• Thuộc tính
Tên đề tài Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương
Nội dung tóm tắt

Trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xu hướng hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn bộ tổ chức và hoạt động tư pháp cùng những yêu cầu mới và nhiệm vụ mới đặt ra cho ngành tư pháp, đặc biệt là các cơ quan tư pháp địa phương. Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đang bộc lộ những hạn chế và bất cập. Thực trạng năng lực chuyên môn của nhiều công chức chưa ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Trình độ nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh, khả năng tham mưu tổ chức thực hiện pháp luật, tư vấn, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế. Trình độ ngoại ngữ, tin học bất cập trước yêu cầu của nhiệm vụ được giao. Trong bối cảnh đó, việc củng cố kiện toàn đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước đặt ra trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền và các cơ quan chuyên môn.

Đứng trước tình hình đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị xác định phương hướng cải cách tư pháp tới năm 2020 là “xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”. Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Ba (Khoá VIII) đã đề ra và chỉ rõ: học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, “mọi cán bộ, công chức phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng đạo đức cách mạng”. Thể chế hoá và triển khai thực hiện các chủ trương nói trên, chương trình cải cách tổng thể nền hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 xác định mục tiêu đến năm 2010 “tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân”. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho công tác hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2003 - 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ xác định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là đến năm 2010 có đội ngũ những người làm công tác hội nhập kinh tế, quốc tế thông thạo về nghiệp vụ, ngoại ngữ, am hiểu pháp luật quốc tế, đáp ứng được với những yêu cầu của hội nhập kinh tế, quốc tế.

Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, vai trò của công tác đào tạo bồi dưỡng trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay, việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và đội ngũ công chức tư pháp địa phương nói riêng được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm của Bộ Tư pháp, chính quyền và cơ quan tư pháp địa phương.

Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương” là hết sức cần thiết nhằm góp phần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:

- Đánh giá khái quát về đội ngũ cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương: những ưu điểm, kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập; tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, bất cập.

- Xác định được mục tiêu, định hướng và những giải pháp cơ bản để đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này là những cán bộ đang trực tiếp thực hiện những công việc liên quan đến pháp luật, bao gồm:

- Đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND), giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương, bao gồm: Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch.

- Đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan thi hành án địa phương gồm thi hành án cấp tỉnh và thi hành án cấp huyện.

Việc nghiên cứu đề tài phục vụ có hiệu quả cho việc xây dựng các chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp; Xây dựng và thực hiện Đề án Tổng rà soát đội ngũ cán bộ, công chức; Đề án Tăng cường năng lực của cơ quan, công chức trực tiếp tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (ban hành kèm theo Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ); xây dựng Chỉ thị của Bộ trưởng về tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương.

I. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

1. Vị trí, vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương

Với vai trò là người trực tiếp thực thi pháp luật, là nhân tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín của ngành tư pháp, đội ngũ công chức của ngành tư pháp nói chung và đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong hơn 60 năm xây dựng và phát triển đã đóng góp tích cực vào việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị - xã hội của địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành tư pháp từ trung ương tới cơ sở.

Theo quy định của pháp luật[1], thì đội ngũ công chức tư pháp ở địa phương bao gồm:  (i) Đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp cấp tỉnh; (ii) Đội ngũ công chức thuộc Phòng Tư pháp cấp huyện; (iii) Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã; (iv) Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.

Vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương được thể hiện qua những nội dung sau:

Một là, tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Với nhiệm vụ giúp UBND cùng cấp quản lý công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã góp phần vào việc bảo đảm sự thống nhất, tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản trong hệ thống pháp luật thông qua các hoạt động sau:

- Thẩm định, cho ý kiến về mặt pháp lý đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND và Hội đồng nhân dân (viết tắt là HĐND) trong các lĩnh vực;

- Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực công tác tư pháp được phân công quản lý hoặc các lĩnh vực khác do UBND giao;

- Hướng dẫn rà soát, hệ thống hoá văn bản pháp luật trong các lĩnh vực;

- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện và kịp thời khắc phục các sai phạm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực.

Hai là, nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan tư pháp, nâng cao năng lực tiếp cận hệ thống pháp luật, hệ thống tư pháp.

Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Do đó, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan và công chức nhà nước, trong đó các cơ quan và công chức tư pháp giữ một vai trò nòng cốt đưa pháp luật vào cuộc sống, là cầu nối, mắt xích quan trọng giữa Nhà nước và quần chúng nhân dân trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật, hình thành niềm tin và thói quen chấp hành pháp luật của công dân. Đội ngũ cán bộ này không chỉ tham gia hoạt động xây dựng kế hoạch, làm đầu mối phối hợp và hướng dẫn các cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện mà còn trực tiếp thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; tham gia vào quá trình trợ giúp, hỗ trợ các dịch vụ pháp lý cho những người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật; quản lý và đề xuất chính sách bảo đảm cho sự phát triển của các tổ chức tư vấn pháp luật và luật sư.

Ba là, bảo đảm thực thi pháp luật thông qua hoạt động thi hành án dân sự và các hoạt động tư pháp khác.

Bảo đảm bản án được thi hành nghiêm chỉnh có ý nghĩa quyết định đến uy tín của ngành tư pháp và niềm tin của người dân với pháp luật, lẽ phải và công lý. Cùng với những cán bộ thuộc cơ quan thi hành án dân sự, đội ngũ công chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp giúp UBND cùng cấp quản lý công tác thi hành án dân sự trên địa bàn, làm đầu mối để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan có liên quan ở địa phương trong công tác thi hành án dân sự; tham gia trực tiếp vào việc thi hành các bản án có giá trị dưới 500.000 đồng.

Đồng thời, đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn là những người trực tiếp thực thi các quy định của pháp luật về công tác tư pháp trong các lĩnh vực công chứng, chứng thực, đăng ký hộ tịch, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân, của tổ chức và cá nhân cũng như góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các quan hệ dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, tham gia tích cực vào quá trình quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính quyền địa phương.

Vai trò của các công chức tư pháp địa phương được thể hiện bằng việc tham mưu, tư vấn các vấn đề pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương đưa ra các quyết sách phù hợp trong các lĩnh vực; thực hiện nhiệm vụ quản lý và đăng ký hộ tịch, thực hiện những nội dung về quản lý quốc tịch, lý lịch tư pháp… đối với dân cư trên địa bàn; là thành viên của các Hội đồng tư vấn, Hội đồng phối hợp công tác của địa phương.

2. Thực trạng năng lực của đội ngũ công chức tư pháp địa phương

2.1. Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện

Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự đã có bước phát triển mạnh về số lượng. Tính đến tháng 6/2006, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã có 6.823 cán bộ, trong đó có 2.274 chấp hành viên (không kể số chấp hành viên trong quân đội), gồm có 342 chấp hành viên cấp tỉnh và 1.932 chấp hành viên cấp huyện. So với thời điểm 6/2005 thì số lượng cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự đã tăng 11,9% (714 người), số lượng chấp hành viên tăng 4,6% (15 người). Phần lớn số cán bộ được bổ nhiệm chấp hành viên đều bảo đảm tiêu chuẩn, có trình độ Đại học Luật hoặc tương đương.

- Về trình độ: Trong tổng số 6.823 cán bộ thuộc cơ quan thi hành án thì 74,5% cán bộ có trình độ đại học và tương đương trở lên (5.286 người), 15,9% cán bộ có trình độ cao đẳng  và trung cấp nói chung (1.087 người). Số cán bộ có trình độ sơ cấp Luật chỉ chiếm tỷ lệ 6,2%, tập trung chủ yếu ở các đơn vị miền núi, vùng sâu, vùng xa.

 Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thi hành án dân sự đã được quan tâm. Hàng năm, đội ngũ chấp hành viên trưởng, chấp hành viên mới được bổ nhiệm đã được tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án. Năm 2002, trường Đào tạo các chức danh tư pháp (nay là Học viện Tư pháp) tổ chức khai giảng khoá đào tạo nghiệp vụ chấp hành viên đầu tiên với hơn 100 công chức có trình độ cử nhân luật, thuộc diện bổ nhiệm nguồn chấp hành viên. Đến nay, Học viện Tư pháp đã đào tạo được hơn 1.041 công chức.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự có nhiều cán bộ trẻ, năng động, với 65% cán bộ có độ tuổi dưới 30 và 34% cán bộ có độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi. Chỉ có 1% cán bộ trên 50 tuổi. Điều này là thuận lợi lớn cho việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thi hành án dân sự địa phương.

- Năm 2002, Bộ Tư pháp đã ban hành chuẩn mực đạo đức Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án dân sự. Cho đến nay, chuẩn mực đạo đức chấp hành viên đã được phổ biến, triển khai đến từng chấp hành viên các cơ quan thi hành án trong toàn quốc. Phần lớn đội ngũ chấp hành viên đã tự ý thức được vị trí, vai trò của mình, tích cực tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng, đạo đức, lối sống, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tuân thủ những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, tận tuỵ với nhân dân, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Mặc dù trình độ chuyên môn của đội ngũ chấp hành viên đã từng bước được nâng lên, nhưng kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm, năng lực thực tiễn của đội ngũ chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế trước tính chất phức tạp ngày càng gia tăng của công tác thi hành án, đặc biệt là các vụ án kinh tế lớn, có phạm vi và đối tượng thi hành án rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực.

Một bộ phận chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án còn thiếu tận tụy, có những biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ như tham ô, nhận hối lộ, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho đương sự, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên trong một thời gian dài chưa được thực hiện thường xuyên và có nề nếp. Hàng năm, mới chỉ được thực hiện với đội ngũ chấp hành viên trưởng và những chấp hành viên mới được bổ nhiệm. Các đối tượng khác thì giao lại cho Trưởng thi hành án cấp tỉnh tổ chức tập huấn tại địa phương. Do vậy, tại một số địa phương, công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa được chú trọng, có địa phương trong gần 10 năm chỉ tổ chức tập huấn nghiệp vụ được 01 lần cho chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án dân sự địa phương. Chất lượng, hiệu quả tập huấn thấp và không đồng đều. Nhiều chấp hành viên sau khi được bổ nhiệm còn gặp nhiều lúng túng trong việc thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án, vận dụng các quy định của pháp luật trong từng vụ việc thi hành án dân sự cụ thể, việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức cưỡng chế thi hành án…

2.2. Tình hình đội ngũ công chức tư pháp thuộc Sở Tư pháp, Phòng  Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch

Kết quả tổng rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp cho thấy, trong 7 năm (từ năm 1996 đến năm 2004), đội ngũ công chức Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đã tăng 40%. Đặc biệt là sau khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV được ban hành, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được quan tâm củng cố, kiện toàn, bổ sung thêm cán bộ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Cho đến thời điểm này, đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp (bao gồm cả công chứng viên) và Phòng Tư pháp đã tăng 24,4% so với năm 2002.

Riêng đối với đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, sau khi Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV được ban hành, các địa phương đã quan tâm kiện toàn, bố trí tối thiểu 01 công chức/ cấp xã để đảm nhận nhiệm vụ giúp UBND cấp xã quản lý công tác tư pháp. Theo số liệu báo cáo của 45 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tính đến đầu năm 2006, đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch đã là 7.197 người (tăng 6,4% so với trước khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV được ban hành). 653 cấp xã đã bố trí được 02 cán bộ đảm nhận công tác tư pháp - hộ tịch.

- Trình độ cán bộ từng bước được nâng cao trên các mặt chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ có tính chuyên môn hoá và chuyên nghiệp.

Nếu như năm 1996, khoảng 50% đội ngũ cán bộ, công chức của Sở Tư pháp và 30-35% cán bộ, công chức Phòng Tư pháp có trình độ đại học, cao đẳng luật, thì đến năm 2004, tỷ lệ này tăng lên là 67,4% đối với Sở Tư pháp và 59,7% đối với Phòng Tư pháp. Đối với đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã, nếu như năm 2000, tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn từ trung học (bao gồm tất cả các chuyên ngành) trở lên là 31%, trong đó có 18,3% cán bộ có trình độ chuyên môn Luật từ trung học trở lên thì đến đầu năm 2006, tỷ lệ này đã là 67,6% và 57%. Số lượng cán bộ cấp xã đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ đạt 81,9%. Đến nay, đa số các công chức của Sở Tư pháp đã qua đào tạo tin học và có thể khai thác, sử dụng máy tính trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

- Phần lớn đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, trong sạch, lành mạnh, có năng lực chuyên môn, ý thức tinh thần trách nhiệm để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

- Nhiều cán bộ, công chức trẻ, được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, bảo đảm sự kế thừa giữa các thế hệ.

Bên cạnh những ưu điểm, tính tích cực, đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng bộc lộ những hạn chế như sau:

Đội ngũ công chức vẫn còn thiếu về số lượng. Biên chế của các cơ quan tư pháp địa phương vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ mặc dù trong quá trình kiện toàn đã được quan tâm, bổ sung biên chế. Số lượng công chức tư pháp được tăng lên chủ yếu là để bổ sung cho các tỉnh, thành phố mới được thành lập. Số liệu tổng hợp từ 47 tỉnh cho thấy số lượng đơn vị của Sở tăng lên 10,1% nhưng số lượng cán bộ của Sở chỉ tăng thêm 5,1%, do đó số lượng cán bộ trung bình của 1 đơn vị trực thuộc Sở giảm từ 5,16 cán bộ/1đơn vị còn 4,8 cán bộ/đơn vị. Một số địa phương, mặc dù đã được kiện toàn tổ chức nhưng việc giao biên chế lại không thực hiện được. Do đó, cán bộ tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp xã luôn trong tình trạng quá tải công việc và khó có thể tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ dài hạn.

Chất lượng đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tư pháp - hộ tịch ở cấp xã với hơn 30% cán bộ chưa có trình độ trung học Luật. Cá biệt có thời điểm (có sự thay đổi nhân sự theo nhiệm kỳ của HĐND), số lượng công chức tư pháp - hộ tịch có trình độ đạt tiêu chuẩn chỉ đạt tỷ lệ 50%, có tỉnh chỉ ở mức 30% . Việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời, nên đã ảnh hưởng một phần đến chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ tư pháp - hộ tịch sau khi được Sở Tư pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực thì số cán bộ này lại được điều sang nhận công tác khác. Cán bộ thay thế một phần không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, một phần không có kinh nghiệm làm công tác tư pháp nên gặp khó khăn không nhỏ khi thực hiện nhiệm vụ này cũng như trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp.

Bên cạnh đó, do tổ chức Phòng Tư pháp không ổn định nên đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện không được quan tâm đầu tư thoả đáng, trong đó có nâng cao năng lực, trình độ. Mặc dù là cấp trung gian triển khai công tác tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp xã nhưng đội ngũ cán bộ này chưa có đủ năng lực và kỹ năng tổ chức thực hiện công việc tư pháp trong phạm vi cấp huyện cũng như chỉ đạo, hướng dẫn, giải quyết các vướng mắc về chuyên môn, nghiệp vụ tư pháp cấp xã.

* Tình hình đội ngũ công chứng viên

- Tính đến tháng 6/2006, tổng số công chứng viên là 396 người, được phân bổ cho 125 Phòng Công chứng trên toàn quốc, tăng 46% (125 người) so với năm 2003. Ngoài ra, các Phòng Công chứng còn có các chuyên viên nghiệp vụ, nhân viên khác, nhân viên hợp đồng lên tới gần 800 người, đây là nguồn cán bộ quan trọng để đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cho đội ngũ công chứng viên khi cần thiết.

- Nhìn chung, đội ngũ công chứng viên có trình độ đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và các yêu cầu công việc đặt ra. 100% đội ngũ công chứng viên có trình độ đại học Luật và tương đương trở lên, trong đó, số có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ chiếm 3,6% (14 người), Đại học chính quy chiếm 42,9% (170 người). Đa số các công chứng viên đã có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên, trong đó 14,1% có trình độ cao cấp và cử nhân. 196 người đã qua lớp đào tạo nghề công chứng viên.

- Đội ngũ công chứng viên trong cả nước về cơ bản có đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, có năng lực, trình độ và tận tâm phục vụ nhân dân.

Để tạo nguồn cán bộ, bổ sung cho đội ngũ công chứng viên, trong thời gian qua, 6 lớp đào tạo công chứng viên đã được tổ chức với sự tham gia của 300 người, đa số là các chuyên viên nghiệp vụ Phòng Công chứng, ngoài ra, có một số người đang công tác trong ngành tư pháp được Sở Tư pháp cho đi học lớp đào tạo công chứng viên để tạo nguồn.

Hạn chế của đội ngũ công chứng viên đó là một tỷ lệ không nhỏ công chứng viên có bằng Đại học hệ chuyên tu, tại chức (212 người - chiếm 53,5%). Đây là vấn đề cần lưu ý khi thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế của loại hình đào tạo, chú trọng kịp thời đến việc bổ sung, cập nhật các kiến thức cần thiết cho cán bộ.

3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

3.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng

3.1.1. Khái niệm đào tạo

Sau khi phân tích các định nghĩa khác nhau về đào tạo, bồi dưỡng, nhóm nhiên cứu đã đưa ra định nghĩa, đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức mới để người được đào tạo lĩnh hội, nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống, theo một quy trình nhất định nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống, có khả năng nhận sự phân công lao động nhất định, góp phần vào việc phát triển xã hội.

Đặc điểm cơ bản của đào tạo đó là:

- Quá trình học tập có hệ thống. Đào tạo được tổ chức theo một quy trình cụ thể, với những bước đi, thời gian thích hợp, có nội dung, chương trình và yêu cầu đặt ra đối với giảng viên, học viên theo từng giai đoạn, được đánh giá qua các bài giảng, sự tiếp thu, các bài kiểm tra, thi tốt nghiệp… Các yếu tố trong quá trình đào tạo tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất.

- Tạo sự biến đổi về chất sau quá trình học tập. Đào tạo không những giúp cho người học nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng với yêu cầu đặt ra mà còn trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng để cán bộ tiếp tục tiếp thu, vận dụng những kiến thức hướng tới việc tạo ra những tri thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của nhân loại.

3.1.2. Khái niệm bồi dưỡng

Bồi dưỡng là quá trình học tập nâng cao trình độ hiểu biết, tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị của người được bồi dưỡng. Bồi dưỡng nhằm mục đích bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức đã được đào tạo bồi dưỡng trước đó.

Điểm khác biệt giữa bồi dưỡng với đào tạo là bồi dưỡng chưa tạo được bước ngoặt căn bản về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của đối tượng được bồi dưỡng. Tuy nhiên, bồi dưỡng thường đáp ứng được ngay yêu cầu cập nhật kiến thức mới, bổ sung tri thức làm cho người được bồi dưỡng có thể tiếp cận và vận dụng kịp thời vào thực tiễn để thực thi có hiệu quả nhiệm vụ được giao.

3.1.3. Các yếu tố cấu thành của “đào tạo, bồi dưỡng”

- Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là người cần trang bị hoặc nâng cao năng lực, trình độ. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng giữ vai trò trung tâm để các cơ quan quản lý và thực hiện đào tạo xác định mục tiêu, nội dung, chương trình cũng như áp dụng các phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.

- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức, kỹ năng được truyền tải đến cho đối tượng đào tạo, bồi dưỡng.

- Hình thức đào tạo, bồi dưỡng là cách thức tổ chức tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, có thể diễn ra dưới hình thức tập trung, chính quy, tại chức, từ xa…

- Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là hệ thống gồm một hay nhiều quy tắc được áp dụng có tác dụng hướng dẫn một loại hình hoạt động cụ thể nào đó để đạt được mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng.

- Đội ngũ giảng viên là những người vận dụng các hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng để truyền tải các nội dung đào tạo, bồi dưỡng đến các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.

- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của đào tạo, bồi dưỡng là các điều kiện để tiến hành đào tạo, bồi dưỡng như địa điểm, trang thiết bị, giáo cụ, các nguồn lực tài chính…

Các yếu tố trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, làm điều kiện và chi phối lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng thì cần thiết phải xem xét đầy đủ đến các yếu tố này, trong đó, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò trung tâm và hướng tới mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Giữa mục tiêu và đối tượng đào tạo, bồi dưỡng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Đối tượng được lựa chọn, xác định trên cơ sở mục tiêu. Mục tiêu có đạt được hay không phụ thuộc vào lựa chọn đúng đối tượng, ngoài ra, mục tiêu cũng được xác định trên cơ sở yêu cầu công việc, loại hình, cấp đào tạo, bồi dưỡng…

3.2. Đặc điểm của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

Với ý nghĩa là quá trình nâng cao trình độ, năng lực hiểu biết, bổ sung kiến thức cho người được đào tạo, bồi dưỡng là đội ngũ công chức thì đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương có những đặc điểm như sau:

3.2.1. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là những công chức không đồng đều về năng lực và trình độ, đang đảm nhận các vị trí công tác có yêu cầu nhiệm vụ và thuộc các cấp hành chính với cơ chế quản lý khác nhau

Đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định bao gồm:

Một là, đội ngũ công chức ngành tư pháp thuộc nhiều cơ quan ở các cấp hành chính với cơ chế quản lý khác nhau, gồm: (i) Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự (cấp tỉnh và cấp huyện); (ii) Đội ngũ công chức thuộc cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tư pháp: Sở Tư pháp cấp tỉnh và Phòng Tư pháp cấp huyện; (iii) Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã.

Theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ, công chức tại Nghị định số 117/2003/NĐ-CP và Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg thì việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thuộc các cơ quan thi hành án dân sự địa phương do Bộ Tư pháp thực hiện; đối với đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã thì việc đào tạo, bồi dưỡng do UBND cùng cấp thực hiện.

Hai là, tiêu chuẩn chức danh và yêu cầu đối với công chức trong thực thi nhiệm vụ khác nhau.

Đội ngũ công chức thuộc cơ quan tư pháp địa phương bao gồm cán bộ theo các tiêu chuẩn nghiệp vụ sau:

- Công chức hành chính ngành tư pháp tuân theo tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch công chức hành chính ngành tư pháp ban hành kèm theo Quyết định số 483/QĐ-BTP ngày 26/7/1993 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, bao gồm cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp pháp lý.

- Đội ngũ chấp hành viên cấp tỉnh và cấp huyện theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định dành cho chấp hành viên tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP và các văn bản khác có liên quan.

- Đội ngũ công chứng viên theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực và từ ngày 1/7/2007 là Luật Công chứng.

- Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.

Theo các văn bản pháp luật, mỗi chức danh lại có những yêu cầu khác nhau về tiêu chuẩn, chức trách và nhiệm vụ. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cần thiết phải tiến hành trên cơ sở các yêu cầu của tiêu chuẩn chức danh và ngoài việc chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đương chức thì còn phải chú ý đến việc đào tạo nguồn để bổ sung cán bộ khi cần thiết.

Ba là, năng lực của đội ngũ công chức tư pháp không đồng đều.

Đội ngũ công chức tư pháp địa phương hiện đang đảm nhận nhiệm vụ trong các cơ quan thuộc cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, thuộc các địa bàn từ đồng bằng, đô thị đến nông thôn, miền núi, khu vực có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống. Yêu cầu nhiệm vụ của mỗi cấp hành chính là khác nhau do đó việc tuyển chọn cán bộ cũng căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau. Đồng thời, do đặc thù của từng vùng miền nên yêu cầu và chất lượng của đội ngũ công chức không đồng đều. Do vậy, mục tiêu, yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng khác nhau. Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg có sự phân biệt về mục tiêu đào tạo đến năm 2010, theo đó, xác định phấn đấu tỷ lệ công chức cấp xã có trình độ trung cấp trở lên đối với vùng đô thị là 95%, đồng bằng là 80% và vùng núi là 70%. Đồng thời, Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 8/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010 đặt ra mục tiêu đến năm 2010 đạt 50% công chức chuyên môn cấp xã người dân tộc thiểu số đạt trình độ trung cấp trở lên.

3.2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tư pháp địa phương không chỉ thực hiện theo những quy định chung về đào tạo, bồi dưỡng mà còn phải thực hiện những quy định riêng do các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức ban hành.

3.2.3. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho công chức tư pháp địa phương phải kết hợp giữa việc đào tạo cơ bản và bổ sung kiến thức, kỹ năng liên quan đến nghề nghiệp, công vụ mà họ đang đảm nhiệm.

Theo Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ban hành kèm theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 4/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp địa phương thì nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức bao gồm 4 khối kiến thức: Lý luận chính trị; Kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước; Kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ; Kiến thức tin học, ngoại ngữ (tiếng dân tộc đối với công chức công tác ở vùng dân tộc miền núi) và các kiến thức bổ trợ khác.

