• Thuộc tính
Tên đề tài Luật doanh nghiệp
Nội dung tóm tắt
Nội dung toàn văn

Chương I

Những vấn đề chung

 

1.1. Ban hành luật doanh nghiệp - một yêu cầu cấp bách

Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ra đời vào giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 21-12-1990), thể hiện bước đột phá đánh dấu sự thay đổi trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Qua gần 10 năm áp dụng, hai Đạo luật đã góp phần to lớn vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước một cách toàn diện. Vai trò của các Đạo luật nêu trên có thể thấy ở hai điểm lớn sau:

Thứ nhất, góp phần duy trì sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội trong thời kỳ có những biến động lớn mang tính cách mạng trong và ngoài nước.

Thứ hai, đánh dấu một bước thay đổi quan trọng trong quá trình đổi mới nền kinh tế, tạo ra sự thay đổi mang tính chiến lược về chính sách và pháp luật tác động tới các thành phần kinh tế, đặc biệt trong tư duy về quyền tự do kinh doanh, về quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế trong thời kỳ mới.

Những thành tựu mà Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân mang lại thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Phát huy tác dụng trong việc huy động vốn đầu tư phát triển;

Mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh, qua đó tạo công ăn, việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm thu nhập, góp phần cải thiện mức sống của nhân dân.

Điều này được thể hiện qua một số số liệu sau:

Trong thời gian trên đã có 38.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập với tổng số vốn đăng ký kinh doanh khoảng 21.000 tỷ đồng; trung bình mỗi năm có thêm 5.000 doanh nghiệp mới đăng ký với tổng số vốn đăng ký trung bình hàng năm hơn 2.600 tỷ đồng. Theo ước tính sơ bộ, thời gian Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân có hiệu lực, doanh nghiệp tư nhân và công ty đã tạo được hơn 500.000 chỗ làm việc mới và đóng góp không nhỏ vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước; công ty và doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra khoảng 8% tổng sản phẩm xã hội. Ngoài ra, còn có hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể theo Nghị định 66/HĐBT, một loại hình kinh doanh đặc thù, cũng là kết quả của Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty. Các hộ kinh doanh cá thể này đã sử dụng hơn 3 triệu lao độngtạo ra khoảng 9% tổng sản phẩm xã hội. Sự xuất hiện và phát triển của doanh nghiệp tư nhân và công ty rõ ràng đã góp phần làm cho nền kinh tế trở nên sôi động và linh hoạt hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của cuộc sống.

Tuy nhiên, hiện tại, trình độ phát triển về kinh tế - xã hội ở nước ta đã đạt được mức cao hơn đáng kể so với 10 năm trước đây. Khung pháp lý, thể chế quản lý Nhà nước đã từng bước phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Chính sự phát triển đó đã tạo ra 2 lý do chủ yếu thúc đẩy việc ban hành Luật Doanh nghiệp trên cơ sở hợp nhất Luật Công ty (sửa đổi) và Luật Doanh nghiệp tư nhân (sửa đổi):

a) Sự thiếu thống nhất giữa các quy định của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân.

Trong hơn 10 năm qua, khung pháp lý nói chung và khung pháp lý về doanh nghiệp nói riêng đã không ngừng phát triển. Pháp luật dân sự, Luật Thương mại, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Phá sản doanh nghiệp và các luật khác về doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã,... đã được ban hành. Luật về đầu tư nước ngoài cũng đã được bổ sung, sửa đổi theo hướng từng bước thu hẹp sự khác biệt, tiến tới hình thành một khung pháp lý bình đẳng với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này phù hợp với các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia ký kết khi tham gia ASEAN, và tiến tới gia nhập WTO về đối xử quốc gia bình đẳng, công khai, minh bạch.

Vì vậy, một số quy định trong Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã không còn phù hợp với một số văn bản pháp luật hiện hành có liên quan, đặc biệt là Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thương mại, Bộ luật dân sự. Điều đó tạo nên sự không nhất quán trong giải thích và thi hành luật, hạn chế hiệu lực của các quy định pháp luật có liên quan trong hệ thống pháp luật.

b) Trong quá trình thi hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã phát sinh một số bất cập lớn sau:

- Từ các quy định về vốn pháp định, tức mức vốn tối thiểu các chủ đầu tư bắt buộc phải có khi muốn tham gia vào thương trường dưới một hình thức nhất định là doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty đã ngăn cản một số lượng đáng kể các chủ đầu tư tham gia vào hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp. Mặc dù, mục tiêu của các nhà lập pháp khi đặt ra quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp các chủ nợ, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững nhưng trên thực tế, quy định này đã có những tác động theo chiều hướng ngược lại. Sự can thiệp một cách quá mức của Nhà nước đối với tư cách của các chủ thể kinh doanh không những không bảo vệ được lợi ích cho các chủ nợ, bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế mà còn làm cho vô số chủ nợ không thể thu hồi được vốn, nền kinh tế phát triển một cách máy móc và thiếu năng động. Điều này được minh chứng qua hàng loạt các vụ án kinh tế lớn xảy ra trong một số năm gần đây mà điển hình là vụ Espco - Minh Phụng. Không chỉ có vậy, việc tạo ra một rào chắn về vốn đối với các chủ thể kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh đã tạo ra một số hậu quả sau:

+ Hàng loạt các nhà đầu tư không đủ mức vốn thành lập doanh nghiệp đã tiến hành kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể theo Nghị định 66/HĐBT ngày 2-3-1992, sau một thời gian mức vốn đã vượt quá mức vốn pháp định quy định cho ngành nghề tương ứng cho các doanh nghiệp nhưng họ vẫn không đăng ký xin thành lập doanh nghiệp. Bởi vì việc làm đó cũng không mang lại cho họ lợi ích gì. Chính điều này đã làm cho Nhà nước thất thu một số thuế rất lớn. Tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường.

+ Việc tạo ra điều kiện về vốn đã cho ra đời hàng loạt công ty và doanh nghiệp đủ điều kiện kinh doanh trên giấy tờ giả mạo mà trên thực tế thì hoàn toàn không hoạt động. Điều này tạo ra những lỗ hổng trong nền kinh tế, tiếp tay cho hành loạt các vụ lừa đảo xảy ra.

+ Cuối cùng, cũng chính điều kiện về vốn đã tạo ra vô số các thủ tục phiền hà cho các nhà đầu tư khi muốn tham gia vào kinh doanh.

- Thủ tục thành lập doanh nghiệp qua hai giai đoạn thành lập và đăng ký kinh doanh đã tạo ra một quy trình "xin - cho" qua nhiều cơ quan quản lý Nhà nước với nhiều loại giấy chứng nhận khác nhau. Theo thống kê của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, để thành lập một doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty, nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục qua 2 giai đoạn: xin giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh. Trong mỗi giai đoạn, nhà đầu tư phải làm đủ từ 8 đến 10 giấy chứng nhận khác nhau. Như vậy, để thành lập được một doanh nghiệp, nhà đầu tư phải xin được khoảng gần 20 loại giấy tờ và con dấu khác nhau. Đối với mỗi loại giấy chứng nhận, họ phải đến cơ quan nhà nước ít nhất là 2 lần, một lần đến để "xin" và một lần đến để được "cho". ở nhiều tỉnh và thành phố còn đặt ra những điều kiện và một số trình tự, thủ tục trái với Luật. Chính do thủ tục phiền hà này đã làm cho thời gian cần thiết bình quân để thành lập một doanh nghiệp khoảng 6 tháng và nhà đầu tư phải trả một "khoản phí" phi chính thức không nhỏ không dưới 10 triệu đồng, chưa kể phí đi lại. Đây chính là một bất cập lớn nhất làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước.

- Việc quy định địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh căn cứ vào quan hệ sở hữu đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia vào quá trình kinh doanh. Điều này gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi ra quyết định tham gia kinh doanh dưới hình thức nào, bó hẹp các hình thức huy động vốn cho nền kinh tế, làm giảm hiệu quả kinh doanh của các chủ đầu tư, giảm lòng tin của công đồng doanh nghiệp về sự công bằng trong hoạt động quản lý, tạo ra một tâm lý thiếu yên tâm của mỗi loại hình kinh doanh về sự tồn tại của mình trên thương trường.

- Việc quy định một cách thiếu rõ ràng về trách nhiệm của mỗi cơ quan quản lý Nhà nước cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này trong hai đạo luật trên cũng như trong các văn bản luật chuyên ngành đã tạo ra một cơ chế quản lý Nhà nước "mạnh ai người ấy được", mỗi cơ quan đều dùng chức năng quản lý Nhà nước của mình để kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp và luôn hoàn thành một cách "mỹ mãn" nhiệm vụ của mình nhưng cuối cùng trên thực tế các doanh nghiệp vẫn không có ai quản lý, chỉ đến khi có quá nhiều đơn thư khiếu nại của quần chúng nhân dân cũng như của chính các chủ nợ đến cơ quan công an và cơ quan chức năng thì những cơ quan này mới biết "hoá ra những doanh nghiệp này đã lừa mình". Nhưng đến lúc đó đã quá muộn, tiền của Nhà nước đã bị thất thoát quá lớn.

Cùng với thực trạng nêu trên, những yêu cầu phát sinh khi Việt Nam đang đứng trước xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội và các yêu cầu phát sinh khi nền kinh tế đã bước sang một giai đoạn phát triển mới cao hơn là rất lớn. Một nền kinh tế với số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường đã tăng lên đáng kể, cơ chế thị trường đã hoạt động với quy mô và cường độ lớn hơn, mức độ mở cửa của nền kinh tế nước ta với bên ngoài cũng đã tăng lên; số lượng giao dịch, loại giao dịch, quy mô giao dịch kinh doanh đã tăng lên gấp nhiều lần; loại hình hoạt động kinh doanh và tính chất của các loại hình kinh doanh cũng đa dạng và phức tạp hơn nhiều. Trong khi đó, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã làm giảm tính linh hoạt của các nhà đầu tư trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh và cơ hội đầu tư phù hợp với khả năng và điều kiện của họ. Và như vậy sẽ không phát huy được tối đa các nguồn nội lực của nền kinh tế. Đồng thời, đó cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu lực quản lý Nhà nước và giám sát bằng pháp luật của Nhà nước đối với các doanh nghiệp.

Từ những đòi hỏi bức xúc của nền kinh tế Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nhận định: "Nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá". Đồng thời Đảng đã chủ trương: "Luôn luôn nêu cao phương châm dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, động viên mọi người, mọi nhà, mọi cấp, mọi ngành cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dành vốn cho đầu tư, phát triển. Nguồn lực trong nước, như Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ tại Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, bao gồm nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống (lịch sử, văn hoá của dân tộc).

Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh."4

Để thực hiện được đường lối, chủ trương phát triển nền kinh tế của Đảng, hai đạo luật nêu trên cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nhằm bảo đảm:

Đa dạng hoá các loại hình kinh doanh cũng như tạo ra một cơ chế huy động vốn (góp vốn nhằm tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh) mềm dẻo, bảo đảm cho mọi thành phần kinh tế có thể tham gia một cách dễ dàng vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Phát huy và khơi dậy mọi tiềm năng, tiềm tàng trong xã hội cho công cuộc phát triển kinh tế;

Tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, đặc biệt là môi trường pháp lý, nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất - kinh doanh phù hợp với nhóm đối tượng cụ thể và yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Để từ đó tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn tham gia hoạt động sản xuất - kinh doanh, xây dựng một nền kinh tế ổn định và bền vững.

Phát triển các mạng lưới dịch vụ công nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như nhằm giúp các doanh nghiệp trong việc tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước, định hướng cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường nước ngoài, bảo hộ các nhà sản xuất trong nước phù hợp với chính sách thương mại của các nước trong khu vực và trên thế giới, ví dụ: dịch vụ cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh như thông tin thương mại, thông tin giá cả, thông tin chính sách, thông tin thị trường nước ngoài và các loại hình dịch vụ thông tin khác. Các dịch vụ công này hoặc là cung cấp cho các doanh nghiệp miễn phí hoặc là cung cấp cho các doanh nghiệp với chi phí thấp.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực kinh tế nhằm giảm đến mức tối đa về chi phí và thời gian của các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo tâm lý hào hứng cho các nhà đầu tư bỏ vốn vào hoạt động sản xuất - kinh doanh theo hướng, Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động mang tính sự vụ của các chủ thể kinh doanh mà chỉ tạo ra các khung pháp lý nhất định, tạo ra định hướng chung thông qua các biện pháp điều tiết vĩ mô nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thích hợp trong từng thời kỳ. Thay đổi cơ bản trong tư duy về vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, là "người bảo vệ" đối với các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước không phải là người trực tiếp can thiệp vào các quan hệ sản xuất, dịch vụ, phân phối và tiêu thụ hàng hoá giữa các doanh nghiệp. Đây là sự thay đổi mang tính quy luật, nhằm bảo đảm sự hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng và sự vận hành của nền kinh tế nói chung theo đúng những quy luật nội tại của nó. Hơn thế, cần tiến tới việc xã hội hoá hoạt động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh, giảm tối đa nguy cơ lạm quyền, hạch sách, quấy nhiễu và gây phiền hà của các cán bộ Nhà nước có thẩm quyền đối với các doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên đóng vai trò là người đăng ký "khai sinh", "khai tử" và "bảo vệ" quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khi bị xâm phạm. Đồng thời, Nhà nước thực sự chỉ can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp khi các doanh nghiệp có dấu hiệu xâm phạm tới các lợi ích chung hoặc khi hành vi xâm phạm của doanh nghiệp có dấu hiệu tội phạm.

Vì vậy, việc bổ sung và sửa đổi Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân theo hướng hợp nhất hai luật đó thành một luật đã trở nên cần thiết đối với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh ở nước ta. Ban hành Luật Doanh nghiệp có phạm vi điều chỉnh được mở rộng hơn, nội dung đầy đủ hơn, bao quát hơn, linh hoạt hơn, phù hợp hơn với yêu cầu tăng cường quản lý Nhà nước và yêu cầu đa dạng của giới kinh doanh, phù hợp hơn với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, sẽ góp phần không nhỏ vào việc cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy thêm việc huy động nội lực và sự phát triển kinh tế ở nước ta.

1.2. áp dụng Luật Doanh nghiệp và các luật có liên quan

Trên tinh thần dần tiến tới áp dụng một đạo luật duy nhất cho các chủ thể tham gia vào sản xuất kinh doanh, khắc phục những hạn chế bộc lộ trong quá trình thi hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp đã quy định:

"Việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam áp dụng theo quy định của Luật này và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này và quy định của luật chuyên ngành về cùng một vấn đề, thì áp dụng theo quy định của Luật chuyên ngành."

Quy định này đã giải đáp một cách rõ ràng mối quan hệ điều chỉnh giữa Luật Doanh nghiệp và các Luật chuyên ngành.

Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước nhằm tạo ra những điều kiện thiết yếu cho sự vận hành theo đúng quy luật của nền kinh tế, nhằm hướng sự phát triển của nền kinh tế theo những giá trị xã hội tiến bộ, phục vụ những mục tiêu chung của xã hội là một đòi hỏi tất yếu. Sự điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bằng các quy định pháp luật chuyên ngành cũng không nằm ngoài mục đích này. Nhà nước cần phải kiểm soát cũng như cần phải kiểm tra tư cách của từng chủ thể tham gia vào quá trình kinh doanh thông qua các hình thức nhất định, (ví dụ như điều kiện kinh doanh hoặc giấy phép kinh doanh, hoặc có thể thông qua một trình tự, thủ tục đặc biệt...). Chính vì vậy, Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp cũng đã quy định: trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật Doanh nghiệp và quy định của các luật chuyên ngành về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, thì áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành. Các Luật chuyên ngành đó là:

"1. Luật Các tổ chức tín dụng ngày 12 tháng 12 năm 1997;

2. Luật Khoáng sản ngày 20 tháng 3 năm 1996;

3. Luật Dầu khí ngày 6 tháng 7 năm 1993;

4. Luật Tài nguyên nước ngày 20 tháng 5 năm 1998;

5. Luật Hàng không dân dụng Việt Nam ngày 26 tháng 12 năm 1991; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam ngày 20 tháng 4 năm 1995;

6. Luật Xuất bản ngày 7 tháng 7 năm 1993;

7. Luật Báo chí ngày 28 tháng 12 năm 1989; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí ngày 12 tháng 6 năm 1999;

8. Luật Giáo dục ngày 2 tháng 12 năm 1998;

9. Bộ Luật Hàng Hải ngày 30 tháng 6 năm 1990;

10. Luật chuyên ngành khác hoặc luật sửa đổi, bổ sung luật chuyên ngành được thông qua sau khi Nghị định này có hiệu lực thi hành".

Quy định như vậy vừa đảm bảo được sự bình đẳng của các chủ thể khi tham gia thành lập doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác nhau, vừa thể hiện được tính linh hoạt, tính đặc thù của từng ngành, nghề nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh và thực hiện dịch vụ.

Tóm lại, sự ra đời của Luật Doanh nghiệp như một đòi hỏi tất yếu của cuộc sống nói chung và của nền kinh tế nói riêng đã đáp ứng mong mỏi của cộng đồng các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp cũng là một sự kiện lớn của nước ta được nhiều nhà đầu tư cũng như các Tổ chức quốc tế hết sức quan tâm và đánh giá cao trong nỗ lực cải cách nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, để đưa các quy định của Luật Doanh nghiệp vào thực tiễn cuộc sống không phải là đơn giản, nó đòi hỏi không chỉ phải có hệ thống các quy định pháp luật rõ ràng, minh bạch, mà còn cần xây dựng một cơ chế thi hành đồng bộ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những điểm mới của Luật Doanh nghiệp, nghiên cứu thực tiễn thi hành những quy định đó trong thực tiễn có vai trò quan trọng trong việc kiến nghị các giải pháp góp phần xây dựng một cơ chế đảm bảo thi hành thích hợp, không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.

 

chương II

những điểm mới của Luật Doanh nghiệp

 

2.1. Về tên gọi của luật. Với mong muốn xây dựng một Luật Doanh nghiệp áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, tạo một sân chơi bình đẳng, Quốc hội đã thống nhất lấy tên gọi là Luật Doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp với phạm vi điều chỉnh được mở rộng hơn so với Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân sẽ là bước đầu tiên tạo ra cơ sở pháp lý cho quá trình chuyển các chủ thể kinh doanh ở Việt nam sang hoạt động theo một luật chung, tiến tới xây dựng một luật duy nhất cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Đây cũng là một tín hiệu rõ ràng về cải cách hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về doanh nghiệp nói riêng ở nước ta, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh cho cộng đồng doanh nghiệp trong nước và ở nước ngoài, cho các tổ chức quốc tế và các nhà tài trợ khác, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.

Quốc hội biểu quyết lấy tên gọi là Luật Doanh nghiệp dựa trên những căn cứ:

Một là, trước yêu cầu cần thiết phải hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo lập một khung pháp lý bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã khẳng định: "Sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy về các loại hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, xây dựng luật thống nhất áp dụng cho các loại chủ thể kinh doanh".

Hai là, trên thực tế, việc phát triển của các loại hình doanh nghiệp trong những năm gần đây đã có sự đan xen, hỗn hợp các loại hình sở hữu, dẫn đến tình trạng là một doanh nghiệp có thể phải đồng thời chịu sự điều chỉnh của hai hoặc ba luật khác nhau. Chẳng hạn, doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá, dù vốn Nhà nước có chi phối hay không, cũng phải chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp nhà nước. Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần có sự tham gia góp vốn của Nhà nước cũng phải chịu sự điều chỉnh của hai luật nói trên. Nếu có sự tham gia góp vốn của người nước ngoài, thì còn phải chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do đó nếu để tên gọi là Luật Công ty và doanh nghiệp tư nhân dễ dẫn đến hiểu nhầm là Luật này chỉ điều chỉnh các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong nước.

Ba là, "cổ phần hoá" và "công ty hoá" là những biện pháp quan trọng của việc đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Liên quan đến vấn đề này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã nêu rõ: "chuyển các doanh nghiệp kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần; bổ sung hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có một sáng lập viên để áp dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh 100% vốn Nhà nước". Các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá và các doanh nghiệp kinh doanh 100% vốn Nhà nước được lựa chọn và chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn cũng cần hoạt động theo quy định của luật này. Những chính sách riêng đối với doanh nghiệp nhà nước và việc thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước được quy định tại Luật Doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, việc chuyển các doanh nghiệp kinh doanh 100% vốn Nhà nước sang hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp không cản trở đến việc thực hiện các chính sách riêng đối với doanh nghiệp nhà nước, cũng như việc thực hiện quyền sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước.

Bốn là, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, pháp luật về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam vừa phức tạp vừa không rõ ràng và không ổn định. Trên thực tế thi hành pháp luật về đầu tư nước ngoài trong những năm qua, pháp luật về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam điều chỉnh cả về chính sách đầu tư và loại hình kinh doanh. Do đó, trong một số năm tới, trước yêu cầu hội nhập, Luật Đầu tư nước ngoài cũng cần được sửa đổi theo hướng tách biệt chính sách đầu tư với loại hình doanh nghiệp. Những chính sách đặc thù về khuyến khích hoặc hạn chế đối với đầu tư nước ngoài sẽ được quy định bằng một văn bản pháp luật riêng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần được chuyển sang hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế.

2.2. Mở rộng phạm vi điều chỉnh

Trên cơ sở tên gọi là Luật Doanh nghiệp để áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp rộng hơn so với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Trước đây, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân chỉ điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Nay, phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp áp dụng đối với các loại hình sản xuất kinh doanh mà ta gọi là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt chủ sở hữu vốn. Các doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hoá, kể cả trường hợp Nhà nước có cổ phần chi phối tại doanh nghiệp; doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn cùng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp (Điều 1 Luật Doanh nghiệp).

Theo Điều 1 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp (sau đây gọi là Nghị định 03/2000/NĐ-CP), thì những loại hình doanh nghiệp sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành:

- Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp;

- Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân đã thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 21 tháng 12 năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công ty, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 22 tháng 6 năm 1994;

- Công ty cổ phần được thành lập từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước;

- Công ty cổ phần được thành lập từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị - xã hội;

- Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước;

- Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập từ việc chuyển đổi doanh nghiệp của Đảng, doanh nghiệp của tổ chức chính trị - xã hội.

Luật Doanh nghiệp, cụ thể là các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu (từ Điều 46 đến Điều 50) là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị - xã hội đăng ký và hoạt động. Như vậy, Luật Doanh nghiệp điều chỉnh phần lớn các loại hình doanh nghiệp trong nước (trừ hợp tác xã, tổ hợp tác và một số doanh nghiệp nhà nước). Việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam áp dụng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các quy định pháp luật khác có liên quan. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật Doanh nghiệp và quy định của các luật chuyên ngành về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, thì áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành.

2.3. Xác định phương pháp điều chỉnh theo tư duy mới

Từ phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, chúng ta có thể thấy bản chất của những mối quan hệ trong Doanh nghiệp là sự tự nguyện và tự do hợp đồng nên phương pháp điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp khác với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Bản chất phương pháp điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp là bằng các quy định của pháp luật tạo lập công cụ và cơ hội bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan, đồng thời đề cao trách nhiệm và nghĩa vụ của các đối tượng này trong việc tự bảo vệ lấy lợi ích hợp pháp của chính mình. Đặc biệt, để giảm bớt gánh nặng về chi phí và nhân lực cho Nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, Nhà nước không "lo thay" cho doanh nghiệp như trước, mà chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ trong việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp; còn những người có liên quan phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và độ trung thực của những thông tin do chính họ cung cấp. Điều đó thể hiện ở chỗ:

2.3.1. Trong việc thành lập doanh nghiệp, người thành lập doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ, hồ sơ khác ngoài hồ sơ đã được quy định tại Luật doanh nghiệp đối với từng loại hình doanh nghiệp và cơ quan này chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký kinh doanh (Điều 12). Trong vấn đề định giá tài sản góp vốn khi không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng thì các sáng lập viên của công ty là người định giá tài sản góp vốn theo nguyên tắc nhất trí. Trong quá trình hoạt động, Hội đồng quản trị công ty cổ phần, Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, tất cả thành viên hợp danh của công ty hợp danh là người định giá tài sản góp vốn. Những người định giá tài sản góp vốn phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác đối với giá trị tài sản góp vốn. Trường hợp giá trị tài sản góp vốn được định cao hơn so với giá trị thực tế của nó tại thời điểm góp vốn, thì người góp vốn và người định giá phải góp đủ số vốn như đã được định giá; nếu gây thiệt hại cho người khác thì phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường. Trường hợp người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan chứng minh được tài sản góp vốn được định giá sai so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn, thì có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh buộc người định giá phải định giá lại hoặc chỉ định tổ chức giám định để giám định lại giá trị tài sản góp vốn (Điều 23). Đối với ngành, nghề kinh doanh phải có điều kiện kinh doanh không cần giấy phép, thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh ngành, nghề đó, kể từ khi có đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định và cam kết thực hiện đúng các điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Người thành lập doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện đúng điều kiện kinh doanh theo quy định. Nếu doanh nghiệp tiến hành kinh doanh mà không có đủ điều kiện, thì người thành lập doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải cùng liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kinh doanh đó (Điều 4 Nghị định 03/2000/NĐ-CP). Đối với việc đăng ký kinh doanh những loại ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về vốn pháp định, cơ quan có thẩm quyền xác nhận và cách thức xác nhận vốn pháp định được xác định theo quy định của luật, pháp lệnh và nghị định quy định về vốn pháp định. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của số vốn được xác nhận khi thành lập doanh nghiệp và trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về vốn pháp định, thủ trưởng cơ quan xác nhận vốn pháp định cùng liên đới chịu trách nhiệm về tính chính xác của số vốn được xác nhận khi thành lập doanh nghiệp (Điều 5 Nghị định 03/2000/NĐ-CP).

2.3.2. Tương tự như vậy, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp được tăng tính tự quyết chủ động định đoạt các vấn đề phát sinh. Chẳng hạn đối với điều kiện để tiến hành cuộc họp Hội đồng thành viên lần thứ nhất thì phải có đại diện ít nhất 65% vốn điều lệ có mặt, lần thứ hai phải có đại diện của ít nhất 50% (tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định) (Điều 38). Luật Doanh nghiệp chỉ đưa ra quy định khung, còn vấn đề cụ thể sẽ dành cho những người thành lập doanh nghiệp quyết định và phải nằm trong khung mà pháp luật đã quy định. Hoặc đối với vấn đề người đại diện hợp pháp của công ty trách nhiệm hữu hạn (Điều 41) cũng do điều lệ công ty quy định, chỉ khi trong điều lệ không quy định thì Luật mới xác định đại diện hợp pháp của công ty trách nhiệm hữu hạn là Giám đốc/Tổng giám đốc. Như vậy, quyền quyết định trước hết vẫn thuộc về những người thành lập doanh nghiệp, chỉ khi họ không tự quyết định thì Nhà nước mới quyết định thay.

Qua sự phân tích trên, có thể thấy các quy định của Luật Doanh nghiệp đã thể hiện được tư duy điều chỉnh mới trong việc thành lập doanh nghiệp cũng như trong toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp hoàn toàn có quyền chủ động đối với các lĩnh vực như:

- Được tự kê khai thông tin về doanh nghiệp cũng như về các thành viên sáng lập nhưng phải cam kết chịu trách nhiệm về tính trung thực của những thông tin đó trước pháp luật.

- Được chủ động, giao kết và thực hiện các hợp đồng, chủ động huy động vốn nhưng phải chấp nhận sự kiểm tra giám sát của nội bộ doanh nghiệp, của các thành viên góp vốn, của chủ nợ, của khách hàng, người tiêu dùng và của các cá nhân, tổ chức có liên quan.

- Có quyền thay đối địa điểm, thay đổi phương thức kinh doanh, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp... nhưng mọi sự thay đổi phải được công khai hoá và thông báo đầy đủ với cơ quan đăng ký kinh doanh, cục thuế.

Với phương pháp điều chỉnh như vậy, Luật Doanh nghiệp quy định những vấn đề chung nhất của từng mô hình doanh nghiệp. Các chủ thể khi muốn thành lập doanh nghiệp ngoài việc tuân thủ quy định của Luật Doanh nghiệp, còn tự xây dựng cho mình điều lệ của doanh nghiệp và phải tuân thủ đúng điều lệ của doanh nghiệp. Với phương pháp điều chỉnh mới Luật Doanh nghiệp đã gắn kết được quyền tự do kinh doanh với trách nhiệm trước pháp luật của các chủ doanh nghiệp.

Tuy nhiên, phương pháp điều chỉnh mới của Luật Doanh nghiệp cũng có thể tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Cơ chế tự điều chỉnh đã mở ra cho các doanh nghiệp khả năng chủ động hơn trong kinh doanh, thế nhưng cũng có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong những trường hợp cần xác định rõ đâu là trách nhiệm hữu hạn của công ty, đâu là trách nhiệm vô hạn của cá nhân. Trong thực tế kinh doanh, khi điều lệ doanh nghiệp cũng không có phân định rõ khi nào áp dụng chế độ trách nhiệm của công ty, khi nào áp dụng trách nhiệm cá nhân thì rất có khả năng cá nhân lợi dụng danh nghĩa công ty, lợi dụng quy định công ty chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn để thực hiện những giao dịch với mưu cầu lợi ích cá nhân. Trường hợp gây ra thiệt hại thì sẽ áp dụng chế độ trách nhiệm nào, hữu hạn hay vô hạn; trách nhiệm của công ty đến đâu, trách nhiệm cá nhân đến đâu? Cho nên cũng cần phải có quy chế xác định mối quan hệ và trách nhiệm giữa các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với cộng đồng nhằm nâng cao trách nhiệm giữa các thành viên đối với doanh nghiệp và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cộng đồng và ngược lại. Vì hiện nay mối quan hệ này mới được xác lập qua bản nội quy hoặc những quyết định của chủ doanh nghiệp nên khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ sẽ còn thiếu các chế định cần thiết để giải quyết.

