• Thuộc tính
Tên đề tài Hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng, vấn đề đặt ra và phương hướng đổi mới
Nội dung tóm tắt

Trong xu thế hội nhập, việc kết hôn với người nước ngoài là quyền nhân thân của mỗi người trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, hạnh phúc. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây, các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài mà chủ yếu là với người Đài Loan, Hàn Quốc tăng nhanh và ngày càng trở nên phức tạp. Thực tế cho thấy những người phụ nữ lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc thường có tuổi đời từ 18 đến 25, phần lớn là phụ nữ nông thôn hoặc dân nghèo thành thị và đa phần muốn đổi đời nhanh chóng. Không ít cha mẹ gả con hoặc chính chị em quyết định kết hôn trong điều kiện khó khăn, muốn có ngay khoản tiền phụ giúp gia đình. Trước thực trạng này, Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu đề tài cấp cơ sở “Hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và phương hướng đổi mới”. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh trên lĩnh vực chính trị- kinh tế- xã hội; trên lĩnh vực pháp luật, việc vận dụng các quy định pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, pháp luật nước ngoài về quan hệ hôn nhân và việc giải quyết xung đột pháp luật, việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài, về hoạt động môi giới hôn nhân nước ngoài. Thông qua đó, Nhóm nghiên cứu tổng hợp và đề xuất các kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức, nâng cao năng lực của các tổ chức bổ trợ tư pháp, các cơ quan tư pháp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài đối với các đối tượng sau: Công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài; Công dân Việt Nam ở trong nước kết hôn với người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Công dân Việt Nam ở trong nước kết hôn với người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam hoặc với người là công dân của nước có chung đường biên giới với Việt Nam; Công dân nước ngoài kết hôn với nhau đang sinh sống tại Việt Nam.

I. THỰC TRẠNG HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1. Tình hình chung về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh:

1.1. Về kết hôn: Theo số liệu mà nhóm nghiên cứu thống kê, phần lớn các trường hợp kết hôn là giữa công dân Việt Nam ở trong nước với người nước ngoài và kết hôn giữa công dân Việt Nam với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (99,61%), trong đó, phụ nữ Việt Nam ở trong nước chiếm 92%. Có 52 quốc gia và vùng lãnh thổ có công dân là chủ thể tham gia vào quan hệ hôn nhân với công dân Việt Nam, phân bố theo 3 khu vực chính: nhiều nhất là Khu vực các nước có nhiều người Việt Nam định cư ở nước ngoài gồm Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Canada; Thứ hai là kết hôn với nam công dân Trung Quốc (Đài Loan); Còn lại là ở các quốc gia khác. Về độ tuổi kết hôn của phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài không có sự khác biệt lớn, tuy nhiên, ở các cặp vợ chồng Đài -Việt, tuổi kết hôn của các cô gái Việt Nam thường rất trẻ, độ tuổi chênh lệch lớn. Về dân tộc, gần một nửa phụ nữ Việt Nam kết hôn với Đài Loan thuộc dân tộc Hoa (có tỷ lệ cao hơn tỷ lệ chung).

1.2. Về ly hôn: Theo số liệu thống kê từ năm 1998-2001, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý 3487 vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, năm sau đều cao hơn năm trước. Việc ly hôn đa số do công dân Việt Nam trong nước đứng nguyên đơn; bên bị đơn là người nước ngoài đang ở nước ngoài hoặc đang cư trú, làm việc tại Việt Nam; hoặc là công dân Việt Nam đang cư trú, làm việc, học tập ở nước ngoài (việc cư trú này có trường hợp không hợp pháp); hoặc công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài (còn quốc tịch Việt Nam, hoặc đã có quốc tịch nước ngoài); hoặc là người không xác định được quốc tịch, đang cư trú tại Việt Nam (thường là công dân của nước có chung biên giới với Việt Nam như Trung Quốc, Campuchia).

Khi giải quyết quan hệ hôn nhân, đa số là trường hợp xét xử vắng mặt một bên, hầu hết Toà án chỉ giải quyết quan hệ hôn nhân, trường hợp giải quyết về con không nhiều, hầu như không có giải quyết về tài sản; Khi giải quyết về con chung hầu hết không giải quyết về cấp dưỡng nuôi con do các bên không yêu cầu, họ đã tự giải quyết, có lẽ do thấy Toà có giải quyết cũng khó thi hành được.

Nguyên nhân ly hôn tùy theo từng loại đối tượng, tập trung là những nguyên nhân sau:

* Đối với bên ở nước ngoài là công dân của nước ngoài:

- Công dân các nước Âu- Mỹ: nguyên nhân ly hôn thường là do tính tình, phong tục, tập quán, cách sống không phù hợp, không tin tưởng sự chung thủy, tài chính.

- Công dân Trung Quốc (Đài Loan): nguyên nhân ly hôn xuất phát từ hôn nhân không tình yêu, kết hôn chỉ nhằm giải quyết những khó khăn khác của bản thân và gia đình về kinh tế (người trong nước), hoặc muốn có con nối dõi (người nước ngoài); thời gian tìm hiểu trước hôn nhân không có do phần lớn kết hôn thông qua môi giới; chênh lệch lớn về tuổi tác; bị tàn tật...

* Đối với trường hợp là người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Cannada) có nhiều nguyên nhân ly hôn khác nhau: có trường hợp đã kết hôn và chung sống ở Việt Nam, sau đó một bên xuất cảnh, qua nước ngoài kết hôn với người khác, hoặc bỏ mặc người ở trong nước; có trường hợp kết hôn không vì mục đích chung sống vợ chồng mà là để sau này bên ở nước ngoài bảo lãnh cho bên ở trong nước được xuất cảnh, sau đó việc bảo lãnh không thực hiện được, họ phải chấm dứt quan hệ hôn nhân để ổn định cuộc sống; có trường hợp khi kết hôn một bên đã định cư ở nước ngoài và có quốc tịch nước ngoài, về nước kết hôn với người trong nước, sau một thời gian chung sống ngắn ngủi ở Việt Nam, họ trở về nước và hứa hẹn làm thủ tục bảo lãnh đoàn tụ, nhưng khi đó mâu thuẫn giữa hai bên đã phát sinh, việc bảo lãnh không thực hiện, bên ở nước ngoài bỏ mặc, có khi có quan hệ chung sống với người khác ở nước ngoài, bên ở trong nước không có tin tức, liên lạc gì được.

