Trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xu hướng hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn bộ tổ chức và hoạt động tư pháp cùng những yêu cầu mới và nhiệm vụ mới đặt ra cho ngành tư pháp, đặc biệt là các cơ quan tư pháp địa phương. Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đang bộc lộ những hạn chế và bất cập. Thực trạng năng lực chuyên môn của nhiều công chức chưa ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Trình độ nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh, khả năng tham mưu tổ chức thực hiện pháp luật, tư vấn, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra còn hạn chế. Trình độ ngoại ngữ, tin học bất cập trước yêu cầu của nhiệm vụ được giao. Trong bối cảnh đó, việc củng cố kiện toàn đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước đặt ra trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền và các cơ quan chuyên môn.
Đứng trước tình hình đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị xác định phương hướng cải cách tư pháp tới năm 2020 là “xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”. Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Ba (Khoá VIII) đã đề ra và chỉ rõ: học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, “mọi cán bộ, công chức phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng đạo đức cách mạng”. Thể chế hoá và triển khai thực hiện các chủ trương nói trên, chương trình cải cách tổng thể nền hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 xác định mục tiêu đến năm 2010 “tuyệt đại bộ phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân”. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho công tác hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2003 - 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ xác định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là đến năm 2010 có đội ngũ những người làm công tác hội nhập kinh tế, quốc tế thông thạo về nghiệp vụ, ngoại ngữ, am hiểu pháp luật quốc tế, đáp ứng được với những yêu cầu của hội nhập kinh tế, quốc tế.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, vai trò của công tác đào tạo bồi dưỡng trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay, việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và đội ngũ công chức tư pháp địa phương nói riêng được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm của Bộ Tư pháp, chính quyền và cơ quan tư pháp địa phương.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương” là hết sức cần thiết nhằm góp phần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
- Đánh giá khái quát về đội ngũ cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương: những ưu điểm, kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập; tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, bất cập.
- Xác định được mục tiêu, định hướng và những giải pháp cơ bản để đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này là những cán bộ đang trực tiếp thực hiện những công việc liên quan đến pháp luật, bao gồm:
- Đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND), giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương, bao gồm: Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch.
- Đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan thi hành án địa phương gồm thi hành án cấp tỉnh và thi hành án cấp huyện.
Việc nghiên cứu đề tài phục vụ có hiệu quả cho việc xây dựng các chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp; Xây dựng và thực hiện Đề án Tổng rà soát đội ngũ cán bộ, công chức; Đề án Tăng cường năng lực của cơ quan, công chức trực tiếp tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (ban hành kèm theo Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ); xây dựng Chỉ thị của Bộ trưởng về tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương.
I. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG
1. Vị trí, vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương
Với vai trò là người trực tiếp thực thi pháp luật, là nhân tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín của ngành tư pháp, đội ngũ công chức của ngành tư pháp nói chung và đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong hơn 60 năm xây dựng và phát triển đã đóng góp tích cực vào việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị - xã hội của địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành tư pháp từ trung ương tới cơ sở.
Theo quy định của pháp luật[1], thì đội ngũ công chức tư pháp ở địa phương bao gồm: (i) Đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp cấp tỉnh; (ii) Đội ngũ công chức thuộc Phòng Tư pháp cấp huyện; (iii) Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã; (iv) Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.
Vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương được thể hiện qua những nội dung sau:
Một là, tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Với nhiệm vụ giúp UBND cùng cấp quản lý công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã góp phần vào việc bảo đảm sự thống nhất, tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản trong hệ thống pháp luật thông qua các hoạt động sau:
- Thẩm định, cho ý kiến về mặt pháp lý đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND và Hội đồng nhân dân (viết tắt là HĐND) trong các lĩnh vực;
- Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực công tác tư pháp được phân công quản lý hoặc các lĩnh vực khác do UBND giao;
- Hướng dẫn rà soát, hệ thống hoá văn bản pháp luật trong các lĩnh vực;
- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện và kịp thời khắc phục các sai phạm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực.
Hai là, nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan tư pháp, nâng cao năng lực tiếp cận hệ thống pháp luật, hệ thống tư pháp.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Do đó, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan và công chức nhà nước, trong đó các cơ quan và công chức tư pháp giữ một vai trò nòng cốt đưa pháp luật vào cuộc sống, là cầu nối, mắt xích quan trọng giữa Nhà nước và quần chúng nhân dân trong việc nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật, hình thành niềm tin và thói quen chấp hành pháp luật của công dân. Đội ngũ cán bộ này không chỉ tham gia hoạt động xây dựng kế hoạch, làm đầu mối phối hợp và hướng dẫn các cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện mà còn trực tiếp thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; tham gia vào quá trình trợ giúp, hỗ trợ các dịch vụ pháp lý cho những người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật; quản lý và đề xuất chính sách bảo đảm cho sự phát triển của các tổ chức tư vấn pháp luật và luật sư.
Ba là, bảo đảm thực thi pháp luật thông qua hoạt động thi hành án dân sự và các hoạt động tư pháp khác.
Bảo đảm bản án được thi hành nghiêm chỉnh có ý nghĩa quyết định đến uy tín của ngành tư pháp và niềm tin của người dân với pháp luật, lẽ phải và công lý. Cùng với những cán bộ thuộc cơ quan thi hành án dân sự, đội ngũ công chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp giúp UBND cùng cấp quản lý công tác thi hành án dân sự trên địa bàn, làm đầu mối để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan có liên quan ở địa phương trong công tác thi hành án dân sự; tham gia trực tiếp vào việc thi hành các bản án có giá trị dưới 500.000 đồng.
Đồng thời, đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn là những người trực tiếp thực thi các quy định của pháp luật về công tác tư pháp trong các lĩnh vực công chứng, chứng thực, đăng ký hộ tịch, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân, của tổ chức và cá nhân cũng như góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các quan hệ dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, tham gia tích cực vào quá trình quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính quyền địa phương.
Vai trò của các công chức tư pháp địa phương được thể hiện bằng việc tham mưu, tư vấn các vấn đề pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương đưa ra các quyết sách phù hợp trong các lĩnh vực; thực hiện nhiệm vụ quản lý và đăng ký hộ tịch, thực hiện những nội dung về quản lý quốc tịch, lý lịch tư pháp… đối với dân cư trên địa bàn; là thành viên của các Hội đồng tư vấn, Hội đồng phối hợp công tác của địa phương.
2. Thực trạng năng lực của đội ngũ công chức tư pháp địa phương
2.1. Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự đã có bước phát triển mạnh về số lượng. Tính đến tháng 6/2006, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã có 6.823 cán bộ, trong đó có 2.274 chấp hành viên (không kể số chấp hành viên trong quân đội), gồm có 342 chấp hành viên cấp tỉnh và 1.932 chấp hành viên cấp huyện. So với thời điểm 6/2005 thì số lượng cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự đã tăng 11,9% (714 người), số lượng chấp hành viên tăng 4,6% (15 người). Phần lớn số cán bộ được bổ nhiệm chấp hành viên đều bảo đảm tiêu chuẩn, có trình độ Đại học Luật hoặc tương đương.
- Về trình độ: Trong tổng số 6.823 cán bộ thuộc cơ quan thi hành án thì 74,5% cán bộ có trình độ đại học và tương đương trở lên (5.286 người), 15,9% cán bộ có trình độ cao đẳng và trung cấp nói chung (1.087 người). Số cán bộ có trình độ sơ cấp Luật chỉ chiếm tỷ lệ 6,2%, tập trung chủ yếu ở các đơn vị miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thi hành án dân sự đã được quan tâm. Hàng năm, đội ngũ chấp hành viên trưởng, chấp hành viên mới được bổ nhiệm đã được tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án. Năm 2002, trường Đào tạo các chức danh tư pháp (nay là Học viện Tư pháp) tổ chức khai giảng khoá đào tạo nghiệp vụ chấp hành viên đầu tiên với hơn 100 công chức có trình độ cử nhân luật, thuộc diện bổ nhiệm nguồn chấp hành viên. Đến nay, Học viện Tư pháp đã đào tạo được hơn 1.041 công chức.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự có nhiều cán bộ trẻ, năng động, với 65% cán bộ có độ tuổi dưới 30 và 34% cán bộ có độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi. Chỉ có 1% cán bộ trên 50 tuổi. Điều này là thuận lợi lớn cho việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thi hành án dân sự địa phương.
- Năm 2002, Bộ Tư pháp đã ban hành chuẩn mực đạo đức Chấp hành viên của các cơ quan thi hành án dân sự. Cho đến nay, chuẩn mực đạo đức chấp hành viên đã được phổ biến, triển khai đến từng chấp hành viên các cơ quan thi hành án trong toàn quốc. Phần lớn đội ngũ chấp hành viên đã tự ý thức được vị trí, vai trò của mình, tích cực tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng, đạo đức, lối sống, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tuân thủ những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, tận tuỵ với nhân dân, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Mặc dù trình độ chuyên môn của đội ngũ chấp hành viên đã từng bước được nâng lên, nhưng kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm, năng lực thực tiễn của đội ngũ chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế trước tính chất phức tạp ngày càng gia tăng của công tác thi hành án, đặc biệt là các vụ án kinh tế lớn, có phạm vi và đối tượng thi hành án rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực.