2.4. Bổ sung mô hình công ty hợp danh.

2.4.1. Các loại hình doanh nghiệp quy định trong Luật Doanh nghiệp được mở rộng hơn so với trước. Ngoài công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, và doanh nghiệp tư nhân, nay còn có thêm công ty hợp danh. Với mục đích từng bước đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, Luật Doanh nghiệp khuyến khích doanh nghiệp và dân cư trực tiếp đầu tư vốn để kinh doanh, mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh bằng cách bổ sung thêm các loại hình doanh nghiệp để nhà đầu tư lựa chọn, đồng thời tạo ra cơ sở pháp lý giúp nhà đầu tư giảm và phân bổ rủi ro hợp lý trong quá trình kinh doanh. Luật Doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho chủ đầu tư được quyền lựa chọn hình thức kinh doanh thích hợp nhất. Điều này sẽ tăng thêm lòng tự tin, tính sáng tạo và dám chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư trong kinh doanh, qua đó hoạt động đầu tư và kinh doanh sẽ được mở rộng thêm trên cả số lượng doanh nghiệp, quy mô, ngành nghề và địa bàn kinh doanh.

Công ty hợp danh - một dạng của công ty đối nhân - là loại hình doanh nghiệp rất phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nhưng lần đầu tiên được pháp luật nước ta thừa nhận. Công ty hợp danh là tổ chức kinh tế có ít nhất hai thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty gọi là thành viên hợp danh. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp. Ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn, chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty trong phạm vi giá trị phần vốn góp vào công ty. Như vậy, có hai loại công ty hợp danh là công ty hợp danh có tất cả thành viên đều là thành viên hợp danh và công ty hợp danh có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Công ty hoạt động dưới tên chung (hội danh) thường theo công thức là lấy tên riêng của một hoặc một số thành viên hợp danh đặt thành tên của công ty.

Điều kiện chuyên môn và uy tín nghề nghiệp của thành viên hợp danh được quy định như sau:

+ Tất cả thành viên hợp danh của công ty đều phải có chứng chỉ hành nghề nếu công ty hợp danh kinh doanh các ngành, nghề sau: kinh doanh dịch vụ pháp lý; kinh doanh dịch vụ khám, chữa bệnh và kinh doanh dược phẩm; kinh doanh dịch vụ thú y và kinh doanh thuốc thú y; kinh doanh dịch vụ thiết kế công trình; kinh doanh dịch vụ kiểm toán; kinh doanh dịch vụ môi giới chứng khoán.

+ Đối với công ty hợp danh kinh doanh các ngành, nghề khác, thì thành viên hợp danh là người đã được đào tạo về ngành, nghề đó.

2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của thành viên.

a) Thành viên hợp danh có quyền: trực tiếp tham gia quản lý hoạt động kinh doanh của công ty; tham gia thảo luận và biểu quyết về tất cả các công việc của công ty; được chia lợi nhuận theo thoả thuận quy định trong Điều lệ công ty; sử dụng tài sản của công ty để phục vụ cho lợi ích của công ty; được hoàn trả lại mọi khoản chi đã thực hiện để phục vụ lợi ích của công ty; được nhận thông tin về hoạt động kinh doanh và quản lý công ty, xem sổ kế toán và các hồ sơ khác của công ty; các quyền khác quy định trong Điều lệ công ty. Ngoài ra, thành viên hợp danh có quyền rút khỏi công ty, nếu được đa số thành viên hợp danh còn lại đồng ý; có quyền yêu cầu công ty đổi tên nếu tên của thành viên hợp danh đã rút khỏi công ty được sử dụng để đặt tên công ty. Khi rút khỏi công ty, phần vốn góp được hoàn trả theo giá thoả thuận hoặc theo giá được xác định dựa trên nguyên tắc quy định trong Điều lệ công ty. Sau khi rút khỏi công ty, người đó vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty đã phát sinh trước khi đăng ký việc chấm dứt tư cách thành viên đó với cơ quan đăng ký kinh doanh. Đồng thời thành viên hợp danh cũng có những nghĩa vụ: góp đủ số vốn đã cam kết góp vào công ty; chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; phải chịu lỗ theo nguyên tắc quy định trong Điều lệ công ty trong trường hợp kinh doanh bị thua lỗ; phải hành động một cách trung thực, mẫn cán phục vụ lợi ích hợp pháp của công ty khi quản lý hoặc thực hiện hoạt động kinh doanh nhân danh công ty hoặc đại diện cho công ty; chấp hành nội quy và quyết định của công ty; các nghĩa vụ khác do Điều lệ công ty quy định. Ngoài ra, do đặc điểm riêng của công ty hợp danh (là loại hình công ty đối nhân được thiết lập chủ yếu dựa trên nền tảng tin cậy, hiểu biết lẫn nhau) nên để đảm bảo tính ổn định trong hoạt động kinh doanh của công ty, đảm bảo khả năng tồn tại cho công ty, tại các điểm e, g, h khoản 2 Điều 27 Nghị định 03/2000/NĐ-CP còn có quy định hạn chế một số quyền của thành viên hợp danh. Thành viên hợp danh không được đồng thời là thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân; không được tự mình hoặc nhân danh người thứ ba thực hiện hoạt động kinh doanh trong cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty; không được nhân danh công ty ký kết hợp đồng, xác lập và thực hiện các giao dịch khác nhằm thu lợi riêng cho cá nhân và cho người khác.

b) Thành viên góp vốn có quyền: tham gia thảo luận và biểu quyết về việc bổ sung, sửa đổi các quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn được quy định trong Điều lệ công ty; về việc tổ chức lại và giải thể công ty; được chia lợi nhuận; được chia giá trị tài sản còn lại khi công ty giải thể theo quy định trong Điều lệ công ty; được chuyển nhượng phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác, nếu Điều lệ công ty không quy định khác; được nhận thông tin về hoạt động kinh doanh và quản lý công ty, xem sổ kế toán và hồ sơ khác của công ty; các quyền khác do Điều lệ công ty quy định. Thành viên góp vốn có nghĩa vụ: góp đủ số vốn đã cam kết và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi giá trị số vốn đã cam kết góp vào công ty; không được tham gia quản lý công ty, không được hoạt động kinh doanh nhân danh công ty; chấp hành đúng nội quy và quyết định của công ty; các nghĩa vụ khác do Điều lệ công ty quy định.

2.4.3. Ngoài những quy định trên, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành còn có những quy định cụ thể về tổ chức, quản lý công ty hợp danh; quy định về cơ chế tiếp nhận thành viên; quy định những trường hợp chấm dứt tư cách thành viên và hậu quả pháp lý. Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp lần đầu tiên được đưa thành chế định pháp luật ở nước ta. Trên thực tế, một số yếu tố của công ty hợp danh đã được manh nha trong loại hình nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định theo Nghị định số 66/CP của Chính phủ ngày 2-3-1992. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, các nhóm kinh doanh có đủ điều kiện sẽ phải đăng ký để hoạt động dưới hình thức công ty hợp danh. Tuy nhiên, cho đến ngày 30-10-2000 mới chỉ có 2 công ty hợp danh được thành lập trên tổng số 11.215 doanh nghiệp mới được thành lập. Như vậy, có thể thấy các loại hình doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân được quy định trong Luật Doanh nghiệp đã được các nhà đầu tư hưởng ứng, riêng đối với loại hình công ty hợp danh, các nhà đầu tư Việt Nam rất cân nhắc khi lựa chọn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân chính sau:

Về mặt chủ quan, chế độ trách nhiệm khắt khe (các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty) khiến cho các nhà đầu tư phải cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng trước khi quyết định có tham gia công ty này hay không. Chính nguyên tắc trách nhiệm vô hạn làm cho thành viên hợp danh phải chịu rủi ro cao hơn, đặt những thành viên này vào nguy cơ có thể bị tịch thu, tịch biên tài sản cá nhân để trả nợ cho công ty. Mặt khác, không phải cứ có vốn là có thể tham gia vào công ty với tư cách là thành viên hợp danh. Để trở thành thành viên hợp danh của công ty, các chủ thể cần phải đáp ứng được 2 điều kiện chính là: vốn và chứng chỉ hành nghề do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Như vậy, việc tham gia thành lập công ty hợp danh khó khăn và phức tạp hơn so với việc tham gia thành lập các công ty đối vốn khác do đặc điểm của công ty này là tính chặt chẽ, tính đòi hỏi cao về mặt chuyên môn cũng như về mặt trách nhiệm của thành viên hợp danh đối với công việc của mình.

Về mặt khách quan, những quy định về công ty hợp danh của Luật Doanh nghiệp cũng như văn bản hướng dẫn thi hành nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các vấn đề phát sinh trong việc thành lập cũng như trong quá trình hoạt động của công ty hợp danh. Luật Doanh nghiệp quy định về công ty hợp danh tại các Điều từ 95 đến 98; và được hướng dẫn tại các Điều từ 26 đến 32 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP. Tuy nhiên, các quy định này khi được áp dụng trong thực tiễn đã bộc lộ không ít những bất cập:

a) Luật Doanh nghiệp chưa xác định rõ tư cách pháp lý cho công ty hợp danh. Trong Luật Doanh nghiệp không có quy định nào khẳng định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân hay không. Và đây chính là một hạn chế của Luật Doanh nghiệp. Việc xác định tư cách pháp nhân cho công ty hợp danh là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn, nhất là trong việc giải quyết trách nhiệm pháp lý của công ty, trách nhiệm tài sản với bên ngoài. Tuy nhiên, việc Luật Doanh nghiệp quy định thành viên hợp danh phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty trong công ty hợp danh cũng có thể thấy công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân.

b) Quy định về cơ chế quản lý trong công ty hợp danh chưa rõ ràng, còn thiếu những quy định cụ thể về cơ chế phối hợp, sự phân định quyền hạn giữa các thành viên trong công ty.

2.5. Hoàn thiện các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn.

2.5.1 Về khái niệm công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có sự thay đổi. Luật Công ty không quy định số lượng thành viên tối đa, nhưng Luật Doanh nghiệp quy định số lượng thành viên tối đa của công ty trách nhiệm hữu hạn không vượt quá 50 (điểm c khoản 1 Điều 26). Luật Doanh nghiệp quy định mức tối đa số thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn là để tất cả các công ty trách nhiệm hữu hạn có số lượng thành viên vượt quá mức tối đa đã quy định (50 người) thì phải chuyển sang hoạt động và kinh doanh theo hình thức công ty cổ phần.

2.5.2. Về vấn đề phát hành chứng khoán, theo quy định của Luật Công ty, công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào (khoản 1 Điều 25). Quy định này đã hạn chế khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn. Luật Doanh nghiệp chỉ hạn chế là công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu (khoản 2 Điều 26, khoản 3 Điều 46). Với quy định như vậy để thu hút vốn đầu tư cho doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn có thể phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, quy định về việc phát hành trái phiếu của công ty trách nhiệm hữu hạn chưa được quy định cụ thể trong Luật Doanh nghiệp.

2.5.3. Về vấn đề chuyển nhượng vốn, theo quy định của Luật Công ty, việc chuyển nhượng vốn góp cho người không phải là thành viên của công ty không được tự do thực hiện. Thành viên của công ty muốn chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người không phải là thành viên của công ty thì phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ (Điều 25 khoản 2 Luật Công ty). Quy định này nhằm tạo ra sự ổn định về cơ cấu thành viên và cơ cấu quyền lực của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh, nhưng đồng thời nó lại gây ra tác dụng ngược là làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của chủ đầu tư. Khi việc rút vốn trở nên khó khăn thì cũng sẽ hạn chế phần nào khả năng đầu tư vào kinh doanh của các nhà đầu tư. Để khắc phục hạn chế đó, Luật Doanh nghiệp đã mở rộng hơn khả năng chuyển vốn ra ngoài so với Luật Công ty. Theo Điều 32 Luật Doanh nghiệp, khi thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp thì các thành viên trong công ty được quyền ưu tiên mua trước, nếu các thành viên mua không hết hoặc không mua thì người có số vốn đó có quyền bán cho người ngoài. Quy định này vừa đảm bảo lợi ích của người chuyển nhượng vốn vừa đảm bảo lợi ích của các thành viên khác trong công ty.

2.5.4. Trong các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn của Luật Doanh nghiệp còn có một quy định rất mới nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số mà Luật Công ty không có. Đó là tại Điều 31 Luật Doanh nghiệp đã quy định trường hợp thành viên nào đó bỏ phiếu chống hoặc phản đối bằng văn bản đối với quyết định của Hội đồng thành viên về các vấn đề:

Sửa đổi nội dung trong điều lệ công ty liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thành viên;

Tổ chức lại công ty;

Các trường hợp khác quy định tại điều lệ của công ty.

Trong trường hợp như vậy, thành viên đó có quyền yêu cầu bằng văn bản công ty mua lại phần vốn góp của mình và yêu cầu này phải được gửi tới công ty trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông qua quyết định về các vấn đề nói trên. Khi có yêu cầu mua lại phần vốn góp, nếu không thỏa thuận được về giá, thì công ty phải mua lại phần vốn góp của thành viên đó theo giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Việc thanh toán chỉ được thực hiện nếu sau khi thanh toán đủ phần vốn góp được mua lại, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác.

2.5.5. Về cơ cấu tổ chức trong công ty trách nhiệm hữu hạn được quy định thoáng hơn, linh động hơn so với Luật Công ty. Trước đây cơ cấu tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn phụ thuộc vào số lượng thành viên (nếu có từ 12 người trở lên thì cơ cấu giống như công ty cổ phần- nghĩa là gồm có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và giám đốc điều hành; nếu có từ 11 người trở xuống thì cơ cấu do thành viên công ty bàn bạc quyết định - Luật Công ty không quy định một cơ cấu rõ ràng trong trường hợp này). Nay theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trong cơ cấu công ty trách nhiệm hữu hạn từ 2 thành viên trở lên không cần phải phân chia như vậy, chỉ bắt buộc phải có: Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám đốc). Công ty trách nhiệm hữu hạn có trên 11 thành viên phải có Ban kiểm soát. Quyền, nghĩa vụ và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Đổi mới quy định về cơ cấu tổ chức như vậy có ưu điểm là mức độ linh hoạt cao, cho phép các nhà đầu tư có quyền lựa chọn cơ cấu tổ chức quản lý áp dụng cho doanh nghiệp của họ.

2.5.6. Về thẩm quyền của hội đồng thành viên được mở rộng hơn, trước đây Luật Công ty quy định trong quá trình hoạt động của công ty, tất cả thành viên phải được tham gia quyết định các vấn đề sau đây: phương hướng và nhiệm vụ phát triển công ty; cử hoặc miễn nhiệm giám đốc công ty; sửa đổi điều lệ công ty; thông qua quyết toán năm tài chính và phân chia lợi nhuận cho các thành viên; sử dụng quỹ dự trữ; sáp nhập, chuyển đổi hình thức, giải thể hoặc gia hạn hoạt động của công ty. Thể thức thông qua các quyết định về các vấn đề nói trên phải được quy định rõ trong điều lệ công ty.

Ngoài những quyền trên, Luật Doanh nghiệp còn bổ sung thêm các quyền: quyết định việc chia, tách, hợp nhất công ty; quyết định những giao dịch giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; quyết định việc tăng giảm vốn, tiếp nhận thành viên mới. Và để giám sát, hạn chế khả năng tư lợi của một số thành viên trong công ty, Luật Doanh nghiệp (Điều 35, 42) còn quy định về những loại hợp đồng phải được Hội đồng thành viên chấp thuận. Đó là các hợp đồng kinh tế, lao động, dân sự khi được ký kết giữa công ty với thành viên, Giám đốc (Tổng giám đốc) công ty, với người có liên quan của họ đều phải được thông báo cho tất cả thành viên biết chậm nhất mười lăm ngày trước khi ký. Nếu thành viên nào đó phát hiện ra hợp đồng có tính chất tư lợi thì có quyền yêu cầu Hội đồng thành viên xem xét và quyết định. Đối với những trường hợp này, hợp đồng chỉ được ký sau khi có quyết định của Hội đồng thành viên. Nếu hợp đồng được ký mà chưa được Hội đồng thành viên chấp thuận, thì hợp đồng đó vô hiệu và được xử lý theo quy định của pháp luật. Những người gây thiệt hại cho công ty phải bồi thường thiệt hại phát sinh, hoàn trả cho công ty tất cả các khoản lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng đó.

2.5.7. Về trình tự, thủ tục tiến hành các phiên họp và thể thức thông qua quyết định của hội đồng thành viên trước đây là do điều lệ của công ty quy định, nay đã được Luật Doanh nghiệp quy định cụ thể tại Điều 38. Luật Doanh nghiệp quy định về vấn đề này là nhằm mục đích hạn chế sự độc quyền của những thành viên có phần vốn góp lớn trong các công ty trách nhiệm hữu hạn, đồng thời đảm bảo được quyền lợi của các thành viên có phần vốn góp nhỏ hơn. Theo đó, cuộc họp Hội đồng thành viên được tiến hành lần thứ nhất khi có số thành viên dự họp đại diện ít nhất 65% vốn điều lệ. Nếu không thoả mãn điều kiện này thì sẽ được tiến hành lần thứ hai với đại diện ít nhất 50% vốn điều lệ (tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định) trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày cuộc họp lần thứ nhất dự định khai mạc. Nếu vẫn không thoả mãn điều kiện này thì được triệu tập họp lần thứ ba trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày cuộc họp lần thứ hai dự định khai mạc và lần này cuộc họp Hội đồng thành viên đương nhiên được tiến hành không phụ thuộc số thành viên dự họp.

2.5.8. Về quyền và nghĩa vụ của các thành viên, đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, Luật Doanh nghiệp quy định một số quyền của thành viên mà Luật Công ty trước đây chưa đề cập đến. Chẳng hạn như:

Quyền được khởi kiện Giám đốc (Tổng giám đốc) tại Tòa án khi Giám đốc (Tổng giám đốc) không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên đó (Điều 29 khoản 1 điểm g);

Trong trường hợp bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, thì vẫn được đảm bảo quyền và nghĩa vụ trong công ty (thực hiện thông qua người giám hộ) nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận (Điều 33 khoản 2).

Những quy định này đã góp phần đảm bảo sự ổn định trong hoạt động công ty, đảm bảo quyền khai thác lợi ích từ tài sản của chủ sở hữu và có thể giải quyết được những vẫn đề phát sinh từ thực tế hoạt động của công ty.

2.6. Quy định thêm loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Theo Luật Doanh nghiệp, số lượng thành viên không nhất thiết phải từ hai trở lên như trước, cho phép thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên do một tổ chức làm chủ sở hữu (từ Điều 46 đến Điều 50). Đây là một điểm mới lần đầu tiên được khẳng định trong Luật Doanh nghiệp.

Trong thực tế kinh doanh ở nước ta, đã tồn tại rất nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó có một số thành viên danh nghĩa, còn thực chất chỉ có một thành viên. Việc đưa thêm 2 hoặc 3 thành viên danh nghĩa vào danh sách thành viên sáng lập công ty chỉ là cách làm hợp pháp hoá việc thành lập công ty, còn thực chất công ty chỉ có một chủ. Như vậy, dù pháp luật có thừa nhận hay không thì công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vẫn tồn tại và hoạt động trên thực tế. Luật Công ty trước đây không có khả năng ngăn chặn việc thành lập công ty thuộc sở hữu của một chủ. Do đó, khi Luật Doanh nghiệp thừa nhận loại hình kinh doanh này tức là đã đưa ra được một giải pháp pháp lý đối với một vấn đề bức xúc trên thực tế. Môi trường kinh doanh có thể rõ ràng và minh bạch hơn.

Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là tại Điều 46 Luật Doanh nghiệp có quy định: "Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu". Để cụ thể hóa quy định này Điều 14 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP quy định tổ chức là chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải là pháp nhân, gồm 17 tổ chức sau đây:

"1. Cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang;

2. Cơ quan Đảng cấp Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

3. ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

4. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

5. Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

6. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

7. Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Hội Cựu chiến binh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

8. Hội Nông dân Việt Nam và Hội Nông dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

9. Liên hiệp các tổ chức hoà bình, đoàn kết, hữu nghị Việt Nam;

10. Doanh nghiệp nhà nước;

11. Doanh nghiệp của Đảng, của các tổ chức chính trị - xã hội;

12. Hợp tác xã;

13. Công ty trách nhiệm hữu hạn;

14. Công ty cổ phần;

15. Các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp;

16. Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện;

17. Các tổ chức khác."

Điểm đặc thù của mô hình công ty trách nhiệm một thành viên thể hiện ở chỗ: thành viên duy nhất của công ty cũng chính là chủ sở hữu công ty. Vì vậy để tránh lạm dụng quyền hạn của chủ sở hữu công ty, Luật Doanh nghiệp đưa ra các quy định ràng buộc nghiêm ngặt hơn đối với chủ sở hữu công ty. Đó là:

Chủ sở hữu công ty không được trực tiếp rút vốn đã góp vào công ty (dù là một phần hay toàn bộ). Chỉ được rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức và cá nhân khác;

Chỉ được rút lợi nhuận của công ty khi công ty đã thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả;

Việc tăng hoặc giảm vốn điều lệ được thực hiện bằng cách tăng và giảm vốn góp của chủ sở hữu công ty; điều chỉnh mức vốn điều lệ tương ứng với giá trị tài sản của công ty.

Được biết, tính đến ngày 30-11-2000, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có 17 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên trên tổng số 2.083 doanh nghiệp mới được thành lập. Con số này phần nào thể hiện sự chấp nhận của các nhà đầu tư đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên và cho thấy việc Luật Doanh nghiệp quy định mô hình này là đúng đắn, phúc đáp đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh.

2.7. Hoàn thiện các quy định về công ty cổ phần.

2.7.1. Công ty cổ phần là loại hình công ty có quy mô kinh doanh lớn, có sự góp vốn của nhiều nhà đầu tư. Đây là mô hình công ty đối vốn rất đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Vì thế, các quy định của Luật Doanh nghiệp đã chú trọng, hoàn thiện hơn địa vị pháp lý cho loại hình công ty này. Luật Doanh nghiệp đưa ra nhiều quy định mới có tác dụng khuyến khích mọi người đầu tư, góp vốn thành lập công ty cổ phần và tạo điều kiện cho công ty hoạt động tốt. Chẳng hạn, trước đây Luật Công ty yêu cầu số cổ đông tối thiểu đối với công ty cổ phần là 7 người, thì nay theo Luật Doanh nghiệp số lượng cổ đông tối thiểu của công ty cổ phần là 3 (điểm d khoản 1 Điều 51 Luật Doanh nghiệp). Những quy định mới này có tác dụng khuyến khích các nhà đầu tư góp vốn thành lập công ty cổ phần. Điều này đã được thể hiện rõ trên thực tế, trong số 11.215 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập đã có 507 công ty cổ phần, nhiều hơn số công ty cổ phần đăng ký thành lập trong 9 năm trước đây. Về số cổ đông tối đa vẫn quy định như cũ, tức là đối với công ty cổ phần không giới hạn số cổ đông tối đa.

2.7.2. Luật Doanh nghiệp quy định một số quyền của thành viên hoặc cổ đông mà Luật Công ty trước đây chưa đề cập đến. Đó là:

- Quyền được cung cấp thông tin cơ bản về tài chính, quản lý và hoạt động của công ty thông qua hình thức tham dự Đại hội đồng cổ đông. Mỗi cổ đông đều có quyền được cung cấp các thông tin liên quan đến mình, được ghi trong danh sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông. Cổ đông có quyền yêu cầu sửa đổi những thông tin sai lệch hoặc bổ sung những thông tin cần thiết về mình trong danh sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông (Điều 72);

- Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần trong trường hợp biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty. Yêu cầu phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty nói trên. Khi có yêu cầu mua lại cổ phần, công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông với giá thị trường hoặc giá được định theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá, thì các bên có quyền yêu cầu Trọng tài hoặc Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật (Điều 64);

- Quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông trong công ty (Điều 53 khoản 1 điểm c)…

2.7.3. Các quy định của Luật Doanh nghiệp giúp cho các nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào doanh nghiệp, tự mình theo dõi tình hình hoạt động của doanh nghiệp để có thể đưa ra những quyết định hợp lý về đầu tư vào doanh nghiệp. Thêm vào đó Luật Doanh nghiệp cũng quy định đầy đủ hơn các công cụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư nói chung và của nhà đầu tư thiểu số nói riêng. Các công cụ đó bao gồm:

a) Quy định đầy đủ hơn các quyền cơ bản của người đầu tư; trong đó chú ý nhiều đến quyền hợp pháp của cổ đông thiểu số.

Một là, Luật Doanh nghiệp quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng, hoặc tỷ lệ nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty, có quyền:

- Đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát (nếu có);

- Yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông; Đại hội đồng cổ đông được triệu tập lần thứ ba đương nhiên sẽ có hiệu lực pháp lý, bất kể số cổ đông đến dự họp là bao nhiêu;

Xem và nhận bản sao hoặc trích lục danh sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông;

Kiến nghị vấn đề đưa vào chương trình họp Đại hội đồng cổ đông. Kiến nghị phải bằng văn bản và được gửi đến công ty chậm nhất ba ngày trước ngày khai mạc. Kiến nghị phải ghi rõ tên cổ đông, số lượng từng loại cổ phần của cổ đông, vấn đề kiến nghị đưa vào chương trình họp. Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông chỉ có quyền từ chối kiến nghị này trong các trường hợp sau đây:

+ Kiến nghị được gửi đến không đúng thời hạn hoặc không đủ, không đúng nội dung;

+ Vấn đề kiến nghị không thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông;

+ Những trường hợp khác quy định tại Điều lệ công ty (khoản 2 Điều 53, khoản 4 Điều 72).

Những quy định cụ thể, rõ ràng về trình tự và thủ tục chuẩn bị triệu tập họp, tiến hành họp và ra quyết định của đại hội đồng cổ đông có tác dụng ngăn ngừa khả năng cổ đông/nhóm cổ đông đa số hoặc những người quản lý công ty lạm dụng quyền lực loại bỏ cổ đông/nhóm cổ đông thiểu số ra khỏi quá trình quyết định những vấn đề quan trọng trong công ty.

Hai là, Luật Doanh nghiệp có những quy định mở rộng về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông. Trước đây, theo quy định của Luật Công ty, Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, có quyền quyết định những vấn đề sau: Đại hội đồng thành lập được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập, thảo luận và thông qua điều lệ công ty; quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch kinh doanh hàng năm; thảo luận và thông qua bản tổng kết năm tài chính; bầu, bãi miễn thành viên hội đồng quản trị và kiểm soát viên; quyết định số lợi nhuận trích lập các quỹ của công ty, số lợi nhuận chia cho các cổ đông, phân chia trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra đối với công ty trong kinh doanh; xem xét, quyết định giải pháp khắc phục các biến động lớn về tài chính của công ty; xem xét sai phạm của hội đồng quản trị gây thiệt hại cho công ty; Đại hội đồng bất thường được triệu tập để sửa đổi điều lệ công ty. Ngoài những quyền trên, theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Đại hội đồng cổ đông còn có quyền: quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần; quyết định tổ chức lại và giải thể công ty; quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, trừ trường hợp điều chỉnh vốn điều lệ do bán thêm cổ phần mới trong phạm vi số lượng cổ phần được quyền chào bán quy định tại Điều lệ công ty; quyết định bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty; quyết định mua lại hơn 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại (Điều 70).

Ba là, cùng với các quy định về mở rộng quyền của các cổ đông, của Đại hội đồng cổ đông nói trên, Luật Doanh nghiệp còn quy định các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng các cổ đông đa số hoặc cổ đông là thành viên trong Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc) và các cán bộ quản lý khác lạm dụng vị thế, quyền hạn của mình để thu vén cho cá nhân, gia đình, làm phương hại đến lợi ích của công ty nói chung và của các cổ đông thiểu số nói riêng. Các biện pháp đó là: cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã cam kết mua và chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (khoản 1 Điều 54); trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao một cách trung thực, mẫn cán vì lợi ích của công ty và cổ đông của công ty (Điều 86); nếu người điều hành có lỗi, không ghi chép sổ sách kế toán theo quy định thì phải bồi thường thiệt hại.

Bốn là, Luật Doanh nghiệp còn quy định công khai hóa các giao dịch có khả năng tư lợi để ngăn ngừa, hạn chế cổ đông đa số, cũng như những người quản lý lạm dụng vị thế, quyền lực của họ trong việc quyết định và thực hiện các giao dịch của công ty. Những quy định này có tác dụng giám sát các giao dịch có nguy cơ tư lợi, nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi cho các cổ đông trong công ty. Những hợp đồng dân sự, kinh tế của công ty với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc), thành viên Ban kiểm soát, cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần có quyền biểu quyết và với người có liên quan của họ chỉ được ký kết và thực hiện khi được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận (các hợp đồng có giá trị lớn hơn 20% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty), hoặc phải được Hội đồng quản trị chấp thuận (các hợp đồng có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn 20% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty). Đối với trường hợp phải được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận thì cổ đông hoặc cổ đông có người có liên quan là bên ký hợp đồng không có quyền biểu quyết; trường hợp phải được Hội đồng quản trị chấp thuận thì thành viên Hội đồng quản trị hoặc thành viên Hội đồng quản trị có người có liên quan là bên ký hợp đồng không có quyền biểu quyết. Đối với những trường hợp hợp đồng được ký mà chưa được Đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị chấp thuận thì hợp đồng đó vô hiệu, sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật. Những người gây thiệt hại cho công ty phải bồi thường (Điều 87).