* Đối với người không xác định quốc tịch: họ là người đã sinh sống, định cư ở Việt Nam lâu năm, có quốc tịch nước ngoài hoặc không xác định rõ quốc tịch, như những người gốc Việt Nam ở Campuchia về Việt Nam sinh sống từ những năm 1970, có những người đã có chứng minh nhân dân, có hộ khẩu ở Việt Nam, chưa được nhập quốc tịch Việt Nam, thì nguyên nhân ly hôn cũng thông thường như những vụ án ly hôn khác không có yếu tố nước ngoài.

- Xét về thành phần nhân thân của bên cư trú ở trong nước: nữ nhiều hơn nam, tuổi đời còn trẻ, trình độ văn hoá thấp chiếm đa số, thành phần xuất thân từ gia đình lao động, nghèo, bản thân khi kết hôn chưa có việc làm hoặc làm nghề tự do hoặc là công nhân, cư trú ở thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long.

Bên nước ngoài: là công dân các nước ngoài Châu Á không nhiều, là những người có học vấn, có việc làm tại Việt Nam, có thu nhập cao hơn nhiều so với bên ở trong nước. Đối với bên nước ngoài là công dân các nước gần Việt Nam như Trung Quốc, lãnh thổ Đài Loan, một số là người đang làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, còn đa số là những người làm nông, công nhân, lao động, buôn bán tự do ở nước họ, đa số có mức sống không cao tại nước họ.

Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài: có quốc tịch nước ngoài do định cư đã lâu, nhưng chưa thực hiện thủ tục xin thôi quốc tịch Việt Nam, đa số đã có nghề nghiệp ổn định, có thu nhập, ở các thành phố ở nước sở tại, đa số hầu hết ở Hoa Kỳ, rải rác rất ít ở Pháp, Đan Mạch, Đức, Anh, Canada.

- Kết quả giải quyết của Toà án: ngoại trừ một số ít vụ án sau khi thụ lý Toà án ra quyết định tạm đình chỉ do không tìm được địa chỉ của bị đơn; một số ít vụ án Toà án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án do nguyên đơn rút đơn kiện để tự về thu xếp hoà giải đoàn tụ; một số vụ Toà công nhận sự thuận tình ly hôn của hai bên, còn tỷ lệ rất lớn là Toà án cho ly hôn; rất hiếm trường hợp Toà bác đơn yêu cầu ly hôn của nguyên đơn; một số trường hợp Toà xử hủy quan hệ hôn nhân trái pháp luật (theo Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài năm 1993); hoặc không công nhận quan hệ hôn nhân; có một số trường hợp Toà án giải quyết ly hôn khi các bên hoặc một bên đã giải quyết ly hôn tại nước ngoài, do toà án nước ngoài xét xử hoặc cơ quan hành chính của nước ngoài công nhận việc thoả thuận ly hôn của hai bên. Trong trường hợp này, Toà không giải quyết theo thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định, bản án về quan hệ hôn nhân gia đình của toà án nước ngoài vì Việt Nam không có hiệp định tương trợ tư pháp với nước đó và pháp luật Việt Nam hiện nay cũng chưa cho phép công nhận.

1.3. Tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn cùng công dân Trung Quốc- Đài Loan.

- Đa số phụ nữ Việt Nam kết hôn vì lý do kinh tế:

Về phía nam Đài Loan, phần lớn là dân lao động ở nông thôn, khó có điều kiện kết hôn ở Đài Loan do trình độ, thu nhập thấp, một số ít có hoàn cảnh đặc biệt như: tuổi cao (2,36%), có khuyết tật về thể chất. Do những đặc điểm chủ thể như thế, nên đại đa số các cuộc hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam và người Đài Loan khó có thể đánh giá là hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu thật sự. Họ không có thời gian giao tiếp, tìm hiểu do bất đồng ngôn ngữ. Họ tiến tới hôn nhân do một bên có nhu cầu tìm vợ, một bên vì lý do kinh tế. Một số trường hợp cá biệt kết hôn nhằm mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, lừa gạt mua bán phụ nữ để đưa ra nước ngoài hành nghề mại dâm. Trong thực  tế có một số trường hợp phụ nữ Việt Nam sau khi tổ chức lễ cưới và nhận tiền của người Đài Loan thì không chịu sống chung hoặc trì hoãn việc đăng ký kết hôn.

- Quyền lợi phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan chưa được bảo hộ:

Theo các thông tin từ Văn phòng Kinh tế - VH Đài Bắc tại thành phố Hồ Chí Minh, sự bảo hộ quyền lợi phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan gặp nhiều khó khăn. Phần lớn phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan không biết cơ quan đại diện Việt Nam ở Đài Loan nên khi gặp khó khăn họ thường gửi đơn, thư, điện thoại đến các cơ quan chức năng của Đài Loan yêu cầu được giúp đỡ. Các tranh chấp về tài sản, quan hệ hôn nhân và gia đình của phụ nữ Việt Nam sinh sống tại Đài Loan thường đưa đến các cơ quan có thẩm quyền của Đài Loan giải quyết, trong khi các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam lại không được thông tin về các vấn đề này. Trong giải quyết án ly hôn, phần thiệt thòi thường nghiêng về phía phụ nữ Việt Nam (do các bất cập của các quy định pháp luật và sẽ được trình bày ở phần sau). 

