được ghi nhận trong Điều 69, Hiến pháp 1992 với nội dung: “Công dân … có quyền được thông tin …”. Cùng với một số quyền cơ bản khác của công dân, quyền tiếp cận thông tin được ban hành khi đó đã đánh dấu sự hội nhập của chế định quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến pháp Việt Nam vào hệ thống các quy định về quyền con người trên phạm vi quốc tế. Đáng tiếc, vì những lý do khách quan và chủ quan, mãi tới thời gian gần đây luật tiếp cận thông tin mới đang được thảo luận và đưa vào dự thảo.

Để luật tiếp cận thông tin có thể truyền tải được đầy đủ nhất nội dung và tinh thần của quyền tiếp cận thông tin một cách phù hợp với điều kiện của từng quốc gia, quá trình xây dựng cũng như chính bản thân nội dung của luật này phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản nhất định đã được công nhận rộng rãi trên phạm vi quốc tế. Chuyên đề này được thực hiện nhằm tập trung phân tích và làm rõ các nguyên tắc đó để góp phần cung cấp định hướng phục vụ cho quá trình xây dựng luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay.

1. Quyền tiếp cận thông tin và Luật tiếp cận thông tin

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của Quyền tiếp cận thông tin

Mặc dù những luật quốc gia đầu tiên về quyền tiếp cận thông tin đã được ra đời từ rất sớm, ví dụ luật của Thụy điển năm 1766 và Columbia 1888, khái niệm “Quyền tiếp cận thông tin” mới được bắt đầu hình thành cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc và phong trào bảo vệ quyền con người trên phạm vi quốc tế do tổ chức này khởi xướng kể từ năm 1946.

Trong kỳ họp thứ nhất tiến hành năm 1946, Đại hội đồng Liên hợp quốc ban hành Nghị quyết 59(1) kêu gọi tổ chức một hội nghị quốc tế về tự do thông tin, trong đó đề cập: “Tự do thông tin là một quyền con người cơ bản và là nền tảng của tất cả các quyền tự do được Liên hợp quốc bảo hộ”. Hai năm sau đó, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc khẳng định “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào, và không có giới hạn về biên giới”.[161] Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cho đến nay đã có 160 nước thành viên, cũng khẳng định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng lời nói, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ.”[162]

Có thể nhận thấy, trong những thập kỷ đầu tiên sau khi Liên hợp quốc được hình thành, thuật ngữ “Tự do thông tin” (Freedom of information) đã được đề cập chứ không phải thuật ngữ “Quyền tiếp cận thông tin” (Right to information) như được sử dụng ngày nay. Khi đó, thuật ngữ “Tự do thông tin” hàm chứa một nội hàm rộng với nghĩa là công nhận và bảo hộ quyền của con người được tự do tiếp nhận, trao đổi thông tin dưới tất cả các hình thức khác nhau với bất kỳ người nào khác. Mục đích của việc bảo hộ tự do thông tin này là tạo ra sự lưu thông thông tin trong xã hội một cách tự do mà không phải chịu một rào cản bất hợp lý nào. Thuật ngữ “thông tin” trong khái niệm “Tự do thông tin” bao gồm tất cả các loại thông tin trong xã hội, trong đó cả các thông tin cá nhân, thông tin của các tổ chức và thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ. Với nội hàm như trên, “Tự do thông tin” rất gần với “Tự do ngôn luận” bởi vì tự do ngôn luận thực chất là sự tự do truyền đạt các ý tưởng và các thông tin mà mình có. Cũng chính vì sự gần gũi này mà trong các văn kiện quốc tế kể trên “Tự do thông tin” luôn đi kèm với “Tự do ngôn luận”. Thậm chí Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã coi “tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin” như một nội dung bộ phận của “Quyền tự do ngôn luận”.

Năm 1993, Ủy ban Nhân quyền của Liên hợp quốc thành lập vị trí Đặc phái viên của Liên hợp quốc về Tự do ý kiến và ngôn luận (UN Special Rapporteur on Freedom of Opinion and Expression) với nhiệm vụ làm rõ nội dung của quyền tự do ý kiến và ngôn luận để các nước thành viên có thể hiểu và áp dụng nó một cách thống nhất. Chính hoạt động của Đặc phái viên này đã góp phần làm cho khái niệm “Quyền tiếp cận thông tin” được phát triển một cách đầy đủ như được sử dụng hiện nay.

  Trong báo cáo năm 1998 và 2000 của mình, Đặc phái viên của Liên hợp quốc về Tự do ý kiến và ngôn luận khẳng định rằng quyền tiếp cận thông tin là một quyền con người độc lập nằm trong ngoại diên của tự do ngôn luận được các văn kiện quốc tế về quyền con người bảo hộ. Quyền tiếp cận thông tin quy định nghĩa vụ của Nhà nước phải bảo đảm cho tất cả mọi người được tiếp cận các nguồn thông tin mà trước tiên là thông tin do chính bản thân các cơ quan nhà nước đang nắm giữ hoặc quản lý dưới hình thức này hay hình thức khác.[163] Tinh thần của quyền tiếp cận thông tin chính là sự công khai hóa tối đa hoạt động của các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước đối với công chúng cũng như đối với từng người dân. Với tinh thần và nội dung như vậy, quyền tiếp cận thông tin có nội hàm khác với nội hàm của quyền tự do thông tin ở một số khía cạnh quan trọng:

  • Thứ nhất, quyền tự do thông tin chú trọng tới việc tạo ra sự lưu thông thông tin một cách tự do giữa tất cả các đối tượng trong xã hội. Nhà nước không có quyền ngăn cản và có nghĩa vụ phải tạo điều kiện cho sự lưu thông thông tin tự do này. Trong khi đó, quyền tiếp cận thông tin chỉ tập trung vào việc làm thế nào để người dân tiếp cận được, tức là bao gồm việc biết được, có được và được sử dụng, các thông tin về hoạt động của các nhà nước hoặc các thông tin đang do các cơ quan nhà nước nắm giữ.
  • Thứ hai, mục đích trực tiếp của quyền tự do thông tin là tạo ra một xã hội thông tin trong đó thông tin được lưu thông tự do, còn quyền tiếp cận thông tin lại có mục đích trực tiếp là làm cho hoạt đông mọi mặt của Nhà nước và các cơ quan nhà nước minh bạch đối với người dân. Với những mục đích khác nhau như vậy, khách thể của quyền tự do thông tin là bản thân thông tin dưới tất cả các hình thức và sự phân loại khác nhau trong xã hội. Các thông tin đó có thể do các cá nhân hay các tổ chức, đoàn thể hoặc bản thân cơ quan nhà nước nắm giữ. Trong khi đó quyền tiếp cận thông tin nhắm tới khách thể trực tiếp là thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước hay đang do các cơ quan nhà nước nắm giữ.

Về bản chất, quyền tiếp cận thông tin là một trong những nội dung của mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và Cá nhân (mà trước tiên là Công dân của Nhà nước đó), theo đó Cá nhân có quyền tiếp cận tới thông tin dưới các hình thức khác nhau mà Nhà nước đang nắm giữ và Nhà nước có nghĩa vụ phải bảo đảm cho sự tiếp cận này. Trong khoa học và thực tiễn pháp lý, khía cạnh nghĩa vụ của Nhà nước trong nội hàm của Quyền tiếp cận thông tin thường được nhấn mạnh, qua đó đôi khi gây ra cho người ta cảm giác rằng chính bản thân khía cạnh nghĩa vụ của Nhà nước làm nên toàn bộ nội hàm của Quyền tiếp cận thông tin. Điều này không phải là vô căn cứ bởi vì trong một mối quan hệ bất cân bằng về thế và lực như mối quan hệ giữa Nhà nước và Cá nhân, nếu nghĩa vụ của Nhà nước không được nhấn mạnh và bảo đảm thực thi thì tất yếu quyền của Cá nhân sẽ không được bảo đảm. Quy luật này đúng với tất cả các mối quan hệ giưaã Nhà nước và Cá nhân liên quan tới quyền cơ bản, trong đó có Quyền tiếp cận thông tin.

Dễ dàng nhận thấy, với tinh thần, bản chất và nội dung như đề cập trên đây, khái niệm “Quyền tiếp cận thông tin” mang ý nghĩa dân chủ rất lớn, thể hiện ở những khía cạnh sau.

Thứ nhất, trong các xã hội dân chủ thường nhấn mạnh tới việc tạo ra nhiều hình thức để người dân tham gia vào việc quản lý của nhà nước, từ việc thực hiện quyền bầu cử, đến việc đóng góp ý kiến vào các dự thảo chính sách, pháp luật của nhà nước, tham gia trưng cầu dân ý .v.v. Tất cả các hình thức tham gia vào việc quản lý của nhà nước kể trên đều sẽ trở thành vô nghĩa nếu như người dân không tiếp cận được tới thông tin cần thiết do các cơ quan nhà nước đang nắm giữ. Nếu không có thông tin đầy đủ về ứng cử viên thì việc bầu cử chỉ là hình thức, nếu như cử tri không có được thông tin đầy đủ về hoạt động của người đại biểu của mình thì việc cử tri xem xét có tái bầu một đại biểu nào đó cũng chỉ là hình thức. Đặc biệt nếu người dân không có thông tin đầy đủ về các dự thảo chính sách, pháp luật của nhà nước thì người dân sẽ không thể tham ia đóng góp vào các chính sách, pháp luật đó được. Nói tóm lại, nếu như không có quyền tiếp cận thông tin hoặc quyền tiếp cận thông tin không được bảo đảm thực thi thì những cam kết của Nhà nước về việc xây dựng các cơ chế để người dân tham gia quản lý nhà nước đều chỉ mang tính hình thức.

Thứ hai, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Mục đích trực tiếp của quyền tiếp cận thông tin là tạo ra sự minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước đối với công chúng, sao cho người dân đều có thể biết được và đều có thể theo dõi được các hoạt động mà các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước đang tiến hành. Một khi hoạt động nhà nước đã được minh bạch, cơ hội để cho các quan chức tha hóa tham nhũng sẽ được giảm đi đáng kể và quan trọng hơn nữa là việc che dấu các hành vi tham nhũng của quan chức sẽ trở nên không thể. Sự minh bạch thông tin sẽ góp phần làm cho các quan chức nhà nước không thể, và phần nào không dám, tham nhũng.

Thứ ba, quyền tiếp cận thông tin giúp nâng cao trách nhiệm của nhà nước và qua đó tăng hiệu quả công tác quản trị của nhà nước đối với đất nước và xã hội. Khi thông tin về hoạt động của nhà nước đã được công khai và khi người dân có đầy đủ khả năng, thông qua thực thi quyền tiếp cận thông tin, để biết được thông tin về hoạt động của nhà nước thì tất cả trách nhiệm của nhà nước sẽ được phơi bày trước người dân, việc nhà nước đã thực hiện hoặc không thực hiệnnhững biện pháp nào để bảo đảm hoàn thành trách nhiệm của mình cũng được phơi bày trước người dân. Điều đó tất yếu làm cho các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước nếu không muốn mất uy tín trước nhân dân thì bắt buộc phải coi trọng trách nhiệm của mình, bảo đảm tính hiệu quả trong công tác quản trị của nhà nước đối với đất nước và xã hội.

Thứ tư, quyền tiếp cận thông tin góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công tác giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, qua đó góp phần quan trọng xây dựng nhà nước pháp quyền. Giám sát của xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước luôn là yếu tố không thể thiếu trong các nền dân chủ. Chỉ khi nào người dân được quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và các quan chức nhà nước thì khi đó nhà nước mới thực sự là của dân và chế độ dân chủ mới được thiết lập. Tuy nhiên sẽ là không đủ nếu pháp luật chỉ quy định công dân có quyền giám sát hoạt động của nhà nước, vấn đề còn nằm ở chỗ người dân phải có khả năng thực hiện được quyền giám sát đó. Có được đầy đủ thông tin về hoạt động của cơ quan nhà nước, quan chức nhà nước mà mình đang giám sát thông qua việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin chính là điều kiện không thể thiếu để người dân có được khả năng đó. Khi có được đầy đủ thông tin thì tất cả các hình thức giám sát của người dân đối với nhà nước đều sẽ trở nên có hiệu quả hơn, cho dù là giám sát trực tiếp hay giám sát thông qua các đại biểu của mình.

Những phân tích trên cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của quyền tiếp cận thông tin, hơn bất kỳ quyền cơ bản nào khác của con người, đối với công cuộc xây dựng và duy trì một nền dân chủ thực sự. Đã có những nhận xét rất đúng rằng thông tin là “ôxy của dân chủ”[164]. Chính quyền tiếp cận thông tin là công cụ để đưa ôxy tới nuôi cơ thể nền dân chủ. Nếu không có công cụ đó, cơ thể dân chủ sẽ chết hoặc nếu không thì cũng sống một cách èo uột. Khi quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm, người dân sẽ sử dụng công cụ đó để xây dựng và duy trì nền dân chủ của mình.

1.2. Luật tiếp cận thông tin

Như phân tích trên đây, quyền tiếp cận thông tin là một giá trị tiến bộ và rất ưu việt của một xã hội dân chủ tiến bộ. Mọi quốc gia dân chủ hoặc muốn xây dựng một nền dân chủ ngày nay hầu hết đều trang trọng ghi nhận quyền này trong bản văn hiến pháp của mình. Hiến pháp Việt Nam quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”[165] Và quy định tương tự có thể được tìm thấy ở hiến pháp hay đạo luật về quyền cơ bản của nhiều nước trên thế giới. Khi đã được hiến định, đương nhiên quyền tiếp cận thông tin có giá trị pháp lý tối cao và ràng buộc đối với tất cả các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là làm thế nào để quyền tiếp cận thông tin thực sự phát huy tác dụng trên thực tế chứ không chỉ nằm trong bản văn của Hiến pháp; làm thế nào để người dân có thể tận hưởng đượng những lợi ích tuyệt vời mà quyền này mang lại cho họ tr. Nói một cách đơn giản là làm thế nào để người dân thực nhờ vào quyền tiếp cận thông tin đã được hiến định để có được tất cả các thông tin chi tiết về một sự án đô thị mới đã được các cơ quan nhà nước phê duyệt quy hoạch, về một dự án mở một tuyết đường nào đó, về quy hoạch tổng thể của một thị trấn, một thành phố một thủ đô, cao hơn nữa là các thông tin về các chủ trương chính sách, các quy định của pháp luật hiện hành mà các cơ quan nhà nước đang thực thi, các quy trình thủ tục giải quyết giấy tờ và tình trạng hiện tại của hồ sơ giấy tờ của mình, tế nhị hơn nữa là tất cả các khoản thu, chi của các cơ quan nhà nước … Tất cả những điều đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi có luật về quyền tiếp cận thông tin!

Luật tiếp cận thông tin là đạo luật do cơ quan lập pháp của quốc gia ban hành, trong đó cụ thể hóa quyền tiếp cận thông tin nhằm mục đích bảo đảm thực thi quyền cơ bản này. Mặt khác, giống như bất cứ quyền tự do nào, quyền tự do thông tin hay tiếp cận thông tin không phải là quyền tuyệt đối. Bao giờ nó cũng có những giới hạn nhiều chiều. Luật tiếp cận thông tin phải thể chế hóa chi tiết tất cả các giới hạn đó. Một luật tiếp cận thông tin điển hình thường bao gồm các nội dung như định nghĩa quyền tiếp cận thông tin, định nghĩa các loại thông tin mà các cơ quan nhà nước nắm giữ, phạm vi các loại thông tin được tiếp cận, thủ tục phải thực hiện khi tiếp cận, giới hạn thời gian phúc đáp, vấn đề tính phí tiếp cận thông tin, trách nhiệm nhà nước chủ động công bố một số loại thông tin, các trường hợp ngoại lệ của quyền tiếp cận thông tin, cơ chế giám sát và bảo đảm thực thi quyền tiếp cận thông tin, thiết chế bảo đảm thực thi quyền tiếp cận thông tin, cơ chế giải quyết khiếu nại khi bị từ chối quyền tiếp cận thông tin .v.v.

Khi quy định cụ thể những nội dung trên đây, luật tiếp cận thông tin thực sự trở thành công cụ để hiện thực hóa quyền tiếp cận thông tin vốn vẫn chỉ nằm trong bản văn hiến pháp. Với luật tiếp cận thông tin, người dân biết được mình cần phải làm gì và có thể làm gì để có thể có được các thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước. Không có luật tiếp cận thông tin, chắc chắn quy định của hiến pháp về quyền tiếp cậ thông tin sẽ chỉ là một điều luật chết bởi vì các quy phạm hiến pháp đều rất chunng chung, không thể hiện rõ cơ chế bảo đảm thực thi một cách cụ thể. Như vậy là việc có được một đạo luật tiếp cận thông tin với nội dung đầy đủ và phù hợp là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong thực tiễn. Đây cũng chính là lý do dẫn tới “làn sóng” hình thành luật tiếp cận thông tin ở các quốc gia trên khắp thế giới như đề cập tại phần mở đầu chuyên đề này.

2. Các nguyên tắc cơ bản và vai trò của nó trong việc xây dựng luật tiếp cận thông tin

Với vai trò của mình, nhiệm vụ tối cao của luật tiếp cận thông tin ở bất kỳ quốc gia nào là thể chế hóa thành công quyền tiếp cận thông tin. Điều đó có nghĩa là luật tiếp cận thông tin phải ban hành được một bộ thể chế về quyền tiếp cận thông tin và thủ tục tiếp cận thông tin đồng thời định hình được một cơ chế bảo đảm thực thi quyền tiếp cận thông tin. Thể chế luật tiếp cận thông tin phải bảo đảm được hai tiêu chí. Thứ nhất, thể chế luật tiếp cận thông tin phải thể hiện được hết tinh thầnnội dung của quyền tiếp cận thông tin đã được công nhận rộng rãi trên phạm vi quốc tế và quốc gia. Thứ hai, nội dung thể chế luật tiếp cận thông tin phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia ban hành. Bên cạnh một thể chế hợp lý theo hai tiêu chí như vậy, luật tiếp cận thông tin của quốc gia cũng phải xây dựng được một cơ chế bảo đảm thực thi quyền tiếp cận thông tin một cách hiệu quả. Cơ chế đó phải được quy định rất cụ thể, khả thi và thuận tiện. Cơ chế đó phải thực sự thuận lợi và dễ vận hành để trên thực tế người dân thấy được rằng mỗi khi họ cho rằng yêu cầu tiếp cận thông tin của mình bị khước từ thì họ đều có thể cảm thấy dễ dàng buộc cơ quan đã khước từ yêu cầu của mình phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và luôn luôn có các thiết chế có đủ năng lực và uy quyền để người dân có thể làm được điều đó. Cảm nhận và sự đánh giá của người dân, chứ không phải của chính bản thân các nhà lập pháp, hay cơ quan nhà nước, mới là căn cứ xác định tính hiệu quả của cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.

Để luật tiếp cận thông tin đáp ứng được các yêu cầu trên đây, quá trình xây dựng luật và nội dung các quy phạm của luật cần phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản nhất định. Những nguyên tắc cơ bản của luật tiếp cận thông tin là những quan điểm định hướng lớn cho nội dung các quy phạm của luật tiếp cận thông tin. Những nguyên tắc cơ bản được đặt ra để làm kim chỉ nam dẫn đường khi xây dựng các điều khoản và các chế định, bảo đảm cho luật tiếp cận thông tin đáp ứng được các tiêu chuẩn đề cập trên đây. Bản thân các nguyên tắc cơ bản cũng thường được quy định ở những điều khoản đầu tiên của luật tiếp tiếp cận thông tin. Vai trò của các nguyên tắc cơ bản là hết sức quan trọng đối với việc xây dựng luật tiếp cận thông tin, giúp cho luật tiếp cận thông tin điều chỉnh được hết tất cả các vấn đề cần điều chỉnh của quyền tiếp cận thông tin một cách phù hợp với điều kiện của quốc gia.

Vị trí của các nguyên tắc cơ bản của luật tiếp cận thông tin trong quá trình

hình thành luật tiếp cận thông tin có thể được mô tả bằng sơ đồ sau:

 

 

 

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quan điểm phổ biến nhất trên thế giới hiện nay về các nguyên tắc của luật tiếp cận thông tin là quan điểm do Tổ chức Điều 19 (Article 19 – XIX) đưa ra. Đây là một tổ chức phi chính phủ quốc tế có trụ sở tại Vương quốc Anh hoạt động với mục đích thúc đẩy tự do ngôn luận và tự do thông tin trên toàn thế giới. Năm 1999, tổ chức này đề xuất 9 nguyên tắc để làm định hướng cho việc xây dựng luật tiếp cận thông tin và luật tự do thông tin ở các quốc gia.[166] Chín nguyên tắc này sau đó nhanh chóng trở thành phổ biến trên toàn thế giới và được Ủy ban nhân quyền của Liên hợp quốc công nhận.[167]

Năm 2005, một tổ chức phi chính phủ quốc tế khác là Tổ chức Sáng kiến công lý (the Justice Initiative) cũng đưa ra quan điểm về các nguyên tắc của luật tiếp cận thông tin của các quốc gia. Theo tổ chức này, luật tiếp cận thông tin cần phải tuân thủ 10 nguyên tắc, trong đó có một số nguyên tắc khác với 9 nguyên tắc của Tổ chức Điều 19.[168]

  Mỗi bộ nguyên tắc đề xuất bởi các tổ chức trên đây đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Chúng có sự bổ sung hữu ích cho nhau và cùng nhau bao trùm một cách khá toàn diện các khía cạnh của quyền tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, các nguyên tắc này khá cụ thể, chi tiết, đôi khi lại tách bạch các vấn đề liên quan tới cùng một khía cạnh của quyền tiếp cận thông tin. Trên cơ sở tổng hợp nội hàm của tất cả các nguyên tắc cụ thể đề cập ở trên cùng với yêu cầu khách quan xuất phát từ tinh thần và nội dung của quyền tiếp cận thông tin, có thể thấy luật tiếp cận thông tin của bất cứ quốc gia nào cũng đều phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng năm nguyên tắc cơ bản được phân tích sau đây:

2.1. Minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước

  Tinh thần của quyền tiếp cận thông tin như đề cập trên đây là công khai hóa tối đa hoạt động của Nhà nước, các cơ quan nhà nước và các quan chức nhà nước đối với công chúng. Chính vì vậy, nguyên tắc cơ bản quan trọng nhất và bao trùm nhất đối với luật tiếp cận thông tin chính là nguyên tắc minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước đối với người dân. Nguyên tắc này yêu cầu mọi điều khoản, mọi chế định của luật tiếp cận thông tin phải tạo điều kiện tốt nhất để người dân có thể tiếp cận được với thông tin về các cơ quan nhà nước với những hình thức khác nhau. Nguyên tắc này cũng bao trùm và chi phối tới nội dung của hầu hết các nguyên tắc cơ bản còn lại của luật tiếp cận thông tin.

Ngoài yêu cầu khái quát nêu trên, nguyên tắc minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước còn có những yêu cầu cụ thể đối với các quy định của luật tiếp cận thông tin liên quan tới việc tổ chức thi hành luật này.

Luật tiếp cận thông tin điều chỉnh một mối quan hệ có nội dung đặc biệt, theo đó các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin về hoạt động của mình cũng như các thông tin mà mình nắm giữ cho công chúng và bất kỳ người dân nào có yêu cầu. Trường hợp xảy ra phổ biến ở hầu hết các quốc gia là bản thân các quan chức nhà nước mà trước tiên là đội ngũ công vụ nhà nước thường có xu hướng không muốn tự nguyện thực hiện nghĩa vụ này, bởi một lý do đơn giản là họ sợ hoặc không muốn bị “phơi lưng” trước công chúng. Cho dù luật tiếp cận thông tin có thể có nội dung tốt đẹp thế nào đi chăng nữa thì tâm lý cản trở của chính bản thân cán bộ nhà nước cũng có thể hủy hoại những ý nghĩa tốt đẹp của quyền tiếp cận thông tin. Để ngăn chặn tình trạng đó, nguyên tắc minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước đặt ra một số yêu cầu cụ thể về nội dung đối với luật tiếp cận thông tin.

Thứ nhất, các quy định của luật tiếp cận thông tin phải cụ thể hóa ở mức độ tối đa, sao cho sau khi đã được ban hành rồi thì các quy định đó sẽ được áp dụng trực tiếp vào cuộc sống mà không cần phải qua một bước cụ thể hóa nào. Các quy phạm của luật tiếp cận thông tin cũng cần phải thật rõ ràng, dễ hiểu, đơn nghĩa để việc áp dụng có thể được thực hiện một cách nhất quán mà không cần phải có sự giải thích gì thêm.

Thứ hai, trong luật tiếp cận thông tin cần phải có điều khoản riêng quy định về vấn đề giáo dục nâng cao nhận thức của công chúng về quyền tiếp cận thông tin, luật tiếp cận thông tin và cách thức để người dân thực hiện quyền này. Quyền tiếp cận thông tin có một phạm vi tác động lớn và cũng là mối quan tâm của toàn thể nhân dân. Việc ban hành luật tiếp cận thông tin cũng là để cho từng người dân có thể sử dụng luật đó để bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu như người dân không biết tới sự tồn tại của luật và những lợi ích mà luật có thể đem lại cho mình thì cho dù luật đã được ban hành và có hiệu lực thì cũng chỉ không khác gì những quy định nằm trên giấy, không đem lại tác động và ích lợi gì cho xã hội. Luật tiếp cận thông tin, vì vậy, cần có những điều khoản quy định về cơ quan có trách nhiệm phổ biến, tần suất phổ biến và các nội dung phổ biến của luật tiếp cận thông tin tới công chúng. Các quy định như vậy là đặc biệt quan trọng đối với luật tiếp cận thông tin của những nước đang phát triển và kém phát triển nơi mà trình độ dân trí và ý thức của cộng đồng về các quyền cơ bản mà mình được hưởng còn chưa cao.