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương cần chú ý đến những đặc thù sau:

- Mang tính nghề nghiệp cụ thể: không chỉ cung cấp các kiến thức, kỹ năng về quản lý nhà nước mà còn bao gồm các kiến thức về pháp luật chuyên ngành, kỹ năng nghề nghiệp cụ thể, đạo đức, bản lĩnh chính trị đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao.

- Mang tính toàn diện: cơ cấu hợp lý giữa lý luận và thực tiễn, gắn lý thuyết với thực hành, giữa bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với nâng cao nhận thức, trách nhiệm, đạo đức của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ; bổ sung kiến thức liên quan trực tiếp đến chuyên môn nghiệp vụ đồng thời với việc bổ sung các kiến thức bổ trợ như ngoại ngữ, tin học, các kiến thức về hội nhập kinh tế, quốc tế…

- Cơ cấu chương trình và bố trí thời lượng phù hợp với từng đối tượng công chức và từng nội dung đào tạo, bồi dưỡng để bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả của việc đào tạo, bồi dưỡng và phù hợp với người học là những người đang đảm nhận công tác, chỉ có thể bố trí một thời gian nhất định cho việc học tập, nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức.

3.2.4. Hình thức thể hiện văn bằng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chủ yếu là chứng chỉ theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg. Theo đó:

+ Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương quy định, hướng dẫn sử dụng thống nhất trong phạm vi cả nước các loại chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh; các loại chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng công chức dự bị, bồi dưỡng thi nâng ngạch, chuyển ngạch; đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo cấp Vụ, cấp Sở, ban, ngành trở lên;

+ Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định và hướng dẫn sử dụng các loại chứng chỉ bồi dưỡng cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, chứng chỉ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo cấp phòng;

+ Về tổ chức in, cấp chứng chỉ cho cán bộ, công chức sau khi hoàn thành các khoá đào tạo, bồi dưỡng do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng được phân cấp đào tạo, bồi dưỡng theo nội dung nào được cấp chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng theo nội dung chương trình đó;

+ Chứng chỉ do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp theo quy định có giá trị sử dụng trong phạm vi cả nước.

3.2.5. Hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau. Đó là, phương pháp thuyết trình, phương pháp hướng dẫn thảo luận, phương pháp tình huống, phương pháp song giảng:

Trong lĩnh vực tư pháp, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng đa dạng, phong phú, thuộc các cơ quan thuộc các cấp hành chính khác nhau, ở các vùng miền khác nhau và có trình độ khác nhau. Cùng với đó là yêu cầu của công tác tư pháp luôn đòi hỏi công chức phải chủ động, sáng tạo trong việc triển khai nhiệm vụ, áp dụng chính xác các quy định của pháp luật vào thực tiễn sinh động. Do đó, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương phải là những phương pháp rèn luyện và tạo ra được sự chủ động cho người học, không chỉ tiếp nhận kiến thức mà còn có khả năng vận dụng kiến thức trong công việc, áp dụng và giải quyết các tình huống cụ thể. Các phương pháp được ưu tiên lựa chọn như phương pháp tạo tình huống, phương pháp song giảng, hình thành các nhóm, giao chuyên đề nghiên cứu…

II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng

1.1. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch

Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương là việc xác định các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức một cách tổng thể, toàn diện trong một thời gian dài nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ quan tư pháp nói riêng, ngành tư pháp nói chung và yêu cầu về tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tư pháp trong tương lai.

Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương là việc xác định các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng với mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cụ thể và cách thức tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu đó trong thời gian nhất định, có thể là ngắn hạn dưới 1 năm, trên 1 năm hoặc trong nhiều năm.

1.1.1. Thẩm quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

Thẩm quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định như sau:

- Đối với đội ngũ công chức thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã, theo quy định tại Điều 25 Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, Điều 3 Nghị định số 117/2003/NĐ-CP Sở Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với Sở Nội vụ nghiên cứu, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình UBND cấp tỉnh quyết định;

- Đối với đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự địa phương, theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 thì Bộ Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền quản lý và thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức cơ quan thi hành án. Tại Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005, khoản 9 Điều 2 quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp xây dựng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao trình độ, năng lực của công chức các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.

Bên cạnh đó, cũng theo Nghị định số 117/2003/NĐ-CP, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý ngạch công chức chuyên ngành tư pháp (Điều 43) và xác định Bộ quản lý các ngạch công chức chuyên ngành có nhiệm vụ quy định nội dung, chương trình, phương thức và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng các ngạch công chức chuyên ngành (Điều 44).

1.1.2. Thực trạng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của ngành tư pháp

a) Công tác xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng

Kết quả khảo sát công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành tư pháp trong 5 năm qua cho thấy số lượng cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ngày một đông về số lượng, đa dạng về đối tượng, nội dung và hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Do đó, để công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp có hiệu quả, bảo đảm chất lượng, tránh chồng chéo, chắp vá, mang tính tình thế thì việc xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và quy hoạch đào tạo bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương nói riêng là việc hết sức cần thiết, đặc biệt là trước yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp giai đoạn 2006-1010.

Tuy nhiên, thực tế, công tác xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm thực hiện đúng mức. Hầu hết các cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa xây dựng được quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp thuộc phạm vi quản lý một cách hoàn chỉnh. Bộ Tư pháp cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp. Điều này dẫn đến tình trạng đào tạo, bồi dưỡng phân tán, tự phát, tuỳ tiện, chắp vá, lãng phí về sức người, sức của và thời gian của cán bộ, công chức, làm giảm chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.

b) Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 10/2001/CT-TTg ngày 19/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số  874/TTg và Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 7/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, Bộ Tư pháp đã xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn của ngành tư pháp như Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp giai đoạn 2001 - 2005, Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp giai đoạn 2006 - 2010. Các kế hoạch dài hạn này là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm của Bộ Tư pháp.

Trên cơ sở kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn, Bộ trưởng giao cho Vụ Tổ chức cán bộ phối hợp với Học viện Tư pháp và các đơn vị có liên quan tổ chức triển khai xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong từng năm để trình Bộ trưởng xem xét, gửi các cơ quan có thẩm quyền quyết định. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp này được xây dựng căn cứ vào nhu cầu cụ thể của các đơn vị thuộc Bộ và Sở Tư pháp cấp tỉnh. Kế hoạch xác định cụ thể các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng sẽ triển khai trong năm như mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, thời gian, địa điểm tổ chức và dự trù kinh phí cho từng hoạt động (ví dụ kinh phí tổ chức lớp, kinh phí xây dựng chương trình, tài liệu, kinh phí khảo sát,…) cũng như trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong triển khai thực hiện.

Ở địa phương, thực hiện Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg và đặc biệt là sau khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban hành, công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đã có nhiều tiến bộ và được quan tâm hơn trước. Kết quả khảo sát năm 2005 tại 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Sở Tư pháp đã phối hợp với Sở Nội vụ trong việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức thuộc phạm vi quản lý của đơn vị trình UBND cùng cấp phê duyệt và tổ chức triển khai các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch đã được phê duyệt. Các kế hoạch này có thể được xây dựng độc lập hoặc lồng ghép với chương trình công tác chung của ngành tại địa phương và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chung của cán bộ địa phương.

1.2. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng

Theo quy định tại Điều 4 Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg thì đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm 4 nội dung sau: (i) Lý luận chính trị; (ii) Kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước; (iii) Kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ; (iv)  Kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác.

Thực hiện Quyết định số 874/QĐ-TTg về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước, nhất là sau khi có Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức 2001 - 2005 và Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ công tác hội nhập kinh tế quốc tế, trong 5 năm qua, các Sở Tư pháp đã phối hợp với Sở Nội vụ, Trường Chính trị và các cơ quan có liên quan tập trung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cả 4 nội dung trên.

1.3. Chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng

1.3.1. Chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh

Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên của các vùng miền, yêu cầu tiêu chuẩn chức danh và yếu tố lịch sử để lại nên đội ngũ công chức tư pháp địa phương có đặc thù là không đồng đều về chất lượng trên cả nước và ở các cấp hành chính. Vì vậy, thời gian qua, chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo được xây dựng dành cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương không chỉ bao gồm chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo để nâng cao trình độ như các ngành nghề khác mà còn tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện các chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo để đáp ứng với tiêu chuẩn chức danh (trung cấp Luật) dành cho đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã và chương trình đào tạo nghề.

a) Đào tạo trung học Luật

Ngày 17/12/2003, Hiệu trưởng trường Đại học Luật Hà Nội có Quyết định số 1714/QĐ ban hành chương trình đào tạo trung học Luật mới áp dụng cho các khóa đào tạo trung học chuyên nghiệp chuyên ngành Luật của Trường từ năm 2003 trở đi.

Cấu trúc của chương trình gồm:

+ 32 môn học trong tổng số thời gian 1.520 tiết được áp dụng cho tất cả các loại hình đào tạo chính quy và tại chức. Trong đó, khối kiến thức đại cương là 30 đơn vị học trình, chiếm 2% thời lượng chương trình; khối kiến thức chuyên nghiệp là 70 đơn vị học trình, chiếm 4,6% thời lượng chương trình. Cơ cấu giữa giảng lý thuyết và thực hành là 735 giờ giảng và 295 giờ thực hành.

+ Đối với những học viên dự tuyển mới có bằng văn hoá trung học cơ sở thì ngoài môn học của chương trình trên còn phải học thêm các môn văn hoá gồm 4 môn (Toán, Văn - Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý) với thời lượng 1.200 tiết và phải thi tốt nghiệp cả 3 môn văn hoá (Văn - Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý).

b) Đào tạo nghề

- Đào tạo công chứng viên: được thực hiện tại Học viện tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Chương trình đào tạo công chứng viên khoá 5 năm 2005 như sau:

+ Tổng thời lượng đào tạo là 514 tiết, tương đương 4 tháng;

+ Cấu trúc chương trình gồm 2 phần: phần chung về công chứng và nghề công chứng với 15 nội dung đào tạo, trong thời gian 120 tiết; phần kỹ năng công chứng với 18 nội dung đào tạo trong thời gian 396 tiết.

+ Nội dung cơ bản của chương trình: tập trung vào nghiệp vụ, kỹ năng công chứng, pháp luật liên quan đến công chứng và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp công chứng.

- Đào tạo chấp hành viên: được thực hiện tại Học viện Tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Chương trình đào tạo chấp hành viên khoá 4 như sau:

+ Tổng thời lượng: 654 tiết, tương đương với 6 tháng.

+ Cấu trúc chương trình gồm 2 phần: Phần chung: 162 tiết, chiếm 24,7% tổng thời lượng chương trình. Phần này tập trung vào các vấn đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên. Phần kỹ năng, nghiệp vụ thi hành án với 18 nội dung đào tạo trong thời gian 396 tiết, chiếm 61% tổng thời lượng chương trình.

Giáo trình đào tạo chấp hành viên và công chứng viên do Học viện Tư pháp chủ trì biên soạn, trên cơ sở các bài giảng của giảng viên, có nghiên cứu, chỉnh lý sau mỗi khoá đào tạo cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và trình độ đầu vào của đối tượng đào tạo.

1.3.2. Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức

1.3.2.1. Bồi dưỡng cập nhật chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật mới

Tài liệu bồi dưỡng thường là tập hợp các bài nghiên cứu của các chuyên gia pháp luật, các nhà quản lý trong lĩnh vực chuyên môn có tham gia trực tiếp vào Ban soạn thảo, tổ soạn thảo hoặc nghiên cứu, theo dõi, quản lý trong lĩnh vực đó. Đa số các tài liệu bồi dưỡng mang tính nội bộ, phi lợi nhuận và phát miễn phí cho học viên như tài liệu nghiên cứu Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, tài liệu tập huấn Bộ luật dân sự, tài liệu bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế…

1.3.2.2. Bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ

Trong thời gian qua, với vai trò là quản lý, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các đơn vị chức năng tiến hành biên soạn các chương trình, tài liệu đào tạo nghề và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cần thiết cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Các chương trình đào tạo nghề mang tính mở, có sự bổ sung, sửa đổi, chỉnh lý sau mỗi khoá đào tạo cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong từng thời kỳ cũng như thực trạng trình độ của học viên. Đến nay, có 15 chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được xây dựng những nội dung quản lý chuyên ngành như chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng; bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý… Cùng với việc xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo từng lĩnh vực công tác chuyên môn, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức theo từng vùng, miền và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương đã được xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả như Chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp huyện năm 2003, Chương trình đào tạo trung cấp Luật cho cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã năm 2002, Chương trình đào tạo trung cấp Luật cho cán bộ tư pháp - hộ tịch năm 2004, Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã vùng Tây Nguyên. Đây là những tài liệu quan trọng không chỉ phục vụ cho công tác giảng dạy - học tập mà còn là những cẩm nang giúp cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương khai thác, sử dụng trong quá trình giải quyết công việc.

1.3.2.3. Bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý

Hiện nay, chương trình bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý mới chủ yếu tập trung vào việc bồi dưỡng kiến thức về lý luận chính trị và quản lý nhà nước do Học viện chính trị và Bộ Nội vụ đảm nhiệm việc xây dựng chương trình, tài liệu. Bộ Tư pháp vẫn chưa xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực tư pháp.

Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao cho ngành tư pháp, năm 2004, Bộ Tư pháp đã thí điểm xây dựng chương trình và tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý trong lĩnh vực chuyên ngành cho các Giám đốc Sở mới được bổ nhiệm. Chương trình tập trung chủ yếu vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành tư pháp và chức trách của Giám đốc Sở Tư pháp trong triển khai nhiệm vụ.

1.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức bổ trợ

Theo quy định tại Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg, cấu trúc nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị do Bộ Nội vụ phối hợp với Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn. Cấu trúc nội dung chương trình đào tạo kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác theo tiêu chuẩn ngạch do Bộ Giáo dục và đào tạo quy định.

Qua khảo sát ý kiến đánh giá của 500 công chức đã được đào tạo về lý luận chính trị chương trình cử nhân và quản lý nhà nước chương trình chuyên viên thì 80% số người được hỏi cho rằng có nhiều nội dung trùng lặp giữa 2 chương trình này về lý luận nhà nước và pháp luật, về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, về soạn thảo văn bản… đặc biệt là đối với công chức tư pháp thì những kiến thức này đã được giảng dạy trong chương trình đào tạo Đại học Luật hoặc trung cấp Luật.

1.4. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng

Các hình thức cơ bản tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là tập trung, bán tập trung và tại chức. Tuỳ từng đối tượng đào tạo với yêu cầu về mục tiêu, nội dung và thời gian đào tạo, bồi dưỡng khác nhau, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiên cứu lựa chọn hình thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng thích hợp, bảo đảm chất lượng và hiệu quả của các khoá đào tạo, bồi dưỡng. Hiện nay, 100% các khoá đào tạo nghề được thực hiện tại Học viện Tư pháp theo hình thức đào tạo chính quy tập trung với thời lượng 6 tháng đối với đào tạo nghề chấp hành viên, 4 tháng đối với đào tạo nghề công chứng viên.

Việc đào tạo trung học pháp lý cho công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã được tiến hành theo hình thức đào tạo chính quy tập trung và đào tạo tại chức không chính quy. Khảo sát thực tế công tác đào tạo công chức tư pháp địa phương trong thời gian cho thấy 97% các cơ sở đào tạo, các cơ quan tiến hành công tác đào tạo, bồi dưỡng và đa số học viên khẳng định việc đào tạo, theo hình thức tập trung bảo đảm chất lượng, hiệu quả hơn so với hình thức đào tạo tại chức.

Trong thời gian gần đây, các lớp trung học Luật do trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh phối hợp với địa phương mở. Ngoài ra, một số tỉnh như Thanh Hoá, Nghệ An, Hải Phòng, Thái Bình đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép mở các lớp đào tạo trung cấp Luật tại các trường chính trị của tỉnh để kịp thời đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu công tác tư pháp địa phương,

1.5. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng

Trong thời gian qua, trong công tác giảng dạy, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương, chúng ta vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống là thuyết trình. Đến nay, chúng ta đã đưa thêm phương pháp đàm thoại vào giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của người học. Tuy nhiên, hiệu quả của các phương pháp giảng dạy này đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương vẫn chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và thấu đáo. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số hạn chế nổi bật của phương pháp đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua:

- Mới chỉ đổi mới phương pháp dạy mà chưa tập trung đến đổi mới phương pháp học;

- Phương pháp đào tạo chậm được đổi mới, thích ứng với yêu cầu nâng cao chất lượng và năng lực công tác của đội ngũ công chức tư pháp địa phương;

- Các phương pháp dạy còn mang nặng tính lý thuyết, chưa gắn lý thuyết với thực hành, chưa gây hứng thú, cuốn hút học viên, thiếu các tình huống cụ thể, phát sinh từ thực tiễn công tác;

- Phương pháp học của học viên còn mang tính thụ động, thiếu tính sáng tạo;

- Hầu hết giảng viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Vấn đề nghiên cứu, lựa chọn và ứng dụng phương pháp đào tạo trong lĩnh vực tư pháp còn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ.

1.6. Giảng viên

- Giảng viên tham gia đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương

Bộ Tư pháp huy động một số lượng lớn giảng viên tham gia vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, bao gồm:

+ Giảng viên cơ hữu của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng như giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp.

+ Giảng viên kiêm chức là các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý đang công tác ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Tuy chưa được đào tạo sâu về phương pháp sư phạm nhưng họ là những công chức có trình độ sâu về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp.

- Tăng cường năng lực cho đội ngũ giảng viên:

+ Tăng cường số lượng, trong 5 năm qua, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp tuyển dụng thêm 75 công chức là cán bộ trẻ, có trình độ, năng lực bổ sung thêm lực lượng giảng viên cơ hữu của ngành; khuyến khích, phát huy tối đa sự tham gia vào công tác giảng dạy chuyên môn, nghề nghiệp của các chuyên gia pháp luật, các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà quản lý có trình độ chuyên sâu, có kinh nghiệm thực tiễn trong các lĩnh vực xây dựng, thẩm định và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, thi hành án dân sự, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, phổ biến giáo dục pháp luật…

+ Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên: Hàng năm, Bộ Tư pháp đã giới thiệu được 10% giảng viên đi đào tạo chuyên sâu và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở trong nước và nước ngoài theo quy định tại Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg.

1.7. Cơ sở vật chất - kỹ thuật

Việc đào tạo Trung học Luật do trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thực hiện và đào tạo nghề do Học viện Tư pháp thực hiện và một số chương trình đào tạo về lý luận chính trị và hành chính nhà nước là do Học viện Hành chính quốc gia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hoặc các trường Chính trị tỉnh thực hiện. Đây là các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, có phòng học và các trang thiết bị giảng dạy cần thiết. Đặc biệt đối với Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp là những cơ sở giảng dạy đang sử dụng những trang thiết bị hiện đại vào công tác giảng dạy.

Tuy nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu. Để đào tạo một số lượng lớn công chức như hiện nay, cơ sở vật chất của Học viện Tư pháp đang bị quá tải, phải học theo ca, học buổi tối. Những khoá đào tạo được tiến hành tại địa phương thì hầu như học viên không được tiếp cận với những trang thiết bị giảng dạy cần thiết, chủ yếu vẫn là các hình thức giảng dạy truyền thống. Đối với những khoá bồi dưỡng nghiệp vụ, bao gồm cả những khoá do Bộ Tư pháp tổ chức thì đa số phải đi thuê hội trường, phòng học hoặc được thực hiện tại các hội trường của cơ quan là các phòng họp, hội nghị, hội thảo. Đây không phải là những địa điểm phù hợp, chuyên dành cho công tác giảng dạy nên việc bố trí, sắp xếp, sử dụng các trang thiết bị rất hạn chế.

2. Đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

2.1. Đánh giá

2.1.1. Ưu điểm

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để đáp ứng với yêu cầu thực thi nhiệm vụ, công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong những năm qua đã được đầu tư, tăng cường hơn trước. Điều này được thể hiện như sau:

- Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương đã quan tâm hơn đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Trên cơ sở đề xuất nhu cầu của các đơn vị thuộc Bộ, Bộ Tư pháp đã xây dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Bộ hàng năm để trình Bộ Nội vụ xem xét, phê duyệt. Theo báo cáo của 47 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cho đến đầu năm 2006, 75% Sở Tư pháp đã phối hợp cùng với Sở Nội vụ để xây dựng trình UBND cấp tỉnh phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu triển khai nhiệm vụ công tác tư pháp. Hàng năm, cùng với việc tổng kết, đánh giá tình hình công tác chung thì Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp cũng đã tiến hành đánh giá kết quả, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng làm cơ sở để đề ra kế hoạch cho năm sau.

- Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng được nghiên cứu, cải tiến phù hợp với thực trạng trình độ của từng loại công chức và nhằm đáp ứng được với yêu cầu của đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng.

- Phương pháp đào tạo đang được đổi mới với sự kết hợp với các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng tích cực, lấy người học làm trung tâm và lấy tình huống thực tế làm nền tảng cho việc nghiên cứu dạy và học.

- Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương đã bước đầu quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.

- Kết quả đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian 5 năm (2001-2005)

Đến cuối năm 2005, Bộ Tư pháp đã tổ chức được 5 khoá đào tạo công chứng viên với tổng số 245 người; 4 khoá đào tạo chấp hành viên, với tổng số 490 người.

 +  Đào tạo trung học Luật do Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện từ năm 2001 đến nay là 67 lớp với số lượng 2.948 người đã tốt nghiệp; hiện nay còn hơn 30 lớp đang học với số lượng trên 3.000 người. Đối tượng học chủ yếu là cán bộ chính quyền cơ sở, cán bộ tư pháp và cán bộ nguồn cho cấp xã.

+ Số lượng các lớp bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ do Bộ Tư pháp tổ chức cho công chứng viên là 6 lớp với tổng số 609 lượt người, bồi dưỡng nghiệp vụ cho chấp hành viên là 14 lớp với tổng số 2.024 lượt người (bảng2); tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và cập nhật văn bản mới cho 1.785 lượt công chức tư pháp địa phương (bảng 3). Ngoài ra, hàng năm các Sở Tư pháp đều tổ chức các lớp tập huấn văn bản mới và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp của địa phương về lĩnh vực soạn thảo văn bản, đất đai, nghiệp vụ hoà giải ở cơ sở, thi hành án ở xã, phường, thị trấn…

2.1.2. Hạn chế

Bên cạnh ưu điểm và những kết quả làm được, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương cũng bộc lộ những hạn chế như sau:

- Sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp và chính quyền địa phương đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương chưa kịp thời, đầy đủ.

- Phân công, phân cấp trách nhiệm trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương chưa cụ thể, rõ ràng và được thực hiện triệt để.

Trách nhiệm bồi dưỡng cán bộ, công chức giữa cấp tỉnh và cấp huyện chưa rõ ràng. Ví dụ Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ xác định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là xây dựng nội dung, chương trình, bồi dưỡng cập nhật nâng cao trình độ; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (Điều 25 Khoản 8), trong khi đó cũng xác định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp huyện là tổ chức việc bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Bên cạnh đó, theo các quy định của pháp luật về phân cấp trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thì các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành và địa phương. Kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng được đưa về các cấp phù hợp với đối tượng quản lý. Tuy nhiên, do điều kiện của nhiều địa phương còn khó khăn, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo nên việc sử dụng kinh phí cho mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn hạn chế, chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Trách nhiệm của cơ quan quản lý và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng chưa được quy định một cách rành mạch, rõ ràng. Ví dụ như tại Quyết định số 23/2004/QĐ -TTg ngày 25/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Học viện Tư pháp có giao cho Học viện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với các chức danh tư pháp. Trong khi đó Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ xác định Cục Thi hành án dân sự có nhiệm vụ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho chấp hành viên và công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự địa phương (Điều 6). Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 14/1/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý giao cho Cục Trợ giúp pháp lý thực hiện việc cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.

- Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được với mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng công chức theo kế hoạch chung của Chính phủ.

- Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng dành cho cán bộ, công chức chưa được xây dựng thống nhất, có hệ thống và phù hợp với đặc thù của ngành tư pháp.

- Đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng được với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.

- Cơ sở vật chất, kinh phí tuy đã được quan tâm hơn trước nhưng nhìn chung còn thấp, các nội dung thực chi cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế.

2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

- Nhận thức về vị trí vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương và về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức nói chung trong đó có đội ngũ công chức tư pháp của các cấp bộ, ngành và chính quyền địa phương có lúc, có nơi chưa đầy đủ, thống nhất. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng được coi là một dạng chi phí tốn kém, chỉ được quan tâm mà chưa được coi như là một giải pháp ưu tiên, then chốt cho việc nâng cao chất lượng cán bộ với chiến lược dài hơi, đồng bộ và có chủ định. Các địa phương có chương trình, kế hoạch đào tạo nhưng nội dung cũng như việc triển khai chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp của các cơ quan có liên quan, hỗ trợ, tạo điều kiện cần thiết để công tác đào tạo, bồi dưỡng đạt mục tiêu và hiệu quả.