1.4. Về hoạt động "môi giới hôn nhân có yếu tố nước ngoài”:

Mặc dù đến nay chưa có một kết quả điều tra chính thức nào về nhu cầu tìm hiểu, kết hôn thông qua các hoạt động môi giới, hỗ trợ hôn nhân, tuy nhiên, qua các số liệu về đặc điểm nhân thân, hoàn cảnh của các bên và theo kết quả điều tra xã hội học có thể khẳng định nhu cầu này là có thật và khá phổ biến. Trong khoảng thời gian từ 1993 cho đến khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, hoạt động môi giới, hỗ trợ hôn nhân chủ yếu mang tính chất tự phát, hoạt động lén lút - thường gọi là "cò hôn nhân". Loại "cò" này hoạt động chủ yếu với trường hợp người Đài Loan muốn lấy vợ Việt Nam, không nhằm tác hợp hôn nhân trên cơ sở tình yêu tự nguyện mà chỉ nhằm vào "lợi nhuận", mang đậm tính chất môi giới mua bán hoặc lừa đảo. Có nhiều trường hợp phụ nữ Việt Nam đã bị lường gạt buộc hành nghề mại dâm ở nước ngoài trong thời gian này. Từ sau khi có Luật Doanh nghiệp cho đến trước khi Nghị định 68/2002/NĐ-CP(1) có hiệu lực: Có đến 58 doanh nghiệp đăng ký hoạt động dịch vụ môi giới hôn nhân. Do hoạt động của các doanh nghiệp này còn mới mẻ, mang tính thử nghiệm (chủ yếu là làm đầu mối cho các tổ chức ở nước ngoài), giá dịch vụ cao hơn so với "cò hôn nhân", có nhiều ràng buộc pháp lý và yêu cầu về thủ tục với phía khách hàng nên chưa có nhiều khách hàng, số thực sự hoạt động chỉ khoảng 05 doanh nghiệp. Thời gian này các "cò hôn nhân" vẫn hoạt động rầm rộ. Sau khi Nghị định 68/2002/NĐ-CP có hiệu lực, các doanh nghiệp dịch vụ môi giới hôn nhân vẫn còn tiếp tục hoạt động và đến tháng 7/2003 còn 23 công ty chưa làm thủ tục giảm ngành nghề môi giới hôn nhân. Xảy ra tình trạng như trên là do các cơ quan chức năng còn lúng túng, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan đăng ký (Sở Kế hoạch và Đầu tư), cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực chuyên môn (Sở Tư pháp) trong việc tham mưu cho UBND thành phố triển khai thực hiện Nghị định 68.

Về phía Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thành phố, đến tháng 4/2003, việc xây dựng đề án, nhân sự của Trung tâm hỗ trợ hôn nhân theo quy định của Nghị định 68/2002/NĐ-CP đã được chuẩn bị, khảo sát và ngày 20/10/2003 đã được thành lập và đi vào hoạt động. Tuy nhiên, hoạt động của Trung tâm vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm và có nhiều lúng túng trước thực tiễn phát sinh. Ngay như vấn đề biểu mẫu, hợp đồng, giá cả, con dấu cũng chưa được hướng dẫn. Về con dấu, 01 tháng sau khi thành lập mới xin được con dấu để hoạt động.

Nhóm nghiên cứu đã tổng hợp một số quan điểm khác nhau về hoạt động môi giới, hỗ trợ hôn nhân, như quan điểm cho rằng kinh doanh môi giới hôn nhân là một nghề và nó phù hợp với nhu cầu của xã hội; Quan điểm không chấp nhận kinh doanh môi giới hôn nhân dưới bất cứ hình thức nào. Nhóm nghiên cứu cho rằng: với thực tế và điều kiện hiện nay chúng ta không chấp nhận kinh doanh “môi giới hôn nhân” dưới bất cứ hình thức nào.

2. Việc vận dụng các quy định pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài của nước ta tại thành phố Hồ Chí Minh, những khó khăn, vướng mắc:

2.1. Về đăng ký kết hôn

2.1.1. Một số vận dụng tại thành phố Hồ Chí Minh

a) Việc xác định yếu tố “nước ngoài”:

- Điều 2, Luật Quốc tịch Việt Nam quy định “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài” và thuật ngữ này được giải thích thống nhất trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta cho đến nay. Tuy nhiên,  cho đến nay pháp luật chưa quy định rõ ràng khái niệm “người gốc Việt Nam” là như thế nào.

- Liên quan đến việc xác định yếu tố “nước ngoài” trong giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn cho các đối tượng là người không quốc tịch đang sinh sống, thường trú tại Việt nam với người là công dân của quốc gia có chung đường biên giới với Việt Nam, tại thành phố Hồ Chí Minh, do căn cứ vào yếu tố quốc tịch, nên đã xếp các đối tượng này vào đối tượng chịu sự điều chỉnh của Nghị định 184-CP(2) với các yêu cầu về thủ tục phức tạp khi họ có yêu cầu về đăng ký hộ tịch. Đây là một điều bất hợp lý. Trở ngại về quốc tịch khiến hàng loạt các vấn đề khác như hộ tịch, hộ khẩu, kết hôn, quan hệ tài sản trở nên hết sức phức tạp và không bảo đảm.

b) Về thủ tục ghi chú các thay đổi về hộ tịch ở nước ngoài:

Tại thành phố Hồ Chí Minh, thực tế giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn cho thấy có ba trường hợp cơ quan thẩm quyền ở nước ngoài giải quyết cho ly hôn là: (1) Kết hôn và ly hôn tại nước ngoài giữa người Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài với người nước ngoài; (2) Kết hôn tại Việt Nam, ly hôn tại nước ngoài giữa người Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; (3) Kết hôn tại Việt Nam, ly hôn tại nước ngoài giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài, một bên ở Việt Nam hoặc không rõ địa chỉ.

Quan điểm của Sở Tư pháp trong việc vận dụng quy định này là trường hợp (3) mới cần phải qua thủ tục ghi chú để công nhận bản án, quyết định cho ly hôn của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài trước khi giải quyết cho đăng ký kết hôn tại Việt Nam. Việc làm này nhằm bảo vệ quyền lợi liên quan đến quan hệ hôn nhân với người vợ (chồng) còn ở Việt Nam. Còn trường hợp (1), (2) thì chỉ ghi chú việc ly hôn khi đương sự yêu cầu. Nếu ràng buộc thủ tục đăng ký kết hôn mới với việc buộc phải ghi chú bản án ly hôn của nước ngoài là không cần thiết, làm thời hạn giải quyết hồ sơ kết hôn kéo dài, gây khó khăn cho đương sự. Đối với trường hợp (3), khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký kết hôn, nếu người VN định cư ở nước ngoài có bản án ly hôn nước ngoài xét xử vắng mặt phía công dân Việt Nam ở trong nước, Sở Tư pháp yêu cầu bên nước ngoài phải có văn bản nêu ý kiến của người ở trong nước đã ly hôn là không khiếu nại bản án đó, nếu đáp ứng yêu cầu này thì Sở Tư pháp tiếp nhận hồ sơ đăng ký kết hôn và không buộc đương sự phải làm thủ tục ghi chú.