Thứ ba, để luật tiếp cận thông tin đi vào cuộc sống thì sẽ là chưa đủ nếu chỉ chú trọng nâng cao nhận thức của công chúng về luật này. Một bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng đối với việc thực hiện luật tiếp cận thông tin là đội ngũ các cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước, những người có trách nhiệm và nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin của công chúng. Thiếu đi sự nhận thức của đội ngũ cán bộ nhà nước thì việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân chắc chắn sẽ gặp những khó khăn nhất định. Chính vì vậy luật tiếp cận thông tin phải có những quy định cụ thể về việc tiến hành đào tạo nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ nhà nước về luật tiếp cận thông tin mà cụ thể là nghĩa vụ cung cấp thông tin của họ đối với công chúng. Đây cũng là yêu cầu cụ thể thứ ba của nguyên tắc cơ bản về minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước của luật tiếp cận thông tin. Cũng giống như yêu cầu trên, yêu cầu này đặc biệt quan trọng và cần được nhấn mạnh đối với những nước đang phát triển nơi mà văn hóa coi trọng dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước thường là chưa cao.

2.2. Công khai thông tin một cách tối đa

Nội dung của nguyên tắc này đúng như tên gọi của nó, có nghĩa là các thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ đều phải được công khai một cách tối đa, nói cách khác phạm vi thông tin do các cơ quan nhà nước đang nắm giữ mà người dân có thể tiếp cận được phải là phạm vi tối đa thông tin. Nguyên tắc này có hai yêu cầu cốt yếu: (1) thông tin mà cơ quan nhà nước đang nắm giữ mà người dân có thể tiếp cận phải là tối đa; và (2) những thông tin hạn chế không cho người dân tiếp cận phải là tối thiểu. Nội dung (1) cần phải được xem là trường hợp phổ quát và nội dung (2) là những trường hợp ngoại lệ của quyền tiếp cận thông tin.

Có ba thuật ngữ căn bản liên quan quan tới nội dung của nguyên tắc này mà cần phải được định nghĩa một cách rõ ràng trong luật, đó là khái niệm “thông tin”, “cơ quan nhà nước” và “thông tin không được tiết lộ”.

Thuật ngữ “thông tin” và “cơ quan nhà nước” phải được định nghĩa một cách rộng nhất có thể. “Thông tin” phải bao gồm tất cả các bản lưu do cơ quan nhà nước nắm giữ dưới bất kể hình thức nào, cho dù là văn bản, bản ghi âm, ghi hình, ghi điện tử .v.v., hoặc do có từ bất kỳ nguồn nào mà hiện đang do cơ quan nhà nước nắm giữ cũng như ngày hình thành thông tin. Theo khái niệm này thì về cơ bản công dân có quyền tiếp cận tới mọi loại thông tin đang được các cơ quan nhà nước nắm giữ, từ các giấy tờ, văn bản chính thức của cơ quan nhà nước đó, tới các tài liệu chuẩn bị lập chính sách, các bảng biểu kế hoạch, quy hoạch, các bảng biểu kế toán, thông số .v.v. Vấn đề mấu chốt ở đây là thông tin chứ không phải là hình thức chứa đựng thông tin vì vậy người dân có thể đưa ra yêu cầu cần biết một thông tin nào đó và cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp các nguồn thông tin mà mình đang nắm giữ chứa đựng thông tin đó cho người có yêu cầu.

Thuật ngữ “cơ quan nhà nước” cũng cần phải được định nghĩa một cách rộng nhất có thể. Điều quan trọng là phải xác định theo chức năng mà cơ quan đó thực hiện chứ không phải là tên gọi của các cơ quan đó. Trên thực tế, chức năng hành pháp hay nói cách khác là nhánh các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thường được chú ý nhất khi người dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Tuy nhiên phạm vi lý tưởng của thuật ngữ “cơ quan nhà nước” theo khuyến cáo của Liên hợp quốc lại rộng hơn rất nhiều, bao gồm tất cả các cơ quan thuộc tất cả các nhánh  quyền lực nhà nước, từ trung ương tới địa phương, từ cơ quan dân cử tới cơ quan hành chính hay cơ quan tư pháp, từ các cơ quan đơn thuần thực hiện chức năng quản lý tới các tập đoàn nhà nước, các công ty công ích (ví dụ công ty kinh doanh điện, nước, giao thông công cộng) hay các tổ chức chính trị - xã hội hưởng ngân sách nhà nước. Một trong những cách xác định “cơ quan nhà nước” là dòng tiền ngân sách nhà nước. Về nguyên tắc bất kỳ cơ quan, tổ chức nào có sử dụng nguồn ngân sách nhà nước cho dù ở bất kỳ mức độ nào đều rơi vào ngoại diên của khái niệm “cơ quan nhà nước” trong luật tiếp cận thông tin.

Phạm vi “thông tin không được tiết lộ” hoặc phạm vi các thông tin hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải được định nghĩa một cách tối thiểu nhất có thể. Tất cả những trường hợp có thể từ chối tiếp cận thông tin phải được quy định một cách cụ thể trong luật và phải là trường hợp có lý do hợp lý, tức là nhằm bảo vệ những lợi ích hợp lý. Một số lý do/lợi ích hợp lý để hạn chế quyền tiếp cận thông tin có thể đề cập tới trong luật tiếp cận thông tin của quốc gia là:

  • tôn trọng bí mật kinh doanh, bí mật đời tư hoặc uy tín của người khác;
  • bảo vệ an toàn cá nhân;
  • bảo vệ an ninh quốc gia;
  • bảo vệ trật tự công cộng;
  • để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức xã hội; và
  • bảo đảm tính hiệu quả và nhất quán trong việc ra và thực thi các quyết định của nhà nước.[169]

Hầu hết những lý do/lợi ích trên đây mang tính tương đối cao và có thể xuất hiện trong rất nhiều trường hợp yêu cầu cung cấp thông tin. Ví dụ thế nào là uy tín của người khác và khi nào thì nhu cầu bảo vệ uy tín của người khác được coi trọng hơn nhu cầu đòi hỏi thông tin của người dân; hay như thế nào là bảo đảm hiệu quả thực thi các quyết định của nhà nước. Chính vì tính tương đối như vậy nên để xác định một cách chắc chắn trường hợp nào cơ quan nhà nước có thể từ chối quyền tiếp cận thông tin, Ủy ban nhân quyền của Liên hợp quốc đã công nhận một công thức gồm có hai bước thử:[170]

  • Bước thử thứ nhất: cần xác định được liệu việc tiết lộ thông tin có gây hại nghiêm trọng tới lợi ích được nêu ra hay không. Nếu câu trả lời là không thì đương nhiên cơ quan nhà nước không được từ chối cung cấp thông tin. Ngược lại, nếu câu trả lời là có thì phải tiến hành tiếp bước thử thứ hai mới có thể xác định được có từ chối cung cấp thông tin hay không. Cần lưu ý là có những trường hợp việc tiết lộ thông tin có thể vừa có thể gây hại vừa làm lợi cho lợi ích nào đó. Ví du việc tiết lộ các vụ tham nhũng có thể có vẻ vừa làm suy yếu cơ quan nhà nước do bị giảm uy tín trước công chúng vừa có thể làm trong sạch và qua đó làm cho cơ quan nhà nước được vững mạnh hơn. Trong những trường hợp như vậy khía cạnh làm lợi của việc tiết lộ thông tin cần được xem trọng hơn.
  • Bước thử thứ hai: mức độ gây hại của việc tiết lộ thông tin phải lớn hơn lợi ích của công chúng. Sau bước thử thứ nhất, việc tiết lộ thông tin có thể được xác định là gây thiệt hại nghiêm trọng tới lợi ích nào đó nhưng nếu sự gây hại đó nhỏ hơn nhu cầu biết và sự quan tâm của công chúng đối với thông tin thì thông tin đó vẫn phải được công bố.

Như vậy là nội dung tổng quát của nguyên tắc cơ bản thứ hai của luật tiếp cận thông tin là rất rõ và bao quát lên phần lớn nội dung của luật tiếp cận thông tin. Theo đó, quy tắc chung là người dân có quyền tiếp cận tới mọi thông tin mà mọi cơ quan nhà nước đang nắm giữ, trừ những trường hợp ngoại lệ được quy định rõ ràng và cụ thể trong luật.

2.2.  Nghĩa vụ công khai thông tin của các cơ quan nhà nước

Tiếp cận thông tin là quyền cơ bản được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và được quy định trong hầu hết hiến pháp của các quốc gia. Các quốc gia khác nhau có thể quy định khác nhau về phạm vi chủ thể có quyền tiếp cận thông tin, có những nước trao quyền này cho bất cứ người dân nào sinh sống trên lãnh thổ nước mình (ví dụ Thụy điển, Phần lan, Mỹ …) có những nước khác trao quyền đó chỉ cho công dân của mình mà thôi (ví dụ Việt Nam, Trung quốc …). Cho dù phạm vi chủ thể của quyền tiếp cận thông tin là thế nào đi chăng nữa thì nó cũng luôn phải được nhìn nhận như đúng bản chất của một quyền cơ bản có nghĩa là người dân có quyền yêu cầu được tiếp cận thông tin nào đó do các cơ quan nhà nước đang nắm giữ và các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ phải đáp ứng các yêu cầu đó. Khía cạnh quyền và khía cạnh nghĩa vụ ở đây có mối liên hệ mật thiết với nhau và hợp thành nội dung của nguyên tắc về nghĩa vụ công khai thông tin của các cơ quan nhà nước, thể hiện ở những điểm sau.

Thứ nhất, người dân (hoặc công dân) có quyền yêu cầu cung cấp thông tin mà không phải nêu lý do tại sao lại cần thông tin và cần thông tin để làm gì. Người dân chỉ cần bày tỏ sự quan tâm của mình tới thông tin là cơ quan nhà nước được yêu cầu đã phải cung cấp thông tin đó. Tinh thần và ý nghĩa của quyền tiếp cận thông tin là ở chỗ cơ quan nhà nước phải minh bạch hoạt động đối với công chúng. Vì vậy lý do sử dụng thông tin thực sự không quan trọng đối với yêu cầu minh bạch hoạt động đối với cơ quan nhà nước. Miễn là người yêu cầu đến từ ngoại diên của khái niệm “công chúng” là đã đủ để được hưởng quyền tiếp cận thông tin. Thậm chí danh tính của người yêu cầu cấp thông tin cũng không phải là quan trọng đối với việc cấp thông tin. Cơ quan nhà nước chỉ cần biết rằng người yêu cầu có quyền tiếp cận thông tin và có nhu cầu tiếp cận thông tin là đã phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin.

Thứ hai, cơ quan nhà nước có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của người dân mà không được quyền hỏi lý do hay mục đích sử dụng thông tin của người yêu cầu. Chỉ cần người dân đưa ra yêu cầu cung cấp thông tin thì nghĩa vụ cung cấp thông tin đã phát sinh đối với cơ quan nhà nước tương ứng.

Thứ ba, bên cạnh nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu, các cơ quan nhà nước còn có nghĩa vụ chủ động công bố một số loại thông tin thiết yếu tới công chúng mà không cần phải có những yêu cầu cụ thể. Những thông tin này bao gồm ít nhất:

  • Thông tin hoạt động của cơ quan đó ví dụ như mục đích, chức năng, tổ chức, các tiêu chí hoạt động, nội quy, giới thiệu hoạt động, báo cáo tài chính, kiểm toán... Những thông tin này có thể được công bố dưới dạng các tờ rơi, tờ giới thiệu hoặc bản báo cáo hàng năm;
  • Thông tin liên quan đến các loại vụ việc khiếu nại tố cáo mà cơ quan nhà nước đó có thể tiếp nhận và giải quyết;
  • Thông tin hướng dẫn cách thức mà công chúng có thể tham gia vào quá trình làm chính sách hoặc pháp luật của cơ quan nhà nước đó cũng như các tài liệu chuẩn bị cho việc ban hành chính sách hoặc pháp luật đó;
  • Thông tin liên quan tới các loại thông tin mà cơ quan nhà nước đó đang nắm giữ và hình thức của các loại thông tin đang nắm giữ;
  • Thông tin về các mối đe dọa tới môi trường hay sức khỏe cộng đồng mà cơ quan nhà nước đó đang nắm giữ.

Thứ tư, nhân viên làm việc trong các cơ quan nhà nước thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin theo đúng nghĩa vụ của mình phải được bảo vệ khỏi bất kỳ biện pháp kỷ luật hay xử phạt nào. Đây là một yêu cầu quan trọng của nguyên tắc cơ bản số 3 này, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Như đề cập trên đây, tình trạng khá phổ biến là bản thân các cơ quan nhà nước thường có xu hướng không hưởng ứng quyền tiếp cận thông tin, do đó hình thành “văn hóa” không đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin của công chúng. Trong môi trường đó, những nhân viên nhà nước có tinh thần trách nhiệm trong việc đáp ứng quyền tiếp cận thông tin của người dân có khi lại bị phân biệt đối xử hoặc tệ hơn nữa là bị kỷ luật. Nếu những người như họ không được bảo vệ thì văn hóa tôn trọng quyền tiếp cận thông tin và xa hơn nữa là văn hóa tôn trọng quyền con người sẽ không bao giờ có thể hình thành được trong các cơ quan nhà nước. Nếu điều đó xảy ra thì sẽ là hết sức tồi tệ đối với quyền tiếp cận thông tin.

Thứ năm, nguyên tắc nghĩa vụ công khai thông tin còn đòi hỏi các cuộc họp để bàn về chính sách và ra quyết định của các cơ quan nhà nước phải được mở công khai để công chúng có thể theo dõi và nắm bắt thông tin. Yêu cầu này đặc biệt được đề cao đối với các cơ quan dân cử. Đối với các cơ quan thực thi chính sách thuộc khối hành pháp, đôi khi nhu cầu giữ bí mật để bảo đảm tính hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật, thực thi chính sách có thể lấn át yêu cầu họp và quyết định công khai.

2.4. Thủ tục tiếp cận thông tin đơn giản và thuận lợi nhất

Quyền tiếp cận thông tin cho dù có được luật tiếp cận thông tin cụ thể hóa một cách chi tiết và ưu việt về mặt nội dung đến mấy đi nữa thì người dân vẫn có thể không thực hiện được quyền này trên thực tế nếu như quy trình thủ tục được quy định không hợp lý. Một quy trình thủ tục quá phức tạp sẽ làm cho người dân bị lạc lối trong mê cung thủ tục tại các cơ quan nhà nước và qua đó không đủ kiên nhẫn để chờ cho quyền của mình được thực hiện. Ngược lại, một quy trình thủ tục đơn giản và thuận lợi sẽ khích lệ người dân thực hiện quền tiếp cận thông tin của mình qua đó vừa góp phần làm cho cơ quan nhà nước gần dân hơn vừa làm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước minh bạch với công chúng hơn. Thủ tục tiếp cận thông tin vì vậy là một nội dung quan trong cần được đề cập trong luật tiếp cận thông tin.

Luật tiếp cận thông tin không nhất thiết phải quy định một cách cụ thể, chi tiết quy trình tủ tục tiếp cận thông tin đối với cho từng cơ quan nhà nước cụ thể bởi các cơ quan có cơ cấu tổ chức khác nhau, chức năng nhiệm vụ khác nhau và quy trình thủ tục, vì vậy, cũng có thể được bố trí khác nhau. Tuy nhiên, ít nhất luật tiếp cận thông tin cũng phải đưa ra được những tiêu chí để bảo đảm các quy trình, thủ tục tiếp cận thông tin ở các cơ quan nhà nước đơn giản và thuận tiện đối với người dân. Các tiêu chí đó bao gồm:

  • Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải ban hành quy trình, thủ tục để công chúng tiếp cận thông tin mà mình đang nắm giữ.
  • Quy trình, thủ tục tiếp cận thông tin phải rõ ràng, dễ hiểu với những mẫu, đơn yêu cầu cung cấp thông tin làm sẵn và đầy đủ.
  • Địa chỉ người nhận đơn, người có trách nhiệm xử lý đơn được xác định rõ ràng.
  • Trong trường hợp đơn yêu cầu tiếp cận thông tin gửi tới người không có thẩm quyền phù hợp thì người đó vẫn phải nhận đơn và có trách nhiệm chuyển đơn tới người đúng thẩm quyền.
  • Thời gian xử lý đơn được quy định cụ thể và rõ ràng, không cần phải giải thích thêm.
  • Phí trả cho việc tiếp cận thông tin là tối thiểu và thường chỉ là phí để bù đắp chi phí vật chất cho việc cung cấp thông tin.

Khi những tiêu chí trên đây được thể chế hóa trong luật tiếp cận thông tin và được các cơ quan nhà nước tuân thủ khi ban hành quy trình, thủ tục tiếp cận thông tin của riêng mình thì người dân sẽ thực sự cảm thấy việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình thực sự dễ dàng và thuận tiện.

2.5.  Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được thực thi

Như trên đã đề cập, quan hệ quyền cơ bản nói chung trong đó có quan hệ quyền tiếp cận thông tin là những mối quan hệ mà trong đó các chủ thể ở thế bất cân bằng về thế và lực. Dù phạm vi quyền tiếp cận thông tin được quy định ưu việt thế nào đi chăng nữa và thủ tục để thực hiện quyền này có thuận lợi thế nào đi chăng nữa thì khi bên chủ thể là cơ quan nhà nước không đáp ứng quyền tiếp cận thông tin của người dân thì ngay lập tức người dân bị đẩy vào tình thế thấp cổ bé họng và sẽ không thể tự mình đấu tranh với cơ quan nhà nước để đòi cơ quan nhà nước phải thực thi nghĩa vụ cung cấp thông tin cho mình được. Chính vì vậy luật tiếp cận thông tin phải có những quy định hình thành nên cơ chế hữu hiệu bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được thực thi trong trường hợp cơ quan nhà nước được yêu cầu cung cấp thông tin không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin của mình mà không có lý do chính đáng. Đây cũng chính là nội dung của nguyên tắc cơ bản số 5 của luật tiếp cận thông tin.

Cơ chế hữu hiệu để buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin thường có hai cấp. Khi cơ quan nhà nước từ chối thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin, người yêu cầu cung cấp thông tin có quyền khiếu nại lên một cơ quan cấp trên. Cơ quan cấp trên này có thể chính là cơ quan cấp trên trực tiếp về mặt hành chính của cơ quan đã từ chối cung cấp thông tin hoặc cũng có thể là một cơ quan độc lập chuyên xử lý các khiếu nại đối với các cơ quan hành chính, ví dụ như một ủy ban bảo vệ quyền cơ bản của nghị viện hoặc thanh tra nghị viện. Các cơ quan độc lập này cần phải có đủ thẩm quyền để triệu tập cơ quan đã vi phạm, tổ chức điều tra và đưa ra kết luận về vụ việc. Cơ quan này có thể bác đơn khiếu nại hoặc ra lệnh cho cơ quan đã từ chối phải cung cấp thông tin theo yêu cầu.

Trong trường hợp người khiếu nại không thỏa mãn với nội dung giải quyết của cấp thứ nhất hoặc cấp thứ nhất không giải quyết vụ việc trong thời hạn quy định trong luật tiếp cận thông tin, họ có thể khiếu nại vụ việc lên cấp thứ hai, thường là một tòa án hành chính để giải quyết vụ việc cả về mặt nội dung và thủ tục pháp lý. Quyết định của tòa án này phải là quyết định chung thẩm và có hiệu lực cưỡng chế thi hành đối với tất cả các bên.

Một điều hết sức quan trọng đối với cơ chế bảo đảm thực thi quyền tiếp cận thông tin là bản thân cơ chế này cũng phải có thủ tục đơn giản và thuận tiện. Cơ chế này phải có khả năng đáp ứng kịp thời và giải quyết trong khoảng thời gian ngắn nhất các khiếu nại của người dân do bị từ chối quyền tiếp cận thông tin. Có như vậy thì người dân mới tin vào cam kết của nhà nước về bảo hộ quyền tiếp cận thông tin, đồng thời chính bản thân từng cơ quan nhà nước cụ thể cũng sẽ tự nâng cao ý thức của mình hơn đối với việc đáp ứng các yêu cầu cung cấp thông tin của người dân.

Năm nguyên tắc cơ bản của luật tiếp cận thông tin nêu trên đây tuy không nhiều song chúng bao trùm lên mọi khía cạnh của quyền tiếp cận thông tin, từ khía cạnh nội dung tới khía cạnh bảo đảm thực thi. Tuân thủ và áp dụng đầy đủ năm nguyên tắc này sẽ giúp cho luật tiếp cận thông tin của quốc gia thể chế hóa được quyền tiếp cận thông tin một các phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế đồng thời phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia mình.

 

                                     Chuyên đề 21

 

QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN VÀ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ MỞ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

                                                  TS Hoàng Thị Ngân

                                                   Văn phòng Chính phủ

1.Quyền tiếp cận thông tin

 

Tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của cá nhân, được khẳng định ở các văn kiện quốc tế và pháp luật quốc gia. Các đạo luật về tự do thông tin của trên dưới 80 quốc gia phản ánh quan hệ xã hội ở đất nước tương ứng. luật của các nước sử dụng rất khác nhau về thuật ngữ để miêu tả quyền của cá nhân, công dân được tiếp cận thông tin công. Một số nước quy định quyền được tiếp cận các hồ sơ, tài liệu chính thức hoặc các files, dữ liệu văn bản, như Anbani, Bỉ, Colombo, Đan Mạch, Pháp, Hung Ga ri, Nhật Bản. Một số nước khác luật hóa quyền được thông tin như Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ…Tự do thông tin là khái niệm được sử dụng tại Vương Quốc Anh, Israel, Iceland, Latvia, Nauy, Mỹ, Australia, Newzeland. Do cùng hướng tới nội dung chủ đạo là tiếp cận thông tin, các Luật đó có một số điểm chung nhất định.

Tiếp cận thông tin, về bản chất là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân trong việc sử dụng thông tin. Mối quan hệ này được điều chỉnh dựa trên một số nguyên tắc.

Quyền tiếp cận thông tin đã được quy định trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng, được ghi nhận trong Hiến pháp các nước. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 59(1), quy định: “tự do thông tin là quyền con người cơ bản và….nền tảng của tất cả các tự do khác…”. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người (năm 1948) đã liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của cá nhân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các Chính phủ trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền này. Quyền tiếp cận thông tin được tuyên bố  trong hàng loạt văn kiện quốc tế : Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003…

Ở cấp độ khu vực và quốc gia, quyền tiếp cận thông tin được quy định trong Công ước Nhân quyền Châu Âu (ECHR), Công ước Nhân quyền Châu Mỹ (ACHR), Chương trình Hành động chống tham nhũng dành cho khu vực Châu Á – Thái bình dương, bảo đảm rằng công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng một cách phù hợp với pháp luật trong  nước.

Tính đến tháng 9/2007 đã có khoảng 70 quốc gia ban hành luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin công: Mỹ năm 1966, Canađa năm 1983, Hunggari năm 1992, Vương Quốc Anh và Nam Phi năm 2000, Liên Bang Nga năm 2006...Ở Châu Á, một số nước cũng đã ban hành văn bản lập pháp về tiếp cận thông tin như Thái Lan năm 1997, Hàn Quốc năm 1998, Nhật Bản năm 2004, Ấn Độ năm 2005, Trung Quốc năm 2007…

1. Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin

Chủ thể mang quyền tiếp cận thông tin có thể được xác định trong các văn kiện quốc tế (Công ước của Liên Hợp quốc về Chống tham nhũng, Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường năm 1998), trong Hiến pháp hoặc trong các đạo luật về tiếp cận thông tin hay về công khai hoạt động của chính quyền.

Tại các văn bản pháp luật quốc tế và một số quốc gia, chủ thể mang quyền tiếp cận thông tin có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân có thể là công dân, người không mang quốc tịch, người nước ngoài; cụ thể hơn, có thể là trẻ em hay công chức nhà nước.

Với quan niệm tiếp cận thông tin là một quyền dân sự - chính trị, Hiến pháp, Luật các nước sử dụng các công thức như “mọi người”, “bất kể người nào” hay “công chung”, “người dân” để thể hiện tính phổ quát của quyền này. 

Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin có thể là công chúng nói chung. Theo Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường (25/6/1998): …mỗi Bên tham gia Công ước sẽ bảo đảm các quyền được tiếp cận thông tin, quyền của công chúng được tham gia vào các tiến trình ra quyết định (Điều 1). Tại đây, “công chúng” được cắt nghĩa là một hoặc nhiều thể nhân hoặc pháp nhân và theo luật hoặc thông lệ quốc gia, là các tổ chức, hiệp hội hoặc nhóm của họ (Điều 2). “Trong phạm vi các điều khoản có liên quan đến Công ước này, công chúng sẽ tiếp cận thông tin, có khả năng tham gia vào việc ra các quyết định và tiếp cận bình đẳng đối với các vấn đề về môi trường mà không phân biệt tư cách công dân, quốc tịch hay sinh quán…” (Khoản 9 Điều 3).

