• Thuộc tính
Tên đề tài Thực trạng và phương hướng cải cách chế độ tiền lương đối với một số chức danh tư pháp
Nội dung tóm tắt

Chế độ tiền lương luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm điều chỉnh, cải cách cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc điều chỉnh chế độ tiền lương đã được thực hiện nhiều lần từ trước năm 1993 nhưng còn nhiều mâu thuẫn, bất hợp lý khi nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đến năm 1993, chế độ tiền lương đã được cải cách một bước cơ bản, theo hướng xoá dần bao cấp, thực hiện tiền lương gắn với giá trị lao động của từng loại đối tượng hưởng lương. Chế độ tiền lương mới đã có nhiều đóng góp vào công cuộc đổi mới kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, qua một thời gian thực hiện đến nay chế độ tiền lương hiện hành cũng đã bộc lộ những điểm chưa phù hợp làm giảm hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, làm yếu hiệu lực quản lý của Nhà nước; tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng tăng lên; trật tự, kỷ cương bị vi phạm... Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã quán triệt quan điểm về chính sách tiền lương và yêu cầu tổng kết thực hiện chính sách tiền lương năm 1993, qua đó xác định phương hướng tiếp tục cải cách chính sách tiền lương trong giai đoạn 2001 - 2005. Thực hiện Nghị quyết của Đảng đã đề ra, trong thời gian qua Nhà nước đã 2 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu vào năm 2000 và năm 2001, theo sự gia tăng của giá cả sinh hoạt, nhưng đây mới chỉ là biện pháp trước mắt mang tính tình thế khi chưa tiến hành tổng kết được việc thực hiện chính sách tiền lương.

Là một bộ phận của chế độ tiền lương Nhà nước, chế độ tiền lương các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp cũng không tránh khỏi những tồn tại, bất hợp lý của chế độ tiền lương nói chung. Trong thời gian qua, tiền lương các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp không đảm bảo tái sản xuất sức lao động và chưa thu hút được nhân tài, chưa thực sự trở thành thước đo giá trị lao động, chưa phản ánh được đầy đủ đặc thù nghề nghiệp và tương xứng với sự đóng góp, cống hiến cũng như yêu cầu về trách nhiệm, về nhiệm vụ ngày càng mở rộng và tăng cường đối với các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp. Để khắc phục những tồn tại, chưa hợp lý trong chế độ tiền lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để cải cách thang bảng lương đối với các chức danh Tư pháp phù hợp, tương xứng và công bằng là yêu cầu cấp thiết góp phần xây dựng đội ngũ công chức ngành tư pháp ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Qua nghiên cứu thực trạng chế độ lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp (thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký, chấp hành viên và công chứng viên), Nhóm đề tài đã thực hiện nhiều chuyên đề với mục tiêu:

- Đánh giá thực trạng chế độ tiền lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp, qua đó tìm ra những mặt hợp lý cần kế thừa và những mặt hạn chế, tồn tại cần khắc phục trong chế độ tiền lương hiện hành;

- Xây dựng được các ngạch, thang, bậc lương phù hợp với đặc thù của từng loại công chức chuyên môn ngành tư pháp;

- Đưa ra các giải pháp nhằm cải cách chế độ tiền lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, góp phần làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tính: thần trách nhiệm và hiệu suất công tác.

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOẠI CÔNG CHỨC CHUYÊN MÔN NGÀNH TƯ PHÁP

1. Một số vấn đề lý luận về cán bộ, công chức

1.1. Cán bộ, công chức theo cách hiểu của khoa học xã hội, lý luận quản lý

a) Cán bộ: Về cơ bản, từ “cán bộ” có nghĩa chính là những người giữ vai trò chỉ huy, nòng cốt, lãnh đạo trong cơ quan, đơn vị. Ở một số nước, từ “cán bộ” cũng được dùng với nghĩa giống Việt Nam như Nhật Bản, Pháp, Anh.

Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, từ “cán bộ” được dùng thay thế từ “công chức”,  “viên chức”, để chỉ những người tham gia hoạt động thoát ly, làm việc trong toàn bộ hệ thống chính trị (cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, đoàn thể) bao gồm: những người được bầu cử, hoặc được giao đảm nhiệm một công tác chuyên trách, có hưởng lương trong các cơ quan, tổ chức đảng, đoàn thể, những người là cán bộ chỉ huy trong đơn vị quân đội nhân dân. Trong các cơ quan nhà nước, “cán bộ” chỉ những người được giao nhiệm vụ, công vụ hưởng lương ở trong biên chế (trùng với “công chức”).

b) Công chức: Nhiều quốc gia quan niệm “công chức” là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một vị trí công tác trong cơ quan công quyền, hưởng lương từ ngân sách (trừ nhân viên phục vụ). Trong khoa học xã hội, quan điểm chung đều coi công chức là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, viên chức công tác trong hệ thống chính trị, đảm trách việc thực thi công quyền, quản lý nhà nước đối với các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội.

c) Viên chức: “Viên” là người làm việc “chức” là có chức danh, chức vụ. “viên chức” thông thường được dùng với nội hàm rộng hơn công chức, bao hàm trong đó cả những cả những người được coi là công chức (công chức là một bộ phận của Viên chức). Hơn nữa, một số người làm việc trong một số tổ chức tư nhân cũng được coi là viên chức (viên chức hoả xa, bưu chính, cầu đường...).

1.2. Cán bộ, công chức theo quy định của hệ thống pháp luật thực định ở Việt Nam

Có thể viện dẫn một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành ở nước ta để tìm hiểu Khái niệm “cán bộ, công chức” như: Hiến pháp, Pháp lệnh cán bộ, công chức, các Nghị định của Chính phủ...

- Theo Hiến pháp 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều Hiến pháp 1992, Khái niệm “công chức” không được sử dụng (trong Hiến pháp không có Điều nào sử dụng từ “công chức” mà chỉ sử dụng các cụm từ: cán bộ, viên chức nhà nước, đại biểu dân cư, công nhân).

- Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh Cán bộ, Công chức năm 2003 thì: cán bộ, công chức là công dân Việt Nam trong biên chế, bao gồm các nhóm sau:

1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong hệ thống chính trị;

2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức đảng, đoàn thể đến cấp huyện;

3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước cấp huyện hoặc giao giữ một chức danh chuyên môn ở cấp xã;

4. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp;

5. Thẩm phán Toà án nhân dân, kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;

6. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên trong lực lượng vũ trang;

Theo quy định trên, cán bộ, công chức tư pháp thuộc nhóm 3 và nhóm 5. Cũng có một bộ phận cán bộ, công chức tư pháp đang công tác trong lực lượng vũ trang được hưởng chế độ chính sách lương nhà nước quy định cho lực lượng vũ trang.

2. Chế độ lương của cán bộ, công chức

Để xây dựng thang, bảng lương phù hợp đối với từng loại cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước nói chung, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách tiền lương đã căn cứ vào đặc điểm lao động và đưa ra các nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho việc xây dựng chế độ tiền lương đối với công chức này.

2.1. Về đặc thù lao động

- Công chức là những người được tuyển dụng chính thức vào làm việc trong một cơ quan Nhà nước, được làm việc đến hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp thôi việc, nghỉ việc,..);

- Công chức là những người làm chuyên môn, được xếp vào một ngạch với vị trí, việc làm ổn định trong một cơ quan Nhà nước;

- Công chức là người có tư cách pháp lý trong khi thi hành công vụ, ít nhiều đều nắm giữ trọng trách, do đó, trong công việc đòi hỏi phải công tâm, tận tuỵ phục vụ lợi ích chung, không được lợi dụng nghề nghiệp để kiếm lời, hoặc để thu nhập bất chính. Cán bộ, công chức chỉ sống bằng lương do ngân sách nhà nước trả, mọi thu nhập ngoài lương phải chịu sự kiểm soát của Nhà nước.

- Lao động của cán bộ công chức là lao động "chất xám" phức tạp, thực hiện chức năng tổ chức quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý. Sản phẩm lao động không thể đánh giá ngay được mà phải đưa vào thực hiện, áp dụng trong thực tế mới có thể đánh giá được.

2.2. Một số nguyên tắc cơ bản làm căn cứ xây dựng chế độ tiền lương

- Thứ nhất, phải có sự kết hợp giữa chính sách đãi ngộ với các tập quán, thói quen, các thang giá trị theo mục tiêu công tác chiến lược của tổ chức;

Thứ hai, việc trả lương theo lao động nhằm bù đắp hao phí và để tái sản xuất sức lao động cho người làm việc trong cơ quan nhà nước;

Thứ ba, trong điều kiện có cung cầu về lao động đối với một số nghề có ảnh hưởng đến nhân sự của cơ quan nhà nước, chính sách tiền lương phải thu hút, khuyến khích được công chức vào làm việc trong các cơ quan nhà nước và một số ngành có nhu cầu về nhân lực;

Thứ tư, tiền lương phải được bảo đảm duy trì và đãi ngộ để tiền lương và các chế độ đãi ngộ thực sự khích lệ người lao động;

Thứ năm, đánh giá công tác gắn việc trả lương với kết quả công tác;

Thứ sáu, liên tục cải tiến chế độ đãi ngộ và trả lương theo sự phát triển của tổ chức và phát triển chung của xã hội;

Thứ bảy, thiết kế thang, bảng lương, hệ số mức lương phải thể hiện mối tương quan hợp lý về độ lao động phức tạp, đảm bảo tính ổn định, đơn giản, dễ nhớ để khi có sự biến động về giá cả thị trường chỉ cần điều chỉnh mức lương tối thiểu mà không thay đổi cả hệ thống thang lương, bảng lương.

Căn cứ vào đặc thù lao động và các nguyên tắc cơ bản về xây dựng lương đối với cán bộ, công chức của Đảng và Nhà nước ta là phù hợp. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh hiện nay của đất nước, chúng ta cũng phải xem xét, tính toán kỹ lưỡng về tiền lương hiện nay của cán bộ, công chức có còn phù hợp không? Cần có những sửa đổi gì?

3. Chế độ tiền lương của một số chức danh tư pháp

3.1. Đặc thù lao động

Như đã trình bày ở phần trên, cán bộ, công chức tư pháp là một bộ phận của cán bộ, công chức Nhà nước, căn cứ vào phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhóm nghiên cứu tập trung nghiên cứu đặc thù lao động của một số cán bộ, công chức tư pháp gồm: thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký phiên toà, chấp hành viên, công chứng viên và hộ tịch viên. Ở mức độ khái quát, có thể nêu một số đặc thù trong hoạt động của cán bộ, công chức chuyên môn ngành tư pháp như sau:

Thứ nhất, lao động của cán bộ, công chức chuyên môn ngành tư pháp là lao động trí não, đầy khó khăn, đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của người dân. Chẳng hạn: Trong xét xử, thẩm phán phải xem xét các tình tiết của vụ án, phân tích các cơ sở pháp lý và áp dụng các quy định pháp luật một cách đầy tinh thần trách nhiệm để đưa ra phán quyết đối với một trường hợp cụ thể trực tiếp liên quan đến thân phận, quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Hoạt động xét xử của thẩm phán được đặt trong sự giám sát từ mọi phía: từ phía xã hội thông qua cơ chế xét xử công khai, từ phía người dân thông qua nguyên tắc xét xử có sự tham gia của hội thẩm nhân dân, từ phía Toà án cấp trên thông qua thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm... Đặc trưng này đòi hỏi công chức chuyên môn ngành tư pháp phải được đào tạo cơ bản, phải thường xuyên học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, phải tận lực với ngành tư pháp.

Thứ hai, lao động của cán bộ, công chức chuyên môn ngành tư pháp trực tiếp bảo vệ công lý. Nó đòi hỏi cán bộ, công chức chuyên môn ngành tư pháp phải công bằng, vô tư, khách quan. Để đạt được yêu cầu khắt khe đó, cán bộ, công chức chuyên môn ngành tư pháp phải luôn luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức, phải nghiêm khắc với mình. Nói một cách khái quát, đặc thù này đòi hỏi cán bộ, công chức chuyên môn ngành tư pháp phải tận tâm với nền công lý vì lợi ích của con người.

Thứ ba, lao động của cán bộ, công chức chuyên môn ngành tư pháp là lao động đòi hỏi phải phục tùng nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Muốn vậy, cán bộ công chức chuyên môn ngành tư pháp phải có bản lĩnh, dũng cảm đấu tranh với mọi sự can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của mình vì công lý. Đây là một yêu cầu nghề nghiệp rất cao.

3.2. Chế độ lương

Chế độ lương đối với một số chức danh tư pháp được xác định theo nguyên tắc khung lương chung của cán bộ, công chức nhà nước. Ngoài chế độ lương ra họ còn được hưởng thêm các khoản phụ cấp khác như phụ cấp dưỡng liêm, phụ cấp trách nhiệm… Đặt trong mặt bằng chung thì chế độ lương mà các cán bộ, công chức hiện đang được hưởng tưởng chừng như là hợp lý, nhưng xét trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước ta hiện nay và xét trong bối cảnh toàn cầu hoá thì chế độ lương đối với cán bộ, công chức tư pháp đang nảy sinh những bất hợp lý.

Nghề của cán bộ, công chức tư pháp là nghề cao quý, bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, công bằng, khách quan, chí công, vô tư và bảo đảm một nền pháp chế vững mạnh. Cán bộ, công chức tư pháp phải lao tâm, tận tuỵ với nghề mà họ lựa chọn và phải có đủ điều kiện mới được tuyển dụng, bổ nhiệm. Để đáp ứng với những đòi hỏi trong tác nghiệp họ luôn luôn phải trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật các thông tin pháp luật mới liên quan đến việc giải quyết các vụ việc phức tạp. Có thể nói rằng quỹ thời gian của họ hầu như dành hết cho công việc của cơ quan, họ rất khó có thể sắp xếp thời gian để có thể làm thêm một việc gì đó để tạo thu nhập cho gia đình.

Theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách tiền lương thì tiền lương hiện nay không đủ trang trải cho các nhu cầu thiết yếu khiến cán bộ, công chức phải tìm kiếm thêm thu nhập ngoài lương. Tình trạng khá phổ biến là thu nhập ngoài lương ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập của họ. Chênh lệch về thu nhập ngoài lương giữa các ngành, các cơ quan, đơn vị rất lớn. Không những vậy, sự chênh lệch về giá cả sức lao động trên thị trường và giữa các khu vực ngày càng dãn rộng đã thu hút nhiều người có trình độ, năng lực ở khu vực hành chính ra làm việc ở khu vực sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, việc đánh đồng cơ chế giải quyết tiền lương cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước (cán bộ, công chức làm việc ở các cơ quan nhà nước, Đảng, đoàn thể) với những cán bộ, công chức làm việc ở khu vực dịch vụ công là không hợp lý vì 2 loại có những yêu cầu rất khác nhau. Thực tế là chúng ta chưa có chính sách tài chính, cơ chế quản lý biên chế, tiền lương và thu nhập phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động nói chung, cho lĩnh vực hoạt động sự nghiệp - một lĩnh vực có hoạt động rộng lớn ảnh hưởng trong toàn xã hội nói riêng. Tiền lương chưa thúc đẩy cải cách hành chính và xã hội hoá các dịch vụ công, chưa góp phần xứng đáng vào việc chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.

II. THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG CÔNG CHỨC CHUYÊN MÔN NGÀNH TƯ PHÁP

Theo sự phân loại cán bộ công chức dựa trên trình độ đào tạo thì các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp và ngạch công chức chuyên viên đều thuộc loại công chức loại A (có trình độ đại học). Trong mỗi ngạch công chức sự phân loại ở mức cao hơn dựa theo chức nghiệp và mức độ đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và kinh nghiệm tích luỹ trong công việc. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể thiết lập bảng thang lương cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và mức độ cống hiến của các công chức, phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của các công chức trong ngành tư pháp.

1. Thẩm phán Toà án nhân dân

Theo Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQH ngày 17/5/1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngạch thẩm phán Toà án nhân dân gồm có 3 ngạch: thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có 7 bậc lương, thẩm phán Toàn án nhân dân tỉnh và thành phố có 9 bậc lương, thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện có 10 bậc lương.

Về cơ bản, bảng lương ngạch thẩm phán và chuyên viên giống nhau, đều được phân làm 3 cấp, bậc lương mỗi cấp của hai ngạch đều giống nhau. Riêng hệ số lương khởi điểm ngạch công chức thẩm phán Toà án nhân dân thì cao hơn. Quy định này đã thể hiện có sự ưu tiên hơn cho các thẩm phán. Tuy nhiên, chưa thực sự xứng đáng nếu xét thêm một số mặt sau:

- Điều kiện tuyển dụng: 1 cán bộ được tuyển dụng vào ngạch chuyên viên chỉ cần tốt nghiệp đại học. Trong khi đó, để được tuyển dụng vào ngạch thẩm phán, nếu là thẩm phán Tòa án cấp huyện, cán bộ này phải trải qua các lớp đào tạo thẩm phán và có ít nhất 4 năm công tác trong ngành; nếu là thẩm phán Toà án cấp tỉnh thì thâm niên là 6 năm; và thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là 8 năm. Như vậy, xét số năm công tác thì hệ số lương của thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện chỉ tương đương với của chuyên viên, thậm chí càng về lâu dài lại có xu hướng thấp hơn. Đối với thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố và thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì hệ số lương của họ tương ứng cao hơn so với hệ số lương của chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp. 

- Về việc nâng lương, nâng ngạch: So sánh hệ thống thang lương ngạch thẩm phán Toà án nhân dân và chuyên viên cho thấy tương quan giữa các cấp của ngạch chuyên viên là hợp lý hơn. Nếu một công chức được lên lương đúng thời hạn thì sau 27 năm công tác họ ở bậc lương cao nhất đối với chuyên viên, và 33 năm đối với chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp. Tức là nếu họ tốt nghiệp đại học vào năm 23 tuổi thì khi 50 tuổi họ ở bậc cao nhất của ngạch chuyên viên, và 56 tuổi nếu là chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp. Xét về tính liên tục, chuyển tiếp nâng ngạch thì các chuyên viên sẽ đạt trình độ nhất định và đủ 9 năm công tác sẽ được thi nâng ngạch lên chuyên viên chính và thêm 6 năm để thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp.

Việc bổ nhiệm và nâng cấp giữa thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện với thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố và thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không theo xu hướng như ngạch công chức khác. Việc bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao hơn không nhất thiết căn cứ vào nguồn cán bộ thẩm phán Toà án nhân dân cấp dưới. Đối với thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện thì việc bổ nhiệm căn cứ vào năng lực, đạo đức, đã qua lớp đào tạo về thẩm phán Toà án nhân dân và có 4 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Tư pháp, với thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố là 6 năm và thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao là 8 năm. Do vậy sẽ xuất hiện tình trạng công chức là thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao và thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố chỉ sau 26 năm và 30 năm công tác đạt được mức lương cao nhất trong bảng lương. Nếu như những công chức này tốt nghiệp Đại học Luật năm 23 tuổi, làm trong lĩnh vực Tư pháp tương ứng là 8 năm và 6 năm, đủ tiêu chuẩn được bổ nhiệm làm thẩm phán Toà án nhân dân. Như vậy khi họ hưởng mức lương cao nhất khi mà chỉ có 49 tuổi (thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao) hoặc 53 tuổi (thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố), với mức tuổi này họ chưa đủ tuổi để nghỉ hưu, đặc biệt là đối với các thẩm phán Toà án nhân dân là nam giới (tuổi nghỉ hưu của nam là 60, nữ là 55).

Hiện nay, chính sách mới của ngành tư pháp đang cố gắng tăng cường quyền lực của thẩm phán Toà án nhân dân địa phương để nâng cao hiệu quả xét xử, giải quyết dứt điểm các tranh chấp ngay tại cấp địa phương. Điều đó có nghĩa là tăng cường trách nhiệm cuả đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện. Như đã nêu ở trên, hệ số lương của ngạch thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện so với hệ số lương của ngạch chuyên viên theo số năm công tác không thể hiện sự ưu tiên về nghề nghiệp đối với họ. Ngay cả trong hoàn cảnh mà Toà án nhân dân quận, huyện được tăng cường thẩm quyền xét xử, thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện vẫn chưa được hưởng chế độ đãi ngộ thích đáng thể hiện qua sự ưu tiên về tiền lương để khuyến khích sự cống hiến của các công chức là thẩm phán cấp huyện.

2. Thẩm tra viên

Theo Nghị định 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ, bảng lương chuyên môn nghiệp vụ công chức ngạch thẩm tra viên gồm có 3 ngạch: thẩm tra viên cao cấp có 7 bậc lương, thẩm tra viên chính có 9 bậc lương, thẩm tra viên có 10 bậc lương. Về cơ cấu bảng lương giữa ngạch thẩm tra viên và ngạch Chuyên viên là giống nhau. Sự phân loại đều được phân làm 3 cấp, và số các bậc lương của mỗi cấp giống nhau. Tương tự như lương ngạch thẩm phán Toà án nhân dân, hệ số lương khởi điểm của ngạch thẩm tra viên cao hơn so với ngạch chuyên viên. Trên thực tế nếu xét đến năm công tác và tiêu chuẩn nghiệp vụ thì các công chức ngạch thẩm tra viên ngoài các tiêu chuẩn về trình độ, năng lực... họ còn phải trải qua 2 năm kinh nghiệm công tác trong ngành tư pháp. Do vậy tương quan giữa thang lương của ngạch này so với ngạch chuyên viên theo năm công tác không thể hiện được mức độ ưu tiên cho ngạch thẩm tra viên do tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch này cao hơn so với ngạch chuyên viên.

Nếu so sánh theo năm công tác thì hệ số lương của thẩm tra viên và của thẩm tra viên chính chỉ tương đương với chuyên viên và chuyên viên chính, đặc biệt, giữa ngạch thẩm tra viên cao cấp và chuyên viên cao cấp có sự khác biệt rất đáng kể. Ở 3 bậc lương cuối của ngạch chuyên viên cao cấp mức độ tăng chênh lệch hệ số lương giữa 2 bậc liên tiếp cao hơn hẳn so với 4 bậc lương đầu. Trong khi đó, mức tăng hệ số lương của thẩm tra viên cao cấp đều như nhau trong cả 7 bậc lương, không thể hiện sự ưu đãi như với chuyên viên cao cấp. Khác với ngạch thẩm phán Toà án nhân dân, ngạch thẩm tra viên có cơ cấu nâng ngạch tương đối giống như ngạch Chuyên viên, ngoại trừ một điều là tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch thẩm tra viên yêu cầu có 2 năm công tác trong lĩnh vực Tư pháp. Do vậy, để đạt được mức lương cao nhất của từng ngạch thì thẩm tra viên là sau 29 năm công tác (lên lương bình quân 3 năm 1 bậc), thẩm tra viên chính và thẩm tra viên cao cấp là 35 năm. Trong khi đó ngạch chuyên viên tương ứng chỉ là 27 năm và 33 năm. Như vậy, giữa các công chức cùng tốt nghiệp đại học năm 23 tuổi, thì công chức ngạch thẩm tra viên có thể đạt mức lương cao nhất năm 52 tuổi, thẩm tra viên chính và thẩm tra viên cao cấp là 58 tuổi, trong khi đó công chức ngạch chuyên viên thì là 50 và 56 tuổi.