Tuy nhiên, việc vận dụng như trên cũng gây trở ngại cho phía nước ngoài, do thường bị phía người ở trong nước đã ly hôn gây khó khăn, không đáp ứng yêu cầu, hoặc yêu sách.  Do vậy, từ 1998 đến 2002, Sở Tư pháp thành phố không buộc thực hiện việc ghi chú ly hôn đối với trường hợp (1) và (2). Từ năm 2002 cho đến nay đã thực hiện việc ghi chú ly hôn cho tất cả các trường hợp theo quy định.

 c) Vận dụng pháp luật liên quan hộ tịch, hôn nhân - gia đình của các nước, khu vực trên thế giới trong việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở thành phố:

 Pháp luật của một số nước trên thế giới không quy định việc cấp các loại giấy tờ theo yêu cầu về thủ tục hồ sơ kết hôn theo quy định tại Nghị định 184-CP, nên trong việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại thành phố, Sở Tư pháp đã vận dụng chấp nhận một số loại giấy tờ có giá trị tương đương thay thế. Cụ thể như có quốc gia không cấp công hàm xác nhận việc kết hôn của công dân nước họ phù hợp pháp luật và không có trở ngại gì (Canada); hoặc không cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của đương sự (Hoa Kỳ, Canada, Newzeland, Úc...) thì được thay thế bằng giấy tuyên thệ độc thân có xác nhận tuyên thệ của cơ quan có thẩm quyền nước mà họ mang quốc tịch. Hàn Quốc không cấp cho công dân nước họ các loại giấy tờ hộ tịch (kết hôn, khai sinh, khai tử) mà cấp sổ hộ khẩu và giấy xác nhận hộ tịch ghi rõ các thời điểm phát sinh sự kiện hộ tịch, nên ta chấp nhận xem xét qua sổ hộ khẩu và giấy tờ hộ tịch do Hàn Quốc cấp. Một số khu vực khác trên thế giới, giấy tờ hộ tịch không do các cơ quan hành chính nhà nước cấp mà do các cơ sở tôn giáo quản lý và cấp phát...

2.1.2. Những khó khăn, vướng mắc

a) Giải quyết xung đột pháp lý:

* Điều kiện kết hôn:

- Tuổi kết hôn: quy định về độ tuổi kết hôn của một số nước thấp hơn so với Việt Nam (như Anh, Mỹ, Úc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc là trên 16 tuổi đối với nữ, đối với Pháp là từ 15 tuổi) trong khi đó quy định của ta chỉ thừa nhận tuổi kết hôn là trên 18 tuổi. Trong trường hợp này ta sẽ gặp khó khăn khi thụ lý các hồ sơ xin công nhận việc kết hôn ở nước ngoài, vì ngoài việc xem xét cuộc hôn nhân đó có phù hợp với pháp luật Việt Nam không còn phải tính đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, chưa kể phải xem xét đến yếu tố vi phạm Luật Hình sự (giao cấu với người vị thành niên).

- Năng lực, nhận thức kết hôn: Thực tiễn hiện nay cho thấy có nhiều cuộc hôn nhân nằm ngoài mục đích đích thực của hôn nhân: chủ yếu vì lý do kinh tế hoặc để được xuất cảnh. Mặc dù một số trường hợp đã được Nhà nước Việt Nam cấp giấy đăng kết hôn hợp lệ nhưng nếu không chứng minh được quan hệ trước hôn nhân thì không được cấp thị thực nhập cảnh để đoàn tụ với gia đình ở nước ngoài. Do đó tạo nhiều hậu quả rất thiệt thòi cho phía công dân Việt Nam (khác với các trường hợp kết hôn với người Đài Loan chỉ cần có giấy đăng ký kết hôn hợp lệ là được cấp thị thực nhập cảnh Đài Loan).

* Thủ tục kết hôn

- Để xác định tuổi kết hôn và huyết thống của bên nước ngoài, theo quy định của ta hiện nay chỉ cần nộp bản sao hộ chiếu và khai trong Tờ khai đăng ký kết hôn (đây là văn bản tự khai, không quy định phải do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài xác nhận). Thực tế, đối tượng kết hôn từ khu vực các nước Anh, Hoa Kỳ, Úc chủ yếu là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và xuất phát từ hoàn cảnh ra đi, những người này thường không có khai sinh, hoặc các giấy tờ tuỳ thân khác do đó các vấn đề nhân thân của họ thường là tự khai và được nước sở tại cấp giấy tờ tuỳ thân (như hộ chiếu, thẻ an sinh xã hội, bằng lái xe...). Mặt khác việc trích lục lại khai sinh ở Việt Nam mặc dù đã được quy định trong các văn bản pháp quy hiện nay, tuy nhiên thực tế là rất khó khăn do có nhiều trường hợp không còn sổ bộ. Các quy định của ta hiện nay về đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài là tiến bộ, phù hợp thực tiễn, tuy nhiên còn nhiều vướng mắc khi xem xét thụ lý hồ sơ do các giấy tờ, chứng cứ của phía nước ngoài thường là các giấy tờ tự khai (tuyên thệ), do đó mức độ tin cậy và giá trị pháp lý còn bị giới hạn.

Theo quy định tại Điều 13 Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định về hồ sơ đăng ký kết hôn không yêu cầu đương sự phía nước ngoài xuất trình chứng chỉ có khả năng kết hôn. Tuy nhiên, đối với các trường hợp kết hôn với công dân Pháp, phía Pháp cho rằng, công dân Pháp muốn kết hôn tại Việt Nam phải hội đủ điều kiện ấn định bởi khoản 170 đoạn thứ nhất của Luật Dân sự Pháp. Bằng chứng của việc chấp hành những điều kiện này là công dân Pháp phải trình chứng chỉ có khả năng kết hôn, chứng chỉ này được cấp sau khi có công bố kết hôn theo như Điều 63 Luật Dân sự Pháp.