Công ước của Liên Hợp quốc về Chống tham nhũng được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua vào tháng 10/2003 và có hiệu lực thi hành vào tháng 12/2005 nêu: Đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin một cách hiệu quả.

Theo Công ước của Liên minh Châu Phi về phòng, chống tham nhũng 6/2003, mọi người đều có quyền tiếp cận và cập nhật hoặc chỉnh sửa các thông tin cá nhân của bản thân, không kể các thông tin đó do cơ quan Nhà nước hay tổ chức tư nhân nắm giữ[171].

 Hiến pháp Anbani (Điều 56) có quy định: “ Mọi người có quyền được thông tin về tình trạng môi trường và việc bảo vệ môi trường”.

Theo Luật về quyền tiếp cận thông tin trong các tài liệu chính thức của Anbani năm 1999, “công chúng” là chỉ bất cứ người nào, “người” là bất kỳ cá nhân nào, thể nhân và pháp nhân, là người Anbani hay người nước ngoài (Điều 2).

Theo Luật tiếp cận thông tin của Canada năm 1985, bất kể ai là :  công dân Canada; người thường trú dài hạn theo mục 2 (1) của Luật về nhập cư và bảo vệ người tị nạn đều có quyền và dựa theo yêu cầu sẽ được phép tiếp cận bất cứ tài liệu nào thuộc quyền kiểm soát của cơ quan Chính phủ (điểm 4).

          Luật của Nhật Bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính năm 2001 quy định : Bất kể người nào được quy định trong Luật này đều có thể yêu cầu người đứng đầu một cơ quan hành chính[172] cung cấp các văn bản hành chính của các cơ quan đó (Điều 3). Luật còn quy định nghĩa vụ cung cấp văn bản hành chính trong trường hợp cá nhân yêu cầu là quan chức Chính phủ (các công chức quốc gia được nêu tại Luật dịch vụ công cộng quốc gia, tại Luật về các quy tắc chung về các cơ quan hành chính phối hợp được chỉ định) - điểm c Khoản 1 Điều 5.

Luật Tự do thông tin Thuỵ Điển được ban hành vào năm 1949 và được sửa đổi vào năm 1976[173] (Điều 2) quy đinh: “ Mọi chủ thể và người cư trú của Thụy Điển có quyền tự do tiếp cận các tài liệu chính thức”. Các cơ quan Nhà nước phải trả lời ngay lập tức các yêu cầu tài liệu chính thức. Yêu cầu có thể được thực hiện dưới mọi hình thức và có thể vô danh.

Luật về tiếp cận hồ sơ hành chính Nhà nước của Đan Mạch năm 1985[174] cho phép bất kỳ người nào được quyền tiếp cận các tài liệu trong một hồ sơ hành chính. Các cơ quan phải trả lời càng sớm càng tốt và nếu như việc trả lời kéo dài hơn 10 ngày thì phải thông báo cho người yêu cầu biết lí do tại sao lại trì hoãn và khi nào thì có câu trả lời.

Luật về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền của Hàn Quốc năm 1996 dành Điều 6 quy định những người có quyền yêu cầu cung cấp thông tin, theo đó, “mọi người dân có quyền yêu cầu cung cấp thông tin”. Những vấn đề liên quan đến yêu cầu cung cấp thông tin đối với người nước ngoài được quy định ở Săc lệnh của Tổng thống.

Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin được quy định là cá nhân: Một số Luật Tự do thông tin hay Luật Bảo vệ dữ liệu cho phép các cá nhân được tiếp cận tài liệu lưu trữ do các cá nhân và các tổ chức tư nhân nắm giữ cũng như cho phép thực hiện quyền được tiếp cận và quyền đựơc sửa đổi các tài liệu lưu trữ cá nhân và đảm bảo rằng các tài liệu này luôn chính xác và các quyết định được đưa ra không dựa trên các thông tin không có liên quan hoặc không được cập nhật. Quyền này cũng đảm bảo rằng mọi người có thể nhận thức một cách rõ ràng những lợi ích hoặc dịch vụ mà họ có quyền được hưởng và xem họ có được nhận đúng và đủ các lợi ích đó không.

Ở Nam Phi, các quy định về tiếp cận thông tin trong Luật Tăng cường tiếp cận thông tin đã được sử dụng bởi các cá nhân muốn biết tại sao đơn xin vay tiền của họ bị ngân hàng từ chối hay trong trường hợp các cổ đông thiểu số muốn xem hồ sơ lưu trữ của các công ty tư nhân hay một nhà lịch sử đang nghiên cứu về việc một công ty phúc lợi tư nhân hoạt động như thế nào trong thời kỳ phân biệt chủng tộc hay một nhóm hoạt động môi trường muốn tìm hiểu về các ảnh hưởng đến môi trường của các dự án.

Chủ thể tiếp cận thông tin là công dân : Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978 quy định: Công dân có quyền tiếp cận các tài liệu hành chính và hồ sơ của nhà nước, ngoại trừ trường hợp ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, điều tra tội phạm và vi phạm và bí mật (Điều 105 khoản b).

Tất cả công dân có quyền được thông tin theo quy định của Luật này (Điều 3 Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ).

2. Nội dung quyền tiếp cận thông tin

Quyền tiếp cận thông tin có quan hệ chặt chẽ với các quyền dân sự - chính trị khác của cá nhân. Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ (Điều 19).

 Tương tự với cách tiếp cận vừa nêu, Mục 12 của Hiến pháp Phần Lan năm 2000 quy định:

 “ 1. Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. quyền tự do ngôn luận bao gồm quyền biểu đạt, phổ biến và tiếp nhận thông tin, quan điểm và các hình thức thông tin liên lạc khác mà không bị ngăn cản. Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận sẽ được quy định chi tiết trong một đạo luật. Các quy định hạn chế liên quan đến các chương trình đồ họa cần thiết để bảo vệ trẻ có thể được quy định bởi một đạo luật.

   2. Tài liệu và hồ sơ lưu trữ do các cơ quan Nhà nước nắm giữ phải được công bố, trừ trường hợp việc này đã bị một đạo luật khác quy định hạn chế vì những lí do thuyết phục. Mọi người đều có quyền tiếp cận các tài liệu và hồ sơ lưu trữ của Nhà nước[175]”.

Ở một số quốc gia bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pakistan, Israel và Pháp, Tòa án tối cao đã ra phán quyết rằng quyền tiếp cận thông tin là quyền Hiến định và là một yếu tố điển hình của quyền tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí.

Điều 16 về Tự do ngôn luận và thông tin của Hiến pháp Thuỵ Sỹ quy định:

 “ 1. Quyền tự do ngôn luận và thông tin được đảm bảo.

    2. Mọi người có quyền hình thành, biểu đạt và phổ biến quan điểm một cách tự do.

    3. Mọi người đều có quyền tiếp nhận thông tin một cách tự do và thu thập thông tin từ các nguồn công cộng và phổ biến các thông tin đó”[176].

Hiến chương về các quyền và tự do cơ bản năm 1993 của Cộng hoà Séc (Điều 17) quy định về quyền thông tin như sau:

 “ 1. Quyền tự do ngôn luận và quyền thông tin được đảm bảo.

    2. Mọi người có quyền tự do bày tỏ quan điểm của mình bằng lời nói, bằng văn bản, trên báo chí, bằng tranh ảnh hoặc dưới bất kỳ hình thức nào cũng như là quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến các ý tưởng và thông tin mà không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia”.

Hiến pháp Pakistan không có quy định trực tiếp về quyền tiếp cận thông tin. Điều 19 quy định: “ Mọi công dân có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt cũng như quyền tự do báo chí trừ các trường hợp ngoại lệ có căn cứ thích đáng do pháp luật quy định vì lợi ích của Đạo hồi vinh quang và sự và sự toàn vẹn an ninh và quốc phòng của Pakistan hoặc các vùng lãnh thổ Pakistan, vì quan hệ hữu nghị với các Nhà nước khác, trật tự công cộng, phép tắc hoặc đạo đức hoặc có liên quan đến việc xúc phạm tòa án, phạm tội hoặc xúi giục phạm tội”[177]. Vào năm 1993 Tòa án tối cao Pakistan ra phán quyết rằng Điều 19 bao gồm cả quyền tiếp nhận thông tin của công dân[178].

 Ủy ban Châu Âu về Nhân quyền quy định về quyền tự do ngôn luận tại Điều 10[179]. Cho đến nay, Tòa án Nhân quyền Châu Âu không chấp thuận về việc giải thích Điều 10 theo hướng “quyền tự do ngôn luận” bao gồm và cho phép một quyền tiếp cận thông tin nói chung[180]. Tuy nhiên, Tòa án đã chấp nhận về quyền tiếp cận thông tin hạn chế theo quy định tại Điều 8 (Quyền riêng tư cá nhân) khi việc từ chối tiếp cận thông tin có ảnh hưởng tiêu cực đến những cá nhân nhất định[181]. Tòa án cũng thừa nhận quyền tiếp cận thông tin của các cá nhân theo quy định tại Điều 8 đối với các thông tin liên quan đến bản thân họ do các cơ quan Chính phủ nắm giữ, kể cả các cơ quan tình báo[182].

Quyền được biết đã được ghi nhận trong rất nhiều Hiến pháp của các quốc gia[183].  Số lượng các Hiến pháp có các quy định này đã tăng một cách đáng kể trong vòng 10 năm qua. Hầu hết Hiến pháp thành văn mới ban hành của các quốc gia đang chuyển đổi, đặc biệt là ở Đông Âu, Trung Âu và Châu Mỹ La tinh đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin. Ngoài ra, một số các quốc gia có Hiến pháp được xếp vào loại cổ điển, trong đó có Phần Lan và Nauy, gần đây đã sửa đổi đạo luật cơ bản để bổ sung quy định về quyền tiếp cận thông tin.

Về quyền tiếp cận thông tin (tự dó thông tin) của cá nhân, Hiến pháp của Armenia năm 1995 xác định các nội dung: “Tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin” (Điều 24).

Hiến pháp của Pháp năm 1958 nhấn mạnh quyền được biết thuế được sử dụng như thế nào (Điều 14).

Hiến pháp Panama đã được sửa đổi vào năm 2004 nhằm bổ sung quyền tiếp cận thông tin[184]. Điều 43 quy định mọi người đều có quyền tiếp cận các thông tin Nhà nước trừ trường hợp pháp luật quy định về việc hạn chế tiếp cận. Điều 42 cho phép các cá nhân có quyền tiếp cận và kiểm soát các thông tin cá nhân do các cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức tư nhân nắm giữ. Điều 44 quy định về quyền thực thi các quyền này trong quá trình tiếp cận tòa án. Luật về minh bạch trong cơ quan hành chính nhà  nước được Quốc hội Panama thông qua vào tháng 12 năm 2001 và có hiệu lực thi hành vào ngày 22 tháng 1 năm 2002[185] trao cho mọi người quyền yêu cầu các cơ quan Chính phủ cung cấp thông tin dưới mọi hình thức. Các cá nhân cũng có quyền tiếp cận và chỉnh sửa các hồ sơ lưu trữ, bản thân mình. Các cơ quan của Chính phủ phải trả lời trong thời hạn 30 ngày.

-  Tìm kiếm, thu thập thông tin

Quyền được thông tin có nghĩa là quyền được tiếp cận các thông tin theo quy định tại Luật này mà đang được quản lý hoặc kiểm soát bởi bất kỳ nhà chức trách công cộng nào. Quyền này bao gồm các quyền được : xem các tác phẩm, tài liệu, hồ sơ; ghi chép, trích dẫn, sao chụp các tư liệu hoặc hồ sơ; có các bản sao có chứng thực các tài liệu; thu thập thông tin dưới các dạng đĩa mềm, thẻ nhớ, băng ghi âm, băng hình hoặc bất kỳ dạng thiết bị điện tử nào khác hoặc thông qua các việc in ra các tài liệu ở những nơi lưu trữ tư liệu bằng máy vi tính hoặc bằng các thiết bị khác (Điều 2 Luật về quyền được thông tin của Ấn độ).

 Điều 1 Khoản 2 của Văn kiện Chính phủ (một trong những văn bản tạo thành Hiến pháp Thuỵ Điển) đảm bảo rằng mọi công dân có quyền : “Tự do thông tin, cụ thể là tự do tìm tiếm và tiếp cận thông tin và làm cho mọi người trở nên quen thuộc với lời phát biểu của người khác”[186].

Các Luật Tự do thông tin quốc gia sử dụng rất nhiều các thuật ngữ khác nhau để mô tả các thông tin mà cá nhân có quyền tiếp cận. Các đạo luật được ban hành từ lâu đời nói chung đều quy định về quyền tiếp cận hồ sơ tài liệu, tài liệu chính thức hoặc tài liệu, trong khi các đạo luật mới được ban hành thì thường quy định về quyền thông tin. Trên thực tế, không có nhiều sự khác biệt bởi vì hiện nay hầu hết các đạo luật đã định nghĩa quyền thông tin theo nghĩa rộng nhằm bao hàm tất cả các loại thông tin mà không phụ thuộc vào hình thức chứa đựng các thông tin đó. Tuy nhiên, tại một số quốc gia như là Thụy Điển, thuật ngữ “ tài liệu chính thức” không bao gồm các tài liệu đang trong quá trình chuẩn bị hoặc các dự thảo không được sử dụng trong quá trình ra quyết định cuối cùng, do vậy đã thu hẹp khá nhiều phạm vi thông tin thuộc đối tượng điều chỉnh. Ở Ấn Độ, Luật về quyền thông tin cũng cho phép các cá nhân được yêu cầu lấy mẫu, ví dụ như mẫu thực phẩm được phân phối hoặc mẫu vật liệu sử dụng để làm đường xá.

          Tiếp nhận và khai thác thông tin có sẵn: thông tin môi trường dần dần sẽ có sẵn trong các cơ sở dữ liệu điện tử để công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông qua mạng lưới viễn thông công cộng (Khoản 3 Điều 5 Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường (25/6/1998).

          Tính đến cuối năm 2005, trên thế giới đã có ít nhất 65 quốc gia có luật tiếp cận thông tin. Trong đó có hơn 45 nước quy định quyền tiếp cận tới tất cả các thông tin do chính phủ lưu giữ chứ không chỉ là các tài liệu của nhà nước/tài liệu chính thức.

Một đặc điểm chung của hầu hết các Luật Tự do thông tin là đều quy định các cơ quan Chính phủ có nghĩa vụ phải cung cấp một số loại thông tin nhất định một cách tích cực. Các thông tin này thường bao gồm chi tiết về cơ cấu tổ chức và các quan chức chủ yếu của Chính phủ, lời văn của  các đạo luật và quy định, các đề xuất và chính sách hiện hành, các biểu mẫu và quyết định. Các Luật Tự do thông tin mới ban hành có xu hướng quy định cụ thể một danh sách các loại thông tin cần phải công bố.

Các nước Mỹ, Canada, các nước Băc Âu dành cho người dân và các tổ chức quyền tiếp cận các hồ sơ, tài liệu của Chính phủ (ngoài danh mục loại trừ) bằng Luật Tiếp cận thông tin. Một số nước còn có luật của các bang (Mỹ, Ấn Độ).

Luật của Nhật Bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính năm 2001 quy định nghĩa vụ của các cơ quan trong việc cung cấp các văn bản hành chính, cung cấp một phần thông tin trong văn bản hành chính, thông báo bằng văn bản cho người có yêu cầu cung cấp văn bản.

Luật LB Nga về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin năm 2006 quy định nghĩa vụ của các chủ thể hành chính công công bố thông tin về tài chính công gồm ngân sách, các dự án đầu tư công cộng, thông tin về nhân viên…; trách nhiệm của Bộ Kinh tế và Tài chính công , Quỹ quốc gia về cung cấp tài chính cho các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, Văn phòng về tiêu chuẩn tạm thời, Hội đồng cao cấp về hợp đồng và mua bán quốc gia công khai một số thông tin (các Điều 23-26).

Ở Mêhicô, danh mục các tài liệu được phân loại phải được công bố. Danh mục này phải được cập nhật theo tiêu đề về nội dung và phải ghi rõ cơ quan hành chính đã tạo ra thông tin, ngày phân loại, lý do, thời gian sẽ được phân loại, và khi thích hợp, phần nào của tài liệu được phân loại. Trong mọi trường hợp, bản thân danh mục không được coi là thông tin mật (Điều 17). Ngoài ra, mõi cơ quan phải công bố chi tiết về thành phần của cơ quan mình, thẩm quyền, chức năng, các quyết định đã ban hành, các hợp đồng đã giao kết và các báo cáo đã phát hành (Điều 7). Cơ quan phải công bố địa chỉ của phòng thông tin, cũng như địa chỉ điện tử nơi nhận yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 7.V). Tại Trung Quốc, danh mục thông tin của chính quyền được công bố cần bao gồm bảng xếp loại thông tin theo thứ tự bảng chữ cái, tóm tắt nội dung chính của thông tin, ngày tháng ban hành hoặc các nội dung tương tự (Điều 19 Pháp lệnh về công khai thông tin của chính quyền).

          Phần 3 Luật Thủ tục hành chính Mỹ năm 1946 yêu cầu các cơ quan Chính phủ phải công bố các thông tin về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của mình và các thủ tục hành chính có liên quan cũng như công khai “tất cả các quan điểm và phán quyết chung thẩm trong quá trình giải quyết các vụ việc (trừ các thông tin được giữ bí mật với lý do thích đáng và không được trích dẫn như là các tiền lệ) cũng như công khai tất cả các quy tắc”. Tuy nhiên, Luật này cũng cho phép không công bố các thông tin “ yêu cầu phải giữ bí mật vì lợi ích công cộng” và các thông tin phục vụ cho quá trình quản lý nội bộ. Luật cũng cho phép công bố thông tin cho những người có liên quan trực tiếp và thích đáng trừ các thông tin được giữ bí mật, với lí do hợp lí[187].

 Luật Liên bang Thuỵ Sỹ về nguyên tắc minh bạch hành chính được thông qua vào tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực vào tháng 7 năm 2006[188] trao cho mọi người quyền được tham khảo các tài liệu chính thức và nhận các thông tin từ tài liệu chính thức. Cơ quan được yêu cầu phải trả lời trong thời hạn 20 ngày.

Tại Anbani, Luật về quyền được thông tin đối với các tài liệu chính thức (được ban hành vào tháng 6 năm 1999[189]) cho phép mọi người có quyền tiếp cận các thông tin trong các tài liệu chính thức. Quyền này bao gồm cả các thông tin cá nhân về những người đang thực thi các chức năng của Nhà nước với điều kiện là các thông tin có liên quan đến việc thực thi nhiệm vụ của họ. Các cơ quan nhà nước phải quyết định trong thời hạn 15 ngày và cung cấp thông tin trong thời hạn 30 ngày.

Luật tiếp cận thông tin của Canada quy định trách nhiệm của Bộ trưởng công bố một số loại thông tin không ít hơn 1 lần/năm hoặc ít nhất 02 lần/năm. Ví dụ như : giới thiệu về tổ chức và trách nhiệm của mỗi cơ quan Chính phủ gồm chi tiết về chương trình và chức năng của mỗi đơn vị hoặc chi nhánh của mỗi cơ quan Chính phủ…

Điều 100 của Hiến pháp Nauy năm 1814, sửa đổi vào tháng 10 năm 2004 có bổ sung về quyền tiếp cận các tài liệu và tham dự các phiên xử và các cuộc họp trong quá trình tố tụng của Tòa án. Các thay đổi này là theo khuyến nghị của Ủy ban về Tự do ngôn luận của Chính phủ[190]. Điều 100 khoản 5 quy định:  “Mọi người có quyền tiếp cận các tài liệu của Nhà nước và của chính quyền thành phố cũng như có quyền tham dự các phiên xử của Tòa án và các phiên họp của các cơ quan hành chính do nhân dân bầu ra. Luật có thể quy định về các trường hợp ngoại lệ nhằm bảo vệ an ninh dữ liệu cá nhân hoặc với các lí do có sức thuyết phục khác.

Luật Liên bang Nga về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin năm 2006 quy định quyền tiếp cận thông tin của cá nhân và tổ chức  : Công dân (thể nhân) có quyền nhận thông tin liên quan trực tiếp đến quyền và tự do của mình từ các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương và từ cán bộ, công chức có thẩm quyền theo trình tự được pháp luật Liên bang Nga quy định. Tổ chức có quyền nhận từ cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của mình cũng như các thông tin cần thiết khác có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của mình (Khoản 2 Điều 8).

Pháp lệnh nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về công khai thông tin của chính quyền năm 2007 dành hầu hết các điều khoản để quy định trách nhiệm của chính quyền các cấp chủ động công bố thông tin cho nhân dân, phương pháp và thủ tục công bố thông tin. “Các cơ quan nhà nước phải công bố thông tin của chính quyền một cách kịp thời và chính xác” (Điều 6). Quyền tiếp nhận thông tin của cá nhân tuy không được hình thành dưới dạng quy định trong Pháp lệnh, song được bảo đảm thông qua các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan chính quyền. “Các cơ quan nhà nước cần công bố những thông tin được xác định để công bố bằng những cách thức thuận lợi nhất cho việc tiếp nhận của công chúng, chẳng hạn như thông qua các thông cáo, trang web của chính quyền, các buổi họp báo, đài phát thanh, truyền hình” (Điều 15) hay “Chính quyền nhân dân  các cấp phải lập ra những khu vực riêng trong cơ quan lưu trữ và thư viện công cộng để công chúng có thể sử dụng nhằm tiếp cận thông tin và phải trang bị cho các khu vực đó những thiết bị thích hợp cho phép công dân, pháp nhân và những tổ chức khác có thể tiếp cận thông tin của chính quyền một cách thuận lợi” (Điều 16).

- Yêu cầu cung cấp thông tin

          Nói một cách ngắn gọn, quyền tiếp cận thông tin cho phép các công dân hoặc bất kỳ người nào quyền được yêu cầu các cơ quan của Chính phủ cung cấp thông tin. Hiến pháp của Nam Phi là một trong những quốc gia trên toàn thế giới quy định một cách toàn diện nhất về  vấn đề này. Hiến pháp cho phép các cá nhân có quyền được cung cấp thông tin “do bất kỳ người nào nắm giữ mà việc cung cấp thông tin đó là cần thiết cho việc thực hiện và bảo vệ bất kỳ quyền nào của người đó”.

Luật tiếp cận thông tin của Canada quy định quyền tiếp cận, yêu cầu tiếp cận và tiếp cận tài liệu của Chính phủ. Cá nhân đã được cho phép tiếp cận tài liệu hoặc một phần tài liệu theo quy định của Luật này sẽ được phép xem xét tài liệu hoặc một phần của tài liệu hoặc được trao một bản sao của tài liệu. Trong trường hợp đã cho phép tiếp cận tài liệu theo Luật này và người nộp đơn yêu cầu đã yêu cầu tài liệu ở dạng ngôn ngữ chính thức riêng thì người đó sẽ nhận được một bản phôtô của tài liệu hoặc một phần tài liệu ở ngôn ngữ đó.

          Hiến pháp Peru 1993 quy định quyền đề nghị tiếp cận thông tin mà không phải đưa ra lý do và nhận thông tin đã đề nghị tiếp cận từ bất kỳ cơ quan nhà nước nào trong thời hạn và chi phí theo quy định của pháp luật (Điều 2 khoản 5).

Ở Pháp, Luật tự do tiếp cận các tài liệu hành chính (Luật số 78-753 ngày 17 tháng 6 năm 1978) cho phép công dân thực hiện quyền hiến định là được thông báo về tiền thuế được chi tiêu như thế nào và cơ quan hành chính có trách nhiệm phải giải trình việc này[191]. Luật này cho phép tiếp cận các tài liệu của Chính phủ và có định nghĩa rộng về các loại tài liệu do cơ quan hành chính của Chính phủ Pháp lưu giữ được phép tiếp cận.

          Các cơ quan công quyền, nhằm đáp ứng yêu cầu về thông tin môi trường, phải cung cấp thông tin cho công chúng... muộn nhất trong vòng một tháng sau khi yêu cầu đã được đệ trình (Điều 4 Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường (25/6/1998).

          Luật về quyền được thông tin của Ấn độ quy định : Một người mong muốn có được bất kỳ thông tin nào theo quy định của Luật này phải viết đơn yêu cầu hoặc gửi đơn qua các phương tiện điện tử (Điều 6 ).

Luật Tự do thông tin Mỹ được ban hành vào năm 1966, có hiệu lực vào năm 1967[192], được sửa đổi cơ bản một số lần và gần đây nhất là vào năm 1996 với sự ra đời của Luật Tự do thông tin điện tử[193]. Luật này cho phép bất kỳ người nào hoặc tổ chức nào, không kể là công dân hay có xuất xứ từ quốc gia nào, đều có quyền tiếp cận hồ sơ tài liệu do các cơ quan Chính phủ liên bang nắm giữ. Các cơ quan này bao gồm các cơ quan hành chính và quân sự, các doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức khác có thực thi chức năng của Chính phủ, ngoại trừ Quốc hội, Tòa án, các cơ quan trực thuộc Tổng thống tại Nhà trắng, bao gồm Hội đồng An ninh quốc gia. Các cơ quan Chính phủ phải trả lời trong thời hạn 20 ngày làm việc. Luật Tự do thông tin Mỹ cũng yêu cầu các cơ quan Chính phủ công bố các tài liệu về cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ, quy tắc, quyết định, thủ tục, chính sách và các sách hướng dẫn. Luật Tự do thông tin điện tử 1996 yêu cầu các cơ quan phải thiết lập “ phòng đọc điện tử” và công bố dưới hình thức điện tử các thông tin phải được công bố với các tài liệu được yêu cầu. Bộ Tư pháp cũng ban hành hướng dẫn về việc các tài liệu đươc yêu cầu cung cấp 3 lần thì phải được chuyển sang hình thức điện tử để công bố trong phòng đọc điện tử.