Một bộ phận chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án còn thiếu tận tụy, có những biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ như tham ô, nhận hối lộ, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho đương sự, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên trong một thời gian dài chưa được thực hiện thường xuyên và có nề nếp. Hàng năm, mới chỉ được thực hiện với đội ngũ chấp hành viên trưởng và những chấp hành viên mới được bổ nhiệm. Các đối tượng khác thì giao lại cho Trưởng thi hành án cấp tỉnh tổ chức tập huấn tại địa phương. Do vậy, tại một số địa phương, công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa được chú trọng, có địa phương trong gần 10 năm chỉ tổ chức tập huấn nghiệp vụ được 01 lần cho chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án dân sự địa phương. Chất lượng, hiệu quả tập huấn thấp và không đồng đều. Nhiều chấp hành viên sau khi được bổ nhiệm còn gặp nhiều lúng túng trong việc thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án, vận dụng các quy định của pháp luật trong từng vụ việc thi hành án dân sự cụ thể, việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức cưỡng chế thi hành án…
2.2. Tình hình đội ngũ công chức tư pháp thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch
Kết quả tổng rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp cho thấy, trong 7 năm (từ năm 1996 đến năm 2004), đội ngũ công chức Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đã tăng 40%. Đặc biệt là sau khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV được ban hành, đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được quan tâm củng cố, kiện toàn, bổ sung thêm cán bộ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Cho đến thời điểm này, đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp (bao gồm cả công chứng viên) và Phòng Tư pháp đã tăng 24,4% so với năm 2002.
Riêng đối với đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, sau khi Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV được ban hành, các địa phương đã quan tâm kiện toàn, bố trí tối thiểu 01 công chức/ cấp xã để đảm nhận nhiệm vụ giúp UBND cấp xã quản lý công tác tư pháp. Theo số liệu báo cáo của 45 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tính đến đầu năm 2006, đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch đã là 7.197 người (tăng 6,4% so với trước khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV được ban hành). 653 cấp xã đã bố trí được 02 cán bộ đảm nhận công tác tư pháp - hộ tịch.
- Trình độ cán bộ từng bước được nâng cao trên các mặt chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ có tính chuyên môn hoá và chuyên nghiệp.
Nếu như năm 1996, khoảng 50% đội ngũ cán bộ, công chức của Sở Tư pháp và 30-35% cán bộ, công chức Phòng Tư pháp có trình độ đại học, cao đẳng luật, thì đến năm 2004, tỷ lệ này tăng lên là 67,4% đối với Sở Tư pháp và 59,7% đối với Phòng Tư pháp. Đối với đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã, nếu như năm 2000, tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn từ trung học (bao gồm tất cả các chuyên ngành) trở lên là 31%, trong đó có 18,3% cán bộ có trình độ chuyên môn Luật từ trung học trở lên thì đến đầu năm 2006, tỷ lệ này đã là 67,6% và 57%. Số lượng cán bộ cấp xã đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ đạt 81,9%. Đến nay, đa số các công chức của Sở Tư pháp đã qua đào tạo tin học và có thể khai thác, sử dụng máy tính trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
- Phần lớn đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, trong sạch, lành mạnh, có năng lực chuyên môn, ý thức tinh thần trách nhiệm để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
- Nhiều cán bộ, công chức trẻ, được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, bảo đảm sự kế thừa giữa các thế hệ.
Bên cạnh những ưu điểm, tính tích cực, đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng bộc lộ những hạn chế như sau:
Đội ngũ công chức vẫn còn thiếu về số lượng. Biên chế của các cơ quan tư pháp địa phương vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ mặc dù trong quá trình kiện toàn đã được quan tâm, bổ sung biên chế. Số lượng công chức tư pháp được tăng lên chủ yếu là để bổ sung cho các tỉnh, thành phố mới được thành lập. Số liệu tổng hợp từ 47 tỉnh cho thấy số lượng đơn vị của Sở tăng lên 10,1% nhưng số lượng cán bộ của Sở chỉ tăng thêm 5,1%, do đó số lượng cán bộ trung bình của 1 đơn vị trực thuộc Sở giảm từ 5,16 cán bộ/1đơn vị còn 4,8 cán bộ/đơn vị. Một số địa phương, mặc dù đã được kiện toàn tổ chức nhưng việc giao biên chế lại không thực hiện được. Do đó, cán bộ tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp xã luôn trong tình trạng quá tải công việc và khó có thể tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ dài hạn.
Chất lượng đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tư pháp - hộ tịch ở cấp xã với hơn 30% cán bộ chưa có trình độ trung học Luật. Cá biệt có thời điểm (có sự thay đổi nhân sự theo nhiệm kỳ của HĐND), số lượng công chức tư pháp - hộ tịch có trình độ đạt tiêu chuẩn chỉ đạt tỷ lệ 50%, có tỉnh chỉ ở mức 30% . Việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời, nên đã ảnh hưởng một phần đến chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ tư pháp - hộ tịch sau khi được Sở Tư pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực thì số cán bộ này lại được điều sang nhận công tác khác. Cán bộ thay thế một phần không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, một phần không có kinh nghiệm làm công tác tư pháp nên gặp khó khăn không nhỏ khi thực hiện nhiệm vụ này cũng như trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp.
Bên cạnh đó, do tổ chức Phòng Tư pháp không ổn định nên đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện không được quan tâm đầu tư thoả đáng, trong đó có nâng cao năng lực, trình độ. Mặc dù là cấp trung gian triển khai công tác tư pháp từ cấp tỉnh đến cấp xã nhưng đội ngũ cán bộ này chưa có đủ năng lực và kỹ năng tổ chức thực hiện công việc tư pháp trong phạm vi cấp huyện cũng như chỉ đạo, hướng dẫn, giải quyết các vướng mắc về chuyên môn, nghiệp vụ tư pháp cấp xã.
* Tình hình đội ngũ công chứng viên
- Tính đến tháng 6/2006, tổng số công chứng viên là 396 người, được phân bổ cho 125 Phòng Công chứng trên toàn quốc, tăng 46% (125 người) so với năm 2003. Ngoài ra, các Phòng Công chứng còn có các chuyên viên nghiệp vụ, nhân viên khác, nhân viên hợp đồng lên tới gần 800 người, đây là nguồn cán bộ quan trọng để đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cho đội ngũ công chứng viên khi cần thiết.
- Nhìn chung, đội ngũ công chứng viên có trình độ đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và các yêu cầu công việc đặt ra. 100% đội ngũ công chứng viên có trình độ đại học Luật và tương đương trở lên, trong đó, số có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ chiếm 3,6% (14 người), Đại học chính quy chiếm 42,9% (170 người). Đa số các công chứng viên đã có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên, trong đó 14,1% có trình độ cao cấp và cử nhân. 196 người đã qua lớp đào tạo nghề công chứng viên.
- Đội ngũ công chứng viên trong cả nước về cơ bản có đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, có năng lực, trình độ và tận tâm phục vụ nhân dân.
Để tạo nguồn cán bộ, bổ sung cho đội ngũ công chứng viên, trong thời gian qua, 6 lớp đào tạo công chứng viên đã được tổ chức với sự tham gia của 300 người, đa số là các chuyên viên nghiệp vụ Phòng Công chứng, ngoài ra, có một số người đang công tác trong ngành tư pháp được Sở Tư pháp cho đi học lớp đào tạo công chứng viên để tạo nguồn.
Hạn chế của đội ngũ công chứng viên đó là một tỷ lệ không nhỏ công chứng viên có bằng Đại học hệ chuyên tu, tại chức (212 người - chiếm 53,5%). Đây là vấn đề cần lưu ý khi thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế của loại hình đào tạo, chú trọng kịp thời đến việc bổ sung, cập nhật các kiến thức cần thiết cho cán bộ.
3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương
3.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng
3.1.1. Khái niệm đào tạo
Sau khi phân tích các định nghĩa khác nhau về đào tạo, bồi dưỡng, nhóm nhiên cứu đã đưa ra định nghĩa, đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức mới để người được đào tạo lĩnh hội, nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống, theo một quy trình nhất định nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống, có khả năng nhận sự phân công lao động nhất định, góp phần vào việc phát triển xã hội.
Đặc điểm cơ bản của đào tạo đó là:
- Quá trình học tập có hệ thống. Đào tạo được tổ chức theo một quy trình cụ thể, với những bước đi, thời gian thích hợp, có nội dung, chương trình và yêu cầu đặt ra đối với giảng viên, học viên theo từng giai đoạn, được đánh giá qua các bài giảng, sự tiếp thu, các bài kiểm tra, thi tốt nghiệp… Các yếu tố trong quá trình đào tạo tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất.
- Tạo sự biến đổi về chất sau quá trình học tập. Đào tạo không những giúp cho người học nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng với yêu cầu đặt ra mà còn trang bị những phương pháp, kỹ năng tạo nền móng để cán bộ tiếp tục tiếp thu, vận dụng những kiến thức hướng tới việc tạo ra những tri thức mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của nhân loại.
3.1.2. Khái niệm bồi dưỡng
Bồi dưỡng là quá trình học tập nâng cao trình độ hiểu biết, tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị của người được bồi dưỡng. Bồi dưỡng nhằm mục đích bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức đã được đào tạo bồi dưỡng trước đó.
