• Thuộc tính
Tên đề tài Các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế với việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nội dung tóm tắt

Các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là hình thức tổ chức tập hợp các cá nhân, các tổ chức kinh tế gắn với các quan hệ sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế. Chính vì vậy, việc thu hút lực lượng xã hội này tham gia vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta có ý nghĩa thiết thực. Mặc dù trong những năm gần đây, các chính sách kinh tế và pháp luật kinh tế được ban hành đã có sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế nhưng hiệu quả chưa cao chưa phát huy được đầy đủ tiềm năng của họ. Điều đó đặt ra yêu cầu là cần nghiên cứu làm rõ vai trò và tình hình thực tế tham gia của các tổ chức này vào việc xây dựng chính sách pháp luật kinh tế, trên cơ sở đó tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả tham gia của các chủ thể này. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề này.

Từ thực tế trên đây cho thấy, việc nghiên cứu làm rõ về lý luận, tình hình thực tế và tìm cơ chế phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có ý nghĩa thiết thực đối với việc tìm giải pháp để đổi mới quy trình xây dựng, nâng cao chất lượng pháp luật kinh tế. Chính vì vậy, Viện Khoa học pháp lý lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế với việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”.

Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích xác định cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế, để trên cơ sở đó tìm giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu đề tài không nhằm mục đích xác định vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hay xác định tư cách chủ thể quan hệ pháp luật nói chung của các tổ chức này.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1. Khái niệm, phân loại các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế.

1.1. Đặt vấn đề

Ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế giới, có những vấn đề mà Nhà nước tự bản thân không có khả năng giải quyết được, hoặc giải quyết kém hiệu quả; ngược lại, có những vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ mối quan hệ chính trị và pháp lý giữa công dân và Nhà nước, mà từng cá nhân cũng không thể giải quyết được. Đối với những vấn đề như vậy, các Nhà nước đều phải dựa vào các tổ chức dân sự (phi nhà nước) để giải quyết bằng phương pháp quản lý, điều chỉnh đa dạng, phù hợp với từng loại đối tượng. Bằng sự phân công và hợp tác này giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội mà một xã hội dân chủ được tạo ra và phát triển một cách ổn định, bền vững.

Theo quy định của pháp luật, ngoài các tổ chức chính trị, tổ chức tôn giáo, ở Việt Nam hiện có các loại tổ chức dân sự sau đây:

Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội (Công đoàn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên: Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh). Trong quá trình tổ chức và hoạt động, các tổ chức chính trị - xã hội thể hiện rõ nét 2 tính chất: tính chất chính trị và tính chất xã hội.

Tính chất chính trị của các tổ chức này dựa vào 2 yếu tố cơ bản sau đây: Một là, các tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức chịu sự lãnh đạo trực tiếp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, Đảng tập hợp quần chúng. Các tổ chức chính trị - xã hội phản ánh trung thành những nhu cầu, nguyện vọng, tâm tư của hội viên với Đảng, để Đảng có những chủ trương, đường lối, chính sách đúng. Trên cơ sở đó, các tổ chức chính trị - xã hội hướng dẫn hội viên thực hiện tốt các nhiệm vụ của hội theo mục tiêu, đường lối của Đảng. Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội còn có quan hệ rất chặt chẽ với bộ máy nhà nước. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn với Nhà nước là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của đất nước là xây dựng một nước Việt Nam dân chủ và giàu mạnh. Trong quá trình hoạt động, các tổ chức chính trị - xã hội phải tuân thủ luật pháp của Nhà nước, tham gia các hoạt động nhằm đề ra và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ liên quan đến nghĩa vụ, quyền lợi của các đối tượng là thành viên của tổ chức mình, đồng thời, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước, khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng của bộ máy nhà nước.

Tính chất xã hội của các tổ chức này được thể hiện ở những điểm sau đây: (i) Các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức có sự tham gia của đông đảo người lao động, các tầng lớp nhân dân, các giai tầng xã hội. (ii)  Cơ chế tham gia và quản lý của các tổ chức này là mềm dẻo, chủ yếu dựa trên cơ sở tự nguyện của các thành viên, chế tài không mang tính cưỡng chế, áp đặt, mà chủ yếu là dùng biện pháp giáo dục, thuyết phục để điều chỉnh các mối quan hệ giữa các thành viên và giữa tổ chức với thành viên.