3. Thư ký Toà án

Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQH ngày 17/5/ 1993 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định bảng lương của ngạch công chức thư ký Toà án chỉ có một mã ngạch với 16 bậc lương với hệ số lương khởi điểm là 1.70 và hệ số lương cao nhất là 3.57, chênh lệch giữa hai mức lương kế tiếp nhau là 0.12 (đối với 9 bậc lương đầu) và 0.13 (đối với các bậc lương còn lại). Quy định này áp dụng cho tất cả thư ký Toà án nhân dân tối cao, thư ký toà án tỉnh, thành phố và thư ký toà án huyện, quận. Quy định như trên chưa hợp lý bởi nếu xét về tính nghiêm trọng, mức độ phức tạp thì các phiên toà cấp tối cao, cấp tỉnh có mức độ cao hơn, nên thư ký tại các phiên toà cấp cao phải có mức độ chức nghiệp cao hơn so với toà địa phương.

Trước đây, thư ký toà án có thể chỉ với trình độ Trung học luật là có thể đảm đương được chức trách này. Hiện nay đa số các thư ký toà án đều có trình độ Đại học Luật và là nguồn cán bộ bổ sung cho các chức danh công chức khác trong ngành tư pháp như là thẩm phán Toà án nhân dân các cấp. Do vậy việc sắp xếp thang lương của ngạch thư ký cần phải được cải tiến. So sánh Thang lương của các ngạch Chuyên viên, thư ký toà án và Cán sự cho thấy Thang lương của thư ký toà án có cơ cấu giống với Thang lương của cán sự (trình độ Trung học) với cùng mức chênh lệnh giữa 2 bậc lương liên tiếp và đều có 16 bậc lương. Quy định về thời hạn lên lương cũng giống với ngạch cán sự là 2 năm lên 1 bậc lương. Như vậy sau 6 năm công tác thì công chức thư ký toà án lên được 3 bậc lương với mức chênh lệch từ 0.36 cho đến 0.39 và thể hiện tính bình quân chủ nghĩa. Trong khi đó cán bộ là chuyên viên cũng trong thời hạn 6 năm họ lên 2 bậc lương nhưng mức chênh lệch cao hơn (từ 0.48 đến 0.50). Sau 24 năm công tác thì công chức là thư ký toà án mới đạt bậc lương thứ 14 với hệ số là 3.31 bằng với hệ số lương của một chuyên viên sau 18 năm công tác.

So sánh sự chênh lệch về thang lương của chức danh thư ký toà án với các chức danh khác trong cùng chuyên môn ngành tư pháp cũng thấy rõ sự khác biệt lớn, đặc biệt là khi so sánh với thang lương của thẩm phán Toà án nhân dân các cấp, đặc biệt là đối với thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố và thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao. So sánh này càng thêm ý nghĩa quan trọng khi mà nguồn cán bộ bổ sung chủ yếu cho việc bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân là từ nguồn cán bộ là thư ký toà án các cấp. Hiện nay nhiều cán bộ thư ký toà án các cấp có quan điểm là thư ký toà án chỉ là giai đoạn “đệm”, chuẩn bị đủ điều kiện để họ được bổ nhiệm làm thẩm phán Toà án nhân dân các cấp. Xu hướng này không chỉ là do nguyên nhân chênh lệch quá lớn về thang lương giữa các chức danh này mà còn là nguyên nhân do cơ cấu bổ nhiệm các thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố và thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao chủ yếu từ nguồn cán bộ bổ sung là thư ký toà án cấp tỉnh và thư ký toà án tối cao chứ không phải từ nguồn cán bộ bổ sung là thẩm phán Toà án nhân dân cấp thấp hơn.

Tóm lại, cơ cấu thang lương của ngạch thư ký toà án sau 10 năm áp dụng đã tỏ ra có nhiều hạn chế, mức lương cán bộ thư ký toà án thấp, không thực sự khuyến khích thư ký toà án phấn đấu nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cũng như tâm lý gắn bó với nghề nghiệp và không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

4. Công chứng viên

Năm 1989, hệ thống công chứng ở nước ta được tái thành lập. Theo quy định tại Nghị định số 75/CP của Chính phủ, người được bổ nhiệm công chứng viên bắt buộc phải có bằng cử nhân Luật, có chứng chỉ tốt nhiệp khoá đào tạo nghề công chứng và có thời gian công tác pháp luật liên tục từ 5 năm trở lên. Do quy định khi thực hiện nhiệm vụ, công chứng viên phải độc lập trong việc ký công chứng của mình nên đòi hỏi công chứng viên phải có trình độ pháp luật chuyên sâu, phải thường xuyên cập nhật những văn bản pháp luật mới được ban hành, những văn bản đã hết hiệu lực, những văn bản đã được sửa đổi, bổ sung để áp dụng trong công việc. Từ tính chất đặc thù nghề của nghề nghiệp, người đã được bổ nhiệm công chứng viên không được kiêm nhiệm công việc khác tại các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế và không được lạm dụng chức năng được bổ nhiệm để hành nghề tự do. Tuy nhiên, mức lương của công chứng viên không tương xứng với tiêu chuẩn bổ nhiệm cao cũng như với những nhiệm vụ nặng nề họ phải đảm nhận.

Theo quy định hiện hành, công chứng viên được xếp ngạch lương tương đương với chuyên viên nhưng chỉ có một ngạch lương công chứng viên mà không có ngạch công chứng viên chính hay công chứng viên cao cấp như các ngạch công chức khác. Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định thang lương của ngạch công chứng viên gồm có 10 bậc. Hệ số lương của các bậc trong thang lương của công chứng viên đúng bằng với các bậc lương tương ứng của Chuyên viên. Quy định này không chỉ không xét đến yếu tố tiêu chuẩn nghiệp vụ của công chứng viên cao hơn so với chuyên viên mà cũng bỏ qua cả thời hạn công tác 5 năm trong lĩnh vực Tư pháp. Với cùng số năm công tác thì hệ số lương của chuyên viên cao hơn hẳn so với công chứng viên, mức chênh lệch xấp xỉ 0.4.

So sánh giữa thang lương của công chứng viên và thư ký toà án dựa theo số năm công tác cho thấy: trong những bậc lương đầu tiên của ngạch công chứng viên có hệ số lương còn thấp hơn cả so với hệ số lương của thư ký toà án - một chức danh công chức chuyên môn ngành tư pháp có mức lương thấp và chứa nhiều bất hợp lý.

Trong khoảng 6 bậc lương đầu thì mức chênh lệch hệ số lương của ngạch công chứng viên giữa 2 bậc lương liên tiếp chỉ là 0.24, và ở các bậc còn lại là 0.25. Sự chênh lệch này giống với các bậc lương của chuyên viên. Nhưng vấn đề cần bàn đến ở đây là ngạch chuyên viên có sự nâng ngạch lên chuyên viên chính rồi chuyên viên cao cấp với thang lương cao hơn hẳn cho những công chức có năng lực. Trong khi đó ngạch công chứng viên chỉ có 1 mã ngạch duy nhất. Điều tác động không nhỏ tới tinh thần làm việc, trau dồi nghiệp vụ chuyên môn và sự gắn bó với nghề nghiệp của các công chứng viên. Thêm vào đó, nếu xét đến yếu tố tuổi đời, một người tốt nghiệp Đại học luật năm 23 tuổi, sau 5 năm công tác trong ngành tư pháp và qua các lớp đào tạo về nghiệp vụ đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào ngạch công chứng viên với mức lương khởi điểm là 1.86, sau 27 năm công tác họ đạt bậc lương cao nhất của ngạch này với hệ số lương là 4.06 ở độ tuổi là 55 tuổi. Mức lương cuối của họ cũng không cao trong khi công việc của công chứng viên có tiêu chuẩn nghiệp vụ và có trách nhiệm cá nhân cao trước pháp luật về những việc công chứng của mình.

Như vậy có thể nói chung rằng thang lương của ngạch công chứng viên vẫn còn thấp, thiếu tính khuyến khích nhân tài, chưa tính đến đặc thù nghề nghiệp và cơ cấu thang lương chưa phù hợp với thực trạng công việc của họ.

5. Chấp hành viên

Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định thang lương của ngạch chấp hành viên gồm có ngạch chấp hành viên cấp huyện và chấp hành viên tỉnh. Thang lương của chấp hành viên cấp huyện có 10 bậc, và chấp hành viên cấp tỉnh có 9 bậc. Các bậc lương tương ứng của chấp hành viên cấp huyện cao hơn so với chuyên viên, của chấp hành viên cấp tỉnh cũng cao hơn khi so sánh với chuyên viên chính. Mức lương khởi điểm của chấp hành viên cấp huyện là 2.16 và của chấp hành viên cấp tỉnh là 3.62 so với mức lương khởi điểm của ngạch chuyên viên là 1.86 và của chuyên viên chính là 3.35. Bảng lương của chấp hành viên cấp huyện cũng như của chấp hành viên cấp tỉnh đều tương ứng cao hơn so với bảng lương của chuyên viên và chuyên viên chính. Điều này là phù hợp vì mức độ trách nhiệm, tính chất nghiệp vụ chuyên môn của ngạch chấp hành viên cao hơn so với ngạch chuyên viên. Tuy nhiên, có sự bất hợp lý ở chỗ hệ thống thang lương của ngạch chấp hành viên chỉ có hai mã ngạch và hệ số thang lương được chia làm 9 và 10 cấp, khả năng công chức giữ lương ở bậc cao nhất của ngạch một thời gian dài trước khi đủ tuổi để hưởng chế độ hưu trí là có thể. Nếu một sinh viên đại học luật ra trường năm 23 tuổi và được phân công làm chấp hành viên huyện, quận thì sau 27 năm công tác sẽ hưởng mức lương cao nhất (nếu không bị kỷ luật và cứ 3 năm lên 1 bậc lương) khi đó người cán bộ đó mới có 50 tuổi. Trong trường hợp công chức đó là nam giới thì với anh ta còn tới 10 năm công tác nữa mới đủ tuổi về hưu và tương ứng là thiếu ít nhất ba bậc lương nữa.

Trong thời gian đầu, hệ số lương của chấp hành viên huyện, quận có giá trị cao hơn so với chuyên viên. Nhưng càng về sau thì sự so sánh lại có xu hướng ngược lại. Nguyên nhân là do khoảng cách chênh lệch giữa 2 bậc lương liền kề của ngạch chuyên viên cao hơn so với ngạch chấp hành viên. Giá trị chênh lệch giữa hai bậc lương liên tiếp của ngạch chấp hành viên huyện, quận chỉ là 0.23 và đến 2 bậc cuối  là 0.24. Trong khi đó đối với ngạch chuyên viên thì các giá trị tương ứng ở các bậc lương đầu là 0.24 và ở 4 bậc cuối là 0.25. Nếu cũng so sánh như vậy đối với ngạch chấp hành viên cấp tỉnh và ngạch chuyên viên chính thì sự khác biệt càng thể hiện rõ hơn. Khoảng cách giữa các bậc lương của ngạch chấp hành viên cấp tỉnh là 0.26 trong suốt cả bảng lương. Đối với ngạch chuyên viên chính thì khoảng cách này là 0.28 và ở bậc lương cuối cùng là 0.29. Đây là điều bất hợp lý nếu xét trên góc độ tính chất công việc và đặc thù nghề nghiệp giữa ngạch chuyên viên với ngạch chấp hành viên. Bên cạnh đó, có một điểm bất hợp lý nữa là sự chênh lệch về hệ số lương khởi điểm giữa chấp hành viên cấp tỉnh và chấp hành viên cấp huyện. Theo quy định hiện hành, mức lương khởi điểm hiện nay của chấp hành viên cấp huyện là 2,16 trong khi mức lương khởi điểm của chấp hành viên cấp tỉnh là 3,62. Sự chênh lệch khá lớn về lương như vậy gây khó khăn trong việc điều động cán bộ. Trong trường hợp chấp hành viên tỉnh đó được điều động về huyện, bổ nhiệm làm chấp hành viên cấp huyện, sự bất cập về lương càng trở nên rõ nét. Bởi lẽ, nếu điều chỉnh lại lương theo quy định thì không thể điều động được cán bộ, còn nếu giữ nguyên lương ngạch chấp hành viên cấp tỉnh thì giữa hai người có thời gian công tác, trình độ và tuổi đời tương đương nhau lại có sự chênh lệch tới gần 6 bậc lương, tương đương tới gần 20 năm công tác. 

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Mục tiêu

Xây dựng chế độ tiền lương của các chức danh tư pháp khoa học, phù hợp với đặc thù nghề nghiệp, tương xứng với chất lượng, hiệu quả công việc; bảo đảm tiền lương trở thành nguồn thu nhập chính và cơ bản đủ sống cho người hưởng lương; phát huy vai trò động viên, khuyến khích công chức yên tâm công tác, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác bổ nhiệm, điều động, luân chuyển công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành. Trước mắt, sửa đổi những bất hợp lý về thang bảng lương của các chức danh tư pháp, nâng dần mức lương tối thiểu tương ứng với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ chế mới về bảo đảm nguồn trả lương trên cơ sở sử dụng tất cả nguồn lực tài chính trong các đơn vị.

2. Phương hướng hoàn thiện chế độ tiền lương các chức danh tư pháp

2.1. Kiến nghị chung

a) Điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu

Hiện nay, tiền lương tối thiểu chưa bù được trượt giá, chưa tính đến việc người hưởng lương còn phải chi phí thêm nhiều khoản chưa tính vào tiền lương như: tiền đóng học phí, tiền học thêm của con, tiền xây dựng trường sở, quỹ cha mẹ học sinh, viện phí, phí an ninh và một số mặt hàng khác như xăng, cước phí bưu điện, điện tiêu dùng… mà Nhà nước mới tăng giá, làm cho tiền lương thực tế của cán bộ, công chức còn giảm hơn, không đủ trang trải cho các nhu cầu thiết yếu. Mặt khác, lương tối thiểu chưa phân biệt rõ giữa lương tối thiểu chung với lương tối thiểu theo vùng, ngành trong cơ chế thị trường, dẫn đến áp dụng chung một mức lương tối thiểu trong khu vực Nhà nước, vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp khi nâng mức lương tối thiểu, vừa gây khó khăn cho việc cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức.

Để cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức khu vực hành chính, sự nghiệp nói chung và cán bộ, công chức tư pháp nói riêng, cần thiết phải tiếp tục điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung theo nguyên tắc bù đủ trượt giá sinh hoạt và từng bước có cải thiện theo mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đồng thời phải áp dụng tiền lương tối thiểu cao hơn mức lương tối thiểu chung “sàn” đối với cán bộ, công chức hành chính vì đội ngũ này phổ biến là được đào tạo cơ bản, hầu như không có thu nhập thêm mà sống chủ yếu bằng lương, ít phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động nhưng lại phụ thuộc vào khả năng ngân sách nhà nước. Việc này được thực hiện thông qua quy định hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương tối thiểu tăng dần từng năm theo lộ trình cải cách tiền lương.

b) Tiền lương phải gắn với hiệu quả công tác và chất lượng công chức

Kết quả lao động của công chức cần phải được “đo lường” để làm căn cứ xác định và xem xét khi trả lương và tăng mức lương. Việc đánh giá hiệu quả và chất lượng công tác của công chức là một biện pháp quản lý cán bộ, công chức thông qua việc kiểm định các chỉ số nói lên sự cống hiến của cán bộ, công chức. Đánh giá việc thực hiện chức trách của cán bộ, công chức để hiểu biết về mỗi cá nhân cũng như từng tập thể trong đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cơ sở kết quả của việc đánh giá mà quyết định các biện pháp phù hợp trong sử dụng, đãi ngộ, bố trí, cất nhắc, trong đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật... đối với cán bộ, công chức. Kết quả lao động của công chức được đánh giá theo từng cá nhân công chức, từng nhóm công chức và cả đội ngũ công chức.

- Đánh giá theo cá nhân công chức: được thực hiện thông qua xem xét các công việc được giao, hiệu quả công tác và việc đóng góp sức lực vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung của đơn vị, việc sử dụng thời gian làm việc và chấp hành kỷ luật, quy chế của đơn vị. Hai việc cần thiết phải làm là: thứ nhất, chức vụ phải được xác định rõ và có khả năng đo đếm được thông qua phương pháp đánh giá và mục tiêu của cá nhân trong kỳ hạn tiền lương; thứ hai, phải có hệ thống thẩm định hiệu quả công tác và phương pháp xếp lương, sau đó thưởng lương cho các hiệu quả công tác đạt được.

- Đánh giá theo nhóm công chức: được tính theo từng đơn vị công tác thông qua việc xem xét thực hiện chương trình và kế hoạch công tác của đơn vị được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ theo nhóm; thành tích, kết quả công việc cũng là chung của cả nhóm. Ngoài tiền lương được tăng theo thâm niên hàng năm của mỗi cá nhân người công chức, họ còn được tăng lương theo hiệu quả của nhóm, phần này phải được trả như là một khoản thưởng hàng năm.

c) Đổi mới cơ cấu thang lương của các chức danh tư pháp

Thang lương của các chức danh tư pháp được xây dựng theo hướng có 3 loại ngạch như chức danh chuyên viên và được đặt trong tương quan hợp lý với các ngạch chuyên viên (yêu cầu về trình độ chuyên môn là tốt nghiệp đại học), có áp dụng hệ số phụ cấp nghề nghiệp chênh lệch được tính toán trên cơ sở đặc thù nghề nghiệp.

Công thức xây dựng thang lương này có thể khắc phục được sự bất hợp lý về lương trong từng chức danh tư pháp và giữa các chức danh tư pháp với nhau; đánh giá đúng được lao động đặc thù, giải quyết được vướng mắc trong việc bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, miễn nhiệm, kỷ luật… đối với các công chức thuộc chức danh này; động viên, khuyến khích công chức yên tâm công tác và tích cực phấn đấu lên ngạch cao hơn.

d) Giảm số bậc trong các ngạch

Mỗi ngạch công chức hiện nay chia thành quá nhiều bậc: 16 bậc ngạch cán sự, thư ký Tòa án; 11 bậc ngạch chuyên viên, công chứng viên, chấp hành viên... Vì vậy cần thiết phải giảm số bậc lương trong mỗi ngạch của một số chức danh tư pháp nói riêng và các ngạch công chức nói chung để vừa giảm tính bình quân trong lương, vừa không để các bậc treo như hiện nay (rất nhiều người khi nghỉ hưu không thể đạt đến các bậc cao). Mỗi ngạch chỉ nên xếp từ 5-8 bậc còn đối với ngạch thư ký Tòa án, cán sự thì có thể xếp từ 10-12 bậc.

e) Tăng độ chênh lệch giữa các hệ số lương của ngạch

Hiện nay, độ chênh lệch giữa các hệ số lương trong cùng một ngạch công chức là không thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể (0,01), cho dù 2 hoặc 3 năm mới được nâng bậc lương một lần và thời gian công tác, cống hiến ngày càng tăng. Điều này chỉ thể hiện tính bình quân chủ nghĩa, mà chưa thể hiện được sự ưu đãi đối với những công chức có thời gian công tác lâu năm, chưa đánh giá đúng những đóng góp của họ trong công tác. Giá trị của các công chức công tác lâu năm, công chức lãnh đạo chỉ được ghi nhận, đề cao và được thể hiện rõ trong chế độ đãi ngộ của Nhà nước nếu thực hiện việc xây dựng thang lương theo hướng nâng dần độ chênh lệch giữa các hệ số lương của ngạch công chức. Theo đó khoảng cách giữa các hệ số lương sẽ giãn dần theo trình tự tăng bậc lương mà không phải là một khoảng cách giống nhau như hiện nay đang áp dụng.

g) Thực hiện chế độ nâng lương, cử đi dự thi nâng ngạch trước thời hạn đối với các công chức có hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hoặc có thành tích đặc biệt trong công tác

Quy định như vậy sẽ kịp thời ghi nhận công lao đóng góp của công chức, đồng thời động viên, khuyến khích công chức phấn đấu vươn lên trong công tác và có những đóng góp có giá trị cao trong công việc. Tuy nhiên, cần phải quy định chặt chẽ các điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xem xét khi thực hiện việc nâng lương, nâng ngạch trước thời hạn để tránh hiện tượng khen thưởng tràn lan, không đúng đối tượng.

h) Thực hiện chế độ phụ cấp vượt khung

Thực tế lương của đội ngũ công chức nói chung và các chức danh tư pháp nói riêng cho thấy có nhiều công chức đang giữ lương bậc cuối cùng trong thang lương của ngạch. Đối với những công chức này không thể tiếp tục thực hiện việc nâng lương theo định kỳ tuy họ vẫn có đủ các điều kiện để nâng lương, tức là vẫn hoàn thành các nhiệm vụ được giao và không có vi phạm gì trong công tác, Do vậy, bản thân những công chức này đang phải chịu thiệt thòi về lương do sự bất cập của thang bảng lương hiện hành. Để giải quyết vấn đề này, đề nghị Nhà nước nên quy định chế độ phụ cấp vượt khung như chính sách lương trước đây. Chế độ phụ cấp này được áp dụng đối với tất cả những công chức đã xếp bậc cuối cùng trong thang lương của mình, tạo điều kiện cho công chức công chức yên tâm làm việc, giảm sức ép đòi chuyển ngạch, nâng ngạch không theo yêu cầu, vị trí công việc.

2.2. Kiến nghị cụ thể về chế độ lương của từng chức danh tư pháp

a) Cải cách chế độ lương của thẩm phán

Để khắc phục những tồn tại chế độ lương của thẩm phán và xây dựng đội ngũ thẩm phán theo yêu cầu của các Nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ và cải cách tư pháp, các thang lương của thẩm phán vẫn xây dựng thành 3 ngạch: thẩm phán tối cao, thẩm phán cấp tỉnh và thẩm phán cấp huyện nhưng cần phải được đổi mới theo hướng:

- Cơ cấu ngạch lương của thẩm phán tối cao, thẩm phán cấp tỉnh, thẩm phán cấp huyện không được quá cách biệt. Thang lương của từng ngạch cần xây dựng theo cách lên ngạch thẩm phán huyện phải gối lên bậc lương của thẩm phán tỉnh; bậc lương thẩm phán tỉnh phải gối lên bậc lương của thẩm phán tối cao. Như vậy sẽ đáp ứng được yêu cầu luân chuyển thẩm phán, khắc phục được những vướng mắc hiện nay về luân chuyển thẩm phán.

- Đề nghị Nhà nước phải có một chế độ lương riêng đối với ngạch thẩm phán, như vậy mới phù hợp với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được sửa đổi, bổ sung năm 2002, quy định lương của thẩm phản được quy định thành hệ thống riêng.