Vấn đề đặt ra là nếu thủ tục đăng ký kết hôn của ta không yêu cầu công dân Pháp nộp chứng chỉ có khả năng kết hôn, phía Pháp có công nhận các cuộc hôn nhân này hay không. Nếu không thì phía công dân Việt Nam sẽ bị thiệt thòi về quyền lợi. Để tháo gỡ vướng mắc này, Bộ Tư pháp đã có hướng dẫn áp dụng theo quy định pháp luật của nước Cộng hoà Pháp.

b) Vướng mắc trong quá trình giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn:

- Điều 4 Nghị định 184 quy định “Thẩm quyền giải quyết đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi người Việt Nam có hộ khẩu thường trú”. Tại thành phố Hồ Chí Minh, có trên 1 triệu người nhập cư, tạm trú diện KT3 dài hạn, họ đã bị cắt hộ khẩu nơi thường trú trước đây và chưa được nhập hộ khẩu tại thành phố. Các đối tượng này khi có yêu cầu kết hôn với người nước ngoài thì không xác định được thẩm quyền nơi đăng ký kết hôn. Để giải quyết vấn đề này, trước đây, Bộ Tư pháp đã có hướng dẫn giải quyết.

Vướng mắc này đã được bổ sung trong Nghị định 68: Trường hợp công dân Việt Nam trong nước tạm trú có đăng ký theo quy định pháp luật thì được xem xét giải quyết đăng ký kết hôn. Tuy nhiên yêu cầu phải có giấy chứng minh nhân dân lại là vướng mắc mới, do nhiều người tạm trú tại thành phố khi họ chưa đủ tuổi làm chứng minh nhân dân mà chỉ có giấy kiểm tra tạm thời.      

- Về xác định việc kết hôn không vi phạm các điều cấm:

Hiện nay, chưa có các quy định cụ thể nào nhằm bảo đảm việc đăng ký kết hôn không vi phạm các điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Thời gian qua, cơ quan công an chịu trách nhiệm xác minh về an ninh và không chịu trách nhiệm xác minh về vi phạm các điều cấm. Nghị định 68 quy định việc phỏng vấn để xác định các dấu hiệu, hiện tượng của việc kết hôn giả, kết hôn vì mục đích vụ lợi ...làm cơ sở cho việc từ chối đăng ký kết hôn. Phương pháp này hiện chỉ mới áp dụng đối với một số trường hợp nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan; nam nữ có độ tuổi chênh lệch lớn; có nghi vấn về quan hệ huyết thống; nghi vấn về các nội dung trong các giấy tờ của đương sự nên chưa thể rút ra được điều gì làm bài học kinh nghiệm. Thực tế, qua các cuộc phỏng vấn đều cho thấy các bên quyết định đăng ký kết hôn rất vội vã, chỉ sau một lần gặp gỡ. Nhưng các bên đều đưa ra một số lý do vì muốn xây dựng mái ấm gia đình, hoặc thậm chí họ đã tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau, nay chỉ hợp pháp hoá việc kết hôn. Do đó, kết luận về một vụ việc vi phạm các điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình làm cơ sở cho việc từ chối đăng ký kết hôn là rất khó và không thuyết phục.

2.2. Về giải quyết án ly hôn có yếu tố nước ngoài

2.2.1. Khái niệm hôn nhân có yếu tố nước ngoài chưa thống nhất

Theo các hướng dẫn quy định tại Điều 826 Bộ luật Dân sự, Điều 8 điểm 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Điều 9 Nghị định 68/2002/NĐ-CP, Điều 2 Luật Quốc tịch, Công văn 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 của Toà án nhân dân Tối cao giải đáp các vấn đề về nghiệp vụ, công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài không coi là một bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và Toà án có thẩm quyền để giải quyết là Toà án nhân dân cấp huyện. Trong khi đó tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Toà án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây: Khi có đương sự là người nước ngoài hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài. Do vậy Toà án các cấp khi xác định thẩm quyền thụ lý vụ án khi bên ở nước ngoài là công dân Việt Nam thuộc diện tạm trú ở nước ngoài là cấp nào?

Nếu chúng ta căn cứ vào Điều 2, 3, 4 của Luật Quốc tịch năm 1998, theo nguyên tắc công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, thì ngoại trừ trường hợp công dân Việt Nam đã mất quốc tịch Việt Nam, đã thôi quốc tịch Việt Nam, bị tước quốc tịch Việt Nam, thì các trường hợp còn lại dù họ đã vào quốc tịch nước ngoài vẫn được xem là công dân Việt Nam. Trong các vụ án Toà án thụ lý, rất nhiều trường hợp một bên ở nước ngoài, khi đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận kết hôn ghi rõ họ có quốc tịch nước ngoài chứ không ghi họ là công dân Việt Nam cho dù họ không thực hiện các thủ tục xin thôi quốc tịch Việt Nam. Vậy thì chúng ta coi họ là công dân nước ngoài hay công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài?. Điều này sẽ dẫn đến xung đột pháp luật, vì cả 2 nước đều coi họ là công dân của nước mình. Khi tiến hành điều tra giải quyết vụ án, chúng ta có thể coi họ là công dân Việt Nam để điều tra thông qua cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài- trên lãnh thổ nước ngoài không?. Chúng ta cần có một quy định thực tế về vấn đề này.

2.2.2. Việc hủy kết hôn trái pháp luật

Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, nhưng không đề cập đến việc hủy kết hôn trái pháp luật khi việc kết hôn thực chất được xác định không nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc mà chỉ là kết hôn giả tạo nhằm mục đích trục lợi. Như vậy, việc kết hôn giả tạo, vì mục đích trục lợi nếu thực hiện có bị hủy bỏ không, hay chỉ cho ly hôn như hiện nay?

2.2.3. Về giải quyết án ly hôn vắng mặt một bên

Pháp luật Việt Nam có quy định trường hợp ly hôn có yếu tố nước ngoài, nếu bị đơn ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức gì về họ thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án và quy định việc thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú sẽ được thực hiện bằng việc đăng thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng tại Việt Nam. Nhưng xét thực tế và pháp lý, chúng ta đã biết họ ở nước ngoài và không có bằng chứng gì khác về việc họ đã trở lại Việt Nam, thì thủ tục này được quy định như vậy là chưa hợp lý, chưa chặt chẽ và đầy đủ, cần quy định sao cho người ở nước ngoài có thể biết được việc thông báo này thì mới bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của họ.