Thứ hai, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp (Hội Luật gia Việt Nam, Hội nhà văn, Hội nhà báo…)

Thứ ba, tổ chức xã hội thuần tuý (Hội người cao tuổi, Hội khuyến học, Hội phẫu thuật nụ cười, Hội phục hồi chức năng...). Trong các tổ chức xã hội, tính xã hội này còn được thể hiện đậm nét hơn ở những biểu hiện cụ thể sau đây:

- Về tổ chức, các tổ chức xã hội là tổ chức liên kết tự nguyện của công dân, không phân biệt thành phần xã hội, trình độ chuyên môn, tín ngưỡng, giàu, nghèo, nam, nữ. Các tổ chức xã hội, đoàn thể vừa là người đại diện, vừa là người bảo vệ lợi ích của các thành viên trong những mối quan hệ xã hội nhất định.

- Về nội dung hoạt động, các tổ chức xã hội luôn dựa vào nhân tố con người để hoạch định nội dung hoạt động của mình nhằm thoả mãn các nhu cầu, sở thích, nguyện vọng của các thành viên.

- Về phương thức hoạt động, các tổ chức này hoạt động theo những nguyên tắc và phương pháp hết sức mềm dẻo. Cán bộ của các tổ chức xã hội được bầu ra trên cơ sở uy tín và sự tôn vinh của các thành viên, nên họ thực sự là thủ lĩnh của tổ chức, là người đại diện thật sự của các thành viên. Không có biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước nào được áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức và hội viên cũng như giữa các hội viên với nhau. Các quan hệ này được xác lập và xử lý trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và tính tự giác cao.

- Các tổ chức xã hội, đoàn thể hoạt động dựa trên cơ sở pháp luật và các quy chế, điều lệ do tổ chức tự ban hành, mà không cần có sự phê duyệt của cơ quan nhà nước.

Thứ tư, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp (các hội, hiệp hội ngành nghề).

Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là tổ chức của quần chúng, được phát triển mạnh mẽ trong cơ chế kinh tế thị trường. Các tổ chức này ít mang tính chất chính trị, bên cạnh tính xã hội thì các tổ chức này còn mang nặng tính nghề nghiệp. Thành viên của tổ chức xã hội - nghề nghiệp thường gồm những người có cùng nghề nghiệp chuyên môn, tập hợp nhau trong một hội hoặc hiệp hội nhằm hỗ trợ, giúp đỡ nhau hành nghề tốt hơn, chống lại hoặc giảm thiểu những tác nhân bất lợi từ bên ngoài.

Thứ năm, các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã...).

Với phương thức tổ chức, quản lý mềm dẻo, linh hoạt, nội dung hoạt động phong phú, đa dạng, các tổ chức dân sự đã góp phần bảo đảm sự ổn định xã hội, đáp ứng được các nhu cầu trong cuộc sống của mọi giới, tạo ra đối trọng (không phải là đối lập) cần thiết đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần ngăn chặn các hành vi quan liêu, cửa quyền. Vai trò đối trọng đó thể hiện qua việc các tổ chức dân sự này chia sẻ với Chính phủ các dịch vụ công cộng, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu đời sống với hiệu quả cao; hoặc qua tham gia thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội với cách làm gọn nhẹ, tiết kiệm, thiết thực và được dân trực tiếp kiểm tra. Các tổ chức này cung cấp cho Chính phủ các thông tin, những kiến nghị thiết thực của dân, qua đó giúp Chính phủ kịp thời xem xét, điều chỉnh chính sách và các chủ trương của mình cho sát đúng với tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn.

1.2. Khái niệm, đặc điểm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp

Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một loại pháp nhân hoạt động theo các quy định của Bộ luật Dân sự, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập, chuẩn y điều lệ và có hội viên là cá nhân, tổ chức tự nguyện đóng góp tài sản hoặc hội phí nhằm phục vụ nhu cầu chung của hội viên và mục đích của hội.

Tổ chức xã hội - nghề nghiệp chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình. Hội viên không chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản riêng về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong trường hợp tổ chức xã hội - nghề nghiệp chấm dứt hoạt động, thì tài sản của tổ chức đó không được phân chia cho các hội viên mà phải được giải quyết theo quy định của pháp luật1.