- Nâng cao thang lương của thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện cho tương xứng với tính chất, mức độ lao động, yêu cầu về trách nhiệm và thể hiện sự ưu đãi của Đảng và Nhà nước ta đối với những người nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam để bảo vệ công lý.

b) Nâng cao thang lương của thẩm tra viên

Thang lương của các ngạch thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp cần thiết phải được nâng cao hơn so với các ngạch chuyên viên tương ứng, đặc biệt là đối với ngạch thẩm tra viên do tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch thẩm tra viên đòi hỏi cao hơn các ngạch chuyên viên về 2 năm kinh nghiệm công tác trong ngành tư pháp và yêu cầu về tính chịu trách nhiệm cá nhân đối với toàn bộ hồ sơ vụ án thẩm tra lại.

c) Cải cách thang lương của chấp hành viên

Việc xây dựng các thang lương của chấp hành viên ở 3 cấp độ sơ cấp, trung cấp và cao cấp sẽ động viên, khuyến khích chấp hành viên nhiệt tình cống hiến trong công tác và phấn đấu vươn lên để được thi nâng ngạch lên ngạch chấp hành viên cao hơn.

Mặt khác, việc xây dựng các thang lương của chấp hành viên như vậy còn tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển chấp hành viên giữa các cơ quan thi hành án cấp tỉnh và cấp huyện theo chủ trương của Đảng và yêu cầu thực tiễn của công tác thi hành án.

Theo hướng đổi mới như trên, thang lương của chấp hành viên sơ cấp sẽ được phiên ngang từ thang lương của chấp hành viên cấp huyện, thang lương của chấp hành viên trung cấp được phiên từ thang lương của chấp hành viên cấp tỉnh và thang lương của chấp hành viên cao cấp sẽ được thiết kế giống thang lương của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hiện nay (tức là thẩm phán cao cấp).

d) Cải cách chế độ lương của công chứng viên

Trong quá trình nghiên cứu chế độ tiền lương của công chứng viên, nhóm nghiên cứu đã đưa ra kiến nghị cải cách chế độ tiền lương của công chứng viên theo 3 ngạch từ thấp đến cao là: công chứng viên, công chứng viên chính, công chứng viên cao cấp, để tạo hướng phấn đấu và động viên, khuyến khích đối với người làm công tác công chứng.

Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác công chứng thời gian qua, những nhà quản lý trong lĩnh vực này đã xây dựng đề án sửa đổi chế độ tiền lương của công chứng viên theo hướng thiết kế một ngạch công chứng viên và đề nghị nâng cao các hệ số lương của ngạch công chứng viên bằng với các ngạch công chức tư pháp cấp tỉnh như chấp hành viên, thẩm phán cấp tỉnh.

Qua xem xét, Ban Chủ nhiệm đề tài thấy rằng việc xây dựng chế độ lương của công chứng viên theo 01 ngạch là phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với yêu cầu xác định công chứng viên là một ngề để tiến tới xã hội hóa hoạt động này trong thời gian tới. Vì vậy Ban Chủ nhiệm đề tài nhất trí với phương án thiết kế lương của công chứng viên theo 1 ngạch và đề nghị đổi mới chế độ lương của công chứng viên theo hướng sau:

- Xây dựng chế độ lương của công chứng viên cao hơn chuyên viên.

Do đặc thù nghề nghiệp của công chứng viên mà tiêu chuẩn nghiệp vụ của công chứng viên được xây dựng cao hơn so với tiêu chuẩn nghiệp vụ của chuyên viên.  Để tương xứng với yêu cầu và đặc thù nghề nghiệp của công chứng viên, lương của công chứng viên cũng phải được ưu tiên, đãi ngộ hơn so với chuyên viên, có như vậy mới khuyến khích công chứng viên chuyên tâm, gắn bó lâu dài với nghề và nâng cao được hiệu quả của công tác công chứng.

- Áp dụng chế độ phụ cấp thâm niên đối với công chứng viên nhằm động viên, khuyến khích đối với những công chứng viên có thời gian công tác lâu năm trong lĩnh vực công chứng và gắn bó với nghề.

e) Cải cách chế độ lương của thư ký toà án

- Nâng cao thang lương của ngạch thư ký toà án.

Theo xu hướng cải cách tư pháp về lâu dài sẽ thực hiện chế độ thư ký ổn định, thư ký được coi là một nghề và không thực hiện bổ nhiệm thẩm phán lấy từ nguồn thư ký. Do vậy, chế độ lương của thư ký Tòa án càng cần được quan tâm hơn để động viên, khuyến khích đội ngũ thư ký Tòa án yên tâm công tác, gắn bó với nghề.

- Áp dụng chế độ phụ cấp nghề nghiệp đối với thư ký toà án nhân dân.

Xét về tính chất và mức độ phức tạp thì các vụ án của toà án cấp trên bao giờ cũng phức tạp hơn các vụ án của toà án cấp dưới và do vậy công việc của thư ký toà án cấp trên có mức độ chức nghiệp cao hơn so với toà án cấp dưới. Để thể hiện được sự ưu đãi của Nhà nước tương xứng với yêu cầu công việc đối với từng loại thư ký toà án, thư ký toà án mỗi cấp tòa cần được hưởng thêm một khoản phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp với các mức tăng dần theo sự tăng dần của các cấp tòa án. Như vậy, lương của thư ký toà án nhân dân tối cao phải cao hơn lương của thư ký toà án nhân dân cấp tỉnh và lương của thư ký toà án nhân dân cấp tỉnh sẽ cao hơn thư ký toà án nhân dân cấp huyện vì độ phức tạp trong công việc của thư ký toà án nhân dân các cấp sẽ tăng dần từ cấp huyện lên cấp tỉnh và lên cấp tối cao.

3. Các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện chính sách cải cách tiền lương đối với các chức danh tư pháp

a) Hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ các chức danh tư pháp

Đồng thời với việc cải cách chế độ tiền lương đối với các chức danh tư pháp, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ của các chức danh thẩm phán, thẩm tra viên, chấp hành viên, công chứng viên và thư ký toà án, bảo đảm tương ứng với mỗi ngạch, thang lương của các chức danh này ở các cấp độ đều có tiêu chuẩn xác định rõ ràng chức trách, nhiệm vụ và các yêu cầu cụ thể về trình độ. Đặc biệt chú trọng xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với chức danh thư ký toà án vì thực tế hiện nay chức danh này đã tồn tại từ lâu và đang phải thực hiện các nhiệm vụ không còn đơn giản như trong thời kỳ xây dựng thang lương của chức danh này, nhưng lại chưa có tiêu chuẩn nghiệp vụ và chưa được quan tâm đúng mức. Việc hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ của các chức danh tư pháp sẽ xác định được vị trí, nhiệm vụ của từng chức danh, từ đó có chế độ đãi ngộ tương xứng với từng chức danh cụ thể. Đồng thời, đây cũng là “gương soi” cho việc thực hiện các công tác cán bộ như bổ nhiệm, miễn nhiệm, nâng ngạch, cách chức… bảo đảm xây dựng một đội ngũ công chức tư pháp đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và xứng đáng với những đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đã dành cho họ.

b) Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền lương

Lương của đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan dân cử, toà án, kiểm sát, hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang hiện nay được quy định tại Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQHK9 ngày 17/5/1993 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn bảng lương chức vụ dân cử, bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành toà án, kiểm sát và Nghị định 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang. Trong đó, Nghị định số 25/CP mới chỉ là văn bản quy định mang tính chất tạm thời nhưng đến nay đã nhiều năm nhưng vẫn chưa có văn bản quy định chính thức để thay thế. Từ năm 1993 đến nay, Chính phủ đã ban hành thêm nhiều Nghị định để điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu và Thủ tướng Chính phủ cũng có các Quyết định bổ sung chế độ phụ cấp đối với một số chức danh như giảng viên (phụ cấp giảng dạy), chấp hành viên, thẩm phán, thư ký (phụ cấp dưỡng liêm)… Điều này dẫn đến các văn bản quy phạm pháp luật về tiền lương mang tính tản mạn, chưa có tính thống nhất và tính hiệu lực cao. Để tạo được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về chế độ tiền lương, nên pháp điển hoá để ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chế độ tiền lương của công chức ở hình thức văn bản luật như một số nước trong khu vực và trên thế giới đã làm như Thái Lan, Pháp… Luật về tiền lương sẽ quy định những vấn đề cơ bản về tiền lương, phụ cấp, cơ chế quản lý tiền lương… đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cơ sở luật này, Chính phủ sẽ ban hành các nghị định để hướng dẫn thi hành và các Bộ chức năng sẽ ban hành các thông tư để hướng dẫn cụ thể cho các đơn vị tổ chức thực hiện.

c) Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, xác định cơ cấu biên chế

Một trong những giải pháp quan trọng để có thể cải thiện và tăng lương cho các chức danh tư pháp, những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, phụ thuộc vào số lượng biên chế hưởng lương ngân sách. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, để có thể tăng được lương cho đội ngũ công chức đều phải dùng đến biện pháp cắt giảm biên chế làm việc trong bộ máy của Chính phủ hoặc bộ máy của chính quyền địa phương. Ở Việt Nam, nền kinh tế còn chưa phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm không lớn, ngân sách nhà nước thu chưa đủ chi do vậy muốn tăng lương cải thiện đời sống cho các chức danh tư pháp nói riêng thì không còn cách nào khác là phải giảm đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Muốn làm được như vậy phải từng bước nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm việc, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và cụ thể hoá nội dung, phương thức quản lý, giảm bớt các khâu trung gian, các thủ tục hành chính gây ách tắc phiền hà cho dân.

Thực hiện phân cấp quản lý biên chế cho các Bộ, ngành, địa phương gắn với kế hoạch ngân sách của Bộ, ngành và địa phương, từng bước xã hội hoá một số lĩnh vực hoạt động tư pháp như công chứng, thi hành án. Thực hiện xã hội hoá không có nghĩa là Nhà nước hạn chế sự phát triển đối với những lĩnh vực này, trái lại nó tạo điều kiện để cho các lĩnh vực này ngày càng phát triển gắn các hoạt động, hiệu quả công tác với cơ chế trả lương, giúp các đơn vị hoạt động năng động hơn, ngày càng đáp ứng yêu cầu của nhân dân.

Khi xem xét để một tổ chức ra đời phải tính đến hiệu quả hoạt động của tổ chức đó và quan trọng là con người sẽ vận hành bộ máy đó ra sao để cho nó hoạt động có hiệu quả và tiết kiệm được chi phí của Nhà nước. Muốn vậy phải xác định được trong một tổ chức có những bộ phận cấu thành nào, cần bao nhiêu biên chế cho mỗi bộ phận cấu thành đó, cơ cấu biên chế của từng tổ chức…, từ đó làm cơ sở cho việc kế hoạch hoá quỹ tiền lương của từng cơ quan, đơn vị và phục vụ cho việc tuyển dụng, thi tuyển công chức, đào tạo bồi dưỡng và nâng ngạch công chức.

d) Thực hiện nghiêm túc việc đánh giá công chức hàng năm và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, bảo đảm trả lương đúng với giá trị sức lao động.

Một bộ phận công chức tư pháp hiện nay vẫn còn yếu về chất lượng, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao và vẫn để xảy ra tình trạng oan, sai cho dân. Tuy nhiên, lương trả cho bộ phận này cũng không có gì thay đổi so với lương trả cho bộ phận công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Điều này gây ra sự bất hợp lý trong chế độ đãi ngộ khi mà lương không được trả đúng với giá trị sức lao động. Do vậy, hàng năm phải thực hịên việc đánh giá trình độ, năng lực của công chức theo tiêu chuẩn nghiệp vụ và kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với những người không đảm nhận được công việc chuyên môn nghiệp vụ đang giữ thì xem xét bố trí công tác khác thích hợp hơn hoặc giải quyết cho nghỉ theo chế độ tinh giản biên chế. Mặt khác, cần phải chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức thông qua việc thực hiện nghiêm túc chế độ tuyển dụng, bố trí, sắp xếp công chức và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của công chức ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ đã đặt ra. Có như vậy mới tạo được sự công bằng trong việc thực hiện chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với công chức và bảo đảm tiền lương được trả tương xứng với giá trị sức lao động.

e) Thực hành tiết kiệm chi ngân sách nhà nước

Thực hiện tiết kiệm dự toán chi thường xuyên hàng năm (không bao gồm chi tiền lương và phụ cấp) của các đơn vị để thực hiện cải cách tiền lương. Nguồn tiết kiệm được để lại cho các cơ quan, đơn vị để trả lương cho cán bộ, công chức.

Các đơn vị được khuyến khích tiết kiệm chi thường xuyên nhưng phải bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ được giao, không được quá thiên về tiết kiệm mà cắt xén các nhiệm vụ phải thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức, không có hiệu quả.

f) Thực hiện khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với các đơn vị trong ngành tư pháp

Việc khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với các đơn vị sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tiết kiệm trong mọi hoạt động của đơn vị. Các đơn vị sẽ được giao ổn định mức khoán trong một thời gian nhất định. Căn cứ vào số biên chế và nguồn kinh phí được khoán, các đơn vị chủ động tổ chức công việc, sử dụng biên chế và kinh phí một cách hiệu quả, tiết kiệm nhưng phải bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Đối với phần kinh phí tiết kiệm được, các đơn vị được quyền sử dụng vào một số mục đích, trong đó dành bộ phận chủ yếu tăng tiền lương chung theo quy định.

g) Sớm ban hành chính sách nhà ở đối với cán bộ, công chức

Trong tình hình hiện nay, khi chế độ tiền lương còn nhiều bất cập, tiền lương của đội ngũ công chức nói chung và công chức tư pháp nói riêng còn thấp, không đủ để bảo đảm đời sống cho bản thân và gia đình thì cần thiết phải nghiên cứu, ban hành chính sách nhà ở đối với cán bộ, công chức, nhất là các cán bộ, công chức có mức lương thấp, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác cũng như giảm bớt các biểu hiện tiêu cực trong các quan hệ công tác. Nhà nước có thể xây dựng các khu nhà chung cư riêng để dành cho công chức thuê với giá hợp lý hoặc mua trả góp trong nhiều năm.

Bên cạnh đó, cũng nên nghiên cứu, xây dựng các khu nhà công vụ để bảo đảm điều kiện ở cho các công chức thuộc diện được luân chuyển, điều động, biệt phái theo yêu cầu quy hoạch cán bộ, nhu cầu công tác hoặc cho các công chức trẻ đi thực tế ở địa phương nắm bắt tình hình và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, tạo cơ sở thuận lợi cho việc phát triển và nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.

 

Nội dung toàn văn

PHẦN MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của Đề tài.

Chế độ tiền lương Nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm điều chỉnh, cả/ cách cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc điều chỉnh chế độ tiền lương đã được thực hiện nhiều lần từ trước năm 1993 nhưng còn nhiều mâu thuẫn, bất hợp lý khi nền kinh tế đang chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đèn năm 1993, chế độ tiền lương đã được cải cách một bước cơ bản, theo hướng xoá dần bao cấp, thực hiện tiền lương gắn với giá trị lao động của từng loại đối tượng hưởng lương. Chế độ tiền lương mới đã có nhiều đóng góp vào công cuộc đổi mới kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, qua một thời gian thực hiện đến nay chế độ tiền lương hiện hành cũng đã bộc lộ những điểm chưa phù hợp, có bộ phận lương đã giảm dần ý nghĩa đòn bẩy, kích thích người lao động tích cực làm việc. Tình hình đó đã làm giảm hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, làm yếu hiệu lực quản lý của Nhà nước; tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng tăng lên; trật tự, kỷ cương bị vi phạm... Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã quán triệt quan điểm về chính sách tiền lương và yêu cầu tổng kết thực hiện chính sách tiền lương năm 1993, qua đó xác định phương hướng tiếp tục cải cách chính sách tiền lương trong giai đoạn 200 / - 2005 . Thực hiện Nghị quyết của Đảng đã đề ra, trong thời gian Nhà nước đã 2 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu vào năm 2000 và năm 200 / , theo sự gia tăng của giá cả sinh hoạt, nhưng đây mới chỉ là biện pháp trước mắt mang tính tình thế khi chưa tiến hành tổng kết được việc thực hiện chính sách tiền lương.

Là một bộ phận của chế độ tiền lương Nhà nước, chế độ tiền lương các ngạch công chức chuyên môn ngành tư pháp cũng không tránh khỏi những tồn tại, bất hợp lý của chế độ tiền lương nói chung. Trong thời gian qua, tiền lương các ngạch công chức chuyên mòn ngành Tư pháp không đảm bảo tái sản xuất sức lao động và chưa thu hút được nhân tài, chưa thực sự trở thành thước đo giá trị lao động, chưa phản ánh được đầy đủ đặc thù nghề nghiệp và tương xứng với sự đóng góp, cống hiến cũng như yêu cầu về trác nhiệm, về nhiệm vụ ngày càng mở rộng và tăng cường đối với các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp. Một số tồn tại cơ bản và cụ thể hiện nay là: - Các mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc đã được đề ra trong Đề án cải cách tiền lương năm 1993 chưa được thực hiện một cách đầy đủ;

- Mức lương tối thiểu ấn định so với nhu cầu của người lao động và mục tiêu đặt ra là quá thấp, không đủ cho nhu cầu thiết yếu của bản thân công chức;

- Việc thiết kế ngạch, thang lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp chưa hợp lý: có sự chênh lệch lớn giữa mức lương của thẩm phán, chấp hành viên cấp tỉnh và thẩm phán, chấp hành viên cấp huyện; chỉ quy định 0 / ngạch theo cấp hành chính (thẩm phán cấp tỉnh, thẩm phán cấp huyện...) hoặc chỉ quy định 01 ngạch đối với chức danh công chứng viên; mức lương của công chứng viên, thư ký còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ và trách nhiệm...

Để khắc phục những tồn tại, chưa hợp lý trong chế độ tiền lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để cải cách thang bảng lương đối với các chức danh Tư pháp phù hợp, tương xứng và công bằng là yêu cầu cấp thiết góp phần xây dựng đội ngũ công chức ngành Tư pháp ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu của Đề tài.

* Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài:

Đánh giá thực trạng chế độ tiền lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp, qua đó tìm ra những mặt hợp lý cần kế thừa và những mặt hạn chế, tồn tại cần khắc phục trong chế độ tiền lương hiện hành; - Xây dựng được các ngạch, thang, bậc lương phù hợp với đặc thù của từng loại công chức chuyên môn ngành Tư pháp;

- Đưa ra các giải pháp nhằm cải cách chế độ tiền lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, góp phần làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tính:' thần trách nhiệm và hiệu suất công tác.

* Phạm vi nghiên cứu của Đề tài:

Đề tài nghiên cứu thực trạng chế độ lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp gồm: Thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký, chấp hành viên và công chứng viên.

3- Phương pháp nghiên cứu của Đề tài.

Trong quá trình nghiên cứu Đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê Nin (chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng); đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh, hệ thống, thống kê... trên cơ sở những kết quả thu được từ các hoạt động điều tra, khảo sát thực tiễn và nghiên cứu lý luận. . .

4- Tình hình nghiên cứu trong nước.

Thực hiện Đề án cải cách chính sách tiền lương Nhà nước năm 1 993 , BỘ Tư pháp đã có các công trình nghiên cứu để đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền về cải cách chế độ tiền lương đối với công chức ngành Tư pháp.

Bên cạnh đó, trong thời gian qua, trên một số báo, tạp chí của ngành có đăng một số bài nghiên cứu, trao đổi của một số tác giả đề cập đến tình hình lương và thu nhập của một số chức danh tư pháp Ở từng khía cạnh cụ thể về mức lương, chế độ phụ cấp nghề nghiệp . . .

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên chưa đánh giá được toàn diện và phản ánh hết giá trị lao động, sự đóng góp của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp và yêu cầu nhiệm vụ, đòi hỏi trách nhiệm đối với các công chức này. Việc xác định ngạch, thang; bậc lương của các chức danh Tư pháp chưa được đặt trong mối quan hệ tổng thể với các ngạch công chức khác trong mỗi cơ quan, trong toàn ngành nói riêng và trong khu vực hành chính sự nghiệp nói chung, vì vậy chưa đảm bảo được tính hợp lý, công bằng và tương xứng trong chế độ lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp.

5. Tóm tắt nội dung nghiên cứu của Đề tài và các hệ chuyên đề nghiên cứu.

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng các ngạch, bậc lương đối với công chức khu vực hành chính sự nghiệp;

Đánh giá thực trạng ngạch, thang, bậc lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp;

- Tham khảo chính sách, chế độ tiền lương của các chức danh Tư pháp Ở một số nước;

- Xây đựng ngạch, thang, bậc lương phù hợp với đặc thù của từng ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp;

- Đưa ra kiến nghị ~ các giải pháp nhằm cải cách chế độ tiền lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp trong thời gian tới .

* Các hệ chuyên đề.

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng ngạch, thang, bậc lương công chức hành chính sự nghiệp;

2- Khái quát về chế độ lương, đặc thù nghề nghiệp và phương hướng cải cách chế độ lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp trong thời gian tới;

3- Thực trạng và phương hướng cải cách chế độ lương của thẩm phán; 4- Thực trạng và phương hướng cải cách chế độ lương của thư ký TA; 5- Thực trạng và phương hướng cải cách chế độ lương của thẩm tra viên; 6- Thực trạng và phương hướng cải cách chế độ lương của chấp hành viên; 7- Thực trạng và phương hướng cải cách chế độ lương của công chứng viên;

8- Chính sách, chế độ tiền lương các chức danh Tư pháp của một số nước trên thế giới;

9- Một số bài viết của các cơ quan tư pháp địa phương về chế độ lương của ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp cụ thể.

* Nội dung cơ bản của các chuyên đề.

Cơ sở lý luận của việc xây dựng thang bảng lương công chức hành chính sự nghiệp và một số chức danh tư pháp;

Thực trạng chế độ tiền lương của một số chức danh tư pháp; Đánh giá những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trong việc thực hiện chế độ tiền lương của công chức hành chính sự nghiệp và một số chức danh tư pháp;

- Các nguyên tắc, quan điểm và yêu cầu cần quán triệt khi xây dựng thang bảng lương mới của một số chức danh tư pháp;

- Phương hướng xây dựng thang bảng lương mới của một số chức danh tư pháp;

- Một số nội dung khác theo đặc thù của từng chuyên đề.

6- Kết quả đạt được của Đề tài-

Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài;

- Các chuyên đề nghiên cứu độc lập;

- Các đề xuất của Nhóm thực hiện Đề tài

Kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ là cơ sở khoa học, thực tiễn để đề xuất với Đảng và Nhà nước cải cách chế độ tiền lương đối với một số chức danh Tư pháp.

 

BÁO CÁO PHÚC TRÌNH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOẠI CÔNG CHỨC CHUYÊN MÔN NGÀNH TƯ PHÁP.