Điểm khác biệt giữa bồi dưỡng với đào tạo là bồi dưỡng chưa tạo được bước ngoặt căn bản về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của đối tượng được bồi dưỡng. Tuy nhiên, bồi dưỡng thường đáp ứng được ngay yêu cầu cập nhật kiến thức mới, bổ sung tri thức làm cho người được bồi dưỡng có thể tiếp cận và vận dụng kịp thời vào thực tiễn để thực thi có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
3.1.3. Các yếu tố cấu thành của “đào tạo, bồi dưỡng”
- Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là người cần trang bị hoặc nâng cao năng lực, trình độ. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng giữ vai trò trung tâm để các cơ quan quản lý và thực hiện đào tạo xác định mục tiêu, nội dung, chương trình cũng như áp dụng các phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức, kỹ năng được truyền tải đến cho đối tượng đào tạo, bồi dưỡng.
- Hình thức đào tạo, bồi dưỡng là cách thức tổ chức tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, có thể diễn ra dưới hình thức tập trung, chính quy, tại chức, từ xa…
- Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là hệ thống gồm một hay nhiều quy tắc được áp dụng có tác dụng hướng dẫn một loại hình hoạt động cụ thể nào đó để đạt được mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng.
- Đội ngũ giảng viên là những người vận dụng các hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng để truyền tải các nội dung đào tạo, bồi dưỡng đến các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của đào tạo, bồi dưỡng là các điều kiện để tiến hành đào tạo, bồi dưỡng như địa điểm, trang thiết bị, giáo cụ, các nguồn lực tài chính…
Các yếu tố trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, làm điều kiện và chi phối lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng thì cần thiết phải xem xét đầy đủ đến các yếu tố này, trong đó, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò trung tâm và hướng tới mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Giữa mục tiêu và đối tượng đào tạo, bồi dưỡng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Đối tượng được lựa chọn, xác định trên cơ sở mục tiêu. Mục tiêu có đạt được hay không phụ thuộc vào lựa chọn đúng đối tượng, ngoài ra, mục tiêu cũng được xác định trên cơ sở yêu cầu công việc, loại hình, cấp đào tạo, bồi dưỡng…
3.2. Đặc điểm của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương
Với ý nghĩa là quá trình nâng cao trình độ, năng lực hiểu biết, bổ sung kiến thức cho người được đào tạo, bồi dưỡng là đội ngũ công chức thì đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương có những đặc điểm như sau:
3.2.1. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là những công chức không đồng đều về năng lực và trình độ, đang đảm nhận các vị trí công tác có yêu cầu nhiệm vụ và thuộc các cấp hành chính với cơ chế quản lý khác nhau
Đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định bao gồm:
Một là, đội ngũ công chức ngành tư pháp thuộc nhiều cơ quan ở các cấp hành chính với cơ chế quản lý khác nhau, gồm: (i) Đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự (cấp tỉnh và cấp huyện); (ii) Đội ngũ công chức thuộc cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tư pháp: Sở Tư pháp cấp tỉnh và Phòng Tư pháp cấp huyện; (iii) Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã.
Theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ, công chức tại Nghị định số 117/2003/NĐ-CP và Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg thì việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thuộc các cơ quan thi hành án dân sự địa phương do Bộ Tư pháp thực hiện; đối với đội ngũ công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã thì việc đào tạo, bồi dưỡng do UBND cùng cấp thực hiện.
Hai là, tiêu chuẩn chức danh và yêu cầu đối với công chức trong thực thi nhiệm vụ khác nhau.
Đội ngũ công chức thuộc cơ quan tư pháp địa phương bao gồm cán bộ theo các tiêu chuẩn nghiệp vụ sau:
- Công chức hành chính ngành tư pháp tuân theo tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch công chức hành chính ngành tư pháp ban hành kèm theo Quyết định số 483/QĐ-BTP ngày 26/7/1993 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, bao gồm cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp pháp lý.
- Đội ngũ chấp hành viên cấp tỉnh và cấp huyện theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định dành cho chấp hành viên tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP và các văn bản khác có liên quan.
- Đội ngũ công chứng viên theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực và từ ngày 1/7/2007 là Luật Công chứng.
- Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã theo tiêu chuẩn nghiệp vụ được quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.
Theo các văn bản pháp luật, mỗi chức danh lại có những yêu cầu khác nhau về tiêu chuẩn, chức trách và nhiệm vụ. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cần thiết phải tiến hành trên cơ sở các yêu cầu của tiêu chuẩn chức danh và ngoài việc chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đương chức thì còn phải chú ý đến việc đào tạo nguồn để bổ sung cán bộ khi cần thiết.
Ba là, năng lực của đội ngũ công chức tư pháp không đồng đều.
Đội ngũ công chức tư pháp địa phương hiện đang đảm nhận nhiệm vụ trong các cơ quan thuộc cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, thuộc các địa bàn từ đồng bằng, đô thị đến nông thôn, miền núi, khu vực có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống. Yêu cầu nhiệm vụ của mỗi cấp hành chính là khác nhau do đó việc tuyển chọn cán bộ cũng căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau. Đồng thời, do đặc thù của từng vùng miền nên yêu cầu và chất lượng của đội ngũ công chức không đồng đều. Do vậy, mục tiêu, yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng khác nhau. Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg có sự phân biệt về mục tiêu đào tạo đến năm 2010, theo đó, xác định phấn đấu tỷ lệ công chức cấp xã có trình độ trung cấp trở lên đối với vùng đô thị là 95%, đồng bằng là 80% và vùng núi là 70%. Đồng thời, Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 8/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010 đặt ra mục tiêu đến năm 2010 đạt 50% công chức chuyên môn cấp xã người dân tộc thiểu số đạt trình độ trung cấp trở lên.
3.2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tư pháp địa phương không chỉ thực hiện theo những quy định chung về đào tạo, bồi dưỡng mà còn phải thực hiện những quy định riêng do các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức ban hành.
3.2.3. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho công chức tư pháp địa phương phải kết hợp giữa việc đào tạo cơ bản và bổ sung kiến thức, kỹ năng liên quan đến nghề nghiệp, công vụ mà họ đang đảm nhiệm.
Theo Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ban hành kèm theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 4/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp địa phương thì nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức bao gồm 4 khối kiến thức: Lý luận chính trị; Kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước; Kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ; Kiến thức tin học, ngoại ngữ (tiếng dân tộc đối với công chức công tác ở vùng dân tộc miền núi) và các kiến thức bổ trợ khác.
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương cần chú ý đến những đặc thù sau:
- Mang tính nghề nghiệp cụ thể: không chỉ cung cấp các kiến thức, kỹ năng về quản lý nhà nước mà còn bao gồm các kiến thức về pháp luật chuyên ngành, kỹ năng nghề nghiệp cụ thể, đạo đức, bản lĩnh chính trị đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Mang tính toàn diện: cơ cấu hợp lý giữa lý luận và thực tiễn, gắn lý thuyết với thực hành, giữa bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với nâng cao nhận thức, trách nhiệm, đạo đức của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ; bổ sung kiến thức liên quan trực tiếp đến chuyên môn nghiệp vụ đồng thời với việc bổ sung các kiến thức bổ trợ như ngoại ngữ, tin học, các kiến thức về hội nhập kinh tế, quốc tế…
- Cơ cấu chương trình và bố trí thời lượng phù hợp với từng đối tượng công chức và từng nội dung đào tạo, bồi dưỡng để bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả của việc đào tạo, bồi dưỡng và phù hợp với người học là những người đang đảm nhận công tác, chỉ có thể bố trí một thời gian nhất định cho việc học tập, nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức.
3.2.4. Hình thức thể hiện văn bằng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chủ yếu là chứng chỉ theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg. Theo đó:
+ Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương quy định, hướng dẫn sử dụng thống nhất trong phạm vi cả nước các loại chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh; các loại chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng công chức dự bị, bồi dưỡng thi nâng ngạch, chuyển ngạch; đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo cấp Vụ, cấp Sở, ban, ngành trở lên;
+ Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định và hướng dẫn sử dụng các loại chứng chỉ bồi dưỡng cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, chứng chỉ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo cấp phòng;
+ Về tổ chức in, cấp chứng chỉ cho cán bộ, công chức sau khi hoàn thành các khoá đào tạo, bồi dưỡng do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng được phân cấp đào tạo, bồi dưỡng theo nội dung nào được cấp chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng theo nội dung chương trình đó;
+ Chứng chỉ do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp theo quy định có giá trị sử dụng trong phạm vi cả nước.
3.2.5. Hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau. Đó là, phương pháp thuyết trình, phương pháp hướng dẫn thảo luận, phương pháp tình huống, phương pháp song giảng:
Trong lĩnh vực tư pháp, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng đa dạng, phong phú, thuộc các cơ quan thuộc các cấp hành chính khác nhau, ở các vùng miền khác nhau và có trình độ khác nhau. Cùng với đó là yêu cầu của công tác tư pháp luôn đòi hỏi công chức phải chủ động, sáng tạo trong việc triển khai nhiệm vụ, áp dụng chính xác các quy định của pháp luật vào thực tiễn sinh động. Do đó, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương phải là những phương pháp rèn luyện và tạo ra được sự chủ động cho người học, không chỉ tiếp nhận kiến thức mà còn có khả năng vận dụng kiến thức trong công việc, áp dụng và giải quyết các tình huống cụ thể. Các phương pháp được ưu tiên lựa chọn như phương pháp tạo tình huống, phương pháp song giảng, hình thành các nhóm, giao chuyên đề nghiên cứu…
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG
1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng
1.1. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch
Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương là việc xác định các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức một cách tổng thể, toàn diện trong một thời gian dài nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ quan tư pháp nói riêng, ngành tư pháp nói chung và yêu cầu về tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tư pháp trong tương lai.
Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương là việc xác định các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng với mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cụ thể và cách thức tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu đó trong thời gian nhất định, có thể là ngắn hạn dưới 1 năm, trên 1 năm hoặc trong nhiều năm.
1.1.1. Thẩm quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
Thẩm quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương được xác định như sau:
- Đối với đội ngũ công chức thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã, theo quy định tại Điều 25 Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, Điều 3 Nghị định số 117/2003/NĐ-CP Sở Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với Sở Nội vụ nghiên cứu, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình UBND cấp tỉnh quyết định;
- Đối với đội ngũ công chức cơ quan thi hành án dân sự địa phương, theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 thì Bộ Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền quản lý và thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức cơ quan thi hành án. Tại Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP ngày 18/5/2005, khoản 9 Điều 2 quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp xây dựng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao trình độ, năng lực của công chức các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.
Bên cạnh đó, cũng theo Nghị định số 117/2003/NĐ-CP, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý ngạch công chức chuyên ngành tư pháp (Điều 43) và xác định Bộ quản lý các ngạch công chức chuyên ngành có nhiệm vụ quy định nội dung, chương trình, phương thức và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng các ngạch công chức chuyên ngành (Điều 44).
1.1.2. Thực trạng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của ngành tư pháp
a) Công tác xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
Kết quả khảo sát công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành tư pháp trong 5 năm qua cho thấy số lượng cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ngày một đông về số lượng, đa dạng về đối tượng, nội dung và hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Do đó, để công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp có hiệu quả, bảo đảm chất lượng, tránh chồng chéo, chắp vá, mang tính tình thế thì việc xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và quy hoạch đào tạo bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương nói riêng là việc hết sức cần thiết, đặc biệt là trước yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp giai đoạn 2006-1010.
Tuy nhiên, thực tế, công tác xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm thực hiện đúng mức. Hầu hết các cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa xây dựng được quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp thuộc phạm vi quản lý một cách hoàn chỉnh. Bộ Tư pháp cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp. Điều này dẫn đến tình trạng đào tạo, bồi dưỡng phân tán, tự phát, tuỳ tiện, chắp vá, lãng phí về sức người, sức của và thời gian của cán bộ, công chức, làm giảm chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.
b) Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 10/2001/CT-TTg ngày 19/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 874/TTg và Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 7/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, Bộ Tư pháp đã xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn của ngành tư pháp như Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp giai đoạn 2001 - 2005, Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp giai đoạn 2006 - 2010. Các kế hoạch dài hạn này là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm của Bộ Tư pháp.
Trên cơ sở kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn, Bộ trưởng giao cho Vụ Tổ chức cán bộ phối hợp với Học viện Tư pháp và các đơn vị có liên quan tổ chức triển khai xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong từng năm để trình Bộ trưởng xem xét, gửi các cơ quan có thẩm quyền quyết định. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành tư pháp này được xây dựng căn cứ vào nhu cầu cụ thể của các đơn vị thuộc Bộ và Sở Tư pháp cấp tỉnh. Kế hoạch xác định cụ thể các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng sẽ triển khai trong năm như mục tiêu, đối tượng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, thời gian, địa điểm tổ chức và dự trù kinh phí cho từng hoạt động (ví dụ kinh phí tổ chức lớp, kinh phí xây dựng chương trình, tài liệu, kinh phí khảo sát,…) cũng như trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong triển khai thực hiện.
Ở địa phương, thực hiện Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg và đặc biệt là sau khi Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV được ban hành, công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đã có nhiều tiến bộ và được quan tâm hơn trước. Kết quả khảo sát năm 2005 tại 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Sở Tư pháp đã phối hợp với Sở Nội vụ trong việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức thuộc phạm vi quản lý của đơn vị trình UBND cùng cấp phê duyệt và tổ chức triển khai các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch đã được phê duyệt. Các kế hoạch này có thể được xây dựng độc lập hoặc lồng ghép với chương trình công tác chung của ngành tại địa phương và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chung của cán bộ địa phương.
1.2. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng
Theo quy định tại Điều 4 Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg thì đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm 4 nội dung sau: (i) Lý luận chính trị; (ii) Kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước; (iii) Kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ; (iv) Kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác.
Thực hiện Quyết định số 874/QĐ-TTg về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước, nhất là sau khi có Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức 2001 - 2005 và Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ công tác hội nhập kinh tế quốc tế, trong 5 năm qua, các Sở Tư pháp đã phối hợp với Sở Nội vụ, Trường Chính trị và các cơ quan có liên quan tập trung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cả 4 nội dung trên.
1.3. Chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
1.3.1. Chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh
Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên của các vùng miền, yêu cầu tiêu chuẩn chức danh và yếu tố lịch sử để lại nên đội ngũ công chức tư pháp địa phương có đặc thù là không đồng đều về chất lượng trên cả nước và ở các cấp hành chính. Vì vậy, thời gian qua, chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo được xây dựng dành cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương không chỉ bao gồm chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo để nâng cao trình độ như các ngành nghề khác mà còn tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện các chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo để đáp ứng với tiêu chuẩn chức danh (trung cấp Luật) dành cho đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã và chương trình đào tạo nghề.
a) Đào tạo trung học Luật
Ngày 17/12/2003, Hiệu trưởng trường Đại học Luật Hà Nội có Quyết định số 1714/QĐ ban hành chương trình đào tạo trung học Luật mới áp dụng cho các khóa đào tạo trung học chuyên nghiệp chuyên ngành Luật của Trường từ năm 2003 trở đi.
Cấu trúc của chương trình gồm:
+ 32 môn học trong tổng số thời gian 1.520 tiết được áp dụng cho tất cả các loại hình đào tạo chính quy và tại chức. Trong đó, khối kiến thức đại cương là 30 đơn vị học trình, chiếm 2% thời lượng chương trình; khối kiến thức chuyên nghiệp là 70 đơn vị học trình, chiếm 4,6% thời lượng chương trình. Cơ cấu giữa giảng lý thuyết và thực hành là 735 giờ giảng và 295 giờ thực hành.
+ Đối với những học viên dự tuyển mới có bằng văn hoá trung học cơ sở thì ngoài môn học của chương trình trên còn phải học thêm các môn văn hoá gồm 4 môn (Toán, Văn - Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý) với thời lượng 1.200 tiết và phải thi tốt nghiệp cả 3 môn văn hoá (Văn - Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lý).
b) Đào tạo nghề
- Đào tạo công chứng viên: được thực hiện tại Học viện tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Chương trình đào tạo công chứng viên khoá 5 năm 2005 như sau:
+ Tổng thời lượng đào tạo là 514 tiết, tương đương 4 tháng;
+ Cấu trúc chương trình gồm 2 phần: phần chung về công chứng và nghề công chứng với 15 nội dung đào tạo, trong thời gian 120 tiết; phần kỹ năng công chứng với 18 nội dung đào tạo trong thời gian 396 tiết.
+ Nội dung cơ bản của chương trình: tập trung vào nghiệp vụ, kỹ năng công chứng, pháp luật liên quan đến công chứng và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp công chứng.
- Đào tạo chấp hành viên: được thực hiện tại Học viện Tư pháp trực thuộc Bộ Tư pháp. Chương trình đào tạo chấp hành viên khoá 4 như sau:
+ Tổng thời lượng: 654 tiết, tương đương với 6 tháng.
+ Cấu trúc chương trình gồm 2 phần: Phần chung: 162 tiết, chiếm 24,7% tổng thời lượng chương trình. Phần này tập trung vào các vấn đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên. Phần kỹ năng, nghiệp vụ thi hành án với 18 nội dung đào tạo trong thời gian 396 tiết, chiếm 61% tổng thời lượng chương trình.
Giáo trình đào tạo chấp hành viên và công chứng viên do Học viện Tư pháp chủ trì biên soạn, trên cơ sở các bài giảng của giảng viên, có nghiên cứu, chỉnh lý sau mỗi khoá đào tạo cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và trình độ đầu vào của đối tượng đào tạo.
1.3.2. Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức
1.3.2.1. Bồi dưỡng cập nhật chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật mới
Tài liệu bồi dưỡng thường là tập hợp các bài nghiên cứu của các chuyên gia pháp luật, các nhà quản lý trong lĩnh vực chuyên môn có tham gia trực tiếp vào Ban soạn thảo, tổ soạn thảo hoặc nghiên cứu, theo dõi, quản lý trong lĩnh vực đó. Đa số các tài liệu bồi dưỡng mang tính nội bộ, phi lợi nhuận và phát miễn phí cho học viên như tài liệu nghiên cứu Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, tài liệu tập huấn Bộ luật dân sự, tài liệu bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế…
1.3.2.2. Bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ
Trong thời gian qua, với vai trò là quản lý, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các đơn vị chức năng tiến hành biên soạn các chương trình, tài liệu đào tạo nghề và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cần thiết cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Các chương trình đào tạo nghề mang tính mở, có sự bổ sung, sửa đổi, chỉnh lý sau mỗi khoá đào tạo cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong từng thời kỳ cũng như thực trạng trình độ của học viên. Đến nay, có 15 chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được xây dựng những nội dung quản lý chuyên ngành như chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng; bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý… Cùng với việc xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo từng lĩnh vực công tác chuyên môn, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức theo từng vùng, miền và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương đã được xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả như Chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp huyện năm 2003, Chương trình đào tạo trung cấp Luật cho cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã năm 2002, Chương trình đào tạo trung cấp Luật cho cán bộ tư pháp - hộ tịch năm 2004, Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã vùng Tây Nguyên. Đây là những tài liệu quan trọng không chỉ phục vụ cho công tác giảng dạy - học tập mà còn là những cẩm nang giúp cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương khai thác, sử dụng trong quá trình giải quyết công việc.