Nghiên cứu các quy định của pháp luật, có thể rút ra một số đặc điểm của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp như sau: (i) Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một pháp nhân; (ii) Được thành lập theo sáng kiến và ý chí tự nguyện của các thành viên; (iii) Phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các tổ chức xã hội - nghề nghiệp mới được thành lập và hoạt động; (iv) Mục đích của tổ chức xã hội - nghề nghiệp là phục vụ các hoạt động có tính chất nghề nghiệp.

1.3. Hiệp hội của các tổ chức kinh tế

Hiệp hội của các tổ chức kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp được hình thành trên cơ sở tự nguyện của các tổ chức kinh tế cùng ngành nghề, thuộc mọi thành phần kinh tế, có tư cách pháp nhân, nhằm bảo vệ và phát triển ngành nghề. Hiệp hội kinh tế hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự trang trải, trong khuôn khổ pháp luật.

Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam, các doanh nghiệp cần thiết gia nhập các hiệp hội vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, tiến trình cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước đang diễn ra một cách mạnh mẽ, mà trọng tâm của nó là tách bạch chức năng quản lý hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước với chức năng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tiến tới xoá bỏ sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp. Theo đó, khái niệm “cơ quan chủ quản” của doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước) sẽ dần mất đi, mọi doanh nghiệp sẽ bình đẳng trước pháp luật, do vậy, nhu cầu dựa vào các hiệp hội để hỗ trợ và đại diện bảo vệ quyền lợi sẽ tăng lên.

Thứ hai, trong quá trình phát triển và hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị cạnh tranh mạnh. Trong khi đó, với năng lực cạnh tranh thấp do hạn chế về tài chính, nhân lực, công nghệ, thông tin, kỹ năng quản lý..., thì tất yếu các doanh nghiệp sẽ đoàn kết tập hợp lại theo các ngành hàng để tăng năng lực cạnh tranh cho mình. Thông qua các hiệp hội, doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận được thị trường rộng lớn hơn, được hưởng các dịch vụ tốt hơn, được bảo vệ và hỗ trợ hiệu quả hơn, tránh lãng phí các nguồn lực.

Thứ ba, khi tham gia vào thị trường quốc tế sẽ có những thoả thuận, đàm phán giữa các khu vực thị trường về chính sách thương mại. Đây là lúc các hiệp hội thể hiện vai trò của mình, đấu tranh cho các hội viên và cũng chỉ có hiệp hội mới làm được điều này. Doanh nghiệp đứng ngoài hiệp hội vừa bị thiếu thông tin, vừa không có tiếng nói. Hiệp hội sẽ là tổ chức hợp tác, liên kết “mềm” theo chiều ngang để phối hợp hoạt động bảo vệ lợi ích chung và giúp nhau nâng cao sức cạnh tranh và đó là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Hiệp hội của các tổ chức kinh tế được chia thành 2 loại là hiệp hội ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp2. Bằng việc phân tích các quy định pháp luật về hiệp hội của các tổ chức kinh tế, nhóm nghiên cứu rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, hiệp hội của các tổ chức kinh tế là tổ chức dân sự (phi Chính phủ) mang tính chất nghề nghiệp, do các tổ chức kinh tế tự nguyện liên kết với nhau để điều hoà lợi ích nội bộ của hiệp hội, bảo vệ lợi ích chung, hỗ trợ lẫn nhau đối phó với các tác nhân bất lợi từ bên ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhuận của từng đơn vị thành viên.

Hiệp hội không phải là một tổ chức kinh doanh, không trực tiếp hoạt động kinh doanh với sự góp vốn và điều hành chung như các tổ chức liên kết cứng (công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế); không can thiệp vào hoạt động kinh doanh riêng của từng đơn vị thành viên, mà là tổ chức phi lợi nhuận, chỉ gián tiếp tác động để từng thành viên tối đa hoá lợi nhuận.

Thứ hai, hiệp hội là tổ chức tự nguyện, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có tư cách pháp nhân, độc lập với khu vực nhà nước và không phải chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản theo ngành. Hiệp hội là một đối tác của chính quyền để làm cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước, được Nhà nước bảo vệ quyền lợi, tạo điều kiện để thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả. Nhà nước khuyến khích và có thể hỗ trợ thêm đối với các ngành trọng yếu.