Tiền lương là một phạm trù thuộc lĩnh vực phần phối sản phẩm xã hội. Phân phối lại là khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất. Do đó, vấn đề tiền lương không chỉ là vấn đề thu nhập và đời sống, cũng không chỉ là vấn đề của sự tồn lại và phát triển đất nước. Chính vì vậy, trong kinh tế học nói chung và trong quá trình phát triển của từng giai đoạn cụ thể nói riêng, tiền lương luôn luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm.

Chủ nghĩa Mác - Lê nin cho rằng: Tiền lương, tiền công có quan hệ mật thiết với quá trình phân phối. Phân phối cho tiêu dùng cá nhân là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Nó có quan hệ trực tiếp tới việc bồi dưỡng thể lực, trí lực của người lao động - nhân tố cơ bản của lực lượng sản xuất xã hội, song phân phối có ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng vời nó. Quan hệ sản xuất như thế nào, thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ trao đổi tư liệu cho nhau.

Dưới chủ nghĩa tư bản, tư liệu sản xuất đều thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản, còn giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất mà họ có sức lao động làm thuê cho nhà tư bản. Do đó, phân phối trong xã hội tư bản tất nhiên có lợi cho giai cấp tư sản nhằm đem lại giá trị thặng dư cho các nhà tư bản dưới hình thức lợi nhuận, lợi tức, địa tô... còn người lao động chỉ nhận được tiền công, tức là tiền bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Như vậy, trong xã hội tư bản, sức lao động biến thành hàng hoá nên tiền công chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của sức lao động. Song như Mác nói "Tiền công không phải là giá trị hay giá cả của sức lao động mà chỉ là hình thức cải trang của giá trị hay giá cả sức lao động... Tiền công chỉ là cái tên riêng dùng để chỉ giá cả sức lao động, mà người ta thường gọi là giá cả của lao động, nó chỉ là cái tên dùng để gọi giá cả của thứ hàng hoá đặc biệt đó, thứ hàng hoá chỉ tồn tại trong thịt và máu của con người mà thôi" (Lao động và làm thuê tư bản - Các Mác, tập 1, tr 85).

Như vậy, tiền công của nhà tư bản trả cho công nhân nhìn bề ngoài rất sằng phẳng nhưng kỳ thực nó đã che dấu một phần lao động thặng dư mà nhà tư bản cướp không của công nhân lao động, do giá cả sức lao động biểu hiện qua tiền công thường nhỏ hơn giá cả sức lao động của người công nhân đã bỏ ra.

Đối với chủ nghĩa xã hội, do bản chất của chế độ, việc phân phối không chỉ là để tái tạo sức lao động như cũ mà phải tạo ra những người lao động phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, tạo ra những sức lao động mới có chất lượng cao. Để làm được được này, chúng ta phải coi tiền lương trước hết là yếu tố của quá trình sản xuất, nó không phải là yếu tố tiêu dùng đơn thuần, càng không phải là thứ trợ cấp xã hội mà thuộc về phạm trù sản xuất. Tiền lương là mộ phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được Nhà nước phân phối có hố hoạch phò hợp với số lượng, chất lượng lao động mà họ bỏ ra.

Liên quan đến vấn đề tiền lương và giá trị sức lao động trong mối quan hệ lô lúc mà chúng tôi đề cập đến đó là vấn đề đặc thù lao động của cán bộ công chức và chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức được đặt ra nghiên cứu trong phạm vi đề tài này.Cán bộ, công chức ngành Tư pháp hiểu theo nghĩa rộng gồm: Cán bộ, công chức công tác trong cơ quan Tư pháp thuộc hệ thống hành pháp, quản lý hành chính Nhà nước và một số chức danh Tư pháp trong hệ thống tố tụng được hiểu là: những người được tuyển dụng, bổ nhiệm để thực hiện công vụ trong các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Do có xuất phát điểm khác nhau nên ví trí, tính chất tác nghiệp của các cán bộ, công chức và một số chức danh Tư pháp này cũng khác nhau. Cán bộ, công chức công tác trong cơ quan Tư pháp thuộc hệ thống hành pháp quản lý hành chính Nhà nước, quản lý, xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, còn một số chức danh Tư pháp trong hệ thống tố tụng là những cán bộ lao động đặc thù (bản chất của lao động có mối quan hệ chặt chẽ với chức danh), liên quan trực tiếp tới việc bảo vệ quyền, lợi ích công dân và các quyền khác gắn với nhân thân của công dân khi họ tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể. Do đó, các chế độ, chính sách đối với một số chức danh Tư pháp cũng có những điểm khác biệt và được quy .:định rất cụ thể trong các văn bản pháp luật từ Hiến pháp đến các văn bản khác có liên quan.

Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu về chế độ tiền lương của một số loại cán bộ, công chức Tư pháp có nghề nghiệp đặc thù thể hiện rõ nét qua lao động tác nghiệp của họ, bao gồm: Thẩm phán, Thư ký toà án, Thẩm tra viên, Chấp hành viên, Công chứng viên, Hộ tịch viên.

Xét trong tổng thể chung cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức Tư pháp là một bộ phận của cán bộ công chức nói chung, chính vì vậy mà nghiên cứu cải cách chế độ tiền lương của cán bộ, công chức đặc thù này phải đặt trong tổng thể quy định chung (khung lương chung) của cán bộ công chức. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tiền lương đối với một số loại công chức chuyên môn ngành tư pháp phải đuợc đặt trong nghiên cứu lý luận tổng thể về cán bộ, công chức và chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức.

1. Một số lý luận về cán bộ, công chức và chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức.

1.1. Một số vấn đề lý luận về cán bộ, công chức.

1.1.1. Cán bộ, công chức theo cách hiểu của khoa học xã hội, lý luận quản lý.

Cán bộ, công chức là khái niệm chung chỉ bộ phận những người có chức vụ hay được bổ nhiệm một công tác trong hệ thống chính trị ở nước ta. Trong khoa học xã hội, lý luận quản lý, khái niệm cán bộ công chức đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau và cũng đang tồn tại nhiều cách hiểu không hoàn toàn giống nhau. Mặt khác, cán bộ, công chức khi nghiên cứu thường được gắn trong cụm từ “Cán bộ, công chức, viên chức” hoặc “cán bộ, viên chức nhà nuớc” hoặc “Cán bộ, công nhân, viên chức”. Để góp phần giúp cho việc lý giải những nội dung liên quan đến chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức nói chung cũng như đối với cán bộ, công chức chuyên môn ngành tư pháp nói riêng, việc nghiên cứu làm rõ nội dung khái niệm cán bộ, công chức, viên chức là cấn thiết.

a) Cán bộ: Được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc trong thời kỳ đầu cách mạng, được dùng phổ biến trong kháng chiến chống pháp. Ban đầu, “Cán bộ” được dùng nhiều trong quân đội, để chỉ những người có chức vụ lãnh đạo, chỉ huy trong các đơn vị quân đội (từg tiểu đội phó trở lên). Dần dần, khái niệm cán bộ, công chức được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến (để phân biệt với nhân dân). Dù cách hiểu, cách dùng khác nhau, những về cơ bản, từ “Cán bộ” bao hàm nhiều nghĩa chính là những người giữ vai trò chỉ huy, nòng cốt, khung lãnh đạo trong cơ quan, đơn vị. Ở một số nước, từ “Cán bộ” cũng được dùng với nghĩa chính như ở Việt Nam. Ví dụ: ở Nhật Bản, “Cán bộ” là những người có chức vụ lãnh đạo  (dù nhỏ), người hạng cao, yếu nhân, nhân vật quan trọng; ở Pháp, Anh “cán bộ” là những người chỉ huy là nòng cốt trong cơ quan, tổ chức.

Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, từ “Cán bộ” được dùng thay thế từ “Công chức”,  “Viên chức”, để chỉ những người tham gia hoạt động thoát ly, làm việc trong toàn bộ hệ thống chính trị (Các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, Đoàn thể) bao gồm: những người được bầu cử, hoặc được giao đảm nhiệm một công tác chuyên trách, có hưởng lương trong các cơ quan, tổ chức đảng, đoàn thể, những người là cán bộ chỉ huy trong đơn vị quân đội nhân dân. Trong các cơ quan nhà nước, “Cán bộ” chỉ những người được giao nhiệm vụ, công vụ hưởng lương ở trong biên chế (trùng với “Công chức”).

b) Công chức: Nhiều quốc gia quan niệm “Công chức” là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một vị trí công tác trong cơ quan công quyền, hưởng lương từ ngân sách (trừ nhân viên phục vụ). Đội ngũ công chức làm việc trong hệ thống cơ quan Nhà nước, thực thi công vụ theo các quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ, là bộ phận quan trọng của nền hành chính quốc gia. Trong khoa học xã hội, quan điểm chung đều coi công chức là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, viên chức công tác trong hệ thống chính trị, đảm trách việc thực thi công quyền, quản lý nhà nước đối với các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội.

c) Viên chức: Cũng là một khái niệm được dùng nhiều, xác định rõ nội hàm khái niệm “Viên chức” giúp cho việc hiểu đúng, đầy đủ hơn khái niệm “Cán bộ, Công chức” đã nêu trên.

“Viên” là người làm việc “chức” là có chức danh, chức vụ. “Viên chức” thông thường được dùng với nội hàm rộng hơn Công chức, bao hàm trong đó cả những cả những người được coi là công chức (Công chức là một bộ phận của Viên chức). Hơn nữa, một số người làm việc trong mộ số tổ chức tư nhân cũng được coi là Viên chức (Viên chức hoả xa, bưu chính, cầu đường..v..v..).

1.1.2. Cán bộ, công chức theo quy định của hệ thống pháp luật thực định ở Việt Nam.

Có thể viện dẫn một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cở nước ta để tìm hiểu Khái niệm “Cán bộ, Công chức” như: Hiến pháp, Pháp lệnh cán bộ, công chức, các Nghị định của Chính phủ..v..v...

- Theo Hiến pháp 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều Hiến pháp 1992, Khái niệm “Công chức” không được sử dụng (trong Hiến pháp không có Điều nào sử dụng từ “Công chức”)

Điều 8 Hiến pháp quy định “Cán bộ, Viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân” ; Điều 9 quy định “đại biểu dân cử và Cán bộ, viên chức nhà nước”; Điều 10 quy định “Cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác”; Điều 56 quy định “Viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương”; Điều 96 quy định “thành viên Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức nhà nước hữu quan khác...”.

Từ nội dung quy định tại 5 Điều  của Hiến pháp, có thể thấy rằng: cụm từ “Cán bộ, viên chức nhà nước” được sử dụng tương đối nhất quán, có khi kèm thêm “đại biểu dân cử”, “công nhân”, và một số chức danh bầu cử khác.

- Theo pháp lệnh cán bộ công chức, theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh Cán bộ, Công chức năm 2003 thì: Cán bộ, công chức là công dân Việt Nam trong biên chế, bao gồm các nhóm sau:

1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong hệ thống chính trị;

2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức đảng, đoàn thể đến cấp huyện;

3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước cấp huyện hoặc giao giữ một chức danh chuyên môn ở cấp xã;

4. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp;

5. Thẩm phán toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;

6. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên trong lực lượng vũ trang;

Như vậy, theo quy định này, cán bộ, công chức Tư pháp thuộc nhóm: 3, 5 trong số các nhóm cán bộ, công chức nêu trên. Cũng có một bộ phận cán bộ, ông chức tư pháp đang công tác trong lực lượng vũ trang dược hưởng chế độ chính sách lương nhà nước quy định cho lực lượng vũ trang.

Với vị trí, tính chất nghiệp vụ do luật định, các bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức tư pháp được hưởng chế độ lương như thế nào?

1.2. Chế độ lương của cán bộ, công chức.

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Điều 56 quy định: "… Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương…). Cụ thể hoá Hiến pháp là các văn bản pháp luật quy định cụ thể về thang, bảng lương đối với từng ngành nghề, đối với từng loại cán bộ, công chức nhà nước trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách của Nhà nước.

Để xây dựng thang, bảng lương phù hợp đối với từng loại cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước nói chung, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách tiền lương đã căn cứ vào đặc điểm lao động và đưa ra các nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho việc xây dựng chế độ tiền lương đối với công chức này.

- Về đặc thù lao động:

- Khác với những người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động, công chức là những người được tuyển dụng vào làm việc trong một cơ quan Nhà nước. Khi tuyển dụng chính thức, công chức được làm việc đên hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp thôi việc, nghỉ việc,..);

- Công chức là những người làm chuyên môn, được xếp vào một ngạch với vị trí, việc làm ổn định trong một cơ quan Nhà nước;

- Công chức là công bộc của dân là người có tư cách pháp lý trong khi thi hành công vụ, ở vị trí chủ thể quản lý xã hội, ít nhiều đều nắm giữ trọng trách, do đó, trong công việc đòi hỏi phải công tâm, tận tuỵ phục vụ lợi ích chung, không được lợi dụng nghề nghiệp để kiếm lời, hoặc để thu nhập bất chính. Cán bộ, công chức chỉ sống bằng lương do ngân sách Nhà nước trả, mọi thu nhập ngoài lương phải chịu sự kiểm soát của Nhà nước.

- Lao động của cán bộ công chức là lao động "chất xám" phức tạp, thực hiện chức năng tổ chức quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý. Sản phẩm lao động không thể đánh giá ngay được mà phải đưa vào thực hiện, áp dụng trong thực tế mới có thể đánh giá được.

-Từ những đặc điểm lao động của cán bộ, công chức cho thấy: lao động của cán bộ, công chức là lao động có tính đặc thù, toàn bộ quỹ thời gian, tâm sức của họ đều tập trung vào công tác chuyên môn và quản lý điều hành công việc chung và họ (những cán bộ, công chức này) hoàn toàn chịu trách nhiệm cá nhân về những sai phạm của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao phó. Đặt trong bối cảnh hiện nay của đất nước, chúng ta thấy rằng những gì mà cán bộ, công chức đã và đang cố gắng cống hiến là vì lợi ích nước nhà, vì dân giầu, nước mạnh, vì xã hội công bằng, văn minh và vì một thế hệ tương lai tươi sáng. Xét về điều kiện vật chất thực tế mà cán bộ, công chức này được hưởng theo quy định chung là còn có nhiều vấn đề cần phải xem xét thấu đáo: những điều kiện này có tương sứng không? Có bảo đảm tái sản xuất sức lao động không? Có bảo đảm các điều kiện sinh hoạt không? điều này cần phải được coi là một vấn đề quan trọng để hoạch định chính sách đãi ngộ, trả thù lao lao động phù hợp đáp ứng điều kiện phát triển kinh tế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Vậy, chế độ tiền lương của cán bộ, công chức được quy định trên cơ sở nguyên tắc nào?

- Một số nguyên tắc cơ bản làm căn cứ xây dựng chế độ tiền lương, bao gồm:

Việc đưa ra những nguyên tắc này được xem xét trên bình diện tổng quát có tính đến tất cả các yếu tố ảnh hưởng, chi phối, tác động của điều kiện phát triển kinh tế đất nước đến lương của cán bộ, công chức, cụ thể:

Thứ nhất, phải có sự kết hợp giữa chính sách đãi ngộ với các tập quán, thói quen công tác, các thang giá trị theo mục tiêu công tác chiến lược của tổ chức;

Thứ hai, việc trả lương theo lao động nhằm bù đắp hao phí và để tái sản xuất sức lao động cho người làm việc trong cơ quan Nhà nước;

Thứ ba, trong điều kiện có những cung cầu về lao động đối với một số nghề có ảnh hưởng đến nhân sự của cơ quan          nhà nước, chính sách tiền lương phải thu hút, khuyến khích được công chức vào làm việc trong các cơ quan Nhà nước và một số ngành có nhu cầu về nhân lực;

Thứ tư, tiền lương phải được bảo đảm duy trì và đãi ngộ để tiền lương và các chế độ đãi ngộ thực sự khích lệ người lao động;

Thứ năm, đánh giá công tác gắn với việc trả lương với kết quả công tác;

Thứ sáu, liên tục cải tiến chế độ đãi ngộ và trả lương theo sự phát triển của tổ chức và phát triển chung của xã hội;

Thứ bảy, thiết kế thang, bảng lương, hệ số mức lương phải thể hiện mối tương quan hợp lý về độ phức tạp lao động, đảm bảo tính ổn định, đơn giản, dễ nhớ để khi có sự biến động về giá cả thị trường chỉ cần điều chỉnh mức lương tối thiểu mà không thay đổi cả hệ thống thang lương, bảng lương.

Căn cứ vào đặc thù lao động và các nguyên tắc cơ bản về xây dựng lương đối với cán bộ, công chức của Đảng và Nhà nước ta là phù hợp, tuy nhiên, đặt trong bối cảnh hiện nay của đất nước, chúng ta cũng phải xem xét, tính toán kỹ lượng về tiền lương hiện nay của cán bộ, công chức có còn phù hợp không? Cần có những sửa đổi gì?

2. Một số vấn đề lý luận về một số chức danh tư pháp và chế độ tiền lương đối với một số một số chức danh tư pháp.

2.1. Một số chức danh tư pháp và những đặc thù lao động của những người này.

Như đã trình bày ở phần trên, cán bộ, công chức Tư pháp là một bộ phận của cán bộ, công chức Nhà nước, căn cứ vào phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tập trung ngiên cứu đặc thù lao động của một số cán bộ, công chức Tư pháp như : Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký phiên toà, Chấp hành viên, Công chứng viên và Hộ tịch viên. Lao động của cán bộ, công chức Tư pháp cũng là lao động "chất xám" nhưng nó có tính chất đặc thù được quyết định bởi chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức này, cụ thể:

+ Thẩm phán Toà án nhân dân, là một ngạch công chức trong hệ thống ngạch công chức nhà nước và được điều chỉnh bởi Pháp lệnh cán bộ công chức. Hoạt động của Thẩm phán là một hoạt động đặc thù mang tính quyền lực Nhà nước “độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 130 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và thực hiện một số hoạt động tố tụng khác do pháp luật quy định.

Tiêu chuẩn để trở thành Thẩm phán cũng rất khắt khe, theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, thì tiêu chuẩn để trở thành Thẩm phán là phải có phẩm chất đạo đức tốt, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của Pháp lệnh này, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao và có thời gian công tác pháp luật từ 4 năm trở lên, có năng lực làm công tác xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp huyện; đã là thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp huyện, thẩm phán của Tòa án quân sự khu vực ít nhất là 5 năm, có năng lực làm công tác xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh... hoặc có thời gian công tác pháp luật từ 10 năm trở lên,  thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; đã là thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thẩm phán của Tòa án quân sự quân khu ít nhất là 5 năm, có năng lực làm công tác xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao... hoặc có thời gian công tác pháp luật từ 15 năm trở lên,  thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao (Điều 20, 21, 22, 23 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002). Ngoài các tiêu chuẩn trên Thẩm phán còn phải có đạo đức nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm, không sử dụng kiến thức, kinh nghiệm của mình nhằm mục đích tư lợi.

+ Thẩm tra viên, là công chức chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực thẩm tra, giúp lãnh đạo Toà án trực tiếp thực hiện thẩm tra các vụ án theo sự phân công của Lãnh đạo Tòa án (trước đây chưa có chức danh thẩm tra viên, cán bộ làm công tác thẩm tra này được coi như là một chuyên viên, cho đến năm 1993 thì thuật ngữ Thẩm tra viên mới xuất hiện trong ngành Toà án).

+ Thư ký Tòa án là chức danh pháp lý được quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, có nhiệm vụ ghi biên bản trong các phiên tòa xét xử về hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa, vai trò quan trọng, đòi hỏi mọi diễn biến phiên tòa đều phải được phản ánh trong văn bản bút ký phiên tòa. Ngoài việc ghi bút ký phiên tòa, thư ký tòa án còn được phân công làm các công việc chuẩn bị cho xét xử như: nhận hồ sơ vào sổ thụ lý; viết giấy báo, giấy mời cho những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật; tống đạt giấy báo, quyết định đưa vụ án ra xét xử; làm quyết định trích sao bản án, quyết định của Tòa án v.v... Với tính chất công việc nêu trên, tiêu chuẩn để trở thành thẩm phán cũng tương đối jkhắt khe, như: phải có bằng cử nhân luật, phải được đào tạo nghề thư ký Tòa án, nắm vững kiến thức pháp luật, có phẩm chất đạo đức, có sức khỏe...

+ Chấp hành viên là cán bộ thi hành án chịu trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích của đương sự trên thực tế. Theo quy định của pháp luật, thì các cơ quan thi hành án dân sự có chấp hành viên, chấp hành viên trưởng, cán bộ làm công tác thi hành án.

Tiêu chuẩn để trở thành chấp hành viên,, theo quy định tại Điều 13 Nghị định 30-CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên, Chấp hành viên phải có các tiêu chuẩn chung như sau: trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, khách quan, có phẩm chất đạo đức tốt; có kiến thức pháp lý cần thiết; nắm vững nghiệp vụ thi hành án; có sức khoẻ để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chấp hành viên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải có các tiêu chuẩn chung còn phải có trình độ đại học pháp lý hoặc tương, đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án, ó thâm niên công tác luật từ ba năm trở lên, hoặc đã làm chấp hành viên quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ít nhất là hai năm. Chấp hành viên quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có các tiêu chuẩn chung còn phải có trình độ đại học pháp lý hoặc tương đương, đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án.

+ Công chứng viên là công chức nhà nước, trực tiếp thực hiện các việc chứng thực đúng pháp luật và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những việc công chứng do mình thực hiện.

Về tiêu chuẩn của Công chứng viên: tốt nghiệp đại học pháp lý; qua bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng do Bộ Tư pháp quy định; nắm vững đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước và quy định của ngành tư pháp có liên quan đến công việc được giao; nắm vững các nguyên tắc, quy định nghiệp vụ công chứng...

Như vậy, có thể thấy rằng lao động của những cán bộ, công chức này liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ các quyền và lợi ích cơ hợp pháp của công dân, trật tự an toàn pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ở mức độ khái quát, có thể nêu một số đặc thù trong hoạt động của cán bộ, công chức chuyên môn ngành Tư pháp như sau:

Thứ nhất, lao động của cán bộ, công chức chuyên môn ngành Tư pháp là lao động trí não, đầy khó khăn, đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của người dân. Chẳng hạn: Trong xét xử, Thẩm phán phải xem xét các tình tiết của vụ án, phân tích các cơ sở pháp lý và áp dụng các quy định pháp luật một cách đầy tinh thần trách nhiệm để đưa ra phán quyết đối với một trường hợp cụ thể trực tiếp liên quan đến thân phận, quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Hoạt động xét xử của Thẩm phán được đặt trong sự giám sát từ mọi phía: từ phía xã hội thông qua cơ chế xét xử công khai, từ phía người dân thông qua nguyên tắc xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, từ phía Toà án cấp trên thông qua thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm... Đặc trưng này đòi hỏi công chức chuyên môn ngành Tư pháp phải được đào tạo cơ bản, phải thường xuyên học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, phải tận lực với ngành Tư pháp.