1.3.2.3. Bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý
Hiện nay, chương trình bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý mới chủ yếu tập trung vào việc bồi dưỡng kiến thức về lý luận chính trị và quản lý nhà nước do Học viện chính trị và Bộ Nội vụ đảm nhiệm việc xây dựng chương trình, tài liệu. Bộ Tư pháp vẫn chưa xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực tư pháp.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao cho ngành tư pháp, năm 2004, Bộ Tư pháp đã thí điểm xây dựng chương trình và tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý trong lĩnh vực chuyên ngành cho các Giám đốc Sở mới được bổ nhiệm. Chương trình tập trung chủ yếu vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành tư pháp và chức trách của Giám đốc Sở Tư pháp trong triển khai nhiệm vụ.
1.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức bổ trợ
Theo quy định tại Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg, cấu trúc nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị do Bộ Nội vụ phối hợp với Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn. Cấu trúc nội dung chương trình đào tạo kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác theo tiêu chuẩn ngạch do Bộ Giáo dục và đào tạo quy định.
Qua khảo sát ý kiến đánh giá của 500 công chức đã được đào tạo về lý luận chính trị chương trình cử nhân và quản lý nhà nước chương trình chuyên viên thì 80% số người được hỏi cho rằng có nhiều nội dung trùng lặp giữa 2 chương trình này về lý luận nhà nước và pháp luật, về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, về soạn thảo văn bản… đặc biệt là đối với công chức tư pháp thì những kiến thức này đã được giảng dạy trong chương trình đào tạo Đại học Luật hoặc trung cấp Luật.
1.4. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng
Các hình thức cơ bản tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là tập trung, bán tập trung và tại chức. Tuỳ từng đối tượng đào tạo với yêu cầu về mục tiêu, nội dung và thời gian đào tạo, bồi dưỡng khác nhau, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiên cứu lựa chọn hình thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng thích hợp, bảo đảm chất lượng và hiệu quả của các khoá đào tạo, bồi dưỡng. Hiện nay, 100% các khoá đào tạo nghề được thực hiện tại Học viện Tư pháp theo hình thức đào tạo chính quy tập trung với thời lượng 6 tháng đối với đào tạo nghề chấp hành viên, 4 tháng đối với đào tạo nghề công chứng viên.
Việc đào tạo trung học pháp lý cho công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã được tiến hành theo hình thức đào tạo chính quy tập trung và đào tạo tại chức không chính quy. Khảo sát thực tế công tác đào tạo công chức tư pháp địa phương trong thời gian cho thấy 97% các cơ sở đào tạo, các cơ quan tiến hành công tác đào tạo, bồi dưỡng và đa số học viên khẳng định việc đào tạo, theo hình thức tập trung bảo đảm chất lượng, hiệu quả hơn so với hình thức đào tạo tại chức.
Trong thời gian gần đây, các lớp trung học Luật do trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh phối hợp với địa phương mở. Ngoài ra, một số tỉnh như Thanh Hoá, Nghệ An, Hải Phòng, Thái Bình đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép mở các lớp đào tạo trung cấp Luật tại các trường chính trị của tỉnh để kịp thời đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu công tác tư pháp địa phương,
1.5. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
Trong thời gian qua, trong công tác giảng dạy, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương, chúng ta vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống là thuyết trình. Đến nay, chúng ta đã đưa thêm phương pháp đàm thoại vào giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của người học. Tuy nhiên, hiệu quả của các phương pháp giảng dạy này đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương vẫn chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và thấu đáo. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số hạn chế nổi bật của phương pháp đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua:
- Mới chỉ đổi mới phương pháp dạy mà chưa tập trung đến đổi mới phương pháp học;
- Phương pháp đào tạo chậm được đổi mới, thích ứng với yêu cầu nâng cao chất lượng và năng lực công tác của đội ngũ công chức tư pháp địa phương;
- Các phương pháp dạy còn mang nặng tính lý thuyết, chưa gắn lý thuyết với thực hành, chưa gây hứng thú, cuốn hút học viên, thiếu các tình huống cụ thể, phát sinh từ thực tiễn công tác;
- Phương pháp học của học viên còn mang tính thụ động, thiếu tính sáng tạo;
- Hầu hết giảng viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Vấn đề nghiên cứu, lựa chọn và ứng dụng phương pháp đào tạo trong lĩnh vực tư pháp còn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ.
1.6. Giảng viên
- Giảng viên tham gia đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương
Bộ Tư pháp huy động một số lượng lớn giảng viên tham gia vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, bao gồm:
+ Giảng viên cơ hữu của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng như giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp.
+ Giảng viên kiêm chức là các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý đang công tác ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Tuy chưa được đào tạo sâu về phương pháp sư phạm nhưng họ là những công chức có trình độ sâu về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp.
- Tăng cường năng lực cho đội ngũ giảng viên:
+ Tăng cường số lượng, trong 5 năm qua, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp tuyển dụng thêm 75 công chức là cán bộ trẻ, có trình độ, năng lực bổ sung thêm lực lượng giảng viên cơ hữu của ngành; khuyến khích, phát huy tối đa sự tham gia vào công tác giảng dạy chuyên môn, nghề nghiệp của các chuyên gia pháp luật, các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà quản lý có trình độ chuyên sâu, có kinh nghiệm thực tiễn trong các lĩnh vực xây dựng, thẩm định và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, thi hành án dân sự, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, phổ biến giáo dục pháp luật…
+ Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên: Hàng năm, Bộ Tư pháp đã giới thiệu được 10% giảng viên đi đào tạo chuyên sâu và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở trong nước và nước ngoài theo quy định tại Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg.
1.7. Cơ sở vật chất - kỹ thuật
Việc đào tạo Trung học Luật do trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thực hiện và đào tạo nghề do Học viện Tư pháp thực hiện và một số chương trình đào tạo về lý luận chính trị và hành chính nhà nước là do Học viện Hành chính quốc gia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hoặc các trường Chính trị tỉnh thực hiện. Đây là các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, có phòng học và các trang thiết bị giảng dạy cần thiết. Đặc biệt đối với Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp là những cơ sở giảng dạy đang sử dụng những trang thiết bị hiện đại vào công tác giảng dạy.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu. Để đào tạo một số lượng lớn công chức như hiện nay, cơ sở vật chất của Học viện Tư pháp đang bị quá tải, phải học theo ca, học buổi tối. Những khoá đào tạo được tiến hành tại địa phương thì hầu như học viên không được tiếp cận với những trang thiết bị giảng dạy cần thiết, chủ yếu vẫn là các hình thức giảng dạy truyền thống. Đối với những khoá bồi dưỡng nghiệp vụ, bao gồm cả những khoá do Bộ Tư pháp tổ chức thì đa số phải đi thuê hội trường, phòng học hoặc được thực hiện tại các hội trường của cơ quan là các phòng họp, hội nghị, hội thảo. Đây không phải là những địa điểm phù hợp, chuyên dành cho công tác giảng dạy nên việc bố trí, sắp xếp, sử dụng các trang thiết bị rất hạn chế.
2. Đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương
2.1. Đánh giá
2.1.1. Ưu điểm
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để đáp ứng với yêu cầu thực thi nhiệm vụ, công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương trong những năm qua đã được đầu tư, tăng cường hơn trước. Điều này được thể hiện như sau:
- Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương đã quan tâm hơn đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Trên cơ sở đề xuất nhu cầu của các đơn vị thuộc Bộ, Bộ Tư pháp đã xây dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Bộ hàng năm để trình Bộ Nội vụ xem xét, phê duyệt. Theo báo cáo của 47 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cho đến đầu năm 2006, 75% Sở Tư pháp đã phối hợp cùng với Sở Nội vụ để xây dựng trình UBND cấp tỉnh phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương đáp ứng với yêu cầu triển khai nhiệm vụ công tác tư pháp. Hàng năm, cùng với việc tổng kết, đánh giá tình hình công tác chung thì Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp cũng đã tiến hành đánh giá kết quả, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng làm cơ sở để đề ra kế hoạch cho năm sau.
- Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng được nghiên cứu, cải tiến phù hợp với thực trạng trình độ của từng loại công chức và nhằm đáp ứng được với yêu cầu của đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng.
- Phương pháp đào tạo đang được đổi mới với sự kết hợp với các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng tích cực, lấy người học làm trung tâm và lấy tình huống thực tế làm nền tảng cho việc nghiên cứu dạy và học.
- Bộ Tư pháp và chính quyền địa phương đã bước đầu quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.
- Kết quả đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian 5 năm (2001-2005)
Đến cuối năm 2005, Bộ Tư pháp đã tổ chức được 5 khoá đào tạo công chứng viên với tổng số 245 người; 4 khoá đào tạo chấp hành viên, với tổng số 490 người.
+ Đào tạo trung học Luật do Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện từ năm 2001 đến nay là 67 lớp với số lượng 2.948 người đã tốt nghiệp; hiện nay còn hơn 30 lớp đang học với số lượng trên 3.000 người. Đối tượng học chủ yếu là cán bộ chính quyền cơ sở, cán bộ tư pháp và cán bộ nguồn cho cấp xã.