Do đặc tính này mà việc thành lập hiệp hội do một số sáng lập viên vận động và đăng ký hoạt động với cơ quan nội vụ, chứ không phải do Bộ, Sở quản lý ngành đứng ra thành lập hoặc cho phép, phê duyệt điều lệ3. Nói cách khác, hiệp hội chịu sự điều chỉnh của pháp luật về dân sự thay vì pháp luật về doanh nghiệp.

Thứ ba, về phương thức hoạt động của hiệp hội, hiệp hội không hoạt động như một cơ quan quản lý kinh doanh, không can thiệp vào các hoạt động tự chủ của các đơn vị thành viên, không tổ chức hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, mà chỉ tổ chức một số dịch vụ phục vụ nội bộ hiệp hội để gây quỹ phục vụ hoạt động tự trang trải kinh phí hoặc tạo thêm phúc lợi tập thể.

Mọi chủ trương của hiệp hội đều thông qua thương lượng dân chủ, bình đẳng giữa các thành viên, phục vụ quyền lợi chung của hiệp hội, có sự nhất trí cao. Các hoạt động chung huy động nhân lực từ các đơn vị thành viên với sự phân công hợp lý, có sự điều phối của cơ quan điều hành hiệp hội. Bộ máy giúp việc cơ quan điều hành hiệp hội rất gọn nhẹ, chủ yếu là thuê theo hợp đồng (bao gồm chuyên gia, nhân viên).

Tài chính công khai, minh bạch, có chức danh kiểm soát và có chế độ báo cáo. Phần kinh phí kết dư không được phân chia cho cá nhân, phải để lại quỹ để chi đúng mục đích. Hội phí đóng góp của các hội viên được quy định trong điều lệ, hoặc thành viên tự nguyện đóng góp thêm. Khi hợp nhất, chia, tách hoặc giải thể, chấm dứt hoạt động cần phải kiểm kê, đánh giá tài sản và thống nhất cách xử lý.

Việc gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội là tự nguyện. Mỗi đơn vị thành viên được bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh; được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; không hoạt động riêng rẽ trái với thỏa thuận chung gây phương hại cho các thành viên khác. Các biện pháp cạnh tranh với đối tác bên ngoài cần được phối hợp.

Cơ quan quyền lực cao nhất của hiệp hội là Đại hội toàn thể đại diện các đơn vị thành viên với nhiệm kỳ 2 hoặc 3 năm. Đại hội lần đầu do các thành viên sáng lập triệu tập và chủ trì. Đại hội bàn và quyết định điều lệ, các cơ chế, chương trình hoạt động từng nhiệm kỳ và các chủ trương lớn có ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của hiệp hội.

Cơ cấu thành viên hiệp hội do điều lệ quy định. Ban điều hành hiệp hội là cơ quan điều phối các hoạt động thường xuyên, chấp hành nghị quyết đại hội. Tuỳ theo quy mô hiệp hội, có thể có chủ tịch, phó chủ tịch, tổng thư ký... hoặc gọn hơn là chủ tịch và một uỷ viên điều hành. Thành viên ban điều hành thường là những giám đốc đơn vị thành viên kiêm nhiệm, chỉ trường hợp hiệp hội có quy mô toàn quốc mới cần có người chuyên trách (tổng thư ký). Hiệp hội có thể có ban kiểm soát (tài chính) do đại hội bầu ra, hoặc chỉ cần 1 uỷ viên kiểm soát. Khi cần thiết có thể sử dụng cơ quan kiểm toán để xử lý.

Các nguồn thu kinh phí của hiệp hội bao gồm: (i) Đóng góp vào quỹ của các hội viên tuỳ quy mô và thực lực của từng đơn vị; (ii) Tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; (iii) Hỗ trợ của Nhà nước do đóng góp có hiệu qủa vào các nhiệm vụ của Nhà nước; (iv) Các nguồn thu hợp pháp khác (gửi tiết kiệm, dịch vụ gây quỹ...).

1.4. Những điểm khác biệt giữa tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hiệp hội của các tổ chức kinh tế theo pháp luật Việt Nam

* Về thành viên của tổ chức:

- Hội viên của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là các cá nhân, tổ chức.

- Hội viên của Hiệp hội của các tổ chức kinh tế là các tổ chức kinh tế, phần lớn là có tư cách pháp nhân. Hiệp hội cũng có thể có thành viên là cá nhân nhưng chỉ trong trường hợp đặc biệt và thường là thành viên danh dự.