Thứ hai, lao động của cán bộ, công chức chuyên môn ngành Tư pháp trực tiếp bảo vệ công lý. Nó đòi hỏi cán bộ, công chức chuyên môn ngành Tư pháp phải công bằng, vô tư, khách quan. Để đạt được yêu cầu khắt khe đó, cán bộ, công chức chuyên môn ngành Tư pháp phải luôn luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức, phải nghiêm khắc với mình. Nói một cách khái quát, đặc thù này đòi hỏi cán bộ, công chức chuyên môn ngành Tư pháp phải tận tâm với nền công lý vì lợi ích của con người.

Thứ ba, lao động của cán bộ, công chức chuyên môn ngành Tư pháp là lao động đòi hỏi phải phục tùng nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Muốn vậy, cán bộ công chức chuyên môn ngành Tư pháp phải có bản lĩnh, dũng cảm đấu tranh với mọi sự can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của mình vì công lý. Đây là một yêu cầu nghề nghiệp rất cao.

Xuất phát từ dặc thù nghề nghiệp, nhưng lại đặt trong tổng thể chung cán bộ, công chức của nhà nước ta, chế độ chính sách và các chế độ khác của cán bộ, công chức tư pháp cũng bị chi phối trong tổng thể chung đó. Tuy nhiên, có tính đến tích chất, mức độ lao động, nhưng vẫn không vượt khung chung của chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức nói chung. Vậy thì, căn cứ vào tổng thể chung đó, cần xây dựng chế độ chính sách đối với đối với một số chức danh tư pháp cho phù hợp với tính chất, nhiệm vu của các chức danh này.

2.2. Chế độ lương đối với một số chức danh tư pháp.

Chế độ lương đối với một số chức danh tư pháp được xác định theo nguyên tắc khung lương chung của cán bộ, công chức nhà nước. Tuy nhiên, ngoài chế độ lương ra họ còn được hưởng thêm các khoản phụ cấp khác như phụ cấp dưỡng liêm, phụ cấp trách nhiệm…Đặt trong mặt bằng chung thì chế độ lương mà các cán bộ, công chức hiện đang được hưởng tưởng chừng như là hợp lý, nhưng xét trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của nhà nước ta hiện nay và xét trong bối cảnh toàn cầu hoá thì chế độ lương đối với cán bộ, công chức này đang nảy sinh những bất hợp lý. Chúng ta, đặt ra các tiêu chuẩn rất khắt khe khi tuyển dụng, bổ nhiệm họ và tôn vinh nghề nghiệp của họ là nghề cao quý, bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, công bằng, khách quan, chí công, vô tư và bảo đảm một nền pháp chế vững mạnh được toát lên từ những công việc đó. Song nhìn nhận lại các chế độ đãi ngộ nghề nghiệp thì phải chăng nó chưa đáp ứng, chưa phù hợp. Cán bộ, công chức này đã phải lao tâm, tận tuỵ với nghề mà họ lực chọn và họ phải có đủ điều kiện mới được tuyển dụng, bổ nhiệm. Công việc mà họ gánh vác hàng ngày là trách nhiệm, là quyền lợi và là sự tôn nghiêm của pháp luật. Để đáp ứng với những đòi hỏi trong tác nghiệp họ luôn luôn phải trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật các thông tin pháp luật mới liên quan đến việc giải quyết các vụ việc phức tạp. Có thể nói rằng quỹ thời gian của họ hầu như dành hết cho công việc của cơ quan, họ rất khó có thể sắp xếp thời gian để có thể làm thêm một việc gì đó để tạo thu nhập cho gia đình.

Bảo đảm bằng chế độ tiền lương tương ứng với giá trị sức lao động cũng như vị trí công tác là một yếu tố cần thiết. Bởi, nếu như lương bảo đảm sẽ triệt tiêu được những cám dỗ của đồng tiền trong khi giải quyết công việc ví dụ: nhận tiền chạy án, làm sai pháp luật khi cưỡng chế thi hành án, tham nhũng, nhận hối lộ… (đã đưa tin trên một số báo).

Theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách tiền lương cho rằng: Tiền lương hiện nay chưa thúc đẩy cải cách hành chính và xã hội hoá dịch vụ công, chưa góp phần xứng đáng vào việc chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; tiền lương không thành động lực khuyến khích cán bộ, công chức làm việc và tiền lương làm cho cơ quan nhà nước không thu hút được nhân tài, cụ thể:

- Tiền lương thực tế giảm sút, không đủ trang trải cho các nhu cầu thiết yếu. Tiền lương không đảm bảo tái sản xuất sức lao động, không có ý nghĩa đòn bẩy (động lực), kích thích người lao động tích cực làm việc, nâng cao hiệu suất. Đây là vấn đề bức bách nhất hiện nay.

Do tiền lương chưa đảm bảo cuộc sống nên cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công chức và bản thân công chức, công nhân viên phải tìm kiếm thêm thu nhập ngoài lương. Tình trạng khá phổ biến là thu nhập ngoài lương ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập của họ. Chênh lệch về thu nhập ngoài lương giữa các ngành, các cơ quan, đơn vị rất lớn.

- Tiền lương quá bất hợp lý giữa các khu vực hành chính, sự nghiệp, sản xuất kinh doanh. Sự chênh lệch về giá cả sức lao động trên thị trường và giữa các khu vực ngày càng dãn rộng đã thu hút người có trình độ, năng lực ở khu vực hành chính ra làm việc ở khu vực sản xuất kinh doanh.

Việc đánh đồng cơ chế giải quyết tiền lương cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước (bao gồm: cán bộ, công chức làm việc ở các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể) với những cán bộ, công chức làm việc ở khu vực dịch vụ công (thường gọi là sự nghiệp) là không hợp lý vì 2 loại có những yêu cầu rất khác nhau.

- Tiền lương chưa gắn với năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sắp xếp tổ chức, tiền lương không thành động lực của người lao động, không  khuyến khích cán bộ, công chức làm việc, cơ quan nhà nước không thu hút được nhân tài. Điều này cho thấy chúng ta chưa có chính sách tài chính, cơ chế quản lý biên chế, tiền lương và thu nhập phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động nói chung, cho lĩnh vực hoạt động sự nghiệp – một lĩnh vực có hoạt động rộng lớn ảnh hưởng trong toàn xã hội. Tiền lương chưa thúc đẩy cải cách hành chính và xã hội hoá các dịch vụ công, chưa góp phần xứng đáng vào việc chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.

Cải cách cơ bản chế độ tiền lương nói chung và chế độ tiền lương đặc thù công chức chuyên môn ngành tư pháp nói riêng là một trong những vấn đề cơ bản quan trong mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong những năm tới thực sự đã trở thành một đòi hỏi khách quan, một yêu cầu bức xúc của toàn xã hội thì chúng ta phải hết sức quan tâm đến vần đề tiền lương và các chế độ phụ cấp khác đối với các công chức có nghề nghiệp đặc thù, một mặt giúp họ trang trải các khoản phí sinh hoạt hàng ngày cho gia đình, tái tạo sức lao động, mặt khác để họ chuyên tâm, dốc sức vào công việc chuyên môn và tích cực đấu tranh trước những biểu hiện tiêu cực.

Như vậy, khắc phục những tồn tại, bất hợp lý về chế độ lương của cán bộ, công chức nói chung và một số chức danh tư pháp Tư pháp nói riêng trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài Đảng và Nhà nước ta cần phải có sự nghiên cứu hoạch định chính sách lương phù hợp, đáp ứng được những yêu cầu phát triển toàn diện của đất nước.

3. Kết luận

Từ những lập luận, phân tích ở trên về cán bộ, công chức nói chung và một số chức danh tư pháp nói riêng, cũng như chế độ lương đối với các cán bộ, công chức này, có thể đưa ra một số kết luận như sau:

- Một số chức danh tư pháp là một bộ phận quan trọng của cán bộ công chức nói chung;

- Lương của một số chức danh tư pháp là một bộ phận quan trọng của lương cán bộ công chức;

- Cải cách lương của một số chức danh tư pháp đặt trong tổng thể cải cách lương chung của Nhà nước ta, do đó, cải cách chế độ lương của cán bộ công chức nói chung và chế độ lương của một số chức danh tư pháp có ảnh hưởng lẫn nhau. Chế độ lương tổng thể chi phối, quy định lương của một số chức danh tư pháp do đó, cải cách lương của một số chức danh tư pháp chịu tác động của cải cách tổng thể lương chung.

- Do đặc thù nghề nghiệp của một số chức danh tư pháp mà việc cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ này phải có những nguyên tắc, định hướng riêng cho phù hợp với đặc điểm lao động của đội ngũ cán bộ công chức này.

II- THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG CÔNG CHỨC CHUYÊN MÔN NGÀNH TƯ PHÁP.

  1. Khái niệm công chức Tư pháp, đặc thù nghề nghiệp công chức chuyên môn ngành Tư pháp.
    1. Khái niệm.

Chế độ công chức ra đời ở các nước tư bản phương Tây vào nửa cuối thế kỷ XIX, nó phản ánh nhu cầu khách quan của lịch sử phát triển Nhà nước. Sau cuộc cách mạng công nghiệp, sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở các nước tư bản là động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển chế độ công chức.

Tại Việt Nam, năm 1950, lần đầu tiên Chính phủ Việt nam ban hành quy chế công chức theo sắc lệnh 76/SL. Tuy sắc lệnh này không chỉ rõ phạm vi của công chức, nhưng căn cứ vào định nghĩa và mục quản trị, sử dụng cho thấy công chức chủ yếu là những người làm việc trong bộ máy Nhà nước ở Trung ương. Những người làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương không phải tất cả đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Sắc lệnh 76/SL. Trong giai đoạn chiến tranh, quy chế công chức theo Sắc lệnh 76/SL không được thực hiện đầy đủ mà chuyển sang thực hiện theo chế độ cán bộ bao gồm cán bộ, viên chức thuộc khu vực hành chính sự nghiệp và công nhân, viên chức, cán bộ thuộc khu vực sản xuất kinh doanh và trong các lực lượng vũ trang.

Sau suốt một khoảng thời gian dài, đến năm 1991, Nghị định số 169 về công chức Nhà nước của Hội đồng Bộ trưởng được ban hành, trong đó quy định khá rõ về phạm vi công chức. Nghị định này đã tạo tiền đề cho việc ban hành Quy chế công chức hai năm sau đó.

Năm 1993, nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý lao động trong khu vực hành chính, sự nghiệp và phù hợp với giai đoạn phát triển mới, Nhà nước ta đã ban hành Quy chế công chức. Đến năm 1998, Nhà nước ta ban hành Pháp lệnh cán bộ công chức, là cơ sở để tiến tới tuyển chọn đúng, sử dụng có hiệu quả các công chức làm việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước, từng bước xây dựng đội ngũ công chức có nghiệp vụ thành thạo, xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước vững mạnh đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn mới.

Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh cán bộ công chức năm 2003 thì khái niệm cán bộ công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế bao gồm:

1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);

2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;

3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;

4. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

5. Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;

6. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong  cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp;

7. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);

8. Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.

Căn cứ theo khái niệm trên, công chức chuyên môn ngành Tư pháp là công chức thuộc nhóm 3 và 5, và thực hiện các công việc liên quan đến lĩnh vực Tư pháp.

Việc phân loại các công chức là điểm khởi đầu của công tác hành chính nhân sự, là công cụ giúp cho các nhà quản lý nhân sự đề ra những tiêu chuẩn khách quan trong việc tuyển người vào làm việc, sử dụng nhân sự một cách hợp lý đồng thời xác định tiền lương một cách hợp lý. Việc phân loại công chức cũng khác nhau tuỳ theo mục đích của việc phân loại.

Theo Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, công chức được phân loại theo trình độ đào tạo, theo ngạch và theo vị trí công tác.

Theo trình độ đào tạo, công chức được phân thành:
a) Công chức loại A là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học;
b) Công chức loại B là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục nghề nghiệp;
c) Công chức loại C là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
Theo ngạch, công chức được phân thành:
a) Công chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trở lên;
b) Công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương;
c) Công chức ngạch chuyên viên và tương đương;
d) Công chức ngạch cán sự và tương đương;
đ) Công chức ngạch nhân viên và tương đương.
Theo vị trí công tác, công chức được phân thành:
a) Công chức lãnh đạo, chỉ huy;
b) Công chức chuyên môn, nghiệp vụ.

Việc phân cấp quản lý công chức phải căn cứ vào việc phân loại công chức quy định tại Điều này.

Bên cạnh đó công chức được phân loại theo hệ thống chức nghiệp: Việc phân loại công chức theo hệ thống chức nghiệp dựa vào hệ thống chức năng của các cơ quan nhà nước như: công chức làm việc trong các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp; công chức làm việc trong các cơ quan thuộc hệ thống sự nghiệp tổ chức sự nghiệp công như: trường học, bệnh viện công, cơ quan nghiên cứu khoa học ...

Việc phân loại như vậy là căn cứ cho việc phân cấp trình độ để sắp xếp các ngạch công chức trong từng khung chức vụ chuyên môn của tất cả các ngành thuộc khu vực hành chính, sự nghiệp, là cơ sơ để thực hiện chính sách trả công theo lao động, định ra các chính sách tiền lương...

  1. Đặc thù nghề nghiệp một số chức danh Tư pháp.

Như đã xác định ở phần trên, đề tài này tập trung nghiên cứu đặc thù nghề nghiệp của một số chức danh tư pháp, gồm các ngạch: Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký toà án, Công chứng viên, Chấp hành viên. Các ngạch công chức trên được phân loại theo hệ thống chức nghiệp dựa theo nhiệm vụ, nội dung công việc, sản phẩm, quy trình lao động, trách nhiệm và bổn phận phải hoàn thành của từng loại công chức. Theo cách phân loại như trên thì các ngạch công chức chính trong lĩnh vực chuyên môn ngành Tư pháp thuộc loại Công chức làm công tác chỉ dẫn thi hành, kiểm tra kiểm soát việc chấp hành và cưỡng chế thi hành (còn gọi là chấp hành hay công chức thừa hành).

Việc phân loại công chức theo trình độ đào tạo để làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống thang bảng lương. Theo cách phân loại này thì các ngạch công chức như Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký, Công chứng viên, Chấp hành viên trong lĩnh vực Tư pháp đều thuộc loại A là công chức có trình độ đào tạo chuyên môn từ bậc đại học trở lên (Đại học Luật).

Công chức các chức danh Tư pháp ở vị trí chủ thể quản lý xã hội, có trọng trách duy trì và điều chỉnh mọi hoạt động của các công dân về lĩnh vực Tư pháp, nhằm đảm bảo công bằng, trật tự an toàn xã hội. Do đó công việc của công chức này không chỉ đòi hỏi về trình độ chuyên môn cao mà còn phải công tâm, tận tuỵ hết lòng phục vụ lợi ích chung, không được lợi dụng danh nghĩa nghề nghiệp để kiếm lời hoặc tăng thu nhập bất chính.

Các hoạt động của công chức một số chức danh Tư pháp thuộc loại lao động chất xám tổng hợp trong công tác ra quyết định, chỉ dẫn thi hành, kiểm tra, kiểm sát việc chấp hành và cưỡng chế thi hành. Hoạt động của họ không chỉ đa dạng và phức tạp trong lĩnh vực Tư pháp mà còn đòi hỏi tính sáng tạo, trí tuệ cao trong việc vận dụng các luật định nhằm đảm bảo công việc của họ chính xác, đem lại công bằng xã hội và trật tự an toàn xã hội.

Hoạt động của các Công chức một số chức danh Tư pháp liên quan đến lĩnh vực giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn về kinh tế, dân sự cũng như hình sự, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do vậy công việc của các công chức này có tính chất phức tạp và nguy hiểm.

Hoạt động Tư pháp là hoạt động nhằm đảm bảo công bằng về mặt pháp luật do vậy đòi hỏi tính chính xác cao, nhanh chóng, kịp thời. Thực tế hoạt động của Công chức một số chức danh Tư pháp không cho phép có sai sót. Các sai sót trong công việc nhiều khi không thể khắc phục được vì nó không chỉ liên quan đến kinh tế, nhân phẩm, đạo đức xã hội, thậm chí cả tính mạng con người. Do vậy Công chức các chức danh Tư pháp nói chung, đặc biệt là công chức một số chức danh Tư pháp nói trên đây luôn phải trau dồi kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm, tu dưỡng đạo đức để làm tròn bổn phận công chức hoạt động trong lĩnh vực liên quan đến pháp luật.

Các hoạt động của Công chức một số chức danh Tư pháp có liên quan trách nhiệm cá nhân cao, đặc biệt là đối với ngạch Công chứng viên. Họ phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về việc công chứng của mình.

Điều kiện và môi trường làm việc của Công chức chuyên môn ngành Tư pháp cũng hết sức đặc thù (ví dụ các cơ quan thi hành án). Công việc của họ không chỉ làm việc trong điều kiện ở công sở mà còn có liên quan trực tiếp đến nơi cư trú, nơi có tài sản của các đối tượng được thi hành án. Do đặc thù công việc nên họ thường xuyên phải tiếp xúc, làm việc trực tiếp với những đối tượng được thi hành án.

  1. Lịch sử hình thành và phát triển chế độ chính sách tiền lương công chức một số chức danh Tư pháp.

Tiền lương là một phạm trù thuộc lĩnh vực phân phối sản phẩm, là khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất. Việc phân phối sản phẩm không chỉ là để tái tạo sức lao động như cũ mà còn phải tạo ra những người lao động phát triển toàn diện về thể lực và trí lực, tạo ra những sức lao động mới có chất lượng cao. Tiền lương là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được Nhà nước phân phối có kế hoạch phù hợp với số lượng, chất lượng lao động họ bỏ ra.

Chính sách tiền lương là một chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người lao động, đến động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, đến ổn định chính trị - xã hội và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Nhận thức vai trò quan trọng của chính sách tiền lương, trong nhiều năm qua Nhà nước ta đã có 5 lần cải cách và 1 lần sửa đổi điều chỉnh chính sách tiền lương phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế - xã hội nước ta.

Lần cải cách hệ thống tiền lương thứ nhất là vào năm 1955, Chính sách tiền lương có sự phân biệt theo vị trí các ngành trong nền kinh tế, khoảng cách các bậc lương trong các thang bảng lương được mở rộng, nguyên tắc phân phối theo lao động được thể hiện rõ nét. Lần cải cách thứ hai là năm 1958. Lần cải cách tiền lương thứ ba là năm 1960. Lần cải cách tiền lương này được xem là tiến bộ và hoàn chỉnh hơn hai lần trước đó và đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn này. Năm 1964, Nhà nước ta tiếp tục sửa đổi và bổ sung chế độ tiền lương bằng hiện vật, khuyến khích tiền lương theo sản phẩm, mở rộng quyền chủ động trả lương trong các doanh nghiệp. Năm 1985 điều kiện kinh tế xã hội nước ta đã có nhiều sự thay đổi, Nhà nước thực hiện cải cách tiền lương lần thứ tư nhằm giảm bớt tính bình quân trong hệ thống lương, xoá bỏ chế độ tem phiếu, tiền tệ hoá tiền lương, thay đổi mối quan hệ tiền lương giữa các ngành, mở rộng khoảng cách tiền lương .... Chính sách tiền lương thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề ... . Lần cải cách thứ năm vào năm 1993, đây là lần đầu tiên chúng ta thừa nhận sức lao động là một loại hàng hoá và tiền lương chính là giá cả của sức lao động. Cải cách tiền lương lần này gắn liền với tinh giản biên chế, hoàn chỉnh các chính sách bảo hiểm xã hội, giảm tính bình quân và bao cấp trong lương, tiếp tục tiền tệ hoá tiền lương, tách các khoản phụ cấp chức vụ ra khỏi tiền lương cấp bậc...

Qua nhiều lần cải cách và sửa đổi bổ sung, hệ thống tiền lương Việt nam đã từng bước thay đổi, phần nào đóng góp nhất định vào sự phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Hệ thống tiền lương của công chức chuyên môn ngành Tư pháp cũng không nằm ngoài sự thay đổi chung đó.

Nhìn lại chế độ tiền lương đối với Công chức chuyên môn ngành Tư pháp thấy rõ Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đến đội ngũ công chức này. Ví dụ đối với ngạch Thẩm phán, trước năm 1985, tiền lương của đội ngũ thẩm phán được xếp như các công chức hành chính khác. Đến đợt cải cách tiền lương lần thứ tư (năm 1985), lương của Thẩm phán được quy định riêng tại bảng lương D1/9 Pháp chế (ban hành kèm theo Nghị định 235/HDDBT ngày 18/9/1987). Năm 1993, bảng lương của ngạch Thẩm phán được ban hành với các hệ số lương khởi điểm cao hơn so với ngạch chuyên viên.

Có thể thấy, việc cải cách chính sách tiền lương đã có nhiều tiến bộ, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước trong nhiều năm qua. Tuy nhiên cho đến nay, với tốc độ phát triển nhanh của kinh tế - xã hội trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách tiền lương đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, đặc biệt là đối với các ngạch Công chức chuyên môn ngành Tư pháp. Khi mà về mặt chính trị xã hội, nước ta cần một môi trường pháp luật ổn định, hành lang pháp lý phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển thì vai trò của Công chức chuyên môn ngành Tư pháp càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

  1. Thực trạng lương một số ngạch công chức một số chức danh Tư pháp.

Theo sự phân loại cán bộ công chức theo trình độ đào tạo thì các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp và ngạch công chức Chuyên viên đều thuộc loại công chức Loại A (có trình độ Đại học). Trong mỗi ngạch công chức sự phân loại ở mức cao hơn dựa theo chức nghiệp và mức độ đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và kinh nghiệm tích luỹ trong công việc. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể có cơ sở để thiết lập bảng thang lương cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và mức độ cống hiến của các công chức, phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của các công chức trong ngành Tư pháp.

Như vậy tính phù hợp của hệ thống thang, bảng lương của các ngạch công chức một số chức danh Tư pháp có thể được vận dụng một cách linh hoạt trong sự so sánh tương đối với thang lương của ngạch Chuyên viên. Nói cách khác chúng ta có thể dựa vào bảng lương của ngạch Chuyên viên để làm cơ sở đánh giá bảng lương của các ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp cho phù hợp với mức độ công hiến của từng ngạch công chức chuyên môn ngành Tư pháp.

3.1. Thẩm phán Toà án nhân dân.

Theo Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQH ngày 17 tháng 5 năm 1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân gồm có 3 ngạch: Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao có 7 bậc lương, Thẩm phán Toàn án nhân dân Tỉnh và Thành phố có 9 bậc lương, Thẩm phán Toà án nhân dân Quận, Huyện có 10 bậc lương (Bảng 2.1).