+ Số lượng các lớp bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ do Bộ Tư pháp tổ chức cho công chứng viên là 6 lớp với tổng số 609 lượt người, bồi dưỡng nghiệp vụ cho chấp hành viên là 14 lớp với tổng số 2.024 lượt người (bảng2); tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và cập nhật văn bản mới cho 1.785 lượt công chức tư pháp địa phương (bảng 3). Ngoài ra, hàng năm các Sở Tư pháp đều tổ chức các lớp tập huấn văn bản mới và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp của địa phương về lĩnh vực soạn thảo văn bản, đất đai, nghiệp vụ hoà giải ở cơ sở, thi hành án ở xã, phường, thị trấn…
2.1.2. Hạn chế
Bên cạnh ưu điểm và những kết quả làm được, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương cũng bộc lộ những hạn chế như sau:
- Sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp và chính quyền địa phương đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương chưa kịp thời, đầy đủ.
- Phân công, phân cấp trách nhiệm trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương chưa cụ thể, rõ ràng và được thực hiện triệt để.
Trách nhiệm bồi dưỡng cán bộ, công chức giữa cấp tỉnh và cấp huyện chưa rõ ràng. Ví dụ Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ xác định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là xây dựng nội dung, chương trình, bồi dưỡng cập nhật nâng cao trình độ; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (Điều 25 Khoản 8), trong khi đó cũng xác định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp huyện là tổ chức việc bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Bên cạnh đó, theo các quy định của pháp luật về phân cấp trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thì các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành và địa phương. Kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng được đưa về các cấp phù hợp với đối tượng quản lý. Tuy nhiên, do điều kiện của nhiều địa phương còn khó khăn, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo nên việc sử dụng kinh phí cho mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương còn hạn chế, chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Trách nhiệm của cơ quan quản lý và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương cũng chưa được quy định một cách rành mạch, rõ ràng. Ví dụ như tại Quyết định số 23/2004/QĐ -TTg ngày 25/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Học viện Tư pháp có giao cho Học viện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với các chức danh tư pháp. Trong khi đó Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ xác định Cục Thi hành án dân sự có nhiệm vụ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho chấp hành viên và công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự địa phương (Điều 6). Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 14/1/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý giao cho Cục Trợ giúp pháp lý thực hiện việc cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.
- Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được với mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng công chức theo kế hoạch chung của Chính phủ.
- Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng dành cho cán bộ, công chức chưa được xây dựng thống nhất, có hệ thống và phù hợp với đặc thù của ngành tư pháp.
- Đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng được với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.
- Cơ sở vật chất, kinh phí tuy đã được quan tâm hơn trước nhưng nhìn chung còn thấp, các nội dung thực chi cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế.
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Nhận thức về vị trí vai trò của đội ngũ công chức tư pháp địa phương và về công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức nói chung trong đó có đội ngũ công chức tư pháp của các cấp bộ, ngành và chính quyền địa phương có lúc, có nơi chưa đầy đủ, thống nhất. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng được coi là một dạng chi phí tốn kém, chỉ được quan tâm mà chưa được coi như là một giải pháp ưu tiên, then chốt cho việc nâng cao chất lượng cán bộ với chiến lược dài hơi, đồng bộ và có chủ định. Các địa phương có chương trình, kế hoạch đào tạo nhưng nội dung cũng như việc triển khai chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp của các cơ quan có liên quan, hỗ trợ, tạo điều kiện cần thiết để công tác đào tạo, bồi dưỡng đạt mục tiêu và hiệu quả.
- Chưa xây dựng được quy hoạch đội ngũ công chức ngành tư pháp và đội ngũ công chức tư pháp địa phương làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng.
- Mặc dù trong những năm gần đây, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương đã được nâng lên một bước nhưng nhìn chung chưa theo kịp với những yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao. Trình độ của đội ngũ công chức không đồng đều, điều kiện từng vùng, miền, tỉnh, thành phố lại khác nhau, do đó ảnh hưởng đến không chỉ việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng mà còn ảnh hưởng tới cả việc xây dựng được nội dung, chương trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy, giảng viên để không chỉ bảo đảm cung cấp được những kiến thức cơ bản theo yêu cầu mà còn giải quyết, bổ sung được những kiến thức cụ thể, phù hợp với từng nơi và từng đối tượng.
- Cơ chế quản lý chưa hiệu quả: Các văn bản quy định về quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương thiếu tập trung, thống nhất và chậm được đổi mới. Hiện tại, có hàng chục văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức địa phương. Việc hệ thống hoá và pháp điển hoá các quy phạm này còn chưa được quan tâm đúng mức. Mô hình và cơ chế đào tạo trung cấp Luật của Bộ Tư pháp đưa ra tại Công văn số 1474/TP-TCCB ngày 12/10/1998 đã có những thay đổi về nội dung, hình thức, phương pháp với mục tiêu và yêu cầu cao hơn, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản khác phù hợp hơn thay thế.
Các cơ quan quản lý về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng chưa xây dựng được phương pháp và chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; một số cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng mới chú trọng đến việc tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng mà chưa coi trọng đến việc tổ chức đánh giá chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng.
III. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG
1. Mục tiêu
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức tư pháp địa phương có trình độ chuyên môn, thạo kỹ năng nghiệp vụ, có năng lực quản lý, điều hành, thực thi công vụ, trong sạch, vững mạnh, chính quy, chuyên nghiệp, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho ngành tư pháp trong giai đoạn cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập kinh tế, quốc tế.
Mục tiêu cụ thể
a) Đối với công chức cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện và cơ quan thi hành án dân sự địa phương
- Trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng công vụ, kiến thức lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học cho công chức cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện. Phấn đấu đến năm 2010, 100% công chức thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, huyện được trang bị kiến thức đáp ứng tiêu chuẩn chức danh theo quy định.
- Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý đương chức. Phấn đấu đến năm 2010, 100% lãnh đạo cấp Sở, Phòng Tư pháp, Thi hành án dân sự cấp tỉnh, huyện được trang bị kỹ năng lãnh đạo quản lý và kỹ năng phối hợp xử lý những vấn đề có tính chất liên ngành.
- Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cho công chức dự nguồn bổ nhiệm công chứng viên, chấp hành viên trước khi bổ nhiệm.
- Đến năm 2010, 100% công chức tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện được bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật, trang bị thông tin, những kiến thức về hội nhập, trong đó chú trọng bồi dưỡng cho công chức tại các cơ quan tư pháp cấp tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm- nơi tập trung các quan hệ dân sự, kinh tế có yếu tố nước ngoài.
b) Đối với công chức tư pháp - hộ tịch
Đến năm 2010, 100% công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức bổ trợ theo quy định, trong đó, số công chức có trình độ trung cấp luật tại các vùng đô thị, đồng bằng, vùng núi có tỉ lệ tương ứng là 95%, 80% và 70%. Chú trọng bồi dưỡng tiếng dân tộc cho công chức tư pháp hộ tịch ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa có trên 50% đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
2. Yêu cầu
Đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch trong khuôn khổ chiến lược phát triển nguồn nhân lực của ngành tư pháp và tiêu chuẩn của từng chức danh công chức. Trong đó, quy hoạch đào tạo gắn với quy hoạch công chức lãnh đạo quản lý và công chức chuyên môn nghiệp vụ.
Đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện một cách hệ thống, khoa học, tập trung vào kỹ năng, nghiệp vụ, trên cơ sở năng lực làm việc của cán bộ với nhu cầu, mục tiêu học tập cụ thể, rõ ràng; đào tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và kiểm tra, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đã được đào tạo, bồi dưỡng.
Đổi mới nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương trên cơ sở nhu cầu và đặc thù của từng đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng, có tính đến yếu tố vùng miền và các đặc điểm kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo có chất lượng và đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực chuyên môn và có phương pháp tốt.
Thay đổi nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền ở địa phương về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp trong định hướng phát triển nguồn nhân lực của địa phương. Đẩy mạnh phân cấp, xác định cụ thể trách nhiệm quản lý và thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương cho các cơ quan tư pháp địa phương và các cơ sở đào tạo.
3. Giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương
3.1. Hoàn thiện chính sách quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng
3.1.1. Rà soát hiệu lực các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công chức tư pháp nói riêng. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp tiến hành xem xét các văn bản trong phạm vi thẩm quyền trực tiếp sửa đổi hoặc kiến nghị các cơ quan chức năng thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung những văn bản không đáp ứng yêu cầu thực tiễn, xây dựng, ban hành những văn bản mới về quản lý đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung và công chức tư pháp nói riêng trong đặc thù tình hình cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập hiện nay.
3.1.2. Phân cấp quản lý đào tạo, bồi dưỡng
Phân định rõ trách nhiệm giữa cơ quan quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng (Bộ Tư pháp, UBND cấp tỉnh, huyện) với cơ quan trực tiếp thực hiện hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhằm tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Cụ thể như sau:
- Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành chức năng thực hiện quản lý vĩ mô, tập trung vào việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch; phân bổ chỉ tiêu, kinh phí và hướng tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng; Bộ Tư pháp trực tiếp xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng cho giảng viên và chương trình, tài liệu khung bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức tư pháp địa phương thống nhất trong toàn quốc; tổ chức các lớp bồi dưỡng cho cán bộ thuộc phạm vi quản lý, tổ chức các lớp bồi dưỡng điểm và hướng dẫn Sở Tư pháp triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Các cơ quan tư pháp địa phương trên cơ sở quy định về phân cấp quản lý và căn cứ vào chương trình khung của Bộ Tư pháp để bổ sung, biên tập chương trình, tài liệu và trực tiếp tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ phù hợp với điều kiện, tình hình kinh tế - xã hội của địa phương.
Tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo như Học viện Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học... Tạo điều kiện để các cơ sở này nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng.
3.1.3. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo nhằm bảo đảm tính hệ thống và sự liên thông giữa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ với đào tạo nghề, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý nhà nước và các kiến thức bổ trợ khác cho cán bộ, công chức.
3.2. Đổi mới tổ chức bộ máy các cơ quan và bố trí, sử dụng hiệu quả công chức tư pháp địa phương
3.2.1. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp địa phương theo yêu cầu nhiệm vụ được giao trên cơ sở các quy định của pháp luật và điều kiện thực tiễn của địa phương. Xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy trình làm việc để đưa hoạt động vào nề nếp, có hiệu quả.
3.2.2. Bố trí, sử dụng công chức tư pháp địa phương
- Các địa phương có chính sách tuyển dụng những người đúng chuyên môn, nghiệp vụ, đủ tiêu chuẩn về trình độ vào làm việc tại cơ quan tư pháp. Cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện ưu tiên tuyển dụng những người có bằng cử nhân luật hệ chính quy, được đào tạo cơ bản về làm việc, tạo môi trường thuận lợi, chính sách đãi ngộ tốt... để đội ngũ này yên tâm gắn bó lâu dài với địa phương. Tư pháp cấp xã cần tuyển dụng những người đã có bằng trung học luật chuyên trách công tác tư pháp. Các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn cần có chính sách gửi học sinh các dân tộc thiểu số đi đào tạo để làm nguồn công chức tư pháp.
- Bố trí, sắp xếp những người có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác vào những vị trí công tác phù hợp, đồng thời tạo điều kiện để cán bộ, công chức có thể phát huy kiến thức, năng lực vào thực tiễn công tác.
- Tạo môi trường làm việc ổn định để đội ngũ công chức tư pháp địa phương được làm việc ổn định theo lĩnh vực chuyên trách, hạn chế việc điều động những người có chuyên môn hoặc đã qua đào tạo về chuyên môn tư pháp sang lĩnh vực khác hoặc ngược lại. Mở rộng đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp ở cấp xã để bảo đảm nguồn cán bộ thay thế khi có sự thay đổi, điều động, thuyên chuyển.
3.3. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
3.3.1. Bộ Tư pháp chỉ đạo cơ quan tư pháp cấp tỉnh thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng về số lượng, chất lượng, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương theo tiêu chí: cấp quản lý (tỉnh, huyện, xã), tiêu chí vùng miền, điều kiện kinh tế xã hội (đô thị, nông thôn, miền núi, vùng sâu xùng xa...). Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp có biện pháp kiện toàn về cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp địa phương, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức.
3.3.2. Các cơ quan tư pháp địa phương cần sớm triển khai công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nhằm khắc phục sự phối hợp chưa đồng bộ giữa ngành quản lý về chuyên môn và cấp quản lý hành chính về nhân sự, dẫn đến sự chồng chéo, thiếu ổn định và thiếu tính kế thừa trong công tác đào tạo, bồi dưỡng.
3.4. Đổi mới chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
3.4.1. Chương trình, nội dung đào tạo chuyên môn
Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào yêu cầu thực tiễn, tiêu chuẩn cho từng cán bộ, công chức tư pháp, nhiệm vụ được giao. Trong đó, quán triệt phương châm lý luận phải gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, đảm bảo hiệu quả, thiết thực.
Chương trình đào tạo phải kết hợp trang bị kiến thức chuyên môn với việc nâng cao nhận thức về chính trị, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể của công chức. Kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ trang bị cho công chức tư pháp địa phương cần toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm tránh dàn trải, kết hợp giữa kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên ngành và kiến thức bổ trợ.
a) Đối với nội dung, chương trình đào tạo đại học
Chương trình học cần đáp ứng được yêu cầu giúp sinh viên có định hướng và có những kiến thức ban đầu để xử lý các yêu cầu công việc thực tiễn; bổ sung các kiến thức nghiệp vụ như: kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng nghiên cứu, đánh giá, phân tích, hoạch định chính sách, kỹ năng tư vấn, tranh tụng, các kiến thức về luật quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế... Những nội dung đổi mới phải được thể hiện không chỉ trong chương trình đào tạo chung mà cần được thể hiện rõ nét cả trong đào tạo chuyên ngành.
b) Nội dung, chương trình đào tạo trung cấp luật
Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo trung cấp luật theo hướng bám sát nhu cầu thực tiễn công tác và căn cứ vào đặc điểm đối tượng học viên. Xây dựng chương trình thống nhất, trong đó bổ sung khối kiến thức về nghiệp vụ, đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành và kiến thức các lĩnh vực liên quan. Chương trình, nội dung đào tạo cần được thiết kế phù hợp giữa thời lượng đào tạo các kiến thức văn hoá chung và đào tạo chuyên môn luật.
c) Chương trình đào tạo nghề
Đới với việc đào tạo nguồn công chứng viên, chấp hành viên cần xây dựng chương trình thống nhất, tăng thời lượng đào tạo về đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng công vụ, giảm thời lượng đào tạo về kiến thức pháp luật chung do các học viên đã được đào tạo tại chương trình cử nhân, tăng thời lượng thực tập tại các địa phương có nhiều vụ việc, đội ngũ công chức có trình độ, kinh nghiệm. Những kiến thức về cập nhật văn bản mới không nên đưa vào chương trình đào tạo, học viên có thể tự trang bị phần kiến thức này thông qua các phương tiện thông tin như sách, báo, mạng internet.
3.4.2. Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ
a) Đối với đội ngũ chuyên viên pháp lý, công chứng viên, chấp hành viên
Khi xây dựng chương trình cần quán triệt tư tưởng không dạy lại những kiến thức lý luận chung mà chủ yếu tập trung vào kỹ năng, kinh nghiệm và tác nghiệp cụ thể.
Xây dựng hệ thống chương trình bồi dưỡng theo từng lĩnh vực chuyên môn như: xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, công chứng, chứng thực, hộ tịch, lý lịch tư pháp, trợ giúp pháp lý, phổ biến giáo dục pháp luật, hoà giải,... làm cơ sở để địa phương nghiên cứu các chương trình bồi dưỡng cụ thể trong từng năm.
Tiếp tục hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho công chức tư pháp làm nhiệm vụ có yếu tố nước ngoài. Trong đó đặc biệt chú trọng đến kiến thức về ngoại ngữ tin học và kiến thức về pháp luật so sánh, hệ thống pháp luật quốc tế, hệ thống pháp luật một số nước phát triển phân theo khu vực, hệ thống luật lệ, quy tắc của các tổ chức quốc tế như: WTO, WB, WHO…
b) Đối với công chức tư pháp - hộ tịch
Biên soạn, xây dựng các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế của công tác tư pháp ở địa phương (đô thị, đồng bằng, vùng núi...). Xây dựng chương trình bồi dưỡng tiếng dân tộc cho cán bộ, sinh viên khi ra trường chuẩn bị đến vùng dân tộc mà mình được phân công công tác để có phương tiện giao tiếp đảm bảo hiệu quả trong công việc.
3.4.3. Giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
Hoàn thiện chương trình khung, tài liệu chung, thống nhất về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho từng loại đối tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn địa phương xây dựng chương trình, tài liệu phù hợp với đặc điểm của địa phương. Từng địa phương sẽ căn cứ vào chương trình khung đó để nghiên cứu xây dựng giáo trình, tài liệu phù hợp với đặc điểm đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của mình.
Xây dựng, phát hành các tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ, hệ thống văn bản về từng lĩnh vực chuyên môn, sách hướng dẫn nghiệp vụ, cẩm nang.... coi đây là một kênh thông tin quan trọng mà công chức tư pháp địa phương có thể tham khảo, tìm hướng dẫn khi giải quyết các vấn đề thực tiễn công việc.
3.5. Đa dạng hoá hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
3.5.1. Hình thức đào tạo
Đặc điểm của công chức tư pháp địa phương là đối tượng vừa học vừa làm, phần lớn đã được qua đào tạo cơ bản chương trình cử nhân, trung cấp luật. Vì vậy, căn cứ vào đặc điểm của từng nhóm đối tượng công chức tư pháp địa phương, trên cơ sở các yếu tố liên quan như: chức trách, nhiệm vụ, trình độ chuyên môn, điều kiện kinh tế xã hội và yếu tố vùng miền của địa phương nơi công chức đang công tác. Các lớp đào tạo, bồi dưỡng không tập trung, ngắn hạn, các buổi tham quan khảo sát, học hỏi kinh nghiệm giữa các địa phương với nhau sẽ phù hợp và có hiệu quả hơn đối với tượng công chức tư pháp. Đối với các vùng núi, vùng sâu, vùng kinh tế khó khăn, chúng ta có thể phối hợp với các cơ sở đào tạo ở địa phương tổ chức các lớp đào tạo tại chỗ. Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp có thể hỗ trợ về giáo trình, tài liệu, giảng viên... địa phương sẽ đảm bảo địa điểm và chỗ ăn, ở cho học viên.
Đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết qủa đào tạo bồi dưỡng. Sau mỗi chương trình học, việc kiểm tra cần được đặc biệt chú trọng, đảm bảo nghiêm túc và thực chất, sát nội dung, chương trình và thể hiện rõ nhất chất lượng học tập của học viên.
Hình thức gửi công chức đi đào tạo tại một số quốc gia phát triển cần được xem xét và mạnh dạn áp dụng đối với những công chức tư pháp là chuyên viên chính trở lên hoặc công chức là nguồn quy hoạch cán bộ - những người trẻ, được đào tạo cơ bản và có khả năng ngoại ngữ.
3.5.2. Phương pháp đào tạo
Các cơ sở đào tạo và giảng viên cần thay đổi phương pháp đào tạo theo hướng hạn chế áp dụng phương pháp độc thoại, thuyết trình, tăng cường các phương pháp bồi dưỡng tích cực lấy người học làm trung tâm và lấy tình huống thực tiễn làm nền tảng cho việc nghiên cứu dạy và học.
Phương pháp song giảng, phương pháp thảo luận và phương pháp tình huống cần được ưu tiên áp dụng. Phương pháp thuyết trình truyền thống cũng cần được đổi mới, tăng cường sự hỗ trợ của khoa học công nghệ để các bài giảng, thuyết trình trở nên hấp hẫn, lôi cuốn người học.
3.6. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
- Tiến hành khảo sát, nắm thực trạng về số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên bao gồm cả giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng...Trên cơ sở đó có kế hoạch phát triển số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cơ hữu tại các trường Đại học Luật, Học viện Tư pháp bằng cách tuyển dụng, tiếp nhận hoặc gửi đi đào tạo những người có trình độ chuyên môn, có năng lực nghiên cứu, phương pháp giảng dạy tốt. Thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và các kiến thức chuyên ngành cho đội ngũ giảng viên này. Đồng thời tăng kiến thức thực tiễn của họ bằng cách tổ chức đi thực tế, khảo sát tại các địa phương trong cả nước.
Phát triển đội ngũ giảng viên kiêm chức tại các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh từ nguồn các công chức có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong quản lý và thực thi công tác tư pháp địa phương. Hàng năm tổ chức các lớp tập huấn về nội dung, chương trình, tài liệu và phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên, báo cáo viên kiêm nhiệm này.
Quy định việc tham gia đào tạo bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương như một nhiệm vụ bắt buộc đối với những người có trình độ, có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có thâm niên công tác tại các cơ quan tư pháp Trung ương và địa phương.
- Cải tiến chế độ chính sách đối với giảng viên đặc biệt là những người tham gia giảng dạy, bồi dưỡng cho công chức tư pháp ở các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa điều kiện ăn ở đi lại khó khăn.
- Các địa phương cần có kế hoạch xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên từ nguồn các công chức được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn sâu và có kinh nghiệm thực tiễn vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương mình. Có kế hoạch đưa đội ngũ công chức này đi đào tạo, tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và thường xuyên cập nhật các văn bản, kiến thức, kỹ năng mới.
- Các địa phương cần chủ động trong việc mời giảng viên thỉnh giảng từ các cơ quan tư pháp, cơ sở đào tạo để giảng dạy tại các lớp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương mình. Có chính sách và chế độ đãi ngộ phù hợp về thù lao, tạo điều kiện thuận lợi trong bố trí, sắp xếp công việc cho những công chức kiêm nhiệm công tác giảng dạy.
- Tranh thủ thu hút sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế hoạt động ở các lĩnh vực liên quan, vận động các chuyên gia uy tín của một số nước trên thế giới đang hoạt động ở Việt Nam và ở địa phương tham gia vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương, đặc biệt là bồi dưỡng cho các công chức đang thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hội nhập. Tranh thủ sự ủng hộ của cấp uỷ và chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện gửi các bộ, công chức đi đào tạo ở nước ngoài.
3.7. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, đảm bảo nguồn kinh phí đào tạo, thường xuyên cho công chức tư pháp địa phương.
4. Một số kiến nghị
Xuất phát từ thực trạng đội ngũ công chức tư pháp địa phương và thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức này; trên cơ sở phương hướng và các biện pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ đối với đội ngũ công chức tư pháp địa phương theo tinh thần cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị cụ thể như sau:
4.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương
- Kết hợp với việc phân cấp quản lý cán bộ, công chức và phân cấp về tài chính, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản quy định việc phân công, phân cấp và tạo cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan ở Trung ương và địa phương về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp.
- Để đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020 và tạo lập đồng bộ khuôn khổ pháp luật cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức địa phương trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm xây dựng định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó có đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể, thống nhất và phù hợp với tình hình thực tiễn về các chế độ đãi ngộ, thù lao cho giảng viên, các mức chi phí cho việc xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu, quyền lợi và nghĩa vụ của công chức được cử đi học, hoàn thiện cơ chế đánh giá chất lượng và quy định chế độ đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với công chức tư pháp địa phương, ban hành Quy chế cấp phát và sử dụng chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức… Ngoài ra, trong phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan cần sớm nghiên cứu và quy định chế độ khuyến khích công chức đi học tập, bố trí sắp xếp công việc phù hợp sau khi công chức được đào tạo, bồi dưỡng, có chế độ ưu tiên trong bổ nhiệm, đề bạt những đối tượng đã được đào tạo, bồi dưỡng,…
- Xây dựng văn bản quy định cụ thể hoá tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với công chức tư pháp địa phương, đặc biệt tiêu chuẩn này phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, xây dựng chế độ thu hút những người có trình độ, năng lực về công tác tại các cơ quan tư pháp địa phương, đặc biệt cần quan tâm, tăng cường cho các cơ quan tư pháp ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
4.2. Rà soát, đánh giá đội ngũ công chức tư pháp địa phương, xây dựng quy hoạch cán bộ và quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương
Sở Tư pháp cần tăng cường phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính, các Trường chính trị tỉnh, các Trung tâm giáo dục thường xuyên và tranh thủ sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc triển khai tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.
4.3. Khẩn trương đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương
Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan trong phạm vi thẩm quyền của mình sớm triển khai xây dựng, hoàn thiện và ban hành nội dung chương trình khung, giáo trình, tài liệu thống nhất áp dụng cho từng loại đối tượng người học phù hợp với yêu cầu, trình độ của đội ngũ công chức tư pháp địa phương. Căn cứ nội dung chương trình khung, giáo trình và tài liệu đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở địa phương cần nghiên cứu các vấn đề thực tiễn cụ thể ở địa phương mình để tiến hành tổ chức bồi dưỡng với hình thức phù hợp cho đội ngũ công chức này sao cho những kiến thức cung cấp cho học viên được đảm bảo một cách hợp lý giữa lý luận và thực tiễn.
Bên cạnh đó, cần đa dạng và đổi mới đồng bộ các phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với đặc điểm tình hình công tác của đội ngũ công chức tư pháp địa phương.
4.4. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, giảng viên kiêm chức tham gia giảng dạy
Trước mắt, để xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên này, các cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Bổ sung, điều tiết biên chế và chất lượng biên chế cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đang thiếu giảng viên;
- Tổ chức thí điểm những khoá đào tạo ngắn hạn cho giảng viên theo những nội dung mang tính phương pháp giảng dạy và chương trình học về kỹ năng;
- Xây dựng, bổ sung chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên và có cơ chế thu hút những người có năng lực, trình độ;
- Đầu tư thoả đáng cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết phục vụ cho việc dạy và học;
- Tiếp tục tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng; có cơ chế phù hợp để các địa phương có thể hợp tác đào tạo, bồi dưỡng và công chức tư pháp địa phương có nhiều người được tham gia đào tạo, bồi dưỡng để nghiên cứu, học tập kiến thức, kinh nghiệm có chọn lọc của nước ngoài.
Đặc biệt, Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần tích cực, chủ động và quan tâm chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ giảng viên kiêm chức đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có phương pháp sư phạm để có thể chủ động thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho công chức tư pháp địa phương.
4.5. Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp với cấp uỷ Đảng và UBND cấp tỉnh trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan tư pháp địa phương, các cơ quan có liên quan thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương
4.6. Đảm bảo nguồn kinh phí và các chế độ, chính sách khác phục vụ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương
Cần xác định rõ và dành khoản kinh phí thoả đáng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương. Đối với những nơi còn khó khăn về kinh phí, các cơ quan có liên quan cần có sự quan tâm, hỗ trợ kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp ở địa phương này. Đồng thời, các cơ quan có liên quan cũng cần có cơ chế động viên, khuyến khích, phát huy nguồn nhân vật lực tại chỗ để thực hiện hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư pháp địa phương.
Cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích công chức tư pháp địa phương tự nghiên cứu, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, trước mắt cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia phục vụ công tác tư vấn, hoạch định chính sách và thực thi công vụ có hiệu quả cao.
Thường xuyên sơ kết, tổng kết, đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp địa phương.
Quan tâm kiện toàn tổ chức, cán bộ làm công tác đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ quan tư pháp địa phương, cần cung cấp đầy đủ tài liệu, văn bản quy định, hướng dẫn về công tác đào tạo, bồi dưỡng và các cơ quan có thẩm quyền quan tâm tổ chức tập huấn, hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm, tâm nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ này.
Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu và triển khai thí điểm thực hiện mô hình xã hội hoá trong đào tạo, bồi dưỡng đối với một số đối tượng công chức tư pháp địa phương./.
[1] Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2005, Nghị định số 171/2004/NĐ-CP và Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 quy định về cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ quy định về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự