Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động dịch vụ pháp lý ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong việc thông thương hoá các hoạt động thương mại. Ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi cơ chế hoạt động của nền kinh tế, nhu cầu về cung cấp dịch vụ pháp lý đã phát triển liên tục, không ngừng, đặc biệt là trong lĩnh vực tư vấn pháp luật. Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam trong thời gian qua đã khẳng định được vị trí cần thiết của mình trong số nhiều loại hình dịch vụ khác của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để hoạt động dịch vụ pháp lý phát triển đúng vai trò, vị trí của nó, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đời sống xã hội, cần thiết phải có một hành lang pháp lý cụ thể, vững chắc, làm cơ sở để nó hoạt động. Thực tiễn hệ thống pháp luật Việt Nam về dịch vụ pháp lý chưa đáp ứng được điều này. Hệ thống pháp luật về dịch vụ pháp lý hiện hành chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của xã hội, của việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam. Theo chủ trương, đường lối của Đảng, hoạt động dịch vụ pháp lý, dịch vụ tư vấn pháp luật cần được định hướng phát triển như một loại hình dịch vụ thương mại và cần thiết phải tạo lập một thị trường riêng, sôi động, lành mạnh, hiệu quả. Điều này cũng phù hợp các quy định của GATS/WTO về dịch vụ pháp lý.
Trước những yêu cầu cấp thiết trên, Đề tài nghiên cứu “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam – Thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển” đã tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về thực trạng, nhu cầu của dịch vụ pháp lý ở nước ta hiện nay, từ đó đưa ra mô hình hoạt động nhằm cung cấp các dịch vụ pháp lý tương thích, hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động dịch vụ pháp lý qua các quy định của pháp luật quốc tế; thực tiễn pháp luật và áp dụng pháp luật về dịch vụ pháp lý của một số nước trên thế giới, đặc biệt là thực tiễn của Việt Nam. Thông qua việc phân tích, đánh giá, so sánh các vấn đề có liên quan đến dịch vụ pháp lý, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc, đề tài đề xuất mô hình mạng lưới dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ PHÁP LÝ
1. Khái niệm dịch vụ pháp lý
Dịch vụ là thuật ngữ xuất hiện ở các nước từ lâu nhưng được sử dụng ngày càng phổ biến ở Việt Nam từ những năm 80 trở lại đây. Tuy vậy, cách hiểu về thuật ngữ này và nội hàm của nó ở các nước không giống nhau. Để có cách hiểu thống nhất về dịch vụ trong quan hệ quốc tế và phục vụ công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế, năm 1991 Liên Hợp Quốc đã công bố Bảng phân loại tạm thời các dịch vụ chủ yếu (PCPC)(1) và đến năm 1997 thì có Bảng phân loại dịch vụ chủ yếu (CPC)(2) của Liên Hợp Quốc. PCPC và CPC không đưa ra định nghĩa về dịch vụ, nhưng các hành vi được liệt kê trong các bảng đó được gọi là dịch vụ. Theo nghĩa rộng của thuật ngữ này, dịch vụ pháp lý có thể định nghĩa là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ đại diện pháp lý và mọi hoạt động liên quan đến hành chính tư pháp (thẩm phán, thư ký phiên toà, công tố...). Trong thực tiễn nhiều nước các hoạt động liên quan đến hành chính tư pháp bị loại ra khỏi phạm vi của khái niệm dịch vụ pháp lý trong thương mại quốc tế vì người ta coi các hoạt động đó là "các dịch vụ được cung cấp khi thi hành thẩm quyền của Chính phủ".
Như vậy, theo nghĩa bình thường (không rộng cũng không hẹp) của thuật ngữ này thì dịch vụ pháp lý có thể được định nghĩa là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý được định lập và thực hiện theo quy định pháp luật của nước nơi các dịch vụ đó được định lập và có thể được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật nội dung và thủ tục tố tụng khác nhau của hệ thống pháp luật quốc gia.
2. Dịch vụ pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chưa có sự thống nhất về quan niệm, cũng như bản chất của dịch vụ pháp lý.
Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Nghị định số 03/2000/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, có hướng dẫn khoản 4 Điều 6 của Luật Doanh nghiệp về chứng chỉ hành nghề đã quy định: Chứng chỉ hành nghề được cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất định. Kinh doanh dịch vụ pháp lý là một trong 6 ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 được ban hành và Chính phủ đã ban hành Nghị định 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư. Để triển khai thi hành Pháp lệnh Luật sư, Bộ Tư pháp đã khẩn trương xem xét cấp chứng chỉ hành nghề luật sư để các luật sư thành lập Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh và tiến hành hoạt động nghề nghiệp theo đúng quy định của pháp luật.
Điều 1 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định về dịch vụ pháp lý bao gồm hoạt động tố tụng, tư vấn pháp lý và dịch vụ pháp lý khác. Để cụ thể hoá nội dung dịch vụ pháp lý, Điều 14 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định phạm vi hành nghề luật sư bao gồm:
- Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự;
- Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động hoặc hành chính;
- Tham gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp;
- Tư vấn pháp luật, soạn thảo hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức;
- Đại diện theo ủy quyền của cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng) để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật;
- Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, dịch vụ pháp lý có thể chia thành các lĩnh vực sau đây: - Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng tư pháp; - Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng trọng tài; - Tư vấn pháp luật; - Đại diện theo uỷ quyền về các vấn đề có liên quan đến pháp luật; - Các dịch vụ pháp lý khác.
3. Dịch vụ pháp lý theo quy định của GATS/WTO, BTA và một số nước trên thế giới
3.1. Dịch vụ pháp lý theo quy định của GATS/WTO, BTA.
Theo WTO, dịch vụ bao gồm 12 nhóm chính (3), trong đó có nhóm “dịch vụ thương mại” bao gồm “dịch vụ nghề nghiệp”, và “dịch vụ pháp lý” là một loại dịch vụ thuộc nhóm này. Theo GATS, dịch vụ pháp lý bao gồm “các dịch vụ về tư vấn và đại diện cũng như tất cả các hoạt động khác liên quan tới tố tụng” (4) (như hoạt động của thẩm phán, thư ký tòa án, công tố...). Tuy nhiên, khía cạnh thứ hai (hoạt động liên quan tới tố tụng) đã bị loại ra khỏi phạm vi của GATS bởi tại hầu hết các quốc gia, đây được coi là “loại hình dịch vụ do chính phủ thực hiện” (5). Do vậy, GATS chỉ quy định về các dịch vụ đại diện và tư vấn trong một số ngành luật và các thủ tục pháp lý. Theo Danh mục phân loại các lĩnh vực dịch vụ (Danh mục CPC), dịch vụ pháp lý là loại hình dịch vụ kinh doanh hay dịch vụ nghề nghiệp (CPC 861) và được phân loại như sau: - Dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan tới luật hình sự (86111); - Dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện trong các thủ tục tư pháp liên quan tới các lĩnh vực pháp luật khác (86119); - Dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện trong các thủ tục pháp lý trước các hội đồng tư pháp (có thẩm quyền như Tòa án) (86120); - Dịch vụ về văn bản pháp luật và xác nhận (86130); và Các thông tin tư vấn pháp lý khác (86190).
Dịch vụ tư vấn pháp luật, theo cách hiểu chung nhất, là hoạt động của những người có kiến thức về mặt pháp lý được pháp luật cho phép cung cấp các ý kiến pháp lý nói chung cho các cá nhân, tổ chức có yêu cầu (sau đây gọi chung là khách hàng) và khách hàng sẽ phải trả một khoản phí tương ứng. Tư vấn pháp luật có thể là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn thực hiện pháp luật, sau đó có thể tự mình thực hiện các công việc pháp lý giúp khách hàng, chẳng hạn như soạn thảo hợp đồng mà khách hàng là một bên trong hợp đồng.
Dịch vụ đại diện pháp luật được hiểu là người đại diện thay mặt khách hàng trước cơ quan có thẩm quyền, trước bạn hàng của khách hàng để thực hiện các công việc đúng pháp luật, theo sự uỷ quyền của khách hàng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và có thu phí. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể là cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính, hoặc tổ chức có quyền tư pháp. Người đại diện trực tiếp thực hiện các công việc trước các cơ quan, tổ chức này thay mặt khách hàng và không nằm ngoài phạm vi đã được thoả thuận trước với khách hàng.
Dịch vụ đại diện pháp luật cũng giống như đại diện theo uỷ quyền trong quan hệ pháp luật dân sự. Chỉ khác ở chỗ người đại diện là người có chức danh, có hiểu biết về mặt pháp lý, được pháp luật cho phép thực hiện các công việc mà khách hàng uỷ quyền. Văn bản uỷ quyền trong trường hợp này chính là hợp đồng cung cấp dịch vụ pháp lý giữa người đại diện và khách hàng.
Dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ đại diện liên quan đến pháp luật hình sự là dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ đại diện pháp luật trong tố tụng hình sự, và dịch vụ soạn thảo các văn bản pháp lý liên quan tới pháp luật hình sự.
Ở nhiều quốc gia, luật sư ngoài hoạt động kinh doanh dịch vụ pháp lý của mình còn phải thực hiện trách nhiệm đối với xã hội. Vì vậy, mặc dù không phải là người của Nhà nước nhưng đôi khi luật sư vẫn hoạt động như một công chức nhà nước. Khi đó, luật sư sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý với tư cách người buộc tội (công tố viên) theo sự chỉ định và hưởng thù lao theo quy định của Chính phủ.
Việc nghiên cứu và thực hiện các công việc chuẩn bị cho vụ án hình sự (chẳng hạn nghiên cứu văn bản pháp luật, gặp gỡ người bị nghi phạm tội, nhân chứng, nghiên cứu hồ sơ của vụ án được cơ quan điều tra, cơ quan công tố cung cấp và nghiên cứu các tài liệu có liên quan khác), và thực hiện công việc về đơn từ tố tụng liên quan đến pháp luật hình sự cũng thuộc dịch vụ pháp lý này.
Dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ đại diện theo thủ tục tư pháp liên quan đến các lĩnh vực khác của pháp luật là dịch vụ tư vấn pháp luật, đại diện trong quá trình tố tụng phi hình sự và dịch vụ soạn thảo văn bản pháp lý liên quan đến các ngành luật khác mà không phải là luật hình sự.
Về bản chất, các hoạt động chuyên môn của luật sư liên quan đến lĩnh vực khác mà không phải pháp luật hình sự cũng giống như lĩnh vực liên quan đến pháp luật hình sự. Trong cả hai trường hợp, luật sư sẽ dùng các hoạt động chuyên môn của mình để bảo vệ cho khách hàng một vụ việc có liên quan đến pháp luật. Chỉ khác ở chỗ, trong vụ việc hình sự, luật sư sẽ bảo vệ khách hàng trước cơ quan tiến hành tố tụng. Trong vụ việc phi hình sự, luật sư bảo vệ khách hàng trước một hoặc các bên có tranh chấp với khách hàng. Luật sư có thể bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc những người có quyền và lợi ích liên quan trước Toà án. Sau này, dịch vụ pháp lý liên quan đến ngành luật phi hình sự cũng được thể hiện dưới hình thức nghiên cứu và thực hiện các công việc cần thiết khác để chuẩn bị cho vụ việc (chẳng hạn nghiên cứu văn bản pháp luật, gặp gỡ người làm chứng, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu nhằm thu thập và đánh giá các chứng cứ, cung cấp và nghiên cứu những tài liệu có liên quan), và thực hiện các công việc về đơn từ tố tụng có liên quan đến các lĩnh vực pháp luật phi hình sự.
Dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ đại diện khi thực hiện các công việc liên quan tới thủ tục hành chính, trọng tài… bao gồm dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ đại diện trong thủ tục tố tụng hành chính, trọng tài… và dịch vụ soạn thảo văn bản pháp lý có liên quan đến những thủ tục luật định đó.
Luật sư có thể hướng dẫn khách hàng thực hiện những thủ tục, chuẩn bị những giấy tờ cần thiết trước khi gặp cơ quan hành chính nhà nước. Cẩn thận hơn, khách hàng có thể uỷ quyền hoàn toàn cho luật sư thay mặt mình đứng ra làm tất cả các công việc liên quan tới thủ tục hành chính trước cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền trong những trường hợp pháp luật cho phép.
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp được lựa chọn và cũng là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến trong thương mại quốc tế hiện nay. Luật sư có thể tư vấn, đại diện cho khách hàng khi tham gia tố tụng trọng tài để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng của mình với tư cách đại diện cho bên đi kiện hoặc bên bị kiện. Dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện trong tố tụng trọng tài còn tính đến cả các hoạt động nghiên cứu, chuẩn bị cho một vụ kiện trước cơ quan trọng tài (hoặc các cơ quan khác không phải là Toà án) như nghiên cứu văn bản pháp luật, gặp gỡ khách hàng, xem xét báo cáo), và thực hiện các công việc có liên quan đến đơn từ tố tụng.
Dịch vụ lập và xác nhận các giấy tờ pháp lý bao gồm hoạt động chuẩn bị, phác thảo, hoàn thiện, chứng nhận giấy tờ pháp lý và các công việc cần thiết khác liên quan đến việc soạn thảo hay chứng nhận giấy tờ pháp lý. Các loại giấy tờ có tính chất pháp lý thường được yêu cầu thực hiện là bản di chúc, giấy đăng ký kết hôn, hợp đồng thương mại, điều lệ công ty…
Dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin pháp lý khác là việc đưa ra những lời tư vấn cho khách hàng liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân của họ; cung cấp các thông tin pháp luật nằm ngoài các hoạt động được kể trên. Dịch vụ này cũng bao gồm cả việc đứng ra bảo lãnh cho khách hàng và dịch vụ thanh toán tài sản.
Dịch vụ công chứng là dịch vụ chứng nhận một hợp đồng hoặc một giao dịch được thể hiện trên văn bản, chẳng hạn như chuyển quyền sở hữu; thừa kế tài sản; biên bản lời khai khi ly hôn; công nhận sự liên kết và lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh theo pháp luật công ty. Dịch vụ công chứng thường do các luật sư tư vấn thực hiện hoặc cũng có thể do các công chức thực hiện, tùy theo quy định của từng quốc gia. Một số quốc gia coi dịch vụ công chứng là “dịch vụ được cung cấp để thực thi quyền lực của Chính phủ”. Tuy nhiên, dịch vụ công chứng không giống như các hoạt động của thẩm phán, công tố viên. Công chứng viên cung cấp dịch vụ “trên cơ sở thương mại” và vì vậy, hoạt động công chứng vẫn phải tuân thủ các quy định của GATS.
Ngoài ra, tháng 2 năm 1997, Uỷ ban Thống kê của Liên Hợp Quốc đã phê chuẩn phần sửa đổi của UNCPC về việc phân loại dịch vụ pháp lý. Dịch vụ pháp lý sau khi được sửa đổi có thêm phần “dịch vụ trọng tài và dịch vụ hoà giải” mà trước đây thuộc dịch vụ tư vấn quản lý.
Nói một cách khái quát, dịch vụ pháp lý (theo nghĩa rộng) bao gồm toàn bộ dịch vụ tư vấn và dịch vụ đại diện được phân tích ở trên cũng như tất cả các hoạt động liên quan đến việc thi hành công lý (thẩm phán, công tố viên…). Tuy nhiên, dịch vụ đại diện liên quan đến việc thi hành công lý trên thực tế nằm ngoài phạm vi của GATS, bởi hầu hết các quốc gia đều coi dịch vụ đại diện này là “dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của Chính phủ” (dịch vụ được cung cấp không trên cơ sở thương mại cũng như không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người cung cấp dịch vụ) theo quy định của Điều I(3)(c) của GATS.
Việc phân loại dịch vụ pháp lý giữa các quốc gia còn có những quan điểm chưa thống nhất. Chẳng hạn, Australia đề xuất yêu cầu sự phân loại dịch vụ pháp lý phải phản ánh được đầy đủ thực tế thương mại dịch vụ pháp lý quốc tế. Đồng thời quy định một khung pháp lý cho các thành viên, cho phép các thành viên đưa ra các cam kết của mình trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý một cách linh hoạt. Và Australia cũng đưa ra 12 nội dung hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý: Pháp luật nước chủ nhà (tư vấn); Pháp luật nước chủ nhà (đại diện); Pháp luật nước thứ ba (tư vấn); Pháp luật nước thứ ba (đại diện); Pháp luật nước cung ứng dịch vụ (tư vấn); Pháp luật nước cung ứng dịch vụ (đại diện); Pháp luật quốc tế (tư vấn); Pháp luật quốc tế (đại diện); Trọng tài thương mại quốc tế; Dịch vụ giải quyết tranh chấp liên quan khác; Dịch vụ lập và xác nhận văn bản pháp lý; và dịch vụ tư vấn pháp luật khác.
Trong khi đó, Hoa Kỳ lại đưa ra gợi ý hệ thống phân loại dịch vụ pháp lý nên bao gồm cả những dịch vụ tư vấn và đại diện pháp luật sau: tư vấn trong hoạt động kinh doanh, tham gia quản lý tổ chức kinh doanh, hoà giải, trọng tài và các dịch vụ giải quyết các tranh chấp tương tự không thông qua toà án, dịch vụ tư vấn công và vận động hành lang. Còn Canada cho rằng nên đưa thêm phân ngành “dịch vụ tư vấn pháp luật nước ngoài” trong danh mục phân loại dịch vụ pháp lý.