Bảng 2.1: Bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân

(Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQH ngày 17 tháng 5 năm 1993)

Ngạch công chức (Chức danh)

Bậc lương

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Thẩm phán Toà án nhân dân  Tối cao

5.02

5.36

5.70

6.05

6.40

6.75

7.10

 

 

 

Thẩm phán Toà án nhân dân  Tỉnh, Thành phố

3.62

3.88

4.14

4.40

4.66

4.92

5.18

5.44

5.70

 

Thẩm phán Toà án nhân dân  quận, huyện

2.16

2.39

2.62

2.85

3.08

3.31

3.54

3.77

4.01

4.25

 

Bảng 2.2: Bảng lương chuyên môn ngạch công chức Chuyên viên

(Nghị định số 25/CP ngày 23  tháng 5  năm 1993 của Chính phủ)

Ngạch công chức (Chức danh)

Bậc lương

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Chuyên viên cao cấp

4.92

5.23

5.54

5.85

6.26

6.67

7.10

 

 

 

Chuyên viên chính

3.35

3.63

3.91

4.19

4.47

4.75

5.03

5.31

5.60

 

Chuyên viên

1.86

2.10

2.34

2.58

2.82

3.06

3.31

3.56

3.81

4.06

 

So sánh về cơ cấu của bảng lương cho ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân (Bảng 2.1) và ngạch Chuyên viên (Bảng 2.2) cho thấy về cơ bản là giống nhau. Sự phân loại đều được phân làm 3 cấp, và số các bậc lương của mỗi cấp là giống nhau. Xét về các giá trị hệ số lương khởi điểm của ngạch công chức Thẩm phán Toà án nhân dân thì cho thấy dường như ngạch công chức Thẩm phán Toà án nhân dân được ưu tiên hơn, vì có hệ số lương khởi điểm cao hơn. Tuy nhiên, về lĩnh vực trình độ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, mức độ cống hiến, trách nhiệm và đặc biệt là  so sánh theo thâm niên công tác thì kết luận trên còn phải được xem xét. 

Thực tế, khi tốt nghiệp đại học (cùng một mức trình độ), 1 cán bộ được tuyển dụng vào ngạch Chuyên viên mà không đòi hỏi qua lớp đào tạo thêm về nghiệp vụ, cũng như thâm niên công tác. Trong khi đó, nếu tuyển dụng vào ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân với chức danh Thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện họ phải trải qua các lớp đào tạo Thẩm phán và phải có ít nhất 4 năm công tác trong ngành, đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh và thành phố là 6 năm và Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao là 8 năm. Do vậy nếu xét về số năm công tác và hệ số lương được hưởng thì hệ số lương của Thẩm phán Toà án nhân dân thực tế không cao hơn so với Chuyên viên. Hình 2.1, so sánh hiện trạng thang lương của ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân và ngạch Chuyên viên cho thấy xét về số năm công tác thì hệ số lương của Thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện chỉ tương đương với của Chuyên viên, thậm chí càng về lâu dài lại có xu hướng thấp hơn. Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố và Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao thì hệ số lương của họ tương ứng cao hơn so với hệ số lương của Chuyên viên chính và Chuyên viên cao cấp. Điều này có thể thấy được tính ưu tiên về chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước ta đối với họ.


Hình 2.1: Hiện trạng thang lương ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân

Tuy nhiên nếu so sánh tính hợp lý của thang lương đối với số năm công tác của công chức và tương quan giữa Thẩm phán các cấp thì vẫn còn nhiều bất cập. Hình 2.2, so sánh hệ thống Thang lương ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân và ngạch Chuyên viên cho thấy tương quan giữa các cấp của ngạch Chuyên viên là hợp lý hơn. Nếu một công chức, được lên lương đúng thời hạn thì sau 27 năm công tác họ ở bậc lương cao nhất đối với Chuyên viên, và 33 năm đối với Chuyên viên chính và Chuyên viên cao cấp. Tức là nếu họ tốt nghiệp Đại học vào năm 23 tuổi thì khi 50 tuổi họ ở bậc cao nhất của ngạch Chuyên viên, và 56 tuổi nếu là Chuyên viên chính và Chuyên viên cao cấp. Xét về tính liên tục, chuyển tiếp nâng ngạch thì các Chuyên viên sẽ đạt trình độ nhất định và đủ 9 năm công tác sẽ được thi nâng ngạch lên Chuyên viên chính và thêm 6 năm để thi nâng ngạch Chuyên viên cao cấp.

Hình 2.2: So sánh thang lương ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân 


và ngạch Chuyên viên

Nhưng đối với ngạch công chức Thẩm phán Toà án nhân dân , việc nâng ngạch có sự khác biệt so với ngạch Chuyên viên. Việc bổ nhiệm và nâng cấp giữa Thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện với Thẩm phán Toà án nhân dân  tỉnh ,thành phố và Thẩm phán Toà án nhân dân  Tối cao không theo xu hướng như ngạch công chức khác.

Việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân  cấp cao hơn không nhất thiết căn cứ vào nguồn cán bộ Thẩm phán Toà án nhân dân  cấp dưới. Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân  quận, huyện thì việc bổ nhiệm căn cứ vào năng lực, đạo đức, đã  qua lớp đào tạo về Thẩm phán Toà án nhân dân  và có 4 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Tư pháp, với Thẩm phán Toà án nhân dân  tỉnh, thành phố là 6 năm và Thẩm phán Toà án nhân dân  Tối cao là 8 năm. Do vậy sẽ xuất hiện tình trạng công chức là Thẩm phán Toà án nhân dân  Tối cao và Thẩm phán Toà án nhân dân  tỉnh, thành phố chỉ sau 26 năm và 30 năm công tác đạt được mức lương cao nhất trong bảng lương. Nếu như những công chức này tốt nghiệp Đại học Luật năm 23 tuổi, làm trong lĩnh vực Tư pháp tương ứng là 8 năm và 6 năm, đủ tiêu chuẩn được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân . Như vậy khi họ hưởng mức lương cao nhất khi mà chỉ có 49 tuổi (Thẩm phán Toà án nhân dân  Tối cao) hoặc 53 tuổi (Thẩm phán Toà án nhân dân  tỉnh, thành phố), với mức tuổi này họ chưa đủ tuổi để nghỉ hưu, đặc biệt là đối với các Thẩm phán Toà án nhân dân  là nam giới (tuổi nghỉ hưu của nam là 60, nữ là 55).

Hiện nay, chính sách mới của ngành Tư pháp đang cố gắng tăng cường quyền lực của Thẩm phán Toà án nhân dân  địa phương để nâng cao hiệu quả xét xử ngay từ cấp địa phương, giải quyết dứt điểm các tranh chấp ngay tại cấp địa phương. Điều đó có nghĩa là tăng cường trách nhiệm cuả đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân  quận, huyện. Như đã nêu ở trên, hệ số lương của ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân  quận, huyện so với hệ số lương của ngạch Chuyên viên theo số năm công tác không thể hiện sự ưu tiên về nghề nghiệp đối với họ. Ngay cả trong hoàn cảnh mà Toà án nhân dân  quận, huyện được tăng cường thẩm quyền xét xử, thẩm phán Toà án nhân dân  quận, huyện vẫn chưa được hưởng chế độ đãi ngộ thích đáng thể hiện qua sự ưu tiên về tiền lương để khuyến khích sự cống hiến của các công chức là Thẩm phán cấp huyện.

3.2. Thẩm tra viên.

Theo Nghị định 25/CP ngày 23 tháng 5 năm 1993 của Chính phủ, bảng lương chuyên môn nghiệp vụ công chức ngạch Thẩm tra viên gồm có 3 ngạch: Thẩm tra viên cao cấp có 7 bậc lương, Thẩm tra viên chính có 9 bậc lương, Thẩm tra viên có 10 bậc lương (Bảng 2.3). So sánh về cơ cấu của bảng lương giữa ngạch Thẩm tra viên (Bảng 2.3) và ngạch Chuyên viên (Bảng 2.2) là giống nhau. Sự phân loại đều được phân làm 3 cấp, và số các bậc lương của mỗi cấp là giống nhau.

Tương tự như sự so sánh bảng lương giữa ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân  (Bảng 2.1) và ngạch Chuyên viên (Bảng 2.2), các giá trị hệ số lương khởi điểm của ngạch công chức Thẩm tra viên có hệ số lương khởi điểm cao hơn so với ngạch Chuyên viên. Trên thực tế nếu xét đến năm công tác và tiêu chuẩn nghiệp vụ thì các công chức ngạch Thẩm tra viên ngoài các tiêu chuẩn về trình độ, năng lực... họ còn phải trải qua 2 năm kinh nghiệm công tác trong ngành Tư pháp. Do vậy tương quan giữa thang lương của hai ngạch công chức này theo năm công tác không thể hiện được mức độ ưu tiên cho ngạch Thẩm tra viên do tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch này cao hơn so với ngạch Chuyên viên.

Bảng 2.3: Bảng lương chuyên môn ngạch công chức Thẩm tra viên

(Nghị định số 25/CP ngày 23  tháng 5  năm 1993 của Chính phủ)

Ngạch công chức (Chức danh)

Bậc lương

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Thẩm tra viên cao cấp

4.92

5.21

5.5

5.79

6.08

6.37

6.67

 

 

 

Thẩm tra viên chính

3.45

3.73

4.01

4.29

4.57

4.85

5.13

5.41

5.7

 

Thẩm tra viên

2.01

2.25

2.49

2.73

2.97

3.21

3.46

3.71

3.96

4.21

 

Trên thực tế, nếu so sánh theo năm công tác thì hệ số lương của Thẩm tra viên và của Thẩm tra viên chính chỉ tương đương với Chuyên viên và Chuyên viên chính. Đặc biệt là sự so sánh giữa ngạch Thẩm tra viên cao cấp và Chuyên viên cao cấp có sự khác biệt rất đáng kể. Hình 2.3 so sánh hệ số lương giữa các ngạch Thẩm tra viên và Chuyên viên cho thấy ngạch Chuyên viên cao cấp có hệ số lương cao hơn hẳn so với ngạch Thẩm tra viên cao cấp.

Cũng từ Hình 2.3 (trang sau) cho thấy ở 3 bậc lương cuối của ngạch Chuyên viên cao cấp thể hiện mức độ tăng chênh lệch hệ số lương giữa 2 bậc liên tiếp cao hơn hẳn so với 4 bậc lương đầu (trên đồ thị thể hiện qua độ dốc hơn). Điều này thể hiện rõ chế độ ưu đãi và khuyến khích đối với nhân tài (Chuyên viên cao cấp) của Nhà nước ta. Trong khi đó đồ thị về hệ số lương của Thẩm tra viên cao cấp có độ dốc đều như nhau trong cả 7 bậc lương, và không thể hiện sự ưu đãi trên.


Hình 2.3: Hiện trạng thang lương ngạch Thẩm tra viên

Không giống với trường hợp so sánh giữa ngạch Thẩm phán Toà án nhân dân  và ngạch Chuyên viên, ngạch Thẩm tra viên có cơ cấu nâng ngạch tương đối giống như ngạch Chuyên viên, ngoại trừ một điều là tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch Thẩm tra viên yêu cầu có 2 năm công tác trong lĩnh vực Tư pháp. Do vậy, để đạt được mức lương cao nhất của từng ngạch thì Thẩm tra viên là sau 29 năm công tác (lên lương bình quân 3 năm 1 bậc), Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên cao cấp là 35 năm. Trong khi đó số liệu của ngạch Chuyên viên tương ứng chỉ là 27 năm và 33 năm.

Mặt khác, nếu so sánh giữa các công chức cùng tốt nghiệp Đại học năm 23 tuổi thì có thể đạt mức lương cao nhất của ngạch Thẩm tra viên là năm 52 tuổi, Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên cao cấp là 58 tuổi. Trong khi đó nếu là công chức ngạch Chuyên viên thì số liệu tương ứng là 50 và 56 tuổi.

Hình 2.4 so sánh cơ cấu thang lương giữa ngạch Thẩm tra viên và Chuyên viên theo số năm công tác cho thấy cơ cấu thang lương của ngạch Chuyên viên là phù hợp hơn.


Hình 2.4: So sánh thang lương ngạch Thẩm tra viên  và ngạch Chuyên viên

3.3. Thư ký Toà án.

Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQH ngày 17 tháng 5 năm 1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định bảng lương của ngạch công chức Thư ký Toà án chỉ có một mã ngạch với 16 bậc lương (Bảng 2.4) với hệ số lương khởi điểm là 1.70 và hệ số lương cao nhất là 3.57, chênh lệch giữa hai mức lương kế tiếp nhau là 0.12 (đối với 9 bậc lương đầu) và 0.13 (đối với các bậc lương còn lại). Quy định này áp dụng cho tất cả Thư ký toà án Tối cao, Thư ký toà án tỉnh, thành phố và Thư ký toà án huyện, quận. Xét về tính nghiêm trọng, mức độ phức tạp thì các phiên toà cấp Tối cao, cấp tỉnh, thành phố có mức độ cao hơn, do vậy Thư ký tại các phiên toà cấp cao có mức độ chức nghiệp cao hơn so với toà địa phương. Tuy nhiên thang lương của ngạch công chức Thư ký không được đề cập đến.

Bảng 2.4: Bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngạch Thư ký Toà án

(Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQH ngày 17 tháng 5 năm 1993)

Ngạch công chức

Bậc lương

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

Thư ký TA

1.70

1.82

1.94

2.06

2.18

2.30

2.42

2.54

2.66

2.79

2.92

3.05

3.18

3.31

3.44

3.57

 

Trước đây, Thư ký toà án có thể chỉ với trình độ Trung học luật là có thể đảm đương được chức trách này. Trên thực tế hiện nay tình trạng trên không còn phổ biến. Đa số các Thư ký toà án đều có trình độ Đại học Luật. Hơn nữa, thực trạng hiện nay Thư ký toà án là nguồn cán bộ bổ sung cho các chức danh công chức khác trong ngành Tư pháp như là Thẩm phán Toà án nhân dân  các cấp. Do vậy việc sắp xếp thang lương của ngạch Thư ký cần phải được cải tiến. Hình 2.5 so sánh Thang lương của các ngạch Chuyên viên, Thư ký toà án và Cán sự cho thấy Thang lương của Thư ký toà án có cơ cấu giống với Thang lương của Cán sự (trình độ Trung học) với cùng mức chênh lệnh giữa 2 bậc lương liên tiếp và đều có 16 bậc lương. Quy định về thời hạn lên lương cũng giống với ngạch Cán sự là 2 năm lên 1 bậc lương.

Như vậy sau 6 năm công tác thì công chức Thư ký toà án lên được 3 bậc lương với mức chênh lệch từ 0.36 cho đến 0.39 và thể hiện tính bình quân chủ nghĩa. Trong khi đó cán bộ là Chuyên viên cũng trong thời hạn 6 năm họ lên 2 bậc lương nhưng mức chênh lệch cao hơn (từ 0.48 đến 0.50). Sau 24 năm công tác thì công chức là Thư ký toà án mới đạt bậc lương thứ 14 với hệ số là 3.31 bằng với hệ số lương của một Chuyên viên sau 18 năm công tác.

Mặt khác, so sánh sự chênh lệch về thang lương của chức danh Thư ký toà án với các chức danh khác trong cùng chuyên môn ngành Tư pháp cũng thấy rõ sự khác biệt lớn, đặc biệt là khi so sánh với thang lương của Thẩm phán Toà án nhân dân  các cấp, đặc biệt là đối với Thẩm phán Toà án nhân dân  tỉnh , thành phố và Thẩm phán Toà án nhân dân  Tối cao. So sánh này càng thêm ý nghĩa quan trọng khi mà nguồn cán bộ bổ sung chủ yếu cho việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân  là từ nguồn cán bộ là Thư ký toà án các cấp.

Hình 2.5: So sánh thang lương ngạch Thư ký toà án, Cán sự


và ngạch Chuyên viên

Hình 2.6 so sánh thang lương của ngạch thư ký toà án và Thẩm phán Toà án nhân dân  các cấp. Việc chênh lệch quá lớn về thang lương giữa hai ngạch công chức này đã dẫn đến nhiều tác động tiêu cực và phần nào đã thể hiện sự không công bằng và tạo ra tâm lý không coi trọng chuyên môn nghiệp vụ Thư ký toà án cũng như không khuyến khích được họ gắn bó lâu dài với nghề Thư ký toà án. Hiện nay nhiều cán bộ Thư ký toà án các cấp có quan điểm là Thư ký toà án chỉ là giai đoạn “đệm”, chuẩn bị đủ điều kiện để họ được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân  các cấp. Xu hướng này không chỉ là do nguyên nhân chênh lệch quá lớn về thang lương giữa các chức danh này mà còn là nguyên nhân do cơ cấu bổ nhiệm các Thẩm phán Toà án nhân dân  cấp tỉnh, thành phố và Thẩm phán Toà án nhân dân  Tối cao chủ yếu từ nguồn cán bộ bổ sung là Thư ký toà án cấp tỉnh, thành phố và thư ký toà án tối cao chứ không phải từ nguồn cán bộ bổ sung là Thẩm phán Toà án nhân dân  cấp thấp hơn.

Hình 2.6: So sánh thang lương ngạch Thư ký toà án


và Thẩm phán Toà án nhân dân

Tóm lại, cơ cấu thang lương của ngạch Thư ký toà án sau 10 năm áp dụng đã tỏ ra có nhiều hạn chế, mức lương cán bộ Thư ký toà án thấp, không thực sự  khuyến khích Thư ký toà án phấn đấu nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cũng như tâm lý gắn bó với nghề nghiệp và không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

3.4. Công chứng viên.

Năm 1989, hệ thống công chứng ở nước ta được tái thành lập. Theo quy định tại Nghị định số 75/CP của Chính phủ, người được bổ nhiệm Công chứng viên bắt buộc phải có bằng cử nhân Luật, có chứng chỉ tốt nhiệp khoá đào tạo nghề công chứng và có thời gian công tác pháp luật liên tục từ 5 năm trở lên. Do quy định khi thực hiện nhiệm vụ, Công chứng viên phải độc lập trong việc ký công chứng của mình nên đòi hỏi Công chứng viên phải có trình độ pháp luật chuyên sâu, phải thường xuyên cập nhật những văn bản pháp luật mới được ban hành, những văn bản đã hết hiệu lực, những văn bản đã được sửa đổi, bổ sung để áp dụng trong công việc. Từ tính chất đặc thù nghề của nghề nghiệp, người đã được bổ nhiệm Công chứng viên không được kiêm nghiệm cong việc khác tại các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế và không được lạm dụng chức năng được bổ nhiệm để hành nghề tự do. Tuy nhiên, mức lương của Công chứng viên không tương xứng với tiêu chuẩn bổ nhiệm đòi hỏi cao cũng như với những nhiệm vụ nặng nề họ phải đảm nhận.

Theo quy định hiện hành, Công chứng viên được xếp ngạch lương tương đương với chuyên viên nhưng chỉ có một ngạch lương công chứng viên mà không có ngạch công chứng viên chính hay công chứng viên cao cấp như các ngạch công chức khác. Nghị định số 25/CP ngày 23  tháng 5  năm 1993 của Chính phủ quy định thang lương của ngạch Công chứng viên gồm có 10 bậc. Hệ số lương của các bậc trong thang lương của Công chứng viên đúng bằng với các bậc lương tương ứng của Chuyên viên (Bảng 2.5).

Bảng 2.5: Bảng lương chuyên môn ngạch Công chứng viên

(Nghị định số 25/CP ngày 23  tháng 5  năm 1993 của Chính phủ)

Ngạch công chức (Chức danh)

Bậc lương

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Công chứng viên

1.86

2.1

2.34

2.58

2.82

3.06

3.31

3.56

3.81

4.06

 

Như vậy có thể hiểu rằng việc xếp thang bảng lương của Công chứng viên ngang bằng với thang bảng lương của Chuyên viên như Nghị định 25/CP đã không chỉ không xét đến yếu tố tiêu chuẩn nghiệp vụ của Công chứng viên cao hơn so với Chuyên viên mà cũng bỏ qua cả thời hạn công tác 5 năm trong lĩnh vực Tư pháp.

Hình 2.7: So sánh thang lương ngạch Công chứng viên,


Thư ký toà án và Chuyên viên

Hình 2.7 thể hiện sự so sánh thang lương của Công chứng viên với Chuyên viên và Thư ký toà án theo số năm công tác. Với cùng số năm công tác thì hệ số lương của Chuyên viên cao hơn hẳn so với Công chứng viên, mức chênh lệch xấp xỉ 0.4.

Mặt khác hình 2.7 cũng thể hiện sự so sánh giữa thang lương của Công chứng viên và Thư ký toà án. Sự so sánh này cũng dựa theo số năm công tác. Trong những bậc lương đầu tiên của ngạch Công chứng viên có hệ số lương còn thấp hơn cả so với hệ số lương của Thư ký toà án - một chức danh công chức chuyên môn ngành Tư pháp có mức lương thấp và chứa nhiều bất hợp lý như đã phân tích ở trên. Càng về sau, hệ số lương của công chứng viên càng cao hơn so với hệ số lương của ngạch Thư ký toà án.

Trong khoảng 6 bậc lương đầu thì mức chênh lệch hệ số lương của ngạch Công chứng viên giữa 2 bậc lương liên tiếp chỉ là 0.24, và ở các bậc còn lại là 0.25. Sự chênh lệch này giống với các bậc lương của Chuyên viên. Nhưng vấn đề cần bàn đến ở đây là ngạch Chuyên viên có sự nâng ngạch lên Chuyên viên chính rồi Chuyên viên cao cấp với thang lương cao hơn hẳn cho những công chức có năng lực. Điều này góp phần khuyến khích các Chuyên viên cố gắng trau dồi nghiệp vụ chuyên môn để đủ điều kiện thi nâng ngạch. Trong khi đó ngạch Công chứng viên chỉ có 1 mã ngạch mà không có các chức danh như Công chứng viên chính, Công chứng viên cao cấp. Do đó, có thể nhận xét rằng thang lương của ngạch Công chứng viên thiếu sự ưu đãi và khuyến khích nhân tài. Hơn nữa, vấn đề này cũng có tác động không nhỏ tới tinh thần làm việc, trau dồi nghiệp vụ chuyên môn và sự gắn bó nghề nghiệp của các Công chứng viên.

Thêm vào đó, nếu xét đến yếu tố tuổi đời của họ thì một người tốt nghiệp Đại học luật năm 23 tuổi, sau 5 năm công tác trong ngành Tư pháp và qua các lớp đào tạo về nghiệp vụ đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào ngạch Công chứng viên với mức lương khởi điểm là 1.86, sau 27 năm công tác họ đạt bậc lương cao nhất của ngạch này với hệ số lương là 4.06 ở độ tuổi là 55 tuổi. Mức lương cuối của họ cũng không cao trong khi công việc của Công chứng viên có tiêu chuẩn nghiệp vụ và có trách nhiệm cá nhân cao trước pháp luật về những việc công chứng của mình.

Như vậy có thể nói chung rằng thang lương của ngạch Công chứng viên vẫn còn thấp, thiếu tính khuyến khích nhân tài, chưa tính đến đặc thù nghề nghiệp và cơ cấu thang lương chưa phù hợp với thực trạng công việc của họ.

3.5. Chấp hành viên.

Nghị định số 25/CP ngày 23  tháng 5 năm 1993 của Chính phủ quy định thang lương của ngạch Chấp hành viên gồm có ngạch Chấp hành viên huyện, quận và Chấp hành viên tỉnh, thành phố. Thang lương của Chấp hành viên huyện, quận có 10 bậc, và Chấp hành viên tỉnh, thành phố có 9 bậc (Bảng 2.6). Các bậc lương tương ứng của Chấp hành viên huyện, quận cao hơn so với Chuyên viên, của Chấp hành viên tỉnh, thành phố cũng cao hơn khi so sánh với Chuyên viên chính. Mức lương khởi điểm của Chấp hành viên huyện, quận là 2.16 và của Chấp hành viên tỉnh, thành phố là 3.62 so với mức lương khởi điểm của ngạch Chuyên viên là 1.86 và của Chuyên viên chính là 3.35.

So sánh giữa hai bảng lương của chấp hành [D1] viên và của chuyên viên cho thấy bảng lương của chấp hành viên huyện, quận cũng như của chấp hành viên tỉnh và thành phố đều tương ứng cao hơn so với bảng lương của chuyên viên và chuyên viên chính (Hình 2.8). Điều đó là phù hợp vì mức độ trách nhiệm, tính chất nghiệp vụ chuyên môn của ngạch chấp hành viên cao hơn so với ngạch chuyên viên.


Hình 2.8: So sánh thang lương ngạch Chấp hành viên và Chuyên viên

Cũng trên hình 2.8 cho thấy, sự bất hợp lý của cơ cấu hệ thống thang lương của ngạch chấp hành viên do chỉ có hai mã ngạch và hệ số thang lương được chia làm 9 và 10 cấp vì theo bảng lương này, khả năng công chức giữ lương ở bậc cao nhất của ngạch một thời gian dài trước khi đủ tuổi để hưởng chế độ hưu trí sẽ xảy ra. Nếu một sinh viên đại học luật ra trường năm 23 tuổi và được phân công làm chấp hành viên huyện, quận thì sau 27 năm công tác sẽ hưởng mức lương cao nhất (nếu không bị kỷ luật, vi phạm gì và cứ 3 năm lên 1 bậc lương) khi đó người cán bộ đo mới có 50 tuổi. Trong trường hợp công chức đó là nam giới thì với anh ta còn tới 10 năm công tác nữa mới đủ tuổi về hưu và tương ứng là thiếu ít nhất ba bậc lương nữa.

Bảng 2.6: Bảng lương chuyên môn ngạch Chấp hành viên

(Nghị định 25/CP ngày 23  tháng 5  năm 1993 của Chính phủ)

Ngạch công chức (Chức danh)

Bậc lương

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Chấp hành viên tỉnh, thành phố

3.62

3.88

4.14

4.40

4.66

4.92

5.18

5.44

5.70

 

Chấp hành viên huyện, quận

2.16

2.39

2.62

2.85

3.08

3.31

3.54

3.77

4.01

4.25

 

Cũng trên Hình 2.8 cho thấy trong thời gian đầu, hệ số lương của Chấp hành viên huyện, quận có giá trị cao hơn so với Chuyên viên. Nhưng càng về sau thì sự so sánh lại có xu hướng ngược lại. Nguyên nhân là do khoảng cách chênh lệch giữa 2 bậc lương liền kề của ngạch Chuyên viên cao hơn so với ngạch Chấp hành viên. Giá trị chênh lệch giữa hai bậc lương liên tiếp của ngạch Chấp hành viên huyện, quận chỉ là 0.23 và đến 2 bậc cuối  là 0.24. Trong khi đó đối với ngạch Chuyên viên thì các giá trị tương ứng ở các bậc lương đầu là 0.24 và ở 4 bậc cuối là 0.25. Nếu cũng so sánh như vậy đối với ngạch Chấp hành viên tỉnh, thành phố với ngạch Chuyên viên chính thì sự khác biệt càng thể hiện rõ hơn. Khoảng cách giữa các bậc lương của ngạch Chấp hành viên tỉnh, thành phố là 0.26 trong suốt cả bảng lương. Đối với ngạch Chuyên viên chính thì khoảng cách này là 0.28 và ở bậc lương cuối cùng là 0.29. Điều này cũng phần nào thể hiện mức độ khuyến khích nâng cao trình độ nghiệp vụ và sự ưu đãi của Nhà nước ta đối với những công chức có nhiều kinh nghiệm, năng lực trong ngạch Chuyên viên cao hơn so với ngạch Chấp hành viên. Đây là điều bất hợp lý nếu xét trên góc độ tính chất công việc và đặc thù nghề nghiệp giữa ngạch Chuyên viên với ngạch Chấp hành viên.

Bên cạnh đó, một điểm bất hợp lý trong thực trạng lương chấp hành viên hiện nay là sự chênh lệch về hệ số lương khởi điểm giữa chấp hành viên cấp tỉnh và chấp hành viên cấp huyện. Theo quy định hiện hành, mức lương khởi điểm hiện nay của chấp hành viên cấp huyện là 2,16 trong khi mức lương khởi điểm của chấp hành viên cấp tỉnh là 3,62. Sự chênh lệch khá lớn về lương như vậy gây khó khăn trong việc điều động cán bộ. Chẳng hạn hai người cùng tốt nghiệp đại học một năm, có cùng độ tuổi nhưng một người được bổ nhiệm làm chấp hành viên cấp tỉnh hưởng lương khởi điểm với hệ số 3,62 còn người kia được bổ nhiệm làm chấp hành viên cấp huyện hưởng lương 2,16. Trong trường hợp chấp hành viên tỉnh đó được điều động về huyện, bổ nhiệm làm chấp hành viên cấp huyện, sự bất cập về lương càng trở nên rõ nét. Bởi lẽ, nếu điều chỉnh lại lương theo quy định thì không thể điều động được cán bộ, còn nếu giữ nguyên lương ngạch chấp hành viên cấp tỉnh thì giữa hai người có thời gian công tác, trình độ và tuổi đời tương đương nhau lại có sự chênh lệch tới gần 6 bậc lương, tương đương tới gần 20 năm công tác. 

 

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1- Mục tiêu.

Xây dựng chế độ tiền lương của các chức danh Tư pháp khoa học, phù hợp với đặc thù nghề nghiệp, tương xứng với chất lượng, hiệu quả công việc; bảo đảm tiền lương trở thành nguồn thu nhập chính và cơ bản đủ sống cho người hưởng lương; phát huy vai trò động viên, khuyến khích công chức yên tâm công tác, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác bổ nhiệm, điều động, luân chuyển công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành.

Trước mắt, sửa đổi những bất hợp lý về thang bảng lương của các chức danh Tư pháp, nâng dần mức lương tối thiểu tương ứng với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ chế mới về bảo đảm nguồn trả lương trên cơ sở sử dụng tất cả nguồn lực tài chính trong các đơn vị.

2- Phương hướng hoàn thiện chế độ tiền lương các chức danh Tư pháp.

2.1- Kiến nghị chung.

2.1.1- Điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu.

Mức lương tối thiểu là mức lương “sàn” thấp nhất của xã hội do Nhà nước quy định thống nhất trong cả nước để trả công lao động cho người lao động làm công ăn lương chưa qua đào tạo nghề làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường. Người lao động thuộc các thành phần kinh tế không được trả lương cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu.

Mức lương tối thiểu là công cụ quan trọng để quản lý vĩ mô về tiền lương, kà căn cứ pháp lý để các bên trong quan hệ lao động thỏa thuận ký kết các mức tiền lương cao hơn, phù hợp với công việc phải làm theo quy định của pháp luật về lao động. Yêu cầu đối với mức lương tối thiểu là phải thực sự trở thành “lưới an toàn” chung cho tất cả những người làm công ăn lương trong cơ chế thị trường, bảo đảm quan hệ cánh kéo về thu nhập công - nông và chống sự trả lương quá thấp của người sử dụng lao động đối với người lao động.

Hiện nay, tiền lương tối thiểu hiện hành chưa bù được trượt giá, chưa tính đến việc người hưởng lương còn phải chi phí thêm nhiều khoản chưa tính vào tiền lương như: tiền đóng học phí, tiền học thêm của con, tiền xây dựng trường sở, quỹ cha mẹ học sinh, viện phí, phí an ninh và một số mặt hàng khác như xăng, cước phí bưu điện, điện tiêu dùng… mà Nhà nước mới tăng giá, làm cho tiền lương thực tế của cán bộ, công chức còn giảm hơn, không đủ trang trải cho các nhu cầu thiết yếu.

Mặt khác, lương tối thiểu chưa phân biệt rõ giữa lương tối thiểu chung với lương tối thiểu theo vùng, ngành trong cơ chế thị trường, dẫn đến áp dụng chung một mức lương tối thiểu trong khu vực Nhà nước, vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp khi nâng mức lương tối thiểu, vừa gây khó khăn cho việc cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức.

Để cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức khu vực hành chính, sự nghiệp nói chung và cán bộ, công chức tư pháp nói riêng, cần thiết phải tiếp tục điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung “sàn” theo nguyên tắc bù đủ trượt giá sinh hoạt và từng bước có cải thiện theo mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đồng thời phải áp dụng tiền lương tối thiểu cao hơn mức lương tối thiểu chung “sàn” đối với cán bộ, công chức hành chính vì đội ngũ này phổ biến là được đào tạo cơ bản, hầu như không có thu nhập thêm mà sống chủ yếu bằng lương, ít phụ thuộc vào quan hệ cung cầu lao động nhưng lại phụ thuộc vào khả năng ngân sách Nhà nước.

Việc này được thực hiện thông qua việc quy định hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương tối thiểu tăng dần từng năm theo lộ trình cải cách tiền lương.

1.2- Tiền lương phải gắn với hiệu quả công tác và chất lượng công chức.

Kết quả lao động của công chức cần phải được “đo lường” để làm căn cứ xác định và xem xét khi trả lương và tăng mức lương. Việc đánh giá hiệu quả và chất lượng công tác của công chức là một biện pháp quản lý cán bộ, công chức thông qua việc kiểm định các chỉ số nói lên sự làm việc, cống hiến của cán bộ, công chức. Đánh giá việc thực hiện chức trách của cán bộ, công chức để hiểu biết về mỗi cá nhân cũng như từng tập thể trong đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cơ sở kết quả của việc đánh giá mà quyết định các biện pháp phù hợp trong sử dụng, đãi ngộ, bố trí, cất nhắc, trong đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật... đối với cán bộ, công chức. Kết quả lao động của công chức được đánh giá theo từng cá nhân công chức, từng nhóm công chức và cả đội ngũ công chức.

Đánh giá theo cá nhân công chức được thực hiện thông qua xem xét các công việc được giao, hiệu quả công tác và việc đóng góp sức lực vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung của đơn vị, việc sử dụng thời gian làm việc và chấp hành kỷ luật, quy chế của đơn vị khi tiền lương dựa vào hiệu quả công tác cá nhân thì hai việc cần thiết phải làm là: thứ nhất, chức vụ (hay vị trí việc làm) phải được xác định rõ thông qua phương pháp đánh giá và mục tiêu của cá nhân trong kỳ hạn tiền lương phải được xác định rõ ràng và có khả năng đo đếm được; thứ hai, phải có hệ thống thẩm định hiệu quả công tác và phương pháp xếp lương, sau đó thưởng lương cho các hiệu quả công tác đạt được.

Đánh giá theo nhóm công chức được tính theo từng đơn vị công tác(phòng, ban…) thông qua việc xem xét thực hiện chương trình và kế hoạch công tác của đơn vị được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ theo nhóm; thành tích, kết quả công việc cũng là chung của cả nhóm. Trong quá trình thực hiện chung một nhiệm vụ, họ có cơ hội theo dõi công việc hàng ngày của đồng nghiệp, tự thân mỗi người cũng có thể tự đánh giá mình so với mọi người và đánh giá những người cùng cấp.

Hiệu quả công tác của cả nhóm được đánh giá và làm căn cứ thực thi chính sách tiền lương theo hiệu quả của cả nhóm. Ngoài tiền lương được tăng theo thâm niên hàng năm của mỗi cá nhân người công chức, họ còn được tăng lương theo hiệu quả của nhóm, phần này phải được trả như là một khoản thưởng hàng năm.

Việc đánh giá kết quả lao động của công chức tất nhiên phải được xác định trên các tiêu thức được Nhà nước xây dựng và ban hành. Điều này rất quan trọng vì qua đó chính là đã bao hàm chất lượng của các hoạt động công vụ do công chức thi hành và của cả nền công vụ cho cả đội ngũ công chức thực hiện. Từ đó có thể xây dựng hệ thống tiền lương linh hoạt hơn để phù hợp với tình hình kinh tế chung.

1.3- Đổi mới cơ cấu thang lương của các chức danh Tư pháp.

 Thang lương của các chức danh Tư pháp được xây dựng theo hướng có 3 loại ngạch như đối với chức danh chuyên viên và được đặt trong sự tương quan hợp lý với các ngạch chuyên viên (yêu cầu về trình độ chuyên môn là tốt nghiệp đại học), có áp dụng hệ số phụ cấp nghề nghiệp chênh lệch được tính toán trên cơ sở đặc thù nghề nghiệp.

Cách xây dựng thang lương như trên có nghĩa là thang lương của các chức danh tư pháp sẽ được tính trên cơ sở lấy thang lương của các ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp cộng thêm hệ số phụ cấp nghề nghiệp nhất định của từng loại chức danh tư pháp như thẩm phán, chấp hành viên, công chứng viên…

Công thức xây dựng thang lương này có thể khắc phục được sự bất hợp lý về lương trong từng chức danh tư pháp và giữa các chức danh tư pháp với nhau; đánh giá đúng được lao động đặc thù, giải quyết được vướng mắc trong việc bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, miễn nhiệm, kỷ luật… đối với các công chức thuộc chức danh này. Nghĩa là nếu công chức khi chuyển sang chức danh khác thì chỉ cần cắt hệ số phụ cấp nghề nghiệp của chức danh cũ, còn lương vẫn trên nền lương cứng của các ngạch chuyên viên cộng thêm hệ số phụ cấp nghề nghiệp của chức danh mới.

Việc xây dựng thang lương của các chức danh tư pháp theo hướng có 3 loại ngạch như chức danh chuyên viên còn động viên, khuyến khích công chức yên tâm công tác và tích cực phấn đấu lên ngạch cao hơn.

1.4- Giảm số bậc trong các ngạch.

Mỗi ngạch công chức hiện nay còn chia thành quá nhiều bậc: 16 bậc ngạch cán sự, thư ký Tòa án; 11 bậc ngạch chuyên viên, công chứng viên, chấp hành viên... Cách phân chia như vậy vừa dẫn đến nhiều bậc treo, rất nhiều người khi nghỉ hưu không thể đạt đến các bậc cao. Hơn nữa việc chia nhiều bậc như vậy còn làm cho tiền lương rơi vào trạng thái bình quân chủ nghĩa vì sẽ phải thiết kế khoảng cách giữa các bậc lương quá ngắn. Vì vậy cần thiết phải giảm số bậc lương trong mỗi ngạch của một số chức danh tư pháp nói riêng và các ngạch công chức nói chung để vừa giảm tính bình quân trong lương, vừa không để  các bậc treo như hiện nay. Mỗi ngạch chỉ nên xếp từ 5-8 bậc còn đối với ngạch thư ký Tòa án, cán sự thì có thể xếp từ 10-12 bậc.

1.5- Tăng độ chênh lệch giữa các hệ số lương của ngạch.

Tiền lương cần phải trở thành động lực để khuyến khích đội ngũ công chức hăng hái công tác với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Muốn như vậy, một trong những biện pháp cần thực hiện đó là phải tăng độ chênh lệch giữa các hệ số lương của ngạch công chức. Trong hệ thống thang bảng lương công chức, mỗi bậc lương tương ứng với hệ số của bậc thể hiện thang giá trị của các ngạch công chức. Như vậy, công chức trong ngạch tư pháp càng có thâm niên công tác lâu năm thì càng có nhiều kinh nghiệm trong giải quyết công việc, về trình độ, năng lực công tác cũng dần được nâng cao, điều đó có nghĩa là hiệu quả công tác của họ sẽ đáp ứng yêu cầu của người lãnh đạo. Tuy nhiên hiện nay, độ chênh lệch giữa các hệ số lương trong cùng một ngạch công chức là không thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể (0,01) cho dù 2 hoặc 3 năm mới được nâng bậc lương một lần và thời gian công tác, cống hiến ngày càng tăng. Điều này chỉ thể hiện tính bình quân chủ nghĩa mà chưa thể hiện được sự ưu đãi đối với những công chức có thời gian công tác lâu năm, chưa đánh giá đúng những đóng góp của họ trong công tác. Nhìn chung, đa số công chức càng có thâm niên công tác lâu năm thì càng có nhiều kinh nghiệm trong giải quyết công việc trình độ, năng lực công tác cũng dần được nâng cao, điều đó có nghĩa là hiệu quả công tác của họ sẽ đáp ứng yêu cầu của người lãnh đạo. Giá trị của các công chức này phải được ghi nhận, đề cao và được thể hiện rõ trong chế độ đãi ngộ của Nhà nước thông qua việc xây dựng thang lương theo hướng nâng dần độ chênh lệch giữa các hệ số lương của ngạch công chức. Theo hướng này thì khoảng cách giữa các hệ số lương sẽ giãn dần theo trình tự tăng bậc lương mà không phải là một khoảng cách giống nhau như hiện nay đang áp dụng. Việc làm này cũng đã được thực hiện trong chế độ lương của các chức danh tư pháp ở một số nước như Nhật Bản…

2.1.6- Thực hiện chế độ nâng lương, cử đi dự thi nâng ngạch trước thời hạn đối với các công chức có hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hoặc có thành tích đặc biệt trong công tác.

 Đối với công chức có thành tích xuất sắc trong công tác được xem xét nâng ngạch, nâng lương trước thời hạn quy định để kịp thời ghi nhận công lao đóng góp của công chức, đồng thời động viên, khuyến khích công chức phấn đấu vươn lên trong công tác và có những đóng góp có giá trị cao trong công việc. Tuy nhiên, cần phải quy định chặt chẽ các điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xem xét khi thực hiện việc nâng lương, nâng ngạch trước thời hạn để tránh hiện tượng khen thưởng tràn lan, không đúng đối tượng.

1.7. Thực hiện chế độ phụ cấp vượt khung.

Thực tế lương của đội ngũ công chức nói chung và các chức danh tư pháp nói riêng cho thấy có nhiều công chức hiện nay đang giữ lương bậc cuối cùng trong thang lương của ngạch. Đối với những công chức này không thể tiếp tục thực hiện việc nâng lương theo định kỳ tuy họ vẫn có đủ các điều kiện để nâng lương, tức là vẫn hoàn thành các nhiệm vụ được giao và không có vi phạm gì trong công tác. Việc nâng ngạch cho những công chức ngày cũng không thể thực hiện được vì chức danh đó không có ngạch cao hơn để nâng hoặc cơ quan, đơn vị chưa có nhu cầu. Do vậy, bản thân những công chức này đang phải chịu thiệt thòi về lương do sự bất cập của thang bảng lương hiện hành. Để giải quyết vấn đề này, đề nghị Nhà nước nên quy định chế độ phụ cấp vượt khung như chính sách lương trước đây. Chế độ phụ cấp này được áp dụng đối với tất cả những công chức đã xếp bậc cuối cùng trong thang lương của mình, tạo điều kiện cho công chức công chức yên tâm làm việc, giảm sức ép đòi chuyển ngạch, nâng ngạch không theo yêu cầu, vị trí công việc.

2- Kiến nghị cụ thể về chế độ lương của từng chức danh Tư pháp.

2.1- Cải cách chế độ lương của thẩm phán.

2.1.1- Xây dựng cơ cấu ngạch lương mới.

Hiện nay, cơ cấu lương của thẩm phán được xây dựng theo cấp hành chính: Tối cao, tỉnh, huyện đã bộc lộ những bất cập trong việc thực hiện các công tác cán bộ, đặc biệt là bổ nhiệm, điều động, luân chuyển thẩm phán giữa các cấp Toà án, ảnh hưởng đến hiệu quả nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán và chưa bảo đảm tính công bằng, khuyến khích đối với đội ngũ này. Tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán các cấp không đòi hỏi bổ nhiệm thẩm phán cấp trên phải lấy từ nguồn thẩm phán cấp dưới mà chỉ yêu cầu khác nhau về thời gian công tác trong các cơ quan pháp luật và thời gian đó cũng chênh nhau không nhiều (2 năm giữa các cấp liền kề). Trong khi đó, lương của thẩm phán các cấp lại chênh lệch tương đối lớn, do vậy nhiều trường hợp cùng tốt nghiệp đại học nhưng được tuyển dụng vào công tác ở các cấp Toà án khác nhau, khi được bổ nhịêm thẩm phán thì lương của các đối tượng đó chênh nhau rất lớn, không bảo đảm công bằng xã hội. Việc điều động, luân chuyển thẩm phán cũng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt khi thực hiện điều động, luân chuyển thẩm phán từ Toà án cấp trên xuống Toà án cấp dưới. Trong trường hợp này không thể giải quyết được chế độ lương theo đúng nguyên tắc trả lương, nếu thực hiện đúng nguyên tắc thì vô hình chung trở thành hạ ngạch đối với những người này. Như vậy, với chế độ lương quy định như hiện tại không đáp ứng được yêu cầu công tác của các Toà án cũng như việc xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ thẩm phán.

Để khắc phục những tồn tại nêu trên và xây dựng đội ngũ đội ngũ thẩm phán theo yêu cầu các Nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ và cải cách tư pháp, các thang lương của thẩm phán cần phải đổi mới theo hướng xây dựng thành 3 ngạch: thẩm phán cao cấp, thẩm phán trung cấp và thẩm phán sơ cấp, tương tự như các thang lương của ngạch kiểm sát viên… Việc xây dựng cơ cấu ngạch lương thẩm phán như vậy cũng sẽ tạo động lực thúc đẩy đội ngũ thẩm phán phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trau dồi phẩm chất để được xem xét bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán cao hơn.