* Về tính chất hoạt động:

- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp: mang tính xã hội và tính nghề nghiệp, chủ yếu là các thành viên hỗ trợ nhau trong nghề nghiệp của mình.

- Hiệp hội của các tổ chức kinh tế: cũng mang tính xã hội và tính nghề nghiệp, tuy nhiên, tính nghề nghiệp và mục tiêu kinh tế của hiệp hội cũng như của từng thành viên được xác định rõ.

2. Yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

2.1. Nhận xét sơ lược về hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam.

Trải qua gần 20 năm đổi mới, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bước chuyển biến cơ bản, rõ nét nhất của hệ thống pháp luật thể hiện ở chỗ, nếu như trước đây, Nhà nước quản lý kinh tế, xã hội chủ yếu bằng chính sách, nghị quyết và mệnh lệnh hành chính, thì nay pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của nhà nước. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được khẳng định và phát huy hiệu quả trên thực tế. Hoạt động lập pháp ngày càng trở nên công khai hơn, dân chủ XHCN ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước từ khâu soạn thảo văn bản pháp luật, đến thực thi pháp luật.

Trong lĩnh vực kinh tế, về cơ bản Việt Nam đã tạo dựng được khung pháp luật cho việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xác lập chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, quy định địa vị pháp lý của các loại hình doanh nghiệp, các quy định về bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu tư; khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội nhằm hình thành môi trường cạnh tranh lành mạnh; từng bước xác lập nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm trong hoạt động kinh doanh. Các nguyên tắc hành chính trong điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại đang từng bước được thay thế bằng các nguyên tắc dân luật truyền thống. Đồng thời, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp,  Nhà nước đã có những bước tiến tích cực, giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại nói chung và các hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng, giảm cơ chế xin cho. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, quyền và nghĩa vụ công chức ngày càng được xác định rành mạch, rõ ràng; thủ tục hành chính được cải cách theo hướng đơn giản, công khai, dễ tiếp cận và dễ kiểm tra.

Mặc dù đã đạt được kết quả nêu trên, nhưng một trong những điểm yếu của hệ thống pháp luật kinh tế nước ta trong gần 20 năm qua là hiệu quả điều chỉnh và áp dụng các VBQPPL kinh tế chưa cao. Điều này thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật về kinh tế còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, nhiều lĩnh vực bức xúc của đời sống xã hội vẫn chưa có luật, thậm chí chưa có cả văn bản của Chính phủ để điều chỉnh. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế việc xây dựng luật chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn nên tính dự báo thấp, pháp luật thiếu ổn định, thường xuyên phải sửa đổi. Ngoài ra, trong nhiều đạo luật vẫn có sự hiện diện của các quy định mang tính chung chung, mới chỉ thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về những lĩnh vực đó, mà thiếu các quy định bảo đảm thực hiện.

Thứ hai, pháp luật kinh tế vẫn mang tính hỗn hợp các nguyên tắc của hai cơ chế quản lý kinh tế là kế hoạch hoá và kinh tế thị trường. Nhà nước vẫn sử dụng một số biện pháp can thiệp vào thị trường như can thiệp bằng giá, bằng thủ tục hành chính. Các quy định về thanh tra ít thay đổi, chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong một số lĩnh vực quan trọng, sự liên kết các doanh nghiệp nhà nước bằng các quyết định hành chính thành tổng công ty đã tạo ra sự hạn chế cạnh tranh, dẫn tới tình trạng độc quyền hơn là đáp ứng mong muốn ban đầu chỉ là tạo ra các tổng công ty nhà nước thực sự đủ mạnh để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong tiến trình hội nhập.

Thứ ba, còn tồn tại những văn bản quy phạm pháp luật (viết tắt là VBQPPL) chỉ có hiệu lực trên giấy tờ mà thiếu tính thực tế. Ví dụ Luật Thương mại năm 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 – các văn bản này đã tồn tại trong suốt thời kỳ chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường và cho đến gần đây mới được xóa bỏ. Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tuy đã được ban hành năm 1999, nhưng quyền lợi của người tiêu dùng vẫn không được bảo vệ một cách hữu hiệu…

Thứ tư, một số VBQPPL còn thiếu tính chính xác, thiếu đồng bộ. Ví dụ các văn bản pháp luật về đất đai (theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 1998 và 2001) và Bộ luật Dân sự năm 1995; các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Bộ luật Hàng hải, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Bộ luật Dân sự không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn với nhau.