II. THỰC TRẠNG VỀ DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng hoạt động dịch vụ pháp lý trong thời gian qua
1.1. Hoạt động dịch vụ pháp lý của luật sư Việt Nam
Tính đến ngày 31/5/2005, cả nước đã có 3418 luật sư, luật sư tập sự (trong đó 1883 luật sư có chứng chỉ hành nghề luật sư và 1535 luật sư tập sự). Về chất lượng đội ngũ luật sư, đại đa số luật sư là những người có phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề và có "tâm" trong hoạt động nghề nghiệp. Chất lượng đội ngũ luật sư đã được nâng lên một bước đáng kể theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá, tuy nhiên, còn một số vấn đề đáng quan tâm sau đây:
- Về chuyên môn, đội ngũ luật sư hiện nay chưa thực sự là lực lượng tiêu biểu về trình độ am hiểu và nắm vững pháp luật.
- Về đạo đức, trong đội ngũ luật sư còn những biểu hiện tiêu cực về tư cách, đạo đức trong cuộc sống và trong đạo đức nghề nghiệp làm ảnh hưởng đến uy tín, sự tôn trọng, ngưỡng mộ của xã hội đối với các luật sư và nghề luật sư. Nguyên nhân một phần do chưa có cơ chế có hiệu quả để loại trừ những người kém về tư cách đạo đức khi kết nạp vào đội ngũ luật sư, mặt khác một bộ phận luật sư chưa có ý thức trách nhiệm cao về nghề của mình nên chưa thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện, các Đoàn luật sư chưa thực sự quan tâm đến công tác giáo dục tư cách đạo đức cho các luật sư.
Theo quy định của Pháp lệnh Luật sư thì luật sư tiến hành hoạt động hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư (bao gồm Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh, ngoài ra luật sư có thể làm thuê cho tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Chỉ trong vòng chưa đầy 4 năm (tính đến 31/5/2005), các luật sư trong cả nước đã thành lập được 738 tổ chức hành nghề luật sư bao gồm 653 Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập, 161 Văn phòng luật sư do một số luật sư thành lập, 5 Công ty luật hợp danh. Các tổ chức hành nghề luật sư còn lập được tổng cộng 149 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố khác, chủ yếu là tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong số 738 tổ chức hành nghề luật sư chỉ có 5 Công ty luật hợp danh chuyên hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, còn lại đại bộ phận là các văn phòng luật sư hoạt động trong tất cả các lĩnh vực hành nghề luật sư, mà lĩnh vực chủ yếu là tham gia tố tụng. Điều này cho thấy tính chuyên môn hoá về lĩnh vực hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư còn rất hạn chế, mà nguyên nhân chính là phần lớn các tổ chức hành nghề luật sư chưa thể tồn tại và phát triển được nếu chỉ chuyên thực hiện dịch vụ trong lĩnh vực tham gia tố tụng hoặc tư vấn pháp luật.
Số tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp hoặc chủ yếu cung cấp dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực kinh tế như đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hàng không, hàng hải, sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế v.v.. còn chưa nhiều; trong đó chỉ có một số tổ chức hành nghề luật sư có khả năng thực hiện dịch vụ pháp lý cho các tổ chức kinh tế nước ngoài. Tuy nhiên, hầu như chưa có tổ chức hành nghề luật sư nào có khả năng độc lập thực hiện dịch vụ hoàn chỉnh cho một Dự án kinh tế lớn hoặc bảo vệ cho khách hàng trong những vụ kiện lớn mang tính chất quốc tế. Trong các vụ việc này, các tổ chức hành nghề luật sư thường phải dựa vào hoặc hợp tác với các hãng luật nước ngoài.
Tham gia tố tụng vẫn là lĩnh vực hành nghề chủ yếu và có tầm quan trọng đặc biệt của các luật sư, nhiều nhất là trong các vụ án hình sự. Trong việc tham gia tố tụng án hình sự thì tỷ lệ số việc bào chữa do công dân mời đang có chiều hướng tăng so với việc bào chữa do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu theo quy định của pháp luật. Việc bào chữa cho bị can, bị cáo theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng được các luật sư tích cực tham gia và về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về số lượng vụ việc.
Về chất lượng tham gia tố tụng của luật sư cũng đã được nâng lên một bước. Đa số các luật sư với tinh thần trách nhiệm cao trước khách hàng và trước pháp luật, đã cẩn trọng, tỉ mỉ từ khâu chuẩn bị như nghiên cứu hồ sơ vụ án, gặp bị can, bị cáo, đương sự, thu thập thêm chứng cứ, chuẩn bị luận cứ bào chữa, bảo vệ v.v., đến khâu tham gia phiên toà. Đa số các luật sư đã thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả quyền được tranh luận của mình, đưa ra những lập luận chặt chẽ, những câu chất vấn xác đáng với thái độ tôn trọng pháp luật, tôn trọng đối với kiểm sát viên, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác. Hoạt động tham gia tố tụng của các luật sư trong nhiều vụ án đã giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, góp phần bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Tuy nhiên trong hoạt động tham gia tố tụng còn những nhược điểm, tiêu cực cần được khắc phục. Còn có luật sư chưa có quan niệm đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của luật sư trong việc bào chữa cho bị can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, dẫn đến hiện tượng bằng mọi cách, kể cả biện pháp không theo quy định của pháp luật để bào chữa, bảo vệ cho khách hàng của mình. Còn có luật sư vì chạy theo đồng tiền, cố tình bảo vệ những quyền, lợi ích phi pháp, không chính đáng của khách hàng. Hiện tượng luật sư hứa hẹn với khách hàng về kết quả công việc để nhận thù lao cao vẫn xảy ra không ít, hiện tượng luật sư "chạy án" vẫn còn là mối băn khoăn, lo lắng của xã hội v.v. Tất cả những hiện tượng tiêu cực nêu trên trong việc tham gia tố tụng của luật sư, tuy không phải là phổ biến, nhưng đã phần nào gây mất lòng tin trong xã hội đối với luật sư và nghề luật sư.
Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư, đặc biệt trong điều kiện nhu cầu về tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhanh. Ngoài việc tư vấn về các lĩnh vực truyền thống như hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình v.v.. các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh tế. Trong lĩnh vực tư vấn về pháp luật dân sự thì tư vấn về đất đai đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất.
Chất lượng tư vấn pháp luật của các luật sư cũng đã được nâng cao một bước. Nhiều luật sư đã tham gia tư vấn cho những hợp đồng thương mại, những dự án đầu tư lớn đạt kết quả tốt, được khách hàng trong nước và nước ngoài hài lòng và tin tưởng.
Tuy nhiên, mặc dù đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, nhưng hoạt động tư vấn pháp luật của các luật sư còn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, và vẫn có thể được xem là khâu yếu cần được các luật sư chú trọng trong thời gian tới.
1.2. Hoạt động dịch vụ pháp lý của luật sư nước ngoài
Trong những năm qua, kể từ khi cho phép tổ chức luật sư nước ngoài được hành nghề tại Việt Nam có thể thấy rằng việc hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Các Chi nhánh đã tham gia tư vấn pháp luật cho rất nhiều dự án lớn về xây dựng cơ sở hạ tầng điện, nước, khu chế xuất hoặc về vốn vay, cơ cấu lại nợ… Trong hoạt động nghề nghiệp, các Chi nhánh đã hợp tác với tổ chức hành nghề tư vấn pháp luật của Việt Nam và thông qua sự hợp tác này mà luật sư Việt Nam có cơ hội trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của luật sư nước ngoài. Các Chi nhánh còn tiếp nhận và giúp đào tạo nghề cho các cử nhân luật tại Chi nhánh hoặc gửi đi nước ngoài đào tạo. Theo Báo cáo số 1795/BC-TP ngày 3/12/2004 của Bộ Tư pháp, trong cả nước có 1 Công ty luật nước ngoài, 37 Chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài (19 Chi nhánh tại Hà Nội và 18 Chi nhánh tại T.P Hồ Chí Minh).
Trong quá trình hoạt động, ngoài các khách hàng truyền thống, các Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài đã tích cực tìm kiếm thêm nhiều khách hàng tại Việt Nam, bao gồm doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Số chi nhánh hoạt động có hiệu quả chủ yếu tập trung tại TP. Hồ Chí Minh, nơi có môi trường kinh doanh và đầu tư sôi động hơn so với Hà Nội, với số lượng vụ việc ở mức ổn định, khoảng từ 20 đến 100 vụ việc hàng năm, trong đó khách hàng nước ngoài vẫn chiếm tỷ lệ lớn.
Các Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài tham gia ngày càng nhiều và có chất lượng trong việc tư vấn cho một số dự án lớn của Chính phủ Việt Nam như: xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, nước, dầu khí, viễn thông); đại diện cho tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam trong các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài (ví dụ, vụ kiện bán phá giá cá da trơn tại Mỹ,…); cơ cấu lại nợ, vốn vay của Chính phủ; đại diện tham gia giải quyết tranh chấp để bảo vệ tài sản của Nhà nước Việt Nam tại nước ngoài, cũng như đại diện cho Chính phủ Việt Nam trong một số vụ việc khác v.v... Một số Bộ, ngành và Tổng công ty lớn của Việt Nam (Bộ Công nghiệp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng Công ty Điện lực, Tổng Công ty Thép Việt Nam ...) đã trở thành khách hàng thường xuyên của các Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài. Trong hoạt động hành nghề, nhiều Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài đã tạo được uy tín và chiếm được lòng tin của các khách hàng nước ngoài đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam cũng như của khách hàng Việt Nam. Tuy nhiên, do chi phí ban đầu lớn nên hiệu quả hoạt động của các Chi nhánh chưa cao, số Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài hoạt động có lãi chiếm tỷ lệ còn thấp.
Ngoài những kết quả đạt được nói trên, hoạt động của các Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài cũng còn có một số khó khăn, hạn chế. Mặc dù tình hình đầu tư trong nước và khu vực đang được cải thiện, nhưng số lượng dự án đầu tư và khách hàng nước ngoài gần như không tăng lên dẫn đến khối lượng công việc còn ít và hoạt động hành nghề của luật sư nước ngoài chưa thực sự sôi động. Từ năm 2002 đến nay, có 05 Chi nhánh xin tạm ngừng hoạt động và chấm dứt hoạt động trước thời hạn. Tuy nhiên, 01 Chi nhánh trong số đó đã xin cấp phép mới và hoạt động trở lại. Trong số các Chi nhánh còn lại, để duy trì và củng cố hoạt động tại Việt Nam, nhiều Chi nhánh đã phải thu hẹp quy mô văn phòng, giảm số lượng nhân viên để giảm thiểu chi phí hoạt động, tăng cường mối liên hệ công việc với văn phòng ở các nước khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, kiên trì chờ đón cơ hội mới.
Cho đến nay chưa có trường hợp vi phạm nào của các Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài phải xử lý theo quy định của pháp luật, nhưng một số Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài chưa thực hiện thật đầy đủ và nghiêm minh các quy định hiện hành như: chậm trễ trong việc thực hiện các thủ tục hành chính (thông báo thay đổi địa điểm, thay đổi nhân viên lao động ...); chậm trễ hoặc thực hiện không đầy đủ việc báo cáo theo định kỳ; không duy trì thường xuyên luật sư nước ngoài làm việc tại Chi nhánh. Hoạt động hợp tác đối với các cơ quan của Chính phủ còn chưa được phát huy tương xứng với tiềm năng của các tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài tại Việt Nam.
1.3. Hoạt động dịch vụ pháp lý của tổ chức, đoàn thể
Trước khi có Nghị định 65/2003/NĐ- CP của Chính phủ về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật, thì trên toàn quốc hiện có 69 cơ sở tư vấn pháp luật trực thuộc các tổ chức như Hội Luật gia (51 Văn phòng tư vấn pháp luật thuộc Hội luật gia các cấp – chiếm 74%), Liên đoàn Lao động, Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội đồng Liên minh các hợp tác xã, Hiệp hội Công thương (sau đây gọi chung là các tổ chức xã hội). Các văn phòng tư vấn pháp luật phần lớn tập trung ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (13 tại Hà Nội và 24 tại TP. Hồ Chí Minh). Hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội kể trên đã huy động được khoảng 400 chuyên viên tư vấn và một đội ngũ đông đảo các cộng tác viên là những luật gia, luật sư. Các văn phòng tư vấn pháp luật của Liên đoàn Lao động, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội đồng Trung ương Liên minh các hợp tác xã và Hiệp hội Công thương chủ yếu thực hiện tư vấn pháp luật cho các đối tượng là thành viên của mình và trong các lĩnh vực pháp luật có liên quan. Các Văn phòng tư vấn pháp luật của Hội Luật gia, Mặt trận Tổ quốc thực hiện tư vấn trên tất cả các lĩnh vực pháp luật và cho mọi đối tượng.
Các Văn phòng tư vấn pháp luật thực hiện tư vấn dưới hình thức bằng miệng hoặc bằng văn bản, qua điện thoại và tư vấn tại nhà. Đa số các Văn phòng tư vấn pháp luật đều kết hợp nhận làm các dịch vụ hành chính như đánh máy, dịch thuật, in ấn, photocopy... Một số chuyên viên tư vấn của Hội Luật gia cũng nhận bào chữa trước Toà khi khách hàng nhờ và được Toà án chấp thuận. Một số Văn phòng tư vấn pháp luật có tổ chức hội thảo chuyên đề, tham gia viết đề tài, viết báo v.v.
Có một số Văn phòng tư vấn pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật hoàn toàn miễn phí cho các đối tượng người nghèo, gia đình chính sách và phụ nữ, trẻ em. Các Văn phòng còn lại đều thu phí khi tư vấn. Nhìn chung, mức phí thu là thấp và không thống nhất. Đa số các Văn phòng tư vấn pháp luật hoạt động theo nguyên tắc lấy thu bù chi. Trong thời gian qua, với lưu lượng khách hàng thấp và số thu ít, doanh thu chỉ đủ duy trì hoạt động của Văn phòng nên các Văn phòng trên được miễn nộp thuế. Một số ít Văn phòng tư vấn pháp luật mà hầu hết tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh có số thu cao nên có thực hiện nghĩa vụ thuế.
Ngày 11/6/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2003/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật đã tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển, mở rộng loại hình tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức xã hội), bảo đảm sự quản lý thống nhất, có hiệu quả của Nhà nước đối với lĩnh vực hoạt động này. Hoạt động tư vấn pháp luật được điều chỉnh bởi Nghị định số 65/2003/NĐ-CP là hoạt động tư vấn pháp luật mang tính chất xã hội, không nhằm mục đích thu lợi nhuận, trước tiên, nhằm phục vụ nhu cầu về tư vấn pháp luật của thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, người nghèo, người được hưởng chính sách ưu đãi; đồng thời góp phần đáp ứng nhu cầu về tư vấn pháp luật của các cá nhân, tổ chức trong quan hệ đời sống hàng ngày.
Ngoài việc tư vấn pháp luật miễn phí cho thành viên của tổ chức mình, cho người nghèo và đối tượng chính sách, Trung tâm tư vấn pháp luật được thực hiện tư vấn pháp luật có thu phí đối với các đối tượng khác nhằm mục đích tự trang trải cho hoạt động của Trung tâm. Để tránh tuỳ tiện, tiêu cực có thể nảy sinh, Nghị định đã quy định cụ thể mức phí tối đa rất thấp (từ mức 50.000 đ/vụ việc đến mức 200.000đ/vụ việc), đồng thời quy định chế độ giám sát, kiểm tra chặt chẽ về kế toán, tài chính.
Cho đến 31/12/2004, theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, đã có 20 Trung tâm tư vấn pháp luật được đăng ký hoạt động tại các địa phương. Các Trung tâm tư vấn pháp luật này trực thuộc Liên đoàn Lao động, Hội Luật gia, Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, thành phố.
1.4. Hoạt động trợ giúp pháp lý
Hiện nay, hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước đã được thành lập từ Trung ương đến địa phương. Ở cấp Trung ương có Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp; ở cấp tỉnh có 63/64 Trung tâm Trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Riêng tỉnh Lai Châu mới được chia tách chưa có Quyết định thành lập Trung tâm); 52 Chi nhánh, 553 Tổ trợ giúp pháp lý thuộc các Trung tâm đặt tại Phòng Tư pháp cấp huyện và Ban Tư pháp cấp xã. Một số tỉnh thành lập thí điểm Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý; ở TP. Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm cho phép cộng tác viên được trợ giúp pháp lý cho đối tượng tại nhà riêng, tạo điều kiện nhân dân dễ tiếp cận, kịp thời giải toả các vướng mắc pháp luật của người dân ngay tại cơ sở. Để khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ trợ giúp pháp lý còn thiếu về số lượng, chưa tương xứng với nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày một tăng của nhân dân, Cục Trợ giúp pháp lý và tổ chức trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp được sử dụng cộng tác viên.
Đối tượng trợ giúp pháp lý là những người có đủ điều kiện được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước, bao gồm: người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng khác. Người nghèo chiếm phần lớn trong tổng số đối tượng đã được trợ giúp pháp lý. Các đối tượng, loại việc được miễn án phí quy định tại khoản 1 Điều 13, điểm a, b khoản 1 Điều 26; điểm a, c khoản 1 Điều 31 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Toà án cũng được trợ giúp pháp lý miễn phí. Người nước ngoài cũng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí tại Việt Nam theo Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký kết giữa Việt Nam và nước đó nếu trong đó có quy định về trợ giúp pháp lý miễn phí. Ngoài ra, trong khuôn khổ một số dự án hợp tác với các tổ chức quốc tế, một số đối tượng đặc thù như: trẻ em, người tàn tật, người di cư, người già cô đơn, phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của tội phạm buôn bán phụ nữ cũng là những đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí.
Phạm vi trợ giúp là những lĩnh vực hoạt động dịch vụ pháp lý mà pháp luật cho phép các tổ chức trợ giúp pháp lý (chuyên viên và cộng tác viên) thực hiện, bao gồm: tư vấn, hòa giải, đại diện, bào chữa và kiến nghị. Bên cạnh đó, các tổ chức trợ giúp pháp lý đều tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng thuộc diện trợ giúp bằng các phương thức khác nhau: giải đáp, hướng dẫn pháp luật, cung cấp thông tin pháp lý, phát tờ gấp pháp luật, tổ chức nói chuyện pháp luật v.v.
Từ năm 1998 đến hết năm 2003, Cục Trợ giúp pháp lý và các Trung tâm Trợ giúp pháp lý các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thực hiện được 396.914 vụ việc cho 412.174 lượt đối tượng, trong đó đa số là tư vấn. Các vụ việc trợ giúp pháp lý chủ yếu tập trung vào lĩnh vực pháp luật dân sự, hôn nhân - gia đình, đất đai - nhà ở, hành chính, khiếu nại, tố cáo, hình sự, lao động và chế độ chính sách.
1.5. Hoạt động dịch vụ pháp lý khác
a) Dịch vụ pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp bằng hoà giải.
Khác với phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án và trọng tài, hoà giải là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn (Alternative Dispute Resolution – ADR), trong đó, phải có sự tham gia của một bên trung lập thứ ba (hoà giải viên). Hai hoặc nhiều bên tranh chấp phải tự quy định hoặc yêu cầu hoà giải viên tự quy định các thủ tục tiến hành hoà giải hoặc lựa chọn một quy tắc hoà giải mẫu của một tổ chức hoà giải thường xuyên để áp dụng. Hoà giải viên phải tìm hiểu mong muốn của các bên, đưa ra lời khuyên và giúp các bên đạt được điều cần phải có là cả hai bên đều được hài lòng về kết quả bởi không có sự hài lòng này thì không thể có thoả thuận chính thức về hoà giải thành. Nếu một trong các bên tranh chấp không hài lòng về những điều đã diễn ra, bên này sẽ không tiếp tục tham gia, không ký vào biên bản hòa giải, tuyên bố chấm dứt hoà giải và có thể chuyển sang áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Hoà giải sẽ là phương thức bắt buộc khi các bên có thoả thuận như vậy trong hợp đồng (thường là điều khoản giải quyết tranh chấp) hoặc bằng một thoả thuận hoà giải riêng biệt. Hoà giải là bắt buộc trong trường hợp pháp luật có quy định.
b) Dịch vụ pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Khác với các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR), trọng tài và Tòa án là các phương thức giải quyết bằng tài phán, có bản án (Tòa án), có quyết định trọng tài (trọng tài). Cả bản án và quyết định trọng tài đều có hiệu lực pháp luật, được cưỡng chế thực hiện. Tuy nhiên, khác với Tòa án, trọng tài là phương thức xét xử "tư" (private), các trọng tài viên chủ yếu là các nhà chuyên môn kinh tế, pháp lý… Các dịch vụ pháp lý trong phương thức trọng tài gồm các dịch vụ do trọng tài viên thực hiện; dịch vụ đại diện cho các bên trong vụ tranh chấp; một số dịch vụ khác như giám định, thư ký… do các tổ chức, cá nhân thực hiện. Dịch vụ đại diện pháp lý của các bên thông thường do các luật sư, luật gia hoặc bất kỳ ai mà các bên tín nhiệm để làm đại diện cho các bên tham gia tố tụng trọng tài, kể cả tham gia thương lượng, hoà giải.
c) Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ cũng hình thành và phát triển khá mạnh mẽ. Về dịch vụ sở hữu công nghiệp, ở nước ta đã hình thành một mạng lưới 19 Tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp với hơn 60 người đại diện sở hữu công nghiệp có trình độ và kinh nghiệm cũng như quan hệ quốc tế đủ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do Việt Nam đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về sở hữu công nghiệp nên lĩnh vực dịch vụ này có điều kiện phát triển, đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập. Trong khi đó, chúng ta lại chưa tham gia bất kỳ một Hiệp ước đa phương nào về bản quyền tác giả và mới chỉ ký Hiệp định song phương với Hoa Kỳ và Thụy Sĩ. Điều này khiến các tác phẩm của phần lớn các nước (ngoại trừ Hoa Kỳ và Thụy Sĩ) không được bảo hộ tại Việt Nam và tương ứng các tác phẩm của Việt Nam cũng không được bảo hộ tại các nước đó. Chính vì lẽ đó, mà dịch vụ pháp lý về bản quyền tác giả cũng chưa được phát triển với một vài Tổ chức đại diện quyền tác giả vốn đã là các Tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp.
Theo Báo cáo đặc biệt 301 được Cơ quan đại diện thương mại Mỹ (USTR) lập hàng năm nhằm để tổng kết tình hình thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền thuộc về các công dân và doanh nghiệp Mỹ, ở thị trường các nước, mức độ thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn còn yếu, các hiện tượng vi phạm vẫn chưa hạn chế được. Trong bối cảnh đó, dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở Việt Nam lại chưa được phát triển phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Theo quy định của pháp luật, kinh doanh dịch vụ sở hữu công nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Điều kiện để trở thành Tổ chức dịch vụ sở hữu công nghiệp là tổ chức đó phải có ít nhất hai người đại diện sở hữu công nghiệp. Trong khi đó việc trở thành người đại diện sở hữu công nghiệp không phải là điều đơn giản. Có lẽ, đây là nguyên nhân chính tại sao ở nước ta đến nay chỉ có khoảng 60 người đại diện sở hữu công nghiệp, trong khi thực tế cần tối thiểu phải có hàng trăm người. Lĩnh vực quyền tác giả cũng có tình trạng tương tự như vậy.
Nếu tính tên miền Internet cũng là một đối tượng của sở hữu trí tuệ, thì ở Việt Nam hiện nay có đến năm cơ quan quản lý các lĩnh vực khác nhau liên quan đến sở hữu trí tuệ bao gồm: Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục Bản quyền tác giả văn học - nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa Thông tin, Trung tâm mạng Internet Việt Nam (VNNIC) thuộc Bộ Bưu chính Viễn thông, Văn phòng bảo hộ giống cây trồng Việt Nam thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và cơ quan quản lý nhãn hiệu hàng hóa của Bộ Thương mại. Sự thay đổi tổ chức này có nhiều ảnh hưởng tới lĩnh vực dịch vụ pháp lý về sở hữu trí tuệ. Ví dụ như hiện nay vẫn chưa có định nghĩa pháp lý thế nào là tác phẩm văn học – nghệ thuật và phi văn học-nghệ thuật, chưa rõ cơ quan nào sẽ xét cấp Thẻ người đại diện sở hữu công nghiệp hay đại diện quyền tác giả, cơ quan nào sẽ làm đầu mối của Việt Nam trong quan hệ với các tổ chức quốc tế và của các nước khác về sở hữu trí tuệ như Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO)…
Trong lĩnh vực đăng ký và thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng nẩy sinh nhiều vấn đề. Do chưa phân định rõ đối tượng nên nhiều tác phẩm chưa rõ phải nộp đơn đăng ký quyền tác giả ở Cục Sở hữu trí tuệ hay Cục Bản quyền tác giả văn học nghệ thuật hay cả hai, các đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa hiện nay vẫn tạm thời nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ để chờ chuyển giao cho Bộ Thương mại mà chưa được giải quyết. Hoàn toàn chưa rõ cơ quan nào sẽ là cơ quan giám định nhà nước về vi phạm nhãn hiệu hàng hóa và quyền tác giả. Thanh tra chuyên ngành khoa học công nghệ có quyền xử lý vi phạm hành chính về nhãn hiệu hàng hóa nữa hay không?…
Trong khi đó, Bộ Khoa học và Công nghệ theo chỉ đạo của Chính phủ đang soạn thảo và trình Chính phủ dự thảo Nghị định mới sửa đổi điều kiện hành nghề sở hữu công nghiệp theo hướng thay thế Thẻ người đại diện sở hữu công nghiệp thành điều kiện hành nghề, mở rộng thêm nhiều đối tượng khác được quyền hành nghề dịch vụ sở hữu công nghiệp. Đây là một nỗ lực nhằm mở rộng số lượng những người làm dịch vụ pháp lý về sở hữu trí tuệ nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tế hiện nay.