  Luật Thông tin Nhà nước Estonia được thông qua vào tháng 11 năm 2000, có hiệu lực vào tháng giêng năm 2001[194], áp dụng đối với các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương, các pháp nhân theo luật công và các tổ chức tư nhân đang thực hiện công vụ, bao gồm việc cung cấp các thông tin đối với giáo dục, y tế, xã hội ... Bất kỳ người nào cũng có quyền yêu cầu cung cấp thông tin và cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin phải trả lời trong thời hạn 05 ngày làm việc. Yêu cầu cung cấp thông tin phải được đăng ký vào sổ. Các khoản lệ phí sẽ được miễn nếu thông tin được yêu cầu là nhằm mục đích nghiên cứu.

Luật Tự do thông tin Hà Lan được ban hành lần đầu tiên vào năm 1978. Luật về Tiếp cận công chúng đối với các thông tin Chính phủ đã ban hành để thay thế vào năm 1991[195]. Theo quy định của Luật này mọi người đều có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến các vấn đề hành chính nếu như các vấn đề này được nêu trong các tài liệu do các cơ quan nhà nước hoặc các công ty được giao thực hiện quyền lực công nắm giữ. Yêu cầu cung cấp thông tin có thề bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Cơ quan được yêu cầu phải trả lời trong thời hạn 02 tuần. Các kiến nghị của các Ủy ban Tư vấn phải được công khai trong vòng 4 tuần. Một dự Luật sửa đổi Luật Tiếp cận công chúng đối với các thông tin Chính phủ để thi hành các yêu cầu của Chỉ thị EU về tái sử dụng và khai thác thương mại các thông tin thuộc lĩnh vực công đã được thông qua vào tháng 12 năm 2005 tại Hà Lan. Theo các chuyên gia Luật này rất ít khi được áp dụng chỉ có khoảng 1000 yêu cầu mỗi năm và hầu hết là chỉ do một số tờ báo thực hiện[196]. Việc thiếu quan tâm đến vấn đề này xuất phát từ việc các phương tiện thông tin đại chúng và các tổ chức phi Chính phủ tin rằng việc đưa ra các yêu cầu sẽ làm ảnh hưởng đến các quan hệ tốt đẹp với các cơ quan của Chính phủ, do truyền thống không nghiên cứu về các vấn đề chính trị, thiếu các chế tài cần thiết, các trường hợp ngoại lệ quá nhiều và hệ thống lưu trữ nghèo nàn. Bộ trưởng Bộ Cải cách Chính phủ đã tuyên bố vào tháng 12 năm 2005 là ông sẽ đưa ra một dự Luật mới mang tính tự do hơn. Dự Luật này đang được đưa ra tham vấn và lấy ý kiến[197].

Luật các kì họp và thông tin chính thức của chính quyền địa phương năm 1987 Niu Dilân quy định việc tiếp cận các thông tin do các cơ quan chính quyền địa phương nắm giữ[198], quy định khuôn khổ pháp lí về tiếp cận thông tin tương tự như Luật Thông tin chính thức. Ombudsman cũng là cơ quan giám sát việc thực hiện Luật này. Luật về Quyền riêng tư Niu Dilân năm 1993 cho phép mọi người được quyền tiếp cận và chỉnh sửa hồ sơ lưu trữ cá nhân về bản thân họ do các cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức tư nhân nắm giữ[199].

Luật Tự do thông tin Nauy năm 1970 quy định mọi người đều có quyền tiếp cận các tài liệu chính thức do các cơ quan Nhà nước năm giữ[200]. Tài liệu chính thức được định nghĩa là các thông tin được lưu trữ lại  và có thể được nghe, biểu đạt hoặc chuyển giao và do các cơ quan có thẩm quyền tạo ra, gửi đi hoặc nhận được bởi cơ quan đó.

Theo quy định của Luật về minh bạch và tiếp cận thông tin Nhà nước của Peru được ban hành vào tháng 8 năm 2002 và có hiệu lực thi hành vào tháng 1 năm 2003[201], mọi cá nhân đều có quyền yêu cầu cung cấp thông tin dưới  mọi hình thức từ các cơ quan của Chính phủ hoặc các tổ chức tư nhân có cung cấp dịch vụ công hay thực thi các chức năng hành chính mà không cần phải giải thích tại sao mình cần các thông tin đó.

Luật Tiếp cận các tài liệu hành chính của Bồ Đào Nha năm 1993 cho phép mọi người có quyền yêu cầu tiếp cận các tài liệu hành chính do các cơ quan Nhà nước, tổ chức công hoặc chính quyền địa phương nắm giữ dưới mọi hình thức[202]. Yêu cầu phải được thực hiện bằng văn bản. Các cơ quan của Chính phủ phải trả lời trong thời hạn 10 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu.

Luật về Tự do tiếp cận thông tin Slovakia được thông qua vào tháng 5 năm 2000 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 01 năm 2001[203]. Theo đó, bất kì người nào hoặc tổ chức nào đều có quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước, chính quyền thành phố và các tổ chức tư nhân có chức năng ban hành các quyết định công phải cung cấp thông tin. Cơ quan được yêu cầu phải trả lời trong thời hạn 10 ngày sau khi nhận được yêu cầu và phải lưu trữ các yêu cầu đó.

Luật về Quy tắc hành chính công năm 1992 Tây Ban Nha quy định  về việc tiếp cận của công dân đối với các hồ sơ, tài liệu của Chính phủ [204]. Luật này cũng quy định về việc tiếp cận các thủ tục hành chính của cá nhân. Các quy định về tiếp cận được bổ sung nhằm thi hành Chỉ thị của EU năm 1990 về tiếp cận thông tin môi trường. Các tài liệu được tiếp cận phải là một bộ phận của một hồ sơ hoàn chình. Cơ quan được yêu cầu phải trả lời trong thời hạn 03 tháng.

Luật của Nhật Bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính năm 2001 quy định quyền được yêu cầu cung cấp văn bản hành chính. Việc cung cấp các văn bản hành chính phải được thực hiện bằng cách xem trực tiếp hoặc thông qua việc cung cấp các bản sao của các văn kiện hay sơ đồ, với các hò sơ điện tử (Điều 14). Luật Nhật bản còn có quy định về quyền tiếp tục tiếp cận thông tin : Người đã tiếp cận văn bản hành chính được cung cấp theo một yêu cầu cung cấp thông tin trong vòng 30 ngày sau lần tiếp cận thứ nhất có thể yêu cầu người đứng đầu cơ quan hành chính có liên quan để tiếp tục được tiếp cận (Khoản 4 Điều 14).

          Luật về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền Hàn Quốc quy định quyền của cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin (người có yêu cầu); quy định trách nhiệm của cơ quan chính quyền quyết định việc có cung cấp thông tin hay không (Điều 9), quyết định công bố một phần thông tin (điều 12). Thủ tục công bố những thông tin có sẵn ngay lập tức hoặc có thể công bố bằng miệng được thực hiện theo Sắc lệnh của Tổng thống (Điều 13). Điều khoản bổ sung của Luật này còn quy định : Cơ quan chính quyền sẽ nỗ lực một cách chủ động trong việc công khai thông tin tuy không được yêu cầu nhưng cần thiết phải công khai cho công luận (Điều 21).

Luật LB Nga về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin năm 2006 dành riêng một Chương quy định về tiếp cận thông tin của Nhà nước. Nhấn mạnh tính pháp lý của quyền yêu cầu cung cấp thông tin, Luật nêu : cá nhân có quyền yêu cầu và tiếp nhận thông tin từ bất cứ một chi nhánh nào của cơ quan hành chính công và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không phải giải thích lý do (Điều 7). Các chủ thể hành chính công có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin theo yêu cầu bất kể đó là tài liệu dạng viết, ảnh, ghi âm, thu hình hay các thiết bị từ hoặc điện tử hoặc bất kể các dạng nào khác, miễn là các thông tin đó được tạo ra và lưu giữ bởi thực thể đó, nằm trong quyền sở hữu và quyền của chủ thể đó (Điều 10). Luật quy định việc tiếp cận thông tin một cách trực tiếp : Không trái với các quy định ở Điều 11[205], tất cả các chủ thể hành chính công đều phải cho phép những người có yêu cầu được trực tiếp và ngay lập tức tiếp cận các thông tin công trong giờ hành chính (Điều 12).

 Pháp lệnh nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về công khai thông tin của chính quyền năm 2007 quy định quyền của các công dân, pháp nhân hoặc tổ chức yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin của chính quyền liên quan đến các vấn đề về thuế, bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế của bản thân và có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước sửa chữa các thông tin liên quan tới họ do các cơ quan nhà nước cung cấp mà không chính xác (Điều 25).

- Truyền bá thông tin

Truyền bá thông tin là nội dung gắn với tự do thông tin, một khái niệm có phạm vi khác hơn so với tiếp cận thông tin. Tự do thông tin được hiểu là quyền cơ bản của cá nhân và công chúng và nằm trong mối quan hệ với tự do phát biểu quan điểm trong bối cảnh sự phát triền của công nghệ, internet. Quyền tự do thông tin và tự do truyền tải quan điểm có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như nói, viết, in ấn, điện tử hoặc nghệ thuật v.v.

Qua một số thập kỷ, Hiến pháp Na Uy đã sửa đối (Điều 100) để tạo cơ chế bảo vệ quyền nhận và phổ biến thông tin của cá nhân được đề cập trong Điều 19  Công uớc  về quyền dân sự, chính trị theo hướng “Có tự do ngôn luận, bao gồm cả tự do truyền tải và tiếp cận thông tin.

Hiến pháp Macedonia năm 1991 quy định : “Tự do tiếp cận thông tin, tự do nhận và chuyển giao thông tin được bảo đảm".

Luật của Hàn Quóc về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền không có quy định  riêng về phổ biến thông tin mà chỉ đưa ra nguyên tắc về nghĩa vụ của người yêu cầu : Người yêu cầu tuỳ theo mục đích của yêu cầu sẽ phải sử dụng đúng đắn các thông tin có được theo các quy định của Luật này (Điều 14).

          Với phạm vi điều chỉnh là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện quyền tìm kiếm, nhận, gửi, sản xuất và truyền bá thông tin; áp dụng công nghệ thông tin và bảo đảm an toàn thông tin, Luật của Liên bang Nga năm 2006 có quy định riêng về truyền bá thông tin. Thông tin được truyền bá không thông qua hệ thống truyền thông đại chúng phải được bảo đảm độ tin cậy các tin tức về người sở hữu hoặc người truyền bá thông tin đó với hình thức và dung lượng đủ để xác định được người đó. Luật cũng quy định việc truyền bá thông tin qua đường bưu điện (Điều 10). Điều 11 đưa ra quy định nghiêm cấm tuên truyền các thông tin kích động chiến tranh, chia rẽ dân tộc, gây thù hằn, đối địch chủng tộc, tôn giáo và các thông tin khác vi phạm pháp luật hình sự hoặc pháp luật hành chính.

  1. Quyền tiếp cận thông tin và Chính phủ mở

2.1. Tiếp cận thông tin và dân chủ hoá hoạt động của Nhà nước

Một trong những xu hướng cải cách hành chính đang được các quốc gia theo đuổi hiện nay là dân chủ hoá hoạt động quản lý nhà nước. Vì mục tiêu củng cố nền dân chủ, tăng cường mối quan hệ hai chiều giữa nhà nước và cá nhân, công dân, các văn kiện quốc tế có liên quan tới bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đều nhấn mạnh sự tham gia của công chúng trong việc ban hành các quyết định.

Điều 13, Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng năm 2003 quy định: Mỗi quốc gia thành viên của Công ước, trong khả năng có thể và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp nước mình, áp dụng các biện pháp thích hợp, nhằm thúc đẩy sự tham gia chủ động của các cá nhân và tổ chức ngoài khu vực công như xã hội dân sự, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức cộng đồng, vào công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng; và nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về sự tồn tại, nguyên nhân và tính chất nghiêm trọng cũng như sự đe doạ của tham nhũng. Sự tham gia đó cần được tăng cường thông qua các biện pháp như: (a) Tăng cường tính minh bạch trong các quy trình ra quyết định, thúc đẩy đóng góp của công chúng vào các quy trình ra quyết định; (b) Đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin một cách hiệu quả; (c) Tổ chức các hoạt động thông tin cho công chúng góp phần đấu tranh không khoan nhượng chống tham nhũng, cũng như các chương trình giáo dục công chúng, bao gồm cả chương trình giảng dạy trong nhà trường và trường đại học; (d) Tôn trọng, tăng cường và bảo vệ sự tự do tìm kiếm, nhận, xuất bản và tuyên truyền thông tin về tham nhũng.

Tại Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp quốc năm 1992, Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển đã được ban hành kêu gọi các quốc gia tăng cường khả năng tiếp cận và tham gia của công chúng. Nguyên tắc số 10 quy định: “Các vấn đề môi trường sẽ được giải quyết một cách tốt nhất nếu như có sự tham gia của tất cả các công dân liên quan với các mức độ phù hợp. Ngoài ra còn được quy định trong Công ước về Tiếp cận thông tin, Tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định và Tiếp cận công lý đối với các vấn đề môi trường (hay còn gọi là Công ước Aarhus) được thông qua vào tháng 6/1998 và có hiệu lực vào tháng 10/2001.

2.2. Công khai thông tin và  giảm thiểu sự độc quyền,  lũng đoạn thông tin của các cơ quan Chính phủ

Càng ngày, thông tin càng được chứng minh là sức mạnh, tạo ra quyền lực của người sở hữu, nắm giữ. Tiếp cận thông tin có mối liên hệ chặt chẽ với các tác động kinh tế mà việc cung cấp và tiếp cận thông tin tạo ra. Thông tin công chứa đựng rất nhiều tiềm năng về kinh tế do đó, thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp về công nghệ thông tin bởi vì đây chính là cơ sở của nền kinh tế tri thức. Tiềm năng lợi thế kinh tế trong việc tiếp cận thông tin là rất cao. Vì vậy, việc tiếp cận thông tin phải được điều phối, hài hoà hóa nhằm đảm bảo hiệu quả, tránh tác động xấu tới vận hành thị trường chung.

Thông  tin là tài sản chung, vì thế Chính phủ phải có biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, công khai các thông tin công, giảm thiểu sự lũng đoạn, độc quyền thông tin của một nhóm người trong xã hội.

Chính phủ mở khuyến khích và hơn thế, đòi hỏi công khai thông tin. Nhờ đó, thông tin trở thành nguồn lực cho việc khai thác không chỉ từ phía các cơ quan công quyền mà cả phía xã hội. Như vậy, với việc công khai thông tin và thực hiện Chính phủ mở, sẽ hạn chế tới mức không còn chỗ cho độc quyền thông tin và biến thông tin thành nguồn đóng góp, thúc đẩy phát triển xã hội.

2.3. Tiếp cận thông tin và sự tham gia của công chúng trong việc thảo luận về các vấn đề của Chính phủ

Bàn về hoạt động hành chính công, tính minh bạch được nhấn mạnh như một trong các trụ cột để có hoạt động quản lý nhà nước tốt và thông tin là yếu tố quyết định hiệu quả của hoạt động kinh tế cũng như của mối quan hệ tốt giữa người dân và Chính phủ.

          Tính minh bạch trong hành chính công có nghĩa là những thông tin phù hợp được cung cấp kịp thời cho người dân dưới hình thức dễ sử dụng và đồng thời, các quy định và các quyết định của Chính phủ phải rõ ràng và được phổ biến đầy đủ. Quyền lực đối với thông tin cũng dẫn đến tham nhũng như quyền lực đối với con người. Với tư duy đó, quyền của người dân trong việc tiếp cận thông tin từ các cơ quan của Chính phủ khi cần thiết bao gồm :

          - Những thông tin cá nhân về bản thân họ;

          - Những thông tin không thuộc cá nhân do Chính phủ nắm giữ mà không ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, việc thực thi pháp luật; tự do thương mại hoặc quyền riêng tư của những người khác và ;

          - Những thông tin do Chính phủ phổ biến vì mục đích riêng của mình.

 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), tại Phần “Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế” đã xác định nhiệm vụ : Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia[206].

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định “ Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Về việc nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, văn kiện Đại hội nêu : Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới căn bản công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương”[207].

Pháp luật Việt nam đã có những quy định về công khai, minh bạch. Vấn đề cần có cơ chế để phát huy quyền được biết của người dân trong điều kiện duy trì Chính phủ mở.

  1. .Thực hiện quyền tiếp cận thông tin tạo điều kiện cho người dân phản biện dự kiến chính sách của Chính phủ

 

Để tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X yêu cầu “Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân, thông qua các đại diện trực tiếp và gián tiếp đối với đảng viên, công chức, cơ quan, đơn vị. Bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công và doanh nghiệp nhà nước”[208].

Về phương hướng, giải pháp chủ yếu thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ trong nửa nhiệm kỳ còn lại của Đại hội IX, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX nêu : Tiếp tục chủ động hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Triển khai khẩn trương và đồng bộ việc chuẩn bị đầy đủ điều kiện để giành thế chủ động trong hội nhập, nhất là sửa đổi và xây dựng mới các văn bản pháp luật phù hợp với yêu cầu hội nhập[209].

Trên phương diện thực tiễn, việc mở thông tin có căn cứ từ những lợi ích mà tự do thông tin mang lại.

Một trong những trụ cột của một nền hành chính công tốt là bảo đảm sự tham gia của công chúng. Dưới góc độ hiến định, sự tham gia của nhân dân là phương thức thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền chính trị cơ bản của mỗi cá nhân.

Về phía cá nhân, tiếp cận thông tin tăng cường và thúc đẩy khả năng thực hiện các quyền chính trị, dân sự và kinh tế. Để sử dụng các quyền hiến định và luật định của mình, cá nhân cần được cung cấp thông tin (đương nhiên trong phạm vi và thủ tục mà pháp luật quy định). Thông tin giúp cá nhân nhận biết về khả năng cũng như những ràng buộc đối với mình và lựa chọn phương thức hành xử thích hợp, vừa bảo đảm lợi ích của mình, vừa tôn trọng lợi ích chung của cộng đồng. Thông tin giúp cử tri có quyết định đúng đắn khi thực hiện quyền bầu cử, kể cả chủ động hay bị động; giúp họ lựa chọn phương án khi tham gia quyết định các vấn đề chung của Nhà nước và địa phương. Tiếp cận thông tin giúp người học hiểu biết về quyền, nghĩa vụ của mình và yêu cầu được bảo vệ trong trường hợp cần thiết… Từ đó, thông tin được coi như công cụ để thực hiện các quyền của cá nhân và quyền tiếp cận thông tin  là biện pháp thúc đẩy, hỗ trợ cho việc thực hiện các quyền khác của chính chủ thể đó. Pháp lệnh về công khai thông tin của chính quyền được thông qua tại Trung Quốc với mục đích thúc đẩy thực thi triệt để chức năng dịch vụ thông tin của chính quyền vì lợi ích và đời sống của đại bộ phận nhân dân và nhằm tác động tích cực đến tình hình kinh tế, xã hội (Điều 1).

Tiếp cận thông tin làm tăng cường hiệu quả hoạt động của Nhà nước, cải thiện quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Tiếp cận thông tin đáp ứng quyền được biết của cá nhân về các công việc của Nhà nước, tạo điều kiện để cá nhân đóng góp ý kiến, đưa ra sáng kiến hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền. Mối quan hệ hai chiều này  được hình thành và duy trì trong các quy trình quản lý, từ dự kiến cho tới hoạch định, ban hành chính sách và tiếp theo là thi hành và đánh giá hiệu quả của chính sách. Thông tin là công cụ để người dân, các tổ chức xã hội phản biện các dự thảo chính sách, pháp luật, lường trước sự bất hợp lý hay thiếu phù hợp khi triển khai. Một cách khái quát, tiếp cận thông tin cùng với việc tham gia của nhân dân vào quá trình quản lý nhà nước làm tăng chất lượng của chính sách, bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước mà một trong những thước đo là tính đúng đắn của chính sách và khả năng áp dụng trong cuộc sống.

Nhờ được cung cấp thông tin một cách đầy đủ và khách quan, cá nhân, tổ chức có điều kiện đánh giá các khía cạnh của dự kiến chính sách, dự thảo các văn bản pháp luật. Quá trình cung cấp thông tin chính là bước chuẩn bị về tinh thần cho những đối tượng chịu sự tác động và độ sắn sàng của xã hội khi đón nhận cũng như thực hiện chính sách, pháp luật. Sự đồng thuận mang tính chính trị và xã hội ngay từ ban đầu là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả thực hiện chính sách vốn là sản phẩm của hoạt động quản lý công. Một khi sự đòng thuận đó được duy trì trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật thì chắc chắn chỉ số về sự hài lòng của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước sẽ là khả quan. Và đây cũng là một trong các tiêu chí đánh giá hiệu quả của một nền quản trị.

Thông tin là công cụ để cá nhân thực hiện quyền giám sát của mình đối với người đại diện Nhà nước. Một mặt, quyền được biết thúc đẩy cơ chế giám sát mang tính quyền lực nhân dân; mặt khác, thúc đẩy chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước. Không phải vô tình mà tiếp cận thông tin là biện pháp thường hiện diện trong các văn kiện và cơ chế phòng, chống tham nhũng.

Vơi những lợi ích rõ ràng như vậy, công khai thông tin một cách tối đa trở thành nguyên tắc của pháp luật về tiếp cận thông tin, là chính sách chủ đạo xuyên suốt của các đạo luật về tự do thông tin. Pháp lệnh của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa nhấn mạnh : Chính quyền nhân dân ở tất cả các cấp phải tăng cường lãnh đạo và tổ chức hoạt động công khai thông tin của chính quyền (Điều 3); Các cơ quan nhà nước phải công bố các thông tin của chính quyền liên quan đến bất kỳ vấn đề nào quy định dưới đây : - lợi ích cốt yếu của công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác; - các yêu cầu mở rộng kiến thức hoặc sự tham gia của công chúng…(Điều 9).

Tiếp cận thông tin là một trong những biện pháp thúc đẩy tính minh bạch một cách thực sự của Chính phủ. Để hướng tới điều này, pháp luật về tự do thông tin khắc phục biểu hiện của “văn hoá bí mật” trong tư duy cũng như ứng xử của công chức nhà nước. Mặt khác, cơ quan nhà nước phải chủ động thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật để người dân nhận thức đầy đủ và sử dụng quyền, nghĩa vụ của mình trong tiếp cận thông tin.

Mặc dù là nguyên tắc của Luật, song nội dung này có thể được thể hiện một cách gián tiếp thông qua các quy định về mục đích của Luật hoặc cơ chế bảo đảm cung cấp thông tin, quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền. Luật của Nhật Bản tuyên bố mục tiêu ban hành là phấn đấu để công khai hoá các thông tin của các cơ quan hành chính, từ đó bảo đảm trách nhiệm giải trình trong các hoạt động khác nhau của Chính phủ trước nhân dân cũng như để hỗ trợ thúc đẩy một nền hành chính công bằng và dân chủ mà là đối tượng của sự phê phán và hiểu biết đúng đán của nhân dân.

Tiếp theo Nghị quyết năm 1980 về khuyến khích các quốc gia thành viên tăng cường quyền tiếp cận thông tin của công dân, vào năm 1999, Bộ trưởng phụ trách pháp luật các nước thuộc khối Thịnh vượng chung đã khuyến nghị các quốc gia ban hành Luật Tự do thông tin nhằm thúc đẩy nền văn hoá cởi mở, hạn chế các trường hợp ngoại lệ không công bố thông tin cũng như ghi nhận quyền khiếu nại trong trường hợp bị từ chối cung cấp thông tin.

Mêhicô là quốc gia ban hành đạo luật về quyền tiếp cận thông tin sớm nhất ở Châu Mỹ Latinh và Luật về minh bạch liên bang và tiếp cận thông tin quản lý nhà nước. 31 bang của Mêhicô cũng thông qua các đạo luật về tiếp cận thông tin.

Các quy định lập pháp của Ấn Độ khuyến khich các cơ quan chính quyền, tuỳ theo khả năng tài chính và sự sẵn có của các nguồn lực khác xây dựng và tổ chức các chương trình giáo dục để thúc đẩy sự hiểu biết của công chúng, đặc biệt là của những cộng đồng thiệt thòi về việc thực hiện các quyền được ghi nhận trong Luật; thúc đẩy các nhà chức trách công cộng phổ biến một cách hiệu quả và kịp thời các thông tin chính xác về hoạt động của các nhà chức trách này (Điều 26 Luật về quyền được thông tin). Với Luật về quyền được thông tin, Ấn độ được đánh giá là tiến thêm một bước dài tới mục tiêu làm cho Chính phủ minh bạch và có trách nhiệm giải trình, nhưng bước đi này không bảo đảm rằng “văn hóa bí mật’ ở nước này sẽ được xóa bỏ. Luật tiếp cận thông tin nước này vẫn còn những hạn chế và văn hóa công khai cần được nuôi dưỡng và khuyến khích bởi các bộ trưởng và nhà quản lý.