- Chưa xây dựng được quy hoạch đội ngũ công chức ngành tư pháp và đội ngũ công chức tư pháp địa phương làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng.

- Mặc dù trong những năm gần đây, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được nâng lên một bước nhưng nhìn chung chưa theo kịp với những yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao. Trình độ của đội ngũ công chức không đồng đều, điều kiện từng vùng, miền, tỉnh, thành phố lại khác nhau, do đó ảnh hưởng đến không chỉ việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng mà còn ảnh hưởng tới cả việc xây dựng được nội dung, chương trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy, giảng viên để không chỉ bảo đảm cung cấp được những kiến thức cơ bản theo yêu cầu mà còn giải quyết, bổ sung được những kiến thức cụ thể, phù hợp với từng nơi và từng đối tượng.

- Cơ chế quản lý chưa hiệu quả: Các văn bản quy định về quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương thiếu tập trung, thống nhất và chậm được đổi mới. Hiện tại, có hàng chục văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức địa phương. Việc hệ thống hoá và pháp điển hoá các quy phạm này còn chưa được quan tâm đúng mức. Mô hình và cơ chế đào tạo trung cấp Luật của Bộ Tư pháp đưa ra tại Công văn số 1474/TP-TCCB ngày 12/10/1998 đã có những thay đổi về nội dung, hình thức, phương pháp với mục tiêu và yêu cầu cao hơn, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản khác phù hợp hơn thay thế.

Các cơ quan quản lý về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng chưa xây dựng được phương pháp và chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; một số cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng mới chú trọng đến việc tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng mà chưa coi trọng đến việc tổ chức đánh giá chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng.

III. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

1. Mục tiêu

Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức tư pháp địa phương có trình độ chuyên môn, thạo kỹ năng nghiệp vụ, có năng lực quản lý, điều hành, thực thi công vụ, trong sạch, vững mạnh, chính quy, chuyên nghiệp, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho ngành tư pháp trong giai đoạn cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập kinh tế, quốc tế.

Mục tiêu cụ thể

a) Đối với công chức cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện và cơ quan thi hành án dân sự địa phương

- Trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng công vụ, kiến thức lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học cho công chức cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện. Phấn đấu đến năm 2010, 100% công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, huyện được trang bị kiến thức đáp ứng tiêu chuẩn chức danh theo quy định.

- Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý đương chức. Phấn đấu đến năm 2010, 100% lãnh đạo cấp Sở, Phòng Tư pháp, Thi hành án dân sự cấp tỉnh, huyện được trang bị kỹ năng lãnh đạo quản lý và kỹ năng phối hợp xử lý những vấn đề có tính chất liên ngành.

- Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cho công chức dự nguồn bổ nhiệm công chứng viên, chấp hành viên trước khi bổ nhiệm.

- Đến năm 2010, 100% công chức tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện được bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật, trang bị thông tin, những kiến thức về hội nhập, trong đó chú trọng bồi dưỡng cho công chức tại các cơ quan tư pháp cấp tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm- nơi tập trung các quan hệ dân sự, kinh tế có yếu tố nước ngoài.

b) Đối với công chức tư pháp - hộ tịch

 Đến năm 2010, 100% công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức bổ trợ theo quy định, trong đó, số công chức có trình độ trung cấp luật tại các vùng đô thị, đồng bằng, vùng núi có tỉ lệ tương ứng là 95%, 80% và 70%. Chú trọng bồi dưỡng tiếng dân tộc cho công chức tư pháp hộ tịch ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa có trên 50% đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

2. Yêu cầu

Đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch trong khuôn khổ chiến lược phát triển nguồn nhân lực của ngành tư pháp và tiêu chuẩn của từng chức danh công chức. Trong đó, quy hoạch đào tạo gắn với quy hoạch công chức lãnh đạo quản lý và công chức chuyên môn nghiệp vụ.

Đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện một cách hệ thống, khoa học, tập trung vào kỹ năng, nghiệp vụ, trên cơ sở năng lực làm việc của cán bộ với nhu cầu, mục tiêu học tập cụ thể, rõ ràng; đào tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và kiểm tra, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đã được đào tạo, bồi dưỡng.

Đổi mới nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương trên cơ sở nhu cầu và đặc thù của từng đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng, có tính đến yếu tố vùng miền và các đặc điểm kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo có chất lượng và đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực chuyên môn và có phương pháp tốt.

Thay đổi nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền ở địa phương về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp trong định hướng phát triển nguồn nhân lực của địa phương. Đẩy mạnh phân cấp, xác định cụ thể trách nhiệm quản lý và thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương cho các cơ quan tư pháp địa phương và các cơ sở đào tạo.

3. Giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

3.1. Hoàn thiện chính sách quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng

3.1.1. Rà soát hiệu lực các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công chức tư pháp nói riêng. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp tiến hành xem xét các văn bản trong phạm vi thẩm quyền trực tiếp sửa đổi hoặc kiến nghị các cơ quan chức năng thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung những văn bản không đáp ứng yêu cầu thực tiễn, xây dựng, ban hành những văn bản mới về quản lý đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công chức tư pháp nói riêng trong đặc thù tình hình cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập hiện nay.

3.1.2. Phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng

Phân định rõ trách nhiệm giữa cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng (Bộ Tư pháp, UBND cấp tỉnh, huyện) với cơ quan trực tiếp thực hiện hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhằm tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể như sau:

- Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành chức năng thực hiện quản lý vĩ mô, tập trung vào việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch; phân bổ chỉ tiêu, kinh phí và hướng tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng; Bộ Tư pháp trực tiếp xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng cho giảng viên và chương trình, tài liệu khung bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương thống nhất trong toàn quốc; tổ chức các lớp bồi dưỡng cho cán bộ thuộc phạm vi quản lý, tổ chức các lớp bồi dưỡng điểm và hướng dẫn Sở Tư pháp triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng.

- Các cơ quan tư pháp địa phương trên cơ sở quy định về phân cấp quản lý và căn cứ vào chương trình khung của Bộ Tư pháp để bổ sung, biên tập chương trình, tài liệu và trực tiếp tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ phù hợp với điều kiện, tình hình kinh tế - xã hội của địa phương.

Tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo như Học viện Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học... Tạo điều  kiện để các cơ sở này nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng.

3.1.3. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo nhằm bảo đảm tính hệ thống và sự liên thông giữa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ với đào tạo nghề, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý nhà nước và các kiến thức bổ trợ khác cho cán bộ, công chức.

3.2. Đổi mới tổ chức bộ máy các cơ quan và bố trí, sử dụng hiệu quả công chức tư pháp địa phương

3.2.1. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp địa phương theo yêu cầu nhiệm vụ được giao trên cơ sở các quy định của pháp luật và điều kiện thực tiễn của địa phương. Xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy trình làm việc để đưa hoạt động vào nề nếp, có hiệu quả.

3.2.2. Bố trí, sử dụng công chức tư pháp địa phương

 - Các địa phương có chính sách tuyển dụng những người đúng chuyên môn, nghiệp vụ, đủ tiêu chuẩn về trình độ vào làm việc tại cơ quan tư pháp. Cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện ưu tiên tuyển dụng những người có bằng cử nhân luật hệ chính quy, được đào tạo cơ bản về làm việc, tạo môi trường thuận lợi, chính sách đãi ngộ tốt... để đội ngũ này yên tâm gắn bó lâu dài với địa phương. Tư pháp cấp xã cần tuyển dụng những người đã có bằng trung học luật chuyên trách công tác tư pháp. Các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn cần có chính sách gửi học sinh các dân tộc thiểu số đi đào tạo để làm nguồn công chức tư pháp.

- Bố trí, sắp xếp những người có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác vào những vị trí công tác phù hợp, đồng thời tạo điều kiện để cán bộ, công chức có thể phát huy kiến thức, năng lực vào thực tiễn công tác.

- Tạo môi trường làm việc ổn định để đội ngũ công chức tư pháp địa phương được làm việc ổn định theo lĩnh vực chuyên trách, hạn chế việc điều động những người có chuyên môn hoặc đã qua đào tạo về chuyên môn tư pháp sang lĩnh vực khác hoặc ngược lại. Mở rộng đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp ở cấp xã để bảo đảm nguồn cán bộ thay thế khi có sự thay đổi, điều động, thuyên chuyển.

3.3. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

3.3.1. Bộ Tư pháp chỉ đạo cơ quan tư pháp cấp tỉnh thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng về số lượng, chất lượng, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương theo tiêu chí: cấp quản lý (tỉnh, huyện, xã), tiêu chí vùng miền, điều kiện kinh tế xã hội (đô thị, nông thôn, miền núi, vùng sâu xùng xa...). Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp có biện pháp kiện toàn về cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp địa phương, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức.

3.3.2. Các cơ quan tư pháp địa phương cần sớm triển khai công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nhằm khắc phục sự phối hợp chưa đồng bộ giữa ngành quản lý về chuyên môn và cấp quản lý hành chính về nhân sự, dẫn đến sự chồng chéo, thiếu ổn định và thiếu tính kế thừa trong công tác đào tạo, bồi dưỡng.

3.4. Đổi mới chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng

3.4.1. Chương trình, nội dung đào tạo chuyên môn

Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào yêu cầu thực tiễn, tiêu chuẩn cho từng cán bộ, công chức tư pháp, nhiệm vụ được giao. Trong đó, quán triệt phương châm lý luận phải gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, đảm bảo hiệu quả, thiết thực.

Chương trình đào tạo phải kết hợp trang bị kiến thức chuyên môn với việc nâng cao nhận thức về chính trị, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể của công chức. Kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ trang bị cho công chức tư pháp địa phương cần toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm tránh dàn trải, kết hợp giữa kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên ngành và kiến thức bổ trợ.

a) Đối với nội dung, chương trình đào tạo đại học

Chương trình học cần đáp ứng được yêu cầu giúp sinh viên có định hướng và có những kiến thức ban đầu để xử lý các yêu cầu công việc thực tiễn; bổ sung các kiến thức nghiệp vụ như: kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng nghiên cứu, đánh giá, phân tích, hoạch định chính sách, kỹ năng tư vấn, tranh tụng, các kiến thức về luật quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế... Những nội dung đổi mới phải được thể hiện không chỉ trong chương trình đào tạo chung mà cần được thể hiện rõ nét cả trong đào tạo chuyên ngành.

b) Nội dung, chương trình đào tạo trung cấp luật

 Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo trung cấp luật theo hướng bám sát nhu cầu thực tiễn công tác và căn cứ vào đặc điểm đối tượng học viên. Xây dựng chương trình thống nhất, trong đó bổ sung khối kiến thức về nghiệp vụ, đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành và kiến thức các lĩnh vực liên quan. Chương trình, nội dung đào tạo cần được thiết kế phù hợp giữa thời lượng đào tạo các kiến thức văn hoá chung và đào tạo chuyên môn luật.

c) Chương trình đào tạo nghề

Đới với việc đào tạo nguồn công chứng viên, chấp hành viên cần xây dựng chương trình thống nhất, tăng thời lượng đào tạo về đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng công vụ, giảm thời lượng đào tạo về kiến thức pháp luật chung do các học viên đã được đào tạo tại chương trình cử nhân, tăng thời lượng thực tập tại các địa phương có nhiều vụ việc, đội ngũ công chức có trình độ, kinh nghiệm. Những kiến thức về cập nhật văn bản mới không nên đưa vào chương trình đào tạo, học viên có thể tự trang bị phần kiến thức này thông qua các phương tiện thông tin như sách, báo, mạng internet.

3.4.2. Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ

a) Đối với đội ngũ chuyên viên pháp lý, công chứng viên, chấp hành viên

Khi xây dựng chương trình cần quán triệt tư tưởng không dạy lại những kiến thức lý luận chung mà chủ yếu tập trung vào kỹ năng, kinh nghiệm và tác nghiệp cụ thể.

Xây dựng hệ thống chương trình bồi dưỡng theo từng lĩnh vực chuyên môn như: xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, công chứng, chứng thực, hộ tịch, lý lịch tư pháp, trợ giúp pháp lý, phổ biến giáo dục pháp luật, hoà giải,... làm cơ sở để địa phương nghiên cứu các chương trình bồi dưỡng cụ thể trong từng năm.

Tiếp tục hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho công chức tư pháp làm nhiệm vụ có yếu tố nước ngoài. Trong đó đặc biệt chú trọng đến kiến thức về ngoại ngữ tin học và kiến thức về pháp luật so sánh, hệ thống pháp luật quốc tế, hệ thống pháp luật một số nước phát triển phân theo khu vực, hệ thống luật lệ, quy tắc của các tổ chức quốc tế như: WTO, WB, WHO…

b) Đối với công chức tư pháp - hộ tịch

Biên soạn, xây dựng các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế của công tác tư pháp ở địa phương (đô thị, đồng bằng, vùng núi...). Xây dựng chương trình bồi dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ, sinh viên khi ra trường chuẩn bị đến vùng dân tộc mà mình được phân công công tác để có phương tiện giao tiếp đảm bảo hiệu quả trong công việc.

3.4.3. Giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng

Hoàn thiện chương trình khung, tài liệu chung, thống nhất về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho từng loại đối tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn địa phương xây dựng chương trình, tài liệu phù hợp với đặc điểm của địa phương. Từng địa phương sẽ căn cứ vào chương trình khung đó để nghiên cứu xây dựng giáo trình, tài liệu phù hợp với đặc điểm đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của mình.

Xây dựng, phát hành các tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ, hệ thống văn bản về từng lĩnh vực chuyên môn, sách hướng dẫn nghiệp vụ, cẩm nang.... coi đây là một kênh thông tin quan trọng mà công chức tư pháp địa phương có thể tham khảo, tìm hướng dẫn khi giải quyết các vấn đề thực tiễn công việc.

3.5. Đa dạng hoá hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng

3.5.1. Hình thức đào tạo

Đặc điểm của công chức tư pháp địa phương là đối tượng vừa học vừa làm, phần lớn đã được qua đào tạo cơ bản chương trình cử nhân, trung cấp luật. Vì vậy, căn cứ vào đặc điểm của từng nhóm đối tượng công chức tư pháp địa phương, trên cơ sở các yếu tố liên quan như: chức trách, nhiệm vụ, trình độ chuyên môn, điều kiện kinh tế xã hội và yếu tố vùng miền của địa phương nơi công chức đang công tác. Các lớp đào tạo, bồi dưỡng không tập trung, ngắn hạn, các buổi tham quan khảo sát, học hỏi kinh nghiệm giữa các địa phương với nhau sẽ phù hợp và có hiệu quả hơn đối với tượng công chức tư pháp. Đối với các vùng núi, vùng sâu, vùng kinh tế khó khăn, chúng ta có thể phối hợp với các cơ sở đào tạo ở địa phương tổ chức các lớp đào tạo tại chỗ. Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp có thể hỗ trợ về giáo trình, tài liệu, giảng viên... địa phương sẽ đảm bảo địa điểm và chỗ ăn, ở cho học viên.

Đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết qủa đào tạo bồi dưỡng. Sau mỗi chương trình học, việc kiểm tra cần được đặc biệt chú trọng, đảm bảo nghiêm túc và thực chất, sát nội dung, chương trình và thể hiện rõ nhất chất lượng học tập của học viên.

Hình thức gửi công chức đi đào tạo tại một số quốc gia phát triển cần được xem xét và mạnh dạn áp dụng đối với những công chức tư pháp là chuyên viên chính trở lên hoặc công chức là nguồn quy hoạch cán bộ - những người trẻ, được đào tạo cơ bản và có khả năng ngoại ngữ.

3.5.2. Phương pháp đào tạo

Các cơ sở đào tạo và giảng viên cần thay đổi phương pháp đào tạo theo hướng hạn chế áp dụng phương pháp độc thoại, thuyết trình, tăng cường các phương pháp bồi dưỡng tích cực lấy người học làm trung tâm và lấy tình huống thực tiễn làm nền tảng cho việc nghiên cứu dạy và học.

Phương pháp song giảng, phương pháp thảo luận và phương pháp tình huống cần được ưu tiên áp dụng. Phương pháp thuyết trình truyền thống cũng cần được đổi mới, tăng cường sự hỗ trợ của khoa học công nghệ để các bài giảng, thuyết trình trở nên hấp hẫn, lôi cuốn người học.

3.6. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên

- Tiến hành khảo sát, nắm thực trạng về số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên bao gồm cả giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng...Trên cơ sở đó có kế hoạch phát triển số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cơ hữu tại các trường Đại học Luật, Học viện Tư pháp bằng cách tuyển dụng, tiếp nhận hoặc gửi đi đào tạo những người có trình độ chuyên môn, có năng lực nghiên cứu, phương pháp giảng dạy tốt. Thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và các kiến thức chuyên ngành cho đội ngũ giảng viên này. Đồng thời tăng kiến thức thực tiễn của họ bằng cách tổ chức đi thực tế, khảo sát tại các địa phương trong cả nước.

Phát triển đội ngũ giảng viên kiêm chức tại các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh từ nguồn các công chức có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong quản lý và thực thi công tác tư pháp địa phương. Hàng năm tổ chức các lớp tập huấn về nội dung, chương trình, tài liệu và phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên, báo cáo viên kiêm nhiệm này.

Quy định việc tham gia đào tạo bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương như một nhiệm vụ bắt buộc đối với những người có trình độ, có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có thâm niên công tác tại các cơ quan tư pháp Trung ương và địa phương.

- Cải tiến chế độ chính sách đối với giảng viên đặc biệt là những người tham gia giảng dạy, bồi dưỡng cho công chức tư pháp ở các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa điều kiện ăn ở đi lại khó khăn.

- Các địa phương cần có kế hoạch xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên từ nguồn các công chức được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn sâu và có kinh nghiệm thực tiễn vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương mình. Có kế hoạch đưa đội ngũ công chức này đi đào tạo, tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và thường xuyên cập nhật các văn bản, kiến thức, kỹ năng mới.

- Các địa phương cần chủ động trong việc mời giảng viên thỉnh giảng từ các cơ quan tư pháp, cơ sở đào tạo để giảng dạy tại các lớp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương mình. Có chính sách và chế độ đãi ngộ phù hợp về thù lao, tạo điều kiện thuận lợi trong bố trí, sắp xếp công việc cho những công chức kiêm nhiệm công tác giảng dạy.

- Tranh thủ thu hút sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế hoạt động ở các lĩnh vực liên quan, vận động các chuyên gia uy tín của một số nước trên thế giới đang hoạt động ở Việt Nam và ở địa phương tham gia vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, đặc biệt là bồi dưỡng cho các công chức đang thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hội nhập. Tranh thủ sự ủng hộ của cấp uỷ và chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện gửi các bộ, công chức đi đào tạo ở nước ngoài.

3.7. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, đảm bảo nguồn kinh phí đào tạo, thường xuyên cho công chức tư pháp địa phương.

4. Một số kiến nghị

Xuất phát từ thực trạng đội ngũ công chức tư pháp địa phương và thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức này; trên cơ sở phương hướng và các biện pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương theo tinh thần cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị cụ thể như sau:

4.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

- Kết hợp với việc phân cấp quản lý cán bộ, công chức và phân cấp về tài chính, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản quy định việc phân công, phân cấp và tạo cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan ở Trung ương và địa phương về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp.

- Để đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020 và tạo lập đồng bộ khuôn khổ pháp luật cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức địa phương trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm xây dựng định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó có đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể, thống nhất và phù hợp với tình hình thực tiễn về các chế độ đãi ngộ, thù lao cho giảng viên, các mức chi phí cho việc xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu, quyền lợi và nghĩa vụ của công chức được cử đi học, hoàn thiện cơ chế đánh giá chất lượng và quy định chế độ đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với công chức tư pháp địa phương, ban hành Quy chế cấp phát và sử dụng chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức… Ngoài ra, trong phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan cần sớm nghiên cứu và quy định chế độ khuyến khích công chức đi học tập, bố trí sắp xếp công việc phù hợp sau khi công chức được đào tạo, bồi dưỡng, có chế độ ưu tiên trong bổ nhiệm, đề bạt những đối tượng đã được đào tạo, bồi dưỡng,…

- Xây dựng văn bản quy định cụ thể hoá tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với công chức tư pháp địa phương, đặc biệt tiêu chuẩn này phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, xây dựng chế độ thu hút những người có trình độ, năng lực về công tác tại các cơ quan tư pháp địa phương, đặc biệt cần quan tâm, tăng cường cho các cơ quan tư pháp ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

4.2. Rà soát, đánh giá đội ngũ công chức tư pháp địa phương, xây dựng quy hoạch cán bộ và quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương

Sở Tư pháp cần tăng cường phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính, các Trường chính trị tỉnh, các Trung tâm giáo dục thường xuyên và tranh thủ sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc triển khai tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.

4.3. Khẩn trương đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương

Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan trong phạm vi thẩm quyền của mình sớm triển khai xây dựng, hoàn thiện và ban hành nội dung chương trình khung, giáo trình, tài liệu thống nhất áp dụng cho từng loại đối tượng người học phù hợp với yêu cầu, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Căn cứ nội dung chương trình khung, giáo trình và tài liệu đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở địa phương cần nghiên cứu các vấn đề thực tiễn cụ thể ở địa phương mình để tiến hành tổ chức bồi dưỡng với hình thức phù hợp cho đội ngũ công chức này sao cho những kiến thức cung cấp cho học viên được đảm bảo một cách hợp lý giữa lý luận và thực tiễn.

Bên cạnh đó, cần đa dạng và đổi mới đồng bộ các phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với đặc điểm tình hình công tác của đội ngũ công chức tư pháp địa phương.

4.4. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, giảng viên kiêm chức tham gia giảng dạy

Trước mắt, để xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên này, các cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện một số biện pháp sau:

- Bổ sung, điều tiết biên chế và chất lượng biên chế cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đang thiếu giảng viên;

- Tổ chức thí điểm những khoá đào tạo ngắn hạn cho giảng viên theo những nội dung mang tính phương pháp giảng dạy và chương trình học về kỹ năng;

- Xây dựng, bổ sung chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên và có cơ chế thu hút những người có năng lực, trình độ;

- Đầu tư thoả đáng cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết phục vụ cho việc dạy và học;

- Tiếp tục tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng; có cơ chế phù hợp để các địa phương có thể hợp tác đào tạo, bồi dưỡng và công chức tư pháp địa phương có nhiều người được tham gia đào tạo, bồi dưỡng để nghiên cứu, học tập kiến thức, kinh nghiệm có chọn lọc của nước ngoài.

Đặc biệt, Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần tích cực, chủ động và quan tâm chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ giảng viên kiêm chức đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có phương pháp sư phạm để có thể chủ động thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho công chức tư pháp địa phương.

4.5. Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp với cấp uỷ Đảng và UBND cấp tỉnh trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan tư pháp địa phương, các cơ quan có liên quan thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

4.6. Đảm bảo nguồn kinh phí và các chế độ, chính sách khác phục  vụ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương

Cần xác định rõ và dành khoản kinh phí thoả đáng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương. Đối với những nơi còn khó khăn về kinh phí, các cơ quan có liên quan cần có sự quan tâm, hỗ trợ kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp ở địa phương này. Đồng thời, các cơ quan có liên quan cũng cần có cơ chế động viên, khuyến khích, phát huy nguồn nhân vật lực tại chỗ để thực hiện hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.

Cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích công chức tư pháp địa phương tự nghiên cứu, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, trước mắt cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia phục vụ công tác tư vấn, hoạch định chính sách và thực thi công vụ có hiệu quả cao.

Thường xuyên sơ kết, tổng kết, đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.

Quan tâm kiện toàn tổ chức, cán bộ làm công tác đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ quan tư pháp địa phương, cần cung cấp đầy đủ tài liệu, văn bản quy định, hướng dẫn về công tác đào tạo, bồi dưỡng và các cơ quan có thẩm quyền quan tâm tổ chức tập huấn, hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm, tâm nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ này.

Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu và triển khai thí điểm thực hiện mô hình xã hội hoá trong đào tạo, bồi dưỡng đối với một số đối tượng công chức tư pháp địa phương./.



[1] Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2005, Nghị định số 171/2004/NĐ-CP và Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 quy định về cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ quy định về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự

 

Nội dung toàn văn

Phần thứ nhất

CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

 

I/ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

1. Vị trí, vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương

Với vai trò là người trực tiếp thực thi pháp luật, là nhân tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín của ngành tư pháp, đội ngũ công chức của ngành Tư pháp nói chung và đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong hơn 60 năm xây dựng và phát triển đã đóng góp tích cực vào việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị - xã hội của địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành Tư pháp từ trung ương tới cơ sở.

Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2005, Nghị định số 171/2004/NĐ-CP và Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định về cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ quy định về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự thì đội ngũ công chức tư pháp ở địa phương bao gồm:

- Đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp cấp tỉnh;

- Đội ngũ công chức thuộc Phòng Tư pháp cấp huyện;

- Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã;

- Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.

Là một bộ phận của chính quyền địa phương, đội ngũ công chức tư pháp đã và đang đảm nhận một khối lượng công việc lớn và không ngừng gia tăng trong các lĩnh vực xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, giúp chính quyền các cấp thực hiện có hiệu quả việc quản lý xã hội bằng pháp luật, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đồng thời, để bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đang triển khai trên thực tế các chủ trương, chính sách về công tác tư pháp trong các lĩnh vực xây dựng pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp…

Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu quan trọng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới và cải cách đồng bộ tổ chức bộ máy nhà nước trên cả ba mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, đội ngũ công chức của ngành tư pháp đã không chỉ góp phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ hành pháp mà còn phục vụ cho việc thực hiện chức năng lập pháp và tư pháp. Vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương được thể hiện qua những nội dung sau:

Một là, tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền.

Xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi trước hết phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh với vai trò tối thượng của các đạo luật. Với nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã góp phần vào việc bảo đảm sự thống nhất, tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản trong hệ thống pháp luật thông qua các hoạt động sau:

- Thẩm định, cho ý kiến về mặt pháp lý đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân trong các lĩnh vực;

- Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực công tác tư pháp được phân công quản lý hoặc các lĩnh vực khác do Uỷ ban nhân dân giao;

- Hướng dẫn rà soát, hệ thống hoá văn bản pháp luật trong các lĩnh vực;

- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện và kịp thời khắc phục các sai phạm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực.

Hai là, nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan tư pháp, nâng cao năng lực tiếp cận hệ thống pháp luật, hệ thống tư pháp.

Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, là công cụ thực hiện quyền làm chủ và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân. Để đáp ứng với yêu cầu này, cùng với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là việc phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của nhân dân nhằm hướng tới mục tiêu pháp luật được thực hiện có hiệu quả, hiệu lực trong cuộc sống. Từ đó nhân dân có thể tiếp cận với pháp luật, ứng xử thích hợp trong khuôn khổ pháp luật, làm cho người dân từ biết, tuân thủ, thực hiện đến giám sát việc thực hiện pháp luật.

Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Do đó, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan và công chức nhà nước, trong đó các cơ quan và công chức tư pháp giữ một vai trò nòng cốt đưa pháp luật vào cuộc sống, là cầu nối, mắt xích quan trọng giữa Nhà nước và quần chúng nhân dân trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật, hình thành niềm tin và thói quen chấp hành pháp luật của công dân. Đội ngũ cán bộ này không chỉ tham gia vào khâu tổ chức thực hiện thông qua hoạt động xây dựng kế hoạch, làm đầu mối phối hợp và hướng dẫn các cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện mà còn trực tiếp thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là ở cơ sở, thông qua các hình thức cụ thể như tuyên truyền miệng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, phương tiện thông tin đại chúng, hoà giải…

Đồng thời, đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn tham gia vào quá trình trợ giúp, hỗ trợ các dịch vụ pháp lý cho những người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật thông qua các cơ quan trợ giúp pháp lý của nhà nước; quản lý và đề xuất chính sách bảo đảm cho sự phát triển của các tổ chức tư vấn pháp luật và luật sư. Nhiệm vụ này góp phần vào việc bảo đảm sự bình đẳng của người dân trong việc tiếp cận với pháp luật.

Ba là, bảo đảm thực thi pháp luật thông qua hoạt động thi hành án dân sự và các hoạt động tư pháp khác.

Thi hành án dân sự là một hoạt động thể hiện quyền tư pháp của nhà nước. Điều 136 Hiến pháp 1992 quy định “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành”. Bản án, quyết định của Toà án có được thi hành hay không liên quan trực tiếp đến tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật, chứng tỏ kỷ cương, phép nước được giữ vững. Đội ngũ công chức của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện đang trực tiếp tham gia vào việc thi hành án, bảo đảm cho bản án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Cùng với những cán bộ thuộc cơ quan thi hành án dân sự, đội ngũ công chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đang thực hiện nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý công tác thi hành án dân sự trên địa bàn với việc làm đầu mối để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan có liên quan ở địa phương trong công tác thi hành án dân sự. Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch, theo sự hướng dẫn của cơ quan thi hành án cấp trên còn tham gia trực tiếp vào việc thi hành các bản án có giá trị dưới 500.000 đồng. Thực tiễn cho thấy, bảo đảm bản án được thi hành nghiêm chỉnh có ý nghĩa quyết định đến uy tín của ngành Tư pháp và niềm tin của người dân với pháp luật, lẽ phải và công lý.

Đồng thời, đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn là những người trực tiếp thực thi các quy định của pháp luật về công tác tư pháp trong các lĩnh vực công chứng, chứng thực, đăng ký hộ tịch, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân, của tổ chức và cá nhân cũng như góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các quan hệ dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, tham gia tích cực vào quá trình quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính quyền địa phương.

Vai trò của các công chức tư pháp địa phương được thể hiện bằng việc tham mưu, tư vấn các vấn đề pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương đưa ra các quyết sách phù hợp trong các lĩnh vực; thực hiện nhiệm vụ quản lý và đăng ký hộ tịch, thực hiện những nội dung về quản lý quốc tịch, lý lịch tư pháp… đối với dân cư trên địa bàn; là thành viên của các Hội đồng tư vấn, Hội đồng phối hợp công tác của địa phương. Với các nhiệm vụ cụ thể của mình về quản lý công tác tư pháp trên địa bàn, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đang tham gia tích cực vào quá trình quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính quyền địa phương, đáp ứng với yêu cầu cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Hiến pháp 1992 khẳng định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Để quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn là hết sức quan trọng. Việc xác định nhiệm vụ, chức trách của đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của nhân dân và bảo đảm hiệu lực, tính nghiêm minh của pháp luật có một ý nghĩa hết sức quan trọng, khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong quá trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, điều này cũng đòi hỏi phải tiếp tục kiện toàn đội ngũ công chức tư pháp địa phương cả về số lượng, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện đạo đức, phẩm chất và bản lĩnh chính trị nhằm đáp ứng với yêu cầu xây dựng đội ngũ công chức tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiện đại và chuyên nghiệp theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 18/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

2. Thực trạng năng lực của đội ngũ công chức tư pháp địa phương

2.1. Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện

Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự đã có bước phát triển mạnh về số lượng. Tính đến tháng 6/2006, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã có 6.823 cán bộ, trong đó có 2.274 chấp hành viên (không kể số chấp hành viên trong quân đội), gồm có 342 chấp hành viên cấp tỉnh và 1.932 chấp hành viên cấp huyện. So với thời điểm 6/2005 thì số lượng cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự đã tăng 11,9% (714 người), số lượng chấp hành viên tăng 4,6% (15người)[1]. Phần lớn số cán bộ được bổ nhiệm chấp hành viên đều bảo đảm tiêu chuẩn, có trình độ Đại học Luật hoặc tương đương.

- Về trình độ: Trong tổng số 6.823 cán bộ thuộc cơ quan thi hành án thì 74,5% cán bộ có trình độ Đại học và tương được trở lên (5.286 người), 15,9% cán bộ có trình độ Cao đẳng  và Trung cấp nói chung (1.087 người). Số cán bộ có trình độ sơ cấp Luật chỉ chiếm tỷ lệ 6,2%, tập trung chủ yếu ở các đơn vị miền núi, vùng sâu, vùng xa.

 Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thi hành án dân sự đã được quan tâm. Hàng năm, đội ngũ chấp hành viên trưởng, chấp hành viên mới được bổ nhiệm đã được tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án. Năm 2002, trường Đào tạo các chức danh tư pháp (nay là Học viện Tư pháp) tổ chức khai giảng khoá đào tạo nghiệp vụ chấp hành viên đầu tiên với hơn 100 công chức có trình độ cử nhân luật, thuộc diện bổ nhiệm nguồn chấp hành viên. Đến nay, Học viện Tư pháp đã đào tạo được hơn 1.041 công chức. Kết quả này đã giúp cho cán bộ các cơ quan thi hành án hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ được giao.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự có nhiều cán bộ trẻ, năng động, với 65% cán bộ có độ tuổi dưới 30 và 34% cán bộ có độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi. Chỉ có 1% cán bộ trên 50 tuổi. Điều này là thuận lợi lớn cho việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thi hành án dân sự địa phương.

- Năm 2002, Bộ Tư pháp đã ban hành chuẩn mực đạo đức Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án dân sự. Cho đến nay, chuẩn mực đạo đức chấp hành viên đã được phổ biến, triển khai đến từng chấp hành viên các cơ quan thi hành án trong toàn quốc. Phần lớn đội ngũ chấp hành viên đã tự ý thức được vị trí, vai trò của mình, tích cực tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng, đạo đức, lối sống, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của đảng , pháp luật của nhà nước, tuân thủ những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, tận tuỵ với nhân dân, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Mặc dù trình độ chuyên môn của đội ngũ chấp hành viên đã từng bước được nâng lên, nhưng kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm, năng lực thực tiễn của đội ngũ chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế trước tính chất phức tạp ngày càng gia tăng của công tác thi hành án, đặc biệt là các vụ án kinh tế lớn, có phạm vi và đối tượng thi hành án rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực.

Một bộ phận chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án còn thiếu tận tụy, có những biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ như tham ô, nhận hối lộ, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho đương sự (gợi ý xin tiền bồi dưỡng, tự định ra thời hạn thi hành án trái pháp luật, tiếp xúc với đương sự tại nhà riêng…) làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật. Từ năm 1993 đến năm 2002, Bộ Tư pháp đã xử lý 493 trường hợp Chấp hành viên và cán bộ thi hành án vi phạm kỷ luật. Thực tế này đòi hỏi bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì cần thiết phải có biện pháp bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao bản lĩnh và ý thức trách nhiệm đối với đội ngũ cán bộ cơ quan thi hành án dân sự.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên trong một thời gian dài chưa được thực hiện thường xuyên và có nền nếp. Hàng năm, mới chỉ được thực hiện với đội ngũ chấp hành viên trưởng và những chấp hành viên mới được bổ nhiệm. Các đối tượng khác thì giao lại cho Trưởng thi hành án cấp tỉnh tổ chức tập huấn tại địa phương. Do vậy, có lúc, có nơi, một số địa phương, công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa được chú trọng, có địa phương trong gần 10 năm chỉ tổ chức tập huấn nghiệp vụ được 01 lần cho Chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án dân sự địa phương. Chất lượng, hiệu quả tập huấn thấp và không đồng đều. Nhiều chấp hành viên sau khi được bổ nhiệm còn gặp nhiều lúng túng trong việc thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án, vận dụng các quy định của pháp luật trong từng vụ việc thi hành án dân sự cụ thể, việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức cưỡng chế thi hành án…

2.2. Tình hình đội ngũ công chức tư pháp thuộc Sở Tư pháp, Phòng  Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch

Kết quả tổng rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp cho thấy, trong 7 năm (từ năm 1996 đến năm 2004), đội ngũ công chức Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đã tăng 40%. Đặc biệt là sau khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban hành, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được quan tâm củng cố, kiện toàn, bổ sung thêm cán bộ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao (trong đó có các nhiệm vụ mới được bổ sung và có nhiều nhiệm vụ gia tăng về khối lượng công việc). Đến nay, đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp (bao gồm cả công chứng viên) và Phòng Tư pháp đã tăng 24,4% so với năm 2002.

Riêng đối với đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã, sau khi Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban hành, các địa phương đã quan tâm kiện toàn, bố trí tối thiểu 01 công chức/ cấp xã để đảm nhận nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý công tác tư pháp. Theo số liệu báo cáo của 45 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tính đến đầu năm 2006, đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch đã là 7.197 người, tăng 6,4% so với trước khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban hành). 653 cấp xã đã bố trí được 02 cán bộ đảm nhận công tác Tư pháp - Hộ tịch. Việc tăng cường về số lượng đã giúp cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương hoàn thành các nhiệm vụ được giao, khẳng định vị trí, vai trò của mình trong bộ máy nhà nước nói chung và trong tổ chức chính quyền địa phương nói riêng.

- Trình độ cán bộ từng bước được nâng cao trên các mặt chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ có tính chuyên môn hoá và chuyên nghiệp.

Trong những năm qua, nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đã được thực hiện như tuyển dụng những người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức… Nhờ đó, đội ngũ công chức các cơ quan tư pháp địa phương đã có sự thay đổi quan trọng, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn chức danh cũng như yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Nếu như năm 1996, khoảng 50% đội ngũ cán bộ, công chức của Sở Tư pháp và 30-35% cán bộ, công chức Phòng Tư pháp có trình độ đại học, cao đẳng luật, thì đến năm 2004, tỷ lệ này tăng lên là 67,4% đối với Sở Tư pháp và 59,7% đối với Phòng Tư pháp. Đối với đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã, nếu như năm 2000, tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn từ Trung học (bao gồm tất cả các chuyên ngành) trở lên là 31%, trong đó có 18,3% cán bộ có trình độ chuyên môn Luật từ Trung học trở lên thì đến đầu năm 2006, tỷ lệ này đã là 67,6% và 57%. Số lượng cán bộ cấp xã đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ đạt 81,9%. Công tác đào tạo tin học, ngoại ngữ được quan tâm. Đến nay, đa số các công chức của Sở Tư pháp đã qua đào tạo tin học và có thể khai thác, sử dụng máy tính trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

- Phần lớn đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, trong sạch, lành mạnh, có năng lực chuyên môn, ý thức tinh thần trách nhiệm để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

- Đội ngũ cán bộ trong ngành có nhiều cán bộ, công chức trẻ, được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, bảo đảm sự kế thừa giữa các thế hệ. Những năm vừa qua, để từng bước khắc phục tình trạng thiếu cán bộ, hẫng hụt giữa các thế hệ cán bộ, công chức, các cơ quan tư pháp địa phương đã tổ chức tuyển dụng thêm nhiều cán bộ, công chức, chủ yếu là cán bộ, công chức trẻ, có trình độ chuyên  môn từ cử nhân Luật trở lên. Theo số liệu khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ thì 52% cán bộ của Sở Tư pháp có độ tuổi từ 40 trở xuống. Kết quả đánh giá cán bộ đối với đội ngũ cán bộ trẻ này cũng cho thấy đây là lực lượng có nhiều chủ động, sáng tạo trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh những ưu điểm, tính tích cực, đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng bộc lộ những hạn chế như sau:

Đội ngũ công chức vẫn còn thiếu về số lượng. Biên chế của các cơ quan tư pháp địa phương vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ mặc dù trong quá trình kiện toàn đã được quan tâm, bổ sung biên chế. Số lượng công chức tư pháp được tăng lên chủ yếu là để bổ sung cho các tỉnh, thành phố mới được thành lập. Số liệu tổng hợp từ 47 tỉnh cho thấy số lượng đơn vị của Sở tăng lên 10,1% nhưng số lượng cán bộ của Sở chỉ tăng thêm 5,1%, do đó số lượng cán bộ trung bình của 1 đơn vị (phòng và tương đương) trực thuộc Sở giảm từ 5,16 cán bộ/1đơn vị còn 4,8 cán bộ/đơn vị. Một số địa phương, mặc dù đã được kiện toàn tổ chức nhưng việc giao biên chế lại không thực hiện được. Do đó, một số địa phương, cán bộ tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp xã luôn trong tình trạng quá tải công việc và khó có thể tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ dài hạn.

Chất lượng đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã với hơn 30% cán bộ chưa có trình độ Trung học Luật. Cá biệt có thời điểm (có sự thay đổi nhân sự theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân), số lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch có trình độ đạt tiêu chuẩn chỉ đạt tỷ lệ 50%, có tỉnh chỉ ở mức 30% . Đội ngũ cán bộ tư pháp tuy được đào tạo cơ bản, nhưng việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời nên đã ảnh hưởng một phần đến chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Cán bộ Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã thường không ổn định và chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ. Thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ Tư pháp - Hộ tịch sau khi được Sở Tư pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực thì số cán bộ này lại được điều sang nhận công tác khác. Cán bộ thay thế một phần không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, một phần không có kinh nghiệm làm công tác tư pháp nên gây khó khăn không nhỏ đối với hoạt động tư pháp, khó khăn trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp.

Sau một thời gian không ổn định về tổ chức, đến nay, Phòng Tư pháp cấp huyện đã được thành lập lại và củng cố tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên, thực tế ở các Phòng Tư pháp cấp huyện mới được thành lập lại có tình trạng cán bộ thiếu kinh nghiệm, thực tiễn công tác, chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp, cá biệt còn có trường hợp chưa đáp ứng được tiêu chuẩn chức danh. Bên cạnh đó, do tổ chức Phòng Tư pháp không ổn định nên đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện không được quan tâm đầu tư thoả đáng, trong đó có nâng cao năng lực, trình độ. Mặc dù là cấp trung gian triển khai công tác tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp xã nhưng đội ngũ cán bộ này chưa có đủ năng lực và kỹ năng tổ chức thực hiện công việc tư pháp trong phạm vi cấp huyện cũng như chỉ đạo, hướng dẫn, giải quyết các vướng mắc về chuyên môn, nghiệp vụ tư pháp cấp xã.

* Tình hình đội ngũ công chứng viên

- Trong những năm qua, đội ngũ công chứng viên đã từng bước được tăng cường. Tính đến tháng 6/2006, tổng số công chứng viên là 396 người, được phân bổ cho 125 Phòng Công chứng trên toàn quốc, tăng 46% (125 người) so với năm 2003. Ngoài ra, các Phòng Công chứng còn có các chuyên viên nghiệp vụ, nhân viên khác, nhân viên hợp đồng lên tới gần 800 người, đây là nguồn cán bộ quan trọng để đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cho đội ngũ công chứng viên khi cần thiết.

- Nhìn chung, đội ngũ công chứng viên có trình độ đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và các yêu cầu công việc đặt ra. 100% đội ngũ công chứng viên có trình độ Đại học Lụât và tương đương trở lên, trong đó, số có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ chiếm 3,6% (14 người), Đại học chính quy chiếm 42,9% (170người). Đa số các công chứng viên đã có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên, trong đó 14,1% có trình độ cao cấp và cử nhân. 196 người đã qua lớp đào tạo nghề công chứng viên.

- Đội ngũ công chứng viên trong cả nước về cơ bản có đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, có năng lực, trình độ và tận tâm phục vụ nhân dân. Trong những năm qua, tiêu chuẩn bổ nhiệm đội ngũ công chứng viên được quy định chặt chẽ nhằm xây dựng đội ngũ công chứng viên có đầy đủ năng lực, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, vô tư, khách quan, tận tuỵ với công việc.

Để tạo nguồn cán bộ, bổ sung cho đội ngũ công chứng viên, trong thời gian qua, 6 lớp đào tạo công chứng viên đã được tổ chức với sự tham gia của 300 người, đa số là các chuyên viên nghiệp vụ Phòng Công chứng, ngoài ra, có một số người đang công tác trong ngành tư pháp được Sở Tư pháp cho đi học lớp đào tạo công chứng viên để tạo nguồn.

Hạn chế của đội ngũ công chứng viên đó là một tỷ lệ không nhỏ công chứng viên có bằng Đại học hệ chuyên tu, tại chức (212 người - chiếm 53,5%). Đây là vấn đề cần lưu ý khi thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế của loại hình đào tạo, chú trọng kịp thời đến việc bổ sung, cập nhật các kiến thức cần thiết cho cán bộ.

Công chứng viên là một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ cần phải được khuyến khích công tác lâu dài, ổn định, nhưng một số Sở Tư pháp đã đặt vấn đề chuyển công chứng viên sang làm công việc khác, ảnh hưởng đến hoạt động chuyên môn và khó khăn trong việc thực hiện quy hoạch, đào tạo nghề cho cán bộ nguồn và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ.

II/ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

Đào tạo và bồi dưỡng là hai khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội, có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành và phát triển nguồn nhân lực - nguồn tài nguyên quý của quốc gia. Xuất phát từ quan điểm coi cán bộ là nhân tố hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng và của nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm càng nhiều”[2] và do đó “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[3]. Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng với yêu cầu chuyển đổi cơ chế quản lý càng trở nên cấp bách. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Tám (Khoá VII) đã đề ra mục tiêu cải cách nền hành chính nhà nước, trong đó vấn đề đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Đặc biệt, Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Ba (Khoá VIII) đã đề ra và chỉ rõ: học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, “mọi cán bộ, công chức phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng đạo đức cách mạng”. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện chủ trương đổi mới đất nước và đẩy mạnh hội nhập kinh tế, quốc tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục xác định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và  động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [4].

1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng

1.1. Khái niệm đào tạo

Đào tạo được hiểu là “việc dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp”[5] hoặc là “làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”[6]. Đào tạo còn được hiểu là “một quá trình truyền thụ kiến thức mới để cán bộ được thông qua đào tạo có văn bằng cao hơn trình độ trước đó” [7].

Theo các định nghĩa nói trên, có thể hiểu đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức mới để người được đào tạo lĩnh hội, nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống, theo một quy trình nhất định nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống, có khả năng nhận sự phân công lao động nhất định, góp phần vào việc phát triển xã hội. Đào tạo góp phần làm biến đổi hành vi của con người một cách có hệ thống thông qua hoạt động giảng dạy nhằm cung cấp, chuyển giao một khối lượng kiến thức nhất định, các giá trị văn hoá, chuẩn mực xã hội cho người được đào tạo. Đó cũng là quá trình học tập của con người để có kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc trong một lĩnh vực nhất định.

Đặc điểm cơ bản của đào tạo đó là:

- Quá trình học tập có hệ thống. Đào tạo được tổ chức theo một quy trình cụ thể, với những bước đi, thời gian thích hợp, có nội dung, chương trình và yêu cầu đặt ra đối với giảng viên, học viên theo từng giai đoạn, được đánh giá qua các bài giảng, sự tiếp thu, các bài kiểm tra, thi tốt nghiệp… Các yếu tố trong quá trình đào tạo tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất.

- Tạo sự biến đổi về chất sau quá trình học tập. Đào tạo không những giúp cho người học nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng với yêu cầu đặt ra mà còn trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng để cán bộ tiếp tục tiếp thu, vận dụng những kiến thức hướng tới việc tạo ra những tri thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của nhân loại.

1.2. Khái niệm bồi dưỡng

Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam thì bồi dưỡng được hiểu là “làm cho tốt hơn, giỏi hơn”[8]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt thì “bồi dưỡng là làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất” [9]

Như vậy có thể hiểu bồi dưỡng là quá trình học tập nâng cao trình độ hiểu biết, tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị của người được bồi dưỡng. Bồi dưỡng nhằm mục đích bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức đã được đào tạo bồi dưỡng trước đó.

Điểm khác biệt giữa bồi dưỡng với đào tạo là bồi dưỡng chưa tạo được bước ngoặt căn bản về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của đối tượng được bồi dưỡng. Tuy nhiên, bồi dưỡng thường đáp ứng được ngay yêu cầu cập nhật kiến thức mới, bổ sung tri thức làm cho người được bồi dưỡng có thể tiếp cận và vận dụng kịp thời vào thực tiễn để thực thi có hiệu quả nhiệm vụ được giao.

1.3. Các yếu tố cấu thành của “đào tạo, bồi dưỡng”

- Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là người cần trang bị hoặc nâng cao năng lực, trình độ. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng giữ vai trò trung tâm để các cơ quan quản lý và thực hiện đào tạo xác định mục tiêu, nội dung, chương trình cũng như áp dụng các phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.

- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức, kỹ năng được truyền tải đến cho đối tượng đào tạo, bồi dưỡng. Nội dung được thể hiện cụ thể trong kế hoạch đào tạo, chương trình đào tạo, giáo trình, giáo án và các tài liệu giảng dạy khác.

- Hình thức đào tạo, bồi dưỡng là cách thức tổ chức tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, có thể diễn ra dưới hình thức tập trung, chính quy, tại chức, từ xa…

- Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là hệ thống gồm một hay nhiều quy tắc được áp dụng có tác dụng hướng dẫn một loại hình hoạt động cụ thể nào đó để đạt được mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng.

- Đội ngũ giảng viên là những người vận dụng các hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng để truyền tải các nội dung đào tạo, bồi dưỡng đến các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.

- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của đào tạo, bồi dưỡng là các điều kiện để tiến hành đào tạo, bồi dưỡng như địa điểm, trang thiết bị, giáo cụ, các nguồn lực tài chính…

Các yếu tố trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, làm điều kiện và chi phối lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng thì cần thiết phải xem xét đầy đủ đến các yếu tố này, trong đó, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò trung tâm và hướng tới mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Giữa mục tiêu và đối tượng đào tạo, bồi dưỡng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Đối tượng được lựa chọn, xác định trên cơ sở mục tiêu. Mục tiêu có đạt được hay không phụ thuộc vào lựa chọn đúng đối tượng, ngoài ra, mục tiêu cũng được xác định trên cơ sở yêu cầu công việc, loại hình, cấp đào tạo, bồi dưỡng…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2. Đặc điểm của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

Với ý nghĩa là quá trình nâng cao trình độ, năng lực hiểu biết, bổ sung kiến thức cho người được đào tạo, bồi dưỡng là đội ngũ công chức thì đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương có những đặc điểm như sau:

2.1. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là những công chức không đồng đều về năng lực và trình độ, đang đảm nhận các vị trí công tác có yêu cầu nhiệm vụ và thuộc các cấp hành chính với cơ chế quản lý khác nhau

Đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định bao gồm:

- Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự (cấp tỉnh và cấp huyện);

- Đội ngũ công chức thuộc cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp: Sở Tư pháp cấp tỉnh và Phòng Tư pháp cấp huyện;

- Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã.

Đây là những người được tuyển dụng giữ một chức vụ, hoặc công vụ thường xuyên trong các cơ quan tư pháp địa phương, được xếp các ngạch công chức khác nhau, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật. Do đó, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng gắn với cương vị, vị trí công tác trong  ngành Tư pháp với những đặc thù sau:

Một là, đội ngũ công chức ngành Tư pháp thuộc nhiều cơ quan ở các cấp hành chính với cơ chế quản lý khác nhau.

Cơ chế hoạt động và quản lý đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương được thực hiện theo Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Nghị định số 171/2004/NĐ-CP, Nghị định số 172/2004/NĐ-CP, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự và các văn bản khác có liên quan. Cơ chế hoạt động và quản lý đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương được phân biệt như sau:

- Đội ngũ công chức tư pháp thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch là một bộ phận của đội ngũ công chức thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Theo đó, biên chế, chế độ, chính sách cán bộ do Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý và thực hiện theo quy định của pháp luật. Bộ Tư pháp thực hiện việc chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ này.

- Đội ngũ công chức của cơ quan thi hành án cấp tỉnh và cấp huyện do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý. Theo đó, Bộ Tư pháp quản lý toàn diện về biên chế, cán bộ, thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ đồng thời với việc quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ. Thực hiện chủ trương phân cấp quản lý và phù hợp với điều kiện của địa phương, Bộ Tư pháp thực hiện việc uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp cấp tỉnh quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của Sở Tư pháp (Quyết định số 141/QL-QLTA ngày 21/3/1994 và Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Quy chế uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thi hành án huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).

Như vậy, theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ, công chức tại Nghị định số 117/2003/NĐ-CP và Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg thì việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thuộc các cơ quan thi hành án dân sự địa phương do Bộ Tư pháp thực hiện; đối với đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã thì việc đào tạo, bồi dưỡng do Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện [10].

Hai là, tiêu chuẩn chức danh và yêu cầu đối với công chức trong thực thi nhiệm vụ khác nhau.

Đội ngũ công chức thuộc cơ quan tư pháp địa phương bao gồm cán bộ theo các tiêu chuẩn nghiệp vụ sau:

- Công chức hành chính ngành Tư pháp tuân theo tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch công chức hành chính ngành Tư pháp ban hành kèm theo Quyết định số 483/QĐ-BTP ngày 26/7/1993 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, bao gồm cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp pháp lý.

- Đội ngũ chấp hành viên cấp tỉnh và cấp huyện theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định dành cho chấp hành viên tại Pháp lệnh Thi hành án, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP và các văn bản khác có liên quan.

- Đội ngũ công chứng viên theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực và từ ngày 1/7/2007 là Luật Công chứng.

- Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.

Theo các văn bản pháp luật, mỗi chức danh lại có những yêu cầu khác nhau về tiêu chuẩn, chức trách và nhiệm vụ. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cần thiết phải tiến hành trên cơ sở các yêu cầu của tiêu chuẩn chức danh và ngoài việc chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đương chức thì còn phải chú ý đến việc đào tạo nguồn để bổ sung cán bộ khi cần thiết.

Ba là, năng lực của đội ngũ công chức này không đồng đều.

Đội ngũ công chức tư pháp địa phương hiện đang đảm nhận nhiệm vụ trong các cơ quan thuộc cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, thuộc các địa bàn từ đồng bằng, đô thị đến nông thôn, miền núi, khu vực có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống. Yêu cầu nhiệm vụ của mỗi cấp hành chính là khác nhau do đó việc tuyển chọn cán bộ cũng căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau. Đồng thời, do đặc thù của từng vùng miền nên yêu cầu và chất lượng của đội ngũ công chức không đồng đều. Trong khi phần lớn đội ngũ công chức tư pháp ở cấp tỉnh và cấp huyện đáp ứng đủ với tiêu chuẩn chức danh đang đảm nhiệm thì có đến gần 30% đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã chưa có trình độ Trung học Luật theo yêu cầu của Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Cá biệt, có thời điểm khi mới bầu cử lại Hội đồng nhân dân cấp xã, số lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch có trình độ đạt tiêu chuẩn chỉ đạt tỷ lệ 50%, có tỉnh tỷ lệ này chỉ ở mức 20% đến 30%.  Đối với khu vực vùng sâu, vùng xa, điều kiện khó khăn, thiếu nguồn nhân lực tại chỗ, chính sách đối với cán bộ thiếu hấp dẫn nên đội ngũ công chức có trình độ, năng lực còn nhiều hạn chế hơn, đặc biệt là đối với đội ngũ chấp hành viên và công chứng viên…

Xuất phát từ đặc thù vùng miền khác nhau nên mục tiêu, yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng khác nhau. Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg có sự phân biệt về mục tiêu đào tạo đến năm 2010, theo đó, xác định phấn đầu tỷ lệ công chức cấp xã có trình độ trung cấp trở lên đối với vùng đô thị là 95%, đồng bằng là 80% và vùng núi là 70%. Đồng thời, Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 8/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010 đặt ra mục tiêu đến năm 2010 đạt 50% công chức chuyên môn cấp xã người dân tộc thiểu số đạt trình độ trung cấp trở lên.

2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tư pháp địa phương không chỉ thực hiện theo những quy định chung về đào tạo, bồi dưỡng mà còn phải thực hiện những quy định riêng do các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức ban hành. Cụ thể như sau:

+ Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện theo Quyết định số 874/QĐ-TTg ngày 20/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước; Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 7/1/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010; Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác hội nhập kinh tế, quốc tế…

+ Việc xây dựng nội dung chương trình, giáo trình, kiểm tra, cấp chứng chỉ và quản lý nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngoài việc vận dụng Quy chế đào tạo cơ bản do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành thì được thực hiện theo Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ban hành kèm theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 4/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ.

+ Đào tạo kiến thức bổ trợ như tin học, ngoại ngữ, lý luận chính trị cho cán bộ, công chức được thực hiện theo Quyết định số 331/2004/QĐ-TTg ngày 6/1/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển nguồn nhân lực về công nghệ thông tin từ nay đến năm 2010, Chỉ thị số 442/TTg ngày 15/8/1994 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán bộ, công chức; Quy định định số 54-QĐ/TW ngày 12/5/1999 về học tập lý luận trong đảng…

+ Việc cử cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước thực hiện theo Quyết định số 104/2005/QĐ-BNV ngày 3/10/2005 về việc ban hành Quy chế cử cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước.

+ Kinh phí cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 79/2005/TT-BTC ngày 27/12/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

2.3. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho công chức tư pháp địa phương phải kết hợp giữa việc đào tạo cơ bản và bổ sung kiến thức, kỹ năng liên quan đến nghề nghiệp, công vụ mà họ đang đảm nhiệm.

Theo Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ban hành kèm theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 4/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp địa phương thì nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức bao gồm 4 khối kiến thức:

+ Lý luận chính trị;

+ Kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước;

+ Kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ;

+ Kiến thức tin học, ngoại ngữ (tiếng dân tộc đối với công chức công tác ở vùng dân tộc miền núi) và các kiến thức bổ trợ khác.

Các cơ quan tư pháp địa phương hiện nay đang đảm nhận những nhiệm vụ trong các lĩnh vực xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật bao gồm quản lý công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp... Mặc dù thuộc hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, song nhiệm vụ của đội ngũ công chức ngành Tư pháp mang tính đa dạng, có sự giao thoa và phục vụ việc thực hiện chức năng của cả 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thêm vào đó, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là những cán bộ có năng lực và trình độ không đồng đều, trong đó một bộ phận không nhỏ công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã[11] chưa đáp ứng được tiêu chuẩn chức danh. Do đó, nội dung, chương trình vừa tập trung vào việc đào tạo cơ bản theo tiêu chuẩn chức danh cho một bộ phận cán bộ còn thiếu đồng thời với việc đào tạo, bồi dưỡng bổ sung kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ theo yêu cầu công việc được giao. Ngoài ra, đối với đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc, theo Quyết định số 28/2007/QĐ-TTg  ngày 28/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ, nội dung đào tạo, bồi dưỡng còn phải đáp ứng được yêu cầu sát với chức trách, nhiệm vụ, hoạt động thực thi công vụ của từng đối tượng cụ thể, không đào tạo, bồi dưỡng tràn lan. Do đó, nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương cần chú ý đến những đặc thù sau:

- Mang tính nghề nghiệp cụ thể: không chỉ cung cấp các kiến thức, kỹ năng về quản lý nhà nước mà còn bao gồm các kiến thức về pháp luật chuyên ngành, kỹ năng nghề nghiệp cụ thể, đạo đức, bản lĩnh chính trị đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao.

- Mang tính toàn diện: cơ cấu hợp lý giữa lý luận và thực tiễn, gắn lý thuyết với thực hành, giữa bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với nâng cao nhận thức, trách nhiệm, đạo đức của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ; bổ sung kiến thức liên quan trực tiếp đến chuyên môn nghiệp vụ đồng thời với việc bổ sung các kiến thức bổ trợ như ngoại ngữ, tin học, các kiến thức về hội nhập kinh tế, quốc tế…

- Cơ cấu chương trình và bố trí thời lượng phù hợp với từng đối tượng công chức và từng nội dung đào tạo, bồi dưỡng để bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả của việc đào tạo, bồi dưỡng và phù hợp với người học là những người đang đảm nhận công tác, chỉ có thể bố trí một thời gian nhất định cho việc học tập, nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức.

2.4. Hình thức thể hiện văn bằng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chủ yếu là chứng chỉ theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg

Chứng chỉ là văn bản pháp lý xác nhận kết quả học tập và trình độ của người được cấp chứng chỉ đã hoàn thành một chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo quy định. Chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch là một trong những điều kiện để cán bộ, công chức được xếp vào ngạch và được hưởng các chế độ, chính sách của những ngạch cụ thể theo quy định. Chứng chỉ tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ, công chức không do Bộ Giáo dục và đào tạo cấp với tư cách là cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo cấp mà đó là chứng nhận của các cơ sở đào tạo trên nguyên tắc phân cấp của Chính phủ và các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Cụ thể như sau:

+ Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương quy định, hướng dẫn sử dụng thống nhất trong phạm vi cả nước các loại chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh; các loại chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng  công chức dự bị, bồi dưỡng thi nâng ngạch, chuyển ngạch; đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo cấp Vụ, cấp Sở, ban, ngành trở lên;

+ Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định và hướng dẫn sử dụng các loại chứng chỉ bồi dưỡng cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, chứng chỉ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo cấp phòng;

+ Về tổ chức in, cấp chứng chỉ cho cán bộ, công chức sau khi hoàn thành các khoá đào tạo, bồi dưỡng do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng được phân cấp đào tạo, bồi dưỡng theo nội dung nào được cấp chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng theo nội dung chương trình đó.

+ Chứng chỉ do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp theo quy định có giá trị sử dụng trong phạm vi cả nước.

2.5. Hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau.

Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là cách thức tổ chức quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm đạt được mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Như vậy, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phản ánh cách thức tổ chức hoạt động “dạy” và “học” nhằm hình thành và phát triển ở người học các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và phát triển nhân cách nghề nghiệp cho cán bộ, công chức.

Là một thành tố trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức có mối quan hệ mật thiết với các yếu tố khác nhau của công tác đào tạo, bồi dưỡng như mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng… Thực tiễn đã chứng minh rằng tuỳ từng đối tượng đào tạo, bồi dưỡng, với từng loại chương trình, hình thức và mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng khác nhau mà áp dụng loại phương pháp đào tạo phù hợp.

Các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đang được áp dụng:

- Phương pháp thuyết trình: là phương pháp đào tạo truyền thống theo kiểu người dạy trình bày nội dung bài giảng, người học nghe kết hợp với ghi chép, tiếp thu, ghi nhớ các kiến thức của môn học. Phương pháp này mang tính thụ động, trước đây được sử dụng nhiều trong công tác đào tạo, bồi dưỡng trong đó có đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương. Ngày nay, do tác động của cuộc cách mạng giáo dục và đào tạo, phương pháp thuyết trình đang dần dần được áp dụng kết hợp với các phương pháp khác. Đây là phương pháp phổ biến đang được áp dụng trong đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.

- Phương pháp hướng dẫn thảo luận: là phương pháp đối thoại thông qua việc người dạy và người học nêu vấn đề, nêu câu hỏi, cùng phân tích tìm cách giải quyết các vấn đề dưới sự hướng dẫn của người dạy. Phương pháp này được coi là một trong những phương pháp đào tạo tích cực, lấy người học làm trung tâm nhằm khơi sâu, mở rộng vốn tri thức, kích thích tính chủ động, tích cực của học viên. Kết quả khảo sát cho thấy phương pháp thảo luận đang được các cơ quan tư pháp áp dụng rộng rãi (70%) trong đào tạo nghề và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho công chức tư pháp địa phương.

- Phương pháp tình huống: là một trong những phương pháp dạy - học tích cực. Người dạy sử dụng các tình huống nghề nghiệp cụ thể và triển khai nội dung đào tạo, bồi dưỡng thông qua một quy trình, kịch bản từ đó giúp người học nghiên cứu, tiếp thu nội dung đào tạo, bồi dưỡng. Đây là phương pháp mới được áp dụng ở nước ta. Trung tâm đào tạo các chức danh tư pháp, nay là Học viện Tư pháp là một trong những cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đầu tiên áp dụng phương pháp tình huống vào đào tạo nghề cho các chức danh tư pháp.

- Phương pháp song giảng: Cùng với phương pháp tình huống, phương pháp song giảng cũng mới được sử dụng trong công tác đào tạo nghề cho các chức danh tư pháp từ năm 1998 đến nay. Phương pháp này có sự giao thoa giữa phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận. Phương pháp song giảng đòi hỏi kết hợp tương hỗ song song giữa giáo viên giảng viên lý thuyết với giáo viên giảng thực hành trong cùng một nội dung và thời gian đào tạo, bồi dưỡng.

Trong lĩnh vực tư pháp, do đối tượng đào tạo, bồi dưỡng đa dạng, phong phú, thuộc các cơ quan thuộc các cấp hành chính khác nhau, ở các vùng miền khác nhau và có trình độ khác nhau. Cùng với đó là yêu cầu của công tác tư pháp luôn đòi hỏi công chức phải chủ động, sáng tạo trong việc triển khai nhiệm vụ, áp dụng chính xác các quy định của pháp luật vào thực tiễn sinh động. Do đó, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương phải là những phương pháp rèn luyện và tạo ra được sự chủ động cho người học, không chỉ tiếp nhận kiến thức mà còn có khả năng vận dụng kiến thức trong công việc, áp dụng và giải quyết các tình huống cụ thể. Các phương pháp được ưu tiên lựa chọn như phương pháp tạo tình huống, phương pháp song giảng, hình thành các nhóm, giao chuyên đề nghiên cứu…

Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, mở rộng hội nhập khu vực và quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức năng, nhiệm vụ của ngành Tư pháp ngày càng được mở rộng, tăng cường trên các lĩnh vực xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật và quản lý các lĩnh vực hoạt động tư pháp. Vì vậy, việc đổi mới và nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng là hết sức cấp thiết nhằm tiếp tục kiện toàn, củng cố và nâng cao năng lực của đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao và hướng tới mục tiêu xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiện đại, chuyên nghiệp.

 

Phần thứ hai

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

 

I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

1. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch

Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương là việc xác định các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức một cách tổng thể, toàn diện trong một thời gian dài nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ quan tư pháp nói riêng, ngành Tư pháp nói chung và yêu cầu về tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tư pháp trong tương lai.

Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương là việc xác định các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng với mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cụ thể và cách thức tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu đó trong thời gian nhất định, có thể là ngắn hạn dưới 1 năm, trên 1 năm hoặc trong nhiều năm.

Việc phân biệt 2 khái niệm quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa trong hoạt động quản lý nhằm xác định trách nhiệm cụ thể của cơ quan quản lý nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và cơ quan thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng.

1.1. Thẩm quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003 đã quy định mang tính chất nguyên tắc: Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm xaâ dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, công chức” (Điều 25). Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức là cơ quan được giao thẩm quyền tuyển dụng và quản lý công chức (Điều 3 Nghị định số 117/2003/NĐ-CP).

Căn cứ theo các quy định nói trên thì thẩm quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định như sau:

- Đối với đội ngũ công chức thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã, Sở Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với Sở Nội vụ nghiên cứu, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định;

- Đối với đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự địa phương, theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP  ngày 11/4/2005 thì Bộ Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền quản lý và thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức cơ quan thi hành án. Tại Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005, Khoản 9 Điều 2 quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp xây dựng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao trình độ, năng lực của công chức các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.

Bên cạnh đó, cũng theo Nghị định số 117/2003/NĐ-CP, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý ngạch công chức chuyên ngành tư pháp (Điều 43) và xác định Bộ quản lý các ngạch công chức chuyên ngành có nhiệm vụ quy định nội dung, chương trình, phương thức và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng các ngạch công chức chuyên ngành (Điều 44).

 1.2. Thực trạng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của ngành Tư pháp

1.2.1. Về công tác xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng

Kết quả khảo sát công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành Tư pháp trong 5 năm qua cho thấy số lượng cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ngày một đông về số lượng, đa dạng về đối tượng, nội dung và hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Do đó, để công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp có hiệu quả, bảo đảm chất lượng, tránh chồng chéo, chắp vá, mang tính tình thế thì việc xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và quy hoạch đào tạo bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương nói riêng là việc hết sức cần thiết, đặc biệt là trước yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp giai đoạn 2006-1010.

Tuy nhiên, thực tế, công tác xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm thực hiện đúng mức. Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa xây dựng được quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp thuộc phạm vi quản  lý một cách hoàn chỉnh. Bộ Tư pháp cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp. Thiếu quy hoạch, kế hoạch trong công tác đào tạo, bồi dưỡng dẫn đến tình trạng đào tạo, bồi dưỡng phân tán, tự phát, tuỳ tiện, chắp vá, lãng phí về sức người, sức của và thời gian của cán bộ, công chức, làm giảm chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.

1.2.2. Về công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng:

Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 10/2001/CT-TTg ngày 19/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số  874/TTg và Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 7/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, Bộ Tư pháp đã xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn của ngành Tư pháp như Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tư pháp giai đoạn 2001 - 2005, Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tư pháp giai đoạn 2006 - 2010. Các kế hoạch dài hạn này là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm của Bộ Tư pháp.

Trên cơ sở kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn, Bộ trưởng giao cho Vụ Tổ chức cán bộ phối hợp với Học viện Tư pháp và các đơn vị có liên quan tổ chức triển khai xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong từng năm để trình Bộ trưởng xem xét, gửi các cơ quan có thẩm quyền quyết định. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Tư pháp này được xây dựng căn cứ vào nhu cầu cụ thể của các đơn vị thuộc Bộ và Sở Tư pháp cấp tỉnh. Kế hoạch xác định cụ thể các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng sẽ triển khai trong năm như mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, thời gian, địa điểm tổ chức và dự trù kinh phí cho từng hoạt động (ví dụ kinh phí tổ chức lớp, kinh phí xây dựng chương trình, tài liệu, kinh phí khảo sát,…) cũng như trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong triển khai thực hiện.

Ở địa phương, thực hiện Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg và đặc biệt là sau khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban hành, công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đã có nhiều tiến bộ và được quan tâm hơn trước. Kết quả khảo sát năm 2005 tại 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Sở Tư pháp đã phối hợp với Sở Nội vụ trong việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức thuộc phạm vi quản lý của đơn vị trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp phê duyệt và tổ chức triển khai các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch đã được phê duyệt. Các kế hoạch này có thể được xây dựng độc lập hoặc lồng ghép với chương trình công tác chung của ngành tại địa phương và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chung của cán bộ địa phương.

2. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng

Theo quy định tại Điều 4 Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg thì đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm 4 nội dung sau:

- Lý luận chính trị;

- Kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước;

- Kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ;

- Kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác.

Thực hiện Quyết định số 874/QĐ-TTg về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước, nhất là sau khi có Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức 2001- 2005 và Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ công tác hội nhập kinh tế quốc tế, trong 5 năm qua, Sở Tư pháp đã phối hợp với Sở Nội vụ, Trường Chính trị và các cơ quan có liên quan tập trung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cả 4 nội dung trên.

3. Chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng

3.1. Chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh

Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên của các vùng miền, yêu cầu tiêu chuẩn chức danh và yếu tố lịch sử để lại nên đội ngũ công chức tư pháp địa phương có đặc thù là không đồng đều về chất lượng trên cả nước và ở các cấp hành chính. Vì vậy, thời gian qua, chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo được xây dựng dành cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương không chỉ bao gồm chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo để nâng cao trình độ như các ngành nghề khác mà còn tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện các chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo để đáp ứng với tiêu chuẩn chức danh (Trung cấp Luật) dành cho đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã và chương trình đào tạo nghề.

3.1.1. Đào tạo trung học Luật

Để đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện nhiệm vụ và nhằm tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, đối tượng được đào tạo Trung học Luật chủ yếu là các công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã. Mặc dù công tác đào tạo Trung học Luật đã được thực hiện từ lâu nhưng đến năm 1998 chương trình chuẩn  dành riêng cho hệ trung học có nội dung hoàn chỉnh với 27 môn học, 1500 tiết học và bộ giáo trình đào tạo trung học luật mới được xây dựng một cách tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ. Căn cứ vào Quyết định số 21/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 6/6/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về việc ban hành chương trình khung giáo dục trung học chuyên nghiệp, ngày 17/12/2003, Hiệu trưởng trường Đại học Luật Hà Nội có Quyết định số 1714/QĐ ban hành chương trình đào tạo trung học Luật mới áp dụng cho các khóa đào tạo trung học chuyên nghiệp chuyên ngành Luật của Trường từ năm 2003 trở đi.

Cấu trúc của chương trình gồm:

+ 32 môn học trong tổng số thời gian 1.520 tiết được áp dụng cho tất cả các loại hình đào tạo chính quy và tại chức. Trong đó, khối kiến thức đại cương là 30 đơn vị học trình, chiếm 2% thời lượng chương trình; khối kiến thức chuyên nghiệp là 70 đơn vị học trình, chiếm 4,6% thời lượng chương trình. Cơ cấu giữa giảng lý thuyết và thực hành là 735 giờ giảng và 295 giờ thực hành.

+ Đối với những học viên dự tuyển mới có bằng văn hoá trung học cơ sở thì ngoài môn học của chương trình trên còn phải học thêm các môn văn hoá gồm 4 môn (Toán, Văn - Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý) với thời lượng 1.200 tiết và phải thi tốt nghiệp cả 3 môn văn hoá (Văn - Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý).

3.1.2. Đào tạo nghề

Chương trình đào tạo nghề cho công chức tư pháp địa phương được xây dựng với sự tham gia của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà quản lý và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực công chứng, thi hành án; kế thừa kinh nghiệm đào tạo nghề cho các chức danh thẩm phán, có tham khảo kinh nghiệm đào tạo của nước ngoài như Pháp, Canada, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore… và được bổ sung, sửa đổi sau mỗi khoá đào tạo.

- Đào tạo công chứng viên: được thực hiện tại Học viện tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Chương trình đào tạo công chứng viên khoá 5 năm 2005 như sau:

+ Tổng thời lượng đào tạo là 514 tiết, tương đương 4 tháng;

+ Cấu trúc chương trình gồm 2 phần: phần chung về công chứng và nghề công chứng với 15 nội dung đào tạo, trong thời gian 120 tiết; phần kỹ năng công chứng với 18 nội dung đào tạo trong thời gian 396 tiết.

+ Nội dung cơ bản của chương trình: tập trung vào nghiệp vụ, kỹ năng công chứng, pháp luật liên quan đến công chứng và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp công chứng.

Đặc điểm của chương trình đào tạo công chứng viên là chương trình đào tạo mang tính mở, có sự bổ sung, sửa đổi và tham gia của các chuyên gia Pháp trong việc chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm về tổ chức và kỹ năng hành nghề công chứng của Pháp.

- Đào tạo chấp hành viên: được thực hiện tại Học viện Tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Chương trình đào tạo chấp hành viên khoá 4 như sau:

+ Tổng thời lượng: 654 tiết, tương đượng với 6 tháng.

+ Cấu trúc chương trình gồm 2 phần:

Phần chung: 162 tiết, chiếm 24,7% tổng thời lượng chương trình. Phần này tập trung vào các vấn đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên.

Phần kỹ năng, nghiệp vụ thi hành án với 18 nội dung đào tạo trong thời gian 396 tiết, chiếm 61% tổng thời lượng chương trình.

Giáo trình đào tạo chấp hành viên và công chứng viên do Học viện Tư pháp chủ trì biên soạn, trên cơ sở các bài giảng của giảng viên, có nghiên cứu, chỉnh lý sau mỗi khoá đào tạo cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và trình độ đầu vào của đối tượng đào tạo.

3.2. Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức

3.2.1. Bồi dưỡng cập nhật chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật mới

Việc bồi dưỡng cập nhật chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật mới được tiến hành nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho công chức, giúp công chức nhất là công chức tư pháp địa phương nắm bắt kịp thời các quy định mới của Đảng, Nhà nước, từ đó áp dụng và thực thi pháp luật trong công tác chuyên môn nghiệp vụ.

Chương trình bồi dưỡng thường ngắn ngày, mang tính thời sự (khi văn bản mới ban hành) chủ yếu tập trung vào việc giới thiệu văn bản mới, hệ thống hoá các quy định theo từng lĩnh vực hoặc giải thích các quy định của pháp luật nhằm giúp công chức hiểu và áp dụng đúng văn bản pháp luật.

Tài liệu bồi dưỡng thường là tập hợp các bài nghiên cứu của các chuyên gia pháp luật, các nhà quản lý trong lĩnh vực chuyên môn có tham gia trực tiếp vào Ban soạn thảo, tổ soạn thảo hoặc nghiên cứu, theo dõi, quản lý trong lĩnh vực đó. Đa số các tài liệu bồi dưỡng mang tính nội bộ, phi lợi nhuận và phát miễn phí cho học viên như tài liệu nghiên cứu Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, tài liệu tập huấn Bộ luật dân sự, tài liệu bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế…

3.2.2. Bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ

Trong thời gian qua, với vai trò là quản lý, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các đơn vị chức năng tiến hành biên soạn các chương trình, tài liệu đào tạo nghề và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cần thiết cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Các chương trình đào tạo nghề mang tính mở, có sự bổ sung, sửa đổi, chỉnh lý sau mỗi khoá đào tạo cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong từng thời kỳ cũng như thực trạng trình độ của học viên. Đến nay, có 15 chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được xây dựng những nội dung quản lý chuyên ngành như chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng; bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý… Cùng với việc xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo từng lĩnh vực công tác chuyên môn, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức theo từng vùng, miền và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương đã được xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả như Chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp huyện năm 2003, Chương trình đào tạo trung cấp Luật cho cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã năm 2002, Chương trình đào tạo trung cấp Luật cho cán bộ Tư pháp - Hộ tịch năm 2004, Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã vùng Tây Nguyên. Đây là những tài liệu quan trọng không chỉ phục vụ cho công tác giảng dạy - học tập mà còn là những cẩm nang giúp cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương khai thác, sử dụng trong quá trình giải quyết công việc. Cụ thể như sau:

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ soạn thảo, thẩm định và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án cho chấp hành viên mới được bổ nhiệm;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án cho chấp hành viên lâu năm;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án cho Trưởng cơ quan thi hành án địa phương;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng cho công chứng viên, bồi dưỡng nghiệp vụ quốc tịch, hộ tịch;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải và phổ biến pháp luật;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý;

- Chương trình, tài liệu bồidưỡng nghiệp vụ thế chấp, bảo lãnh, bán đấu giá tài sản;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp huyện;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp xã;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã vùng Tây Nguyên;

- Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế.

3.2.3. Bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý

Hiện nay, chương trình bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý mới chủ yếu tập trung vào việc bồi dưỡng kiến thức về lý luận chính trị và quản lý nhà nước do Học viện chính trị và Bộ Nội vụ đảm nhiệm việc xây dựng chương trình, tài liệu. Bộ Tư pháp vẫn chưa xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực tư pháp.

Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao cho ngành tư pháp, năm 2004, Bộ Tư pháp đã thí điểm xây dựng chương trình và tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý trong lĩnh vực chuyên ngành cho các Giám đốc Sở mới được bổ nhiệm. Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho Giám đốc Sở tập trung chủ yếu vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Tư pháp và chức trách của Giám đốc Sở Tư pháp trong triển khai nhiệm vụ.

3.3. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức bổ trợ

Hiện nay, theo quy định tại Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg thì cấu trúc nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị do Bộ Nội vụ phối hợp với Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn. Cấu trúc nội dung chương trình đào tạo kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác theo tiêu chuẩn ngạch do Bộ Giáo dục và đào tạo quy định.

Qua khảo sát ý kiến đánh giá của 500 công chức đã được đào tạo về lý luận chính trị chương trình cử nhân và quản lý nhà nước chương trình chuyên viên thì 80% số người được hỏi cho rằng có nhiều nội dung trùng lặp giữa 2 chương trình này về lý luận nhà nước và pháp luật, về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, về soạn thảo văn bản… đặc biệt là đối với công chức tư pháp thì những kiến thức này đã được giảng dạy trong chương trình đào tạo Đại học Luật hoặc Trung cấp Luật.

4. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng

Các hình thức cơ bản tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là tập trung, bán tập trung và tại chức. Tuỳ từng đối tượng đào tạo với yêu cầu về mục tiêu, nội dung và thời gian đào tạo, bồi dưỡng khác nhau, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiên cứu lựa chọn hình thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng thích hợp, bảo đảm chất lượng và hiệu quả của các khoá đào tạo, bồi dưỡng.

Hiện nay, 100% các khoá đào tạo nghề được thực hiện tại Học viện Tư pháp theo hình thức đào tạo chính quy tập trung với thời lượng 6 tháng đối với đào tạo nghề chấp hành viên, 4 tháng đối với đào tạo nghề công chứng viên.

Việc đào tạo trung học pháp lý cho công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã được tiến hành theo hình thức đào tạo chính quy tập trung và đào tạo tại chức không chính quy. Khảo sát thực tế công tác đào tạo công chức tư pháp địa phương trong thời gian cho thấy 97% các cơ sở đào tạo, các cơ quan tiến hành công tác đào tạo, bồi dưỡng và đa số học viên khẳng định việc đào tạo, theo hình thức tập trung bảo đảm chất lượng, hiệu quả hơn so với hình thức đào tạo tại chức.

Trong thời gian gần đây, các lớp trung học Luật do trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh phối hợp với địa phương mở. Ngoài ra,  một số tỉnh như Thanh Hoá, Nghệ An, Hải Phòng, Thái Bình đã được Bộ Giáo dục và đào tạo cho phép mở các lớp đào tạo trung cấp Lụât tại các trường chính trị của tỉnh để kịp thời đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu công tác tư pháp địa phương,

5. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng

Trong thời gian qua, trong công tác giảng dạy, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương, chúng ta vẫn sử dụng một số phương pháp giảng dạy truyền thống là thuyết trình. Đến nay, chúng ta đã đưa thêm phương pháp đàm thoại vào giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của người học. Tuy nhiên, hiệu quả của các phương pháp giảng dạy này đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương vẫn chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và thấu đáo. Tuy nhiên, chúng ta có thể đưa ra một số hạn chế nổi bật của phương pháp đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua :

- Việc đổi mới phương pháp mới chỉ chủ yếu vào đổi mới phương pháp dạy mà chưa tập trung đến đổi mới phương pháp học;

- Phương pháp đào tạo chậm được đổi mới, thích ứng với yêu cầu nâng cao chất lượng và năng lực công tác của đội ngũ công chức tư pháp địa phương;

- Các phương pháp dạy còn mang nặng tính lý thuyết, chưa gắn lý thuyết với thực hành, chưa gây hứng thú, cuốn hút học viên, thiếu các tình huống cụ thể, phát sinh từ thực tiễn công tác.

- Phương pháp học của học viên còn mang tính thụ động, thiếu tính sáng tạo;

- Hầu hết giảng viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Vấn đề nghiên cứu, lựa chọn và ứng dụng phương pháp đào tạo trong lĩnh vực tư pháp còn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ.

6. Giảng viên

- Giảng viên tham gia đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương

Hiện nay, Bộ Tư pháp huy động một số lượng lớn giảng viên tham gia vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, bao gồm:

+ Giảng viên cơ hữu của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng như giảng viên trường Đại học Luật Hà nội, Học viện Tư pháp. Số lượng 310 người; trong đó số giảng viên cơ hữu của Trường Đại học Luật Hà Nội là 254 người; số lượng còn lại là giảng viên cơ hữu của Học viện Tư pháp. Đây là đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn nghề nghiệp, được đào tạo cơ bản và có phương pháp sư phạm. Đội ngũ giảng viên này đang tham gia chủ yếu vào công tác đào tạo đại học và sau đại học luật cho công chức tư pháp địa phương; đào tạo trung cấp Luật cho công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã; đào tạo nghề cho các chức danh chấp hành viên, công chứng viên.

+ Giảng viên kiêm chức: là các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý đang công tác ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Tuy chưa được đào tạo sâu về phương pháp sư phạm nhưng họ là những công chức có trình độ sâu về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp. Kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn của họ rất có giá trị trong thực tiễn công tác của ngành tư pháp, đặc biệt là công tác đào tạo nghề và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nhằm tăng cường năng lực cho công chức tư pháp địa phương.

- Tăng cường năng lực cho đội ngũ giảng viên:

+ Tăng cường số lượng: nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội ngũ giảng viên đối với chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, trong 5 năm qua, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp tuyển dụng thêm 75 công chức là cán bộ trẻ, có trình độ, năng lực bổ sung thêm lực lượng giảng viên cơ hữu của ngành; khuyến khích, phát huy tối đa sự tham gia vào công tác giảng dạy chuyên môn, nghề nghiệp của các chuyên gia pháp luật, các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà quản lý có trình độ chuyên sâu, có kinh nghiệm thực tiễn trong các lĩnh vực xây dựng, thẩm định và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, thi hành án dân sự, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, phổ biến giáo dục pháp luật… Hiện nay, số lượng giáo viên kiêm chức của Học viên Tư pháp đã tăng lên 300 người so với năm 1998 (40 giáo viên kiêm chức).

+ Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên: Hàng năm, Bộ Tư pháp đã giới thiệu được 10% giảng viên đi đào tạo chuyên sâu và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở trong nước và nước ngoài theo quy định tại Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg.

7. Cơ sở vật chất - kỹ thuật

Việc đào tạo Trung học Luật do trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thực hiện và đào tạo nghề do Học viện Tư pháp thực hiện và một số chương trình đào tạo về lý luận chính trị và hành chính nhà nước là do Học viện Hành chính quốc gia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hoặc các trường Chính trị tỉnh thực hiện. Đây là các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, có phòng học và các trang thiết bị giảng dạy cần thiết. Đặc biệt đối với Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp là những cơ sở giảng dạy đang sử dụng những trang thiết bị hiện đại vào công tác giảng dạy như đèn chiếu, máy vi tính, video, phòng diễn án, thư viện điện tử… vào công tác đào tạo.

Tuy nhiên, nhìn chung, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu. Để đào tạo một số lượng lớn công chức như hiện nay, cơ sở vật chất của Học viện Tư pháp đang bị quá tải, phải học theo ca, học buổi tối. Những khoá đào tạo được tiến hành tại địa phương thì hầu như học viên không được tiếp cận với những trang thiết bị giảng dạy cần thiết, chủ yếu vẫn là các hình thức giảng dạy truyền thống. Đối với những khoá bồi dưỡng nghiệp vụ, bao gồm cả những khoá do Bộ Tư pháp tổ chức thì đa số phải đi thuê hội trường, phòng học hoặc được thực hiện tại các hội trường của cơ quan là các phòng họp, hội nghị, hội thảo. Đây không phải là những địa điểm phù hợp, chuyên dành cho công tác giảng dạy nên việc bố trí, sắp xếp, sử dụng các trang thiết bị rất hạn chế.

II. ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

1. Đánh giá

1.1. Ưu điểm, những việc đã làm được

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để đáp ứng với yêu cầu thực thi nhiệm vụ, công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong những năm qua đã được đầu tư, tăng cường hơn trước. Điều này được thể hiện như sau:

- Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương đã quan tâm hơn đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Thực hiện Quyết định số 874/QĐ-TTg và đặc biệt là sau khi có Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005, công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp của địa phương đã được triển khai thực hiện. Trên cơ sở đề xuất nhu cầu của các đơn vị thuộc Bộ, Bộ Tư pháp đã xây dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Bộ hàng năm để trình Bộ Nội vụ xem xét, phê duyệt. Theo báo cáo của 47 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cho đến đầu năm 2006, 75% Sở Tư pháp đã phối hợp cùng với Sở Nội vụ để xây dựng trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu triển khai nhiệm vụ công tác tư pháp theo Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV. Hàng năm, cùng với việc tổng kết, đánh giá tình hình công tác chung thì Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp cũng đã tiến hành đánh giá kết quả, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng làm cơ sở để đề ra kế hoạch cho năm sau.

- Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng được nghiên cứu, cải tiến phù hợp với thực trạng trình độ của từng loại công chức và nhằm đáp ứng được với yêu cầu của đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng.

Hầu hết các chương trình đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến các lĩnh vực quản lý chuyên ngành và theo các chức danh tư pháp đã được xây dựng và đang từng bước được cải tiến phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng tập trung chủ yếu vào hai nội dung cơ bản là trang bị kiến thức lý luận chính trị, quản lý nhà nước với kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện “xoá nợ” đối với cán bộ, công chức về lý luận chính trị và quản lý hành chính, mặt khác để thực hiện yêu cầu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng đã có sự cơ cấu hợp lý hơn giữa phần lý thuyết và thực hành, phát huy thế mạnh của việc đào tạo, bồi dưỡng thông qua việc thực tập kiến thức tại cơ sở; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức và kỹ năng hoạt động thực thi công vụ chuyên sâu theo chức danh như các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý đối với Giám đốc Sở, Trưởng Thi hành án; bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp huyện, cấp xã…

- Phương pháp đào tạo đang được đổi mới với sự kết hợp với các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng tích cực, lấy người học làm trung tâm và lấy tình huống thực tế làm nền tảng cho việc nghiên cứu dạy và học. Phương pháp song giảng, phương pháp thảo luận và phương pháp tình huống đã chứng tỏ tính ưu việt, đang được áp dụng rộng rãi hơn, không chỉ trong công tác đào tạo nghề mà cả trong công tác đào tạo luật cơ bản và bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức.

- Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương đã bước đầu quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Hàng năm Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp đã xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức trong đó có gắn với kinh phí theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Tài chính về quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, ngoài kinh phí được phân bổ, một số địa phương đã quan tâm cấp thêm  hoặc hỗ trợ những khoản chi phí về ăn, ở, đi lại cho học viên để hoạt động đào tạo, bồi dưỡng được triển khai có hiệu quả.

- Kết quả đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian 5 năm (2001-2005)

+ Theo quy định tại Pháp lệnh thi hành án dân sự và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 về công chứng, chứng thực thì ngoài các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, chính trị… hai chức danh chấp hành viên và công chứng viên phải có chứng chỉ đào tạo nghề trước khi bổ nhiệm. Việc đào tạo nghề cho các chức danh chấp hành viên và công chứng viên được thực hiện tại Học viện tư pháp.

Đến cuối năm 2005, Bộ Tư pháp đã tổ chức được 5 khoá đào tạo công chứng viên với tổng số 245 người; 4 khoá đào tạo chấp hành viên, với tổng số 490 người.

 +  Đào tạo Trung học Luật do Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện từ năm 2001 đến nay là 67 lớp với số lượng 2.948 người đã tốt nghiệp; hiện nay còn hơn 30 lớp đang học với số lượng trên 3.000 người. Đối tượng học chủ yếu là cán bộ chính quyền cơ sở, cán bộ tư pháp và cán bộ nguồn cho cấp xã.

+ Số lượng các lớp bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ do Bộ Tư pháp tổ chức cho công chứng viên là 6 lớp với tổng số 609 lượt người, bồi dưỡng nghiệp vụ cho chấp hành viên là 14 lớp với tổng số 2.024 lượt người (bảng2); tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và cập nhật văn bản mới cho 1.785 lượt công chức tư pháp địa phương (bảng 3). Ngoài ra, hàng năm các Sở Tư pháp đều tổ chức các lớp tập huấn văn bản mới và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp của địa phương về lĩnh vực soạn thảo văn bản, đất đai, nghiệp vụ hoà giải ở cơ sở, thi hành án ở xã, phường, thị trấn…

1.2. Những hạn chế

Bên cạnh ưu điểm và những kết quả làm được, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương cũng bộc lộ những hạn chế như sau:

- Sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp và chính quyền địa phương đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương chưa kịp thời, đầy đủ. Điều này được biểu hiện trước hết là nhận thức về thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Một số địa phương không chủ động thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ công chức của địa phương mình, trong đó có công chức tư pháp. Địa phương quan tâm nhiều hơn đến việc đào tạo chuẩn theo chức danh của công chức về nội dung lý luận chính trị, quản lý hành chính, Trung cấp và Đại học Luật theo quy định, còn việc bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức thì chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Số lượng các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ trong các lĩnh vực chuyên ngành công tác tư pháp được thực hiện trong thời gian qua chủ yếu là do Bộ Tư pháp thực hiện. Đồng thời, do sự quan tâm chỉ đạo hạn chế nên ở một số địa phương sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và các cơ quan có liên quan khác như Sở Nội vụ, Trường Chính trị tỉnh chưa chặt chẽ, đồng bộ nên việc lập và triển khai kế hoạch còn lúng túng, phân bổ kinh phí, chỉ tiêu đào tạo thấp, cá biệt có nơi không hoàn thành được kế hoạch đề ra.

- Phân công, phân cấp trách nhiệm trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương chưa cụ thể, rõ ràng và được thực hiện triệt để.

Trong hệ thống văn bản pháp luật về quản lý đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương hiện hành, các nội dung phân công, phân cấp quản lý cũng chưa được cụ thể. Ví dụ Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ xác định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là xây dựng nội dung, chương trình, bồi dưỡng cập nhật nâng cao trình độ; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (Điều 25 Khoản 8), trong khi đó cũng xác định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp huyện là tổ chức việc bồi dưỡng cán bộ, công chức. Như vậy, ngay giữa cấp tỉnh và cấp huyện, việc phân cấp thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cũng chưa được cụ thể, rõ ràng.

Bên cạnh đó, theo các quy định của pháp luật về phân cấp trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thì các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành và địa phương. Kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng được đưa về các cấp phù hợp với đối tượng quản lý. Tuy nhiên, do điều kiện của nhiều địa phương còn khó khăn, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo nên việc sử dụng kinh phí cho mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn hạn chế, chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Thực tế, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp vẫn phải tiếp tục trực tiếp tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Thống kê từ năm 2001-2006, Bộ Tư pháp đã tổ chức 134 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về xây dựng văn bản, phổ biến giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, công chứng, chứng thực… cho 11.480 lượt công chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và từ năm 2004-2006 hỗ trợ bồi dưỡng nghiệp vụ cho 1.088 lượt cán bộ Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã các tỉnh Tây Nguyên, Tây Bắc.

Trách nhiệm của cơ quan quản lý và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng chưa được quy định một cách rành mạch, rõ ràng. Ví dụ như tại Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Học viện Tư pháp giao cho Học viện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với các chức danh tư pháp. Trong khi đó Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ xác định Cục Thi hành án dân sự có nhiệm vụ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho chấp hành viên và công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự địa phương (Điều 6). Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 14/1/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý giao cho Cục Trợ giúp pháp lý thực hiện việc cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.

- Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được với mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng công chức theo kế hoạch chung của Chính phủ. Thời gian qua, Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan chưa có hướng dẫn cụ thể nên việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương chưa thống nhất, có địa phương chỉ chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn mà chưa chú trọng đến công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, đào tạo quản lý hành chính nhà nước, tin học, ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc đối với công chức đang làm việc tại vùng dân tộc. Cùng với đó, việc triển khai xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức địa phương nói chung, trong đó có đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn lúng túng và thiếu tính kịp thời, đặc biệt là việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg.

Do quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương chưa được xây dựng nên việc đào tạo, bồi dưỡng không đạt được hiệu quả như mong muốn; đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với sử dụng. Số lượng cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nhiều nhưng số nợ tiêu chuẩn vẫn còn khá lớn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã. Thực tiễn cho thấy không ít công chức Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã sau khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn hoặc nâng cao trình độ thì lại được bố trí đảm nhận công tác khác. Điều này dẫn đến thực trạng đến đầu năm 2006 vẫn còn 47% số công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã chưa có trình độ Trung học Luật theo yêu cầu.

- Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng dành cho cán bộ, công chức chưa được xây dựng thống nhất, có hệ thống và phù hợp với đặc thù của ngành Tư pháp. Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ còn trùng lặp, nặng về lý thuyết mà ít các kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Sự trùng lặp về nội dung có trong các hệ thống giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng khác nhau và trong nội dung của cùng một hệ thống giáo trình. Sự khác biệt về cấp độ kiến thức và các kỹ năng của từng loại giáo trình, tài liệu chưa được thể hiện rõ. Bên cạnh đó, các chương trình, tài liệu đào tạo hiện nay đang yếu về kỹ năng thực hành và tác nghiệp phù hợp với việc triển khai nhiệm vụ cụ thể tại địa phương.

Yêu cầu thực hiện đào tạo tiền công vụ chưa được thực hiện. Đào tạo tiền công vụ là hướng đào tạo, bồi dưỡng mới được đề cập trong Quyết định số 74/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, cho đến  nay, chương trình, nội dung và tài liệu đào tạo tiền công vụ vẫn chưa được xây dựng. Tính đến đầu năm 2006, Bộ Tư pháp cũng mới chỉ mở được 03 lớp bồi dưỡng thí điểm một số nội dung cần thiết dành cho đội ngũ công chức mới được vào nghề.

- Đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng được với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

So với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương thì đội ngũ giảng viên còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Đội ngũ giảng viên của trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp và các cơ sở đào tạo luật khác phải dành một thời lượng lớn cho việc đào tạo, giảng dạy cho sinh viên, học viên của nhà trường, khó có thể tham gia các khoá đào tạo, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Trong khi học viên  là những đối tượng cần những kỹ năng giải quyết công việc thực tế, cụ thể thì khả năng và phương pháp giảng dạy thực hành của đội ngũ giảng viên này chưa đáp ứng được yêu cầu học đi đôi với hành, hình thành năng lực tự học và khả năng làm việc tập thể, làm việc theo nhóm.

Đội ngũ giảng viên kiêm chức hiện nay đang giảng dạy đối với các nội dung về chuyên môn, nghiệp vụ, đòi hỏi thực tiễn và kinh nghiệm giải quyết công việc cụ thể. Tuy nhiên, những giảng viên này chủ yếu là các công chức lãnh đạo hoặc chuyên môn, ngoài việc lịch giảng không ổn định, thời gian ít, còn hạn chế về phương pháp sư phạm và khả năng truyền đạt kiến thức cho học viên. Do đó, việc giảng dạy còn thiếu chuyên nghiệp, bài bản và chưa đáp ứng được đầy đủ mục tiêu đã đề ra.

- Cơ sở vật chất, kinh phí tuy đã được quan tâm hơn trước nhưng nhìn chung còn thấp, các nội dung thực chi cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế. Sau khi Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg được ban hành năm 2001, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng đã được tăng nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn. Các mức chi, khung mức chi còn thấp như những khoản chi dành cho việc xây dựng chương trình, tài liệu, chi cho giảng viên… Nhiều khoản dành cho những hoạt động phi đào tạo như thuê hội trường, hỗ trợ cho học viên kinh phí ăn, ở, đi lại nên đã ảnh hưởng tới phần thực chi cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng.

2. Nguyên nhân của những hạn chế

- Nhận thức về vị trí vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương và về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức nói chung trong đó có đội ngũ công chức tư pháp của các cấp bộ, ngành và chính quyền địa phương có lúc, có nơi chưa đầy đủ, thống nhất. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng được coi là một dạng chi phí tốn kém, chỉ được quan tâm mà chưa được coi như là một giải pháp ưu tiên, then chốt và khôn ngoan cho việc nâng cao chất lượng cán bộ với chiến lược dài hơi, đồng bộ và có chủ định. Các địa phương có chương trình, kế hoạch đào tạo nhưng nội dung cũng như việc triển khai chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp của các cơ quan có liên quan, hỗ trợ, tạo điều kiện cần thiết để công tác đào tạo, bồi dưỡng đạt mục tiêu và hiệu quả.

- Chưa xây dựng được quy hoạch đội ngũ công chức ngành Tư pháp và đội ngũ công chức tư pháp địa phương làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng. Mặc dù được chỉ đạo triển khai trong một thời gian dài, nhưng có thể nói công tác xây dựng quy hoạch đội ngũ công chức là một hoạt động tồn tại trong nhiều năm vẫn chưa hoàn thành được. Điều này dẫn đến tình trạng khó triển khai và lãng phí trong đào tạo, bồi dưỡng như đào tạo, bồi dưỡng nhưng không sử dụng được hoặc sử dụng không đúng vị trí, nợ tiêu chuẩn chức danh, đào tạo, bồi dưỡng xong lại chuyển sang công tác khác… Và thực tế phổ biến vẫn là “người đi sau vẫn học theo người đi trước, người già truyền kinh nghiệm cho người trẻ”.[12]

- Thực trạng năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập do đó không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả mà còn có những yêu cầu, đòi hỏi cao hơn đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng. Mặc dù trong những năm gần đây, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được nâng lên một bước nhưng nhìn chung chưa theo kịp với những yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao. Trình độ của đội ngũ công chức không đồng đều, điều kiện từng vùng, miền, tỉnh, thành phố lại khác nhau, do đó ảnh hưởng đến không chỉ việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng mà còn ảnh hưởng tới cả việc xây dựng được nội dung, chương trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy, giảng viên để không chỉ bảo đảm cung cấp được những kiến thức cơ bản theo yêu cầu mà còn giải quyết, bổ sung được những kiến thức cụ thể, phù hợp với từng nơi và từng đối tượng.

Năng lực, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương đang là một thách thức rất lớn trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải đào tạo được trước hết một bộ phận cán bộ tư pháp trình độ chuyên môn sâu, trở thành chuyên gia giỏi làm nòng cốt trong việc hoạch định chính sách, tư vấn với chính quyền địa phương về mặt pháp lý trong việc giải quyết các vướng mắc, khó khăn cũng như tranh chấp có yếu tố nước ngoài xảy ra tại địa phương.

- Cơ chế quản lý chưa hiệu quả:

Các văn bản quy định về quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương thiếu tập trung, thống nhất và chậm được đổi mới. Hiện tại, có hàng chục văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức địa phương[13]. Việc hệ thống hoá và pháp điển hoá các quy phạm này còn chưa được quan tâm đúng mức. Mô hình và cơ chế đào tạo Trung cấp Luật của Bộ Tư pháp đưa ra tại Công văn số 1474/TP-TCCB ngày 12/10/1998 đã có những thay đổi về nội dung, hình thức, phương pháp với mục tiêu và yêu cầu cao hơn, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản khác phù hợp hơn thay thế.

Việc kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm và có hướng dẫn cụ thể. Các cơ quan quản lý về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng chưa xây dựng được phương pháp và chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; một số cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng mới chú trọng đến việc tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng mà chưa coi trọng đến việc tổ chức đánh giá chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng.

- Năng lực của đội ngũ công chức làm công tác đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế. Những công chức làm công tác đào tạo, bồi dưỡng hiện nay của các cơ quan tư pháp chủ yếu là tốt nghiệp Đại học Luật, một bộ phận nhỏ tốt nghiệp các chuyên ngành khác, không qua các trường lớp về sư phạm hay quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng. Và thực tế, chính những đội ngũ công chức này lại rất khó có cơ hội tham gia vào một khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác đào tạo, bồi dưỡng, cũng như có rất ít giáo trình, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đội ngũ công chức này đa số phải vừa làm, vừa nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để triển khai công việc. Do đó, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ cũng có những hạn chế nhất định, việc tham mưu trong công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch, trong việc nghiên cứu, đề xuất lãnh đạo ra các quyết sách, quyết định cụ thể cũng như việc tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch còn nhiều lúng túng.

 

Phần thứ ba

PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC  ĐÀO TẠO,

 BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

 

I. MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU

1. Mục tiêu chung

Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức tư pháp địa phương có trình độ chuyên môn, thạo kỹ năng nghiệp vụ, có năng lực quản lý, điều hành, thực thi công vụ, trong sạch, vững mạnh, chính quy, chuyên nghiệp, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho ngành Tư pháp trong giai đoạn cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập kinh tế, quốc tế.

2. Mục tiêu cụ thể

a. Đối với công chức cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện và cơ quan thi hành án dân sự địa phương

Trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng công vụ, kiến thức lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học cho công chức cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện. Phấn đấu đến năm 2010, 100% công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, huyện được trang bị kiến thức đáp ứng tiêu chuẩn chức danh theo quy định.

Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý đương chức. Phấn đấu đến năm 2010, 100% lãnh đạo cấp Sở, Phòng Tư pháp, Thi hành án dân sự cấp tỉnh, huyện được trang bị kỹ năng lãnh đạo quản lý và kỹ năng phối hợp xử lý những vấn đề có tính chất liên ngành.

Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cho công chức dự nguồn bổ nhiệm công chứng viên, chấp hành viên trước khi bổ nhiệm.

Đến năm 2010, 100% công chức tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện được bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật, trang bị thông tin, những kiến thức về hội nhập, trong đó chú trọng bồi dưỡng cho công chức tại các cơ quan tư pháp cấp tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm- nơi tập trung các quan hệ dân sự, kinh tế có yếu tố nước ngoài.

b. Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch

 Đến năm 2010, 100% công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức bổ trợ theo quy định, trong đó, số công chức có trình độ trung cấp luật tại các vùng đô thị, đồng bằng, vùng núi có tỉ lệ tương ứng là 95%, 80% và 70%. Chú trọng bồi dưỡng tiếng dân tộc cho công chức tư pháp hộ tịch ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa có trên 50% đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

3. Yêu cầu

Đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch trong khuôn khổ chiến lược phát triển nguồn nhân lực của ngành Tư pháp và tiêu chuẩn của từng chức danh công chức. Trong đó, quy hoạch đào tạo gắn với quy hoạch công chức lãnh đạo quản lý và công chức chuyên môn nghiệp vụ.

Đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện một cách hệ thống, khoa học, tập trung vào kỹ năng, nghiệp vụ, trên cơ sở năng lực làm việc của cán bộ với nhu cầu, mục tiêu học tập cụ thể, rõ ràng; đào tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và kiểm tra, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đã được đào tạo, bồi dưỡng.

Đổi mới nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương trên cơ sở nhu cầu và đặc thù của từng đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng, có tính đến yếu tố vùng miền và các đặc điểm kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo có chất lượng và đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực chuyên môn và có phương pháp tốt.

Thay đổi nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền ở địa phương về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp trong định hướng phát triển nguồn nhân lực của địa phương. Đẩy mạnh phân cấp, xác định cụ thể trách nhiệm quản lý và thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương cho các cơ quan tư pháp địa phương và các cơ sở đào tạo.

II. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG

1. Hoàn thiện chính sách quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng

1.1. Rà soát hiệu lực các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng

Thực hiện rà soát, đánh giá hiệu quả, tính đồng bộ, khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công chức tư pháp nói riêng. Trên cở sở kết quả rà soát và những kiến nghị của cơ quan tư pháp địa phương, Bộ Tư pháp tiến hành xem xét các văn bản trong phạm vi thẩm quyền trực tiếp sửa đổi hoặc kiến nghị các cơ quan chức năng thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung những văn bản không đáp ứng yêu cầu thực tiễn, xây dựng, ban hành những văn bản mới về quản lý đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công chức tư pháp nói riêng trong đặc thù tình hình cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập hiện nay.

1.2. Phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng

Đổi mới cơ chế quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng phân cấp mạnh mẽ hơn cho các cơ quan tư pháp địa phương và các cơ sở đào tạo. Phân định rõ trách nhiệm giữa cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng (Bộ Tư pháp, UBND cấp tỉnh, huyện) với cơ quan trực tiếp thực hiện hoạt động đào tạo, bồi dưỡng (Học viện Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự các cấp, các trường Chính trị ở địa phương...) tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể như sau:

- Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành chức năng thực hiện quản lý vĩ mô, tập trung vào việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch; phân bổ chỉ tiêu, kinh phí và hướng tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đồng thời, với vai trò Bộ quản lý chuyên ngành, Bộ Tư pháp trực tiếp xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng cho giảng viên và chương trình, tài liệu khung bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương thống nhất trong toàn quốc; tổ chức các lớp bồi dưỡng cho cán bộ thuộc phạm vi quản lý, tổ chức các lớp bồi dưỡng điểm và hướng dẫn Sở Tư pháp triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng.

- Các cơ quan tư pháp địa phương trên cơ sở quy định về phân cấp quản lý và căn cứ vào chương trình khung của Bộ Tư pháp để bổ sung, biên tập chương trình, tài liệu và trực tiếp tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ phù hợp với điều kiện, tình hình kinh tế - xã hội của địa phương.

Tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo như Học viện Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học... Tạo điều  kiện để các cơ sở này nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng.

1.3. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo

Bộ Tư pháp kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo nhằm bảo đảm tính hệ thống và sự liên thông giữa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ với đào tạo nghề, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý nhà nước và các kiến thức bổ trợ khác cho cán bộ, công chức. Theo đó, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng như Học viện chính trị quốc gia, Học viện Hành chính quốc gia, Trường chính trị của các tỉnh thực hiện việc phối hợp chặt chẽ trong việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chung, thống nhất; thực hiện việc công nhận kết quả đào tạo của các nhau đối với những chương trình có cùng một nội dung, khối lượng kiến thức giữa hai cơ sở đào tạo để tránh trùng lặp nội dung và lãng phí thời gian và các nguồn lực khác.

2. Đổi mới tổ chức bộ máy các cơ quan và bố trí, sử dụng hiệu quả công chức tư pháp địa phương

2.1. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp địa phương

Trước yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập kinh tế, quốc tế thì ngành Tư pháp nói chung và cơ quan tư pháp địa phương ngày càng được giao thêm nhiều nhiệm vụ với yêu cầu cao về chất lượng và tiến độ. Do đó, các cơ quan tư pháp địa phương cần tập trung kiện toàn về tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ được giao trên cơ sở các quy định của pháp luật và điều kiện thực tiễn của địa phương. Xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy trình làm việc để đưa hoạt động vào nền nếp, có hiệu quả.

2.2. Bố trí, sử dụng công chức tư pháp địa phương

 Tuyển dụng đúng tiêu chuẩn chức danh công chức: các địa phương có chính sách tuyển dụng những người đúng chuyên môn, nghiệp vụ, đủ tiêu chuẩn về trình độ vào làm việc tại cơ quan tư pháp. Cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện ưu tiên tuyển dụng những người có bằng cử nhân luật hệ chính quy, được đào tạo cơ bản về làm việc, tạo môi trường thuận lợi, chính sách đãi ngộ tốt... để đội ngũ này yên tâm gắn bó lâu dài với địa phương. Tư pháp cấp xã cần tuyển dụng những người đã có bằng trung học luật chuyên trách công tác tư pháp. Các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn cần có chính sách gửi học sinh các dân tộc thiểu số đi đào tạo để làm nguồn công chức tư pháp.

Bố trí, sắp xếp cán bộ vào vị trí công tác phù hợp: bố trí, sắp xếp những người có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác vào những vị trí công tác phù hợp, đồng thời tạo điều kiện để cán bộ, công chức có thể phát huy kiến thức, năng lực vào thực tiễn công tác. Thông qua bố trí, sắp xếp vị trí công tác để khuyến khích công chức tư pháp không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Bản thân mỗi công chức cũng cần có định hướng về lĩnh vực chuyên môn cần tập trung nghiên cứu và trang bị kiến thức.

Tạo môi trường làm việc ổn định cho công chức tư pháp: tạo điều kiện để đội ngũ công chức tư pháp địa phương được làm việc ổn định theo lĩnh vực chuyên trách, hạn chế việc điều động những người có chuyên môn hoặc đã qua đào tạo về chuyên môn tư pháp sang lĩnh vực khác hoặc ngược lại. Mở rộng đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp ở cấp xã để bảo đảm nguồn cán bộ thay thế khi có sự thay đổi, điều động, thuyên chuyển.

3. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

3.1. Rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

Bộ Tư pháp chỉ đạo cơ quan tư pháp cấp tỉnh thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng về số lượng, chất lượng, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương theo tiêu chí: cấp quản lý (tỉnh, huyện, xã), tiêu chí vùng miền, điều kiện kinh tế xã hội (đô thị, nông thôn, miền núi, vùng sâu xùng xa...). Trên cơ sở kết quả rà soát đánh giá đội ngũ công chức tư pháp địa phương hàng năm, Bộ Tư pháp có biện pháp kiện toàn về cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp địa phương, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức.

3.2. Các cơ quan tư pháp địa phương xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

Các cơ quan Tư pháp địa phương cần sớm triển khai công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nhằm khắc phục sự phối hợp chưa đồng bộ giữa ngành quản lý về chuyên môn và cấp quản lý hành chính về nhân sự, dẫn đến sự chồng chéo, thiếu ổn định và thiếu tính kế thừa trong công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng phải dựa trên cơ sở quy hoạch cán bộ, với phương châm quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với bố trí, sử dụng cán bộ. Các cơ quan tư pháp địa phương cần tập trung xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp gắn với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của ngành Tư pháp và đặc điểm của địa phương. Trong đó, đặc biệt coi trọng các yếu tố: thực trạng đội ngũ công chức tư pháp địa phương (số lượng, năng lực, trình độ chuyên môn), chức năng, nhiệm vụ được giao cho ngành tư pháp nói chung và cho cơ quan tư pháp địa phương nói riêng. Bên cạnh đó, đặc điểm địa lý tự nhiên và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương cũng cần được coi trọng để xác định mục tiêu, nhu cầu và tiến độ đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài.  

Quy hoạch đào tạo bồi dưỡng là một phương pháp khoa học và có ý nghĩa quan trọng góp phần hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, các cơ quan tư pháp địa phương cần nhận thức được tầm quan trọng đó, tránh tình trạng làm chiếu lệ, hình thức, dẫn đến tình trạng “quy hoạch treo” trong chiến lược nhân sự và trong đào tạo, bồi dưỡng. Các câu hỏi cơ bản như đào tạo ai? đào tạo nội dung gì? ở mức độ nào? theo chương trình nào? ai đào tạo? đào tạo ở đâu, kinh phí bao nhiêu? từ nguồn nào? dự đoán hiệu quả đến đâu, sử dụng người được đào tạo, bồi dưỡng như thế nào?... cần được trả lời tương đối rõ trong khi xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng.

4. Đổi mới chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng

4.1. Chương trình, nội dung đào tạo chuyên môn

Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào yêu cầu thực tiễn, tiêu chuẩn cho từng cán bộ, công chức tư pháp, nhiệm vụ được giao. Trong đó, quán triệt phương châm lý luận phải gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, đảm bảo hiệu quả, thiết thực.

Chương trình đào tạo phải kết hợp trang bị kiến thức chuyên môn với việc nâng cao nhận thức về chính trị, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể của công chức. Kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ trang bị cho công chức tư pháp địa phương cần toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm tránh dàn trải, kết hợp giữa kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên ngành và kiến thức bổ trợ.

 Xây dựng hệ thống chương trình phù hợp đối với công chức tư pháp ở địa phương từ khi mới tham gia vào hoạt động công vụ, chẳng hạn như: chương trình đào tạo, bồi dưỡng tiền công vụ cho công chức dự bị, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho các vị trí công chức lãnh đạo: Giám đốc sở, Trưởng thi hành án cấp tỉnh, Trưởng phòng tư pháp, Trưởng thi hành án cấp huyện, công chức Tư pháp - Hộ tịch...

a. Đối với nội dung, chương trình đào tạo đại học

Đổi mới, chuẩn hoá khung chương trình đào tạo đại học luật, có sự phân hoá các chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu của từng công việc dành cho cử nhân luật. Căn cứ vào đặc thù của công tác tư pháp để xây dựng khung chương trình đào tạo phù hợp. Chương trình học cần đáp ứng được yêu cầu giúp sinh viên có định hướng và có những kiến thức ban đầu để xử lý các yêu cầu công việc thực tiễn. Đặc thù của công tác tư pháp có ảnh hưởng đến rất nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, chương trình đào tạo cử nhân luật cần trang bị thêm kiến thức của các lĩnh vực liên quan. Các cơ sở đào tạo luật nghiên cứu bổ sung các chuyên đề tự chọn cho sinh viên, tăng thời lượng thực hành, thực tập tránh việc đào tạo nặng về lý luận xa rời thực tiễn.

Đào tạo, bồi dưỡng phải được thực hiện theo phương châm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của xã hội. Vì vậy, chương trình đào tạo luật không chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về lý thuyết mà còn phải tập trung bổ sung các kiến thức nghiệp vụ như: kỹ năng soạn thảo văn bản,  kỹ năng nghiên cứu, đánh giá, phân tích, hoạch định chính sách, kỹ năng tư vấn, tranh tụng, các kiến thức về luật quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế....

Những nội dung đổi mới phải được thể hiện không chỉ trong chương trình đào tạo chung mà cần được thể hiện rõ nét cả trong đào tạo chuyên ngành.

b. Nội dung, chương trình đào tạo trung cấp luật

 Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo trung cấp luật theo hướng bám sát nhu cầu thực tiễn công tác và căn cứ vào đặc điểm đối tượng học viên. Xây dựng chương trình thống nhất, trong đó bổ sung khối kiến thức về nghiệp vụ, đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành và kiến thức các lĩnh vực liên quan.

Đối với những địa phương thuộc các vùng núi, vùng sâu, vùng xa nơi có điều kiện kinh tế khó khăn và trình độ của công chức tư pháp thấp hơn mặt bằng chung của các địa phương trong cả nước, các cơ sở đào tạo cần nghiên cứu, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với đặc điểm nhóm đối tượng này. Chương trình, nội dung đào tạo cần được thiết kế phù hợp giữa thời lượng đào tạo các kiến thức văn hoá chung và đào tạo chuyên môn luật.

c. Chương trình đào tạo nghề

Đới với việc đào tạo nguồn công chứng viên, chấp hành viên  cần xây dựng chương trình thống nhất, tăng thời lượng đào tạo về đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng công vụ, giảm thời lượng đào tạo về kiến thức pháp luật chung do các học viên đã được đào tạo tại chương trình cử nhân, tăng thời lượng thực tập tại các địa phương có nhiều vụ việc, đội ngũ công chức có trình độ, kinh nghiệm. Những kiến thức về cập nhật văn bản mới không nên đưa vào chương trình đào tạo, học viên có thể tự trang bị phần kiến thức này thông qua các phương tiện thông tin như sách, báo, mạng internet.

4.2. Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ

a. Đối với đội ngũ chuyên viên pháp lý, công chứng viên, chấp hành viên

Khi xây dựng chương trình cần quán triệt tư tưởng không dạy lại những kiến thức lý luận chung mà chủ yếu tập trung vào kỹ năng, kinh nghiệm và tác nghiệp cụ thể. Công chức tư pháp cần được tập trung bồi dưỡng các kỹ năng còn thiếu và yếu như: xây dựng, soạn thảo và thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, phân tích chính sách, đánh giá tác động của các điều kiện kinh tế -xã hội đối với dự thảo luật, thu hút sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật...

Xây dựng hệ thống chương trình bồi dưỡng theo từng lĩnh vực chuyên môn như: xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, công chứng, chứng thực, hộ tịch, lý lịch tư pháp, trợ giúp pháp lý, phổ biến giáo dục pháp luật, hoà giải, ... làm cơ sở để địa phương nghiên cứu các chương trình bồi dưỡng cụ thể trong từng năm.

Tiếp tục hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho công chức tư pháp làm nhiệm vụ có yếu tố nước ngoài. Trong đó đặc biệt chú trọng đến hai mảng kiến thức về ngoại ngữ tin học và mảng kiến thức về pháp luật so sánh, hệ thống pháp luật quốc tế, hệ thống pháp luật một số nước phát triển phân theo khu vực, hệ thống luật lệ, quy tắc của các tổ chức quốc tế như: WTO, WB, WHO…

b. Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch

Biên soạn, xây dựng các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế của công tác tư pháp ở địa phương (đô thị, đồng bằng, vùng núi...).

Đi đôi với việc đào tạo chuyên môn cơ bản có hệ thống cần chú trọng dạy nghề ở mỗi chương trình. Công chức Tư pháp - Hộ tịch ở các vùng miền núi cần được trang bị những kiến thức, việc làm cụ thể thuộc lĩnh vực công tác để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và sát với tình hình thực tiễn ở địa phương.

Xây dựng chương trình bồi dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ, sinh viên khi ra trường chuẩn bị đến vùng dân tộc mà mình được phân công công tác để có phương tiện giao tiếp đảm bảo hiệu quả trong công việc.

4.3. Giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng

Hoàn thiện chương trình khung, tài liệu chung, thống nhất về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho từng loại đối tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn địa phương xây dựng chương trình, tài liệu phù hợp với đặc điểm của địa phương. Từng địa phương sẽ căn cứ vào chương trình khung đó để nghiên cứu xây dựng giáo trình, tài liệu phù hợp với đặc điểm đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của mình.

Xây dựng, phát hành các tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ, hệ thống văn bản về từng lĩnh vực chuyên môn, sách hướng dẫn nghiệp vụ, cẩm nang.... coi đây là một kênh thông tin quan trọng mà công chức tư pháp địa phương có thể tham khảo, tìm hướng dẫn khi giải quyết các vấn đề thực tiễn công việc.

Tài liệu bồi dưỡng có thể xây dựng dựa trên các lĩnh vực hoạt động tư pháp như: kỹ thuật xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; nghiệp vụ công chứng, chứng thực, nghiệp vụ thi hành án, nghiệp vụ hoà giải... hướng dẫn công tác tư pháp- hộ tịch tại xã phường thị trấn... hoặc theo đặc thù trình độ dân trí và điều kiện kinh tế xã hội của mỗi vùng miền, ví dụ: tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ tư pháp hộ tịch cho các tỉnh vùng Tây nguyên, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp hộ tịch các tỉnh miền núi phía Bắc... Tài liệu cũng có thể xây dựng căn cứ vào cấp quản lý công tác tư pháp  như: tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ soạn thảo văn bản cho công chức sở tư pháp; tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ tư pháp cấp huyện, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ tư pháp cấp xã...

Hình thức trình bày của các tài liệu cũng cần đặc biệt chú ý đến đặc điểm của các nhóm đối tượng tiếp nhận. Tài liệu dành cho công chức các Sở Tư pháp có thể viết ở mức độ khái quát, chuyển tải nhiều thông tin, kết hợp trang bị cả kiến thức lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên đối với, tài liệu dành cho công chức Tư pháp - Hộ tịch cần viết đơn giản dễ hiểu, tập trung vào kỹ năng tác nghiệp theo lối cầm tay chỉ việc.

 Nghiên cứu cơ chế nâng cao trách nhiệm của Hội đồng thẩm định các chương trình, giáo trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức tư pháp địa phương, góp phần nâng cao chất lượng của các giáo trình tài liệu này.

5. Đa dạng hoá hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng

5.1. Hình thức đào tạo

Đặc điểm của công chức tư pháp địa phương là đối tượng vừa học vừa làm, phần lớn đã được qua đào tạo cơ bản chương trình cử nhân, trung cấp luật. Vì vậy, căn cứ vào đặc điểm của từng nhóm đối tượng công chức tư pháp địa phương, trên cơ sở các yếu tố liên quan như: chức trách, nhiệm vụ, trình độ chuyên môn, điều kiện kinh tế xã hội và yếu tố vùng miền của địa phương nơi công chức đang công tác. Hiện nay, các hình thức đào tạo cho công chức rất đa dạng, phong phú bao gồm: chính quy, không chính quy, tập trung, bán tập trung, dài hạn, ngắn hạn, đào tạo bồi dưỡng tại chỗ, đào tạo qua công việc, tham quan, khảo sát, hội thảo, toạ đảm, tổng kết kinh nghiệm... Như đã phân tích về đặc điểm của công chức tư pháp, hình thức học tập trung, dài hạn sẽ không phù hợp với nhóm đối tượng này. Vì vậy, các lớp đào tạo, bồi dưỡng không tập trung, ngắn hạn, các buổi tham quan khảo sát, học hỏi kinh nghiệm giữa các địa phương với nhau sẽ phù hợp và có hiệu quả hơn. Đối với các vùng núi, vùng sâu, vùng kinh tế khó khăn, chúng ta có thể phối hợp với các cơ sở đào tạo ở địa phương tổ chức các lớp đào tạo tại chỗ. Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp có thể hỗ trợ về giáo trình, tài liệu, giảng viên... địa phương sẽ đảm bảo địa điểm và chỗ ăn, ở cho học viên.