2. Thực trạng quản lý nhà nước về dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
Về công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ pháp lý ở Việt Nam thời gian qua, Nhóm nghiên cứu rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, Nhà nước đã tập trung vào việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động dịch vụ pháp lý phát triển. Hoạt động dịch vụ pháp lý đã được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp luật cao. Điều này, khẳng định sự quan tâm của Nhà nước đối với tổ chức, hoạt động dịch vụ pháp lý, đồng thời, khẳng định vai trò của dịch vụ pháp lý trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, Nhà nước đã bước đầu thực hiện xã hội hoá một số hoạt động dịch vụ pháp lý theo tinh thần Nghị quyết của Đảng, mở rộng các loại hình dịch vụ tư vấn pháp luật để dịch vụ pháp lý đến được với quảng đại quần chúng nhân dân. Quan trọng hơn là sự nâng cao vai trò tự quản của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, sư phân định rõ nội dung, thẩm quyền quản lý nhà nước với chức năng tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ pháp lý đã được tăng cường và bước đầu đạt hiệu quả, lập lại trật tự trong hoạt động dịch vụ pháp lý. Quản lý nhà nước đã phần nào đáp ứng được hai mặt của vấn đề đó là vừa quản lý chặt chẽ, nhưng cũng tạo điều kiện để hoạt động dịch vụ pháp lý có hiệu quả đáp ứng được nhu cầu của cá nhân, tổ chức. Nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động nghề nghiệp, mà tập trung vào một số nội dung trọng tâm, trọng điểm như vấn đề tạo hành lang pháp lý, đào tạo, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
III. NHU CẦU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
1. Xác định nhu cầu dịch vụ pháp lý từ thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Có thể khái quát nhu cầu tiếp tục phát triển dịch vụ pháp lý ở Việt Nam qua một số điểm sau đây:
a) Dịch vụ pháp lý phải đảm bảo vai trò là công cụ hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Trong những năm qua, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, tham gia nhiều điều ước quốc tế đa phương ở các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, ký kết hơn 60 Hiệp định thương mại song phương với các quốc gia trên thế giới, trong đó có Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Và đặc biệt, chúng ta đã qua 9 vòng đàm phán để sớm trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Những đòi hỏi về tính ổn định, minh bạch, phù hợp pháp luật quốc tế trong quan hệ thương mại quốc tế cũng đang đặt ra nhu cầu lớn cho hoạt động dịch vụ pháp lý, đặc biệt là trong lĩnh vực về đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ với các nước trên thế giới. Thực tiễn trong thương mại quốc tế cho thấy, các lĩnh vực kinh doanh ở trên luôn luôn tạo ra làn sóng nhu cầu về dịch vụ pháp lý. Những con số thống kê sau đây đã chứng minh cho việc phát triển không ngừng dịch vụ pháp lý: ở Cộng đồng Châu Âu, số lượng các nhà cung cấp dịch vụ tăng trung bình khoảng 23%/năm; ở Hoa Kỳ tăng gấp 3 lần trong 10 năm (1993 – 2003) (6).
Nhu cầu dịch vụ pháp lý tăng nhanh không chỉ xuất phát từ sự phát triển kinh tế, của quá trình hội nhập kinh tế giữa nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế khu vực, kinh tế thế giới, mà tự thân sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung cũng đòi hỏi chúng phải bắt kịp, thích ứng với nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó, yếu tố cạnh tranh từ thị trường dịch vụ pháp lý quốc tế cũng thôi thúc sự đổi mới, nhanh chóng hoàn thiện thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, nếu như, chúng ta không muốn để mất thị phần của thị trường này ngay trên đất nước của chúng ta.
b) Dịch vụ pháp lý phải là công cụ bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Ngay trong lời nói đầu của Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã thể hiện rõ mục đích là: “... Để bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về tư vấn pháp luật của các cá nhân, tổ chức”. Các văn bản pháp luật khác quy định về việc tổ chức và hành nghề của luật sư nước ngoài; về hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức, đoàn thể; về trợ giúp pháp lý... cũng đều quán triệt mục tiêu nhằm bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cho dù hoạt động dịch vụ pháp lý được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào. Chính bởi vậy, hoạt động dịch vụ pháp lý được đổi mới, phát triển theo hướng hoàn thiện hơn, phù hợp sự phát triển của cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế hơn, nhưng về cơ bản vẫn phải tuân theo mục tiêu đảm bảo xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm sự bình đẳng của mọi chủ thể trong xã hội trước pháp luật, ưu tiên những đối tượng xã hội là người nghèo, đối tượng chính sách, bà con dân tộc ở vùng sâu, vùng xa...
c) Dịch vụ pháp lý phải đáp ứng được nhu cầu công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Cải cách tư pháp, xây dựng một xã hội có trật tự, bình đẳng, có nền pháp chế, nền hành chính, tư pháp và hệ thống pháp luật vững mạnh là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta đã được khẳng định qua nhiều văn kiện, văn bản pháp luật. Việc xây dựng hệ thống dịch vụ pháp lý ở Việt Nam cần phúc đáp yêu cầu của cải cách hành chính là sao cho hệ thống gọn nhẹ, tập trung, tăng cường sự quản lý của Nhà nước nhưng vẫn thúc đẩy được hoạt động này phát huy hiệu quả trong đời sống xã hội. Cũng như vậy, hệ thống dịch vụ pháp lý và các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý phải góp phần tích cực vào việc xây dựng một nền tư pháp mạnh, hỗ trợ các cơ quan tư pháp hoạt động có hiệu quả. Một mặt, giúp cơ quan tư pháp, cơ quan công quyền thực thi đúng pháp luật, hạn chế oan sai, mặt khác, bên cạnh việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, hoạt động dịch vụ pháp lý còn phải giáo dục, thuyết phục nâng cao ý thức pháp luật và chấp hành pháp luật của công dân. Nhu cầu xây dựng và hoàn thiện hoạt động dịch vụ pháp lý phải gắn liền với mục tiêu công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đồng thời, tuân thủ định hướng và quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các chiến lược này. Công bằng, bình đẳng, dân chủ không chỉ là các tiêu chuẩn, các nguyên tắc vốn có của Nhà nước pháp quyền, mà còn đòi hỏi hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng phải hoạt động tuân thủ pháp luật, bảo đảm pháp chế. Hoạt động dịch vụ pháp lý là hoạt động bổ trợ tư pháp đòi hỏi quá trình tổ chức và hoạt động của nó cũng cần phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc trên, phải coi dân chủ, bình đẳng là cơ chế để xác định và bảo đảm thực thi nguyên tắc công bằng trong xã hội, cũng như trong mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và công dân.
2. Những định hướng cơ bản nhằm phát triển và hoàn thiện dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
2.1. Những định hướng cơ bản nhằm phát triển dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
a) Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam cần được phát triển theo hướng thương mại dịch vụ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo quan niệm của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), của Tổ chức Thương mại (WTO), của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) thì dịch vụ pháp lý bao gồm các hoạt động tư vấn pháp luật và đại diện pháp lý. Các hoạt động dịch vụ pháp lý được phát triển theo hướng như là các loại dịch vụ thương mại và chú trọng từng bước tự do hoá việc cung cấp dịch vụ. Xét trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, khi mà Đảng và Nhà nước ta quán triệt sâu sắc chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có trình độ phát triển ngày càng cao, huy động tối đa mọi quyền lực để nâng cao hiệu quả kinh tế, đảm bảo cho các quan hệ trong xã hội ngày càng công bằng, dân chủ và văn minh, thì dịch vụ pháp lý cần thiết phải được mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng dịch vụ để phúc đáp nhu cầu xã hội. Văn kiện của Đảng cũng đã chỉ rõ việc phát triển đa dạng các loại hình thị trường trong nền kinh tế, trong đó có việc phát triển thị trường dịch vụ tư vấn pháp luật (7). Như vậy, theo chủ trương này, các hoạt động dịch vụ pháp lý dần dần được định hướng phát triển như một loại hình thương mại dịch vụ, có thị trường riêng, sôi động, hiệu quả. Trên thực tế, các hoạt động dịch vụ pháp lý cũng đang bị chi phối mạnh mẽ bởi các quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh.
b) Dịch vụ pháp lý là công cụ và phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Trong quá trình kinh doanh, vì mục đích lợi nhuận, các chủ thể kinh doanh có thể vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép và chính sự “vượt rào” này, có thể gây ra những rủi ro đáng tiếc hoặc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong xã hội. Bởi vậy, hoạt động dịch vụ pháp lý là giá đỡ hay “sự ổn áp” cần thiết để đưa họ trở về đúng quỹ đạo, đảm bảo giới hạn, đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể có nguy cơ bị tổn hại. Ngược lại, khi quyền lợi của họ bị các chủ thể khác xâm phạm, thì những hoạt động của dịch vụ pháp lý chính là công cụ, phương tiện để tạo ra cơ chế phục hồi. Bên cạnh đó, dịch vụ pháp lý cũng cần được phát triển theo hướng nhân đạo, phục vụ miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách. Đây là những đối tượng không có điều kiện hoặc cơ hội để được hưởng những dịch vụ pháp lý (theo cơ chế thương mại dịch vụ), bởi vậy, Nhà nước cần có cơ chế thích ứng giúp họ được thụ hưởng sự trợ giúp về mặt pháp lý, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
c) Dịch vụ pháp lý cần phát triển phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cải cách hành chính là nhằm tinh giảm bộ máy hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan hành chính, giảm bớt phiền hà, nhiêu khê cho nhân dân. Theo mục tiêu này, dịch vụ pháp lý cần phát triển theo hướng xã hội hoá sâu sắc, phát huy tính tự quản của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các doanh nghiệp tự chủ hoạt động theo đúng khuôn khổ và thể chế mà pháp luật đã quy định.
Đa dạng hoá các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý là một trong những công việc quan trọng, phục vụ công cuộc cải cách tư pháp. Với việc đa đạng hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý, chất lượng công tác này sẽ ngày một nâng cao, phát huy mọi nguồn lực của xã hội để hoạt động dịch vụ pháp lý thoả mãn yêu cầu xã hội ngày một tốt hơn.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thì việc xây dựng, mở rộng và hoàn thiện mô hình dịch vụ pháp lý cũng góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện thể chế Nhà nước pháp quyền. Các hoạt động dịch vụ pháp lý phải là công cụ đắc lực trong việc trợ giúp cho các đối tượng quản lý trong xã hội hành xử theo pháp luật, làm cho trật tự xã hội được ổn định, phát triển theo hướng lành mạnh, vững chắc, ý thức pháp luật của quần chúng ngày càng nâng cao. Đồng thời, hoạt động dịch vụ pháp lý trong quá trình tranh tụng trước Toà án và các cơ quan tài phán khác, cũng như hoạt động đại diện pháp lý cho các chủ thể, các đương sự trước cơ quan công quyền là sự giám sát từ phía xã hội từ phía quần chúng đối với hoạt động của các cơ quan tố tụng và cơ quan công quyền. Điều này đòi hỏi phải thiết lập một cơ chế phù hợp, dân chủ để các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý có thể hoàn thành được nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
2.2. Kiến nghị về mô hình dịch vụ pháp lý ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
Sau khi tìm hiểu về nhu cầu và xác định định hướng phát triển dịch vụ pháp lý trong thời kỳ mới ở nước ta, Nhóm nghiên cứu dự kiến mô hình phát triển như sau:
a) Về khái niệm và phạm vi dịch vụ pháp lý.
Dịch vụ pháp lý với khái niệm nội hàm của nó có thể hiểu là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý. Theo đó, dịch vụ tư vấn pháp luật được hiểu là hoạt động cung cấp các ý kiến pháp lý, giải pháp của các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý cho các cá nhân, tổ chức có yêu cầu (gọi chung là khách hàng). Còn dịch vụ đại diện pháp lý được hiểu là chủ thể cung cấp dịch vụ sẽ là người đại diện cho khách hàng, thay mặt cho khách hàng trước các cơ quan, tổ chức, trước các đối tác của khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của khách hàng theo đúng các quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức có thể là các cơ quan tư pháp, các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức kinh tế – xã hội, chính trị - xã hội, các tổ chức có quyền tài phán... Như vậy, dịch vụ đại diện pháp lý còn bao gồm cả việc tham gia tranh tụng trước Toà như bào chữa cho bị can, bị cáo (đại diện cho quyền lợi của bị can, bị cáo) trong các vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn, bị đơn trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, tham gia bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự trong tố tụng trọng tài ở các tổ chức trọng tài thương mại trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, dịch vụ pháp lý có thể còn bao gồm những hoạt động khác khi khách hàng có yêu cầu nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
Cũng từ nội hàm khái niệm, phạm vi dịch vụ pháp lý có thể được xác định như sau:
- Dịch vụ tư vấn pháp luật;
- Dịch vụ đại diện pháp lý, trong đó:
+ Đại diện pháp lý trong tố tụng tư pháp;
+ Đại diện pháp lý trong thủ tục hành chính, tố tụng trọng tài;
+ Đại diện theo uỷ quyền về những vấn đề liên quan đến pháp luật;
- Các hoạt động dịch vụ pháp lý khác (soạn thảo hợp đồng, các giấy tờ pháp lý...).
b) Về chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì chủ thể thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng tư pháp bao gồm: Luật sư; Đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân; Người khác.
Trên thế giới, việc cung cấp dịch vụ pháp lý phải do các nhà chuyên nghiệp bởi vì họ là những người am hiểu pháp luật, biết vận dụng pháp luật và có kỹ năng nghề nghiệp. Đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng tư pháp, việc thực hiện các dịch vụ pháp lý phải là luật sư. Một số nước còn quy định rõ trong luật về sự độc quyền tham gia tố tụng của luật sư trước Toà.
Ở Việt Nam, giai đoạn trước mắt, bên cạnh việc phát triển nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ luật sư để họ đáp ứng kịp nhu cầu cấp thiết của đời sống xã hội, cần có những giải pháp hữu hiệu trong việc kiện toàn đội ngũ tư vấn viên pháp luật (ở các tổ chức đoàn thể xã hội); kiện toàn đội ngũ chuyên viên trợ giúp pháp lý (ở các Trung tâm trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách); tiêu chuẩn hoá một số chức danh tư vấn pháp luật trong những lĩnh vực hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, thực hiện dịch vụ pháp lý về sở hữu trí tuệ, trọng tài...
Về lâu dài, cần xác định rõ, những người đủ tiêu chuẩn để cung cấp dịch vụ pháp lý chỉ có thể là luật sư.
c) Về hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý.
Hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý cần được tổ chức đa dạng với các hình thức sau đây:
- Văn phòng luật sư (chỉ có thể do một luật sư thành lập; Văn phòng luật sư do hai luật sư thành lập bản chất không khác gì công ty luật hợp danh).
- Công ty luật (có thể thành lập theo hình thức công ty hợp danh hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, cần có các điều kiện, tiêu chuẩn đặc thù cho việc thành lập công ty luật theo các loại hình công ty nói trên. Ví dụ: Điều kiện về chủ thể thành lập công ty, các thành viên hợp danh hoặc các thành viên sáng lập trong công ty trách nhiệm hữu hạn phải là luật sư...).
- Trung tâm tư vấn pháp luật (các trung tâm này khi hành nghề cũng phải do các luật sư có đủ điều kiện hành nghề mới được cung cấp dịch vụ...).
- Các Chi nhánh của tổ chức luật sư, Công ty luật nước ngoài được cấp giấy phép hành nghề tại Việt Nam...
- Trung tâm dịch vụ pháp lý miễn phí (các trung tâm này có thể do Nhà nước hoặc tổ chức xã hội thành lập).
Ngoài ra cần nghiên cứu để quy định hình thức hành nghề độc lập (tự do) của luật sư với tư cách là luật sư làm thuê (luật sư riêng) của doanh nghiệp, của dự án, của Chính phủ, bộ, ngành...
đ) Về quản lý đối với dịch vụ pháp lý
Về nguyên tắc, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tổ chức và hành nghề dịch vụ pháp lý. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường có lẽ cần quán triệt phương châm chung là giảm thiểu tối đa các biện pháp hành chính mà thay vào đó là điều tiết vĩ mô thông qua các cơ chế của thị trường. Hơn nữa, mục đích và động cơ của mọi sự quản lý là tạo điều kiện cho sự phát triển chứ không phải là “xiết chặt” và “hạn chế”. Đối với lĩnh vực dịch vụ pháp lý, nên chăng có sự phân định các cấp độ quản lý khác nhau.
Quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng thông qua việc hoạch định chính sách, ban hành pháp luật để quy định các tiêu chuẩn tối thiểu về hành nghề dịch vụ pháp lý, chẳng hạn như tiêu chuẩn trở thành luật sư, tiêu chuẩn về điều kiện hành nghề của một tổ chức dịch vụ pháp lý; … Cơ quan quản lý nhà nước sẽ chỉ nên tập trung vào kiểm tra việc chấp hành các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư.
Quản lý các khía cạnh khác theo các luật áp dụng cho các tổ chức cung cấp dịch vụ nói chung bởi các cơ quan chức năng khác nhau của Nhà nước như cơ quan thuế, cơ quan lao động, cơ quan thống kê và đăng ký kinh doanh v.v.. Muốn như vậy, các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật cần hoạt động trong cùng một hành lang thống nhất và bình đẳng là Luật doanh nghiệp.
Nghiên cứu xây dựng chế độ trách nhiệm của luật sư, kết hợp giữa hệ thống chế tài của Nhà nước và chế độ kỷ luật của tổ chức tự quản theo hướng xác định rõ và cụ thể hệ thống chế tài của Nhà nước và phát huy tối đa sự kiểm soát của bản thân các luật sư trong chế độ tự quản.
Bên cạnh việc xác định chế độ trách nhiệm của luật sư, cần thiết phải tạo môi trường pháp lý thuận lợi và bảo đảm trên thực tế việc luật sư được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nghiên cứu để xây dựng chế độ bảo hộ nghề nghiệp để luật sư có đủ điều kiện thực hiện tốt các dịch vụ pháp lý.
Quản lý các hoạt động nghề nghiệp hàng ngày của luật sư bởi tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư thông qua quy chế đạo đức nghề nghiệp. Cách thức quản lý này sẽ là hiệu quả nhất vì lẽ “không ai hiểu rõ luật sư hơn luật sư”, theo đó, cơ chế tự quản của các luật sư sẽ phát huy tác dụng. Vì vậy xã hội hoá tổ chức và hoạt động luật sư cần theo những định hướng cơ bản sau đây:
- Cần khẳng định luật sư là một nghề trong xã hội và vì vậy tổ chức, hoạt động luật sư cần được xây dựng trên những nguyên tắc là một nghề chuyên nghiệp, nghề tự do;
- Cần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp để đáp ứng nhu cầu về luật sư tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng như hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử;
- Từng bước chuẩn hoá các tiêu chuẩn luật sư phù hợp với các yêu cầu, điều kiện cụ thể của sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, nhưng phải bảo đảm đáp ứng các chuẩn mực về mặt chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, phù hợp với điều kiện hành nghề của luật sư trong khu vực và trên thế giới;
- Đề cao trách nhiệm cá nhân của luật sư, nâng cao vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp của luật sư, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với nghề luật sư; phân biệt rõ quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức nghề nghiệp của luật sư;
- Từng bước hoàn chỉnh hệ thống văn bản điều chỉnh nghề luật sư, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho nghề luật sư Việt Nam phát triển, hội nhập khu vực và quốc tế.
3. Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
Hoàn thiện pháp luật về tố tụng, khắc phục tình trạng cắt khúc giữa các giai đoạn tố tụng như hiện nay, quy định hợp lý thời gian tiến hành tố tụng, áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đối với các vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng.
Hoàn thiện pháp luật tố tụng theo hướng bảo đảm các thủ tục tố tụng dân chủ hơn, tăng cường vai trò của luật sư nhằm thực thi nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng quyền con người trong tố tụng hình sự. Pháp điển hoá các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hành chính theo hướng mở rộng thẩm quyền của Toà hành chính được xét xử tất cả các vụ khiếu kiện hành chính và cải cách căn bản thủ tục giải quyết các vụ án hành chính phù hợp với điều kiện hiện nay. Bộ luật tố tụng dân sự được ban hành để áp dụng chung cho các tranh chấp dân sự, kinh tế và lao động, bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự; thủ tục nhanh gọn đơn giản; thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử; tăng khả năng tranh tụng trong phiên toà.
Về chế định bào chữa, đã đến lúc phải xem việc tham gia của luật sư vào quá trình tố tụng hình sự là sự giám sát tốt nhất đối với các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Bên cạnh việc làm rõ chức năng buộc tội, chức năng xét xử thì cần phải chú ý đến chức năng bào chữa, trong đó có vai trò của luật sư.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là nguyên tắc dân chủ trong tố tụng hình sự, bên cạnh việc mở rộng quyền của bị can, bị cáo và cho phép luật sư tham gia sớm hơn và trong mọi giai đoạn của tố tụng, cần phải nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của luật sư. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng chỉ thúc đẩy nhanh chóng và góp phần tránh oan sai trong quá trình giải quyết vụ án. Vị trí của luật sư phải được xem là một bên tham gia tố tụng, bên bào chữa ngang hàng với bên buộc tội tại phiên toà. Toà án phải là người trọng tài, cầm cân nảy mực, là người phán xét cuối cùng.
Vị trí của luật sư, vai trò của luật sư trong việc đại diện cho khách hàng để bảo vệ quyền lợi của họ trước pháp luật đã thể hiện rõ trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Tuy nhiên, hiện nay khi hành nghề luật sư gặp không ít khó khăn, nhất là khi đại diện cho khách hàng tiếp xúc với cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền để giải quyết các vụ việc do khách hàng uỷ quyền. Vì vậy cần tăng cường hơn nữa cải cách thủ tục hành chính, quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan công quyền trước dân.
Đồng thời với việc hoàn thiện pháp luật có liên quan đến dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tư pháp cần sớm ban hành văn bản pháp luật về dịch vụ pháp lý miễn phí và các lĩnh vực khác như hoà giải, trọng tài, sở hữu trí tuệ...
Về định hướng cho giai đoạn từ nay đến năm 2010 cần nghiên cứu xây dựng một đạo luật về luật sư trong đó quy định về tổ chức và hành nghề cho cả luật sư trong nước và luật sư nước ngoài. Quy định thống nhất các loại hình dịch vụ pháp lý, chỉ có luật sư mới được cung cấp dịch vụ pháp lý, khắc phục tình trạng cát cứ như hiện nay. Luật về luật sư cần thể hiện một số nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải thống nhất hoá nghề luật sư, tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các luật sư Việt Nam với nhau; luật sư phải là một nghề nghiệp chung bao gồm cả luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn pháp luật, không hạn chế luật sư chỉ được hành nghề tranh tụng hoặc hành nghề tư vấn pháp luật.
Thứ hai, phải chính quy hoá tiêu chuẩn luật sư.
Thứ ba, đa dạng hoá hình thức hành nghề luật sư, cần phải quy định hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo hướng luật sư được hành nghề dưới nhiều hình thức: Hành nghề độc lập, Văn phòng luật sư, Công ty luật v.v... Đây là những hình thức hành nghề phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Thứ tư, cần quy định rõ trách nhiệm của luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư trước khách hàng khi thực hiện tư vấn sai, gây thiệt hại về lợi ích vật chất và tinh thần cho khách hàng. Ở phần lớn các nước trên thế giới, luật sư phải tham gia bảo hiểm nghề nghiệp.
Thứ năm, cần quy định thống nhất, rõ ràng về quản lý đối với hành nghề luật sư. Quản lý hành nghề luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp giữa quản lý nhà nước với sự tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, nhằm mục đích vừa bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của Nhà nước; vừa chấp hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp do tổ chức xã hội nghề nghiệp đặt ra. Tuy nhiên cần phân biệt rõ và cụ thể giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư./.
(1) Xem: Provisional Centeral Product Classification. Statistical Papers. Series M.N.77.
(2) Xem: Official Records of ECOSOS 1997, Suppl.n.4 (E/1997/24).
(3) Mười hai nhóm theo cách phân loại của WTO là: (1) Dịch vụ thương mại (dịch nghề nghiệp và các dịch vụ liên quan đến máy tính); (2) Dịch vụ thông tin liên tạc; (3) Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan; (4) Dịch vụ phân phối; (5) Dịch vụ giáo dục; (6) Dịch vụ liên quan đến môi truờng; (7) Dịch vụ tài chính (bảo hiểm và ngân hàng); (8) Dịch vụ du lịch và du lịch lữ hành; (9) Các dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao; (10) Dịch vụ giao thông; (11) Dịch vụ y tế; và (12) các loại dịch vụ khác.
(5) Điều I(3)(c), GATS và xem Russel Miller & Scott Gallacher, ‘The GATS Framework and Trade in Professional (Legal) Services’, Canberra, Australia (09/11/2002).
(6) Báo cáo của WTO về Dịch vụ pháp lý năm 2003.
(7) Xem Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX - Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2001, tr. 192, 193.