Việc Luật Doanh nghiệp chú ý đến các quy định bảo hộ người góp vốn thiểu số không làm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người góp vốn đa số.

b) Thiết lập các cơ chế góp vốn linh hoạt, qua đó các nhà đầu tư có thể cùng nhau thoả thuận và lựa chọn cách thức góp vốn phù hợp với điều kiện và lợi ích của họ. Đây là sự tiến bộ và phát triển rất rõ nét của Luật Doanh nghiệp so với Luật Công ty. Trước đây theo quy định của Luật công ty thì vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu, những người sở hữu cổ phiếu gọi là cổ đông (khoản 2 Điều 30 Luật Công ty). Luật Công ty không có sự phân loại rõ ràng các loại cổ phiếu, và tương ứng với nó là các loại cổ đông. Cách quy định chỉ có một loại cổ phần như Luật Công ty làm cho cơ cấu vốn của công ty cứng nhắc, không tạo ra các hình thức góp vốn linh hoạt để các nhà đầu tư lựa chọn. Khắc phục nhược điểm trên, Luật Doanh nghiệp đã đa dạng hoá chế độ cổ phần để mỗi người đầu tư đều có thể tìm được cơ hội đầu tư phù hợp với yêu cầu, khả năng và mục tiêu cụ thể của chính họ. Luật Doanh nghiệp quy định cụ thể, vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, các cổ phần được chia thành nhiều loại: cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi (cổ phần ưu đãi biểu quyết; cổ phần ưu đãi cổ tức; cổ phần ưu đãi hoàn lại; và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định). Tương ứng với mỗi loại cổ phần thì người sở hữu cổ phần phổ thông được gọi là cổ đông phổ thông, người sở hữu cổ phần ưu đãi được gọi là cổ đông ưu đãi - cổ đông ưu đãi biểu quyết; cổ đông ưu đãi cổ tức; cổ đông ưu đãi hoàn lại (điểm a khoản 1 Điều 51, Điều 52). Người sở hữu mỗi loại cổ phần được hưởng những quyền lợi và phải chịu những hạn chế khác nhau. Ví dụ cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết ngoài các quyền như cổ đông phổ thông, còn được quyền biểu quyết về các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông với số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với số phiếu cổ phần phổ thông (do Điều lệ quy định), nhưng không được chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết cho người khác (Điều 55). Đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức thì ngoài các quyền như cổ đông phổ thông, còn được nhận cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm; khi công ty giải thể được nhận lại một phần tài sản còn lại tương ứng với số cổ phần góp vốn vào công ty, sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ và cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại ngoài các quyền như cổ đông phổ thông, còn được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ lúc nào theo yêu cầu của người sở hữu, hoặc theo những điều kiện được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại. Tuy nhiên, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết, không có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông, không có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát (Điều 56, 57). Ngoài ra, đối với cổ phần phổ thông thì thực hiện nguyên tắc mỗi cổ phần một lá phiếu. Sự đa dạng về chế độ cổ phần với các mức độ quyền khác nhau của Luật Doanh nghiệp đã cho phép doanh nghiệp tạo lập được một cơ cấu vốn linh hoạt phù hợp với xu thế phát triển, đáp ứng được yêu cầu quản lý doanh nghiệp trong tình hình hiện nay. Đồng thời chế độ cổ phần đa dạng cũng đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, tạo ra sức hấp dẫn đối với việc huy động vốn.

c) Quy định cụ thể và chi tiết cơ chế và cách thức để những người góp vốn có thể tham gia vào việc ra quyết định của doanh nghiệp, giám sát việc quản lý doanh nghiệp. Các cổ đông có quyền trực tiếp hoặc ủy quyền bằng văn bản cho người khác dự họp Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp cổ phần được chuyển nhượng trong thời gian từ ngày lập xong danh sách cổ đông đến ngày khai mạc cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, thì người nhận chuyển nhượng có quyền dự họp thay thế cho người chuyển nhượng đối với số cổ phần đã chuyển nhượng (Điều 75). Đại hội đồng cổ đông họp ít nhất mỗi năm 1 lần theo yêu cầu của Hội đồng quản trị, hoặc của cổ đông, hoặc của Ban kiểm soát trong trường hợp Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý, Hội đồng quản trị ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao (Điều 71). Đại hội đồng cổ đông thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền bằng hình thức biểu quyết. Quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua tại cuộc họp khi được đa số các cổ đông đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận; đối với quyết định về loại cổ phần và số lượng cổ phần được quyền chào bán của từng loại; sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; tổ chức lại, giải thể công ty, bán hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty thì phải được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận. Trường hợp lấy ý kiến bằng văn bản, thì quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 51 % tổng số phiếu biểu quyết chấp nhận. Quyết định của Đại hội đồng cổ đông phải được thông báo đến cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày quyết định được thông qua (Điều 77). Cổ đông, thành viên của Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc) và Ban kiểm soát có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và huỷ bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông trong thời hạn 90 ngày (kể từ ngày quyết định được thông qua) trong các trường hợp: trình tự, thủ tục triệu tập Đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và Điều lệ của công ty, nội dung của quyết định vi phạm quy định của pháp luật và Điều lệ của công ty (Điều 79). Để thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp quy định công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có Ban kiểm soát từ ba đến năm thành viên, trong đó ít nhất phải có một thành viên có chuyên môn về kế toán để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động, kinh doanh, trong ghi chép sổ sách, kế toán và báo cáo tài chính và báo cáo lên Đại Hội đồng cổ đông; thẩm định báo cáo tài chính hàng năm kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động công ty; thường xuyên thông báo với hội đồng quản trị về kết quả hoạt động, tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình các báo cáo, kết luận, kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông, kiến nghị các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty... (Điều 88). Cùng với việc tham dự và quyết định những vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của công ty, các cổ đông đều được gửi thông báo về tình hình tài chính hàng năm của công ty, các tổ chức, cá nhân khác cũng được quyền nắm bắt những thông tin liên quan đến tình hình tài chính hàng năm của công ty tại cơ quan đăng ký kinh doanh và phải trả một khoản phí nhất định (Điều 93). Đây là một quy định mới nhằm giúp cho các cổ đông và những người quan tâm có những quyết định đúng đắn khi góp vốn vào doanh nghiệp, hoặc tham gia các giao dịch với doanh nghiệp.

Tất cả các quy định nói trên sẽ nâng cao thêm độ an toàn và linh hoạt của việc trực tiếp góp vốn vào sản xuất, kinh doanh. Điều đó sẽ thúc đẩy thêm đầu tư và huy động thêm được nhiều vốn hơn cho phát triển sản xuất, kinh doanh ở nước ta.

2. 8. Thực hiện việc tổ chức lại doanh nghiệp một cách linh hoạt.

Nội dung này hoàn toàn mới so với Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân 1990 (sửa đổi, bổ sung 1994). Mục đích và ý nghĩa của Luật Doanh nghiệp khi quy định về các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp là nhằm tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các nhà đầu tư. Bởi vì có thể cùng là một loại hình kinh doanh, nhưng tại giai đoạn này thì phù hợp, nhưng sang giai đoạn khác không còn phù hợp nữa. Do đó quy định các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp đã tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư thay đổi hình thức kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, tránh tình trạng phải giải thể hay phá sản doanh nghiệp một cách không cần thiết. Hơn nữa việc đưa ra một khung pháp lý để tổ chức lại doanh nghiệp, qua đó có thể thực hiện có hiệu quả, ít tốn kém, bảo vệ được lợi ích của các bên liên quan như chủ nợ, người lao động, lợi ích nhà nước... là vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực trong việc tạo lập và ổn định môi trường kinh doanh. Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp cũng phong phú và đa dạng, gồm: sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, và chuyển đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp.

2.8.1 Chia doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp quy định việc tổ chức lại doanh nghiệp dưới hình thức chia doanh nghiệp được thực hiện đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể được chia thành một số công ty cùng loại. Việc chia doanh nghiệp được quyết định trong cuộc họp của Hội đồng thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì dựa trên quyết định của chủ sở hữu công ty) hoặc Đại hội đồng cổ đông (Điều 105 Luật Doanh nghiệp).

Quyết định chia công ty trách nhiệm hữu hạn thông qua với tỷ lệ số phiếu đại diện cho ít nhất 75% số vốn của các thành viên dự họp chấp thuận, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định tỷ lệ khác (điểm a khoản 2 Điều 13, khoản 2 Điều 33 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP).

Quyết định về việc chia công ty cổ phần được thông qua khi được số cổ đông đại diện cho ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận (điểm a khoản 2 Điều 24, khoản 3 Điều 33 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP). Trường hợp Điều lệ công ty quy định tỷ lệ khác cao hơn thì áp dụng tỷ lệ tối thiểu phải có theo quy định của Điều lệ công ty.

Quyết định chia công ty phải có các nội dung chủ yếu sau: tên, trụ sở công ty hiện có; số lượng công ty sẽ thành lập; nguyên tắc và thủ tục chia tài sản công ty; phương án sử dụng lao động, thời hạn và thủ tục chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị chia sang công ty mới thành lập; nguyên tắc giải quyết các nghĩa vụ của công ty bị chia.

Việc chia công ty được thực hiện theo hai cách: tất cả thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn/cổ đông của công ty cổ phần bị chia đều là thành viên/cổ đông của công ty mới hoặc các thành viên/cổ đông của công ty bị chia được chia thành từng nhóm tương ứng làm thành viên/cổ đông của công ty mới thành lập từ công ty bị chia. Khi chia công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thì chủ sở hữu công ty bị chia vẫn là chủ sở hữu của các công ty mới được thành lập. Đối với công ty cổ phần thì cổ đông phản đối phương án đã quyết định về chia cổ đông thành các nhóm tương ứng có quyền yêu cầu công ty bị chia mua lại cổ phần của mình trước khi thực hiện chia công ty.

Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty mới được thành lập thông qua Điều lệ, bầu hoặc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc), tiến hành đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Trong trường hợp này hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo quyết định chia công ty. Sau khi đăng ký kinh doanh các công ty mới, công ty bị chia chấm dứt tồn tại.

Việc xử lý nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia:

Quyết định phân chia trách nhiệm của các công ty mới thành lập đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia không có hiệu lực pháp lý đối với chủ nợ, đối với người có quyền và lợi ích liên quan, trừ trường hợp công ty mới thành lập và chủ nợ có liên quan có thoả thuận khác.

Tất cả các công ty mới được thành lập từ công ty bị chia đều phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia, trừ trường hợp chủ nợ và công ty mới thành lập từ công ty bị chia có thoả thuận khác. Khi các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả, thì chủ nợ có quyền yêu cầu một trong các công ty mới được thành lập từ công ty bị chia thanh toán các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả. Công ty được yêu cầu phải thanh toán khoản nợ đến hạn đó, đồng thời có quyền yêu cầu các công ty còn lại hoàn trả lại phần tương ứng mà họ phải gánh chịu.

2.8.2. Tách doanh nghiệp. Hình thức tách doanh nghiệp cũng được áp dụng đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể tách bằng cách chuyển một phần tài sản của công ty hiện có (gọi là công ty bị tách) để thành lập một hoặc một số công ty mới cùng loại (gọi là công ty được tách); chuyển một phần quyền và nghĩa vụ của công ty bị tách sang công ty được tách mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách (Điều 104 Luật Doanh nghiệp).

- Thủ tục tách công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần được quy định như sau:

Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông của công ty bị tách thông qua quyết định tách công ty theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty. Tỷ lệ số phiếu chấp thuận phải có để thông qua việc tách công ty tương tự như trường hợp chia công ty nêu ở phần trên. Quyết định tách công ty phải có các nội dung chủ yếu sau: tên, trụ sở công ty bị tách; số lượng công ty được tách sẽ thành lập; phương án sử dụng lao động; giá trị tài sản, các quyền và nghĩa vụ được chuyển từ công ty bị tách sang công ty được tách; thời hạn thực hiện tách công ty. Thủ tục đăng ký kinh doanh các công ty mới được tách theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trong trường hợp này hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo quyết định tách công ty.

Luật Doanh nghiệp quy định cụ thể về cách thức tách doanh nghiệp trong 3 trường hợp khác nhau tương ứng với 3 loại hình doanh nghiệp được tách. Cụ thể như sau:

+ Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: thành viên của công ty bị tách và công ty được tách được xử lý theo một trong 3 phương án: (1) công ty bị tách trở thành chủ sở hữu của công ty được tách; (2) tất cả thành viên của công ty bị tách đều là thành viên của công ty được tách; (3) các thành viên của công ty bị tách chia thành các nhóm tương ứng làm thành viên của các công ty trách nhiệm hữu hạn sau khi tách công ty. Trong trường hợp này, quyết định về phương án chia các thành viên thành các nhóm tương ứng làm thành viên của các công ty sau khi tách phải được tất cả các thành viên chấp thuận.

+ Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thì chủ sở hữu công ty bị tách đồng thời là chủ sở hữu của công ty được tách, hoặc công ty bị tách làm chủ sở hữu của công ty được tách.

+ Đối với công ty cổ phần, cổ đông của công ty bị tách và công ty được tách được xử lý theo một trong 2 phương án: (1) tất cả các cổ đông của công ty bị tách đều là cổ đông của công ty mới được tách; (2) các cổ đông của công ty bị tách được chia thành từng nhóm tương ứng làm cổ đông của công ty bị tách và công ty được tách.

- Sau khi tách công ty trách nhiệm hữu hạn, các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán của công ty bị tách được xử lý như sau (khoản 6 Điều 34 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP):

+ Trường hợp công ty bị tách trở thành chủ sở hữu của công ty được tách, thì công ty bị tách vẫn hoàn toàn chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán; công ty được tách không chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách.

+ Trường hợp tất cả thành viên của công ty bị tách đều là thành viên của công ty được tách, hoặc thành viên của công ty bị tách được chia thành từng nhóm tương ứng làm thành viên của các công ty sau khi tách, thì công ty bị tách và công ty được tách đều phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán của công ty bị tách phát sinh trước khi tách công ty, trừ trường hợp chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan và công ty bị tách hoặc công ty được tách có thoả thuận khác. Nếu không có thoả thuận khác, thì khi các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả, công ty bị tách phải hoàn trả số nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ tài sản đó. Trường hợp công ty bị tách không thanh toán được các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài sản khác phát sinh trước khi tách công ty, thì chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan có quyền yêu cầu công ty được tách thanh toán các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.

- Sau khi tách công ty cổ phần, công ty bị tách và công ty được tách phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán của công ty bị tách phát sinh trước khi tách công ty, trừ trường hợp chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan và công ty bị tách hoặc công ty được tách có thoả thuận khác. Trường hợp không có thoả thuận khác, thì khi các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả, công ty bị tách phải hoàn trả số nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ tài sản đó. Trường hợp công ty bị tách không thanh toán được các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài sản khác phát sinh trước khi tách công ty, thì chủ nợ, người có quyền và lợi ích liên quan có quyền yêu cầu công ty được tách thanh toán các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả (khoản 7 Điều 34 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP).

2.8.3. Hợp nhất doanh nghiệp (Điều 107 Luật Doanh nghiệp)

Hợp nhất doanh nghiệp là hình thức tổ chức lại doanh nghiệp trong đó hai hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (gọi là công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.

Thủ tục hợp nhất công ty được quy định như sau:

Các công ty bị hợp nhất chuẩn bị hợp đồng hợp nhất. Hợp đồng hợp nhất phải có các nội dung chủ yếu sau: tên, trụ sở các công ty bị hợp nhất; tên, trụ sở công ty hợp nhất; thủ tục và điều kiện hợp nhất; phương án sử dụng lao động; thời hạn, thủ tục và điều kiện chuyển đổi tài sản; chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị hợp nhất thành phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty hợp nhất; thời hạn thực hiện hợp nhất; dự thảo Điều lệ công ty hợp nhất. Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty bị hợp nhất thông qua hợp đồng hợp nhất, Điều lệ công ty hợp nhất, bầu hoặc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) công ty hợp nhất; tiến hành đăng ký kinh doanh công ty hợp nhất theo quy định của Luật này. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo hợp đồng hợp nhất.

Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại. Công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất.

2.8.4. Sáp nhập doanh nghiệp (Điều 108 Luật Doanh nghiệp)

Sáp nhập doanh nghiệp doanh nghiệp là hình thức tổ chức lại doanh nghiệp trong đó một hoặc một số công ty cùng loại (gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.

Thủ tục sáp nhập công ty được quy định như sau: các công ty liên quan chuẩn bị hợp đồng sáp nhập và dự thảo Điều lệ công ty nhận sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu sau: tên, trụ sở công ty nhận sáp nhập; tên, trụ sở công ty bị sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; thủ tục, điều kiện và thời hạn chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần và trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành phần vốn góp, cổ phần và trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện sáp nhập. Thủ tục đăng ký kinh doanh công ty nhận sáp nhập tuân theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trong trường hợp này hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo hợp đồng sáp nhập.

Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập.

2.8.5. Chuyển đổi công ty. Luật Doanh nghiệp quy định hai hình thức chuyển đổi doanh nghiệp.

a) Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc ngược lại (Điều 109 Luật Doanh nghiệp). Thủ tục chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (gọi là công ty được chuyển đổi) thành công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (gọi là công ty chuyển đổi) được quy định như sau:

Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định chuyển đổi và Điều lệ công ty chuyển đổi. Quyết định chuyển đổi phải có các nội dung chủ yếu sau: tên, trụ sở công ty được chuyển đổi; tên, trụ sở công ty chuyển đổi; thời hạn và điều kiện chuyển tài sản, phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty được chuyển đổi thành tài sản, cổ phần, trái phiếu, phần vốn góp của công ty chuyển đổi; phương án sử dụng lao động; thời hạn thực hiện chuyển đổi.

Việc đăng ký kinh doanh của công ty chuyển đổi được tiến hành theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo quyết định chuyển đổi.

Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại. Công ty chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty được chuyển đổi.

b) Chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Điều 110 Luật Doanh nghiệp).

Trường hợp chủ sở hữu công ty chuyển một phần vốn điều lệ cho tổ chức, cá nhân khác thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày chuyển nhượng, chủ sở hữu công ty và người nhận chuyển nhượng phải đăng ký việc thay đổi số lượng thành viên với cơ quan đăng ký kinh doanh. Kể từ ngày đăng ký thay đổi quy định tại khoản này, công ty được quản lý và hoạt động theo các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên.

Trường hợp chủ sở hữu công ty chuyển toàn bộ vốn điều lệ cho một cá nhân thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hoàn thành thủ tục chuyển nhượng, chủ sở hữu công ty phải yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh xóa tên công ty trong sổ đăng ký kinh doanh và người nhận chuyển nhượng phải đăng ký kinh doanh theo hình thức doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật này. Người nhận chuyển nhượng tiếp nhận tất cả các nghĩa vụ, được hưởng tất cả các quyền và lợi ích hợp pháp của công ty trách nhiệm hữu hạn, trừ trường hợp chủ sở hữu công ty, người nhận chuyển nhượng và chủ nợ của công ty có thoả thuận khác.

2.8.6. Quy định việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp và chuyển đổi doanh nghiệp từ loại hình này sang loại hình khác, tạo cho doanh nghiệp cơ hội và khả năng linh hoạt trong mở rộng quy mô, ngành, nghề kinh doanh phù hợp với yêu cầu phát triển kinh doanh của doanh nghiệp; mở ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội phát triển đa dạng, có hiệu quả, có thể tiến tới các quy mô lớn như tổng công ty, tập đoàn kinh doanh... Đồng thời, các quy định liên quan của Luật Doanh nghiệp đã chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và các bên có liên quan khác trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi. Điều này thể hiện ở quy định quyết định (hoặc hợp đồng) tổ chức lại doanh nghiệp phải được gửi đến tất cả chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày thông qua quyết định hoặc hợp đồng đó (điểm a khoản 2 Điều 105, điểm a khoản 2 Điều 106, điểm b khoản 2 Điều 107, điểm b khoản 2 Điều 108, khoản 2 Điều 109) và cách thức xử lý các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán như đã nêu ở trên..

Như vậy, có thể thấy các mô hình kinh doanh đa dạng theo Luật Doanh nghiệp đã đáp ứng được các nhu cầu khác nhau tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện của từng người kinh doanh, góp phần khuyến khích công dân bỏ vốn nhàn rỗi và tài sản vào hoạt động kinh doanh sinh lời.

2.9. Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp

2.9.1. Luật Doanh nghiệp xoá bỏ thủ tục "xin-cho"

Theo quy định của Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân, để thành lập doanh nghiệp, nhà đầu tư phải tiến hành qua hai bước: bước 1 - xin phép thành lập doanh nghiệp ở Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc đơn vị hành chính cấp tương đương, nơi dự định đặt trụ sở chính; bước 2 - xin cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh tại Sở kế hoạch và đầu tư. Theo đó, để tiến hành một hoạt động kinh doanh theo hình thức công ty hay doanh nghiệp tư nhân, thì nhà đầu tư phải qua hai giai đoạn thủ tục "xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh". Mỗi giai đoạn thủ tục này lại cần nhiều loại giấy tờ, con dấu khác nhau, do đó để thành lập công ty hay doanh nghiệp tư nhân, nhà đầu tư tốn rất nhiều thời gian cũng như chi phí. Cơ chế xin phép thành lập doanh nghiệp qua thực tiễn thi hành Luật công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã bộc lộ những hạn chế như:

- Thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp mâu thuẫn với nguyên tắc tự do kinh doanh đã được ghi nhận tại điều 57 Hiến pháp 1992.

- Thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp đã làm cho một số cơ quan nhà nước phải thực hiện những việc không thuộc thẩm quyền quản lý Nhà nước. Chẳng hạn, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân trước đây đã quy định: cơ quan cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp phải thẩm định dự án kinh doanh ban đầu của nhà đầu tư. Tuy nhiên, đây lại là công việc không thuộc lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Kinh doanh như thế nào thì chỉ có nhà đầu tư mới thực sự hiểu rõ và đây là trách nhiệm của nhà đầu tư đối với khối tài sản đã bỏ ra kinh doanh, trách nhiệm đối với uy tín thương nhân. ở đây đã tồn tại quan niệm rất vô lý là nhà đầu tư xin phép thành lập doanh nghiệp, trong khi đó cơ quan nhà nước lại phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc thành lập doanh nghiệp.

- Cơ chế xin phép thành lập đã "tạo điều kiện" cho một số tỉnh/thành phố đặt thêm những điều kiện và một số trình tự, thủ tục và giấy tờ khác ngoài quy định của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Do đó, trong quá trình xin phép thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, các nhà đầu tư luôn phải theo dõi quá trình vận động của hồ sơ, qua đó có những tác động cần thiết để việc thành lập được xúc tiến và đạt kết quả.

Những thủ tục phức tạp trên đã làm nản lòng không ít nhà đầu tư và dẫn đến tình trạng có một số nhà đầu tư thực hiện các hoạt động kinh doanh ngầm-kinh doanh không đăng ký hoặc nếu có đăng ký thì đăng ký dưới hình thức cá nhân kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2-3-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có thủ tục đăng ký đơn giản và ít tốn kém hơn so với đăng ký theo hình thức của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân.

Nhằm khắc phục những hạn chế trên và thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp đã hoàn thiện những quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh theo hướng đơn giản hoá thủ tục và hồ sơ, đề cao trách nhiệm của người đăng ký kinh doanh trong việc bảo đảm tính chính xác, trung thực. So với Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân, các quy định về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp đã có những đổi mới cơ bản như: xóa bỏ chế độ "xin phép" thành lập, chỉ thực hiện việc đăng ký kinh doanh; coi việc thành lập doanh nghiệp là quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, góp phần xoá bỏ cơ chế "xin-cho" đang tồn tại khá phổ biến trong đời sống kinh tế-xã hội nước ta. Đây chính là một bước tiến mới trong việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh của Luật Doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp quy định nghĩa vụ phải đăng ký kinh doanh, người đăng ký phải chịu trách nhiệm kê khai "chính xác, trung thực" đầy đủ các nội dung đăng ký kinh doanh. Theo quy định của Điều 12 Luật Doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ, hồ sơ khác ngoài hồ sơ quy định tại Luật Doanh nghiệp đối với từng loại hình doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh không chịu trách nhiệm về nội dung kê khai mà chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm giải quyết việc đăng ký kinh doanh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ; nếu từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì phải thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết... Quy định này làm giảm hẳn khâu quyết định cho phép thành lập, hạn chế sự tuỳ tiện đòi hỏi thêm các hồ sơ, giấy tờ như thực tế thi hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân trong thời gian vừa qua. Đồng thời cũng nhằm phân biệt rõ ràng quyền tự do kinh doanh của mọi tổ chức, công dân với quyền được hành nghề trong một số lĩnh vực cần thiết đòi hỏi kinh doanh có điều kiện hay có chứng chỉ hành nghề (như luật sư, bác sĩ), không vì yêu cầu bảo đảm an toàn cho xã hội (như phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường....) mà gây khó khăn, chậm trễ cho người thành lập doanh nghiệp, giảm bớt các thủ tục phiền hà không cần thiết trong quá trình cấp giấy đăng ký kinh doanh.

2.9.2. Giảm thời gian thành lập doanh nghiệp.

Luật Công ty quy định thời gian thành lập công ty là 60 ngày (Điều 16); Luật doanh nghiệp tư nhân quy định thời gian thành lập doanh nghiệp tư nhân là 30 ngày (Điều 10); còn theo Luật Doanh nghiệp, thời gian thành lập doanh nghiệp là 15 ngày (Điều 12). Tuy nhiên, theo kết quả điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thì thời gian trung bình cần thiết để thành lập doanh nghiệp trước ngày Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành (1-1-2000) là 98 ngày, đến nay đã rút xuống còn 7 ngày; nhiều nơi đã rút xuống còn 2 ngày.

2.9.3. Đơn giản hoá hồ sơ đăng ký kinh doanh.

Trước đây, theo quy định của Luật Công ty, muốn thành lập công ty, các sáng lập viên phải gửi đơn xin phép thành lập đến Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, nơi dự định đặt trụ sở chính. Trong đơn xin thành lập công ty phải ghi rõ:

- Họ, tên, tuổi, địa chỉ thường trú của các sáng lập viên;

- Tên gọi, trụ sở dự định của công ty;

- Mục tiêu, ngành, nghề kinh doanh;

- Vốn điều lệ và cách thức góp vốn;

- Biện pháp bảo vệ môi trường;

- Chương trình xây dựng công ty.

Đơn phải kèm theo phương án kinh doanh ban đầu và dự thảo điều lệ công ty. Và để được cấp giấy phép thành lập công ty thì công dân, tổ chức có quyền tham gia thành lập công ty phải có các điều kiện sau:

- Mục tiêu, ngành, nghề kinh doanh rõ ràng, có phương án kinh doanh ban đầu; có trụ sở giao dịch;

- Có vốn điều lệ phù hợp với quy mô và ngành, nghề kinh doanh. Vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định do Hội đồng bộ trưởng quy định;

- Người quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh phải có trình độ chuyên môn tương ứng mà pháp luật đòi hỏi đối với một số ngành, nghề.

Những quy định trên rõ ràng có "tác dụng" làm rắc rối thêm các quy định về trình tự, thủ tục thành lập công ty, thành lập doanh nghiệp tư nhân vốn đã phức tạp. Muốn thành lập công ty hay doanh nghiệp tư nhân, nhà đầu tư phải hội đủ các loại giấy tờ chứng nhận về nhân thân, vốn liếng, nghề nghiệp, địa chỉ với hơn 10 con dấu từ cấp phường đến thành phố. Trong thực tế thi hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã bộc lộ không ít những hạn chế như:

- Ba điều kiện để được cấp giấy phép thành lập công ty nói trên là những điều kiện không có tính khả thi trong thực tế. Chúng ta lấy tiêu chuẩn nào để đánh giá tính chất rõ ràng của mục đích, ngành nghề kinh doanh? Mặt khác, khi áp dụng mức vốn pháp định để xác định điều kiện về vốn điều lệ của công ty khi thành lập, Luật Công ty đã áp dụng nguyên tắc tối thiểu, xác định quy mô tối thiểu nhưng những quy định này cũng hoàn toàn chỉ mang tính chất ước đoán (xem thêm điểm mới 11: bãi bỏ quy định về vốn pháp định). Chính việc cho phép kinh doanh dưới vốn pháp định (theo Nghị định 66/HĐBT ngày 2-3-1992) đã phủ nhận quy mô tối thiểu mà Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân xây dựng nên.

- Bên cạnh đó, Luật Công ty quy định đơn xin thành lập công ty phải kèm theo phương án kinh doanh ban đầu. Quy định như vậy là không cần thiết, vì chỉ có nhà đầu tư - người trực tiếp bỏ tiền ra để thành lập doanh nghiệp mới là người phải đương đầu với khả năng có thể xảy ra rủi ro trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ có họ mới có đủ điều kiện để đánh giá về phương án kinh doanh, cơ quan nhà nước không cần và cũng không nên xem xét phương án kinh doanh ban đầu, nên trong hồ sơ thành lập doanh nghiệp không cần phải có phương án kinh doanh ban đầu. Trong hồ sơ xin phép thành lập doanh nghiệp còn phải có chứng nhận về nhân thân của người đầu tư, thường gồm các loại giấy tờ: giấy chứng nhận không bị tâm thần; chứng nhận không bị kết án tù mà chưa được xoá án hoặc không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường, xã về hộ khẩu thường trú. Những loại giấy tờ nhân thân này hầu như không có ý nghĩa trên thực tế, nếu như nhà đầu tư cố tình gian dối (chẳng hạn một người không đủ yêu cầu về sức khoẻ vẫn có thể bằng cách nay hay cách khác có được một giấy chứng nhận đảm bảo sức khoẻ để đối phó với các quy định của pháp luật).

Như vậy, thủ tục thành lập doanh nghiệp theo các quy định của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân chỉ là những thủ tục mang tính hình thức chẳng những không thu được kết quả như mong muốn mà còn tạo ra những tác hại cho nhà đầu tư (chẳng hạn như: gây tốn kém cho các nhà đầu tư; có thể làm lộ bí mật kinh doanh của nhà đầu tư; tạo dư địa cho một bộ phận cán bộ nhà nước sách nhiễu nhà đầu tư).

Luật Doanh nghiệp quán triệt tư tưởng "thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là quyền của công dân và tổ chức được Nhà nước bảo hộ" đã quy định đơn giản hơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh. Hồ sơ đăng ký kinh doanh chỉ bao gồm đơn đăng ký kinh doanh, điều lệ và danh sách thành viên hoặc cổ đông (đối với các loại hình công ty); chỉ có một số ngành nghề đặc biệt mới đòi hỏi có xác nhận vốn pháp định (như kinh doanh vàng, bảo hiểm, tín dụng...). Luật Doanh nghiệp cũng không yêu cầu xuất trình phương án kinh doanh và những xác nhận khác về nhân thân của chủ đầu tư như giấy chứng nhận sức khoẻ, hộ khẩu thường trú....như trước, mà chỉ kê khai các thông tin này theo mẫu quy định.