Thứ năm, thiếu những quy định cần thiết làm cơ sở cho các quan hệ kinh tế phát triển và bảo vệ quyền của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế. Ví dụ, thiếu các quy định về đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản, về bảo vệ tài sản thuộc sở hữu toàn dân…

Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của những điểm yếu nêu trên, trong đó có nguyên nhân từ việc xây dựng pháp luật. Việc xây dựng pháp luật phải dựa vào nhận thức và ý thức pháp luật của con người cụ thể. Vì vậy, không thể một lúc mà có thể thay đổi tư duy, nhận thức của các nhà làm luật cũng như của dân chúng. Quá trình xây dựng pháp luật kinh tế của nước ta là một khoảng thời gian dài, vì vậy không thể tránh khỏi những bất cập trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.

Khi xây dựng pháp luật, việc tuân thủ quy trình xây dựng pháp luật như thế nào là hợp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng VBQPPL và việc thực thi các VBQPPL đó. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, cơ chế xây dựng, sửa đổi VBQPPL chưa hợp lý. Điều này được thể hiện ở cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi cho người dân. Việc thông qua luật hoặc pháp lệnh thường chậm, còn hiện tượng vấn đề dễ soạn thảo thì thông qua trước, vấn đề rất bức xúc nhưng khó thì vẫn để lại tiếp tục nghiên cứu mà không có các giải pháp thúc đẩy, hỗ trợ tích cực cho việc soạn thảo. Nội dung của văn bản luật thường thiếu cụ thể, những nội dung khó thường dành cho nghị định và các văn bản của Bộ, ngành quy định. Vì vậy, đã dẫn đến tình trạng văn bản dưới luật mở rộng hoặc thu hẹp hơn phạm vi điều chỉnh của luật, luật tuy đã được ban hành nhưng không thể áp dụng được ngay mà còn phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành. Mặc dù Luật Ban hành VBQPPL năm 1996 (sửa đổi năm 2002) đã đổi mới một bước trình tự xem xét, thông qua luật, pháp lệnh nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được đề cập, cần tiếp tục nghiên cứu như: chưa có phương thức sửa đổi, bổ sung đồng thời các VBQPPL có liên quan với một luật, pháp lệnh mới được ban hành hoặc mới được sửa đổi, bổ sung. Điều này dẫn đến sự không đồng bộ về nội dung của các VBQPPL nói chung và VBQPPL kinh tế nói riêng, gây khó khăn cho việc thi hành luật. Quá trình xây dựng các VBQPPL chưa có đủ cơ chế thu hút các chuyên gia giỏi, những người trực tiếp thi hành pháp luật và huy động thực sự hiệu quả trí tuệ của nhân dân, của thành viên các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp vào hoạt động xây dựng pháp luật. Việc tổ chức lấy ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, của các thành viên của Chính phủ về các dự thảo VBQPPL còn hình thức. Không phải tất cả hoặc phần lớn các VBQPPL có liên quan đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước đều có sự đóng góp ý kiến của nhân dân nói chung và của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của các VBQPPL nếu văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Việc lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, của nhân dân vào VBQPPL từ giai đoạn nào cũng chưa thống nhất và thông thường nhân dân chỉ được hỏi ý kiến khi VBQPPL đó chuẩn bị được Quốc hội xem xét, thông qua. Việc tiếp thu hoặc không tiếp thu ý kiến của nhân dân vào việc xây dựng quy phạm pháp luật không được các cơ quan xây dựng pháp luật phản hồi.

2.2. Những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới

Để đáp ứng yêu cầu hội nhập và cải cách kinh tế, trong thời gian tới, trọng tâm của Nhà nước Việt Nam là tập trung phát triển kinh tế. Vì vậy, trong chương trình cải cách pháp luật, Nhà nước ta dành một phần lớn nguồn lực để xây dựng hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh. Trong đó, những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới là:

- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh. Làm rõ nội hàm và cơ chế quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO, các cam kết quốc tế và lộ trình đã công bố. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tiếp tục tách bạch rõ vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước của các Bộ, Uỷ ban nhân dân với quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra và kiểm soát hành chính.

- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Nhà nước không can thiệp vào quyền tự do hợp đồng, trừ trường hợp thoả thuận trong hợp đồng trái với đạo đức xã hội hoặc làm ảnh hưởng đến trật tự công cộng.

- Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường. Tạo lập cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học- công nghệ, thị trường tiền tệ – tín dụng, thị trường chứng khoán.

- Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, xác định rõ nguồn thu và cơ cấu chi của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thống nhất chế độ chi tiêu, sử dụng một cách hiệu quả các nguồn ngân sách, làm rõ cơ chế đầu tư các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Công khai, minh bạch việc hình thành, quản lý và sử dụng các nguồn vốn, tài chính huy động từ dân cư, cộng đồng. Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế theo hướng ổn định, đơn giản hơn, mức thuế phù hợp.

- Hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường theo nguyên tắc phát triển bền vững, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và các thành phần môi trường, đảm bảo tính toán đầy đủ các chi phí sử dụng, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ....

3. Cơ sở, sự cần thiết và ý nghĩa của việc tham gia vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

3.1. Cơ sở cho việc tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

3.1.1. Cơ sở lý luận

Đứng trước yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống văn bản pháp luật về kinh tế nói riêng, sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp thông qua đại diện là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế là một yêu cầu bắt buộc mang tính khách quan, vì các lý do sau:

Thứ nhất, soạn thảo và ban hành các VBQPPL là quá trình ý chí chủ quan được chuyển hoá thành các quy tắc xử sự chung áp đặt cho các chủ thể chịu sự điều chỉnh của văn bản đó. Pháp luật là hình thức pháp lý quan trọng để thực hiện quyền lực của nhân dân. Do vậy, việc tham gia của nhân dân vào quá trình này là một biểu hiện của dân chủ trực tiếp. Vì vậy, việc khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế tham gia vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật kinh tế là phù hợp với bản chất của Nhà nước Việt Nam, nhằm phát huy dân chủ tạo điều kiện cho người dân tích cực tham gia vào công việc quản lý nhà nước, theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra.

Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật là sự ghi nhận và thể hiện lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau và của công dân. Những nhóm lợi ích này đôi khi có xu hướng đối lập nhau. Do đó, trong quá trình xây dựng pháp luật phải dung hòa được lợi ích của các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội. Mục đích này chỉ đạt được khi quá trình làm luật hình thành cơ chế khách quan để các nhóm lợi ích khác nhau, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản pháp luật có cơ hội được tiếp cận và bày tỏ quan điểm của mình, đối thoại với cơ quan hoạch định chính sách pháp luật.

Thứ ba, pháp luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay một mặt giữ vai trò ghi nhận và trật tự hóa các quan hệ kinh tế đã hình thành và có xu hướng phổ biến; mặt khác, phải bảo đảm độ thông thoáng cần thiết, tạo thuận lợi tối đa cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng pháp luật kinh tế phải là một quá trình cần sự tham gia trực tiếp của cộng đồng doanh nghiệp, bởi vì không một nhà hoạch định chính sách kinh tế nào lại có thể am hiểu mọi vấn đề, trong khi đó, các doanh nghiệp - những “người” thường xuyên cọ xát với thương trường là những người biết rõ nhất những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc trong chính sách hiện hành và nhu cầu xây dựng chính sách mới.

Thứ tư, hạn chế được sự chủ quan, lợi ích cục bộ của các bộ, ngành chủ trì soạn thảo văn bản.

3.1.2. Cơ sở chính trị - pháp lý

Yêu cầu về việc bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của nhân dân nói chung và của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản nói riêng (trong đó có sự tham gia của các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp) vào quá trình xây dựng pháp luật được thể hiện qua các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước sau đây:

- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;

- Điều 2, Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001);

- Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ;

- Các Điều 3, 26, 39, 40, 41, 61, 62 Luật Ban hành VBQPPL (năm 1996, được sửa đổi, bổ sung năm 2002);

- Điều 8 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001;

- Điều 13 Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

- Điều 37 Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội;

* Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội;

- Chỉ thị số 28/2001/CT-TTg ngày 28/11/2001, Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ;

- Nghị định số 161/2005/NĐ–CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Ban hành VBQPPL và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành VBQPPL.