 

 

                                       Chuyên đề 22

CẤU TRÚC VÀ NHỮNG CHẾ ĐỊNH CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN C ỦA VI ỆT NAM

                                                   ThS. Nguyễn Thị Hạnh,

Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp

 

I. Nội dung cơ bản của luật tiếp cận thông tin của một số nước

          Trên thế giới, nước đầu tiên ban hành Luật riêng về tiếp cận thông tin là Thụy Điển là (năm 1766), sau đó một số nước khác cũng có đạo luật riêng như Mỹ ban hành luật Tự do thông tin (năm 1966), Canada (1983), Hungary (1992), Anh (2000), Nam Phi (2000)...Ở châu Á, một số nước đã ban hành Luật này như Thái Lan (12-1997), Hàn Quốc (1-1998), Nhật (4-2001), Ấn Độ (2005)...hoặc Trung Quốc ban hành Pháp lệnh...Cho đến nay, có khoảng 86 quốc gia trên toàn thế giới đã ban hành Luật Tự do thông tin hoặc Luật tiếp cận thông tin hoặc có tên gọi khác nhưng đều quy định về quyền và các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin; một số quốc gia khác cũng đang nỗ lực ban hành luật này hoặc ban hành các nghị định riêng để điều chỉnh về vấn đề này.

          Việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế sẽ giúp cho quá trình soạn thảo, xây dựng Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế, các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế và khu vực về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.

1. Quan điểm, nguyên tắc pháp lý cơ bản xây dựng Luật Tiếp cận thông tin của các nước[210]

          Điều 19 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ" (khoản 2 Điều 19).

          Nguyên tắc về Luật tự do thông tin và Quyền được biết của công chúng đã được Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp quốc thông qua vào phiên họp thứ 56 (năm 2000), bao gồm 9 nguyên tắc:

  • Nguyên tắc 1:  Mở thông tin tối đa (trên cơ sở luật và nguyên tắc, quy định cụ thể)
  • Nguyên tắc 2:  Nghĩa vụ công bố (của các cơ quan công)
  • Nguyên tắc 3: Thúc đẩy chính phủ mở (các cơ quan công thực hiện tích cực thực hành chính phủ mở và xóa bỏ văn hóa bí mật trong quá trình củng cố quản trị nhà nước)
  • Nguyên tắc 4: Hạn chế phạm vi miễn trừ cung cấp thông tin hay danh mục mật (danh mục này cần rõ ràng, hạn chế và thông tin bị hạn chế nếu có chỉ với mục đích bảo vệ quyền lợi công)
  • Nguyên tắc 5: Đảm bảo quá trình tiếp cận thông tin (cơ chế cung cấp thông tin nhanh, đủ, hiệu quả và có đánh giá giám sát độc lập)
  • Nguyên tắc 6: Chi phí tiếp cận thông tin (về cơ bản, người dân không phải trả chi phí hoặc chi phí quá cao cho việc yêu cầu thông tin)
  • Nguyên tắc 7: Công khai các cuộc họp (cho công chúng biết về các cuộc họp của các cơ quan công, bằng nhiều hình thức phụ hợp như văn bản, nói chuyện trực tiếp, thông tin đại chúng, truyền thông v.v)
  • Nguyên tắc 8: Chỉnh sửa để đảm bảo công khai thông tin (những luật không nhất quán với nguyên tắc với quyền tiếp cận thông tin cần được chỉnh sửa)
  • Nguyên tắc 9: Bảo vệ cho người cung cấp thông tin
  • Cùng với Liên Hiệp Quốc, Tổ chức vì An Ninh và Hợp tác của Châu Âu (OSCE), tổ chức các quốc gia châu Mỹ cũng đã cùng nhau tuyên bố là tiếp cận thông tin là quyền con người và đưa ra những luận điểm và nguyên tắc chính cho quyền tiếp cận thông tin (Tuyên bố ngày 6/12/2004[211])
  • Tự do thông tin cũng được đề cập trong các văn bản quốc tế khác như: Điều khoản 9 của Hiến Chương Châu Phi về Quyền con ngừời; Điều khoản 13 trong Hiến Chương Chấu Mỹ về Quyền con người.
  • Hội Đồng Châu Âu cũng có Công Uớc về tiếp cận các tài liệu chính thức, thông qua ngày 17/11/2008, cho rằng tính minh bạch của các cơ quan công quyền là yếu tố then chốt của quản trị nhà nước và là một cách thể hiện của tính dân chủ và đa nguyên. Nó giúp chống tham nhũng và tăng cường sự tham gia của công dân trong các vấn đề công.
  • Nguyên tắc Johannesburg về An Ninh Quốc Gia, Tự do ngôn luận và Tiếp cân thông tin 1995[212] cũng ghi nhận quyền tự do ngôn luận và quyền tiếp cận thông tin  và quyền lực của chính phủ hạn chế quyền tiếp cận thông tin nhưng chỉ khi cần thiết và chỉ khi ảnh hưởng tới quyền lợi và an ninh quốc gia một cách hợp pháp (Cơ sở này là tiêu chuẩn của luật quốc tế và khu vực).
  • Các quốc gia khác cũng có quan điểm mở về tự do thông tin. Đặc biệt với Bắc Âu là mô hình xã hội dân chủ và nhà nước phúc lợi, quyền được biết là công cụ để đảm bảo quyền dân chủ của dân trong nhà nước pháp quyền.

2. Cấu trúc và những chế định cơ bản của đạo luật tiếp cận thông tin/ tự do thông tin trên thế giới[213]

          Một số nội dung cơ bản sau đây được đề cập trong các đạo luật về tiếp cận thông tin / tự do thông tin của các nước trên thế giới:

  • Trách nhiệm cung cấp thông tin thuộc về ai? Hay, Luật áp dụng với các cơ quan công quyền nào (đối tượng áp dụng luật) ?
  • Các cơ quan công quyền có trách nhiệm thực thi như thế nào để cung cấp thông tin, và đáp ứng yêu cầu thông tin của công dân như thế nào ? (trình tự, thủ tục)
  • Đối tượng: Ai cần thông tin? (chủ thể tiếp cận thông tin)
  • Có thể tiếp cận thông tin bằng cách nào? (phương thức tiếp cận)
  • Thông tin gì có thể tiếp cận? thông tin gì không? (phạm vi thông tin)
  • Hạn chế và thách thức của quyền tiếp cận thông tin (liên quan đến phạm vi thông tin bí mật)

 

Về đối tượng áp dụng:

Luật Tiếp cận thông tin (hay Luật tự do thông tin) nhìn chung được áp dụng với các cơ quan công gồm hành chính công ở các cấp, bộ, ngành, cảnh sát, quân đội, bệnh viện, trường học công, chính quyền các cấp, tòa án, quốc hội và các cơ quan khác thuộc hệ thống công, kể cả các đơn vi kinh doanh làm nhiệm vụ nhà nước (công ty có vốn nhà nước) hoặc đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. Một số các cơ quan đặc biệt khác như kiểm toán nhà nước hay thanh tra nhà nước cũng có quyền đặc biệt yêu cầu thông tin từ các cơ quan công quyền khác.

Các cơ quan công quyền có trách nhiệm thực thi như thế nào để cung cấp thông tin, và đáp ứng yêu cầu thông tin của công dân?

Khi nhận yêu cầu thông tin của công dân, những yêu cầu này cần được xử lý nhanh và đúng. Ngoài hệ thống cơ sở thông tin và trả lời thông tin, còn cần có hệ thống đánh giá độc lập nếu có sự khước từ trả lời thông tin của các cơ quan công quyền. Một số nguyên tắc của việc đáp ứng yêu cầu thông tin là:

  • Yêu cầu có thể gửi cho bất cứ cơ quan công nào có liên quan, và dưới dạng ít hình thức nhất (ví dụ bằng email, hoặc văn bản)
  • Người yêu cầu thông tin không phải đưa ra lý do cần phải có thông tin hoặc tài liệu cụ thể đó
  • Việc trả lời yêu cầu và cung cấp thông tin (kể cả văn bản tài liệu) cần đựợc xử lý theo khung thời gian quy định (tùy từng nước quy đinh khung thời gian khác nhau theo tính khả thi của cơ sở hạ tầng thông tin)
  • Ngoài việc cung cấp thông tin, cơ quan công còn có trách nhiệm hỗ trợ cho người dân tiếp cận được thông tin bằng nhiều cách khác và tới các nguồn thông tin chính thức khác trong khả năng có thể.
  • Nếu không đáp ứng và cung cấp được thông tin, văn bản hoặc nội dung văn bản, cơ quan công cần đưa ra lý do xác đáng

Về hình thức yêu cầu thông tin

Việc yêu cầu thông tin từ phía người dân duy trì ở mức thấp nhất và đơn giản nhât kể cả yêu cầu miệng hay viết và cần có quy định cụ thể trong luật hoặc các hướng dẫn liên quan của cơ quan công.

Công dân có yêu cầu tiếp cận thông tin cũng có thể tiếp cận thông qua hệ thống dữ liệu mở của cơ quan công (ví dụ hệ thống thống kê, thư viện, các hệ thống nguồn của từng cơ quan công cụ thể) (nguyên tắc 2 LHQ)

Công dân cũng có thể yêu cầu cụ thể loại tài liệu, mã tài liệu nếu biết. Việc trả lời yêu cầu thông tin trên có thể được trả lời bằng việc gửi bản copy của tài liệu hoặc nguồn mở của tài liệu hoặc nội dung của tài liệu (theo quy định phân loại tài liệu của luật, hoặc với những tài liệu thuộc danh mục mật)

Ngoài ra, để tiếp cận thông tin, công dân có quyền được biết hoặc tham dự các cuộc họp công, cuộc tường trình của cơ quan công hoặc phiên tòa (nguyên tắc số 7 – công khai cuộc họp). Một số hình thức khác là các cuộc tường trình thảo luận của cơ quan công như quốc hội, phiên tòa cũng được ghi chép, ghi âm hay quay phim lưu trữ hoặc chiếu trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc internet.

Nguyên tắc xử lý việc khiếu nại và khiếu kiện về từ chối cung cấp thông tin  - Cơ chế giám sát, bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin

Dựa theo nguyên tắc thứ 5 của Bộ Nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc thì cần có hệ thống giám sát độc lập. Tuy nhiên, quyền khiếu nại khiếu kiện và tái kiện của công dân sẽ được đảm bảo tùy theo hệ thống điều hành hay tư pháp theo quy định của luật pháp mỗi nước, miễn là đảm bảo tính độc lập của hệ thống này. Hệ thống giám sát độc lập này có chức năng nhận khiếu nại, khiếu kiện, điều tra và giải quyết tranh chấp khiếu nại. Các nước theo hệ thống tư pháp phù hợp có thể cân nhắc tính phù hợp cần có một cơ quan độc lập tách biệt (hoặc đã có hoặc được thiết lập mới) ví dụ như Ủy ban Thông tin hay Thanh tra nhà nước/Thanh tra Quốc hội (trường hợp của Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch) để giải quyết khiếu nại. Hoặc cân nhắc việc sử dụng nếu hệ thống tư pháp là tòa án để giải quyết khiếu nại khiếu kiện. Trong nhiều trường hợp khiếu nại qua hệ thống thanh tra lại nhanh hơn, và có thể giải quyết bằng hòa giải hơn là bằng các vụ kiện lên hệ thống tư pháp gây tốn kém nguồn lực công và thủ tục thụ lý kiện lại lâu hơn. Tuy nhiên, về pháp lý, chỉ có hệ thống tòa án mới có quyền phát xét, và đưa ra những tuyên bố có tính bắt buộc. Kháng cáo là một phương thức đựợc áp dụng trong các vụ khiếu kiện về từ chối cung cấp thông tin của công dân với các cơ quan công. Hệ thống kháng cáo này theo nguyên tắc hai cấp. Nhiều Luật Tự do thông tin tiến bộ gần đây quy định kháng cáo thông qua cơ quan độc lập, có chức năng và quyền hạn giám sát đối với các cơ quan công và cơ quan hành chính của chính phủ. Cũng có thể kháng cáo qua tòa án. Việc tạo ra một cơ quan mới như Thanh Tra Nhà nước hay Ủy ban thanh tra không phải là vấn đề khó khăn, tuy cần đảm bảo quyền lực giám sát, không chịu áp lực từ phía chính phủ của cơ quan này.

Ở nhiều nước có hệ thống thanh tra nhà nước (tiêu biểu là mô hình Bắc Âu, Mỹ, Úc, Anh). Hệ thống này có thể được hiểu là hệ thống giải quyết tranh chấp thay thế (gồm cả chức năng hòa giải), nằm ngoài hệ thống tư pháp hay quá trình tư pháp. Ở nhiều nước có cơ quan (hay chức danh) Thanh tra Nghị viện nhằm bảo vệ quyền của công dân và hoàn toàn độc lập với khu vực hành pháp. Tương tự với Thanh tra Chính phủ, cơ quan này có nhiệm vụ chính là giám sát việc áp dụng thực hiện luật pháp của cả thẩm phán và công chức. Chức danh này cũng như khởi nguồn của cơ quan thanh tra (Ombudsman) bắt đầu từ những năm 1714 ở Thụy Điển. Chức danh này là viên chức chính phủ. Ở Thụy Điển và Phần Lan là 2 nước có hệ thông thanh tra chính phủ gần giống nhau thì thanh tra làm nhiệm vụ giám sát hoạt động của các công quyền, gồm cả vị bộ trưởng và các công chức, có chức năng điều tra các cáo buộc liên quan, đựợc tham dự các cuộc họp nội các và có quyền khởi tố. Ngoài việc giám sát nội bộ, các cơ quan thanh tra này còn có quyền nhận khiếu nại và xử lý khiếu nại, là phương cách trao đổi (hay trung gian độc lập không nằm trong hệ thống của chính phủ) giữa công dân và bộ máy công quyền, công chức.

Nghị viện là hệ thống dân cử và đại diện của công dân trong mối quan hệ với công dân cũng đóng vai trò quan trọng đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân. Nghị viện cũng có quyền lực yêu cầu thông tin và Nghị sĩ (đại biểu quốc hội) cũng quyền xem xét thông tin và các chứng cứ. Nghị viện cũng cần có được lòng tin của công chúng qua chức năng giám sát chính phủ đặc biệt là đối với vấn đề tham nhũng và các vấn đề khác trong đời sống công.

Thông tin gì có thể tiếp cận? thông tin gì không được yêu cầu  ?

Theo nguyên tắc số 2 và số 5 của Bộ Nguyên tắc LHQ , các cơ quan công có trách nhiệm chủ động cung cấp phổ biến thông tin chủ chốt và cung cấp thông tin cụ thể theo yêu cầu. Những loại thông tin chủ chốt cần cho công chúng biết bao gồm: 

  • Thông tin về hoạt động, chức năng cơ cấu tổ chức, mục tiêu, ngân sách, thông tin kiểm toán, kết quả đạt đựợc v.v
  • Hướng dẫn thủ tục, quy trình và công chúng có thể áp dụng để sử dụng dịch vụ công do cơ quan cung cấp, hay để tham gia vào quá trình xây dựng chính sách hoặc đề xuất xây dựng luật pháp
  • Các thông tin khác do cơ quan công nắm giữ
  •  Chủ thể yêu cầu thông tin có thể yêu cầu thông tin về bản than họ từ các cơ quan đang nắm giữ thông tin cá nhân này
  • Thông tin về quốc hội: Những thảo luận (phiên họp) về những chính sách của quốc hội và cả các vấn đề khác như ngân sách và thuế là quan tâm công chúng, và thông tin này cần được công khai. Nhiều hính thức phổ biến thông tin quốc hội như người dân được trực tiếp tham gia nghe tường trình, nghe qua phương tiện thông tin đại chúng (phát trực tiếp hoặc gián tiếp), đại biểu quốc hội (Nghị sĩ) tiếp xúc cử tri v.v

Hạn chế thông tin trong Luật tự do thông tin

Hạn chế thông tin cần được cụ thể hóa bằng luật và cần thu hẹp việc hạn chế thông tin hay rút ngắn các danh mục hạn chế thông tin. Tuy nhiên, thông tin có thể được giữ kín nếu như việc cung cấp sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính bí mật của quá trình tố tụng, đến quan hệ quốc tế, đến quốc phòng và an ninh công cộng, đến công lý, xét xử và điều tra công bằng, đến bí mật thương mại, quyền sở hữu trí tuệ, các thông tin cá nhân hoặc các thông tin được cung cấp một cách tình nguyện từ các bên thứ 3 và các thông tin nhạy cảm về môi trường. Tuy nhiên, các ngoại lệ này cần thu hẹp phạm vi và cơ quan Chính phủ phải xem xét đến lợi ích công cộng trong việc công bố thông tin.

Danh mục thông tin miễn trừ cần được hạn chế: tùy theo quy định của từng quốc gia, tuy nhiên phạm vi hoặc nhóm hoặc danh mục thông tin miễn trừ không phải công bố cho công chúng càng ít càng tôt. Danh mục này cần được luật hóa, trong luật Tự do thông tin hoặc trong một số luật liên quan khác. Cơ quan công quyền chỉ được từ chối không cung cấp thông tin nếu thông tin đó nằm trong danh mục này. Việc quy định danh mục miễn trừ này dựa trên cơ sở sự cần thiết, nếu việc sử dụng hoặc tiết lộ cung cấp thông tin đó gây ảnh hưởng đến quốc gia hoặc trên hết là quyền lợi chung của công chúng. Việc đưa vào danh mục thông tin gì cũng dựa trên mối quan hệ và cân bằng giữa lý do không cung cấp và quyền lợi công. Theo nguyên tắc thứ 4 của Bộ Nguyên tắc LHQ thì một số danh mục có thể cho phép được miễn trừ là:

  •  An ninh quốc gia, quôc phòng và quan hệ quốc tế (ngoại giao)
  • Vì an toàn công chúng
  • Phòng ngừa, điều tra và khởi tố hành vi phạm tội và hình sự
  • Thương mại, lợi ích kinh tế
  • Chính sách kinh tế, tiền tệ tỷ giá
  • Các thông tin còn đang trong quá trình thảo luận chưa có quyết định chính thức về chính sách của các cơ quan công

 

 

3. Những nội dung cần thiết quy định trong Dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam

Nhận xét chung:

          Từ kinh nghiệm xây dựng Luật tiếp cận thông tin của các nước trên thế giới, có thể thấy rằng nội dung của Luật tiếp cận thông tin không chỉ quy định rõ quyền tiếp cận thông tin, quyền được biết thông tin của người dân, trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc cung cấp thông tin mà Luật này còn có nhiệm vụ bổ khuyết các văn bản pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin, đặc biệt là đối với thông tin không công bố rộng rãi mà sẽ phải được cung cấp theo yêu cầu của cá nhân công dân; đối với các lĩnh vực chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh riêng thì sẽ thực hiện theo các quy định của Luật. Theo đó, phạm vi thông tin người dân có thể tiếp cận là không hạn chế ở những vấn đề, lĩnh vực theo cách liệt kê của các luật chuyên ngành mà có thể tiếp cận tất cả các thông tin do các cơ quan công quyền nắm giữ (vì thông tin do cơ quan nhà nước nắm giữ là vô cùng đa dạng, không phải luật chuyên ngành nào cũng đề cập đến), một số thông tin thuộc bí mật nhà nước và thông tin bị hạn chế tiếp cận theo quy định của Luật (ví dụ: trừ những thông tin thuộc bí mật quốc gia, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh, thông tin ảnh hưởng đến quá trình điều tra các vụ án...). 

          Công chúng cần được tiếp cận với những thông tin mà các cơ quan nhà nước nắm giữ, từ cấp chính quyền trung ương đến cấp địa phương, tòa án và cả Quốc hội v.v... Để đảm bảo việc thực hiện hiệu quả và nghiêm túc việc cung cấp thông tin cho công chúng, cần có một cơ quan độc lập với các tổ chức cơ quan nắm giữ thông tin với chức năng kiểm tra kiểm soát việc thực hiện. Đó cũng là những điểm mà pháp luật hiện hành còn khiếm khuyết.

Những nội dung chính cần điều chỉnh trong Luật tiếp cận thông tin

Luật tiếp cận thông tin cần xác định rõ đối tượng điều chỉnh, nội hàm quyền tiếp cận thông tin, quy định các nguyên tắc tiếp cận thông tin, mối quan hệ giữa Luật tiếp cận thông tin và các luật khác hay nguyên tắc áp dụng của văn bản; quy định chung về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin.

Về phạm vi điều chỉnh, Dự thảo Luật có thể quy định về thông tin được tiếp cận; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm tiếp cận thông tin; quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu tiếp cận thông tin; hình thức, trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin và cơ chế bảo đảm việc tiếp cận thông tin.

Về đối tượng điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật nên là tất cả các cơ quan nhà nước - cơ quan công quyền (bao gồm cả cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp) và các tổ chức có sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước, trừ tổ chức chính trị (bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức do Thủ tướng Chính phủ thành lập, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước, quỹ được thành lập theo quy định của pháp luật.

          Khi nói đến trách nhiệm cung cấp thông tin, có thể thấy chủ thể liên quan nhất là các cơ quan hành chính nhà nước. Các văn kiện của Đảng cũng luôn nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cơ quan này, đặc biệt là trong tiến trình cải cách hành chính vừa qua. Các cơ quan hành chính luôn là cơ quan nắm giữ nhiều thông tin và các thông tin này được người dân quan tâm nhất vì chúng gắn với đời sống của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, các chủ thể khác như cơ quan lập pháp, tư pháp cũng là các cơ quan công quyền và nắm giữ các thông tin mà người dân quan tâm. Cụ thể là các dự án luật, pháp lệnh, các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đều được đăng tải công khai, kịp thời qua các phương tiện thông tin đại chúng để người dân tham gia đóng góp ý kiến; những vấn đề quan trọng của đất nước được thảo luận công khai; các phiên chất vấn tại Quốc hội được truyền hình trực tiếp. Bên cạnh đó, thông qua các buổi tiếp xúc cử tri, các hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, tất cả những vấn đề mà cử tri quan tâm được đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trực tiếp thông báo, trao đổi cởi mở với cử tri.

          Đối với Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, chủ trương từng bước công khai các bản án, phán quyết của toà án đã xây dựng nền tảng cho việc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bên cạnh trách nhiệm công bố thông tin rộng rãi trên trang thông tin điện tử theo quy định chung đối với mọi cơ quan công quyền, các thông tin liên quan đến hoạt động tố tụng mà các cơ quan như Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân nắm giữ sẽ theo quy định của pháp luật tố tụng. Ngoài ra, cần quy định trường hợp ngoại trừ tiếp cận hay cơ quan tư pháp không có nghĩa vụ công khai các thông tin mà việc công khai có thể làm cản trở đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

          Đối với các cơ quan hành chính nhà nước, việc công khai các chủ trương chính sách, thẩm quyền và tình hình hoạt động của các cơ quan, các thủ tục hành chính... đã được quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành. Thông tin cho người dân về tình hình đất nước, quản lý điều hành của Chính phủ, của cơ quan hành chính nhà nước là phương thức quan trọng để các cơ quan thực hiện nhiệm vụ, đồng thời, cũng là biện pháp nhằm thúc đẩy hoàn thiện một nền hành chính hiệu quả, minh bạch và gần dân. Trên thực tế, cơ chế công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đã được hình thành, từng bước hoàn thiện và đã mang lại những tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc quy định vào Dự thảo Luật lần này, do đó, sẽ không gặp trở ngại đáng kể nào.

Đối với các tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng ngân sách nhà nước, đối tượng này cũng nên có nghĩa vụ cung cấp thông tin bởi vì người dân cần được biết các thông tin liên quan đến hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng nguồn ngân sách nhà nước. Pháp luật hiện hành cũng đã ít nhiều quy định về trách nhiệm công khai thông tin của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước.

Xu thế gần đây pháp luật của các nước trên thế giới, nhất là các nước mới ban hành hoặc sửa đổi luật tiếp cận thông tin đều quy định chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin, đối tượng áp dụng của luật bao gồm cơ quan quyền lực, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, các cơ quan, tổ chức thực hiện quyền lực công, sử dụng ngân sách nhà nước hay được cơ quan nhà nước uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ công (một số nước quy định về các tổ chức tư nhân cũng có nghĩa vụ cung cấp thông tin). 

Luật có thể dành một chương riêng để phân loại thông tin: loại thông tin được công bố rộng rãi, loại thông tin được tiếp cận theo yêu cầu và loại thông tin không công khai.

Về loại thông tin được công bố rộng rãi, có thể liệt kê trên cơ sở rà soát, tập hợp các quy định pháp luật hiện hành về công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước như Luật phòng, chống tham nhũng, Luật Kiểm toán Nhà nước, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các luật khác.

Về loại thông tin được tiếp cận theo yêu cầu: Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 có quy định "Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của pháp luật" (khoản 1 Điều 31) nhưng phạm vi thông tin, đối tượng đề nghị cung cấp thông tin đều còn hẹp và chưa bao quát tới các loại thông tin trên tất cả các lĩnh vực đều có thể là đối tượng quan tâm của công chúng, mặt khác, các thông tin thuộc phạm vi hoạt động của cơ quan, tổ chức này chỉ liên quan tới vấn đề phòng, chống tham nhũng, chỉ là một phần nhỏ thông tin mà người dân có nhu cầu tìm hiểu. Do đó, Dự thảo Luật nên quy định loại thông tin được tiếp cận theo yêu cầu là không giới hạn và chỉ ngoại trừ thông tin không công khai và thông tin đã được công bố rộng rãi (có thể yêu cầu đối với thông tin đã từng được công bố rộng rãi nhưng không thể tiếp cận được), đây cũng là hướng quy định chung ở các nước trong khu vực và thế giới.

Về loại thông tin không công khai: có thể  bao gồm (1) thông tin liên quan hoặc ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia hoặc lợi ích cộng đồng, (2) thông tin cá nhân, và (3) bí mật kinh doanh.

Về nguyên tắc, Nhà nước bảo đảm quyền tiếp cận thông tin nhưng quyền này cũng là một quyền có giới hạn. Trong hầu hết các luật tiếp cận thông tin của các quốc gia đều có những quy định về hạn chế tiếp cận các thông tin, tài liệu mật liên quan đến an ninh quốc gia, bí mật kinh doanh, thông tin cá nhân…và coi những thông tin này thuộc trường hợp ngoại lệ - không thuộc diện thông tin phải công bố, phải cung cấp theo yêu cầu, trừ những trường hợp cụ thể muốn tiếp cận phải có những điều kiện nhất định và điều kiện đó cũng phải được pháp luật quy định cụ thể. Ví dụ: về nguyên tắc, cơ quan công quyền không cung cấp thông tin cá nhân của một người, nhưng nếu người đó đồng ý cho cung cấp thì có thể cung cấp mà không vi phạm. Hoặc, đối với thông tin mà việc công khai có thể gây tổn hại cho việc điều hành nền kinh tế, chính sách tài chính, tiền tệ của Nhà nước; tổn hại đến lợi ích thương mại hoặc tài chính hợp pháp của cơ quan nhà nước nhưng nếu việc công khai thông tin đó là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng hoặc việc công khai thông tin sẽ có lợi cho cộng đồng hơn so với việc không công khai thông tin thì cơ quan nắm giữ thông tin có trách nhiệm phải cân bằng lợi ích, cân nhắc các tổn hại có thể gây ra nếu không cung cấp thông tin, ưu tiên bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng.

Trong số 3 loại thông tin không công khai nói trên thì thông tin thuộc bí mật nhà nước được xếp vào loại thông tin liên quan hoặc ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia hoặc lợi ích cộng đồng. Hiện nay, việc hiểu những thông tin nào thuộc phạm trù bí mật nhà nước còn quá rộng, bao trùm cả những vấn đề chung của cộng đồng, do đó, Dự thảo Luật cần xác định lại tiêu chí, phạm vi thông tin thuộc bí mật nhà nước, nhằm tạo cơ chế thuận lợi cho việc bảo mật các thông tin liên quan đến bí mật nhà nước mà vẫn không hạn chế quyền tiếp cận thông tin của người dân, không mâu thuẫn với các nguyên tắc của Luật.

Dự thảo Luật cần có chương riêng quy định về hình thức, trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin đối với loại thông tin công bố rộng rãi, các hình thức tiếp cận thông tin theo yêu cầu và trình tự, thủ tục cung cấp thông tin khi có yêu cầu.

Như đã nêu ở trên, mặc dù đã có một số văn bản quy định về công bố thông tin trong một số lĩnh vực nhưng một trong những khiếm khuyết đáng kể của hệ thống pháp luật hiện nay là thiếu quy định cụ thể về quy trình tiếp cận thông tin cũng như các phương thức tiếp cận khi mỗi cá nhân có nhu cầu tiếp cận, tìm hiểu thông tin, dẫn đến sự e ngại của người dân khi muốn tiếp cận thông tin và sự lúng túng của cán bộ, công chức về cách thức giải quyết công việc. Do vậy, Dự thảo Luật cần nêu rõ các hình thức tiếp cận thông tin theo yêu cầu , cho phép yêu cầu tiếp cận bằng văn bản hoặc trực tiếp bằng lời nói, cách thức gửi đơn và nội dung đơn, quy định rõ cơ quan, tổ chức nhận đơn phải ra quyết định bằng văn bản về việc tiếp cận thông tin, quy định về trường hợp tiếp cận một phần tài liệu, hồ sơ, về thông báo về việc không có thông tin yêu cầu, trường hợp nào có thể từ chối yêu cầu tiếp cận thông tin; thời hạn và gia hạn giải quyết yêu cầu tiếp cận thông tin; chi phí cho việc tiếp cận thông tin.

Để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, Dự thảo Luật cần có chương riêng quy định về các biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin; nhấn mạnh về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức quản lý thông tin trong việc bố trí đầu mối tiếp nhận yêu cầu và cung cấp thông tin; bố trí hợp lý cán bộ, công chức bảo đảm việc tiếp cận thông tin; tổ chức cập nhật các thông tin do mình đang quản lý, công bố thông tin, lưu giữ thông tin sao cho việc tìm kiếm thông tin dễ dàng; bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất khác nhằm mục đích tạo thuận lợi cao nhất cho việc tiếp cận thông tin.

Trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, việc bố trí đầu mối tiếp nhận yêu cầu, cung cấp và ra quyết định cung cấp thông tin có ý nghĩa quan trọng. Thông lệ các nước đều có cán bộ, công chức phụ trách riêng về tiếp cận thông tin, mỗi cơ quan có thể có một số cán bộ hoặc tối thiểu phải bố trí một cán bộ. Dự thảo Luật cần có quy định về cơ chế  bảo vệ người cung cấp thông tin; cơ chế khiếu nại, khiếu kiện; bồi thường thiệt hại, xử lý vi phạm và quy định cơ quan có trách nhiệm theo dõi, giám sát thực hiện Luật.

 Để quyền tiếp cận thông tin của người dân được thực thi trong thực tiễn, đồng thời, để hạn chế việc các cơ quan, tổ chức quản lý thông tin lạm dụng quyền hạn của mình từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không kịp thời cho người dân, bên cạnh những quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cần thiết phải có cơ chế theo dõi, đánh giá và giám sát việc thực thi quyền tiếp cận thông tin. Thực tiễn thi hành Luật Tiếp cận thông tin tại nhiều quốc gia cho thấy, các cơ quan quản lý thông tin - đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước, nơi nắm giữ phần lớn các thông tin mà người dân muốn được tiếp cận - thường có xu hướng không muốn cung cấp thông tin hoặc trì hoãn việc cung cấp thông tin. Thực tế này dẫn đến tình trạng là những quy định của luật dễ trở thành những tuyên bố mang tính hình thức, không có giá trị thực thi, từ đó làm giảm sút lòng tin của người dân đối với chính sách của Nhà nước. Vì vậy, để tránh tình trạng này, hầu hết các quốc gia đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin đều quy định cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đạo luật này.

Một trong những cơ chế giám sát có tính chất truyền thống mà hầu hết các quốc gia đều thực hiện, đó là cơ chế giám sát trong nội bộ hệ thống hành chính thông qua việc giải quyết khiếu nại hành chính. Công dân có quyền khiếu nại đối với một quyết định từ chối cung cấp thông tin lên cơ quan cấp trên của cơ quan từ chối cung cấp thông tin. Quy trình này được cho là ít tốn kém và nhanh chóng, nhưng thực tiễn ở phần lớn các quốc gia cho thấy, đây là một quy trình kém hiệu quả, vì các cơ quan giải quyết khiếu nại hành chính thường có xu hướng ủng hộ các quyết định từ chối cung cấp thông tin của cơ quan cấp dưới. Xu hướng chung của các quốc gia thời gian gần đây là thành lập một Uỷ ban thông tin độc lập để chuyên trách thực hiện chức năng giám sát việc thực thi quyền tiếp cận thông tin. Uỷ ban này có thể là một cơ quan trực thuộc Quốc hội hoặc trực thuộc Văn phòng Thủ tướng, thậm chí có thể là một thiết chế độc lập hoàn toàn. Ở một số quốc gia như Slovenia, Serbia, Ireland và Vương quốc Anh, Uỷ ban thông tin được coi như một cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng, quyết định của Uỷ ban này có tính chất cưỡng chế và các cơ quan hành chính phải tuân theo.

Để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin, việc thiết lập trang thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức nhằm công bố, đăng tải, phổ biến rộng rãi thông tin là cần thiết. Cần thiết phải quy định thành trách nhiệm bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ cung cấp thông tin hay các cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước trong việc thiết lập trang thông tin điện tử riêng để đăng tải các thông tin cần thiết, quan trọng. Đây cũng là một trong những phương thức hữu hiệu để người dân được chủ động trong việc tiếp cận thông tin, có thể dễ dàng tiếp cận với thông tin mà không phải mất nhiều thời gian, công sức cho việc tìm kiếm hay phải yêu cầu các cơ quan, tổ chức cung cấp. Yêu cầu phải đăng tải các thông tin cần thiết trên các trang thông tin điện tử cũng sẽ tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức trong việc cập nhật, đăng tải thông tin. Hiện nay, vẫn còn một số cơ quan nhà nước chưa có trang thông tin điện tử như Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Đối với các tổ chức chính trị xã hội, chính trị xã hội- nghề nghiệp, các đơn vị sự nghiệp công lập... thì chỉ một số tổ chức có trang thông tin điện tử riêng, điều này gây khó khăn cho người dân khi muốn tiếp cận thông tin.

Việc tiếp cận thông tin của người dân có hiệu quả hay không tuỳ thuộc vào việc các cơ quan, tổ chức quản lý, nắm giữ thông tin có chủ động và tích cực đăng tải, phổ biến các loại thông tin này ngay cả khi không có yêu cầu của người dân. Các trang thông tin điện tử này là một kênh quan trọng trong việc đăng tải thông tin liên quan đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Việc đăng tải trên các trang thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức sẽ tạo cho việc tiếp cận thông tin nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm được nhiều chi phí cho cả phía các cơ quan và người dân. Đối với cấp xã, là cấp gần dân nhất, thông tin do cấp xã nắm giữ cũng hết sức quan trọng đối với người dân. Theo quy định của Pháp lệnh dân chủ ở cấp xã, phường, thị trấn thì cấp xã cũng có nghĩa vụ phải phổ biến rộng rãi nhiều thông tin quan trọng. Việc thiết lập trang thông tin điện tử sẽ không chỉ bảo đảm thực hiện tốt Luật tiếp cận thông tin mà cả Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cấp xã, phường, thị trấn và Luật phòng, chống tham nhũng.

Kết luận:

Những bài học kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng luật tiếp cận thông tin là xây dựng luật cần đồng bộ và có sự rà soát kỹ càng với các luật khác liên quan; cần có những thay đổi về cả ý thức hệ, thể chế, chính sách và cơ sở hạ tầng và cần có đủ thời gian cần thiết để các cơ quan, tổ chức có thể chuẩn bị để Luật có hiệu lực trên thực tế. Việc quy định về thời điểm có hiệu lực của Luật cũng cần phải bảo đảm trên cơ sở có sự chuẩn bị kỹ càng các yếu tố nêu trên./.

 

 

 

 

 

 



[1] Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” ngày 06-07/05/2009 tại Hà Nội.- (Trang 30)

[2]  Tài liệu đã dẫn trang 32

[3]  Xem GS-TS Nguyễn Đăng Dung – Báo cáo tóm tắt kết quả khảo sát thực tiễn tại địa phương về thực thi quyền được thông tin, Tài liệu Hội thảo quốc tế Xây dưng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam, Hà Nội ngày 06-07/5/2009, tr.45

[4] Kỷ yếu Hội thảo: “ Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” tổ chức tại tỉnh Hoà Bình do Bộ tư pháp kết hợp với Quỹ châu Á tổ chức ngày 23-24/9/2010 ,tr.8.

[5] Văn kiện Liên hợp quốc mã số E/CN.4/1998/40, đoạn 14-16; Văn kiện Liên hợp quốc mã số E/CN.4/2000/63, đoạn 41-43.

[6] Tl 1, trang 4.

[7] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, trang 4

[8] TS..Ttường Duy Kiên, Quyền tiếp cận thông tin: qui định quốc tế và đặc điểm chung của luật một số nước, Hiến kế lập pháp, số 01 (112+114) t1/2008

[9] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, trang 4

[10] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, trang 4

[11] Quyền được biết của công chúng: Các nguyên tắc của pháp luật về tự do thông tin (London: tháng 6 năm 1999), lời giới thiệu.

[12] UNDP, Báo cáo phát triển con người 2002: Tăng cường  sự dân chủ trong một thế giới chưa hoàn thiện, (Oxford: NXB trường đại học Oxford, 2002), trang 3.

[13] Stiglitz: “Sự minh bạch trong chính quyền”, Học viện Ngân hàng thế giới, Quyền được nói: Vai trò của truyền thông đại chúng trong sự phát triển kinh tế, ( Oasington: 2002), trang 28.

[14] Tony Mendel - B áo c áo đ ánh gi á so s ánh ph áp lu ật v ề ti ếp c ận th ông tin - H ội th ảo qu ốc t ế x ây d ựng Lu ật ti ếp c ận th ông tin t ại Vi ệt Nam” H à N ội ng ày 6-7/5/2009, tr.6.

[15]  Xem: Tài liệu đã dẫn.

[16] Tài liệu đã dẫn,tr. 35

[17] Luật số 571 ngày 19-12-1995. http://aabenhedskomite.dk/07love/forvaltningsloven_paa_engelsk.htm

[18] Luật về Xử lý dữ liệu cá nhân (Luật số 429 ngày 31-5-2000. http://www.datatilsynet.no/upload/Dokumenter/regelverk/lov_forskrift/lov-20000414-031-eng.pdf.

 

[19] Xem NOU 1999:27.http://odin.dep.no/jd/norsk/publ/utredninger/NOU/012005-020029/index-hov012-bna.html

[21] http://www.archives.gov/federal-register/codification/executive-order/12600.html

[22] Được ký kết vào ngày 30 tháng 11 năm 2001 ở Tookyo (Nhật Bản)

[23] Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội, 2007, trang 30

[24] Swedish Approach  to Public Access to Document. Fact Sheet of Ministry of Justice. Sweden, 2005.

[25]  Tony Mendel - B áo c áo đ ánh gi á so s ánh ph áp lu ật v ề ti ếp c ận th ông tin - H ội th ảo qu ốc t ế x ây d ựng Lu ật ti ếp c ận th ông tin t ại Vi ệt Nam” H à N ội ng ày 6-7/5/2009, tr.196.

 

[26] Luật bảo vệ việc công khai, số 26 của năm 2000.

[27]  David Banisar – Báo cáo tự do thông tin thế giới năm 2006, nguồn: www.privacyinternational. org

[28]  David Banisar – Báo cáo tự do thông tin thế giới năm 2006, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế :  “ Góp ý dự thảo Luật tiếp cận thông tin và Báo cáo đánh giá tác động  Luật tiếp cận thông tin”, Hà Nội, ngày 02-03/7/2009

[29]  Tài liệu đã dẫn,tr. 180.

[30]  Tài liệu đã dẫn, tr. 180.

[31]  Tài liệu đã dẫn ,tr. 177.

[32] Điều 19, K2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác, tuỳ theo sự lựa chọn của họ”.

[33] Điều 263. Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước; Điều 264. Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước; Điều 286. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác; Điều 287. Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác; Điều 327. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quân sự .

Điều 328. Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự

[34]Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ST Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 1998, tr 187.

[35] Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hổ Chí Minh, ST Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 1998, tr 66.

[36] Nt, tr 187.

[37] Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về xã hội thông tin thông qua tại Geneva tháng 12/2003. xem http://www.worldsummit2003.org/.

 

[38]   Phạm Anh Tuấn – Vai trò của tiếp cận thông tin đối với phòng chôngds tham nhũng, - Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin” năm 2010, tr. 13

[39]  Tài liệu đã dẫn, tr.14

[40] Xem: Tài liệu đã dẫn, tr. 14

[41]  Theo quy định tại Điều 4  dự thảo luật các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin bao gồm: Văn phòng quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ , Bộ cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Cơ quan được tổ chức theo ngành dọc trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ cơ quan thuộc Chính phủ; Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Kiểm toán nhà nước; Văn phòng ban chỉ đạo trung ương phòng chống tham nhũng; Văn phòng đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương; Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Văn phòng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng cấp tỉnh; Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh; Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

 

[42]  Xem: Kỷ yếu Hội thảo: “ Tiếp cận thông tin – Quy định quốc tế và kinh nghiệm Việt Nam, Đan Mạch” , Hà Nội,  Ngày 5-6/10/2006; Kỷ yếu Hội thảo: “ Tiếp cận thông tin - thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm của Vương quốc Anh”, Hà Nội,  Tháng  10/ 2007.

[43] Xem: Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam – Drafting Law on Access to Information in Vietnam” , Hà Nội , Ngày 6-7/5/2009

[44]  Xem GS-TS Nguyễn Đăng Dung – Báo cáo tóm tắt kết quả khảo sát thực tiễn tại địa phương về thực thi quyền được thông tin, Tài liệu Hội thảo quốc tế Xây dưng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam, Hà Nội ngày 06-07/5/2009, tr.45

[45] Xem: Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “ Luật tiếp cận thông tin – kinh nghiệm của một số nước trên thế giới” do Hội luật gia Việt Nam và Trung tâm nhân quyền Na Uy tổ chức tại Nha Trang ngày 19-20/8/ 2009.

[46] Xem: Tạp chí : “ Nghiên cứu lập pháp” số 17 (154)- số chuyên đề dành cho quyền tiếp cận thông tin.

[47] Kỷ yếu Hội thảo: “ Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” tổ chức tại tỉnh Hoà Bình do Bộ tư pháp kết hợp với Quỹ châu Á tổ chức ngày 23-24/9/2010 ,tr.8.

[48] Xem: Tạp chí “ Dân chủ và pháp luật” số chuyên đề: “ Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”, Hà Nội- 2010.

[49] Article 19, Access to informationa: An instrumental Right for empowerment, July 2007, trang 5

[50] David Banisar, Freedom of information around the world 2006 - A global survey of access to government Information laws, trang 7 - http://www.humanrightsinitiative.org/programs/ai/rti/international/laws_papers/intl/global_foi_survey_2006.pdf  (Truy cập ngày 15/7/2010)

[51] David Banisar, Freedom of information around the world 2006 - A global survey of access to government information laws, trang 7 -http://www.humanrightsinitiative.org/programs/ai/rti/international/laws_papers/intl/global_foi_survey_2006.pdf (Truy cập ngày 15/7/2010)

[52] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, trang 6

[53] Article 19, Access to informationa: An instrumental Right for empowerment, July 2007, trang 9

[54] United Nations Development Programme, Bureau for Development Policy, Democratic Governance Group , July 2004 Right to Information, Practical Guidance Note, trang 9

[55] Article 19, Access to informationa: An instrumental Right for empowerment, July 2007, trang 10

[56] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, trang 4

[57] TS..Ttường Duy Kiên, Quyền tiếp cận thông tin: qui định quốc tế và đặc điểm chung của luật một số nước, Hiến kế lập pháp, số 01 (112+114) t1/2008

[58] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, trang 4

[59] Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, trang 4

[60] Tài liệu Hội thảo quốc tế xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam Hà Nội ngày 6-7/05/2009 - Hội thảo do Bộ Tư pháp kết hợp với Đại sứ quán Anh tổ chức

[61] Tài liệu đã dẫn trang 5

[62] Stigliz, J, “Sự minh bach trong chính quyền”, Học viện ngân hàng thế giới, Quyền được nói: Vai trò của truyền thông đại chúng trong sự phát triển kinh tế, (Oasington: 2002), trang 28.

[63] Xem: Tony Mendel - Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, Xuất bản lần thứ ba, ( thực hiện theo yêu cầu của Uỷ ban thông tin và truyền thông, UNESCO, tr.5 .

[64] UNDP, Báo cáo phát triển con người 2002: Tăng cường  sự dân chủ trong một thế giới chưa hoàn thiện, (Oxford: NXB trường đại học Oxford, 2002), trang 3.

[65] Stiglitz: “Sự minh bạch trong chính quyền”, Học viện Ngân hàng thế giới, Quyền được nói: Vai trò của truyền thông đại chúng trong sự phát triển kinh tế, ( Oasington: 2002), trang 28.

[66] Nhà triết học duy vật Hy Lạp (khoảng 535 TCN  – 475 TCN).

[67]  K. Max v à F. Engel Toàn tập. Tập 21.Hà Nội 1995, tr. 393, tr.395, tr.421

[68] Hữu Thọ, Phản biện để hoàn chỉnh tư duy, Báo Đại đoàn kết, ngày 12/9/2009. Nguồn:  http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1427&Style=1&ChiTiet=1025.

[69] Đoàn Minh Huấn, Vai trò của giám sát, phản biện xã hội đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nguồn: caicachhanhchinh.gov.vn/Uploads/TapChiToChucNhaNuoc/.../bai10.doc.

[70] Hoàng Thị Ngân, Một số vấn đề về giám sát xã hội, phản biện xã hội. Nguồn:

[71] Hoàng Thị Ngân, Bài đã dẫn.

[72] Hội Luật gia Việt Nam, Báo cáo kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về Luật Tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới.

[73] Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của báo cáo này xác định chỉ tập trung vào sự phản biện, giám sát của công dân, nên chúng tôi không đề cập sâu vai trò phản biện, giám sát của báo chí ở đây.

[74] Phát biểu của Ông Đặng Ngọc Dinh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu phát triển hỗ trợ cộng đồng, Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam.

Nguồn: http://sim.edu.vn/web/index.php?option=com_content&view=article&id=812:phn-bin-xa-hi-phat-huy-hiu-qu&catid=143:c-bao-gium-sinh-vien&Itemid=347.

[75] Phát biểu của Ông Phạm Bích San, Giám đốc Văn phòng phản biện xã hội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.

Nguồn: http://sim.edu.vn/web/index.php?option=com_content&view=article&id=812:phn-bin-xa-hi-phat-huy-hiu-qu&catid=143:c-bao-gium-sinh-vien&Itemid=347.

 

[76] Phát biểu của Ông Phạm Bích San, Giám đốc Văn phòng phản biện xã hội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.

Nguồn: http://sim.edu.vn/web/index.php?option=com_content&view=article&id=812:phn-bin-xa-hi-phat-huy-hiu-qu&catid=143:c-bao-gium-sinh-vien&Itemid=347.

[77] Tuyên bố của IFLA (International Federation of Library Associations and Institutions) ngày 03/12/2008 về sự minh bạch, quản lý tốt và không tham nhũng. Nguồn: http://www.ifla.org/files/faife/publications/policy-documents/transparency-manifesto-vi.pdf.

 

[78] Thứ tự danh sách 10 cơ quan đó như sau: địa chính nhà đất, hải quan, cảnh sát giao thông, cơ quan tài chính, thuế; cơ quan quản lý và các đơn vị trong ngành xây dựng; y tế; cơ quan kế hoạch đầu tư; cơ quan quản lý và các đơn vị trong ngành giao thông; cảnh sát kinh tế.

Nguồn: http://dantri.com.vn/c20/s20-90860/10-co-quan-tham-nhung-pho-bien-nhat.htm.

[79] Tổ chức Article 15, Quyền được biết của công chúng: các nguyên tắc của pháp luật về tự do thông tin, London, tháng 6/1999, Lời giới thiệu. Nguồn: dẫn theo Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, Bản tiếng Việt, trang 5.

[80] Xem Báo cáo thường niên của Hội đồng về Thi hành Quy chế EC số 1049/2001 của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu ngày 30/5/2001 về Tiếp cận của công chúng đối với các tài liệu của Nghị viện, Hội đồng và Uỷ ban Châu Âu ngày 7/3/2003.

[81] Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, Tóm tắt các báo cáo thường niên về Luật Tự do thông tin cho năm tài chính 2002.

Nguồn: http://www.usdoj.gov/oip/foiapost/2003foiapost31.htm.

[82] Xem: Hội thảo quốc tế: Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam  ( Drafting Law on access to information in Vietnam); Hà Nội 06-07.5. 2009;tr.92

[83] Hội thảo Quốc tế xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam – Hà Nội ngày 6, 7/05/2009 trang 102

[84] Điều 6.

(1) Một người mong muốn có được bất kỳ thông tin nào theo quy định của Luật này phải viết một đơn yêu cầu hoặc gửi đơn qua các phương tiện điện tử. Đơn có thể viết bằng tiếng Anh, tiếng Hindi hay bằng một ngôn ngữ chính thức ở khu vực người đó đang sống. Đơn phải kèm theo lệ phí theo quy định, và cần gửi tới:

(a) Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc quan chức thông tin công cộng của bang do nhà chức trách công cộng có liên quan chỉ định;

(b) Trợ lý quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc trợ lý quan chức thông tin công cộng của bang có thể nêu cụ thể về những thông tin mà họ được yêu cầu cung cấp, miễn là những yêu cầu như vậy không phải bằng văn bản, quan chức thông tin công cộng trung ương và quan chức thông tin công cộng của bang phải làm tất cả những gì có thể để hỗ trợ người yêu cầu nhằm giúp họ không phải đưa ra yêu cầu bằng văn bản.

(2) Một người nộp đơn yêu cầu cung cấp thông tin không buộc phải trình bày lý do vì sao họ yêu cầu hoặc bất kỳ thông tin cá nhân nào khác ngoại trừ những thông tin cần thiết để liên hệ với họ.

(3) Khi có một đơn yêu cầu cung cấp thông tin gửi tới một nhà chức trách công cộng mà:

(i) Thông tin được yêu cầu đang do một nhà chức trách công cộng khác quản lý; hoặc

(ii) Nội dung thông tin yêu cầu có liên hệ mật thiết hơn đến chức năng của một nhà chức trách công cộng khác, thì nhà chức trách công cộng nhận được yêu cầu phải chuyển yêu cầu đó hoặc một phần của yêu cầu đó tới nhà chức trách công cộng khác và thông báo ngay cho người yêu cầu về việc chuyển như vậy, miễn là việc chuyển yêu cầu theo như quy định ở tiểu mục này phải được thực hiện một cách nhanh nhất trong điều kiện có thể và trong mọi trường hợp không được chậm quá 5 ngày kể từ ngày nhà chức trách đầu tiên nhận được yêu cầu.

Điều 7.

(1) Liên quan tới các quy định ở tiểu mục (2) của mục 5 hoặc các quy định ở tiểu mục (3) của mục 6, quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc quan chức thông tin công cộng của bang khi nhận được yêu cầu cung cấp thông tin theo như quy định tại mục 6 phải khẩn trương đến mức có thể, và trong mọi trường hợp không được chậm quá 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, phải hoặc là báo cho người yêu cầu về việc trả lệ phí theo quy định hoặc về việc từ chối yêu cầu vì bất cứ lý do gì mà được nêu trong các mục 8 và 9; tuy nhiên, với những thông tin liên quan đến đời sống hoặc tự do của một người, việc trả lời yêu cầu phải được thực hiện trong vòng 48 giờ kể từ khi nhận được yêu cầu.

(2) Trong trường hợp quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc quan chức thông tin công cộng của bang không đưa ra quyết định giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin trong thời hạn quy định ở tiểu mục (1) thì sẽ bị coi là từ chối yêu cầu.

(3) Khi đưa ra một quyết định cung cấp thông tin có thu lệ phí hoặc bất cứ khoản thu nào khác, quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc quan chức thông tin công cộng của bang phải gửi thông báo cho người yêu cầu, trong đó nêu:

(a) Chi tiết về các khoản lệ phí cho việc cung cấp thông tin mà quan chức đó quyết định, cùng với những tính toán chi tiết về các khoản chi theo như quy định ở tiểu mục (1), yêu cầu người nộp đơn phải đặt cọc các khoản phí đó, và về thời gian từ khi thông báo đến khi các khoản phí đó được trả không tính vào thời hạn 30 ngày được nêu trong tiểu mục (1);

(b) Các thông tin liên quan đến quyền của người yêu cầu được xem xét lại quyết định về các khoản phí phải trả hoặc về hình thức tiếp cận thông tin, bao gồm các chi tiết về nhà chức trách có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, thời hạn, tiến trình và các hình thức giải quyết khiếu nại khác.

(4) Khi tiếp cận với các hồ sơ hoặc một phần của hồ sơ được yêu cầu cung cấp theo quy định của Luật này và nếu người yêu cầu là một người khuyết tật về vận động, quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc quan chức thông tin công cộng của bang phải hỗ trợ người yêu cầu tiếp cận với thông tin, bao gồm việc hỗ trợ họ đến nghiên cứu tài liệu tại văn phòng.

(5) Khi tiếp cận với thông tin lưu giữ dưới hình thức bản in hoặc dưới bất kỳ định dạng điện tử nào, người yêu cầu phải trả các khoản phí theo như các quy định ở tiểu mục (6), miễn là các khoản phí theo như quy định ở tiểu mục (1) của mục 6 và các tiểu mục (1) và (5) của mục 7 phải được tính toán hợp lý và phải miễn phí với những người sống dưới mức nghèo khổ như quy định bởi một Chính quyền thích hợp.

(6) Bất kể những quy định trong tiểu mục (5), người yêu cầu cung cấp thông tin phải được cung cấp thông tin miễn phí nếu như nhà chức trách công cộng không đảm bảo được việc cung cấp thông tin theo thời hạn nêu ở tiểu mục (1).

(7) Trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào theo tiểu mục (1), quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc quan chức thông tin công cộng của bang phải cân nhắc tới những ý kiến của một bên thứ ba theo như quy định ở mục 11.

(8) Nếu một yêu cầu cung cấp thông tin bị từ chối theo như quy định ở tiểu mục (1), quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc quan chức thông tin công cộng của bang phải thông báo cho người yêu cầu về:

(i) Các lý do của việc từ chối;

(ii) Thời hạn cho việc khiếu nại quyết định từ chối; và

(iii) Những chi tiết về nhà chức trách có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

(9) Thông thường, thông tin phải được cung cấp theo hình thức mà người yêu cầu đề nghị, trừ khi việc đó quá khả năng của nhà chức trách công cộng hoặc có thể gây tổn hại cho an toàn và việc bảo quản các hồ sơ có liên quan.

 

[85] Điều 7 Luật Chính phủ Mở

[86] Yêu cầu tiếp cận

6.

Yêu cầu tiếp cận một tài liệu theo Luật này phải được làm dưới dạng văn bản và gửi tới cơ quan chính phủ có quyền kiểm soát đối với tài liệu, và sẽ phải cung cấp thông tin chi tiết đủ để một nhân viên có kinh nghiệm của cơ quan, với một cố gắng hợp lý cũng có thể tìm ra được tài liệu. R.S.1985, chương A-1, câu 6.

 

202 Điều này quy định chung là khi các cơ quan nhà nước từ chối chấp nhận đơn yêu cầu thì phải đưa ra lý do. Luật thủ tục hành chính có tại:http://www.cas.go.jp/jp/seisaku/hourei/data/APA.pdf.

203 Xem Điều 57 của Luật giải quyết các khiếu nại hành chính và Điều 46 của Luật khởi kiện các vụ án hành chính. Bản ghi nhớ không được công bố của Lawrence Repeta, ngày 02/10/2007.

[87] Trang web http:// www.archives.gov/federal-register/codification/executive-order/12600.html.

[88] Điều 18.

(1) Liên quan đến các quy định của Luật này, ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang có trách nhiệm tiếp nhận và điều tra các khiếu nại của bất kỳ người nào mà:

(a) Đã không thể trình một yêu cầu cung cấp thông tin lên Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang, kể cả khi không có các quan chức này, hoặc bởi vì Trợ lý Quan chức thông tin công cộng trung ương hay khi Trợ lý Quan chức thông tin công cộng của bang đã từ chối không chấp nhận yêu cầu đó; hoặc khiếu nại liên quan đến việc chuyển tiếp yêu cầu cung cấp thông tin đến Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang hoặc tới một quan chức cấp cao mà được quy định ở tiểu mục (1) của mục 19 hoặc tới ủy ban Thông tin trung ương hay ủy ban Thông tin của bang;

(b) Đã bị từ chối tiếp cận với bất kỳ thông tin nào mà người đó yêu cầu được tiếp cận, theo như quy định ở Luật này:

(c) Đã không được hồi đáp một yêu cầu cung cấp thông tin hoặc tiếp cận với thông tin trong thời hạn quy định như được nêu trong Luật này;

(d) Đã bị yêu cầu trả những lệ phí mà người đó cho là vô lý;

(e) Tin rằng người đó đã được cung cấp những thông tin sai lạc, không đầy đủ hoặc nhẫm lẫn theo quy định của Luật này; và

(f) Có những khiếu nại về bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến việc yêu cầu hoặc tiếp cận thông tin theo như quy định của Luật này.

(2) Nếu ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin trung ương cho rằng cần thiết phải điều tra về khiếu nại thì có thể mở một cuộc điều tra.

(3) Ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang khi điều tra về bất kỳ vấn đề nào theo như quy định ở mục này sẽ có các thẩm quyền như thẩm quyền của một tòa án dân sự khi xét xử một vụ kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 1908 trong những vấn đề như sau:

(a) Triệu tập và buộc những người có liên quan phải đến theo sự triệu tập, cũng như buộc họ phải cung cấp chứng cứ bằng lời hay bằng văn bản về vấn đề;

(b) Thẩm định các tài liệu;

(c) Tiếp nhận các chứng cứ được gửi đến;

(d) Trưng thu bất kỳ hồ sơ công cộng hoặc bản sao các hồ sơ này từ bất kỳ tòa án hoặc văn phòng nào có liên quan;

(e) Tống đạt các lệnh triệu tập để thẩm vấn các nhân chứng hoặc các tài liệu; và

(f) Bất kỳ các hành động nào khác mà có thể thực hiện trong hoạt động điều tra.

(4) Mặc dù có bất kỳ quy định nào không tương thích trong bất kỳ Luật nào khác của Nghị viện hoặc của Cơ quan lập pháp bang, ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang có thể, trong quá trình điều tra bất kỳ khiếu nại nào theo quy định của Luật này, kiểm tra bất kỳ hồ sơ nào mà đang nằm dưới sự quản lý của một nhà chức trách công cộng, và không cơ quan nào được từ chối cung cấp các hồ sơ đó với bất kỳ lý do gì.

Điều 19.

(1) Bất kỳ người nào mà không nhận được một quyết định trong thời hạn nêu ở tiểu mục (1) hoặc trong đoạn (a) của tiểu mục (3) của mục 7, hoặc không thỏa mãn với một quyết định ban hành bởi Quan chức thông tin công cộng trung ương hay Quan chức thông tin công cộng của bang cũng có thể khiếu nại về việc đó với quan chức liên quan trong vòng 30 ngày kể từ khi hết thời hạn mà quyết định đó lẽ ra phải nhận được; và quan chức đó có thể chấp nhận giải quyết khiếu nại mà gửi đến sau khi hết thời hạn 30 ngày nếu như thấy rằng người khiếu nại không thể gửi đơn đúng hạn do gặp những khó khăn thực sự trong việc này.

(2) Nếu một khiếu nại về một quyết định do một Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc một Quan chức thông tin công cộng của bang ban hành theo quy định ở mục 11 về việc công bố thông tin liên quan đến một bên thứ ba, khiếu nại của bên thứ ba phải được thực hiện trong vòng 30 ngày kể từ ngày quyết định đó được ban hành.

(3) Một khiếu nại lần thứ hai về một quyết định ban hành theo quy định ở tiểu mục (1) gửi tới ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang phải được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ ngày mà quyết định đó được ban hành hoặc nhận được trên thực tế; tuy nhiên, ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang có thể chấp nhận một khiếu nại gửi đến sau khi thời hạn 90 ngày đã hết, nếu như thấy rằng người khiếu nại đã gặp những khó khăn thực sự khiến họ không thể gửi đơn khiếu nại đúng hạn.

(4) Nếu có một khiếu nại về một quyết định do một Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang đưa ra liên quan đến việc công bố thông tin về một bên thứ ba, thì ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang phải tạo một cơ hội thuận lợi cho bên thứ ba được trình bày quan điểm trước ủy ban về vấn đề.

(5) Trong bất kỳ tiến trình giải quyết khiếu nại nào, trách nhiệm giải trình tính hợp lý của việc từ chối một yêu cầu cung cấp thông tin sẽ đặt lên Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang mà đã từ chối như vậy.

(6) Một khiếu nại được đưa ra theo quy định ở tiểu mục (1) hoặc tiểu mục (2) phải được công bố trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được, hoặc trong thời hạn đã được gia hạn nhưng không quá 40 ngày kể từ ngày nhận được.

(7) Quyết định của ủy ban Thông tin trung ương hoặc của ủy ban Thông tin của bang sẽ có hiệu lực bắt buộc.

(8) Trong quyết định của mình, ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang có quyền:

(a) Yêu cầu nhà chức trách công cộng thực hiện bất kỳ biện pháp nào cần thiết để tuân thủ các quy định của Luật này, bao gồm:

(i) Cung cấp thông tin được yêu cầu dưới một hình thức nhất định;

(ii) Chỉ định một Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang nếu cần thiết;

(iii) Công bố những thông tin hoặc loại thông tin nhất định;

(iv) Thay đổi cách thức duy trì, quản lý và hủy dữ liệu của đơn vị;

(v) Tăng cường việc tập huấn về quyền được thông tin cho các nhân viên của cơ quan;

(vi) Công bố các báo cáo hàng năm theo như quy định tại đoạn (b) tiểu mục (1) của mục 4;

(b) Yêu cầu nhà chức trách công cộng bồi thường bất kỳ mất mát hoặc tổn thương nào mà người khiếu nại đã phải gánh chịu;

(c) Đưa ra bất kỳ hình thức chế tài nào theo như quy định của Luật này;

(d) Đình chỉ việc giải quyết khiếu nại.

(9) Ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang phải thông báo về quyết định của mình, trong đó đề cập đến bất kỳ quyền khiếu nại nào, cho người khiếu nại và cho nhà chức trách công cộng.

(10) Ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy bang thông tin của ban phải giải quyết các khiếu nại phù hợp với các thủ tục quy định.

Điều 20.

(1) Nếu ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang vào thời điểm quyết định về bất kỳ khiếu nại hoặc kiện tụng mà cho rằng Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang đã từ chối yêu cầu cung cấp thông tin một cách vô lý hoặc đã không bảo đảm việc cung cấp thông tin theo như quy định ở tiểu mục (1) của mục 7, hoặc đã từ chối đáp ứng yêu cầu một cách thiếu trách nhiệm, hoặc đã cung cấp các thông tin theo yêu cầu một cách không đầy đủ, không chính xác hay sai lạc, thì có thể phạt người vi phạm 250 ru-pi cho mỗi ngày trì hoãn cho đến khi việc cung cấp thông tin được hoàn tất; tuy nhiên, tổng số tiền phạt không được vượt quá 25 ngàn ru-pi; với điều kiện là Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang sẽ được tạo cơ hội để trình bày về vụ việc trước ủy ban; và với điều kiện thêm là trách nhiệm chứng minh vụ việc sẽ thuộc về Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang.

(2) Nếu ủy ban Thông tin trung ương hoặc ủy ban Thông tin của bang khi xem xét bất kỳ khiếu nại hay kiện tụng nào thấy rằng Quan chức thông tin công cộng trung ương hoặc Quan chức thông tin công cộng của bang đã không nhận yêu cầu cung cấp thông tin hoặc không hoàn thành trách nhiệm cung cấp thông tin trong thời hạn quy định ở tiểu mục (1) của mục 7, hoặc đã từ chối đáp ứng yêu cầu một cách thiếu trách nhiệm, hoặc đã cung cấp các thông tin theo yêu cầu một cách không đầy đủ, không chính xác hay sai lạc, thì phải khuyến nghị có hình thức kỷ luật với quan chức vi phạm theo như các quy tắc hành chính áp dụng với quan chức đó.

 

 

205 Có hiệu lực ngày 01/4/2005, khi luật về Hội đồng xét lại mới có hiệu lực, thì số lượng các thành viên của hồi đồng tăng từ 12 lên 15. Xem chú thích 198.

[89] Điều 10, Luật chính phủ Mở

[90] Trang tin điện tử của Uỷ viên Thông tin Canada. http://www.infocom.gc.ca/

[91] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1997, trang 15, 16

[92] Được ký kết vào ngày 30 tháng 11 năm 2001 ở Tookyo (Nhật Bản)

[93] Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội, 2007, trang 30

[94] Toby Mendel: Tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin: Xu hướng, Địa vị và Đặc điểm, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam”, Hà Nội, 06-07/5/2009

[95] Toby Mendel: Tầm quan trọng của quyền tiếp cận thông tin: Xu hướng, Địa vị và Đặc điểm, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam”, Hà Nội, 06-07/5/2009.

 

[96] Viện nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế và luật tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới, NXB Công an nhân dân, Hà Nội – 2007, trang 298

 

[97] Swedish Approach  to Public Access to Document. Fact Sheet of Ministry of Justice. Sweden, 2005.

[98]  http://www. legislationline.org/topics/country/32/topic/3

[99]  Xem: Ngô  Hương – Nghiên cứu về Luật tiếp cận th ông tin c ủa các n ư ớc B ắc Âu . K ỷ y ếu H ội

th ảo Qu ốc t ế : “ X ây d ựng Lu ật ti ếp c ận th ông tin t ại Vi ệt Nam”,H à N ội, Ng ày 06-07/5/2009

[100]  Tony Mendel - B áo c áo đ ánh gi á so s ánh ph áp lu ật v ề ti ếp c ận th ông tin - H ội th ảo qu ốc t ế x ây d ựng Lu ật ti ếp c ận th ông tin t ại Vi ệt Nam” H à N ội ng ày 6-7/5/2009, tr.196.

 

[101] Luật bảo vệ việc công khai, số 26 của năm 2000.

[103] The Lawdata Foundation is private, but works closely with the Prime Minister’s office in announcing legislation and regulations and in operating a comprehensive legal information system that covers all central sources of law. Lawdata’s web services are free, and the remaining services are priced. For information in English about Lawdata see http://www.lovdata.no/eng/index.html

[104] See ‘Official Documentation and Information from Norway (‘ODIN’) http://odin.dep.no/html/english/ and the Norwegian Parliament’s (Stortinget) web site http://www.stortinget.no/info/eng/engpag.htm.

[108] Đến năm 2008 đã có gần 90 nước có đạo luật về tiếp cận thông tin. Xem: Roger Vleugels, Overview of All 86 FOIA Countries, 9/2008.

[109] Theo Chương trình Xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 của Quốc hội, Luật Tiếp cận thông tin sẽ được thảo luận vào kỳ họp cuối năm 2009, nhưng cuối cùng dự án Luật đã bị gác lại, chưa biết có được đưa ra QH trong năm 2010 hay không.

[110] Viện Nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007; David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006.

[111] David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006; Tuyển tập các văn kiện quốc tế và luật một số nước về tiếp cận thông tin, NXB Công An Nhân Dân, Hà Nội, 2006.

[112] David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006, tr.23.

[113] David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006, tr.23.

[114] David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006, tr.24.

[115] David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006, tr.24.

[116] Viện Nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007.

[117] Một thời gian dài Nhật Bản bị chỉ trích vì tính khép kín của thông tin do nhà nước nắm giữ, không có quy định bắt buộc công bố thông tin, khiến cho bộ máy hành chính vốn nhiều quyền lực hơn ở các nước khác lại càng có nguy cơ chuyên quyền. Có chi tiết thú vị là, nhiều khi các công ty của Nhật không thể yêu cầu chính phủ Nhật cung cấp thông tin về các đối tác Mỹ, nhưng khi yêu cầu chính phủ Mỹ theo quy định của Luật Tự do thông tin Mỹ thì lại được cung cấp đầy đủ, nhanh chóng. Xem: David Boling, Access to Government-Held Information in Japan: Citizens’ “Right to Know” Bows to the Bureaucracy, (1998) 34 Standford Journal of International Law 1.

[118] David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006, tr.42.

[119] Hội Luật gia Việt Nam, Báo cáo về chuyến thăm nghiên cứu hệ thống pháp luật, tư pháp và Luật tiếp cận thông tin của Na Uy tháng 10/2007, Hà Nội, 2007.

[120] Toby Mendel, Parliament and Access to Information: Working for Transparent Governance, Working Paper for World Bank Institute, 2005, tr.14.

[121]Article XIX’s Law Programme, The Public’s Right to Know: Principles on Freedom of Information Legislation, London, 1999, p.14.

[122] Alan B. Morrison, Balancing Access to Government-Controlled Information (2006) 14 Journal of Law and Policy 116, tr.118.

[123] David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006, tr.24; David C.Vladek, Information Access-Surveying the Current Legal Landscape of Federal Right –to-Know Laws (2008) 86 Texas Law Review 1787, tr.1816.

[124]Viện Nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007.

[125] David Boling, Access to Government-Held Information in Japan: Citizens’ “Right to Know” Bows to the Bureaucracy, (1998) 34 Standford Journal of International Law 1, tr.5.

[126] Tổng hợp từ luật của các nước trong sách: Viện Nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007.

[127] Guadamuz A, 'Habeas Data: The Latin-American Response to Data Protection', 2000 (2) The Journal of Information, Law and Technology (JILT). .

[128] Đã có khá nhiều bài viết về các “khuyết tật” nghiêm trọng của cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính hiện nay ở Việt Nam. Xin xem một số bài như: Trần Văn Sơn, Hoàn thiện Luật Khiếu nại, tố cáo trong điều kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế, TCNCLP số 54, tháng 7/2005; Nguyễn Tuấn Anh, Lê Văn Đức, Viện Khoa học Thanh tra, Về tính thống nhất của các văn bản pháp luật hiện hành về khiếu nại, giải quyết khiếu nại hành chính, 2007; Đặng Xuân Đào, Một số vấn đề về vai trò của Toà hành chính trong việc giám sát thực hiện quyền lực Nhà nước (Phần hai), 2008.

[129] David C.Vladek, Information Access-Surveying the Current Legal Landscape of Federal Right –to-Know Laws (2008) 86 Texas Law Review 1787, tr.1789.

[130] Toby Mendel, Parliament and Access to Information: Working for Transparent Governance, Working Paper for World Bank Institute, 2005, tr.38.

[131] Vào đầu năm 1969, Toà án tối cao của Nhật Bản trong hai vụ án điểm đã xây dựng nguyên tắc về shiru kenri (quyền được biết) được bảo đảm bởi Điều 21 của Hiến pháp về quyền tự do ngôn luận. Xem: David Boling, Access to Government-Held Information in Japan: Citizens’ “Right to Know” Bows to the Bureaucracy, (1998) 34 Standford Journal of International Law 1, tr.24-26; Tony Mendel, Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin, Xuất bản lần thứ Ba (2008), bản dịch tiếng Việt phục vụ do quá trình soạn thảo Luật Tiếp cận thông tin.

[132] Darina Palova và cộng sự, How to Get Access to Environmental Information, Handbook, Sofia, 2003, tr. 25.

[133] Xem chú thích số 21.

[134] Trần Văn Sơn, Hoàn thiện Luật Khiếu nại, tố cáo trong điều kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế, TCNCLP số 54, tháng 7/2005.

[135] Jamie P. Horsley, China Adopts First Nationwide Open Government Information Regulations.

[136] Jamie P. Horsley, China Adopts First Nationwide Open Government Information Regulations.

[137] Văn phòng Cao ủy viên thông tin.

[138] Vladek, Information Access-Surveying the Current Legal Landscape of Federal Right –to-Know Laws (2008) 86 Texas Law Review 1787, tr.1821.

[139] David Banisar, Freedom of Information Around the World 2006- A Global Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006, tr.23.

[140] Xem chú thích số 21.

[141] Luật của một số nước có điều khoản quy định: Tòa án phải áp dụng bất kỳ điều khoản nào của Luật này theo cách thức để mang lại hiệu lực tốt nhất cho quyền được thông tin.

[142] Jamie P. Horsley, China Adopts First Nationwide Open Government Information Regulations.

[143] Ở Mỹ, tòa án thường gặp khó khăn trong các vụ kiện về tiếp cận thông tin môi trường vì nếu công bố thông tin về một công ty, tính cạnh tranh của công ty đó có thể bị tổn hại. Xem David C. Vladek, Information Access-Surveying the Current Legal Landscape of Federal Right –to-Know Laws (2008) 86 Texas Law Review 1787, tr.1835.

[144] Article XIX’s Law Programme, The Public’s Right to Know: Principles on Freedom of Information Legislation, 1999, p.11-12. 

[145] Darina Palova và cộng sự, How to Get Access to Environmental Information, Handbook, Sofia, 2003, tr. 77.

[146] Nomthandazo Ntlama, The Effectiveness of the Promotion of Access to Information Act 2 of 2000 for the Protection of Socio-Economic Rights (2003) 14 Stellenbosch Law Review 273, tr. 279.

[147] David Boling, Access to Government-Held Information in Japan: Citizens’ “Right to Know” Bows to the Bureaucracy, (1998) 34 Standford Journal of International Law 1, tr.2. 

[149] Ý kiến của ông Nguyễn Văn Bảy, quận Tây Hồ, Hà Nội, Hội thảo do Bộ Tư pháp tổ chức tại Hà Nội, ngày 6/2009.

[150] Được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, năm 1991

[151] Họp tại Hà Nội, từ ngày 24-7 đến ngày 29-7-2006

 

[152] Hiến pháp năm 1946

[153] Ở nhiều nước, khái niệm quyền được thông tin, hay tự do thông tin; tiếp cận thông tin; tiếp cận tài liệu chính thức được hiểu nghĩa giống nhau.

[154] Điều 19, K2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng khác, tuỳ theo sự lựa chọn của họ”.

[155] Điều 263. Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước; Điều 264. Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước; Điều 286. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác; Điều 287. Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác; Điều 327. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quân sự

Điều 328. Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự; tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự

[156]Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ST Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 1998, tr 187.

[157] Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” ngày 06-07/05/2009 tại Hà Nội.- (Trang 30)

[158]  Tài liệu đã dẫn trang 32

[159] Quyền tiếp cận thông tin đã được quy định trong các văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989, Công ước của Liên hợp quốc về chông tham nhũng năm 2003 …, cũng như trong hầu hết các thiết chế khu vực lớn như Hội đồng Châu Âu, Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ (Organization of American States), Liên minh Châu Phi (African Union), Khối liên hiệp Anh (Commonwealth) .v.v. (Xem Tl 1; Viên nghiên cứu quyền con người, Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, NXB Công an nhân dân, 2007)

[160] Tl 1, tl Westlaw 1

[161] Điều 19, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948.

[162] Điều 19.2, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.

[163] Văn kiện Liên hợp quốc mã số E/CN.4/1998/40, đoạn 14-16; Văn kiện Liên hợp quốc mã số E/CN.4/2000/63, đoạn 41-43.

[164] Tl 1, trang 4.

[165] Điều 69, Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 (phần in nghiên do tác giả).

[166] Xem tl1.

[167] Xem Văn kiện của Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc ngày 18/1/2000, mã số E/CN.4/2000/63.

[168] Mười nguyên tắc của Quyền được biết (Ten principles of the right to know), ACARM Newsletter, Số 37, Mùa đông 2005.

[169] Điều 19.2, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; tài liệu 1, trang 6.

[170] Xem Văn kiện của Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc ngày 18/1/2000, mã số E/CN.4/2000/63.

[171] Uỷ ban Châu Phi về  Nhân quyền và Các quyền của nhân dân ban hành tại kỳ  họp thứ  32 tại Banjul, Gambia, từ 17- 23/10/ 2002.

[172] Phạm vi cơ quan hành chính được quy định tại Luật.

[173] Luật Tự do báo chí. http://www.riksdagen.se/templates/R_Page____6313.aspx

[174] Luật Tiếp cận hồ sơ hành chính công số 572 ngày 19/12/1985. http://www.privacyinternational.org/countries/denmark/dkfoi-85.doc

 

[175] Hiến pháp Phần Lan năm 2000. http://www.uni-wuerzburg.de/law/fi00000_.html

[176] Hiến pháp Liên bang Thuỵ Sỹ ngày 18/4/1999. http://www.admin.ch/ch/itl/rs/1/c101ENG.pdf

[177] Hiến pháp Cộng hoà Hồi giáo Pakistan. http://www.pakistani.org/pakistan/constitution/

[178] Vụ Sharif kiện Pakistan, PLD 1993 S.C. 471

[179] Công ước về Bảo vệ Nhân quyền và Các quyền tự do cơ bản (ETS-005).

http://conventions.coe.int/Treaty/en/Treaties/Html/005.htm

[180] Xem vụ Sîrbu và các bên kiện Moldova (Các đơn kiện số 73562/01, 73565/01, 73712/01, 73744/01, 73972/01); vụ Leander kiện Thuỵ Điển, phán quyết ngày 26/3/1987, Tập A số 116.

[181] Guerra và các bên kiện Italy. 116/1996/735/932

[182] Vụ Rotaru kiện Romania - 28341/95 [2000] ECHR 192 (4/5/2000); Segerstedt-Wiberg và các bên kiện Thuỵ Điển ( Đơn kiện số 62332/00); Turek kiện Slovakia - 57986/00 [2006] ECHR 138 (14/2/2006).

[183] Có ít nhất 80 quốc gia mà trong Hiến pháp có quy định về quyền tiếp cận thông tin. Gần 70 quốc gia trên toàn thế giới đã ban hành Luật Tự do thông tin; 50 quốc gia khác đang nỗ lực xem xét ban hành Luật này.

 

[184] Hiến pháp chính trị Cộng hoà Panamá. http://www.asamblea.gob.pa/actualidad/25176_2004.pdf

[185] Ley No. 6 de 22 de enero de 2002 Que dicta normas para la transparencia en le gestión pública, establece la acción de Hábeas Data y dicta otras disposiciones. http://www.legalinfo-panama.com/legislacion/administrativo/00195.pdf

[186] Văn kiện Chính phủ. http://www.riksdagen.se/templates/R_PageExtended____6319.aspx

[187] Xem Sách hướng dẫn của Tổng Chưởng lý về Luật Thủ tục hành chính năm 1947. http://www.law.fsu.edu/library/admin/1947cover.html

[188] Loi fédérale sur le principe de la transparence dans l'administration du 17 décembre 2004. http://www.admin.ch/ch/f/ff/2004/6807.pdf ; Département fédéral de justice et police, Mise en oeuvre de la loi sur la transparence: les dernières divergences sont écartées, 29 March 2006. http://www.ejpd.admin.ch/ejpd/fr/home/dokumentation/mi/2006/2006-03-290.html

[189] Luật về Quyền thông tin đối với các tài liệu chính thức số 8503, ngày 30/6/1999. http://hidaa.gov.al/english/pub/l_8503.htm

[190] Xem NOU 1999: 27. http://odin.dep.no/jd/norsk/publ/utredninger/NOU/012005-020029/index-hov012-bn-a.html

[191] Trong Hiến pháp ngày 4 tháng 10 năm 1958 của Cộng hòa Pháp, hợp nhất Tuyên ngôn nhân quyền năm 1789, Điều 14 quy định rằng “Mọi công dân đều có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện tìm hiểu về nhu cầu đối với thuế của người dân, sự cho phép, xem xét việc sử dụng thuế đó và xác định tỷ lệ, cơ sở, thu thuế và thời hạn thu” và Điều 15 quy định rằng “ Xã hội có quyền đề nghị các quan chức nhà nước giải trình đối với việc quản lý của mình”.

[192] Luật Tự do thông tin số 5 USC 552, 1966. http://www.epic.org/open_gov/foia/us_foia_act.html

[193] Sửa đổi Luật Tự do thông tin điện tử năm 1996. http://www.epic.org/open_gov/efoia.html

[194] Luật Thông tin công ban hành ngày 15/11/2000. RT I 2000, 92, 597. http://www.legaltext.ee/text/en/X40095K2.htm

[195] Luật ngày 31/10/1991 với các quy định điều chỉnh việc tiếp cận của công chúng với các thông tin Chính phủ.

http://www.minbzk.nl/contents/pages/5306/public_access_government_info_10-91.pdf. Luật này thay thế Luật về Tiếp cận thông tin công ngày 9/11/1978.

[196] Roger Vleugels, Luật Tự do thông tin Hà Lan, cậu bé chập chững 25 tuổi, tháng 12/2005.

[197] Xem http://www.law.wur.nl/NR/rdonlyres/DF5D6A45-FD88-439E-A042-8E22E18A7EA2/22801/WettekstSymposiumVersie.pdf

[198]  Luật Các kì họp và Thông tin chính thức của chính quyền địa phương năm 1987. http://www.ombudsmen.govt.nz/local.htm

[199] Luật về Quyền riêng tư năm 1993. Xem toàn văn và các sửa đổi tại http://www.knowledgebasket.co.nz/privacy/legislation/legislation.html

[200] Luật ngày 19/6/1970 liên quan đến việc công chúng tiếp cận các tài liệu do cơ quan hành chính nắm giữ (lov om offentlighet i forvaltningen av 19 juni1970 nr 69). Sửa đổi bởi Luật số 47 ngày 11/6/1982 và Luật số 86 ngày 17/12/1982 và Luật số 7 ngày 10/1/1997. http://www.ub.uio.no/ujur/ulovdata/lov-19700619-069-eng.pdf

 

[201] Ley 27.808 de transparencia y acceso a la información pública. http://www.justiceinitiative.org/db/resource2/fs/?file_id=15210

[202] Lei nº 65/93, de 26 de Agosto, com as alterações constantes da Lei nº 8/95, de 29 de Março e pela Lei nº94/99, de 16 de Julho.http://www.cada.pt/PAGINAS/ladaing.html. Xem http://www.cada.pt/PAGINAS/acessoing.html. để biết thông tin về Luật này.

[203] Luật Tự do tiếp cận thông tin. http://www.info211.sk/zakon_en.php

[204] Ley 30/1992, de 26 de Noviembre, de Régimen Jurídico de las Administraciones Públicas y del Procedimiento Administrativo Común, http://noticias.juridicas.com/base_datos/Admin/l30-1992.html. Modified by ley 4/99, de 13 January 1999.

[205] Điều 11 quy định thủ tục tiếp cận thông tin.

[206] Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  IX. NXB. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2001, tr. 135.

[207] Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  X. NXB. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2006, tr. 78.

 

[208] Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  X. NXB. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2006, tr. 128-129.

 

[209] Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX. NXB. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2004, tr.197-198.

[210] Phần này tham khảo Báo cáo của Hội Luật gia Việt Nam về Luật tiếp cận thông tin của các nước Bắc Âu.

 

[213] Theo Báo cáo của Hội Luật gia Việt Nam về Luật tiếp cận thông tin của các nước Bắc Âu.

 



[i] Jean Golfin, 50 từ then chốt của xã hội học, Hiền Phong dịch, Nxb Thanh niên, Bến Tre, 2003, tr. 65

[ii] Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2007, 2008 của Chính phủ

[iii] Hồ Hùng, Cơ chế “đè” hạt gạo, Thời báo

kinh tế Sài Gòn, Số 1-2009 (941)

[iv] Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2007, tr.5;

Khoản j Điều 2 Luật về quyền được thông tin (Luật số 22 năm 2005) của Ấn độ,  Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2007, tr.77

[v] Điều 26 Luật số 2, 2000 Luật thúc đẩy tiếp cận thông tin 2000 của Cộng hòa Nam phi

[vi] Khoản 2 Điều 16 Luật của Nhật bản về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính năm1999

[vii] Lời nói đầu, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003

[viii] Điều 6 Luật về công khai các hoạt động của Chính phủ năm 1999 (Phần lan), Chương 2 Pháp lệnh của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa về công khai thông tin của chính quyền năm 2007

[ix] Điều 35, Điều 62, Điều 68, Điều 69, Điều 70, Điều 71 Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật

                       

 

 

                      

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                      

 

 

 

 

 

 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 A. Tài liệu tiếng Việt    

  1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X – Nxb. Chính trị Quốc gia, 2006.
  2. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI – Nxb.Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2011.
  3. Các văn kiện quốc tế và Luật của một số nước về tiếp cận thông tin – Sách tham khảo do Viện nghiên cứu quyền con người biên soạn, NXB Công an nhân dân, 2007.

4. David Banisar, Báo cáo tự do thông tin thế giới năm 2006 - Khảo sát toàn cầu về Luật  tiếp cận thông tin Chính phủ - ( Bản dịch từ nguồn: Freedom of Information Arround the World 2006- Aglobal Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International, 2006. Tài liệu phục

vụ Hội thảo: “Góp ý dự thảo Luật tiếp cận thông tin và báo cáo đánh giá tác động Luật tiếp cận thông tin” do Bộ tư pháp và Đại sứ quán Anh phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 02-03/07/2009.

5. Kỷ yếu hội thảo quốc tế: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” do Bộ tư pháp và Đại sứ quán Anh phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 06-07/05/2009.

  1. Kỷ yếu hội thảo quốc tế: “Luật tiếp cận thông tin – Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới” do Hội luật gia Việt Nam và Trung tâm nhân quyền NaUy tổ chức tại Nha Trang ngày 19-20/08/2009.
  2. Kỷ yếu hội thảo quốc tế: “Đóng góp ý kiến cho dự thảo Luật tiếp cận thông tin” do Hội luật gia Việt Nam phối hợp với Trung tâm nhân quyền Na Uy tổ chức tại Nha Trang ngày 21/08/2009.
  3. Kỷ yếu Hội thảo: “ Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” do

      Bộ tư pháp phối hợp với Quỹ châu Á tổ chức tại Hoà Bình ngày 23-                     24/9.2010.

10. Kỷ yếu “Hội thảo Luật tiếp cận thông tin” do Khoa luật Đại học Quốc      gia Hà Nội phối hợp với Đại sứ quán Canada tổ chức tháng 3 năm 2011

11.  Tony Mendel – Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin (Thực hiện theo yêu cầu của Uỷ ban thông tin và truyền thông UNESCO)

12.  Luật tiếp cận thông tin – kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam  - Chủ biên     GS-TSKH Đào Trí Úc, Hà Nội 2009 ( Tài liệu phục vụ Hội thảo quốc tế ngày 19-20/8/2009 tại Nha Trang.

13. Hiến pháp Nga 1993.

14. Hiến pháp Nhật Bản 1946.

15. Hiến pháp Cộng hoà Pháp 1958 (Sửa đổi 1962, 1974, 2000).

16. Hiến pháp Trung Quốc 1982 (Sửa đổi 1988, 1993, 1999, 2004).

17. Hiến pháp Việt Nam 1992 (Sửa đổi, bổ sung năm 2001).

18. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007.

19. Luật phòng chống tham nhũng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007.

20. Luật cán bộ công chức, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008.

21. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, NXB Chính trị Quốc gia 2008.

22. Luật khiếu nại, tố cáo NXB Chính trị Quốc gia ,Hà Nội , 2005.

23. Luật đất đai, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.

24. Luật giáo dục, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.

25. Luật bảo hiểm xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.

26. Luật quốc phòng, NXB Chính trị Quốc gia, 2005

27. Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia, 2009.

28. Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ 1776.

29. Tuyên ngôn nhân quyền và công dân quyền của Pháp năm 1789.

30. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948.

31. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966.

32. Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội 1966.

33. Công ước Quốc tế về quyền trẻ em 1989.

34. Công ước của Liên hiệp quốc về chống tham nhũng 2003.

35. Luật của nước Cộng hoà Anbalni số 8503, ngày 30/06/1999 về quyền                    tiếp cận thông tin trong các tài liệu chính thức.

36. Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ ngày 21/06/2005.

37. Luật về tiếp cận thông tin công của Balan ngày 06/09/2001.

38. Luật tiếp cận thông tin công của Bulgary ngày 22/06/2000.

39. Luật tiếp cận thông tin của Canađa năm 1985.

40. Luật về tiếp cận các tài liệu hành chính công của Đan Mạch (Luật số 572 ngày 19/12/1985)

41. Luật quy định về quản lý việc tiếp cận chung đối với các thông tin của Chính phủ của Hà Lan ngày 31/10/1991.

42. Luật về công khai thông tin của các cơ quan chính quyền của Hàn Quốc (Luật số 5242 ngày 31/12/1996).

43. Luật về tiếp cận của công chúng đối với tài liệu hành chính công của Na Uy ngày 19/06/1970 (Sửa đổi bổ sung ngày 20/06/2003).

44. Luật thúc đẩy tiếp cận thông tin của Cộng hoà Nam Phi năm 2000.

45. Luật về tiếp cận thông tin của các cơ quan hành chính của Nhật Bản ngày 05/05/1999.

46. Luật về thông tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin của Liên Bang Nga ngày 27/07/2006.

47. Luật về minh bạch và tiếp cận thông tin của Pêru ngày 04/02/2003.

48. Luật về công khai các hoạt động của Chính phủ của Phần Lan năm 1999 (Luật số 621/1999).

49. Luật về tự do tiếp cận các văn bản hành chính (Luật số 78 – 753 ngày 17/07/1978) của Cộng hoà Pháp.

50. Luật về quyền được thông tin của Thổ Nhĩ Kỳ năm 2003 (Luật số 4982)

51. Luật về tự do báo chí của Thụy Điển 1776.

52. Pháp lệnh của nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa về công khai thông tin của Chính quyền ngày 17/01/2007.

53. Luật tự do thông tin 1982 của Úc (Australia)

54. Luật tự do thông tin của Vương quốc Anh năm 2000.

55. Thái Vĩnh Thắng - Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện các quyền con người và quyền công dân,Nghiên cứu lập pháp, s ố 17 (154)

tháng 9/2009

56. Dương Thị Bình - Thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam Nghiên cứu lập pháp, s ố 17 (154) tháng 9/2009

57. Nguyễn Thị Hạnh - Sự cần thiết ban hành luật tiếp cận thông tin; Nghiên cứu lập pháp, s ố 17 (154) tháng 9/2009

58.Mai Thị Kim Huế - Phạm vi chủ thể có trách nhiệm cung cấp

thông tin; Nghiên cứu lập pháp, s ố 17 (154) tháng 9/2009

59.Chu Thị Thái Hà - Thông tin được tiếp cận và nội hàm của quyền tiếp

cận thông tin; Nghiên cứu lập pháp, s ố 17 (154) tháng 9/2009

60.Nguyễn Thị Thu Vân - Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin; Nghiên cứu lập pháp, số 17 (154) th áng 9/2009

61.Nguyễn Thị Kim Thoa - Nội dung cơ bản của Luật tiếp cận thông tin một số nước; Nghiên cứu lập pháp, s ố 17 (154) tháng 9/2009

62. Nguyễn Quỳnh Liên-  Quyền tiếp cận thông tin trong các văn kiện quốc tế. Nghiên cứu lập pháp, s ố 17 (154) tháng 9/2009

63. Vũ Văn Nhiêm -  Quyền được thông tin từ góc độ bảo đảm quyền con người và liên hệ với dự luật tiếp cận thông tin  ở Việt Nam (Nghiên cứu

lập pháp số  9  (170) tháng 5/2010;

64. Trương Thị Hồng Hà - Luật về công bố thông tin của các cơ quan

chính quyền Hàn quốc ( Nghiên cứu lập pháp số 9 (170) tháng 5 năm 2010.

  Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

 65. Nguyễn Công Hồng và TS. Hoàng Thị Ngân – Nhà nước pháp quyền và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

 

 66. Nguyễn Công Hồng – Lợi ích của việc ban hành Luật tiếp cận thông tin; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

 

67. Tường Duy Kiên – Chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam  đảm bảo quyền tiếp cận thông tin; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

68. Nguyễn Thị Kim Thoa - Những vấn đề cơ bản được giải quyết trong Luật tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

69. Nguyễn Đăng Dung - Một số vấn đề về đảm bảo quyền được thông tin của công dân; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

70. Lê Huy – Khái niệm và cơ sở chính trị, pháp  lý của quyền tiếp cận thông tin; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

71. Hạnh Bình - Thực tiễn về tiếp cận thông tin của các bộ, ngành, địa phương; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

72. Hoàng Thị Ngân - Quyền tiếp cận thông tin và việc xây dựng chính phủ mở; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

73. Dương Thị Bình - Thực trạng và kiến nghị về thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

 74. Thoa Huế - Cơ quan cung cấp thông tin – Kinh nghiệm quốc tế và hướng quy định trong dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

 75. Mai Nguyễn – Cung cấp thông tin theo yêu cầu – Cơ chế hữu hiệu bảo đảm quyền tiếp cận thông tin; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

76. Nguyễn  Quỳnh  Liên– Kinh nghiệm xây dựng Luật tiếp cận thông tin của một số nước trên thế giới; Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

77. Nguyễn Thị Thu Vân – Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị về cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin trong dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam. Tạp chí: “Dân chủ và pháp luật”năm 2010 số chuyên đề: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin”

78. Chu Hồng Thanh - Tìm hiểu vấn đề quyền con người trong thế giới hiện đại. NXB Lao động, Hà Nội 1996.

79. Chu Hồng Thanh - Quyền con người và Luật quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997.

80. Đào Trí Úc – Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, NXB Tư pháp 2007.

81. Đào Trí Úc (chủ biên) – Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia 2005.

82. Hoàng Hồng Hải – Góp phần tìm hiểu quyền con người ở Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 2008.

83. Hoàng Văn Hảo – Tìm hiểu những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người (Thông tin chuyên đề - Quyền con người, quan niệm và thực tiễn, Hà Nội 1996)

84. Hội luật gia Việt Nam - Tập hợp các văn bản pháp lý về quyền con người, NXB Tư pháp, 2007.

85. Ngô Đức Mạnh-  Quyền tiếp cận thông tin, Viện nghiên cứu quyền con người, Hà Nội, 2008.

86. Nguyễn Đăng Dung - Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước, NXB Tư pháp 2006.

87. Nguyễn Đăng Dung - Hạn chế sự tuỳ tiện của cơ quan Nhà nước, NXB Tư pháp 2010.

88. Nguyễn Đình Lộc - Quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.

89. Nguyễn Văn Động - Quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam, NXB Tư pháp Hà Nội 2007.

90. Phùng Văn Tửu – Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và Pháp luật của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1999.

91. Trần Ngọc Đường – Bàn về quyền con người, quyền công dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

92. Thái Vĩnh Thắng - Lịch sử lập hiến Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997.

93. Trần Quang Tiệp - Bảo về quyền con người trong Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004,

94. Trần Thanh Hương - Những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tự do cá nhân, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội 2006.

95. Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Hội nghiên cứu quyền con người của Trung Quốc - Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003.

96. Trung tâm nghiên cứu về quyền con người, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – Các văn kiện Quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, 1998.

97. Tường Duy Kiên - Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người – NXB Tư pháp Hà Nội, 2006.

98. Văn phòng Cao uỷ Liên hiệp quốc về quyền con người - Quyền con người trong quản lý tư pháp, NXB Công an nhân dân, 2009.

99. Viện nghiên cứu quyền con người - Luật quốc tế về quyền con người, NXB lý luận Chính trị ,2005.

100. Viện nghiên cứu về quyền con người - Quyền tiếp cận thông tin, Hà Nội, 2008.

101. Lê Cảm - Những vấn đề về lý luận bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân, số 06/2006.

102. Lê Minh Thông – Hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện pháp huy dân chủ ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/1998.

103. Nguyễn Cửu Việt  - Dân chủ trực tiếp và Nhà nước Pháp quyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 02/2002.

104. Nguyễn Thị Hồng - Quyền tiếp cận thông tin trong các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 15 năm 2009.

105. Nguyễn Văn Động – Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lý ở nước ta, Tạp chí Luật học số 01/2004.

106. Phạm Hồng Hải - Mấy ý kiến về bảo về quyền con người trong tố tụng hình sự ở nước ta.

107. Phạm Ngọc Anh - Quyền con người ở Việt Nam-Thực trạng và giải pháp, Tạp chí bảo hiểm xã hội số 08/2007.

108. Vũ Thư - Về kiểm soát quyền lực hành pháp trong hệ thống quyền lực Nhà nước Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2006.

B. Tài liệu tiếng Anh

109. Jane Winter, Guide to the Human Right Machinery of the United Nations, British Irish Right Watch and the Northern Ireland  Human Right Commission, 1999.

110. United Nations – Center for Human Right: United Nations Action in the Field of Human Right, New York and Geneva, 1994.

111. United Nations, Human Rights Instruments – Chart of Ratification, New York and Geneva, 1998.

112. United Nations, Human Right: Question and Answer, Geneva, 1994.

113. United Nations, Manual on Human Right Reporting, Geneva, 1997.

114. United Nations, The Compilation of International Human Rights Instruments New York and Geneva, 1994.

115. Hazell, R, Freedom of Information in Autralia, Canada and New Zealand,1989.

116. Hooper, D, Official Secrets: The Use and Abuse of the Act, 1988, Sevenoaks Coronet.

117. Patrick Birkinshaw, University of Hall, Freedom of Information: The Law, the Practice and the Ideal ,2001.

118. John Wadham, Jonathan Griffiths & Kelly Marris,  Blackstone’s Guide to the Freedom of  Information Act, 2002.

119. Patrick Birkinshaw, Freedom of Information and Openness: Fundamental Human Right , Administrative Law Review, 2006.

120. Freedom of  Information and State Secrets, N.9 E. Eur.Const.Rev.102 , 2000.

121. Freedom of Information: Is Privacy Winning, Nottingham L.J. 17 , 2004

122. F.D’Souza , Sandra Coliver, Paul Hoffiman, Stephen Bowen, Joan Fitzpatrick , Secrecy and Liberty: National Security, Freedom of Expression and Access to Information, International Studies in Human Rights.

123. Freedom of Information – An Ombudsman’s Perspective , Fed.L.Rev. 359, 2001.

124. Human Rights in Theory and Practice: A Time of Change and Development in Central and Eastern Europe, Conn.J.Int’l L.R.,1993

125. Freedom of  Information in Australia - Peter Bayne , Acta Juridica N.15     1993.

126. David Banisar, Freedom of Information Arround the World 2006- Aglobal Survey of Access to Government Information Laws, Privacy International,2006.

127. Toby Mendel, Parliament and Access to Information: Working for Transparent Governance, Working Paper for World Bank Institute, 2005.

C. Danh mục các trang  WEB

128. http:// www.cpv.org.vn

129. http:// www.na.gov.vn

130. http://vietlaw.gov.vn

131. http://lawvietnam.com.vn

132. http://www.vnjurist.com

133. http://www.mofa.gov.vn

134. http://www.undp.org

135.http:// www.moj.gov.vn

136.http:// www.vpcp.chinhphu.vn

137.http:// www.ciren.gov.vn

138.http:// www.most.gov.vn

139.http:// www.freedominfo.org

140.http:// www.sweden.gov.se

141.http:// www.vass.gov.vn

142.http:// www.vietnamgateway.org

143.http:// www. assemblee-nat.fr

144.http:// www.astlii.edu.au

145.http:// www.bundestag.de

146.http:// www.commomlii.org

147.http:// www.law.corneil.edu.world

148.http:// www.legifrance.gouv.fr

149.http:// www.parliament.uk

150.http:// www.whitehouse.org

151.http:// www.uscourt.gov

152.http:// www.senat.gov

153.http:// www.state.gov

154.http:// www.gouvernment.uk

155.http:// www.number10.gov.uk

156.http:// www.direct.gov.uk

157.http:// www.news.parliament.uk

158.http:// www. article 19.org

159.http://www. africa-union.org

160.http://www.legislationline.org

161. http://www.archives.gov/federal-register/codification

 

 

 

 

File đính kèm downloadTải về