Trong thời kỳ bùng nổ các phương tiện thông tin, việc xã hội hoá học tập có rất nhiều điều kiện thuận lợi. Chúng ta có thể nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi các hình thức đào tạo, bồi dưỡng trên đài phát thanh, truyền hình, đào tạo trực tuyến qua  mạng internet... Mô hình này đã được Sở Tư pháp Cần Thơ ứng dụng để tổ chức 01 lớp dạy pháp luật trên đài phát thanh và truyền hình địa phương có 1.045 học viên tham gia, số người được cấp giấy chứng nhận trình độ sơ cấp luật là 826 học viên.

Đối với công chức tư pháp hộ tịch việc mở các lớp đào tạo trung cấp luật cho họ ngay tại địa phương rất có hiệu quả. Chúng ta cần tích cực đổi mới hình thức đào tạo này, đổi mới cơ chế phối hợp giữa cơ quan đứng ra tổ chức lớp với các cơ sở đào tạo tại địa phương một cách chặt chẽ, nghiêm túc...

 Đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết qủa đào tạo bồi dưỡng. Sau mỗi chương trình học, việc kiểm tra cần được đặc biệt chú trọng, đảm bảo nghiêm túc và thực chất, sát nội dung, chương trình và thể hiện rõ nhất chất lượng học tập của học viên.

 Sau mỗi  lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn ngày cũng cần có cơ chế kiểm tra, thẩm định chất lượng thông qua việc phát phiếu đánh giá chất lượng lớp học cho học viên. Thông qua các đánh giá của học viên, đơn vị tổ chức đào tạo bồi dưỡng sẽ tổ chức rút kinh nghiệm để bổ sung, thay đổi chương trình, hình thức, phương pháp và cách thức tổ chức các lớp bồi dưỡng cho hiệu quả và thiết thực.

Tại một số nước trong khu vực như Thái Lan đã áp dụng mô hình tự đào tạo. Tự đào tạo tại chỗ thông qua công việc cụ thể là công việc thuộc về bản thân công chức và người lãnh đạo của họ. Mỗi công chức đã có thâm niên công tác nhất định có trách nhiệm hướng dẫn, giám sát và truyền đạt kinh nghiệm làm việc cho công chức có số năm công tác ít hơn, công chức cấp trên có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ công chức dưới quyền.  Điều này được quy định rất cụ thể như một nhiệm vụ của công chức. Hình thức đào tạo này hiệu quả và tiết kiệm chi phí.

Hình thức gửi công chức đi đào tạo tại một số quốc gia phát triển cần được xem xét và mạnh dạn áp dụng đối với những công chức tư pháp là chuyên viên chính trở lên hoặc công chức là nguồn quy hoạch cán bộ- những người trẻ, được đào tạo cơ bản và có khả năng ngoại ngữ. Để từng bước hiểu và hành xử theo đúng những quy tắc, luật chơi thương mại chung của thế giới, việc đào tạo công chức tại những quốc gia phát triển là thành viên lâu năm của WTO, những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam sẽ thực sự có hiệu quả.

5.2. Phương pháp đào tạo

Các cơ sở đào tạo và giảng viên cần thay đổi phương pháp đào tạo theo hướng hạn chế áp dụng phương pháp độc thoại, thuyết trình, tăng cường các phương pháp bồi dưỡng tích cực lấy người học làm trung tâm và lấy tình huống thực tiễn làm nền tảng cho việc nghiên cứu dạy và học.

Phương pháp song giảng, phương pháp thảo luận và phương pháp tình huống cần được ưu tiên áp dụng. Phương pháp thuyết trình truyền thống cũng cần được đổi mới, tăng cường sự hỗ trợ của khoa học công nghệ để các bài giảng, thuyết trình trở nên hấp hẫn, lôi cuốn người học.

6. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên

Khảo sát, nắm thực trạng đội ngũ giảng viên: Tiến hành khảo sát, nắm thực trạng về số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên bao gồm cả giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng...Trên cơ sở đó có kế hoạch phát triển số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cơ hữu tại các trường Đại học Luật, Học viện Tư pháp bằng cách tuyển dụng, tiếp nhận hoặc gửi đi đào tạo những người có trình độ chuyên môn, có năng lực nghiên cứu, phương pháp giảng dạy tốt. Thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và các kiến thức chuyên ngành cho đội ngũ giảng viên này. Đồng thời tăng kiến thức thực tiễn của họ bằng cách tổ chức đi thực tế, khảo sát tại các địa phương trong cả nước.

Phát triển đội ngũ giảng viên kiêm chức tại các Đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh từ nguồn các công chức có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong quản lý và thực thi công tác tư pháp địa phương. Hàng năm tổ chức các lớp tập huấn về nội dung, chương trình, tài liệu và phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên, báo cáo viên kiêm nhiệm này.

Quy định việc tham gia đào tạo bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương như một nhiệm vụ bắt buộc đối với những người có trình độ, có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có thâm niên công tác tại các cơ quan tư pháp Trung ương và địa phương. Có chính sách tích cực thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia giỏi, giàu kinh nghiệm trên mọi lĩnh vực tham gia vào quá trình biên soạn chương trình, giáo trình, tài liệu và giảng dạy tại các lớp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.

 Chế độ chính sách đối với giảng viên: Cải tiến chế độ chính sách đối với giảng viên đặc biệt là những người tham gia giảng dạy, bồi dưỡng cho công chức tư pháp ở các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa điều kiện ăn ở đi lại khó khăn.

Phát triển đội ngũ giảng viên tại cơ sở: Các địa phương cần có kế hoạch xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên từ nguồn các công chức được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn sâu và có kinh nghiệm thực tiễn vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương mình. Có kế hoạch đưa đội ngũ công chức này đi đào tạo, tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và thường xuyên cập nhật các văn bản, kiến thức, kỹ năng mới.

Các địa phương cần chủ động trong việc mời giảng viên thỉnh giảng từ các cơ quan tư pháp, cơ sở đào tạo để giảng dạy tại các lớp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương mình. Có chính sách và chế độ đãi ngộ phù hợp về thù lao, tạo điều kiện thuận lợi trong bố trí, xắp xếp công việc cho những công chức kiêm  nhiệm công tác giảng dạy.

Hợp tác đào tạo với các tổ chức quốc tế: Tranh thủ thu hút sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế hoạt động ở các lĩnh vực liên quan, vận động các chuyên gia uy tín của một số nước trên thế giới đang hoạt động ở Việt Nam và ở địa phương tham gia vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, đặc biệt là bồi dưỡng cho các công chức đang thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hội nhập. Tranh thủ sự ủng hộ của cấp uỷ và chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện gửi các bộ, công chức đi đào tạo ở nước ngoài.

7. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác đào tạo, bồi dưỡng

Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, đảm bảo nguồn kinh phí đào tạo, thường xuyên cho công chức tư pháp địa phương.

Đầu tư nối mạng internet, phát hành báo chí, tạp chí, bản tin nội bộ ngành đến từng cơ quan tư pháp địa phương để công chức có điều kiện tự trau dồi kiến thức, cập nhật thông tin trong nước và quốc tế. Đặc biệt trong thời điểm chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, cải cách hành chính, việc nối mạng internet cho các cơ quan tư pháp rất cần thiết khi giải quyết các công việc liên quan đến hội nhập.

Cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương một cách hợp lý, đầu tư kinh phí đào tạo theo quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên những địa phương có nhu cầu cao, tránh đầu tư dàn trải, cào bằng, dẫn đến lãng phí, không hiệu quả. Đồng thời cần có cơ chế kiểm tra, thẩm định tính hiệu quả của các nguồn đầu tư này.

Có phương pháp cải tiến quy trình thẩm định, quyết định nguồn ngân sách nhà nước phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, tránh việc phải trải quy nhiều công đoạn, mất nhiều thời gian khi tiến hành triển khai thực hiện, gây ảnh hưởng đến tiến độ chung của công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút các nguồn đầu tư, tài trợ của chính phủ các nước, tổ chức quốc tế cho công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực của ngành tư pháp. Trong đó dành nguồn kinh phí để tổ chức các cuộc khảo sát, thực tập, đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước cho các chuyên gia làm công tác đào tạo, bồi dưỡng  và cho công chức tư pháp địa phương.

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

  Xuất phát từ thực trạng đội ngũ công chức tư pháp địa phương và thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức này; trên cơ sở phương hướng và các biện pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương theo tinh thần cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, chúng tôi kiến nghị một số vấn đề cụ thể như sau:

1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan có liên quan cần thường xuyên tự kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá và đánh giá tính hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về công tác đào tạo, bồi dưỡng, trên cơ sở kết quả đó, các cơ quan có thẩm quyền cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương nói riêng. Trong thời gian trước mắt cần tập trung nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ một số vấn đề sau:

- Kết hợp với việc phân cấp quản lý cán bộ, công chức và phân cấp về tài chính, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản quy định việc phân công, phân cấp và tạo cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan ở Trung ương và địa phương về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp theo hướng quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan và tạo thành một chỉnh thể thống nhất, đồng bộ có tính hợp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan có liên quan nghiên cứu nội dung, phạm vi phân công, phân cấp và tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc khó khăn đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương. Cần có cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho cơ quan tư pháp địa phương chủ động trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan mình.

- Ngày 07 tháng 01 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác quy định công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020 và tạo lập đồng bộ khung khổ pháp luật cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức địa phương trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm xây dựng định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó có đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể, thống nhất và phù hợp với tình hình thực tiễn về các chế độ đãi ngộ, thù lao cho giảng viên, các mức chi phí cho việc xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu, quyền lợi và nghĩa vụ của công chức được cử đi học, hoàn thiện cơ chế đánh giá chất lượng và quy định chế độ đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với công chức tư pháp địa phương, ban hành Quy chế cấp phát và sử dụng chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,… Ngoài ra, trong phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan cần sớm nghiên cứu và quy định chế độ khuyến khích công chức đi học tập, bố trí sắp xếp công việc phù hợp sau khi công chức được đào tạo, bồi dưỡng, có chế độ ưu tiên trong bổ nhiệm, đề bạt những đối tượng đã được đào tạo, bồi dưỡng,…

- Hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ, hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với công chức tư pháp địa phương với nội dung cơ bản là: Xây dựng văn bản quy định cụ thể hoá tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với công chức tư pháp địa phương, đặc biệt tiêu chuẩn này phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, xây dựng chế độ thu hút những người có trình độ, năng lực về công tác tại các cơ quan tư pháp địa phương, đặc biệt cần quan tâm, tăng cường cho các cơ quan tư pháp ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn như: Có chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, cải tiến chế độ công tác phí, mở rộng các hình thức phụ cấp,….

2. Rà soát, đánh giá đội ngũ công chức tư pháp địa phương, xây dựng quy hoạch cán bộ và quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương

  Bộ Tư pháp tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan tư pháp địa phương rà soát, đánh giá thực trạng về số lượng, năng lực, trình độ, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương và coi đây là một nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan tư pháp. Nội dung rà soát, đánh giá cần chú ý các tiêu chí về phẩm chất, năng lực, độ tuổi, giới tính, dân tộc và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học, các kiến thức bổ trợ khác. Qua việc thường xuyên rà soát, đánh giá, phân loại đội ngũ công chức tư pháp địa phương, các cơ quan tư pháp cần đề xuất giải pháp để kiện toàn, củng cố và xây dựng đội ngũ công chức này cho hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ trong giai đoạn thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

  Xuất phát từ việc rà soát, đánh giá phân loại công chức, Sở Tư pháp phối hợp với các cơ quan có liên quan ở địa phương tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và thực hiện quy hoạch ngắn hạn và dài hạn đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Quy hoạch đội ngũ công chức tư pháp địa phương phải dựa trên yêu cầu nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp địa phương, kết quả rà soát, đánh giá phân loại thực trạng hiện có, dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ công chức này để chủ động tạo nguồn công chức đủ tiêu chuẩn theo quy định.

  Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, công chức, Sở Tư pháp chủ động phối hợp với các ban, ngành ở địa phương tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương cụ thể cho từng năm, từng thời kỳ với quy mô và hình thức phù hợp, trong đó phải đặc biệt chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mang tính tổng hợp, toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, cải cách tư pháp, cải cách hành chính hiện nay. Quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phải dựa trên quy hoạch cán bộ, thực trạng, định hướng và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng được xây dựng theo từng năm, từng giai đoạn hoặc theo yêu cầu đột xuất và phải quán triệt, bám sát sự chỉ đạo của cấp trên nhằm từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương.

  Sở Tư pháp cần tăng cường phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính, các Trường chính trị tỉnh, các Trung tâm giáo dục thường xuyên và tranh thủ sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc triển khai tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.

3. Khẩn trương đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương

  Các cơ quan có thẩm quyền cần khẩn trương chỉ đạo việc rà soát, cập nhật nội dung các chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng hiện có cho phù hợp với điều kiện thực tiễn từng địa phương. Chú trọng phúc đáp yêu cầu và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương, qua đó, xác định cơ cấu nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp từng đối tượng, tránh dàn trải, trùng lặp, đảm bảo thiết thực, hiệu quả đối với hoạt động của đội ngũ công chức này. Thực tế cho thấy: Đại đa số công chức tư pháp địa phương đã tốt nghiệp đại học luật, trong khi đó chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về lý luận chính trị và quản lý hành chính nhà nước hiện nay còn nhiều nội dung trùng lặp với nội dung trong chương trình đào tạo đại học luật mà công chức tư pháp đã được trang bị. Điều này dẫn đến công chức tư pháp địa phương “bị trang bị lại kiến thức đã học”, dẫn đến tốn kém kinh phí, thời gian mà không hiệu quả đối với công chức tư pháp địa phương. Ngoài ra, nội dung chương trình, tài liệu còn chậm được đổi mới, chậm cập nhật những vấn đề thời sự mang tính thực tiễn và lý luận mới, chưa phù hợp với tình hình phát triển nhanh chóng kinh tế xã hội của đất nước, dẫn đến kiến thức được trang bị lạc hậu so với thực tế. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu cơ chế phối hợp và thường xuyên sửa đổi, hoàn thiện nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương với yêu cầu đảm bảo chất lượng, hiệu quả và có sự thống nhất liên thông giữa các khối kiến thức, giữa các cấp bậc học cho đối tượng này.

  Trên cơ sở những bất cập trên, Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan trong phạm vi thẩm quyền của mình sớm triển khai xây dựng, hoàn thiện và ban hành nội dung chương trình khung, giáo trình, tài liệu thống nhất áp dụng cho từng loại đối tượng người học phù hợp với yêu cầu, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Căn cứ nội dung chương trình khung, giáo trình và tài liệu đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở địa phương cần nghiên cứu các vấn đề thực tiễn cụ thể ở địa phương mình để tiến hành tổ chức bồi dưỡng với hình thức phù hợp cho đội ngũ công chức này sao cho những kiến thức cung cấp cho học viên được đảm bảo một cách hợp lý giữa lý luận và thực tiễn.

  Bên cạnh việc đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình và tài liệu đào tạo, bồi dưỡng, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần đa dạng và đổi mới đồng bộ các phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với đặc điểm tình hình công tác của đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Ngoài việc tổ chức mở các lớp học tập trung, tại chức, các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương thông qua các hình thức khác như hội thảo, toạ đàm, khảo sát, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn, tự nghiên cứu học tập, tự đào tạo tại chỗ có người hướng dẫn, ứng dụng các thành quả của khoa học công nghệ vào đào tạo, bồi dưỡng,….

  4. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, giảng viên kiêm chức tham gia giảng dạy

  Bộ Tư pháp phối hợp với các cơ quan có liên quan hướng dẫn, chỉ đạo việc kiện toàn hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương. Ngoài ra, trong phạm vi thẩm quyền của mình, Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần thường xuyên có biện pháp để nâng cao năng lực, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên trong các cơ sở đào tạo luật và đội ngũ giảng viên kiêm chức. Trước mắt, để xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên này, các cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện một số biện pháp sau:

- Bổ sung, điều tiết biên chế và chất lượng biên chế cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đang thiếu giảng viên;

- Tổ chức thí điểm những khoá đào tạo ngắn hạn cho giảng viên theo những nội dung mang tính phương pháp giảng dạy và chương trình học về kỹ năng;

- Xây dựng, bổ sung chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên và có cơ chế thu hút những người có năng lực, trình độ;

- Đầu tư thoả đáng cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết phục vụ cho việc dạy và học;

- Tiếp tục tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng; có cơ chế phù hợp để các địa phương có thể hợp tác đào tạo, bồi dưỡng và công chức tư pháp địa phương có nhiều người được tham gia đào tạo, bồi dưỡng để nghiên cứu, học tập kiến thức, kinh nghiệm có chọn lọc của nước ngoài.

Đặc biệt, Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần tích cực, chủ động và quan tâm chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ giảng viên kiêm chức đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có phương pháp sư phạm để có thể chủ động thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho công chức tư pháp địa phương.

5. Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp với cấp uỷ Đảng và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan tư pháp địa phương, các cơ quan có liên quan thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương

  Bộ Tư pháp tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc khó khăn đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương và tích cực phối hợp với các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong việc kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp và đội ngũ công chức các cơ quan này. Uỷ ban nhân dân các cấp quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cho phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương mình.

Các cơ quan tư pháp địa phương là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cũng cấp có trách nhiệm chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan ở địa phương giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức trong phạm vi thẩm quyền của mình. Sở Tư pháp cần chủ động phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Sở giáo dục và đào tạo, Trường Chính trị tỉnh và các cơ quan có thẩm quyền của địa phương tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chỉ tiêu kinh phí, nội dung chương trình, giáo trình, tài liệu, đội ngũ giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm chức, cơ sở vật chất, các chế độ chính sách khác và tổ chức triển khai đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.

  Cùng với viêc phối hợp giữa các ban, ngành của cấp tỉnh trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghịêp vụ đối với cơ quan tư pháp cấp dưới.

6. Đảm bảo nguồn kinh phí và các chế độ, chính sách khác phục  vụ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương

Cần xác định rõ và dành khoản kinh phí thoả đáng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương. Đối với những nơi còn khó khăn về kinh phí, các cơ quan có liên quan cần có sự quan tâm, hỗ trợ kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp ở địa phương này. Đồng thời, các cơ quan có liên quan cũng cần có cơ chế động viên, khuyến khích, phát huy nguồn nhân vật lực tại chỗ để thực hiện hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.

  Cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích công chức tư pháp địa phương tự nghiên cứu, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học,….

  Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, trước mắt cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia phục vụ công tác tư vấn, hoạch định chính sách và thực thi công vụ có hiệu quả cao.

  Thường xuyên sơ kết, tổng kết, đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.

  Quan tâm kiện toàn tổ chức, cán bộ làm công tác đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ quan tư pháp địa phương, cần cung cấp đầy đủ tài liệu, văn bản quy định, hướng dẫn về công tác đào tạo, bồi dưỡng và các cơ quan có thẩm quyền quan tâm tổ chức tập huấn, hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm, tâm nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ này.

  Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu và triển khai thí điểm thực hiện mô hình xã hội hoá trong đào tạo, bồi dưỡng đối với một số đối tượng công chức tư pháp địa phương.

 

KẾT LUẬN

 

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ là một bộ phận quan trọng của công tác cán bộ, luôn được Đảng và nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong mọi thời kỳ. Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế thị trường cũng như xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập kinh tế, quốc tế, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng đóng vai trò quyết định đối với việc tạo ra một nguồn nhân lực đủ sức, đủ tài đưa Việt Nam “vững vàng chèo lái” khi đã tham gia và trở thành một thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong thời kỳ hội nhập.

Những đổi mới, cải tiến trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào việc kiện toàn, củng cố, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ giao cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương trên các lĩnh vực về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thi hành án dân sự, quản lý nhà nước, công chứng, quốc tịch, hộ tịch, lý lịch tư pháp… Bằng kết quả lao động trong thực tiễn, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong quản lý nhà nước, cũng như trong đời sống xã hội, bảo đảm triển khai trên thực tế các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về công tác tư pháp.

Yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập kinh tế, quốc tế đang đặt ra nhiệm vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp nói chung và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương nói riêng là phải xây dựng một đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, có năng lực, trình độ, có kỹ năng nghiệp vụ đủ sức để tham mưu tổ chức thực hiện, triển khai chính sách, pháp luật trong nền kinh tế thị trường và đưa ra các ý kiến giải quyết các tranh chấp và những vấn đề pháp lý mang tính quốc tế.

Vì vậy, việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là hết sức khách quan và cấp thiết, không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như các nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương là một quá trình thực hiện thường xuyên, liên tục, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành mà trực tiếp là của chính quyền địa phương và của Bộ Tư pháp. Điều đó đòi hỏi phải có sự nhận thức thống nhất, quyết tâm cao, phát huy thế mạnh và tính chủ động, sáng tạo, có bước đi thích hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, cùng với sự cố gắng, nỗ lực của từng cán bộ, công chức trong ngành Tư pháp. Đồng thời, phải thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương; rà soát, đánh giá, xây dựng quy hoạch và quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đổi mới nội dung chương trình, giáo trình, tài liệu và hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; kiện toàn nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, giảng viên kiêm nhiệm tham gia giảng dạy; tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp và cấp uỷ Đảng và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan tư pháp địa phương, các cơ quan có liên quan thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, chuẩn bị và bảo đảm các nguồn lực cần thiết về tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật cho việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng như củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tư pháp địa phương./.



[1] Nếu so sánh với thời điểm tháng 12/2002 thì số lượng cán bộ của cơ quan thi hành dán dân sự địa phương đã tăng hơn 50%; số lượng chấp hành viên tăng 9,3%. Nếu so sánh với 700 chấp hành viên lúc chuyển giao công tác thi hành án dân sự sang Bộ Tư pháp quản lý thời điểm năm 1993 thì số lượng châp shành viên đã tăng 1574 người (gấp hơn 2 lần).

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t4 tr99.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t5, tr269.

[4] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, 2006, tr94,95

[5] Đại từ điển tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, 1998, tr 593

[6] Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Năng và Trung tâm Từ điển học, 5/2000, tr289.

[7] Đề tài “Thực trang và mô hình đào tạo cán bộ tư pháp cấp xã trong giai đoạn hiện nay”, Bộ Tư pháp, 2001, tr12

[8] Đại từ điển tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, 1998, tr 191

[9] Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Năng và Trung tâm Từ điển học, 5/2000, tr82

[10] Điều 42 Nghị định số 117/2003/NĐ-CP và Điều 27 Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg.

[11] Theo Báo cáo của 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 50% công chức Tư pháp - Hộ tịch chưa có trình độ Trung cấp Luật theo tiêu chuẩn tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ Nội vụ.

[12] Những yêu cầu cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức – TS Ngô Thành Can, Bộ Nội vụ, Tạp chí  Tổ chức nhà nước, tr12.

[13]  Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện theo nhiều văn bản thuộc các cấp và các lĩnh vực quản lý khác nhau như:

- Các văn bản quản lý chung: Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003; Nghị định số 117/2003/NĐ-CP  ngày 10/10/2003 về tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước; Quyết định số 116/2003/QĐ-TTg ngày 4/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; Quyết định số 40/20006/QĐ-TTg ngày 15/2/2006 phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003/NĐ-CP của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, Nghị định số 54/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 về chế độ thôi việc, chế độ bồi thường chi phí đào tạo đối với cán bộ, công chức…

- Các văn bản quản lý chuyên môn: Luật Công chứng (đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng), Luật Trợ giúp pháp lý (bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý), Pháp lệnh Thi hành án dân sự (đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ thi hành án); Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL (bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra VBQPPPL); Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chũ ký (bồi dưỡng nghiệp vụ chứng thực); Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở (bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải); Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 18/12/2005 của Chính phủ về quản lý và đăng ký hộ tịch (bồi dưỡng nghiệp vụ về hộ tịch); Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 8/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010; Quyết định số 28/2007/QĐ-TTg ngày 28/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc giai đoạn 2007-2010,Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác hội nhập kinh tế, quốc tế giai đoạn 2003-2010…

 

File đính kèm downloadTải về