2.2.4. Việc ủy thác tư pháp quốc tế

Theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, tuỳ theo đối tượng là người nước ngoài, hoặc công dân Việt Nam ở nước ngoài mà việc ủy thác tư pháp được thực hiện thông qua Đại sứ quán, Lãnh sự quán Việt Nam ở nước ngoài hoặc là do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thông thường là Toà án nước ngoài thực hiện. Hồ sơ ủy thác được gửi ủy thác 2 lần, bao gồm các tài liệu chứng từ cả bản dịch ra tiếng nước sở tại, tốn kém chi phí khá nhiều của các đương sự ở trong nước. Thực tế cho thấy kết quả ủy thác tư pháp trong mấy năm qua thật là khiêm tốn, các nước thực hiện ủy thác tư pháp theo yêu cầu của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thường không trả lời, trong khi Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mỗi năm đều có thực hiện và gửi trả hồ sơ cho các yêu cầu ủy thác của toà án nước ngoài. Đối với những nước, lãnh thổ chưa có ký hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam về các công việc nói trên cũng cần được quy định, hướng dẫn và yêu cầu theo nguyên tắc có đi, có lại.

2.2.5. Về thủ tục mở phiên toà

Đối với các vụ xử ly hôn có yếu tố nước ngoài, nội dung tranh chấp đơn giản, hầu hết chỉ có yêu cầu giải quyết quan hệ hôn nhân, đa số không có tranh chấp gì về con cái và tài sản, nội dung vụ việc rất đơn giản và tương đối giống nhau, nên có khi một buổi xử, một Hội đồng có thể xử đến 7, 8 vụ, mỗi vụ chỉ có một bên đương sự. Việc xét hỏi cũng rất ngắn gọn, xoay quanh vấn đề làm rõ tình trạng mâu thuẫn, thậm chí có vụ án cả hai bên vắng mặt do có yêu cầu, mà Toà án vẫn phải mở phiên toà để xét xử. Nên chăng nên quy định một thủ tục giải quyết rút gọn, vắng mặt các đương sự, để giảm thiểu được thời gian, chi phí cho các bên.

2.2.6. Về việc thu thập chứng cứ để giải quyết yêu cầu về cấp dưỡng sau ly hôn

Tuy ít có vụ án yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và cấp dưỡng khi vợ chồng ly hôn, nhưng nếu có thì lại khó giải quyết, do không có điều kiện để xác định mức thu nhập của bên ở nước ngoài, mức cấp dưỡng theo yêu cầu sinh hoạt ở Việt Nam hay theo mức sinh hoạt ở nước ngoài, việc tổ chức thi hành cũng chưa có khả năng thực hiện được.

2.2.7. Việc công nhận bản án, quyết định về việc ly hôn của Toà án, cơ quan nhà nước tại Việt Nam

Trong một số vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, mà nước đó là nước chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam về lĩnh vực này, thì dù các đương sự đã ly hôn ở nước ngoài, có bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, Toà án Việt Nam cũng chỉ coi đây là văn bản có giá trị tham khảo, không áp dụng thủ tục cho công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định này được. Điều này đã làm cho việc giải quyết ly hôn thêm mất nhiều thời gian, tốn kém, làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các bên, nhất là đối với phụ nữ Việt Nam khi họ cần làm thủ tục đăng ký kết hôn lần nữa.

Ngoài ra, trong thời gian qua việc phổ biến các hiệp định tương trợ tư pháp đã ký với các nước được thực hiện rất hạn chế, dù là chỉ trong ngành Toà án, tư pháp. Nhiều thẩm phán không có đủ các văn bản này để nghiên cứu, thực hiện, áp dụng trong khi xét xử khi cần thiết; kể cả các điều ước quốc tế, công ước, luật các nước liên quan cũng chưa được phổ biến để giúp cho các thẩm phán có tài liệu tham khảo, cơ sở pháp lý khi xét xử cần phải áp dụng luật của nước ngoài.

II. VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI

1. Một số kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài

1.1. Về các quy định chung

- Cần thống nhất thuật ngữ "người Việt Nam định cư nước ngoài" trong giải quyết các vấn đề phát sinh khi người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia vào các quan hệ pháp luật tại Việt Nam.

- Cần quy định các nguyên tắc cơ bản, mang tính chủ đạo để giải quyết các xung đột pháp luật trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, Việt Nam cần mở rộng quan hệ hợp tác song phương trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với các nước, đặc biệt là đối với các nước có nhiều người Việt Nam sinh sống. Trước mắt, khi chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp, cần áp dụng nguyên tắc có đi, có lại trong quan hệ đối ngoại. Riêng đối với Đài Loan, cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam cần thoả thuận tăng cường một số biện pháp nhằm bảo vệ công dân Việt Nam như thông tin, tuyên truyền, can thiệp về ngoại giao, giải quyết các vấn đề xin thôi quốc tịch Việt Nam, nhập quốc tịch Trung Quốc (Đài Loan) tránh tình trạng công dân Việt Nam rơi vào tình trạng không quốc tịch, giúp đỡ kịp thời các trường hợp công dân Việt Nam lâm vào hoàn cảnh bất hạnh ở nước ngoài.

- Để đáp ứng nhu cầu hiện nay của xã hội và cấm các hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn, cần sớm thành lập và đưa và hoạt động các Trung tâm hổ trợ kết hôn theo quy định tại Nghị định 68/2002/NĐ-CP nhằm giới thiệu, giúp đỡ công dân Việt Nam và người nước ngoài tìm hiểu các vấn đề về hoàn cảnh cá nhân, gia đình, xã hội của các bên, phong tục, tập quán và các vấn đề khác có liên quan mà các bên yêu cầu; tạo điều kiện cho họ tiến tới hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng; giúp đỡ các bên hoàn tất hồ sơ đăng ký kết hôn.

- Tiếp tục nghiên cứu cải tiến về thủ tục đăng ký kết hôn theo hướng hợp lý, hiện đại.

Hiện nay, hệ thống pháp luật các nước trên thế giới đều áp dụng hình thức đương sự tự khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những chi tiết liên quan đến nhân thân. Bên cạnh đó, nhà nước quản lý rất đầy đủ dữ liệu thông tin về cá nhân và các biện pháp chế tài nặng nề trong trường hợp bị phát hiện khai gian. Việt Nam cần thiết lập hệ thống dữ liệu thông tin cá nhân nhằm cung cấp thông tin một cách chính xác về nhân thân một người từ lúc sinh ra. Điều này giúp giảm thiểu các thủ tục đương sự phải đi xin xác minh, xác nhận về hộ khẩu, hộ tịch, về điều kiện kết hôn...

1.2. Về các quy định cụ thể

Trước mắt để giải quyết các vướng mắc hiện nay trong các quy định về thủ tục kết hôn, ly hôn, công nhận kết hôn có yếu tố nước ngoài, có một số kiến nghị cụ thể sau:

- Nghị định 68/2002/NĐ-CP yêu cầu công dân Việt Nam phải nộp bản sao giấy chứng minh nhân dân, không quy định giấy tờ thay thế giấy chứng minh nhân dân. Thực tế có nhiều trường hợp, đương sự tạm trú có thời hạn (diện KT3), đã cắt hoặc xoá hộ khẩu ở nơi thường trú, không có hoặc chưa có chứng minh nhân dân, chỉ sử dụng giấy kiểm ra tạm thời, họ không thể xin cấp giấy chứng minh nhân dân tại nơi tạm trú vì theo quy định cơ quan công an cấp tỉnh nơi đương sự thường trú mới có thẩm quyền cấp giấy chứng minh nhân dân. Để giải quyết vướng mắc nhỏ này, đề nghị bổ sung quy định đối với các giấy tờ thay thế giấy chứng minh nhân dân.

- Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định đối với giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của người nước ngoài, cho phép thay thế bằng giấy cam kết hoặc tuyên thệ độc thân. Luật pháp các nước đều quy định rõ việc xác nhận trên các tờ khai pháp định hoặc giấy cam kết, giấy tuyên thệ của một người chỉ là sự xác nhận về mặt hình thức văn bản, chữ ký của người tuyên thệ mà không xác nhận về nội dung, do đó trên thực tế loại giấy tờ này có mức độ tin cậy và giá trị pháp lý hạn chế. Nhằm bảo vệ cho công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, tránh trường hợp bị lừa dối... đề nghị trong trường hợp người nước ngoài sử dụng giấy cam kết, tuyên thệ độc thân cần bổ sung giấy xác nhận truy lục hồ sơ kết hôn tại nước sở tại.

- Về trình tự giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam, trong trường hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo đương sự kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, kết hôn vì mục đích trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, Sở Tư pháp sẽ tiến hành xác minh, kể cả phỏng vấn các bên đương sự. Tuy nhiên phương pháp phỏng vấn, nội dung phỏng vấn như thế nào để có cơ sở kết luận từ chối đăng ký kết hôn theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP chưa quy định cụ thể. Điều này dễ phát sinh các khiếu nại về phía đương sự và sự tuỳ tiện của cán bộ giải quyết hồ sơ. Đề nghị Bộ Tư pháp có đúc kết thực tiễn, hướng dẫn một số tiêu chí phỏng vấn.

- Lý lịch cá nhân theo mẫu trong hồ sơ đăng ký kết hôn hiện nay chưa giúp Sở Tư pháp xác định việc vi phạm các điều cấm về kết hôn trong quan hệ huyết thống. Do đó, cần bổ sung nội dung khai về anh, chị, em ruột của cha, mẹ của cả 2 bên.

- Về phần ghi quốc tịch của người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, cần thống nhất ghi là "quốc tịch Việt Nam" trong giấy chứng nhận đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Quy định hiện nay của Chính phủ về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Nghị định 68/2002/NĐ-CP về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài đã định nghĩa người nước ngoài là người có quốc tịch nước ngoài. Điều này mặc nhiên xem người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã vào quốc tịch nước ngoài là người nước ngoài, trong khi đó họ chưa bị tước quốc tịch hoặc thôi quốc tịch Việt Nam. Điều này dẫn đến khi tham gia vào các quan hệ pháp luật tại Việt Nam họ bị xem là người nước ngoài.

- Đối với các vụ án xét xử yêu cầu ly hôn có yếu tố nước ngoài, hầu hết chỉ yêu cầu giải quyết về quan hệ hôn nhân, không có tranh chấp về tài sản hoặc con cái, việc xét hỏi ngắn gọn, có khi được xét xử vắng mặt cả hai bên. Khó khăn là khi một bên ở nước ngoài vắng mặt, không triệu tập được hoặc việc ủy thác tư pháp không có kết quả dẫn đến việc xét xử kéo dài gây thiệt thòi cho phía người Việt Nam ở trong nước. Đối với các trường hợp này, đề nghị cho được giải quyết ly hôn theo thủ tục đơn giản và ít mất thời gian hơn.

2. Một số giải pháp về đổi mới công tác quản lý nhà nước về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

2.1. Đề án về tổ chức và hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn thuộc Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh

2.1.1. Mục đích và yêu cầu

- Nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của xã hội;

- Thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội; góp phần làm cho quan hệ hôn nhân phù hợp với các quy định pháp luật, các chuẩn mực về phong tục tập quán, truyền thống văn hoá của dân tộc; bảo đảm thực hiện mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc và tiến bộ; ngăn chặn việc lợi dụng kết hôn nhằm trục lợi, làm trái pháp luật.

- Giúp cho công dân Việt Nam nói chung và đặc biệt là với phụ nữ Việt Nam, người nước ngoài có điều kiện tìm hiểu để đi đến xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ.

- Hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận, lấy thu (chi phí hợp lý) để trang trải cho các hoạt động của trung tâm.

2.1.2. Về tổ chức

- Trung tâm hỗ trợ kết hôn thành phố Hồ Chí Minh do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập và đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp. Trung tâm chịu sự lãnh đạo và quản lý toàn diện của Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành phố.

- Trụ sở Trung tâm đặt tại số 71 Võ Thị Sáu, phường 6, quận 3 thành phố Hồ Chí Minh.

- Trung tâm có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.

- Trung tâm có giám đốc và từ 1 đến 2 Phó giám đốc do Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ bổ nhiệm; một số nhân viên văn thư, tài vụ làm việc theo chế độ hợp đồng lao động với Trung tâm; các cộng tác viên là luật sư, luật gia, chuyên gia làm việc theo hợp đồng với Trung tâm.

2.1.3. Về hoạt động

- Hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận nhằm giới thiệu, giúp đỡ công dân Việt Nam và người nước ngoài tìm hiểu các vấn đề về hoàn cảnh cá nhân, gia đình, xã hội của các bên, phong tục tập quán và các vấn đề khác có liên quan mà các bên yêu cầu; tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiến tới hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, một vợ một chồng.

- Giúp các bên hoàn tất hồ sơ đăng ký kết hôn.

- Được nhận thù lao để trang trải chi phí hoạt động theo mức do Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành phố quy định, bảo đảm nguyên tắc phi lợi nhuận; được thanh toán tiền tàu, xe đi lại, tiền lưu trú và các chi phí thực tế hợp lý khác theo thoả thuận với các đương sự.

2.1.4. Tổ chức triển khai đề án

- Chuẩn bị các bước về thủ tục thành lập Trung tâm và đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp.

- Chuẩn bị về trụ sở, cơ sở vật chất, nhân sự.

- Xây dựng quy chế hoạt động và đề xuất mức thù lao cho các hoạt động hỗ trợ kết hôn trình Ban Thường vụ Hội duyệt.

- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về nội dung hoạt động của Trung tâm nhằm thông tin đến các cấp, các ngành, đoàn thể, nhân dân.

2.2. Các giải pháp về đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ và cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ quan tư pháp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

2.2.1. Về tổ chức, cần có phòng chuyên trách về quản lý, đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài trực thuộc Sở Tư pháp cấp tỉnh, thành phố; bố trí cán bộ có năng lực, trình độ, tiêu chuẩn hoá chức danh hộ tịch viên, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực trình độ cán bộ tư pháp cấp xã:

Tại Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh có Phòng Hộ tịch - Lý lịch tư pháp - Quốc tịch, nhiệm vụ quản lý và đăng ký hộ tịch (kể cả hộ tịch trong nước và có yếu tố nước ngoài), vừa làm nhiệm vụ thụ lý, tham mưu cho ban giám đốc giải quyết các hồ sơ tại Sở về đăng ký hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp; vừa có nhiệm vụ tham mưu cho ban giám đốc Sở về công tác quản lý đăng ký hộ tịch trên địa bàn thành phố. Với mô hình này, bộ phận quản lý và đăng ký hộ tịch đã có điều kiện chuyên môn hoá, chuyên sâu ở một lĩnh vực công tác, quản lý xuyên suốt. Điểm cần khắc phục là trình độ, kinh nghiệm cán bộ chưa đồng đều, cán bộ quen giải quyết sự vụ thì ngại nghiên cứu, tham mưu về công tác quản lý nghiệp vụ. Thành phố Hồ Chí Minh có 303 ban tư pháp phường, xã, thị trấn (số liệu tháng 11/2003). Về số lượng cán bộ tư pháp cấp xã có 1803 người, trong đó có 298 cán bộ chuyên trách. Trong số cán bộ chuyên trách có 52,6% cán bộ có trình độ đại học luật, trung cấp luật và chỉ có 29,75% cán bộ đã qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày. Cán bộ tư pháp không được bố trí ổn định, chỉ có 36% cán bộ có thời gian công tác trên 5 năm, số còn lại đều mới được bố trí, tuyển dụng, nguyên nhân là do thuyên chuyển công tác, nghỉ việc (một phần do chế độ đãi ngộ, chính sách đối với cán bộ cấp xã), được bố trí công tác khác (do yêu cầu công tác nhân sự của địa phương). Với thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã như trên khó bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp tại cơ sở ngày càng tăng về số lượng và tính phức tạp của công việc, đặc biệt là các nhiệm vụ liên quan đến công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Thực tế là trong thời gian qua đã xảy ra nhiều trường hợp vi phạm do trình độ, năng lực kém... (vi phạm về thẩm quyền đăng ký kết hôn, khai sinh có yếu tố nước ngoài; vi phạm về cấp giấy xác nhận độc thân; xác nhận tình trạng hôn nhân...).

Để khắc phục tình trạng này, đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, quy định về tiêu chuẩn chức danh hộ tịch viên với chức năng, nhiệm vụ cụ thể, được bố trí ổn định lâu dài. Người được bổ nhiệm vào chức danh này ở Sở Tư pháp, cũng như ở phường, xã phải đủ tiêu chuẩn theo quy định.

Trước mắt cần tập trung công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp bằng các hình thức như: kết hợp với Trường Đại học Luật mở các lớp Trung cấp Luật, tổ chức bồi dưỡng ngắn ngày, tăng cường trách nhiệm quản lý của Phòng Tư pháp quận, huyện trong công tác hướng dẫn, kiểm tra công tác tư pháp ở cơ sở.

2.2.2. Kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ Tư pháp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp địa phương phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp:

Cần quy định cụ thể về tổ chức, bộ máy, biên chế, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tư pháp các cấp ở địa phương; chú trọng nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan tư pháp cấp cơ sở; phân cấp thẩm quyền cho Sở Tư pháp trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến đội ngũ cán bộ tư pháp cơ sở; tiêu chuẩn hoá đội ngũ chuyên trách tư pháp cấp xã; ban hành các quy định các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ cấp xã như đối với cán bộ, công chức trong biên chế.

2.2.3. Xây dựng đề án áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, đăng ký hộ tịch:

Kinh nghiệm tại Sở Tư pháp cho thấy, bước đầu Sở Tư pháp đã đưa vào quản lý cơ sở dữ liệu máy tính toàn bộ hồ sơ lưu trữ về đăng ký hộ tịch do Sở Tư pháp lưu trữ. Công trình này đã phát huy và ngày càng phục vụ tốt cho công tác quản lý, đăng ký hộ tịch tại Sở Tư pháp. Tại một số quận, huyện, bước đầu cũng đã triển khai quản lý hộ tịch theo mô hình này và có nơi đã triển khai về đến phường xã. Để tiến tới xây dựng một Trung tâm dữ liệu về hộ tịch, nối mạng giữa phường, xã, quận, huyện và thành phố, cần có một kế hoạch tổng thể. Nếu thực hiện được việc này sẽ là một bước tiến quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành chính, quản lý một cách đầy đủ và chính xác các việc về hộ tịch tại thành phố./.



(1) Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

(2) Nghị định 184-CP[1] ngày 30-11-1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về downloadTải về