Các loại giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kinh doanh (Điều 13 Luật Doanh nghiệp; Điều 8 Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 về đăng ký kinh doanh) đối với từng loại hình doanh nghiệp là:

Doanh nghiệp
tư nhân

Công ty hợp danh

Công ty TNHH

Công ty cổ phần

1. Đơn đăng ký kinh doanh lập theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định.

1. Đơn đăng ký kinh doanh lập theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định;

2. Điều lệ đối với công ty;

3. Danh sách thành viên hợp danh

1. Đơn đăng ký kinh doanh lập theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định;

2. Điều lệ đối với công ty;

3. Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên

1. Đơn đăng ký kinh doanh lập theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định;

2. Điều lệ đối với công ty;

3. Danh sách cổ đông sáng lập

* Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề phải có vốn pháp định, thì phải có thêm xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc chứng chỉ hợp pháp chứng minh về số vốn của doanh nghiệp.

* Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề phải có chứng chỉ hành nghề, thì phải có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một trong số những người quản lý doanh nghiệp. Người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc), các chức danh quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (khoản 12 Điều 3 Luật Doanh nghiệp).

Khi hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp được lập một cách đầy đủ và hợp lệ thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp.

Đổi mới quy định về đăng ký thành lập doanh nghiệp như trên một mặt nhằm mục đích buộc người đăng ký kinh doanh phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và người thứ ba về tính chính xác của các thông tin được khai báo. Mặt khác, khắc phục tình trạng lạm dụng xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thoái thác trách nhiệm tài sản trong các quan hệ thương mại và dân sự. Đồng thời thông qua các quy định này thúc đẩy các bên có liên quan tìm hiểu, kiểm chứng lẫn nhau, hạn chế những rủi ro đáng tiếc do không có đầy đủ thông tin.

2.9.4. Bổ sung quy định về hợp đồng được ký trước khi đăng ký kinh doanh (Điều 11).

Để tiến hành thành lập doanh nghiệp, các thành viên sáng lập hoặc người đại diện theo ủy quyền của nhóm thành viên sáng lập có thể thoả thuận ký kết hợp đồng phục vụ cho việc thành lập doanh nghiệp. Sau đó, nếu doanh nghiệp được thành lập, thì doanh nghiệp sẽ tiếp nhận quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp doanh nghiệp không được thành lập, thì những người ký kết hợp đồng nói trên hoàn toàn hoặc liên đới chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng đó (Điều 11 Luật Doanh ngiệp).

Tóm lại, Luật Doanh nghiệp đã thực hiện một cuộc cải cách thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp theo hướng gộp việc xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh thành một, đồng thời chỉ giữ lại những thủ tục, hồ sơ thực sự cần thiết trên cơ sở yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Những cải cách đó sẽ giảm bớt được những thủ tục, hồ sơ trùng lặp, không cần thiết, qua đó giảm được chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc cho việc thành lập doanh nghiệp, đồng thời cũng giúp cho Doanh nghiệp có được sự chủ động trong hoạt động. Những cải cách đó cũng sẽ tháo bỏ được một cản trở đã tồn tại hơn 8 năm qua đối với việc thành lập doanh nghiệp, làm cho việc thành lập doanh nghiệp để kinh doanh trở nên hấp dẫn hơn đối với dân cư và doanh nghiệp. Qua đó giúp cho xã hội huy động được nguồn vốn đưa vào phát triển kinh doanh, làm tăng sức cạnh tranh của thị trường để làm cho nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn. Kết quả chắc chắn là số doanh nghiệp mới đăng ký sẽ tăng lên nhiều, qua đó số vốn huy động cho đầu tư sản xuất, số công ăn việc làm mới được tạo ra cũng sẽ tăng lên. Thực vậy, theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến ngày 30-10-2000 đã có 11.215 doanh nghệp mới được thành lập với tổng số vốn đăng ký là 10.653 tỷ đồng (chưa kể số vốn đăng ký bổ sung đối với các doanh nghiệp đang hoạt động); trực tiếp tạo ra khoảng 200 nghìn chỗ làm việc mới. Theo kết quả điều tra của Chương trình phát triển dự án Mekông (MPDF), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và công ty tư vấn (CONSETTI) đã tiến hành điều tra gần 300 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp thì mục đích thành lập doanh nghiệp là do thủ tục thành lập đơn giản (95%) (đây là mục đích chiếm tỷ lệ % cao nhất trong số các mục đích đưa ra như: tạo việc làm cho bản thân, gia đình và bạn bè 48%; phát triển nghề 86%…). Con số trên đã chứng tỏ việc đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp là một yếu tố có sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư.

2.10. Xoá bỏ phiền hà trong đăng ký hành nghề

Theo quy định của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, ngoài các giấy phép thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, nếu muốn kinh doanh ngành, nghề gì, doanh nghiệp còn phải xin cấp các loại giấy khác như: giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề... do các bộ, ngành, hoặc các Sở thuộc tỉnh, thành phố cấp (theo thống kê sơ bộ hiện có khoảng gần 400 loại giấy phép đang được cấp cho doanh nghiệp). Những loại giấy phép hành nghề này trong thực tế đã gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, làm hạn chế khả năng phát huy nội lực. Việc cấp giấy phép đã bộc lộ nhiều bất cập:

Một là, sự trùng lắp giữa giấy phép thành lập và giấy phép hành nghề. Khi doanh nghiệp đăng ký thành lập, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập đã thẩm định là doanh nghiệp đủ điều kiện kinh doanh ngành nghề đó rồi, nhưng sau đó doanh nghiệp lại vẫn phải xin cấp giấy phép hành nghề là một sự vô lý. Mặt khác, một doanh nghiệp kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau thì phải xin nhiều giấy phép khác nhau. Ước tính trung bình một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần 4-5 giấy phép hành nghề, có khi là trên 10 giấy phép, cá biệt có trường hợp doanh nghiệp phải xin tới 45 giấy phép, thậm chí có trường hợp nhiều cơ quan cùng cấp giấy phép cho một ngành kinh doanh. Lại có những loại giấy phép chỉ có hiệu lực trong thời gian ngắn khiến cho việc xin gia hạn giấy phép cũng tốn nhiều thời gian, công sức (ví dụ như giấy phép được hành nghề phôtocopy chỉ có thời hạn trong 2 tháng).

Hai là, sự không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Việc cấp giấy phép hành nghề thep quy định của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra sự độc quyền, bảo hộ cho một số doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước mà cơ quan có quyền cấp giấy phép là cơ quan chủ quản, dẫn đến tình trạng không bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau kinh doanh cùng ngành nghề. Cơ chế cấp giấy phép hành nghề thep quy định của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra tình trạng "bán pháp nhân" ở một số doanh nghiệp quốc doanh. Các doanh nghiệp nhà nước khi có tờ giấy phép trong tay đã tự biến mình thành một cấp trung gian. Xin dẫn chứng ra đây một ví dụ cụ thể về tình trạng này:

Năm 1996, Công ty Khoáng sản Bà Rịa-Vũng Tàu (KS BR-VT) được độc quyền một số giấy phép khai thác mỏ đá do Bộ Công nghiệp cấp. Với những giấy phép đó, Công ty KS BR-VT ký hợp đồng hợp tác với doanh nghiệp tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Mặc dù các doanh nghiệp tư nhân phải bỏ toàn bộ chi phí cho việc khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ, lập luận chứng và cả chi phí xin cấp phép, nhưng giấy phép vẫn do "ông trùm cai đầu dài" Công ty KS BR-VT đứng tên. Công ty KS BR-VT không phải bỏ bất cứ đồng vốn nào, và đương nhiên là cũng không phải chịu bất cứ rủi ro nào cả, thế nhưng lại được hưởng từ 10% đến 17% doanh thu từ sản phẩm do các doanh nghiệp tư nhân làm ra. Hơn nữa, theo Điều 16 của Nghị định 68/CP ngày 1-11-1996 quy định chi tiết việc thi hành Luật Khoáng sản thì vốn của tổ chức xin giấy phép không được ít hơn 30% tổng dự toán vốn đầu tư của dự án xin giấy phép. Trong khi đó, tại nhiều mỏ hợp tác với tư nhân, vốn của bản thân Công ty KS BR-VT là con số không. Ngay tại các mỏ hiện đang hoạt động thì phần vốn góp của Công ty KS BR-VT cũng chưa được 30% tổng nguồn vốn của mỏ. Ví dụ, tại bảng đối chiếu nguồn vốn hợp tác với doanh nghiệp tư nhân Đức Hạnh để khai thác mỏ Núi Đất, thì vốn của Công ty KS BR-VT tự kê khai chỉ là 1,15 tỷ đồng, trong khi tổng vốn của mỏ là hơn 12,9 tỷ đồng. Như vậy, việc Công ty KS BR-VT tiếp tục sở hữu giấy phép là trái luật. Thực chất Công ty KS BR-VT chỉ bán pháp nhân trên giấy phép, làm "cai đầu dài" đứng trên lưng các doanh nghiệp tư nhân.

Trên đây chỉ là một trường hợp điển hình của tình trạng bán pháp nhân của các doanh nghiệp Nhà nước. Thế nhưng, nay theo Luật Doanh nghiệp, những "cái mũ" quốc doanh như thế tất yếu sẽ không còn tồn tại nữa.

Ba là, hiện tượng giấy phép chồng chéo trong các loại giấy phép hành nghề. Do có sự chồng chéo trong quản lý doanh nghiệp của các cơ quan nhà nước, nên đã dẫn đến hiện tượng giấy phép này là tổng hợp của các giấy phép kia; hoặc có trường hợp cả hai loại giấy phép đều cần nhưng một trong hai lại là điều kiện để được cấp giấy phép kia. Ví dụ, các ngành nghề liên quan đến xây dựng: muốn có giấy phép xây dựng công trình xây dựng để làm cơ sở sản xuất kinh doanh thì trước tiên phải có giấy phép hành nghề trong lĩnh vực đó. Thế nhưng để có giấy phép hành nghề trong lĩnh vực xây dựng thì doanh nghiệp lại phải có công trình xây dựng đã được xây dựng đủ tiêu chuẩn.

Bốn là, hiệu quả quản lý rất thấp. Mục đích của Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân khi quy định về chế độ xin cấp giấy phép kinh doanh là để quản lý hoạt động của các doanh nghiệp. Thế nhưng, trong thực tế nhiều quy định chỉ là hình thức, tạo ra nhiều tiêu cực như đã nêu trên. Những quy định chồng chéo không những không đạt được mục tiêu là hiệu quả quản lý cao mà nhiều khi còn gây ra hậu quả ngược lại. Các cơ quan quản lý doanh nghiệp chỉ là quản lý trên giấy tờ, sổ sách, còn trong thực tế hoạt động của các doanh nghiệp như thế nào sau khi được cấp giấy phép thì các cơ quan này lại không nắm được.

Qua sự phân tích những hạn chế ở trên, có thể thấy là những quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp của Luật Doanh nghiệp đã xoá bỏ được những phiền hà trong đăng ký hành nghề của doanh nghiệp. Để triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp trong thực tế, Chính phủ đã ban hành 2 Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 về đăng ký kinh doanh và Nghị định 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 về hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp và Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg ngày 3-2-2000 bãi bỏ 84 giấy phép trái với Luật Doanh nghiệp, Nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày 11-8-2000 về việc bãi bỏ một số giấy phép và chuyển một số giấy phép thành điều kiện kinh doanh và một số văn bản khác. Trong Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 về đăng ký kinh doanh, đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của cơ quan đăng ký kinh doanh; trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh; đăng ký lập chi nhánh, văn phòng đại diện; đăng ký bổ sung, thay đổi ngành, nghề kinh doanh; đăng ký thay đổi địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp...đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể. Các trình tự thủ tục theo quy định của Luật Doanh nghiệp đã thể hiện tinh thần đơn giản hoá các thủ tục, giảm thiểu cơ chế xin-cho, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí chạy chọt xin giấy phép và chủ động trong hoạt động. Đồng thời, trong Nghị định này cũng ghi rõ là cấm các Bộ, ngành hoặc địa phương đặt ra thêm quy định về điều kiện kinh doanh áp dụng riêng cho ngành hoặc địa phương mình.

2.11. Bãi bỏ quy định về vốn pháp định.

Theo quy định của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập công ty do pháp luật quy định đối với từng ngành, nghề. Nhưng theo khái niệm mà Luật Doanh nghiệp đưa ra thì vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp (khoản 7 Điều 3 Luật Doanh nghiệp). ở đây có sự khác biệt giữa hai khái niệm, theo Luật Doanh nghiệp thì không phải cứ thành lập doanh nghiệp là cần phải có vốn pháp định (đây là quan niệm cũ của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân), mà phải theo quy định của pháp luật đối với một số ngành nghề nhất định. Với mục đích phát huy nội lực, huy động tối đa nguồn lực trong dân chúng, Luật Doanh nghiệp không quy định vốn pháp định là một điều kiện để thành lập doanh nghiệp, trừ một số doanh nghiệp đặc thù được quy định trong các luật chuyên ngành. Nhưng quy định như vậy không có nghĩa là không cần có vốn vẫn thành lập được doanh nghiệp, mà các doanh nghiệp phải đăng ký số vốn tự có khi thành lập và định kỳ báo cáo, cập nhật thông tin về số vốn đó với cơ quan đăng ký kinh doanh để cơ quan này định kỳ cung cấp cho các cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền trong việc quản lý doanh nghiệp và những người khác có nhu cầu. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì trong các nội dung chủ yếu mà doanh nghiệp phải kê khai trong đơn đăng ký kinh doanh phải có nội dung: vốn điều lệ đối với công ty, vốn đầu tư ban đầu của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân; phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh; số cổ phần mà cổ đông sáng lập đăng ký mua, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại đối với công ty cổ phần; (điểm d, đ khoản 1 Điều 14). Bên cạnh đó khoản 5 Điều 8 còn quy định doanh nghiệp có nghĩa vụ kê khai và định kỳ báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp và tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo là không chính xác, không đầy đủ hoặc giả mạo, thì phải kịp thời hiệu đính lại các thông tin đó với cơ quan đăng ký kinh doanh.Vốn điều lệ đối với công ty là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ công ty. Vốn điều lệ đối với công ty chính là vốn chủ sở hữu ngay khi công ty đăng ký thành lập. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, vốn điều lệ chỉ còn là cơ sở pháp lý để phân chia quyền và lợi ích giữa các thành viên. Như vậy vốn pháp định là vốn do pháp luật quy định đối với một số ngành nghề nhất định, khi doanh nghiệp đăng ký thành lập để hoạt động kinh doanh những loại ngành nghề này thì bắt buộc phải tuân thủ quy định về vốn pháp định, còn vốn điều lệ là vốn đóng góp ban đầu ngay khi đăng ký thành lập doanh nghiệp và được ghi vào trong điều lệ.

Luật Doanh nghiệp quy định đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà luật, pháp lệnh, nghị định đòi hỏi phải có vốn pháp định thì doanh nghiệp chỉ được đăng ký kinh doanh khi có đủ vốn theo quy định của pháp luật; còn đối với những ngành nghề khác không đòi hỏi phải có vốn pháp định thì vốn pháp định không phải là một điều kiện để thành lập doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp không quy định vốn pháp định là một điều kiện để thành lập doanh nghiệp dựa trên những lý do sau:

Một là, thực tế hơn 8 năm thi hành Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân cho thấy, việc thi hành điều kiện bắt buộc về vốn pháp định rất hình thức, không có hiệu lực trên thực tế. Trước đây, Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân quy định vốn pháp định là một điều kiện để thành lập doanh nghiệp là nhằm mục đích ngăn chặn làm ăn phi pháp, lừa đảo. Nhưng trên thực tế, những nhà kinh doanh không nghiêm chỉnh, có ý định lừa đảo vẫn có thể "lách" qua các quy định về vốn pháp định một cách dễ dàng, số vốn "ma" góp vào doanh nghiệp được "hợp pháp hoá" khiến cho nhiều người bị nhầm lẫn. Nhiều khi cả cán bộ ngân hàng, các bên có liên quan đã cùng thông đồng tạo ra bằng chứng "hợp pháp" giả để làm điều phi pháp như khai man vốn pháp định, hoặc rút vốn sau khi đã đăng ký vốn pháp định, mà vụ án lừa đảo lớn Minh Phụng-Epco chính là một ví dụ điển hình. Khi nhà đầu tư đã có ý định lừa đảo thì các quy định về vốn pháp định cũng không có khả năng ngăn chặn, nhà đầu tư có thể vay tiền ở đâu đó để gửi vào tài khoản ở ngân hàng với mục đích có được giấy xác nhận về vốn pháp định. Sau khi đã có được giấy xác nhận như mong muốn, nhà đầu tư lại rút vốn ra. Quy định về vốn pháp định như vậy có thể gây ra nhầm lẫn cho chủ nợ và những người góp vốn không có kinh nghiệm, đồng thời cũng làm tăng thêm chi phí và tính phức tạp trong việc thực hiện luật. Chẳng hạn, một công ty đăng ký vốn pháp định là 200 triệu đồng, để huy động vốn, công ty đã dùng giấy xác nhận vốn pháp định vay vốn của các tổ chức, cá nhân khác với số tiền vay thậm chí đã vượt quá mức vốn pháp định. Như vậy, công cụ đảm bảo đã bị khai thác vượt quá, một hoặc một số chủ nợ của doanh nghiệp đã mắc sai lầm khi coi vốn pháp định là căn cứ để cho vay dẫn đến hậu quả là phải chịu rủi ro. Vốn pháp định hoàn toàn không phản ánh giá trị thực có của doanh nghiệp. Giá trị thực có của doanh nghiệp không phải là đại lượng bất biến, nó luôn thay đổi và có thể cao hơn hay thậm chí thấp hơn mức vốn pháp định. Do đó, khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp không phụ thuộc vào vốn pháp định, nó phụ thuộc vào tình hình tài chính và năng lực quản lý của công ty. Công cụ đảm bảo cho các giao dịch của công ty, bảo vệ cho chủ nợ, bảo vệ lợi ích của bên thứ ba trong các giao dịch sẽ là hệ thống thông tin đáng tin cậy về công ty (ví dụ như báo cáo tình hình tài chính của công ty đã qua kiểm toán) chứ không phải là giấy xác nhận về mức vốn pháp định.

Hai là, việc quy định mức vốn tối thiểu như là một điều kiện để thành lập doanh nghiệp theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân trước đây có thể đã tạo cơ hội cho một bộ phận cán bộ nhà nước sách nhiễu nhà đầu tư và doanh nghiệp; làm cho các hiện tượng tham nhũng có cơ hội phát triển; làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư và doanh nghiệp vào các chính sách đúng đắn của đảng và Nhà nước. Đồng thời quy định này cũng không còn phù hợp với chủ trương mới của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích công dân nếu có nhu cầu và nguyện vọng thì đều có thể tham gia kinh doanh không kể có nhiều vốn hay ít vốn.

Ba là, quy định về vốn pháp định với các thủ tục phiền hà, phức tạp đã cản trở những người có sáng kiến kinh doanh nhưng không có đủ vốn thuộc sở hữu theo Luật định, do đó làm mất cơ hội kinh doanh đối với một số nhà đầu tư. Điều này có thể dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư lựa chọn mô hình kinh doanh khác để đầu tư. Hơn nữa quy định về vốn pháp định một cách tràn lan theo như Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân như trước đây tại hai Nghị định 221/HĐBT ngày 23-7-1991 và Nghị định 222/HĐBT ngày 23-7-1991 là không phù hợp với thực tế. Chẳng hạn một doanh nghiệp tư nhân kinh doanh vận tải hành khách, mức vốn pháp định được quy định là 80 triệu đồng Việt Nam. Cũng vẫn là ngành nghề này nếu thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn thì vốn pháp định là 200 triệu đồng, nếu thành lập công ty cổ phần thì vốn pháp định là 500 triệu đồng. Trong khi đó, một chiếc ô tô Corola (của hãng Tôyôta của Nhật Bản) nhập khẩu theo giá CIF về đến Việt Nam, sau khi trả thuế đã xấp xỉ 40 ngàn USD (khoảng 540 triệu đồng Việt Nam). Như vậy, số vốn pháp định 80 triệu đồng Việt Nam chỉ đủ để mua 1/5 chiếc ô tô Corola và nếu có 500 triệu đồng thì gần đủ mua một chiếc. Mức vốn pháp định quá thấp theo quy định của hai Nghị định nói trên đã làm mất hết ý nghĩa của việc quy định về mức vốn pháp định là nhằm đảm bảo tối thiểu về tài sản của chủ doanh nghiệp đối với việc kinh doanh và đối với khách hàng, đối với chủ nợ. Mức vốn pháp định quá thấp sẽ không đủ để thực hiện sự đảm bảo đó. Quy định về vốn pháp định như vậy là xa rời thực tế, do đó không phát huy được tác dụng.

Bốn là, việc Luật Doanh nghiệp bãi bỏ quy định về vốn pháp định không có nghĩa là buông lỏng quản lý Nhà nước. ở đây, Luật Doanh nghiệp chỉ bãi bỏ đòi hỏi vốn pháp định một cách phổ biến, tràn lan đối với các ngành nghề kinh doanh thông thường theo như Luật cũ (Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân); chỉ đòi hỏi vốn pháp định đối với các ngành nghề nhất định do pháp luật quy định như ngân hàng, bảo hiểm... ở đây điều kiện về vốn pháp định thể hiện sự đảm bảo về mặt tài sản của người kinh doanh đối với khách hàng trong những lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh vàng. Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải đăng ký trung thực và công bố công khai vốn kinh doanh. Như vậy, Luật Doanh nghiệp không chỉ bãi bỏ các quy định về vốn pháp định mà còn mở ra những điều kiện mới phù hợp hơn.

Nghị định số 03/2000/NĐ-CP đã quy định "ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định thì mức vốn, cơ quan có thẩm quyền xác nhận và cách thức xác nhận, được xác định theo quy định của Luật, Pháp lệnh và Nghị định về vốn pháp định". Theo các văn bản Luật hiện hành thì sẽ có 4 ngành cần có vốn pháp định, đó là, kinh doanh tiền tệ tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán và kinh doanh vàng. Theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 100-CP ngày 18-12-1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, thì mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, công ty liên doanh bảo hiểm là 20 tỷ đồng Việt Nam hoặc 2 triệu đô la Mỹ; của tổ chức bảo hiểm nước ngoài, công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài là 5 triệu đô la Mỹ; của tổ chức môi giới bảo hiểm Việt Nam, công ty liên doanh môi giới bảo hiểm là 1 tỷ đồng Việt Nam hoặc 100 ngàn đô la Mỹ; của chi nhánh tổ chức môi giới bảo hiểm nước ngoài, công ty môi giới bảo hiểm 100% vốn nước ngoài là 300 ngàn đô la Mỹ. Mức vốn pháp định của công ty chứng khoán theo từng loại hình kinh doanh : môi giới là 3 tỷ đồng, tự doanh là 1 tỷ đồng, quản lý danh mục đầu tư là 3 tỷ đồng, bảo lãnh phát hành là 22 tỷ đồng, tư vấn đầu tư chứng khoán là 3 tỷ đồng (khoản 3 Điều 30 Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11-7-1998 của Chính phhủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán). Vốn pháp định của doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là 5 tỷ đồng Việt Nam, của doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng tại các tỉnh và thành phố khác là 1 tỷ đồng Việt Nam (điểm d khoản 2 Điều 8 Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9-12-1999 về quản lý và hoạt động kinh doanh vàng). Danh mục vốn pháp định các tổ chức tín dụng tuân theo Nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 3-10-1998 của Chính phủ ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. Cụ thể, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 2.200 tỷ VND; các ngân hàng thương mại quốc doanh khác 1.100 tỷ VND; ngân hàng thương mại cổ phần đô thị tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh 70 tỷ VND và tại các tỉnh, thành phố khác 50 tỷ VND; ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn 5 tỷ VND; ngân hàng Phát triển 1.000 tỷ VND; ngân hàng Đầu tư 500 tỷ VND; ngân hàng Chính sách 500 tỷ VND; ngân hàng hợp tác đô thị 5 tỷ VND; ngân hàng hợp tác nông thôn 3 tỷ VND; quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 0,1 tỷ VND; quỹ tín dụng nhân dân khu vực 1 tỷ VND; quỹ tín dụng nhân dân trung ương 100 tỷ VND; hợp tác xã tín dụng 0,1 tỷ VND; ngân hàng liên doanh 10.000.000 USD; chi nhánh ngân hàng nước ngoài 15.000.000 USD; tổ chức tín dụng phi ngân hàng Việt Nam 50 tỷ VND; tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh với nước ngoài 5.000.000 USD; tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài 5.000.000 USD (danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng - ban hành kèm theo Nghị định số 82 /1998/NĐ-CP ngày 03-10-1998 của Chính phủ).

2.12. Mở rộng đối tượng được quyền thành lập và góp vốn vào doanh nghiệp.

Luật Doanh nghiệp mở rộng thêm đối tượng được quyền thành lập và góp vốn vào doanh nghiệp, qua đó tạo thêm cơ hội cho dân cư và doanh nghiệp trực tiếp đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh. Việc mở rộng thêm đối tượng được quyền thành lập và góp vốn vào doanh nghiệp vừa đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân, đồng thời cũng đảm bảo sự tương thích giữa quy định của Luật Doanh nghiệp với các Luật khác trong khung pháp luật hiện nay như Bộ Luật Dân sự ngày 28-10-1995, Luật đầu tư nước ngoài ngày 12-1-1996, Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998.

Với mục đích huy động tối đa mọi nguồn lực kinh tế trong xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy mọi người làm giàu hợp pháp bằng khả năng của họ, Luật Doanh nghiệp đã áp dụng phương pháp loại trừ, tức là chỉ quy định những đối tượng bị cấm không được thành lập và quản lý doanh nghiệp (cán bộ, công chức Nhà nước, người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự...), còn lại những người khác đều được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp. Về quyền góp vốn, Luật Doanh nghiệp quy định tất cả các tổ chức, cá nhân đều được quyền góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, trừ các đối tượng bị cấm. Rõ ràng khi so sánh đối tượng "được phép" thành lập, quản lý và góp vốn trong Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân với diện các đối tượng "không bị cấm" của Luật Doanh nghiệp có sự mở rộng và linh hoạt hơn hẳn.

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, đối tượng được quyền thành lập, góp vốn và quản lý doanh nghiệp được mở rộng hơn so với Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân. Trong Luật Doanh nghiệp vấn đề người được quyền góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định theo phương pháp loại trừ, theo đó mọi tổ chức cá nhân đều có quyền thành lập, quản lý và góp vốn vào doanh nghiệp, trừ các trường hợp bị cấm được liệt kê trong Luật (Điều 9, 10). Cách tiếp cận này của Luật Doanh nghiệp tạo lập được các công cụ pháp lý để tập trung huy động vốn kinh doanh. Để huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, Luật Doanh nghiệp mở rộng tối đa phạm vi các chủ thể có nguồn lực được đóng góp vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả các doanh nghiệp, mức độ hưởng quyền tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp của các chủ thể cũng khác nhau. Pháp luật chia làm 3 mức độ: góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp. Chẳng hạn như người chưa thành niên; người thành niên bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp nhưng có thể góp vốn vào doanh nghiệp thông qua người giám hộ, đại diện. Việc Luật Doanh nghiệp không cho phép những đối tượng này thành lập và quản lý doanh nghiệp nhưng không cấm họ góp vốn vào doanh nghiệp là hoàn toàn phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự. Mặt khác, Luật Công ty không phân định rõ ba hành vi góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp đã đẫn đến tình trạng là công chức không biết được làm gì và không được làm gì trong vấn đề đầu tư vào doanh nghiệp. Điều 6 Luật Công ty chỉ quy định một cách chung chung: "Viên chức tại chức trong bộ máy Nhà nước, sĩ quan tại ngũ trong lực lượng vũ trang nhân dân không được phép tham gia thành lập hoặc quản lý công ty". Khái niệm tham gia thành lập còn chưa rõ, nếu phân tích dưới khía cạnh pháp lý thì việc tham gia bao gồm các hành vi: hành vi thành lập; hành vi góp vốn; hành vi quản lý. Trong trường hợp những đối tượng bị cấm thành lập và quản lý công ty muốn góp vốn vào công ty thì giải quyết như thế nào?

Còn đối với Luật Doanh nghiệp, quy định về quyền thành lập, góp vốn và quản lý doanh nghiệp được quy định như sau:

Quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp

Nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật chứ không phải chỉ được kinh doanh cái gì được cho phép. Điều 9 Luật Doanh nghiệp chỉ liệt kê những đối tượng không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp.

Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, trừ những trường hợp sau đây:

- Với tổ chức trong nước: cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản của Nhà nước và công quỹ để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;

- Với cá nhân mang quốc tịch Việt Nam:

+ Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;

+ Sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;

+ Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;

+ Người chưa thành niên; người thành niên bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự;

+ Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm các tội buôn lậu, làm hàng giả, buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật;

+ Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, Giám đốc (Tổng giám đốc), Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, không được làm người quản lý doanh nghiệp trong thời hạn từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, trừ các trường hợp quy định tại Luật Phá sản doanh nghiệp;

- Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài: tổ chức nước ngoài, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp.

b) Quyền góp vốn

Góp vốn tức là việc đem vốn (tài sản) của mình để cùng chủ thể khác tạo thành một khối vốn (tài sản) chung. Góp vốn là một mối quan hệ từ ít nhất 2 chủ thể trở lên. Vấn đề góp vốn chỉ xuất hiện khi tham gia (hoặc thành lập) các loại hình doanh nghiệp có từ 2 chủ sở hữu trở lên. Vì thế, ngoại trừ hợp tác xã, và các doanh nghiệp liên doanh, theo Luật Doanh nghiệp chỉ có 3 loại hình doanh nghiệp trong đó có sự góp vốn là: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được coi như là những công cụ huy động tập trung và tích tụ vốn trong nhân dân, do đó việc góp vốn vào các loại hình công ty này xét về bản chất cũng chỉ là những giao dịch dân sự, thương mại bình thường. Quan điểm của Luật Doanh nghiệp là mọi tổ chức, cá nhân (ngoại trừ các tổ chức, cá nhân dưới đây) đều được quyền góp vốn vào 3 loại hình doanh nghiệp kể trên (Điều 10 Luật Doanh nghiệp). Các tổ chức, cá nhân không có quyền góp vốn bao gồm:

- Đối với tổ chức: cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản của Nhà nước và công quỹ góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;

- Đối với cá nhân: các đối tượng không được quyền góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

c) Về vấn đề quyền góp vốn, thành lập và quản lý doanh nghiệp có một số điểm đáng chú ý sau đây:

- Cá nhân không hạn chế tuổi tối thiểu, người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự cũng được quyền góp vốn vào công ty thông qua đại diện theo pháp luật.

Cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân không được sử dụng tài sản Nhà nước và công quỹ để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình.

Theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 thì cán bộ, công chức không được thành lập và quản lý doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Nhưng cán bộ, công chức có thể góp vốn vào các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Khái niệm góp vốn được hiểu là bỏ tiền mua cổ phần hoặc phần vốn góp nhằm mục đích thu lợi nhuận, cổ tức chứ không phải để thực hiện quyền sở hữu, điều hành doanh nghiệp. Quyền góp vốn của cán bộ, công chức không bị hạn chế về phạm vi ngành nghề, lĩnh vực. Chỉ một số người giữ cương vị quản lý cơ quan nhà nước như người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, hoặc vợ/chồng, bố, mẹ, con của người đó không được góp vốn vào các doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành nghề mà người đó trực tiếp quản lý. Điều cấm này nhằm ngăn ngừa xung đột giữa một bên là việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và một bên là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận, tránh nguy cơ dẫn đến tham nhũng.

Ngoài cán bộ, công chức bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức, Luật Doanh nghiệp còn cấm cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước thành lập và quản lý doanh nghiệp (gồm có các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc giám đốc, Phó tổng giám đốc hoặc phó giám đốc và các trưởng phó phòng ban trong doanh nghiệp nhà nước) trừ những người được cử làm đại diện để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.

- Tổ chức nước ngoài, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quyền góp vốn vào 3 loại hình doanh nghiệp kể trên theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Liên quan đến quyền của nhà đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp quy định "tổ chức nước ngoài, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam" không được thành lập và quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh ở Việt Nam, tuy nhiên có quyền góp vốn và mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam với mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp khoản 8 Điều 9, khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp).

2.13. Thực hiện một bước đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp

Mục tiêu của Luật Doanh nghiệp trong việc đưa ra những nội dung mới về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp là: tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp; nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp; góp phần ngăn ngừa khả năng một số cán bộ, công chức lợi dụng quyền hạn được giao sách nhiễu các nhà đầu tư và doanh nghiệp.

Luật Doanh nghiệp tại Chương VIII có 5 điều quy định rõ về nội dung quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp: nội dung dung quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp (Điều 114); cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp (Điều 115); quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp (Điều 116); thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Điều 117); năm tài chính và báo cáo tài chính của doanh nghiệp (Điều 118).

2.13.1. Về quản lý Nhà nước, Luật Doanh nghiệp chú ý đến việc nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp, cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh, đảm bảo yêu cầu tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Một tư tưởng lớn của Luật Doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi công dân kinh doanh theo pháp luật, chuyển trọng tâm sự quản lý của Nhà nước từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm"; tổ chức sự quản lý giám sát của Nhà nước cùng với xã hội, công luận theo nguyên tắc minh bạch, công khai. Luật Doanh nghiệp không chỉ tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước nắm bắt, theo dõi các thông tin về đăng ký kinh doanh để phục vụ công tác quản lý, mà còn cho phép "tổ chức và công dân được yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh" (Điều 20) của bất kỳ doanh nghiệp nào. Quy định như vậy vừa tạo ra khả năng giám sát rộng rãi của xã hội, cũng như khả năng có thông tin cần thiết của người muốn góp vốn vào doanh nghiệp, hạn chế sự lừa đảo của doanh nghiệp như đã diễn ra trong thời gian qua. Tuy nhiên, ở đây cũng cần lưu ý rằng Luật Doanh nghiệp quy định trách nhiệm của doanh nghiệp phải công bố công khai và cung cấp thông tin của mình cho đối tác. Vậy ngược lại cũng cần phải có quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của người được cung cấp sử dụng thông tin của doanh nghiệp tránh tình trạng bị tiết lộ, lợi dụng sử dụng vào mục đích xấu.

2.13.2. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới tư duy kinh tế, đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý kinh tế, Luật Doanh nghiệp đã xác định rõ mục tiêu của quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp; đặt nền móng cho việc thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh, tập trung thống nhất trong cả nước, có thể đảm nhận chức năng cung cấp những thông tin cần thiết về giao dịch kinh doanh cho giới doanh nghiệp. Để thực hiện việc đăng ký kinh doanh, Chính phủ đã ra Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 về đăng ký kinh doanh. Theo quy định tại Nghị định này, cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (thuộc Sở Kế hoạch và đầu tư) - gọi là Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, ở huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh (trực thuộc UBND) - gọi là Phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện. Trong đó Phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện có nhiệm vụ đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh cá thể, Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh có nhiệm vụ đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp.

Những quy định này sẽ khắc phục tình trạng cơ quan kế hoạch đầu tư phải kiêm thêm chức năng đăng ký kinh doanh như hiện nay, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và lòng tin của giới doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế. Nhưng qua thực tế thi hành Luật Doanh nghiệp thì lại thấy nổi lên một số vướng mắc tại khâu này. Chẳng hạn như Phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện trực thuộc UBND cấp huyện có thể dẫn đến hiện tượng cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện có làm sai thì nhà đầu tư không biết kiện ai, bởi cấp huyện lại cũng đồng thời là cấp đăng ký kinh doanh. Nên chăng cũng cần có văn bản hướng dẫn quy định rõ về vấn đề này. Một vướng mắc nữa lại nằm ngay chính trong quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đăng ký kinh doanh. Theo quy định này, các cơ quan đăng ký kinh doanh bên cạnh nghĩa vụ đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp còn phải có chức năng, nhiệm vụ giám sát doanh nghiệp theo nội dung họ đã đăng ký kinh doanh (Điều 4, 5 Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000). Nhưng ở đây cũng cần phải hiểu rõ "giám sát" như thế nào và vẫn đề thực hiện thẩm quyền giám sát ra làm sao để tránh tình trạng "hành doanh nghiệp".

2.13.3. Việc bãi bỏ 84 loại giấy phép con trong Quyết định 19/2000/QĐ-CP ngày 3-2-2000, 27 giấy phép tại Nghị định 30/2000/NĐ-CP ngày 11-8-2000, chuyển 34 loại giấy phép thành điều kiện kinh doanh có thể coi là sự đổi mới rất quan trọng trong cách quản lý của Nhà nước theo hướng tạo dễ dàng hơn cho người dân. Hơn nữa, từ trước tới nay tất cả các văn bản pháp luật của chúng ta khi mới được ban hành đều chỉ có quy định chung chung là những văn bản nào trái thì bãi bỏ nhưng lại không quy định hoặc hướng dẫn cụ thể văn bản nào trái và như thế nào được coi là trái, do đó không bị bãi bỏ bao giờ. Việc bãi bỏ 84 giấy phép con trong Quyết định 19/2000/QĐ-CP ngày 3-2-2000, 27 giấy phép tại Nghị định 30/2000/NĐ-CP ngày 11-8-2000, chuyển 34 loại giấy phép thành điều kiện kinh doanh và sẽ còn hơn thế nữa là một bước đột phá thể hiện một tư duy quản lý kinh tế mới của Nhà nước ta, nhưng đồng thời cũng là một sự thử thách hiệu lực quản lý Nhà nước qua công tác hậu kiểm. Bãi bỏ các loại giấy phép con không phải là buông lỏng quản lý mà chính là tăng cường quản lý bằng một phương pháp mới: "hậu kiểm trên cơ sở tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân". Cùng với việc bãi bỏ các loại giấy phép con, Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 47/2000/QĐ-BTC ngày 4-4-2000 về việc bãi bỏ khoản thu lệ phí cấp các loại giấy phép trái với quy định của Luật Doanh nghiệp.

Việc bãi bỏ giấy phép con theo quy định của Luật Doanh nghiệp đã giảm được chi phí hoạt động kinh doanh. Theo kết quả điều tra của Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam, việc bãi bỏ 84 loại giấy phép con theo Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg ngày 3-2-000 đã tiết kiệm trung bình cho mỗi doanh nghiệp hàng năm khoảng 4,5 triệu đồng và 21 ngày làm việc đối với người điều hành doanh nghiệp. Như vậy, nếu chỉ tính riêng về chi phí bằng tiền phải bỏ ra để xin phép (chưa kể chi phí đi lại, ăn ở, chi phí về thời gian) thì việc bãi bỏ 84 loại giấy phép con đã giảm được khoảng gần 280 tỷ đồng chi phí kinh doanh (đối với khoảng 62 nghìn doanh nghiệp tại Việt Nam).

2.13.4. Bên cạnh đó, vai trò quản lý Nhà nước vẫn được thể hiện rõ trong việc ban hành các danh mục ngành nghề cấm kinh doanh; ngành, nghề kinh doanh có điều kiện... cũng như quyết định các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, môi trường, an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ, nhãn mác hàng hoá, chế độ kiểm định... làm căn cứ để các doanh nghiệp thực hiện, các cơ quan chức năng đối chiếu trong quá trình quản lý doanh nghiệp. Điều này được thể hiện cụ thể qua từng chế định của Luật Doanh nghiệp. Nhằm bảo đảm định hướng phát triển của Nhà nước, đồng thời mở rộng quyền tự chủ, sáng tạo trong kinh doanh của doanh nghiệp và dân cư, Nhà nước quy định ngành, nghề kinh doanh như sau:

ngành nghề cấm kinh doanh;

ngành, nghề kinh doanh có điều kiện;

ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định;

ngành, nghề kinh doanh phải có giấy phép hành nghề;

ngành, nghề kinh phải có chứng chỉ hành nghề;

ngành nghề còn lại.

Luật Doanh nghiệp quy định doanh nghiệp không được kinh doanh các ngành, nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức khỏe của nhân dân (Chính phủ công bố danh mục cụ thể ngành, nghề cấm kinh doanh). Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà Luật, Pháp lệnh hoặc Nghị định quy định phải có điều kiện, thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh các ngành, nghề đó khi có đủ các điều kiện theo quy định. Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà Luật, Pháp lệnh hoặc Nghị định đòi hỏi phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề, thì doanh nghiệp đó chỉ được đăng ký kinh doanh khi có đủ vốn hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. Các ngành nghề còn lại, doanh nghiệp được tự chủ đăng ký và thực hiện kinh doanh (Điều 6).

Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, đã có hướng dẫn cụ thể về các ngành nghề kinh doanh này như sau:

- Ngành nghề cấm kinh doanh gồm: kinh doanh vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ thuật quân sự chuyên dùng của các lực lượng vũ trang; kinh doanh chất nổ, chất độc, chất phóng xạ; kinh doanh chất ma tuý; kinh doanh mại dâm, dịch vụ tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em; kinh doanh dịch vụ tổ chức đánh bạc, gá bạc; kinh doanh các chất hoá học có tính độc hại mạnh; kinh doanh các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo táng; kinh doanh các sản phẩm văn hoá phản động, đồi truỵ, mê tín dị đoan hoặc có hại đến giáo dục nhân cách; kinh doanh các loại pháo; kinh doanh thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định hoặc các loại động thực vật quý hiếm khác cần được bảo vệ; kinh doanh đồ chơi có hại cho giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

- Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện là các ngành như thực phẩm, hoá chất, dược... Điều kiện kinh doanh các ngành nghề này được áp dụng theo quy định của các luật, Pháp lệnh hoặc nghị định có liên quan. Điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới hai hình thức: (i) giấy phép kinh doanh do cơ quan Nhà nước cấp sau khi đã thẩm định các điều kiện; (ii) các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; quy định về phòng cháy, chữa cháy... Đó là điều kiện kinh doanh mà doanh nghiệp phải đảm bảo nhưng không cần giấy phép.

- Ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định gồm bốn ngành nghề là tiền tệ tín dụng, bảo hiểm, dịch vụ môi giới chứng khoán và kinh doanh vàng bạc.

- Ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề gồm sáu ngành nghề: kinh doanh dịch vụ pháp lý, dịch vụ khám chữa bệnh, và kinh doanh dược phẩm, kinh doanh dịch vụ thú y và thuốc thú y, kinh doanh dịch vụ thiết kế công trình, kinh doanh dịch vụ kiểm toán, kinh doanh dịch vụ môi giới chứng khoán. Chứng chỉ hành nghề là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp chỉ cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất định.

Điểm mới của Nghị định này cũng như của Luật Doanh nghiệp trong các quy định về ngành nghề kinh doanh chính là ở chỗ Luật Doanh nghiệp và Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh ngành nghề đó phải do các Luật, Pháp lệnh hoặc Nghị định quy định. Đây là một quan niệm mới về đăng ký kinh doanh. Từ nay, chỉ có một loại giấy phép kinh doanh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp. Tất cả những giấy phép trước đây như giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề... nếu cần thiết sẽ được chuyển đổi tên thành một tên thống nhất là "giấy phép kinh doanh". Các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, trật tự xã hội ... do các Bộ, ngành hoặc cấp chính quyền địa phương ban hành mà không căn cứ vào Luật, Pháp lệnh, Nghị định quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành nghề đó đều không có hiệu lực thi hành. ở đây đã có sự đổi mới về cách thức quản lý Nhà nước. Quản lý Nhà nước không phải là cấp phép như trước đây theo quan niệm của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, mà quản lý Nhà nước theo quan điểm của Luật Doanh nghiệp là căn cứ trên những quy phạm pháp luật về điều kiện kinh doanh mà doanh nghiệp phải tuân thủ để giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để làm cơ sở cho việc thực hiện quy định này, Chính phủ đã có Nghị định số 11/1999NĐ-CP ngày 3-3-1999 về hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện, hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Đồng thời Chính phủ đã có Công văn số 5126/VPCP-KTTH ngày 8-11-1999 ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Thương mại ban hành danh mục chi tiết hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện, hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện để làm cơ sở cho các bộ ngành ra văn bản hướng dẫn thực hiện. Đồng thời, ngay tại Điều 3 Nghị định 03/2000/NĐ-CP cũng quy định rõ trách nhiệm của các Bộ ngành trong việc ban hành các danh mục ngành nghề cấm kinh doanh:

- Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trình Chính phủ ban hành danh mục cụ thể về chất nổ, chất độc, chất phóng xạ và các hoá chất có tính độc hại mạnh;

- Bộ Công an trình Chính phủ ban hành danh mục cụ thể về chất ma tuý;

- Bộ Văn hoá và Thông tin trình Chính phủ ban hành danh mục cụ thể về các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hoá, bảo tàng quy định tại điểm g và danh mục cụ thể về các sản phẩm văn hoá phản động, đồi trụy, mê tín, dị đoan hoặc có hại đến giáo dục nhân cách;

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Chính phủ ban hành danh mục cụ thể về thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định về các loại động vật, thực vật quý hiếm cần bảo vệ;

- Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Chính phủ ban hành danh mục cụ thể về đồ chơi có hại cho giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

Các Bộ có trách nhiệm trình Chính phủ danh mục cụ thể như quy định tại khoản này trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.

Việc quản lý Nhà nước đối với ngành, nghề kinh doanh như trình bày trên đây vừa đảm bảo định hướng phát triển của Nhà nước, vừa bảo đảm được quyền tự chủ và sáng tạo trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho đến tận những ngày cuối năm 2000, vẫn có rất ít Bộ ngành ban hành văn bản hướng dẫn thi hành những quy định về ngành nghề hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh tương ứng. Chẳng hạn Luật Doanh nghiệp quy định đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề phải có vốn pháp định, thì phải có thêm xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc chứng chỉ hợp pháp chứng minh về số vốn của doanh nghiệp. Nhưng cho đến nay chưa có quy định pháp luật nào xác định cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền xác nhận điều đó. Hoặc Luật Doanh nghiệp cũng quy định đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề phải có chứng chỉ hành nghề (Điều 6 Nghị định 03/2000/NĐ-CP quy định 6 ngành nghề kinh doanh cần có chứng chỉ hành nghề), thì phải có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một trong số những người quản lý doanh nghiệp trước khi cấp đăng ký kinh doanh. Nhưng trong thực tế lĩnh vực này vẫn đang bỏ ngỏ và tồn tại nhiều bất cập như: có những ngành nghề chưa có văn bản nào quy định, hướng dẫn về chứng chỉ hành nghề, ví dụ Bộ Tư pháp cũng chưa có văn bản nào quy định, hướng dẫn về chứng chỉ hành nghề kinh doanh dịch vụ pháp lý. Hoặc các lĩnh vực khác như kinh doanh dịch vụ thú y và kinh doanh thuốc thú y; kinh doanh dịch vụ kiểm toán; kinh doanh dịch vụ môi giới chứng khoán, các Bộ ngành quản lý. Một số ngành nghề kinh doanh đã có văn bản hướng dẫn thi hành, thì lại chưa phù hợp với Luật Doanh nghiệp gây khó khăn, lúng túng cho việc áp dụng (lĩnh vực y tế là 1 ví dụ điển hình: Bộ Y tế vừa có văn bản điều chỉnh việc hành nghề y dược cổ truyền lại vừa có văn bản riêng điều chỉnh việc hành nghề y dược tư nhân). Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều Nghị định đang còn hiệu lực thi hành quy định phải có giấy phép hành nghề trước khi thành lập và đăng ký kinh doanh (chẳng hạn như Nghị định 87/CP ngày 12-12-1995 về tăng cường quản lý các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng, quy định các ngành nghề như chiếu phim, băng hình, biểu diễn nghệ thuật, khiêu vũ, hát karaoke, và các hình thức giải trí khác…).

Như vậy, việc đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện lại phải tạm đình lại để chờ sự hướng dẫn của các Bộ, ngành. Điều này có nghĩa là các nhà đầu tư muốn đầu tư kinh doanh vào những ngành nghề này đã buộc phải hoãn thực hiện quyền tự do kinh doanh như Luật Doanh nghiệp đã quy định.

2.13.5. Luật Doanh nghiệp còn phải giải quyết những hậu quả pháp lý nữa là phải điều chỉnh lại tổ chức và hoạt động của một số lượng rất lớn các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Công tyLuật Doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, để khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh, Luật Doanh nghiệp cũng quy định Chính phủ hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ kinh doanh cá thể có quy mô lớn hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 02-3-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc chuyển thành doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và hoạt động theo Luật này. Theo đó, hộ kinh doanh cá thể sẽ được giải quyết theo hai cách:

Đối với các hộ kinh doanh quy mô lớn có đủ dấu hiệu về doanh nghiệp thì trước tiên là vận động, sau đó tiến tới bắt buộc họ đăng ký thành lập doanh nghiệp và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Đối với các hộ còn lại quy mô nhỏ, địa bàn hoạt động hẹp thì thực hiện theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 của Chính phủ thay thế cho Nghị định 66/HĐBT ngày 2-3-1992, các hộ kinh doanh cá thể này sẽ không có đầy đủ quyền như doanh nghiệp.

Tóm lại, ba văn bản: Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-1-2000 về đăng ký kinh doanh, Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp và Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg ngày 3-2-2000 về việc bãi bỏ các loại giấy phép trái với quy định của Luật Doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành cùng một ngày, đều khẳng định sự cần thiết của việc quản lý Nhà nước đối với các ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, vì lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của cộng đồng. Tất cả đều thể hiện một bước đổi mới cơ bản trong nội dung và phương pháp quản lý, vừa đạt được mục đích quản lý, vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong kinh doanh, khắc phục mọi phiền hà, sách nhiễu. Như vậy, có thể nói rằng Luật Doanh nghiệp đã tạo ra một cơ chế quản lý mới, dân chủ và hiệu quả hơn, mang lại một bầu không khí mới cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, những quy định của Luật Doanh nghiệp về cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp chưa có khả năng hạn chế sự độc quyền. Nhà nước với trách nhiệm bảo đảm lợi ích chung của xã hội, lợi ích quốc gia, bảo hộ những người mà tự họ không có khả năng và cơ hội để tự bảo vệ chính mình; đồng thời can thiệp, giải quyết các tranh chấp khi có yêu cầu phải có chức năng chống độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh. Theo các quy định của Luật Doanh nghiệp, vai trò quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp mới chỉ thể hiện trên các phương diện sau: (1) Nhà nước hỗ trợ và giúp đỡ; (2) Nhà nước trực tiếp giám sát và kiểm tra; (3) Nhà nước bảo hộ lợi ích hợp pháp của các bên. Như vậy là thiếu hẳn chức năng chống độc quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh.

Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy rõ là dù trong qua trình thực hiện đã gặp phải một số vướng mắc nhất định thì Luật Doanh nghiệp mới được ban hành vẫn là mốc mới quan trọng trong giai đoạn tiếp theo của tiến trình cải cách kinh tế, cải cách hành chính sâu rộng. Luật Doanh nghiệp thực sự là bước tiến trong việc tạo lập khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh ở nước ta. Và với những điểm mới nói trên, Luật Doanh nghiệp sẽ có đóng góp to lớn vào chủ trương phát huy nội lực và hình thành kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

 

Chương III

Thực tiễn 1 năm thi hành Luật Doanh nghiệp - Thành tựu và những vấn đề đặt ra

 

Tuy thời gian thực thi Luật Doanh nghiệp chưa dài, nhưng cũng đủ để cho chúng ta thấy rõ những thành tựu bước đầu quan trọng và một số mặt hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu, khắc phục.

3.I. Những thành tựu đạt được.

Trước hết, phải khẳng định rằng, với những thay đổi có tính "cởi trói" cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, Luật Doanh nghiệp trực tiếp góp phần vào việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của xã hội, phát huy nội lực, khơi thông thêm các nguồn lực mới phục vụ cho mặt trận kinh tế - mặt trận hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Có thể thấy một số thành tựu bước đầu quan trọng như sau:

Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp được thành lập tăng nhanh. Chỉ riêng trong năm 2000, kể từ khi thực thi Luật Doanh nghiệp, số doanh nghiệp được thành lập mới tăng hẳn (với khoảng 12.500 doanh nghiệp được thành lập và 13.000 tỷ đồng được đưa vào đầu tư, tương đương khoảng gần 900 triệu USD). Đây là nguồn vốn bù đắp quan trọng cho đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khi mà vốn thu hút đầu tư nước ngoài của những năm qua (từ năm 1997 đến nay) đặc biệt giảm mạnh. Năm 1996, vốn FDI đầu tư vào Việt Nam đạt mức 8,4973 tỷ USD, năm 1997 là 4,691 tỷ USD, thì năm 1998 chỉ là 3,897 tỷ USD, năm 1999 còn 1,5683 tỷ USD, năm 2000 tuy có tăng lên chút ít song mới chỉ đạt được 1.900 triệu USD. Số doanh nghiệp này cao hơn 3 lần về số doanh nghiệp được thành lập và gần 4 lần về số vốn đăng ký so với năm 1999. Đáng chú ý là trong năm 2000 đã có hơn 500 công ty cổ phần được thành lập mới gấp hơn 1,5 lần số công ty cổ phần được thành lập từ năm 1991 đến 1999.

Về nguồn gốc doanh nghiệp được thành lập mới, theo tính toán của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có tới 88% số doanh nghiệp là được thành lập hoàn toàn mới (tức là không phải do chuyển đổi từ hộ kinh doanh cá thể, cổ phần hoá hoặc từ các hình thức kinh doanh khác trước đó chuyển sang). Có 9% số doanh nghiệp được thành lập do chuyển đổi từ hộ kinh doanh cá thể. Có 0,3% số doanh nghiệp được thành lập do chuyển đổi từ các hợp tác xã trong khi đó có 1% số doanh nghiệp được thành lập do chuyển từ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp và 1% là chuyển từ loại hình doanh nghiệp khác.

Về ngành nghề kinh doanh được các doanh nghiệp đăng ký, theo thống kê của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, các ngành nghề được các doanh nghiệp đăng ký rất đa dạng. Cụ thể, ngành nông, lâm, thủy sản và khai thác khoáng sản chiếm 7% về số doanh nghiệp thành lập mới, ngành công nghiệp chế biến chiếm 15%, xây dựng 12%, sản xuất, phân phối điện, khí và nước chiếm 3%; khách sạn, nhà hàng chiếm 3%; thương mại, sửa chữa xe và đồ dùng sinh hoạt chiếm 32%, dịch vụ khác chiếm 22%. Sự đa dạng này chứng tỏ sự sôi động trong hoạt động kinh tế của nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay và là một dấu hiệu tích cực đánh dấu sự trưởng thành của đội ngũ doanh nhân và các nhà đầu tư của Việt Nam trong việc thích ứng với cơ chế mới, tận dụng cơ hội trong quá trình đổi mới do Đảng ta khởi xướng.

Có thể nói, việc bổ sung thêm lực lượng doanh nghiệp và các nguồn lực vào việc phát triển kinh tế làm cho nền kinh tế Việt Nam thêm phần sôi động, tăng mức độ cạnh tranh và tính linh hoạt của nền kinh tế. Đó chính là dấu hiệu của việc nền kinh tế thị trường Việt Nam đã phát triển thêm một bước quan trọng và đội ngũ doanh nghiệp của Việt Nam ngày một trưởng thành, người dân ngày càng làm quen và thích ứng với cơ chế kinh tế mới - cơ chế kinh tế thị trường trong thời kỳ toàn cầu hoá và cách mạng thông tin.

Thứ hai, đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.

Thống kê của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho biết trong tổng số các doanh nghiệp mới được thành lập thì có khoảng 70% số doanh nghiệp đã chính thức đi vào hoạt động. Và theo báo cáo của hơn 40 Sở Kế hoạch và Đầu tư, mỗi doanh nghiệp thành lập mới đã sử dụng trung bình 20 lao động. Như thế, với khoảng 13.500 doanh nghiệp được thành lập mới, số việc làm tạo ra cho xã hội của các doanh nghiệp này sẽ vào cỡ 270.000 chỗ làm với thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp ở khu vực thành thị là khoảng 500.000 đ/tháng đến 700.000đ/tháng, còn ở khu vực nông thôn cũng đạt từ 300.000đ/tháng đến 400.000đ/tháng. Đó là chưa kể số việc làm mới được tạo ra bởi hàng chục ngàn hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký trong cả nước. Nếu chúng ta đặt vào bối cảnh một xã hội cuối năm 1999 có tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị khoảng 7,4%, ở nông thôn tỷ lệ lao động nhàn rỗi khoảng 26,51%% và tại thời điểm cuối năm 2000, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn là 7,4% và ở nông thôn có tới 30% số người thiếu việc làm thì chúng ta sẽ thấy những con số về lượng việc làm được tạo thêm kể trên là rất có ý nghĩa.

Thứ ba, cải cách thủ tục hành chính trong Luật Doanh nghiệp đã góp phần quan trọng vào việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, được các nhà đầu tư phấn khởi đón nhận.

Báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã rất xác đáng khi nhận định rằng: việc thực hiện Luật Doanh nghiệp đã trở thành một khâu đột phá, đồng thời là nội dung quan trọng của công cuộc cải cách hành chính. Lần đầu tiên, việc phi điều tiết, phi quy chế hoá, giải quy chế (deregulation) được thực hiện một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn, mang lại lợi ích vật chất và tinh thần cho người đầu tư và kinh doanh.

Việc bãi bỏ thêm 141 giấy phép con qua 2 đợt đã góp phần kích thích và động viên các doanh nghiệp mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì thế, đa số các doanh nghiệp được phỏng vấn trong cuộc điều tra do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiến hành gần đây đều có những nhận xét tích cực và bày tỏ sự tán thành cao chủ trương bãi bỏ các loại giấy phép này. Cụ thể, trong 754 doanh nghiệp được điều tra, thì có tới 475 doanh nghiệp (chiếm 63%) trả lời là "việc bãi bỏ các giấy phép con đã tạo môi trường kinh doanh tốt hơn cho doanh nghiệp". Đồng thời trong số 475 doanh nghiệp này thì có tới 431 doanh nghiệp (chiếm 90,74%) cho rằng "việc bỏ giấy phép con là bằng chứng chứng tỏ việc đảm bảo tốt hơn nữa quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp từ phía Nhà nước". Hầu hết các doanh nghiệp này cũng cho rằng, việc bãi bỏ giấy phép con "đã tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp". Có 366 doanh nghiệp (chiếm 77,05%) còn cho rằng việc bỏ giấy phép con đã kích thích sự sáng tạo và tính linh hoạt trong kinh doanh. Và một tỷ lệ 92,84% số doanh nghiệp kể trên cho rằng "việc bỏ giấy phép con thể hiện sự đổi mới về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp". Như vậy, các kết quả trên cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp đều rất hài lòng và ủng hộ trước chủ trương bãi bỏ các giấy phép con không cần thiết của Nhà nước.

3.2. Một số vướng mắc trong quá trình triển khai Luật Doanh nghiệp.

Tuy đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ kể trên nhưng việc triển khai Luật Doanh nghiệp đã vấp phải không ít khó khăn, khúc mắc.

3.2.1. Sự chậm trễ trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp.

Chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các Đạo luật gốc không phải là bệnh riêng của quá trình triển khai Luật Doanh nghiệp. Thực chất, nếu so với quá trình triển khai các Đạo luật trước đó, việc ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Doanh nghiệp còn có phần nhanh chóng hơn.

Chúng ta hãy làm một cuộc so sánh với một vài Đạo luật được ban hành trước đó:

Tên Đạo luật được so sánh

Thời điểm có hiệu lực

Thời điểm có Nghị định hướng dẫn của Chính phủ

1. Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995

30-4-1995

Nghị định số 50/CP ngày 28-8-1996 về thành lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp nhà nước.

2. Luật hợp tác xã 1996

1-1-1997

Nghị định số 15/CP ngày 21-2-1997 về một số chính sách khuyến khích hợp tác xã.

Nghị định số 41/CP ngày 29-4-1997 ban hành Điều lệ mẫu Hợp tác xã thương mại.

3. Luật thương mại 1997

1-1-1998

Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31-7-1998 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại.

4. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996

1-1-1997

Nghị định số 12/CP ngày 18-2-1997 quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

 

Như dù kết quả so sánh có khả quan hơn thế nào đi chăng nữa nhưng nếu đối chiếu với yêu cầu của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Điều 7 thì vẫn có thể thấy sự chưa tuân thủ triệt để Đạo luật kể trên. Điều 7 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:

"1- Luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác phải được quy định cụ thể để khi các văn bản đó có hiệu lực thì được thi hành ngay. Trong trường hợp luật, pháp lệnh có điều, khoản cần phải được quy định chi tiết bằng văn bản khác, thì ngay tại điều, khoản đó, phải xác định rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và thời hạn ban hành văn bản.

2- Văn bản quy định chi tiết thi hành phải được soạn thảo cùng với dự án luật, pháp lệnh để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ban hành khi luật, pháp lệnh có hiệu lực".

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta cũng không đòi hỏi việc ban hành các Đạo luật cứ nhất thiết không có văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Doanh nghiệp là đạo luật có tính khái quát hoá cao, thêm vào đó, lại có rất nhiều nội dung quy định mới, thay thế cho các quy định đang tồn tại tản mạn trong rất nhiều văn bản trong hệ thống pháp luật nên để thi hành Luật Doanh nghiệp, việc Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn hoặc cụ thể hoá nội dung của Luật và sửa đổi, bổ sung các quy định trong các văn bản pháp quy do Chính phủ và các Bộ ban hành trước đó là cần thiết. Chưa ở đâu trong pháp luật Việt Nam có quy định nguyên tắc, nếu văn bản pháp luật gốc hết hiệu lực thi hành thì đương nhiên các văn bản hướng dẫn thi hành cũng hết hiệu lực. Để một văn bản hết hiệu lực thi hành, về nguyên tắc phải có một tuyên bố chính thức của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, khi đạo luật gốc đã phát sinh hiệu lực mà các văn bản hướng dẫn chưa được ban hành thì các văn bản pháp luật cũ vẫn có thể bị áp dụng, điều đó làm cho đạo luật mới được ban hành không phát huy được tác dụng và gây nhiều lúng túng cho cơ quan áp dụng pháp luật. Việc thực thi Luật Doanh nghiệp trong những tháng đầu tiên cũng rơi vào tình trạng tương tự do việc ban hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá Luật Doanh nghiệp trễ hơn so với thời điểm Luật Doanh nghiệp có hiệu lực. Luật Doanh nghiệp có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2000 song 2 Nghị định hướng dẫn thi hành về đăng ký kinh doanh và cụ thể hoá một số điều của Luật phải chờ tới ngày 3-2-2000 mới được ban hành và cũng chỉ phát sinh hiệu lực từ ngày 18-2-2000. Trong thực tế, các quy định của Nghị định cũng chưa được áp dụng ngay kể từ ngày 18-2-2000 mà các Sở Kế hoạch và Đầu tư phải chờ tới tận khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông tư hướng dẫn (Thông tư 03/2000/TT-KH&ĐT được ban hành vào ngày 2-3-2000 và có hiệu lực kể từ ngày 17-3-2000). Trong thực tế, không ít địa phương phải tới khoảng nửa năm sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực mới có kế hoạch triển khai thực hiện Luật.

Ngoài ra, công tác rà soát các văn bản trong hệ thống pháp luật hiện hành để phát hiện những nội dung trái hoặc không phù hợp với tinh thần của Luật Doanh nghiệp cũng chưa đáp ứng được với đòi hỏi của thực tiễn. Tuy ngày 3-2-2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 19/2000/QĐ-TTg về việc bãi bỏ 84 loại giấy phép do các Bộ, ngành, địa phương ban hành trái với Luật Doanh nghiệp, và gần đây nhất, ngày 11-8-2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định 30/2000/NĐ-CP về việc bãi bỏ một số giấy phép và chuyển một số giấy phép thành điều kiện kinh doanh, hiện tại theo Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp vẫn còn hàng chục loại giấy phép cần được tiếp tục bãi bỏ hoặc chuyển đổi sang điều kiện kinh doanh.

Sự chậm trễ kể trên nói lên điều gì? dù xét dưới góc độ nào thì sự chậm trễ trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực thi một Đạo luật hợp lòng dân đều là sự chưa tôn trọng đầy đủ sự mong mỏi của nhân dân, chưa tôn trọng đầy đủ Đạo luật, và rộng ra là chưa tôn trọng triệt để quyền lực của Quốc hội và quyền lực của Nhân dân. Chính vì ý nghĩa pháp lý quan trọng như thế, việc tiến hành các giải pháp khắc phục tình trạng này là vô cùng cần thiết và cấp bách. ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới việc thực thi, bởi lẽ về giải pháp pháp lý thì Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định rõ. Chúng tôi chỉ kiến nghị Chính phủ, các Bộ, ngành cần thực hiện nghiêm chỉnh Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3.2.2. Về kiện toàn các cơ quan thực thi Luật Doanh nghiệp.

Một tinh thần mới trong quản lý đòi hỏi phải có bộ máy quản lý vận hành theo phương thức mới. Sự ra đời Luật Doanh nghiệp, với việc áp dụng phương thức quản lý mới đối với toàn bộ nền kinh tế đòi hỏi có sự thay đổi to lớn trong hệ thống các cơ quan thực thi Luật Doanh nghiệp. Hệ thống các cơ quan này không đơn thuần chỉ là các cơ quan đăng ký kinh doanh mà còn là tất cả các cơ quan cấp phép, cơ quan giám sát, kiểm tra, thanh tra các doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh (các cơ quan tham gia vào quá trình hậu kiểm) và thậm chí là cả việc củng cố lại nền tư pháp. Thật vậy, do việc đơn giản hoá thủ tục đăng ký kinh doanh cũng như do việc bãi bỏ hàng loạt giấy phép, chuyển hàng loạt giấy phép sang điều kiện kinh doanh không cần giấy phép, nhiệm vụ quyền hạn và khối lượng của cơ quan quản lý hành chính liên quan đến việc thành lập và hoạt động các doanh nghiệp có sự thay đổi đáng kể đòi hỏi các cơ quan này cần được sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu và tổ chức nhân sự. Thêm vào đó, việc tăng cường cơ chế hậu kiểm cũng có thể phải dẫn tới việc kiện toàn lại các cơ quan kể trên.

Việc thực hiện cơ chế hậu kiểm theo Luật Doanh nghiệp, trong đó đề cao vai trò giám sát của xã hội cũng đặt ra yêu cầu mới đối với nền tư pháp nước ta. Cơ chế hậu kiểm theo Luật Doanh nghiệp có nội dung cơ bản là xã hội hoá hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Điều đó thể hiện ở việc các cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp và người điều hành doanh nghiệp từ nội bộ doanh nghiệp, từ các chủ nợ, từ người lao động, bạn hàng và của người tiêu dùng được đặc biệt đề cao. Tuy nhiên, cơ chế này chỉ có thể thực hiện được khi nền tư pháp của chúng ta mạnh và có hiệu lực. Tức là khi các yêu cầu của công chúng trước các cơ quan tư pháp được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Tình trạng hình sự hoá các giao dịch dân sự kinh tế, sự kém hiệu lực của các cơ chế giải quyết tranh chấp cũng như tình trạng án tồn đọng không thi hành được ở Việt Nam đã được báo động trong nhiều diễn đàn, nhiều hội thảo thời gian qua cho thấy để có được một nền tư pháp theo đòi hỏi của việc thực thi Luật Doanh nghiệp thì chúng ta còn nhiều việc phải làm. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, chúng tôi xin không bàn trong đề tài này.

Tuy có những vấn đề và yêu cầu búc xúc như vậy từ thực tiễn, nhưng trong thực tế, ngoại trừ các cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời gian qua được chú trọng trong việc sắp xếp lại, hình như các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước vẫn chưa thực sự vào cuộc.

Việc kiện toàn các cơ quan tập trung chủ yếu vào hai nội dung là kiện toàn về nhân sự (đội ngũ cán bộ làm công tác đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép, thanh tra, kiểm tra...) và kiện toàn về trang thiết bị làm việc.

Về kiện toàn đội ngũ cán bộ không hề đơn giản bởi chúng ta đang phải đối mặt với sự thật là đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý trong các cơ quan liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp còn có nhiều bất cập, đặc biệt là sự hạn chế về trình độ chuyên môn. Theo số liệu thống kê chung về cán bộ lãnh đạo làm công tác quản lý kinh tế vĩ mô được công bố gần đây, cơ cấu độ tuổi của đội ngũ cán bộ này như sau: dưới 35 tuổi: 21,73%; từ 35-45 tuổi: 31,06%; trên 45 tuổi chiếm 47,18%. Trong đó 65% số cán bộ tốt nghiệp các trường quản lý kinh tế từ trước năm 1989 (tức là vẫn được trang bị bởi lý luận cũ), trong số đó có tới 50% số cán bộ chưa được qua đào tạo lại. Những số liệu này không thể phản ánh rằng chúng ta đang có một nền hành chính hiện đại, với những cán bộ, công chức theo kịp được với những đòi hỏi của một xã hội luôn đổi mới, luôn sáng tạo, đó là xã hội thị trường thời đại công nghệ thông tin và toàn cầu hoá.

Bên cạnh sự bất cập về đội ngũ cán bộ, sự bất cập về phương tiện hiện đại cho hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước cũng là một thách thức lớn. Chúng ta phải khẳng định rằng, không thể áp dụng phương thức quản lý hiện đại trong khi trang thiết bị làm việc lạc hậu. Hiện tại, ngoại trừ các cơ quan đăng ký kinh doanh ở các tỉnh, thành phố lớn, còn các cơ quan quản lý hành chính nhà nước khác có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp ở các địa phương đều chưa thực hiện xong việc tin học hoá quy trình quản lý và làm việc. Có lẽ sẽ là không khó hiểu khi mà trong danh mục các hạng mục được ưu tiên đầu tư để cải thiện điều kiện làm việc ở trong các cơ quan nhà nước, việc làm đẹp trụ sở, mua sắm phương tiện đi lại đắt tiền được nhiều vị lãnh đạo coi là quan trọng hơn việc hiện đại hoá phương tiện làm việc, tin học hoá quy trình giải quyết công việc. Những số liệu về tình trạng cán bộ ở trên có thể lý giải phần nào hiện thực ấy.

Những bất cập kể trên tất yếu dẫn tới hậu quả là năng suất giải quyết công việc của cơ quan quản lý nhà nước bị giảm một cách đáng kể, và những bất cập ấy trước hết là ảnh hưởng tới công việc của người dân và doanh nghiệp. Chính người dân và doanh nghiệp là những người chịu nhiều thiệt thòi nhất khi mà nền hành chính kém hiệu quả và hiệu lực. Chúng tôi cho rằng, có lẽ đã đến lúc các cơ quan trung ương phải tổ chức các lớp tập huấn cho các cán bộ ở địa phương, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt để dạy cách tin học hoá quy trình giải quyết công việc của cơ quan, dạy cách quản lý hành chính Nhà nước trong một thời đại mới, thời đại không phải là thời đại của cách làm việc thủ công truyền thống mà là thời đại của tự động hoá, thời đại của công nghệ thông tin.

3.2.3. Việc đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Đặt ra điều kiện kinh doanh là một trong những biện pháp điều tiết nền kinh tế thị trường thường được các Nhà nước sử dụng. Việc đặt ra điều kiện kinh doanh đều nhằm những mục đích nhất định. Mục đích của việc đặt ra điều kiện kinh doanh có thể là để cải thiện chất lượng hàng hoá - dịch vụ do doanh nghiệp cung ứng, thông qua đó, bảo vệ người tiêu dùng. Điều kiện kinh doanh được đặt ra để đáp ứng mục đích này chủ yếu là các điều kiện về vốn, nhân lực và tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá. Việc đặt ra điều kiện kinh doanh cũng có thể là nhằm ngăn chặn, giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động của doanh nghiệp gây ra cho môi trường, cộng đồng xung quanh (ngăn chặn, giảm bớt các ngoại ứng tiêu cực). Điều kiện kinh doanh thuộc loại này chính là những điều kiện về vệ sinh, về môi trường. Việc đặt ra các điều kiện kinh doanh luôn có tính hai mặt. Ngoài tác dụng tích cực như vừa nêu, điều kiện kinh doanh chính là một trong những hàng rào bảo hộ sự độc quyền của một số doanh nghiệp, làm hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế, tạo ra những hàng rào ngăn sự linh hoạt của các luồng vốn trong nền kinh tế. Vì vậy, lạm dụng điều kiện kinh doanh có tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế.

Dưới giác độ pháp lý, điều kiện kinh doanh chính là những giới hạn quyền tự do của doanh nghiệp, là cơ sở để cơ quan đăng ký kinh doanh hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện, doanh nghiệp phải cam kết chấp hành. Điều kiện kinh doanh cũng là cơ sở để cơ quan nhà nước thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp.

Trong quá trình thực thi Luật Doanh nghiệp việc Nhà nước có nên sử dụng điều kiện kinh doanh là một công cụ điều tiết hay không không phải là vấn đề gây tranh cãi. Vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là những ngành nghề nào cần quy định điều kiện kinh doanh, nội dung cụ thể của điều kiện kinh doanh ấy là gì? làm sao có thể quy định rõ ràng (có thể lượng hoá) điều kiện kinh doanh?. Đây là những vấn đề không dễ giải quyết. Hiện tại, các quy định về điều kiện kinh doanh đối với một số ngành nghề rất thiếu tính hệ thống. Chẳng hạn, đối với việc kinh doanh chất nổ, có đến 3 Nghị định cùng điều chỉnh, mỗi Nghị định quy định một khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau, đó là các Nghị định 27/CP 20-4-1995 về quản lý, sản xuất, cung ứng và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; Nghị định số 47/CP 12-8-1996 về quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ và Nghị định 11/1999/NĐ-CP ngày 3-3-1999 về hàng hoá cấm kinh doanh, dịch vụ thương mại cấm thực hiện, hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Thêm vào đó, theo các Nghị định này thì có tới 4 Bộ được quyền hướng dẫn về điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề này, bao gồm Bộ Công an, Bộ công nghiệp, Bộ Thương Mại, Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường. Hoặc đối với nghề y học cổ truyền, Bộ Y tế vừa có văn bản điều chỉnh việc hành nghề y học cổ truyền lại vừa có văn bản riêng điều chỉnh việc hành nghề y học tư nhân (Thông tư số 13/1999/TT-BYT ngày 6-7-1999 của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân thuộc lĩnh vực hành nghề y, dược cổ truyền, Thông tư số 15/1999/TT-BYT ngày 31-7-1999 của Bộ Y tế hướng dẫn Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân và Nghị định số 06-CP ngày 29-1-1994 của Chính phủ về cụ thể hóa một số điều trong Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân thuộc lĩnh vực hành nghề y). Vậy 2 văn bản này có quan hệ với nhau như thế nào, nên áp dụng văn bản nào đối với những người hành nghề y học cổ truyền. Tình trạng ấy làm cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn trong việc chấp hành các quy định của pháp luật. Từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực đến nay, đã qua 1 năm thực hiện, nhiều Bộ, ngành vẫn chưa ban hành được quy định về điều kiện kinh doanh đối với những ngành nghề thuộc quyền quản lý của mình. Do đó việc đăng ký kinh doanh trong các ngành nghề này bị đình lại vì cơ quan đăng ký kinh doanh phải chờ hướng dẫn của cấp trên. Những bất cập này đã làm cho không ít doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Thiệt hại này không dễ gì tính được và không ai có thể bồi thường được cho doanh nghiệp.

Thêm vào đó, Nghị định 30/2000/NĐ-CP ngày 11-8-2000 về việc bãi bỏ một số loại giấy phép và chuyển một số loại giấy phép thành điều kiện kinh doanh một lần nữa trao thẩm quyền quy định các điều kiện kinh doanh đối với các ngành nghề kinh doanh cho các Bộ quản lý ngành và yêu cầu các Bộ quản lý ngành ban hành các quy định này trước 1-10-2000. Tuy nhiên, hầu hết các bộ, ngành đều vẫn chưa thực hiện đúng tiến độ Chính phủ giao.

3.2.4. Việc đăng ký kinh doanh đối với những loại ngành nghề mới.

Với sự sáng tạo không ngừng của con người, nhất là dưới áp lực của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, việc phát sinh các ngành nghề kinh doanh mới là một lẽ tất nhiên. Sự nảy sinh và phát triển của những ngành nghề kinh doanh mới chính là biểu hiện của sức phát triển và sức sáng tạo của nền kinh tế thị trường. Vì thế, về mặt pháp luật, việc ghi nhận tinh thần 'doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm" trong Luật Doanh nghiệp là hoàn toàn hợp quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường và trước đòi hỏi của việc chuyển sang nền kinh tế tri thức. Khi tinh thần đó đã được pháp luật thừa nhận thì đương nhiên, đối với những ngành, nghề kinh doanh mới, chưa được liệt vào danh mục các ngành nghề bị cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được tự do kinh doanh. Tuy nhiên, trong thực tế thi hành Luật Doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy, để đảm bảo thực thi tinh thần ấy trên thực tế, công việc không hoàn toàn đơn giản. Hầu hết các cơ quan đăng ký kinh doanh của các địa phương đều rất lúng túng và ngần ngại khi phải giải quyết hồ sơ đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề kinh doanh mới, chưa được liệt kê trong các ngành nghề kinh doanh thông thường đã từng tồn tại ở Việt Nam. Chẳng hạn đối với nghề thám tử tư, dịch vụ tâm lý xã hội, dịch vụ tư vấn tình yêu, hôn nhân, gia đình, tư vấn tình yêu... Và đã có trường hợp trong thực tế, một công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoạt động trong nghề thám tử tư rồi lại bị thu hồi giấy phép. Đó là vụ Công ty TNHH điều hành và bảo vệ-V, công ty này được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 24-3-2000 nhưng đến ngày 21-4-2000, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã ra thông báo yêu cầu công ty này ngừng hoạt động để chờ hướng dẫn của Bộ Công an. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cũng đã từ chối việc xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các công ty thực hiện dịch vụ thám tử tư. Nguyên nhân của vụ việc này, theo Sở Kế hoạch và Đầu tư là do các ngành nghề đó chưa có văn bản hướng dẫn thi hành của cấp trung ương. Theo chúng tôi, tình trạng trên còn có một nguyên nhân không kém phần quan trọng là tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm của các cơ quan đăng ký kinh doanh. Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo thực thi đúng tinh thần của Luật Doanh nghiệp, đối với những ngành, nghề kinh doanh mới, chưa được liệt kê vào danh mục các ngành nghề bị cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được tự do kinh doanh. Tinh thần ấy phải được quán triệt trong tất cả các cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan quản lý ngành. Việc từ chối đăng ký kinh doanh các ngành nghề mới cũng phải coi là hành vi vi phạm Luật Doanh nghiệp và xâm phạm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và của công dân. Các cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý ngành có những hành vi vi phạm như vậy cần phải bị xử lý nghiêm khắc.

3.2.5. Việc đăng ký kinh doanh đối với các ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định.

Mặc dù theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong thực tế chỉ còn rất ít ngành nghề khi tiến hành đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải có vốn pháp định đó là "ngân hàng", "chứng khoán", "bảo hiểm"...

Nhưng trong thực tế việc đăng ký kinh doanh các ngành này cũng gặp phải không ít vướng mắc. Chẳng hạn, việc định giá tài sản (nhất là bất động sản) để xác định vốn pháp định. Hiện tại, nhiều nhà đầu tư có các bất động sản có giá trị lớn muốn đưa vào đầu tư, kinh doanh nhưng do các bất động sản (nhất là nhà, đất) chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nên các cơ quan đăng ký kinh doanh không chấp nhận xác nhận giá trị vốn pháp định. Hiện tại vẫn còn nhiều khó khăn trong việc xác minh khả năng về vốn của doanh nghiệp, các tài sản dưới dạng bất động sản khó được xác nhận khi mà giấy tờ sở hữu chưa được coi là hợp lệ. Trong nhiều trường hợp, điều này không phải do người đầu tư mà do thủ tục xin cấp giấy tờ sở hữu bất động sản không được giải quyết kịp thời.

3.2.6. Việc thực hiện các công việc ngay sau đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp.

Để khai sinh được một doanh nghiệp, công việc không chỉ do cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện là xong. Theo pháp luật hiện hành, sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải tiến hành việc đăng ký thuế với cơ quan thuế nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính và phải đợi cơ quan Công an cấp con dấu thì doanh nghiệp mới có thể tiến hành giao dịch được. Rất nhiều doanh nghiệp được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh song vẫn không thể đi vào hoạt động được nguyên do là cơ quan thuế chậm làm thủ tục đăng ký thuế và đặc biệt có tình trạng cơ quan Công an chậm cấp con dấu cho doanh nghiệp hoạt động.

Theo Báo cáo điều tra thi hành Luật Doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (phát hành tháng 12-2000), cho biết, qua thực tế điều tra cho thấy, việc tiến hành thủ tục khắc dấu ở một số địa phương vẫn còn rất chậm. Một doanh nghiệp làm công tác tư vẫn hỗ trợ thành lập doanh nghiệp cho biết, thực tế việc khắc dấu phải mất tới 21 đến 28 ngày, nếu muốn làm nhanh hơn, thì doanh nghiệp buộc phải chi những khoản "tế nhị",

Báo cáo kể trên cũng cho biết thủ tục đăng ký mã số thuế vẫn còn chậm, trong thực tế vẫn có tình trạng, nếu muốn được đăng ký thuế ngay thì doanh nghiệp vẫn phải chi cho "khoản tế nhị".

3.2.7. Về việc thiết lập và củng cố cơ chế hậu kiểm.

Có thể khẳng định rằng một trong những nội dung đổi mới nhất của Luật Doanh nghiệp, chính là việc thiết lập phương thức quản lý Nhà nước mới đối với các loại hình doanh nghiệp phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường hiện đại thay thế cho phương thức quản lý Nhà nước vẫn còn mang nặng dáng dấp của cơ chế kinh tế tiền đổi mới. Luật Doanh nghiệp chấp nhận một tư duy quản lý mới trong đó xác định rõ vai trò của Nhà nước là người thúc đẩy, hỗ trợ, hậu thuẫn doanh nghiệp phát triển chứ không phải là để cai trị, áp đặt ý chí cho doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp thể hiện tinh thần: trong quản lý Nhà nước, sự thuận tiện cho người dân và cho doanh nghiệp được coi là trọng tâm ưu tiên chứ không phải là sự thuận tiện của cơ quan, cán bộ công chức Nhà nước. Với tinh thần ấy, Luật Doanh nghiệp là nền tảng pháp lý quan trọng để cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp vốn đã tồn tại nhiều định kiến bất lợi cho doanh nghiệp.

Phương thức quản lý mới mà Luật Doanh nghiệp thiết lập thể hiện ở 2 nội dung quan trọng là công dân, doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm và áp dụng cơ chế hậu kiểm đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phương thức quản lý Nhà nước kiểu mới đi vào trong cuộc sống, chuyện không hề giản đơn. Bởi lẽ, sự thay đổi ấy đi kèm với việc nảy sinh những vấn đề không dễ giải quyết như sau:

a) Thứ nhất, cuộc chiến với các giấy phép con.

Việc quản lý hoạt động kinh doanh, nhất là trong một số ngành nghề đặc biệt, bằng giấy phép kinh doanh là cách làm truyền thống mà ngay cả nước có mô hình nền kinh tế tự do vào bậc nhất thế giới (Mỹ) cũng vẫn áp dụng. Tuy vậy, thực tiễn lịch sử đã chỉ ra rằng, bên cạnh việc có những mặt tích cực nhất định phục vụ hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp, giấy phép hoạt động kinh doanh còn mang trong mình nhiều điểm hạn chế không thể không tính đến. Giấy phép kinh doanh chính là những rào cản có tính hành chính đối với việc gia nhập ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều đó đồng nghĩa với việc giấy phép kinh doanh là các hàng rào ngăn cản việc lưu chuyển của các dòng vốn giữa các ngành nghề trong nền kinh tế. Sự tồn tại của các giấy phép con bao giờ cũng làm hạn chế cạnh tranh giữa các ngành, gây nên tình trạng độc quyền dựa vào quyền lực Nhà nước, làm méo mó sự phân bổ nguồn vốn trong toàn nền kinh tế. Đồng thời, sự tồn tại một loại giấy phép, có nghĩa là còn tồn tại cơ chế xin-cho, còn tồn tại cơ hội để nảy sinh các hiện tượng tiêu cực. Vì những lý do trên, trừ khi xác định rõ được rằng việc áp dụng loại giấy phép nào đó là có lợi nhiều hơn hại, còn nói chung, các giấy phép đều cần bị bãi bỏ.

ở Việt Nam, nhiều giấy phép kinh doanh là con đẻ của cơ chế "xin-cho" thời bao cấp, là sản phẩm của việc tuỳ tiện, lạm dụng trong việc sử dụng giấy phép là một công cụ quản lý. Nhiều Bộ, ngành, địa phương ban hành giấy phép một cách thiếu căn cứ, thậm chí tuỳ tiện, chứ không phải xuất phát từ nhu cầu quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Sự thiếu căn cứ, tuỳ tiện ấy thể hiện rõ nhất ở điểm, khi Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp làm việc với một số Bộ, ngành, địa phương về việc rà soát và xem xét tính hợp lý của giấy phép thì nhiều Bộ, ngành, địa phương không cả nhớ nổi mình đã ban hành bao nhiêu loại giấy phép. Và đến nay, cũng chưa có Bộ, ngành, địa phương nào có công trình nghiên cứu đánh giá đầy đủ được những điểm tích cực và điểm hạn chế trong việc sử dụng giấy phép là công cụ quản lý Nhà nước của mình. Theo thống kê của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, tại thời điểm Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành (1-1-2000), có khoảng 400 loại giấy phép đang được các Bộ, ngành và địa phương sử dụng để quản lý các doanh nghiệp. Mặc dù Quyết định 19/2000/QĐ-TTg ngày 3-2-2000 của Thủ tướng Chính phủ đã bãi bỏ 84 loại giấy phép khác nhau, và Nghị định 30/2000/NĐ-CP đã bãi bỏ thêm 61 loại giấy phép song hiện tại vẫn còn hàng chục loại giấy phép thuộc diện cần phải bãi bỏ hoặc chuyển thành điều kiện kinh doanh vì tính hình thức và sự tiêu cực của chúng mang lại.

Tuy nhiên, đã trải qua 1 năm thực thi Luật Doanh nghiệp, cũng là một năm Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp ráo riết thực hiện việc rà soát các giấy phép con, song nhiều khi kết quả chưa được như mong muốn chính là do sự bất đồng ý kiến của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp với các Bộ, ngành trong việc xác định giấy phép nào cần bỏ, giấy phép nào cần giữ, giấy phép nào cần chuyển thành điều kiện kinh doanh. Nhiều Bộ, ngành đã có những phản ứng hết sức gay gắt về các loại giấy phép mà Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp cho rằng cần phải bãi bỏ. Sự phản đối, sự bất hợp tác của các Bộ, ngành với Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn, có Bộ thì chậm trả lời những vấn đề mà Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp nêu ra, có Bộ thì không xếp lịch gặp và làm việc với Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp. Nhiều quan chức của các Bộ phát biểu những nội dung rất trái với tinh thần của Luật Doanh nghiệp. Trên thực tế cũng cho thấy đã có không ít phản hồi từ phía các doanh nghiệp về vấn đề bãi bỏ giấy phép con. Nhiều doanh nghiệp đã thắc mắc tại sao Chính phủ không bãi bỏ nhiều hơn nữa các loại giấy phép con. Liệu việc bãi bỏ một giấy phép con, có cho ra đời một loại giấy phép khác mà lệ phí còn tốn kém hơn so với lệ phí xin giấy phép con hay không? Ví dụ trong ngành kinh doach dịch vụ vận chuyển hành khách, sau khi bãi bỏ giấy phép kinh doanh vận tải hành khách thì lại có giấy phép xe khách chất lượng cao ra đời. Một số cơ quan Nhà nước vẫn áp dụng văn bản hết hiệu lực thi hành để từ chối cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận thay đổi ngành nghề kinh doanh cho doanh nghiệp.

Lý lẽ thường được các Bộ, ngành đưa ra để phản bác việc bãi bỏ giấy phép là sự lo ngại rằng bỏ giấy phép gắn liền với việc buông lỏng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, bản thân Tổ thi hành Luật Doanh nghiệp, trong nhiều trường hợp cũng chưa thuyết phục được đầy đủ các Bộ, ngành và các địa phương về việc tìm ra phương thức quản lý Nhà nước mới thay thế cho giấy phép. Tức là, bản thân Tổ thi hành Luật Doanh nghiệp cũng chưa xây dựng được mô hình "hậu kiểm" có tính thuyết phục cao đối với các Bộ, ngành, địa phương. Tại Diễn đàn về cơ chế hậu kiểm do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tổ chức ngày 21-12-2000 bàn về cách hiểu và hướng hoàn thiện mô hình hậu kiểm đối với doanh nghiệp đã cho thấy, cho đến hiện nay, cách hiểu về cơ chế hậu kiểm, mô hình hậu kiểm vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. Chẳng hạn, trong cơ chế hậu kiểm, vai trò của các thành tố như công chúng, chủ nợ, người tiêu dùng, nhà nước... cần phải được xác lập như thế nào? làm sao để chủ nợ, người tiêu dùng, các cổ đông (của công ty cổ phần) có thể thực thi được quyền kiểm tra, giám sát của mình, họ có thể được kiểm tra, giám sát bằng các phương tiện gì, mức độ đến đâu, làm sao để các doanh nghiệp, những người điều hành doanh nghiệp không lẩn tránh được sự kiểm tra, giám sát? loại doanh nghiệp nào nên được kiểm toán rồi việc các cơ quan nhà nước nên thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp ra sao? Đây quả thực là những vấn đề chưa dễ trả lời. Trong thực tế, do không chú trọng việc kiểm tra các thông tin do doanh nghiệp tự kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dựa trên vốn ảo để phô trương thanh thế của mình trong hoạt động kinh doanh. Không ít doanh nghiệp "ma" cũng đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trường hợp Công ty cổ phần Hải Lam được Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 410300012 ngày 24-2-2000 là một ví dụ điển hình. Theo hồ sơ đăng ký kinh doanh, trụ sở của công ty này là số 22 đường 2 phường 4 Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh, ngành nghề kinh doanh là xây dựng, thương mại và dịch vụ thương mại, may công nghiệp với số vốn điều lệ là 2 tỷ đồng. Nhưng thực ra, công ty kể trên là một công ty "ma".