Để khắc phục những tồn tại nêu trên và xây dựng đội ngũ thẩm phán theo yêu cầu của các Nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ và cải cách tư pháp, các thang lương của thẩm phán vẫn xây dựng thành 3 ngạch: Thẩm phán tối cao, Thẩm phán cấp tỉnh vàThẩm phán cấp huyện nhưng cần phải được đổi mới theo hướng:

- Cơ cấu ngạch lương của thẩm phán tối cao, thẩm phán cấp tỉnh, thẩm phán cấp huyện không được quá cách biệt. Thang lương của từng ngạch cần xây dựng theo cách lên ngạch thẩm phán huyện phải gối lên bậc lương của thẩm phán tỉnh; bậc lương thẩm phán tỉnh phải gối lên bậc lương của thẩm phán tối cao. Như vậy sẽ đáp ứng được yêu cầu luân chuyển thẩm phán, khắc phục được những vướng mắc hiện nay về luân chuyên thẩm phán.

- Đề nghị Nhà nước phải có một chế độ lương rieng đối với ngạch thẩm phán, như vậy mới phù hợp với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được sửa đổi, bổ sung năm 2002, quy định lương của thẩm phản được quy định thành hệ thống riêng.

Việc đổi mới thang lương thẩm phán như vậy cũng sẽ tạo động lực thúc đẩy đội ngũ thẩm phán phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trau dồi phẩm chất để được xem xét bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán cao hơn.

1.2- Nâng cao thang lương của thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện.

Hiện nay, hệ số lương của thẩm phán Toà án nhân dân  cấp huyện so với hệ số lương của ngạch chuyên viên chưa thể hiện sự ưu tiên về nghề nghiệp, sự nhất quán về chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đối với chức danh này trong khi hệ số lương của thẩm phán Toà án nhân dân  tối cao và thẩm phán Toà án nhân dân  cấp tỉnh đều đã thể hiện sự ưu tiên hơn so với ngạch chuyên viên cao cấp và chuyên viên chính. Mặt khác, thực hiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân  cấp huyện đã được tăng cường và mở rộng, điều này cũng có nghĩa là nhiệm vụ của thẩm phán Toà án nhân dân  cấp huyện sẽ nặng nề và phức tạp hơn, yêu cầu về trách nhiệm và hao tổn chất xám cũng sẽ cao và nhiều hơn. Như vậy, thang lương của thẩm phán Toà án nhân dân  cấp huyện cũng cần phải được nâng cao cho tương xứng với tính chất, mức độ lao động, yêu cầu về trách nhiệm và thể hiện sự ưu đãi của Đảng và Nhà nước ta đối với những người nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam để bảo vệ công lý.

2.2- Nâng cao thang lương của thẩm tra viên.

Thang lương của các ngạch thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp cần thiết phải được nâng cao hơn so với các ngạch chuyên viên tương ứng, đặc biệt là đối với ngạch thẩm tra viên do tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch thẩm tra viên đòi hỏi cao hơn các ngạch chuyên viên về 2 năm kinh nghiệm công tác trong ngành Tư pháp và yêu cầu về tính chịu trách nhiệm cá nhân đối với toàn bộ hồ sơ vụ án thẩm tra lại.

Xét về tính chất công việc của thẩm tra viên tương đối giống công việc của thanh tra viên. Nếu thanh tra viên làm nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và xem xét, kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết hoặc giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo, thì nhiệm vụ của thẩm tra viên là thẩm tra lại các tài liệu, chứng cứ trong các hồ sơ vụ án để kiến nghị các cấp có thẩm quyền ra kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm (trường hợp có sai lầm trong xét xử) hoặc trả lời đơn khiếu nại cho người khiếu nại (trường hợp xét xử đúng). Thanh tra viên được trao quyền Như vậy, các thang lương của thẩm tra viên nên được điều chỉnh bằng với các thang lương của thanh tra viên để bảo đảm tính công bằng giữa các chức danh có tính chất công việc tương đồng và thể hiện sự đãi ngộ tương xứng với đặc thù nghề nghiệp của thẩm tra viên.

2.3- Cải cách thang lương của chấp hành viên.

Hiện nay, các thang lương của chấp hành viên được xây dựng theo cấp hành chính (tỉnh, huyện) và cứ 3 năm được lên lương 1 lần, đến đến nhiều chấp hành viên làm việc theo kiểu cầm chừng, không tìm tòi, sáng tạo, nhiệt tình công tác, chỉ cốt sao không vi phạm kỷ luật và được xem là hoàn thành nhiệm vụ để đủ điều kiện nâng lương. Vì vậy, việc xây dựng các thang lương của chấp hành viên ở 3 cấp độ sơ cấp, trung cấp và cao cấp sẽ động viên, khuyến khích chấp hành viên nhiệt tình cống hiến trong công tác và phấn đấu vươn lên để được thi nâng ngạch lên ngạch chấp hành viên cao hơn.

Mặt khác, việc xây dựng các thang lương của chấp hành viên như vậy còn tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc điều động, luân chuyển chấp hành viên giữa các cơ quan thi hành án cấp tỉnh và cấp huyện theo chủ trương của Đảng và yêu cầu thực tiễn của công tác thi hành án.

Theo hướng đổi mới như trên, thang lương của chấp hành viên sơ cấp sẽ được phiên ngang từ thang lương của chấp hành viên cấp huyện, thang lương của chấp hành viên trung cấp được phiên từ thang lương của chấp hành viên cấp tỉnh và thang lương của chấp hành viên cao cấp sẽ được thiết kế giống thang lương của thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hiện nay (tức là thẩm phán cao cấp).

2.4- Cải cách chế độ lương của công chứng viên.

Trong quá trình nghiên cứu chế độ tiền lương của công chứng viên, nhóm nghiên cứu đã đưa ra kiến nghị đề nghị cải cách chế độ tiền lương của công chứng viên theo thiết kế lương theo 3 ngạch từ thấp đến cao là: công chứng viên, công chứng viên chính, công chứng viên cao cấp, để tạo hướng phấn đấu và động viên, khuyến khích đối với người làm công tác công chứng.

Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác công chứng thời gian qua, những nhà quản lý trong lĩnh vực này đã xây dựng đề án sửa đổi chế độ tiền lương của công chứng viên theo hướng thiết kế một ngạch công chứng viên và đề nghị nâng cao các hệ số lương củangạch công chứng viên bằng với các ngạch công chức tư pháp cấp tỉnh như chấp hành viên, thẩm phán cấp tỉnh.

Qua xem xét, Ban Chủ nhiệm đề tài thấy rằng việc xây dựng chế độ lương của công chứng viên theo 01 ngạch là phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với yêu cầu xác định công chứng viên là một ngề để tiến tới xã hội hóa hoạt động này trong thời gian tới. Vì vậy Ban Chủ nhiệm đề tài nhất trí với phương án thiết kế  lương của công chứng viên theo 1 ngạch và đề nghị đổi mới chế độ lương của công chứng viên theo hướng sau:

2.4.1- Xây dựng chế độ lương của công chứng viên cao hơn chuyên viên.

Chuyên viên được phân công làm việc trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định và phải nắm vững các quy định của pháp luật về lĩnh vực được phân công. Chuyên viên thực hiện chức năng tham mưu, giúp việc cho Thủ trưởng đơn vị, các đề xuất của chuyên viên là cơ sở để Thủ trưởng đơn vị xem xét, quyết định, nếu thấy đúng thì nhất trí còn nếu thấy không đúng thì sửa lại. Khác với chuyên viên, công chứng viên phải hoạt động trong nhiều lĩnh vực đa dạng và phức tạp như dân sự, kinh tế, thương mại, lao động, hàng không, hàng hải, nhà đất…, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, các giao dịch dân sự rất phong phú và liên tục phát triển, các thỏa thuận trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ngày càng có nội dung phức tạp, đan xen và với giá trị rất lớn. Để thực hiện nhiệm vụ, bên cạnh việc phải nắm vững các quy định của pháp luật ở nhiều lĩnh vực, công chứng viên còn phải đầu tư rất nhiều công sức, trí tuệ và phải có sự nhạy cảm, tự tin trong công việc thì mới dám giải quyết công việc được giao. Công chứng viên phải tự mình xem xét hồ sơ, đối chiếu với các quy định của pháp luật và tự quyết định, giải quyết nhanh vụ việc để bảo đảm thời hạn theo quy định. Bên cạnh đó,  trách nhiệm cá nhân của công chức viên không hề được xem nhẹ mà đòi hỏi rất cao, bởi nếu công chứng viên phạm sai lầm trong công việc thì hậu quả rất khó khắc phục do văn bản đã được công chứng viên chứng nhận thì các bên đương sự cũng như cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội có liên quan phải thực hiện ngay, không qua một cơ quan nào thẩm định lại.

Chính vì những đặc thù nghề nghiệp nói trên của công chứng viên mà tiêu chuẩn nghiệp vụ của công chứng viên được xây dựng cao hơn so với tiêu chuẩn nghiệp vụ của chuyên viên về điều kiện công chứng viên phải có thâm niên công tác 5 năm trong lĩnh vực Tư pháp để tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, tri thức về xã hội… Để tương xứng với yêu cầu và đặc thù nghề nghiệp của công chứng viên, lương của công chứng viên cũng phải được ưu tiên, đãi ngộ hơn so với chuyên viên, có như vậy mới khuyến khích công chứng viên chuyên tâm, gắn bó lâu dài với nghề và nâng cao được hiệu quả của công tác công chứng.

2.4.2- Áp dụng chế độ phụ cấp thâm niên đối với công chứng viên

Cùng với thông lệ chúng của quốc tế lương của công chứng viên chỉ được thiết kế chung thành 1 ngạch là ngạch công chứng viên. Tuy nhiên việc thiết kế như vậy chưa thực sự bình đẳng khi so sánh với các ngạch công chức khác như chuyên viên, thẩm tra viên... Lương của ngạch công chức này được thiết kế thành ba cấp độ, như vậy công chức ở các ngạch này luôn có cơ hội thuận lợi để phấn đấu vươn lên, được nâng ngạch cao hơn, và cũng có nghĩa là họ sẽ được hưởng lương cao hơn. Trong khi đó công chứng viên làm việc và được hưởng lương ở một cấp độ, cho dù họ có thời gian công tác lâu năm, có hiệu quả công tác cao nhưng cũng không có cơ hội thuận lợi để phấn đấu vươn lên những ngạch cao hơn của nghề công chứng do chỉ có một ngạch công chứng viên. Để động viên, khuyến khích đối với những công chứng viên có thời gian công tác lâu năm trong lĩnh vực công chứng và gắn bó với nghề, Nhà nước nên áp dụng chế độ phụ cấp thâm niên đối với công chứng viên, những người hiện nay chỉ được hưởng lương thiết kế theo 1 ngạch.

2.5- Cải cách chế độ lương của thư ký toà án.

2.5.1- Nâng cao thang lương của ngạch thư ký toà án.

Việc thiết kế thang lương của ngạch thư ký Tòa án trước đây dựa trên một trong các tiêu chí là yêu cầu trình độ chuyên môn là trung cấp Luật. Thời kỳ đó đội ngũ thư ký Tòa án đa số có trình độ trung cấp. Vài năm trở lại đây yêu cầu trình độ Đại học Luật trong tuyển dụng người vào làm thư ký đã trở thành yêu cầu bắt buộc. Yêu cầu này xuất phát từ tính chất công việc của thư ký và nhu cầu tạo nguồn chủ yếu để bổ nhiệm thẩm phán toà án các cấp. Thư ký đóng một vai trò tương đối quan trọng trong các giai đoạn từ chuẩn bị xét xử, xét xử cho đến khi kết thúc phiên toà, góp phần bảo đảm cho trình tự tố tụng được thực hiện một cách đầy đủ và đúng quy định. Để thể hiện sự đãi ngộ của Đảng và Nhà nước tương xứng với tính chất công việc và yêu cầu trình độ đối với thư ký, đòi hỏi thang lương của ngạch thư ký toà án phải được nâng cao hon so với hiện tại.

Theo xu hướng cải cách tư pháp về lâu dài sẽ thực hiện chế độ thư ký ổn định, thư ký được coi là một nghề và không thực hiện bổ nhiệm thẩm phán lấy từ nguồn thư ký. Do vậy, chế độ lương của Thư ký Tòa án càng cần được quan tâm hơn để động viên, khuyến khích đội ngũ thư ký Tòa án yên tâm công tác, gắn bó với nghề.

2.5.2. Áp dụng chế độ phụ cấp nghề nghiệp đối với thư ký toà án nhân dân.

Xét về tính chất và mức độ phức tạp thì các vụ án của toà án cấp trên bao giờ cũng phức tạp hơn các vụ án của toà án cấp dưới và do vậy công việc của thư ký toà án cấp trên có mức độ chức nghiệp cao hơn so với toà án cấp dưới. Để thể hiện được sự ưu đãi của Nhà nước tương xứng với yêu càu công việc đối với từng loại thư ký toà án, cho nên thư ký toà án mỗi cấp Tòa án hưởng thêm một khoản phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp với các mức tăng dần theo sự tăng dần của các cấp tòa án.

Theo cách phân tích nêu trên, thì lương của thư ký toà án cũng phải được phân biệt theo các cấp độ khác nhau. Lương của thư ký toà án nhân dân tối cao phải cao hơn lương của thư ký toà án nhân dân cấp tỉnh và lương của thư ký toà án nhân dân cấp tỉnh sẽ cao hơn thư ký toà án nhân dân cấp huyện vì độ phức tạp trong công việc của thư ký toà án nhân dân các cấp sẽ tăng dần từ cấp huyện lên cấp tỉnh và lên cấp tối cao.

Do yêu cầu trình độ chuyên môn của thư ký toà án các cấp là giống nhau, tức là đều yêu cầu có trình độ đại học luật, nên thang lương về cơ bản đều bằng với thang lương của ngạch chuyên viên. Tuy nhiên, để thể hiện sự ưu đãi về lương đối với thư ký toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp tối cao tương xứng với độ phức tạp hơn trong công việc của họ so với thư ký toà án nhân dân cấp huyện thì nên cho họ hưởng thêm một khoản phụ cấp nghề nghiệp, trong đó mức phụ cấp nghề nghiệp của thư ký toà án nhân dân tối cao sẽ cao hơn mức phụ cấp nghề nghiệp của toà án nhân dân cấp tỉnh.

III- Các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện chính sách cải cách tiền lương đối với các chức danh Tư pháp.

1- Hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ các chức danh Tư pháp.

Đồng thời với việc cải cách chế độ tiền lương đối với các chức danh tư pháp, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ của các chức danh thẩm phán, thẩm tra viên, chấp hành viên, công chứng viên và thư ký toà án, bảo đảm tương ứng với mỗi ngạch, thang lương của các chức danh này ở các cấp độ đều có tiêu chuẩn xác định rõ ràng chức trách, nhiệm vụ và các yêu cầu cụ thể về trình độ. Đặc biệt chú trọng xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với chức danh thư ký toà án vì thực tế hiện nay chức danh này đã tồn tại từ lâu và đang phải thực hiện các nhiệm vụ không còn đơn giản như trong thời kỳ xây dựng thang lương của chức danh này nhưng lại chưa có tiêu chuẩn nghiệp vụ và chưa được quan tâm đúng mức. Việc hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ của các chức danh Tư pháp sẽ xác định được vị trí, nhiệm vụ của từng chức danh từ đó có chế độ đãi ngộ tương xứng với từng chức danh cụ thể. Đồng thời, đây cũng là “gương soi” cho việc thực hiện các công tác cán bộ như bổ nhiệm, miễn nhiệm, nâng ngạch, cách chức… bảo đảm xây dựng một đội ngũ công chức tư pháp đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và xứng đáng với những đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đã dành cho họ.

2- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền lương.

Lương của đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan dân cử, toà án, kiểm sát, hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang hiện nay được quy định tại Nghị quyết số 35 NQ/UBTVQHK9 ngày 17/5/1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn bảng lương chức vụ dân cử, bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Toà án, kiểm sát và Nghị định 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang. Trong đó, Nghị định 25/CP mới chỉ là văn bản quy định mang tính chất tạm thời nhưng đến nay đã nhiều năm nhưng vẫn chưa có văn bản quy định chính thức để thay thế. Từ năm 1993 đến nay, Chính phủ đã ban hành thêm nhiều Nghị định để điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu và Thủ tướng Chính phủ cũng có các Quyết định bổ sung chế độ phụ cấp đối với một số chức danh như giảng viên (phụ cấp giảng dạy), chấp hành viên, thẩm phán, thư ký (phụ cấp dưỡng liêm)… Điều này dẫn đến các văn bản quy phạm pháp luật về tiền lương mang tính tản mạn, chưa có tính thống nhất và tính hiệu lực cao. Để tạo được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về chế độ tiền lương, nên pháp điển hoá để ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chế độ tiền lương của công chức ở hình thức văn bản luật như một số nước trong khu vực và trên thế giới đã làm như Thái Lan, Pháp… Luật về tiền lương sẽ quy định những vấn đề cơ bản về tiền lương, phụ cấp, cơ chế quản lý tiền lương… đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cơ sở luật này, Chính phủ sẽ ban hành các Nghị định để hướng dẫn thi hành và các Bộ chức năng sẽ ban hành các Thông tư để hướng dẫn cụ thể cho các đơn vị tổ chức thực hiện.

3- Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, xác định cơ cấu biên chế.

Một trong những giải pháp quan trọng để có thể cải thiện và tăng lương cho các chức danh Tư pháp, những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, phụ thuộc vào số lượng biên chế hưởng lương ngân sách. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, để có thể tăng được lương cho đội ngũ công chức đều phải dùng đến biện pháp cắt giảm biên chế làm việc trong bộ máy của Chính phủ hoặc bộ máy của chính quyền địa phương. ở Việt Nam, nền kinh tế còn chưa phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm không lớn, ngân sách Nhà nước thu chưa đủ chi do vậy muốn tăng lương cải thiện đời sống cho c à các chức danh Tư pháp nói riêng thì không còn cách nào khác là phải giảm đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Muốn làm được như vậy phải từng bước nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp,  xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm việc, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và cụ thể hoá nội dung, phương thức quản lý, giảm bớt các khâu trung gian, các thủ tục hành chính gây ách tắc phiền hà cho dân.

Thực hiện phân cấp quản lý biên chế cho các Bộ, ngành, địa phương gắn với kế hoạch ngân sách của Bộ, ngành và địa phương, từng bước xã hội hoá một số lĩnh vực hoạt động tư pháp như công chứng, thi hành án. Thực hiện xã hội hoá không có nghĩa là Nhà nước hạn chế sự phát triển đối với những lĩnh vực này, trái lại nó tạo điều kiện để cho các lĩnh vực này ngày càng phát triển gắn các hoạt động, hiệu quả công tác với cơ chế trả lương, giúp các đơn vị hoạt động năng động hơn, ngày càng đáp ứng yêu cầu của nhân dân.

Khi xem xét để một tổ chức ra đời phải tính đến hiệu quả hoạt động của tổ chức đó và quan trọng là con người sẽ vận hành bộ máy đó ra sao để cho nó hoạt động có hiệu quả và tiết kiệm được chi phí của Nhà nước. Muốn vậy phải xác định được trong một tổ chức có những bộ phận cấu thành nào, cần bao nhiêu biên chế cho mỗi bộ phận cấu thành đó, cơ cấu biên chế của từng tổ chức…, từ đó làm cơ sở cho việc kế hoạch hoá quỹ tiền lương của từng cơ quan, đơn vị và phục vụ cho việc tuyển dụng, thi tuyển công chức, đào tạo bồi dưỡng và nâng ngạch công chức.

4- Thực hiện nghiêm túc việc đánh giá công chức hàng năm và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, bảo đảm trả lương đúng với giá trị sức lao động.

Một bộ phận công chức tư pháp hiện nay vẫn còn yếu về chất lượng, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao và vẫn để xảy ra tình trạng oan, sai cho dân. Tuy nhiên, lương trả cho bộ phận này cũng không có gì thay đổi so với lương trả cho bộ phận công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Điều này gây ra sự bất hợp lý trong chế độ đãi ngộ khi mà lương không được trả đúng với giá trị sức lao động. Do vậy, hàng năm phải thực hịên việc đánh giá trình độ, năng lực của công chức theo tiêu chuẩn nghiệp vụ và kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với những người không đảm nhận được công việc chuyên môn nghiệp vụ đang giữ thì xem xét bố trí công tác khác thích hợp hơn hoặc giải quyết cho nghỉ theo chế độ tinh giản biên chế.  Mặt khác, cần phải chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức thông qua việc thực hiện nghiêm túc chế độ tuyển dụng, bố trí, sắp xếp công chức và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của công chức ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ đã đặt ra. Có như vậy mới tạo được sự công bằng trong việc thực hiện chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với công chức và bảo đảm tiền lương được trả tương xứng với giá trị sức lao động.

5- Thực hành tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước.

Thực hiện tiết kiệm dự toán chi thường xuyên hàng năm (không bao gồm chi tiền lương và phụ cấp) của các đơn vị để thực hiện cải cách tiền lương. Nguồn tiết kiệm được để lại cho các cơ quan, đơn vị để trả lương cho cán bộ, công chức.

Các đơn vị được khuyến khích tiết kiệm chi thường xuyên nhưng phải bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ được giao, không được quá thiên về tiết kiệm mà cắt xén các nhiệm vụ phải thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức, không có hiệu quả.

6- Thực hiện khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với các đơn vị trong ngành Tư pháp.

Việc khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với các đơn vị sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tiết kiệm trong mọi hoạt động của đơn vị. Các đơn vị sẽ được giao ổn định mức khoán trong một thời gian nhất định. Căn cứ vào số biên chế và nguồn kinh phí được khoán, các đơn vị chủ động tổ chức công việc, sử dụng biên chế và kinh phí một cách hiệu quả, tiết kiệm nhưng phải bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Đối với phần kinh phí tiết kiệm được, các đơn vị được quyền sử dụng vào một số mục đích, trong đó dành bộ phận chủ yếu tăng tiền lương chung theo quy định.

7- Sớm ban hành chính sách nhà ở đối với cán bộ, công chức.

Trong tình hình hiện nay, khi chế độ tiền lương còn nhiều bất cập, tiền lương của đội ngũ công chức nói chung và công chức tư pháp nói riêng còn thấp, không đủ để bảo đảm đời sống cho bản thân và gia đình thì cần thiết phải nghiên cứu, ban hành chính sách nhà ở đối với cán bộ, công chức, nhất là các cán bộ, công chức có mức lương thấp, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác cũng như giảm bớt các biểu hiện tiêu cực trong các quan hệ công tác. Nhà nước có thể xây dựng các khu nhà chung cư riêng để dành cho công chức thuê với giá hợp lý hoặc mua trả góp trong nhiều năm.

Bên cạnh đó, cũng nên nghiên cứu, xây dựng các khu nhà công vụ để bảo đảm điều kiện ở cho các công chức thuộc diện được luân chuyển, điều động, biệt phái theo yêu cầu quy hoạch cán bộ, nhu cầu công tác hoặc cho các công chức trẻ đi thực tế ở địa phương nắm bắt tình hình và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, tạo cơ sở thuận lợi cho việc phát triển và nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.

 


 [D1]

 

File đính kèm downloadTải về