Vì vậy, thống nhất cách hiểu về hậu kiểm và việc tìm mô hình hậu kiểm phù hợp đang là nỗi quan tâm của nhiều cơ quan, ban ngành, và cũng là một trong những khúc mắc nhất trong việc thi hành Luật Doanh nghiệp hiện nay.

b) Thứ hai, sự thay đổi vấp phải làn sóng phản đối lúc công khai, lúc ngấm ngầm từ phía cán bộ quản lý trong bộ máy hành chính.

Ngay từ khi sắp thi hành Luật Doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và đầu tư đã tổ chức hội thảo về việc triển khai Luật Doanh nghiệp và đã đưa ra những dự báo về các khó khăn có thể vấp phải khi triển khai Đạo luật này. Khi đó, các ý kiến chỉ tập trung vào việc Chính phủ không ban hành văn bản kịp để hướng dẫn chứ không mấy ai nghĩ rằng việc thực thi Luật Doanh nghiệp lại gặp phải trở ngại từ chính một số cơ quan quản lý nhà nước chưa muốn rũ bỏ cái cũ để thực hiện những ý tưởng cải cách luật.

Trong những tháng đầu tiên thi hành Luật Doanh nghiệp, đã có một số cơ quan quản lý nhà nước vẫn áp dụng văn bản hết hiệu lực thi hành để từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cụ thể là trước đây, một số Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh đã ban hành lệnh tạm thời đình chỉ thành lập Doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề kinh doanh như: (1) Du lịch lữ hành nội địa; (2) Dịch vụ vận tải hàng hải; (3) Sản xuất, lắp đặt và mua bán thiết bị phòng cháy chữa cháy; (4) Vận tải hành khách công cộng bằng taxi; (5) Dịch vụ pháp lý; (6) Tư vấn đi du học nước ngoài... nhưng nay Luật Doanh nghiệp không còn cho phép các cơ quan này được ban hành lệnh tạm ngừng cấp giấy phép kinh doanh như đã làm vừa qua, và mặc nhiên các lệnh đình chỉ đến nay không còn hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, một số lệnh đã hết hiệu lực kể trên vẫn được cơ quan quản lý Nhà nước sử dụng để tước quyền được kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp. Thậm chí, Công an TP. HCM và Cục Đường bộ Việt nam còn ban hành thêm công văn yêu cầu các cơ quan chức năng phải tiếp tục thực hiện lệnh tạm đình chỉ cho phép thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh hai ngành sản xuất, lắp đặt, mua bán thiết bị phòng cháy, chữa cháy, và kinh doanh vận tải hành khách công cộng bằng taxi. Rất may mắn là do được phản ánh kịp thời bằng báo chí và công luận cũng như của cộng đồng doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời nhắc nhở và đôn đốc, yêu cầu các ngành, các UBND phải thực thi nghiêm chỉnh Luật Doanh nghiệp, vì thế đến cuối năm 2000, tình trạng kể trên đã được khắc phục một cách đáng kể.

Bên cạnh đó, việc chậm thống kê danh mục những ngành, nghề thuộc loại kinh doanh có điều kiện và công bố các điều kiện cho từng ngành, nghề cũng ít nhiều gây khó cho doanh nghiệp. Chính do sự chậm trễ này, trong không ít trường hợp, cơ quan đăng ký kinh doanh cũng không biết đích xác ngành nghề nào thuộc diện cấm kinh doanh, ngành nghề nào thuộc diện kinh doanh có điều kiện và ngành nghề nào doanh nghiệp được tự do kinh doanh. Do không có các thông tin này, cơ quan đăng ký kinh doanh không có căn cứ thực hiện việc đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp nên đành phải chọn lựa cách xử sự gây phiền hà cho doanh nghiệp đó là chối từ việc giải quyết đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, việc công bố danh mục kể trên không phải là công việc dễ dàng, bởi lẽ giấy phép con gắn liền với quyền-lợi nên không phải cơ quan quản lý Nhà nước nào cũng dễ từ bỏ. Cũng chính vì thế, sau 20 ngày kể từ khi Thủ tướng Chính phủ quyết định bãi bỏ 84 loại giấy phép con (Quyết định 19/2000/QĐ-TTg ngày 3-2-2000), Văn phòng Chính phủ phải gửi tiếp một công văn truyền đạt ý của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, chủ tịch UBND cấp tỉnh... phải thực hiện nghiêm chỉnh Nghị định và Quyết định đã được Chính phủ và Thủ tướng ban hành. Theo Điều 2 Nghị định 30/2000/NĐ-CP ngày 11-8-2000, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm hoàn thành các việc sau đây trước ngày 1 tháng 10 năm 2000:

- Tập hợp và công bố danh mục các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện do luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước; công bố các điều kiện kinh doanh tương ứng đối với các ngành, nghề đó;

- Công bố danh mục các giấy phép tiếp tục duy trì do luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước; công bố các quy định về thủ tục, điều kiện, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép và thời hạn hiệu lực đối với từng loại giấy phép.

Tuy nhiên, với những tiền lệ đã từng diễn ra trong những tháng đầu thực hiện Luật Doanh nghiệp, người ta có thể dự đoán được rằng quy định kể trên của Nghị định 30/2000/NĐ-CP sẽ khó được chấp hành nghiêm chỉnh. Và thực tế đã diễn ra đúng như vậy, cho tới cuối năm 2000, vẫn còn một số Bộ, ngành chưa ban hành được danh mục theo yêu cầu của Nghị định này.

c) Thứ ba, vấn đề thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.

Để đảm bảo được sự quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp vận hành theo đúng mục tiêu của Nhà nước, tất yếu phải có hoạt động thanh tra và kiểm tra đối với doanh nghiệp. Điều đó lại càng đúng khi mà Nhà nước ta chuyển việc quản lý doanh nghiệp từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm. Tuy nhiên, việc kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp thực sự có tính hai mặt. Mặt tích cực của nó có thể dễ nhận thấy. Nhưng mặt hạn chế của nó không thể không tính đến đó là việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp luôn luôn gắn liền với các chi phí về thời gian và tiền bạc cho cả ngân sách (chi phí cho hoạt động của đoàn thanh tra, kiểm tra; chi phí cơ hội của doanh nghiệp phải mất đi khi dành thời gian hoặc tạm thời ngừng một số giao dịch phục vụ việc thanh tra, kiểm tra của các đoàn thanh tra), đồng thời nó là một cơ hội tốt cho một số cán bộ thoái hoá, biến chất làm công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện các hành vi nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp. Khi xét ở bình diện quốc tế, những chi phí cho việc thanh tra kiểm tra sẽ làm đội giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, dẫn tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và thế giới bị giảm sút đáng kể. Vậy là, ngay trên sân nhà, doanh nghiệp Việt Nam đã không được tôn trọng và được đối xử bằng một luật chơi công bằng.

Thay đổi phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm chắc chắn phải chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra. Nhưng chú trọng như thế nào để không buông lỏng quản lý Nhà nước mà vẫn không gây phiền nhiễu, lãng phí cho doanh nghiệp.

Có một thực tế đáng buồn là, mặc dù đã có Nghị định 61/1998/NĐ-CP ngày 15-8-1998 về thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp nhưng hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp vẫn gặp nhiều vướng mắc gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp. Cụ thể là, tình trạng thanh tra, kiểm tra một cách chồng chéo hoạt động của doanh nghiệp vẫn chưa chấm dứt. Tình trạng hạch sách, gây phiền nhiễu đối với doanh nghiệp nhằm trục lợi riêng vẫn còn bị công luận và giới doanh nghiệp liên tục lên tiếng. Cho đến nay, về mặt chính sách pháp luật thanh tra, nhiều điểm vẫn chưa rõ ràng khiến cho doanh nghiệp luôn bị rơi vào thế bất lợi. Chẳng hạn, thanh tra, kiểm tra có khác nhau hay không? quy trình, thủ tục mỗi loại là như thế nào? có bao nhiêu cơ quan có thẩm quyền vào thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp? Sự thật là, ngay cả các chuyên gia pháp luật cũng không dễ dàng gì khi trả lời câu hỏi này của doanh nghiệp. Trong thực tế, do phân cấp quản lý Nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ của nước ta chưa rõ ràng nên có tới hàng chục cơ quan có quyền thanh, kiểm tra doanh nghiệp. Chẳng hạn, UBND cấp xã cũng có quyền thanh, kiểm tra doanh nghiệp, UBND cấp huyện cũng có quyền ấy, rồi UBND cấp tỉnh, các cơ quan quản lý chuyên ngành như lao động, tài chính, thuế, môi trường... của tỉnh và của trung ương cũng có quyền ấy. Đó là chưa kể thẩm quyền kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát và của cảnh sát kinh tế đối với doanh nghiệp. Sự chậm trễ trong việc giải bài toán phân cấp thẩm quyền quản lý không chỉ làm giảm hiệu lực của Bộ máy hành chính Nhà nước mà đang là một vật cản to lớn đối với tiến trình cải cách và phát triển kinh tế.

3.2.8. Vấn đề tạo môi trường pháp lý cho hoạt động của công ty hợp danh.

Bằng sự ban hành Luật Doanh nghiệp, lần đầu tiên công ty hợp danh được pháp luật Việt Nam thừa nhận là một chủ thể kinh doanh. Trong khi loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ (cũng là loại hình doanh nghiệp mới được thừa nhận) đã được khá nhiều nhà đầu tư chọn lựa để thành lập thì trái lại, chỉ có rất ít công ty hợp danh được thành lập. Số liệu thống kê cho thấy, trong 11.215 doanh nghiệp được thành lập từ 1-1-2000 đến 30-10-2000, mới chỉ có 2 công ty hợp danh được thành lập. Vậy khúc mắc ở đâu? Có rất nhiều lý do khác nhau giải thích tình trạng này, chẳng hạn, đây là loại hình doanh nghiệp quá mới, ít nhà đầu tư hiểu rõ bản chất của chúng... Tuy nhiên, theo chúng tôi, sự cản trở về môi trường pháp lý cho hoạt động của loại hình doanh nghiệp này là nguyên nhân cơ bản khiến cho loại hình công ty hợp danh chưa hấp dẫn nhà đầu tư. Mặc dù Luật Doanh nghiệp đã quy định rõ về trình tự, thủ tục thành lập công ty hợp danh, tuy nhiên vấn đề mấu chốt là xác định tư cách pháp lý cho công ty hợp danh thì chưa được Luật Doanh nghiệp quy định. Liệu công ty hợp danh có tư cách pháp nhân hay không. Theo chúng tôi, với chế độ trách nhiệm vô hạn của một số thành viên trong công ty hợp danh, công ty hợp danh không thể đủ điều kiện theo quy định của Điều 94 Bộ luật dân sự để có tư cách pháp nhân. Do không có tư cách pháp nhân và cũng không phải là doanh nghiệp tư nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh vậy mối quan hệ giữa công ty hợp danh với các chủ thể khác trong nền kinh tế là loại quan hệ gì (quan hệ kinh tế - được điều chỉnh bởi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hay quan hệ dân sự - được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự?). Khi xảy ra tranh chấp, toà án nào có thẩm quyền giải quyết (toà dân sự hay toà kinh tế?). Những mối quan hệ nào của công ty hợp danh khi xảy ra tranh chấp có thể được giải quyết bằng con đường trọng tài?. Đây là những vấn đề và là những nội dung mà cả Luật thương mại, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự và pháp luật về tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế hiện nay của nước ta còn chưa đề cập tới. Như vậy, việc thừa nhận tư cách pháp lý của Công ty hợp danh đặt ra yêu cầu sửa đổi khá nhiều văn bản pháp luật quan trọng. Có như thế, công ty hợp danh mới có môi trường pháp lý thích hợp để hoạt động, quyền và lợi ích của công ty hợp danh mới được đảm bảo, loại hình công ty hợp danh mới hấp dẫn nhà đầu tư.

3.2.9. Vấn đề áp dụng luật chuyên ngành.

Việc áp dụng luật chuyên ngành cũng là vấn đề đáng bàn. Luật chuyên ngành chính là Đạo luật do Quốc hội ban hành điều chỉnh một hoặc một số lĩnh vực kinh tế - xã hội đặc thù của nền kinh tế. Do tính chất đặc biệt của những lĩnh vực này đối với đời sống kinh tế xã hội, chính trị mà nhà nước cần phải áp dụng một chế độ quản lý nhà nước đặc thù, chặt chẽ hơn so với các lĩnh vực khác. Việc xác định tiêu chí để xếp một lĩnh vực nào đó của đời sống kinh tế xã hội được coi là lĩnh vực đặc thù cần có sự điều chỉnh bằng Đạo luật riêng của Quốc hội phụ thuộc rất lớn vào điều kiện kinh tế-xã hội và chính trị của mỗi giai đoạn phát triển cũng như mỗi quốc gia. ở Việt nam, theo điều 2 Nghị định số 03/2000/NĐ-CP thì: "Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật Doanh nghiệp và quy định của các luật chuyên ngành sau đây về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, thì áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành":

Khi xem xét hệ thống Luật chuyên ngành chúng ta có thể khẳng định, tất cả các văn bản do ủy ban Thường vụ Quốc hội (Pháp lệnh) hay Chính phủ (Nghị định) đều không thể coi là Luật chuyên ngành. Vì vậy, những cơ quan này không thể tự đặt ra các thủ tục trái với Luật Doanh nghiệp mà không được quy định cụ thể trong Luật chuyên ngành nào đó.

Tuy nhiên, nếu cho rằng nhận định này đúng thì hiện tại, lĩnh vực chứng khoán, lĩnh vực bảo hiểm chưa có Luật chuyên ngành nên có thể khẳng định các quy định về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh quy định trong các nghị định về chứng khoán và bảo hiểm (Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11-7-1998 và Nghị định 100/CP ngày 18-12-1993) đương nhiên hết hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2000. Tuy nhiên, có thể thấy, nếu máy móc áp dụng quy định ấy chắc chắn sẽ bộc lộ nhiều bất cập. Đây là một khúc mắc cần phải tháo gỡ.

3.2.10. Vấn đề đảm bảo sự tuân thủ Luật Doanh nghiệp từ phía các doanh nghiệp.

Trong thực tế, như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, dường như trong năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh nghiệp, cuộc chiến với các tư tưởng, lực lượng lạc hậu, cố tình duy trì thủ tục giải quyết công việc cho doanh nghiệp một cách rườm rà không cần thiết trở thành trọng tâm chú ý của công luận, báo chí và các nhà doanh nghiệp. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp không chỉ quy định các vấn đề này, mà ngược lại, nhiều nội dung nghĩa vụ mới của doanh nghiệp trước Nhà nước, và đặc biệt là trước cộng đồng cần được doanh nghiệp tôn trọng, song thực tế không ít doanh nghiệp đã không chấp hành. Chẳng hạn, các quy định về biển hiệu, niêm yết giá hàng hoá, về cung cấp thông tin, về đăng ký các thay đổi và các quan hệ nội bộ doanh nghiệp lại chưa được doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện. Nếu tình trạng này tiếp diễn, chính là doanh nghiệp đang phá vỡ thế cân bằng trong cơ chế hậu kiểm mà Luật Doanh nghiệp đã định ra. Như vậy là, doanh nghiệp đã thiên về đòi hỏi đối với Nhà nước hơn là nghiêm chỉnh thực hiện trách nhiệm của mình trước đòi hỏi của xã hội, của cộng đồng. Đây là hiện tượng cũng cần phải kịp thời chấn chỉnh.

3.3. Nguyên nhân của những tồn tại

Những hiện tượng cản trở tiến trình thực thi Luật Doanh nghiệp kể trên có những nguyên nhân hết sức phức tạp. Có nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách, có nguyên nhân thuộc về suy nghĩ, tác phong của những con người liên quan đến việc thực thi Luật Doanh nghiệp. Có nguyên nhân nằm ở bộ máy thực thi Luật Doanh nghiệp, song cũng có những nguyên nhân nằm ở bản thân người dân và doanh nghiệp.

3.3.1. Sự chậm rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp là nguyên nhân quan trọng cản trở tiến trình thực thi Luật Doanh nghiệp.

Thực tế cho thấy, Luật Doanh nghiệp ra đời, với việc thiết lập nhiều chuẩn mực pháp lý mới, đã làm lạc hậu không ít các chuẩn mực pháp lý hiện đang tồn tại trong hệ thống pháp luật hiện hành. Vì thế, việc rà soát, hệ thống hoá các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp để kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới trở nên rất cấp thiết. Tuy nhiên, ngoài việc bãi bỏ các quy định về những thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh theo mô hình cũ, nay đã lạc hậu, và bãi bỏ khoảng 150 giấy phép của các Bộ, ngành, thì theo Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, hiện còn nhiều văn bản và nhiều loại giấy phép không phù hợp với Luật Doanh nghiệp còn chưa được bãi bỏ. Như thế, nếu trong thời gian tới, nếu chúng ta không tiến hành gấp rút công tác rà soát, hệ thống hoá các văn bản pháp luật, thì việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật phù hợp với Luật Doanh nghiệp không thể được thực hiện đầy đủ trong thực tế.

3.3.2. Chậm xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý để gắn kết lợi ích của bộ máy thực thi Luật Doanh nghiệp với tiến trình đổi mới là nguyên nhân hàng đầu cản trở tiến trình thực thi Luật Doanh nghiệp.

Chúng ta phải thừa nhận rằng, Luật Doanh nghiệp ra đời là một sự công phá lớn vào lợi ích của không ít các Bộ, ngành và các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương. Trong khi đó, việc tạo cơ chế để gắn kết lợi ích của bộ máy thực thi Luật Doanh nghiệp với tiến trình đổi mới một cách thoả đáng lại chưa được Nhà nước ta quan tâm một cách đúng mức. Tất nhiên, đây là vấn đề vượt ngoài phạm vi quy định của Luật Doanh nghiệp, nhưng vì chưa có cơ chế gắn kết như vậy nên sự không mặn mà với tiến trình cải cách thể hiện trong Luật Doanh nghiệp là điều dễ hiểu. Chúng tôi cho rằng, đây là vấn đề mang tính cốt yếu để đảm bảo sự thành công không chỉ của việc thi hành Luật Doanh nghiệp mà còn đảm bảo cho cả tiến trình cải cách được thành công. Cơ chế như vậy chính là một động lực quan trọng của tiến trình cải cách.

3.3.3. Chậm đổi mới tư duy, phong cách quản lý của bộ máy thực thi Luật Doanh nghiệp, sự cồng kềnh, kém hiệu quả của nền hành chính Nhà nước là nguyên nhân quan trọng cản trở tiến trình thực thi Luật Doanh nghiệp.

Không thể thực thi cơ chế quản lý mới nếu không có những con người của cơ chế ấy. Như số liệu đã nêu về thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế của nước ta, có tới 65% số cán bộ tốt nghiệp các trường quản lý kinh tế từ trước năm 1989 (tức là vẫn được trang bị bởi lý luận cũ), trong số đó có tới 50% số cán bộ chưa được qua đào tạo lại. Với tỷ lệ quá cao những con người được "tôi luyện" trong cơ chế cũ như vậy thì khó có thể nói rằng việc thay đổi phương thức quản lý phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại không gặp những trở ngại và lúng túng nào.

3.3.4. Sự bất cập trong công tác chỉ đạo điều hành của bộ máy hành chính, sự hạn chế về nhận thức, yếu kém về năng lực và đạo đức của nhiều công chức trong các cấp, các ngành cũng là nguyên nhân quan trọng cản trở tiến trình thực thi Luật Doanh nghiệp.

Có thể nói, trong quá trình thực thi Luật Doanh nghiệp, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương nghiêm chỉnh chấp hành Luật Doanh nghiệp và các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, có rất nhiều Bộ, ngành, địa phương không nghiêm chỉnh thực thi những nội dung chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, thậm chí có cán bộ còn ngang nhiên đưa ra những phát biểu trái với tinh thần của Luật Doanh nghiệp, có Bộ, ngành, địa phương vẫn cố tình duy trì các văn bản trái Luật Doanh nghiệp. Nhiều báo chí và các quan chức cao cấp của Đảng và Nhà nước, các đại biểu Quốc hội đã bày tỏ sự phẫn nộ trước tình trạng này. Tuy vậy, hiện tượng trên vẫn chưa được khắc phục và cũng chưa có ai trong bộ máy hành chính Nhà nước bị kỷ luật về các hành vi vi phạm Luật Doanh nghiệp kể trên. Như bản thân Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá phát biểu: "Bộ máy hành pháp của chúng ta hiền quá. Trên nói dưới không nghe mà cũng chịu". Qua đó, có thể thấy, kỷ luật trong quản lý điều hành của bộ máy hành chính Nhà nước còn xem nhẹ. Do đó, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Chúng tôi cho rằng, nếu không dứt điểm giải quyết tình trạng này, chắc chắn sẽ tạo một tiền lệ nguy hiểm về sau này.

3.3.5. Những hạn chế về nhận thức pháp luật của doanh nghiệp, ý thức chấp hành pháp luật yếu, vị kỷ về lợi ích trong kinh doanh cũng là một cản trở không thể không tính đến đối với tiến trình thực thi Luật Doanh nghiệp.

Có thể nói rằng, dù không ít doanh nghiệp hoặc những người đi đăng ký kinh doanh bị đối xử không đúng với quy định của Luật Doanh nghiệp song việc khiếu nại, tố cáo từ phía doanh nghiệp và người đi đăng ký kinh doanh lại hiếm khi xảy ra. Nhiều doanh nghiệp khi bị thanh tra, kiểm tra hoặc bị yêu cầu đáp ứng các đòi hỏi vô lý đã không những không dám tố cáo các hành vi trái pháp luật của cơ quan Nhà nước. Điều đó cho thấy, sự hiểu biết về pháp luật của các doanh nghiệp, cũng như những người đi đăng ký kinh doanh còn thấp. Trong thực tế không ít doanh nghiệp không biết rõ hoạt động của mình có đúng pháp luật hay không. Bởi vậy khi bị kiểm tra, thanh tra, các doanh nghiệp thường hay chọn con đường thoả hiệp tức là chấp nhận nộp một khoản "thuế" cho các cơ quan thanh tra, kiểm tra của Nhà nước. Mặc dù làn sóng bất bình trong giới doanh nghiệp gần đây đã xuất hiện và ngày càng dâng cao, nhưng do công tác tổ chức chưa tốt nên thực sự doanh nghiệp chưa có diễn đàn đủ trọng lượng để tạo một áp lực lớn cho các cơ quan Nhà nước phải thực thi đúng pháp luật của mình. Gần đây, công tác bảo vệ doanh nghiệp đang được các hiệp hội doanh nghiệp và nhiều cơ quan trung ương và các đồng chí lãnh đaọ cao cấp của Đảng và Nhà nước chú ý nhiều hơn.

 

Chương IV

Một số biện pháp góp phần bảo đảm thi hành Luật Doanh nghiệp

 

Có thể nói trong một năm qua, việc triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp đã diễn ra một cách sôi nổi ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Bên cạnh những thuận lợi trong đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp được tự chủ điều hành sản xuất, kinh doanh của mình, đồng thời doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với người lao động. Chúng tôi đồng ý với quan điểm của các chuyên gia kinh tế được đăng trên Báo Đầu tư số 57 ngày 11-7-2000 rằng "việc tiếp tục thực hiện nhất quán và đầy đủ Luật Doanh nghiệp sẽ là giải pháp then chốt, đảm bảo nền kinh tế có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn". Việc thực thi thành công Luật Doanh nghiệp cũng là "lửa thử vàng" đối với tiến trình đổi mới và cải cách kinh tế tại Việt Nam. Nếu không khắc phục ngay những hành vi ngấm ngầm chống lại hoặc quay lưng lại với Luật, thì môi trường kinh doanh và đầu tư vẫn bị ách tắc, lực lượng xã hội vẫn chưa được giải phóng triệt để. Việc đưa Luật Doanh nghiệp vào cuộc sống rất cần sự nỗ lực, kiên trì từ cả 2 phía là giới doanh nghiệp và bộ máy công quyền. Trên cơ sở đó, chúng tôi cho rằng, để đảm bảo thực thi thành công Luật Doanh nghiệp trong cuộc sống, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp như sau:

4.1. Cần sớm xây dựng mô hình hậu kiểm phù hợp.

Đây là vấn đề phức tạp và chưa có tiền lệ trong lịch sử nhưng không thể không giải quyết. Trong tình huống này, việc vừa làm vừa rút kinh nghiệm là phương án tối ưu. Thực tiễn cho thấy sự phát triển của bất kỳ một nền kinh tế nào cũng chịu sự chi phối và tác động của hai nhân tố: thị trường và Nhà nước, bao gồm cả lĩnh vực quản lý. Nhà nước một mặt đặt ra những cơ sở pháp lý làm nền tảng phát triển kinh tế, tạo công cụ cho doanh nghiệp phát triển, mặt khác thông qua các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám sát sự phát triển đó, để doanh nghiệp không đi lệnh khỏi quỹ đạo, làm hỗn độn thị trường trên nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động của các doanh nghiệp; tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, hậu kiểm doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mà còn có sự tham gia của đông đảo những người có quyền và lợi ích liên quan một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Một vấn đề đặt ra là phải làm sao giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước, tăng cường sự nỗ lực của chính bản thân doanh nghiệp, cùng với sự đóng góp ý kiến và sự kiểm tra, giám sát của xã hội để hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đạt được hiệu quả hơn. Chính vì vậy, mô hình hậu kiểm doanh nghiệp sẽ được thể hiện thông qua các phương thức sau đây:

a) Hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát trong nội bộ doanh nghiệp.

Kiểm tra, giám sát trong nội bộ doanh nghiệp là việc kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật do chính những người trực tiếp có liên quan (cổ đông hoặc chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp) hoặc làm việc tại doanh nghiệp (người lao động) thực hiện, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính bản thân họ. Hơn ai hết, họ chính là người gắn bó với sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Chính vì vậy họ sẽ là người phải thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp trên nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Nội dung kiểm tra, giám sát nội bộ doanh nghiệp của các cổ đông, chủ sở hữu doanh nghiệp đã được quy định chi tiết, rõ ràng tại Luật Doanh nghiệp. Vấn đề còn lại là làm sao để có thể giúp cho các cổ đông, chủ sở hữu doanh nghiệp hiểu được mục đích, ý nghĩa của các nội dung đó, qua đó có thể áp dụng đúng và đủ những nội dung đó trong quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát doanh nghiệp. Các bên có liên quan, đặc biệt là chủ sở hữu không nên bỏ qua bất kỳ quy định nào, dù là nhỏ nhất, bình thường nhất. Ví dụ khi góp vốn, người góp vốn cần yêu cầu doanh nghiệp trao cho mình giấy chứng nhận phần vốn góp, hoặc cổ phiếu. Không nên vì bất cứ lý do nào (ví dụ lấy chữ tín làm trọng, coi thường hiệu lực của một số loại giấy tờ vv…) mà bỏ qua. Chỉ khi có giấy chứng nhận phần vốn góp hoặc cổ phiếu, người góp vốn mới có đủ điều kiện để chứng minh quyền sở hữu của mình đối với một phần tài sản của doanh nghiệp, góp phần làm giảm nguy cơ xung đột về lợi ích.

Một vấn đề đặt ra là quyền kiểm tra, giám sát của người lao động đối với chủ sở hữu và những người quản lý không được quy định trong Luật Doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp không thành lập tổ chức công đoàn thì việc kiểm tra giám sát của người lao động không có cơ sở để thực hiện. Người lao động chỉ là người làm công ăn lương, phần lớn họ bàng quan, không quan tâm, miễn là doanh nghiệp trả đủ tiền công cho họ.

b) Hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát của đối tác đối với doanh nghiệp.

Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ đứng ra hoạt động một mình trên thương trường, mà phải có sự tham gia của những đối tác nhất định, như những người cùng liên doanh, liên kết, đại lý, bạn hàng cùng hợp tác với doanh nghiệp, hoặc khi thiếu vốn, doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng, tổ chức, cá nhân khác. Như vậy việc giám sát, kiểm tra của bạn hàng, của chủ nợ đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp là rất cần thiết, một mặt nhằm bảo vệ quyền lợi của bạn hàng, của chủ nợ, mặt khác thực hiện chức năng giám sát hoạt động của doanh nghiệp.

Bạn hàng hoặc chủ nợ có thể kiểm tra, giám sát doanh nghiệp ngay từ khâu ký kết hợp đồng kinh tế, thương mại, hoặc cho vay vốn bằng cách lựa chọn doanh nghiệp để ký kết, hoặc cho vay trên cơ sở khả năng phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Để đạt được như vậy, uy tín của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, không hẳn vì thế mà bạn hàng, chủ nợ có thể để cho nguồn vốn của mình tự trôi nổi. Bạn hàng, chủ nợ phải thường xuyên yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh, kết hợp với thu nhập thông tin từ các nguồn khác để đánh giá được những thay đổi trong hoạt động của doanh nghiệp. Nhất là xem xét, đánh giá những thay đổi đó tác động thế nào đến lợi ích của mình để có thể có những biện pháp đối phó hữu hiệu, hoặc đóng góp ý kiến với doanh nghiệp. Việc kiểm tra, giám sát thường xuyên của bạn hàng, của chủ nợ có tác dụng giúp doanh nghiệp phát triển trên thương trường, cạnh tranh lành mạnh với những doanh nghiệp khác, đồng thời phát hiện kịp thời những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán, yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

Tuy nhiên, kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp một cách thường xuyên là việc làm khó thực hiện, thêm vào đó để yêu cầu tuyên bố phá sản một doanh nghiệp được thực hiện lại còn khó hơn. Nguyên nhân của vấn đề này là do trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp được quy định trong Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30-12-1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn phức tạp và có những điểm bất hợp lý. Khoản 1 Điều 7 Luật Phá sản doanh nghiệp quy định "Sau thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến Tòa án, nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp". Trong khi đó khoản 1 Điều 3 Nghị định số 189/CP ngày 23-12-1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp lại quy định "Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản... nếu kinh doanh bị thua lỗ trong hai năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động theo thỏa ước lao động và hợp đồng lao động trong ba tháng liên tiếp". Như vậy, nếu thỏa mãn đầy đủ các yếu tố để doanh nghiệp được coi là lâm vào tình trạng phá sản, thì không thể bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của các chủ nợ. Và như vậy, thì việc kiểm tra, giám sát của chủ nợ không có đầy đủ công cụ để thực hiện.

Một vấn đề nữa được đặt ra là, Luật Doanh nghiệp ra đời trao cho doanh nghiệp quyền tự chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, điều hành doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tăng hoặc giảm vốn điều lệ, điều này ảnh hưởng đến khả năng chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ của doanh nghiệp, nhất là đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Khi tăng vốn điều lệ, quyền lợi của các chủ nợ ngày càng được bảo đảm hơn, nhưng khi giảm vốn điều lệ, khả năng chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty giảm xuống. Tuy nhiên, khi tăng hoặc giảm vốn điều lệ doanh nghiệp chỉ phải đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh, các chủ nợ khó có thể biết được, vì sự công khai hóa thông tin tại cơ quan đăng ký kinh doanh cho đến nay vẫn là điều chưa thực hiện được do cơ sở vật chất, trang thiết bị của cơ quan đăng ký kinh đoanh chưa đảm bảo để cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin cho những người có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, hoặc cho những người quan tâm. Thêm vào đó, hầu hết các doanh nghiệp đều giữ bí mật các thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp để tránh sự cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh. Những thông tin mà doanh nghiệp có thể công khai hóa không đủ để cho các chủ nợ nắm được hoạt động của doanh nghiệp có đạt được hiệu quả hay không, và vì thế khó có thể bảo vệ được quyền lợi của chủ nợ.

c) Hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát của người tiêu dùng.

Kết quả của sản xuất, kinh doanh của một doanh nghiệp được kiểm nghiệm một cách rõ nét nhất trên thị trường, thông qua sự phản ánh của khách hàng nói chung, của người tiêu dùng nói riêng. Khi một loại hàng hóa, dịch vụ xuất hiện trên thị trường, thì khách hàng sẽ là người đánh giá chất lượng của hàng hóa, dịch vụ đó có đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay không, qua đó đánh giá khả năng sản xuất, kinh doanh của một doanh nghiệp có đạt được hiệu quả hay không?

Thông qua phản ánh của khách hàng, của người tiêu dùng, mặt tích cực, mặt tiêu cực của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp được thể hiện rõ nét. Khi một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh những sản phẩm, hàng hóa đạt chất lượng cao, giá cả phải chăng, phục vụ văn minh, lịch sự, thì sẽ được nhiều khách hàng tìm đến. Ngược lại, đối với doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng kém chất lượng, thậm chí là hàng giả, không an toàn vệ sinh thì sẽ bị người tiêu dùng tẩy chay.

Tuy nhiên, phản ảnh của khách hàng không có một cơ quan nào làm đầu mối tiếp nhận. Năm 1999 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Pháp lệnh chất lượng hàng hóa đã ra đời những vẫn chưa xác định được cơ quan nào chịu trách nhiệm về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, và sự phối hợp giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng giữa các cơ quan nhà nước với nhau được thực hiện như thế nào? Hiện nay, việc thu thập các khiếu nại của người tiêu dùng do Hội Tiêu chuẩn chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng tự nguyện đảm nhiệm. Để giải quyết được các khiếu nại đó, Hội chỉ là người đứng giữa, cung cấp thông tin, hướng dẫn cho người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa và dịch vụ, khuyến cáo đối với nhà sản xuất, kinh doanh, còn việc giải quyết đền bù hay không lại do thiện chí của nhà sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy việc giải quyết các khiếu nại và đòi bồi thường cho người tiêu dùng cần có một cơ chế đảm bảo.

d) Hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát của các đối thủ cạnh tranh.

Trên thương trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có những đối thủ cạnh tranh nhất định nhằm đạt được mục đích đưa hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình đạt hiệu quả cao. Để đạt được mục đích như vậy, sự giám sát lẫn nhau của các doanh nghiệp có một ý nghĩa vô cùng quan trọng tạo ra một áp lực buộc các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình bằng cách nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp và giải quyết tốt hơn các khiếu nại của khách hàng nếu không muốn khách hàng của mình chạy sang doanh nghiệp khác. Trên thực tế chúng ta chưa kiểm soát được thế nào là cạnh tranh hợp pháp và thế nào là cạnh tranh bất hợp pháp, và việc xử lý các doanh nghiệp cạnh tranh bất hợp pháp như thế nào để bảo vệ được quyền lợi của doanh nghiệp bị cạnh tranh.

đ) Hậu kiểm doanh nghiệp thông qua việc kiểm tra, giám sát của công luận.

Công luận là phương thức nhanh nhất cung cấp thông tin về doanh nghiệp tới công chúng, qua đó, có thể tác động trực tiếp tới phản ứng hay ứng xử của họ đối với doanh nghiệp có liên quan, đặc biệt là những điểm tiêu cực của doanh nghiệp luôn luôn được báo chí hay các cơ quan ngôn luận chú ý. Nếu báo chí nêu vấn đề mà doanh nghiệp không trả lời, không sửa chữa thì doanh nghiệp đó bị mất uy tín. Để sự giám sát của công luận đạt được hiệu quả, chúng tôi cũng có cùng quan điểm với ông Nguyễn Đình Cung tại Diễn đàn doanh nghiệp lần thứ 17 về hậu kiểm doanh nghiệp, cần có ít nhất một số điều kiện sau đây:

Một là, hướng dẫn cụ thể về những vấn đề cần được tất cả mọi người trong xã hội giám sát, về những hoạt động của doanh nghiệp có thể trực tiếp hay gián tiếp gây tác động tiêu cực tới cuộc sống chung của xã hội, và những công cụ hay biện pháp mà Nhà nước yêu cầu phải thực hiện để giảm thiểu các tác động tiêu cực đó.

Hai là, phải có một cơ chế và bộ máy để tập hợp và giải quyết nhanh, có hiệu quả tất cả các yêu cầu và phát hiện của dân chúng; đồng thời thông báo rộng rãi nhưng phát hiện hợp lý, biện pháp và kết quả xử lý, cũng như phát hiện và yêu cầu thiếu căn cứ, không đúng với quy định của pháp luật. Cần có những chế tài nhất định đối với những khiếu nại, yêu cầu không có căn cứ nhằm làm mất uy tín của doanh nghiệp, gây mất thời gian, tốn kém cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là điều cần thiết tạo nên động lực thúc đẩy, nâng cao ý thức và trách nhiệm của từng người dân tham gia vào việc giám sát các hoạt động kinh tế nảy sinh trong xã hội nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng.

Ba là, nâng cao hiểu biết về chuyên môn, về luật pháp, đề cao lương tâm và trách nhiệm của các phóng viên, nhà báo. Bởi vì chỉ một thông tin nhỏ thiếu chính xác sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của một doanh nghiệp, làm sai lệnh đi nhận thức của người dân đối với doanh nghiệp.

e) Hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Khi nói đến hậu kiểm doanh nghiệp thông qua sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mọi người thường hiểu đó là công tác kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp. Bởi vậy nhiều doanh nghiệp lo ngại rằng Luật Doanh nghiệp mở ra cho doanh nghiệp một cơ chế đăng ký kinh doanh thông thoáng, sẽ tạo nên một cơ chế hậu hành phức tạp. Trên thực tế, mặc dù mới đi vào hoạt động, doanh nghiệp nào cũng phải chịu sự thanh tra, kiểm tra. Về mặt cơ sở pháp lý, có tới 170 văn bản pháp luật quy định về việc thanh tra, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp và 100 cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra hoạt động của doanh nghiệp (ở cả ba cấp). Đó là Thanh tra Nhà nước các cấp và Thanh tra chuyên ngành như: Thanh tra Nhà nước về đo lường, Thanh tra về chất lượng hàng hóa, Thanh tra bảo vệ môi trường, Thanh tra tài chính, Thanh tra thuế, Thanh tra y tế, Thanh tra giá, Thanh tra chế độ kế toán thống kê, Thanh tra thủy sản, Thanh tra giao thông đường sắt, Thanh tra giao thông đường bộ, Thanh tra an toàn hàng hải, Thanh tra ủy ban chứng khoán Nhà nước... Với số lượng các cơ quan thanh tra nhiều như vậy doanh nghiệp phải chịu sự kiểm tra, thanh tra của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chính vì vậy tại Diễn đàn Doanh nghiệp lần thứ 17, nhiều doanh nghiệp cho rằng cần phải làm rõ các vấn đề sau đây, thì công tác kiểm tra, thanh tra mới đạt được hiệu quả và không gây phiền nhiễu cho doanh nghiệp:

Thứ nhất, cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định rõ trong bài phát biểu tại kỳ họp Quốc hội khóa X lần thứ 8: "các cơ quan công an, kiểm sát, thanh tra nhà nước không vào kiểm tra tài chính, kiểm tra hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp. Trường hợp phát hiện doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cơ quan quyết định kiểm tra, thanh tra đột xuất phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình, nếu kết quả kiểm tra cho thấy doanh nghiệp không vi phạm thì cơ quan kiểm tra phải chịu trách nhiệm chi phí phát sinh và bồi thường những thiệt hại (nếu có)...". Vấn đề đặt ra là thế nào là có dấu hiệu vi phạm? Khi một đơn thư khiếu nại, tố cáo nặc danh có phải là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, thanh tra đột xuất hay không đang là một trong những câu hỏi lớn của các doanh nghiệp dành cho các nhà chức trách.

Thứ hai, cần thực hiện phối hợp giữa các ngành chức năng trong việc thanh tra, kiểm tra để có thể giảm bớt số lần kiểm tra, thanh tra.

Thứ ba, cần phải làm rõ khi nào thì tiến hành thanh tra, kiểm tra, xác minh. Có hiểu rõ vấn đề nói trên, doanh nghiệp mới có thể hợp tác và cung cấp đầy đủ các chứng cứ theo yêu cầu của cán bộ đến thanh tra, kiểm tra, xác minh. Vấn đề này chưa được làm rõ trong các văn bản pháp luật của nước ta về thanh tra, kiểm tra. Theo Đại từ điển tiếng Việt có định nghĩa thanh tra là động từ để chỉ hành động "điều tra, xem xét để làm rõ sự việc", kiểm tra là động từ để chỉ hành động "xem xét thực chất, thực tế", xác minh là động từ để chỉ hành động "làm rõ thực chất sự việc với những chứng cứ cụ thể".

Thứ tư, là vấn đề bảo mật những thông tin, chứng từ, tài liệu mà doanh nghiệp cung cấp cho cán bộ đến thanh tra, kiểm tra, xác minh. Cần phải có những quy định cụ thể về trách nhiệm cũng như chế tài đối với các cán bộ thanh tra, kiểm tra vô tình hay cố ý tiết lộ bí mật kinh doanh của doanh nghiệp cho các đối thủ cạnh tranh.

Thứ năm, cán bộ đến thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp phải là người đồng hành của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp không những chỉ nhằm mục đích phát hiện những sai phạm của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh để xử lý nhằm mục đích tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, mà còn là những hoạt động mang tính hướng dẫn, giúp đỡ những doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, tiến hành kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với các quy định của pháp luật.

Thứ sáu, cần làm rõ sự khác nhau giữa kiểm toán và thanh tra tài chính. Trong cơ chế thị trường, mục tiêu cơ bản của kiểm toán là xác minh những tài liệu kế toán để đem lại niềm tin cho những người quan tâm đến hoạt động của doanh nghiệp. Những người quan tâm đó có thể là Nhà nước, chủ đầu tư, khách hàng, bạn hàng và cả người lao động tại doanh nghiệp. Nội dung trực tiếp của kiểm toán trước hết và chủ yếu là thực trạng của hoạt động tài chính, và được thể hiện ở các báo cáo tài chính hay tài liệu kế toán nói chung. Trong một số trường hợp cần thiết, kiểm toán cần sử dụng phương pháp kỹ thuật để tạo lập các bằng chứng kiểm toán (kiểm tra ngoài chứng từ). Vì vậy tài liệu kế toán được sử dụng trực tiếp làm đối tượng của kiểm toán (kiểm tra chứng từ). Kiểm toán thường được thực hiện vào cuối năm hoặc cuối chương trình, dự án, hợp đồng. Còn việc thanh tra tài chính được thực hiện khi có dấu hiệu vi phạm. Trên thực tế để thực hiện chức năng xác minh tài liệu kế toán, trong phạm vi của hoạt động tài chính với nhiều mối quan hệ phức tạp đòi hỏi kiểm toán phải sử dụng một hệ thống phương pháp kỹ thuật riêng bao gồm cả kiểm tra chứng từ (cân đối, đối chiếu lôgic, diễn giải thông tin, quy nạp nguồn thông tin...) và phương pháp kiểm tra ngoài chứng từ (điều tra, quan sát, kiểm kê, thử nghiệm...). Và như vậy kết luận kiểm toán mới chính xác. Một vấn đề đặt ra là doanh nghiệp đã được kiểm toán có phải chịu thanh tra tài chính hay không? Kết luận kiểm toán có ý nghĩa như thế nào đối với hoạt động của doanh nghiệp? Những doanh nghiệp nhỏ có phải tiến hành kiểm toán hay không và được thực hiện như thế nào?

Thứ bảy, cần xây dựng một tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả khi: kinh doanh ổn định, doanh thu cao; hoàn thành thuế đầy đủ với Nhà nước; đảm bảo thanh toán đầy đủ lương cho công nhân; thanh toán khoản các khoản đúng hạn; tổng dư nợ phù hợp với quy định của pháp luật.

Cũng tại Diễn đàn doanh nghiệp lần thứ 17 tổ chức tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam ngày 21-12-2000. một Việt Kiều ở Mỹ có tham gia thành lập doanh nghiệp tại Việt nam có nói rằng doanh nghiệp của nhà đầu tư đó được thành lập và bắt đầu hoạt động tại Việt nam từ năm 1996, trong năm 1996 doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra 4 lần, năm 2000 có tiến bộ hơn, doanh nghiệp chưa bị thanh tra, kiểm tra lần nào. Tuy nhiên, nhà đầu tư vẫn không yên tâm. Mà đối với một doanh nghiệp khi hoạt động sản xuất kinh doanh, sự yên tâm, tin tưởng vào luật pháp của nhà đầu tư rất quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư cũng như hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, Nhà nước cần có một cơ chế thích hợp để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.

4.2. Cần rà soát một cách toàn diện các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với tinh thần của Luật Doanh nghiệp.

Để Luật Doanh nghiệp đi vào cuộc sống, chúng ta không thể chỉ triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp, mà đi kèm với nó là hàng loạt các văn bản pháp luật khác điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của từng ngành nghề, từng lĩnh vực, các văn bản về kế toán, kiểm toán, phá sản doanh nghiệp, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Trên thực tế, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay chưa đồng bộ, chưa nhất quán và chưa ổn định. Do vậy các doanh nghiệp rất khó áp dụng. Bởi vậy cần thực hiện các công việc sau đây:

Rà soát các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã hết hiệu lực thi hành. Kiên quyết và sớm bãi bỏ những văn bản pháp luật có nội dung trái với Luật Doanh nghiệp, không còn phù hợp, chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, hoặc có sửa đổi, bổ sung cần thiết cho phù hợp với thực tế.

Kiên quyết bãi bỏ những loại giấy phép quản lý phi hiệu quả, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Vấn đề này đã được Thủ tướng Phan Văn Khải đề cập đến trong báo cáo tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa X ngày 14-11-2000 "đẩy mạnh hơn nữa việc thi hành Luật Doanh nghiệp, tiếp tục xóa bỏ các giấy phép không cần thiết, đơn giản hóa thủ tục hành chính; quy định khung pháp lý xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế, không vì sự thuận tiện cho cơ quan quản lý nhà nước mà gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp. Theo tinh thần đó, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành khẩn trương quy định rõ ngành, nghề, sản phẩm, dịch vụ nào cấm kinh doanh, giấy phép kinh doanh nào cần duy trì, điều kiện kinh doanh nào cần thực hiện...".

Xem xét, đổi mới quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cần tiến tới Luật hóa tối đa các văn bản pháp luật. Tránh tình trạng một văn bản Luật ra đời tuy đã có hiệu lực thi hành những vẫn chưa thi hành được bởi chưa có Nghị định hoặc Thông tư hướng dẫn. Nhất là hệ thống các văn bản pháp luật về xuất, nhập khẩu và văn bản pháp luật về thuế, các quy định trong Luật, Nghị định quá chung chung, vì vậy muốn điều chỉnh tốt các quan hệ trong các lĩnh vực này phải bao gồm rất nhiều Thông tư, thậm chí là cả Công văn hướng dẫn (không phải là văn bản quy phạm pháp luật). Đối với một số ngành như Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan còn dùng cả Công văn để sửa đổi và giảm mức thuế suất đối với một số mặt hàng, hoặc hướng dẫn thi hành pháp luật (Công văn số 1182/TC-TCT ngày 16-3-1999 của Bộ Tài chính về danh mục hàng hóa được giảm 50% thuế giá trị gia tăng, Công văn số 4159/TCHQ-KTTT ngày 2-8-1999 của Tổng cục Hải quan về việc thực hiện Thông tư số 92/1999/TT-BTC...). Và như vậy khi một văn bản Luật ra đời sẽ không phát huy được tác dụng điều chỉnh các quan hệ kinh tế có liên quan. Để khắc phục nhược điểm này, trong các văn bản Luật, Pháp lệnh cần có điều khoản nói rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn, văn bản quy định chi tiết thi hành và thời hạn ban hành các văn bản đó. Văn bản hướng dẫn thi hành cần được soạn thảo cùng với dự án Luật, Pháp lệnh để khắc phục tình trạng chờ hướng dẫn như bấy lâu nay.

Trước mặt cần sớm ban hành các văn bản pháp luật sau:

+ Luật cạnh tranh và chống độc quyền làm cơ sở đảm bảo cho sự bình đẳng thực sự của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế;

+ Luật kế toán giúp cho các doanh nghiệp thực hiện việc thu, chi đúng theo quy định của pháp luật;

+ Xây dựng Luật về chứng khoán. Với tốc độ phát triển của các doanh nghiệp như đã phân tích ở trên, các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu sẽ ngày càng phát triển nhằm thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài vào doanh nghiệp. Hiện nay mới chỉ có văn bản pháp luật ở tầm Nghị định và chỉ điều chỉnh các loại chứng khoán đủ điều kiện giao dịch trên thị trường chứng khoán. Còn các loại chứng khoán phát hành riêng lẻ mới chỉ được quy định một cách chung chung trong Luật Doanh nghiệp. Chứng khoán là một loại tài sản thuộc sở hữu của một chủ thể. Bởi vậy nó cũng cần được đưa vào giao lưu dân sự và cần tạo cho nó một thị trường để nó có thể luân chuyển dễ dàng.

+ Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai cho thống nhất và theo hướng tạo thuận lợi hơn trong việc thực hiện quyền sử dụng của tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Tránh tình trạng văn bản dưới Luật lại sửa đổi văn bản Luật, trái với Luật ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

+ Sửa đổi theo hướng thống nhất các văn bản pháp luật về thuế nói chung để tránh tình trạng tản mạn, mâu thuẫn, chồng chéo. Với hệ thống các văn bản pháp luật về thuế hiện nay quá nhiều và thay đổi liên tục khiến cho ngay cả đối với các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu pháp luật cũng không nắm bắt được hết nội dung của các quy phạm pháp luật, thì làm sao dân có thể hiểu và thực hiện đúng quy định của pháp luật được.

+ Ban hành Nghị định về việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;

+ Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại (Nghị định số 01/CP ngày 3-1-1996). Trong Nghị định này cần quy định chế tài đối với các hành vi khai báo gian dối các thông tin trong hồ sơ đăng ký kinh doanh cũng như trong việc báo cáo hậu đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp; xử lý nghiêm minh các cán bộ thực hiện việc đăng ký kinh doanh gây khó khăn, sách nhiễu doanh nghiệp.

+ Nghị định về công tác thanh tra, kiểm tra thay thế Nghị định số 61/1998/NĐ-CP ngày 15-8-1998 của Chính phủ về công tác thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp của Chính phủ. Đồng thời các cơ quan quản lý chuyên ngành phải công bố rõ các điều kiện mà doanh nghiệp cần phaỉ tuân thủ và tiến hành thanh tra, kiểm tra để bảo đảm thực thi các điều kiện đó.

+ Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

+ Quy chế về cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ pháp lý, dịch vụ thú y, kinh doanh thuốc thú y...

4.3. Tăng cường năng lực của bộ máy hành chính thực thi Luật Doanh nghiệp.

Cùng với việc xóa bỏ giấy phép con, điều mà doanh nghiệp quan tâm nhất là thủ tục hành chính được đơn giản hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi tiến hành đăng ký kinh doanh. Trên thực tế, tuy thủ tục hành chính đã được Luật Doanh nghiệp đơn giản hóa rất nhiều so với trước, nhưng nhiều trường hợp doanh nghiệp thừa nhận, thủ tục hành chính chưa được thuận tiện, cán bộ thực hiện chưa tốt. Tại Diễn đàn doanh nghiệp lần thứ 17 tổ chức tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ngày 21-12-2000, các cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế lại khẳng định rằng, các cơ quan này không hề muốn gây phiền hà cho doanh nghiệp trong quá trình đăng ký kinh doanh, nhưng do cơ sở vật chất quá chật chội, biên chế ít, khối lượng công việc quá lớn nên chưa thực hiện tốt công việc của mình. Để khắc phục tình trạng trên, chúng tôi kiến nghị:

Cần tăng cường biên chế và trang thiết bị hoạt động của các cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan liên quan đến việc thực thi Luật Doanh nghiệp (cơ quan khắc dấu, cơ quan đăng ký mã số thuế). Cần dành kinh phí thoả đáng để trang bị hệ thống máy vi tính cho các cơ quan đăng ký kinh doanh, từng bước tiến hành nối mạng thông tin trong toàn quốc về đăng ký kinh doanh. Điều này vừa phục vụ cho quá trình đăng ký kinh doanh được nhanh chóng, vừa phục vụ cho việc cung cấp thông tin cho những người quan tâm đến hoạt động của doanh nghiệp sau này. Trong quá trình thực hiện Luật Doanh nghiệp, chúng ta không nên chỉ nghĩ đơn giản rằng chỉ có cơ quan đăng ký kinh doanh mới trực tiếp ảnh hưởng đến việc thành lập của doanh nghiệp. Sau khi đăng ký kinh doanh để doanh nghiệp thực sự bước vào hoạt động, thì doanh nghiệp cần phải qua cơ quan khắc dấu, cơ quan đăng ký mã số thuế, cơ quan đăng ký mã số xuất nhập khẩu. Thực tế cho thấy, sự hoạt động của các cơ quan này đang là quá tải. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho doanh nghiệp phải chờ đợi, hoặc tiêu cực sẽ xảy ra tại những cơ quan này.

Cần tuyên truyền, phổ biến tinh thần của Luật Doanh nghiệp một cách sâu rộng và hiệu quả trong đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện các công việc có liên quan đến việc thực thi Luật Doanh nghiệp.

Cần xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm Luật Doanh nghiệp của các cán bộ trong bộ máy thực thi Luật Doanh nghiệp trong thời gian vừa qua cũng như trong thời gian tới. Cần sớm khắc phục tình trạng "trên bảo dưới không nghe" trong bộ máy hành chính của chúng ta. Không thể để tình trạng bộ máy Nhà nước chính là một tấm gương về sự vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa.

4.4. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư kinh doanh.

Để hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh đạt được hiệu quả, trước tiên doanh nghiệp cần nắm bắt được những thông tin cần thiết. Tại cuộc hội thảo "Một năm thi hành Luật Doanh nghiệp" do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tổ chức vào ngày 12-12-2000, một số doanh nghiệp có những kiến nghị rất xác đáng như:

Nhà nước cần sớm xác định và công bố chiến lược phát triển quy hoạch kinh tế để các doanh nghiệp được biết nhằm tăng cơ hội tiếp cận thị trường của doanh nghiệp. Việc công bố các thông tin này có thể thông qua báo chí, hoặc doanh nghiệp sẵn sàng trả phí để có được các thông tin nói trên. Từ trước cho đến nay các thông tin này chỉ được công bố trong các doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan nhà nước, không được công bố cho doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa) ít có khả năng tham gia đấu thầu các dự án đầu tư bằng nguồn vốn của Nhà nước. Sự tham gia của các doanh nghiệp vào các dự án của nhà nước cũng sẽ giúp cho việc tiết kiệm chi phí cho Nhà nước, nâng cao hơn nữa chất lượng các sản phẩm, dịch vụ.

Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn để doanh nghiệp được hưởng những chính sách ưu đãi và những dịch vụ công của nhà nước. Các doanh nghiệp đều cho rằng tiếp cận với những chính sách này là mất thời gian, tốn công sức bởi vì thủ tục hành chính để được xem xét hưởng ưu đãi phức tạp. Cần khắc phục những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc xét cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư như cơ quan cấp giấy chứng nhận ưu đãi cần có hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp có đủ điều kiện xin cấp giấy chứng nhận ưu đãi, để doanh nghiệp khỏi tốn phí thời gian, công sức và chi phí cho việc lo đủ các giấy tờ thủ tục. Dần dần xóa bỏ thủ tục xin cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư mà áp dụng phương pháp Nhà nước quy định các điều kiện ưu đãi đầu tư trong văn bản pháp luật. Doanh nghiệp nào đáp ứng đủ các điều kiện nói trên đương nhiên được hưởng ưu đãi.

Doanh nghiệp mong muốn các điều kiện về kết cấu hạ tầng được ngày càng cải thiện, nhất là kết cấu hạ tầng ở những vùng sâu, vùng xa. Bởi vì ở những nơi này, đường giao thông đi lại khó khăn hơn ở vùng đồng bằng, thêm vào đó các chi phí về điện, nước cũng tốn kém hơn.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách về tín dụng để các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được dễ dàng đến các nguồn tín dụng ngân hàng.

Phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh bằng cách xã hội hóa cho các cá nhân, tổ chức cùng tham gia thực hiện như dịch vụ tư vấn, đào tạo các ngành nghề, dịch vụ thông tin...

4.5. Nâng cao tính tích cực về mặt pháp luật của những nhà doanh nghiệp.

Tính tích cực về mặt pháp luật chỉ có thể có được khi bản thân nhà điều hành doanh nghiệp am hiểu sâu sắc về mặt pháp lý, hoặc nhà điều hành doanh nghiệp phải có những cố vấn pháp lý giàu kinh nghiệm và am hiểu lĩnh vực, ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động. ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, hầu hết các doanh nghiệp đều có cố vấn pháp lý (luật sư) thường xuyên của mình. Các doanh nghiệp sẵn sàng chi trả một khoản chi phí khá lớn để phục vụ công tác đảm bảo tính an toàn về mặt pháp lý trong hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi đó, ở Việt Nam, hiếm có doanh nghiệp nào lại ý thức được điều này. ý thức của bản thân doanh nghiệp trong việc chấp hành pháp luật và tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình chưa cao. Điều này thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp đã thành lập trước khi Luật Doanh nghiệp được ban hành và có hiệu lực thường không quan tâm đến Luật Doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp thành lập sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành thì họ chỉ quan tâm đến việc bỏ các giấy phép con, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Mà lại không chú ý đến doanh nghiệp phải thực hiện những gì sau khi đăng ký kinh doanh và chưa thi hành nghiêm túc Luật Doanh nghiệp trên thực tế.

Chúng tôi cho rằng, để nâng cao tính tích cực về mặt pháp lý cho các chủ doanh nghiệp, những người điều hành doanh nghiệp, cần:

- Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các quy định pháp luật về kinh doanh cho các doanh nghiệp. Trên thực tế các diễn đàn doanh nghiệp do Bộ Tư pháp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tổ chức được doanh nghiệp hoan nghênh. Bởi tại các diễn đàn này, doanh nghiệp được nghe các chuyên gia phân tích các quy định của pháp luật, đồng thời được nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình khi các văn bản pháp luật đó đi vào cuộc sống. Đó chính là sự phản hồi của nền kinh tế thị trường đối với sự quản lý của Nhà nước. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thông tin rộng rãi hơn nữa các văn bản pháp luật mới ban hành để các doanh nghiệp sớm nắm bắt được tinh thần và nội dung của văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Hiện nay, "Công báo" của Chính phủ, "Văn bản pháp quy" của Bộ Thương mại đã đăng tải tương đối nhanh chóng các văn bản pháp luật của Quốc hội, của Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, nhưng vẫn chưa đủ. Cần nâng cao chất lượng và sớm đưa các chương trình có chứa văn bản pháp luật lên mạng Internet để các doanh nghiệp có thể tự minh truy cập.

Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các cố vấn pháp lý phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp mình. Khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp tư vấn pháp lý phát triển thông qua các chính sách thuế.

Tạo điều kiện thuận lợi cho các hiệp hội nghề nghiệp của các doanh nghiệp phát triển, đoàn kết, cùng bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, tạo những áp lực đối với các cơ quan nhà nước.

Phát động phong trào bảo vệ doanh nghiệp, tôn vinh các doanh nghiệp, nhà doanh nghiệp làm ăn chân chính và có đóng góp nhiều cho xã hội.

Xử lý nghiêm và kịp thời các hiện tượng sách nhiễu doanh nghiệp của các cán bộ, công chức Nhà nước.

File đính kèm ...