3.1.3. Cơ sở thực tiễn                    

Thực tiễn hoạt động xây dựng pháp luật kinh tế trong gần 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam đã chứng minh những văn bản được chuẩn bị tốt, có sự tham gia ý kiến rộng rãi của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản thì được triển khai một cách có hiệu quả, phát huy tác dụng trong cuộc sống. Ví dụ, Luật Doanh nghiệp đã trở thành “hình mẫu” về cách thức soạn thảo dân chủ có nội dung phù hợp với thực tế, phù hợp với cơ chế thị trường và cả các thông lệ quốc tế, về quyết tâm của Chính phủ trong tổ chức thực hiện kết hợp với sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp có liên quan.

3.2. Sự cần thiết và ý nghĩa của sự tham gia vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Một là, bảo đảm các quyền hiến định và luật định của nhân dân. Tham gia xây dựng pháp luật được xem như là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 1992 và tương ứng với nó là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo công dân thực hiện quyền này.

Hai là, thể hiện tính dân chủ trong hoạt động xây dựng, ban hành chính sách; là biện pháp thực hiện dân chủ trực tiếp.

Ba là, sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là cách thức bảo đảm tính khả thi của chính sách và hiệu quả quản lý nhà nước.

Bốn là, sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế góp phần nâng cao chất lượng của VBQPPL trong lĩnh vực này.

Năm là, sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế có hiệu quả tác động cao.

Sáu là, sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là biện pháp thể hiện tinh thần chủ động hội nhập quốc tế.

4. Các hình thức tham gia

Trong nội dung nghiên cứu của đề tài, nhóm tác giả đề cập đến các hình thức tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế theo quá trình xây dựng chính sách, pháp luật như sau:

a) Tham gia điều tra, nghiên cứu cơ bản về kinh tế - xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội

Sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào khâu này có ý nghĩa quan trọng không thể thiếu trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản chính sách và pháp luật kinh tế. Một mặt, nó đảm bảo tính dân chủ công khai của hoạt động nghiên cứu, điều tra, xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội trên lĩnh vực kinh tế, thương mại. Mặt khác, nó đảm bảo tính xác thực của các thông tin được chuyển đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tiến hành hoạch định các chính sách, pháp luật được sát hợp.

b) Góp ý dự án, dự thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế

Hình thức góp ý vào dự án, dự thảo văn bản chính sách pháp luật kinh tế có liên quan đến lợi ích của các thành viên tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là hình thức nhất thiết phải có đối với cả phía cơ quan nhà nước và phía tổ chức hiệp hội. Hình thức này có ý nghĩa thực tế lớn nhất, có ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung văn bản chính sách, pháp luật sắp được ban hành.

c) Tham gia soạn thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế

Đây là hình thức tham gia đặc biệt, thể hiện sự tham gia ở mức độ cao của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế khi được giao nhiệm vụ trực tiếp tiến hành soạn thảo chính sách và pháp luật kinh tế của Nhà nước ta.

d) Đưa ra sáng kiến chính sách và pháp luật kinh tế

Có hai hình thức tham gia cụ thể là: (i) Đề xuất sáng kiến ban hành văn bản chính sách, pháp luật kinh tế mới; (ii) Đề xuất ý kiến bổ sung, sửa đổi văn bản chính sách, pháp luật kinh tế hiện hành. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở nước ta chủ yếu tham gia ở hình thức thứ hai là đề xuất ý kiến bổ sung, sửa đổi văn bản pháp luật hiện hành. Ngoài ra, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể tham gia thông qua các đại diện của tổ chức này là Đại biểu Quốc hội hoặc thông qua kiến nghị đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà hiệp hội là thành viên.

Từ sự phân tích ở trên, nhóm nghiên cứu đưa ra kết luận:

1. Vai trò và hình thức tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế phụ thuộc trước hết vào cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của từng quốc gia. Do đó, việc nghiên cứu vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế phải gắn với điều kiện chính trị pháp lý cụ thể.

2. Xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế là hoạt động chức năng của Nhà nước nên việc tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào hoạt động này là xã hội hoá hoạt động của Nhà nước. Với vai trò là công cụ quản lý, pháp luật phải được Nhà nước sử dụng để xác lập phạm vi quyền tham gia của các tổ chức này trong xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế. Đây là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường. Sự tham gia của họ là một trong những bảo đảm cơ bản để pháp luật kinh tế sinh ra từ đời sống kinh tế và trở lại điều chỉnh đời sống kinh tế phù hợp với yêu cầu kinh tế khách quan.

3. Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là bảo đảm quyền hiến định và luật định của nhân dân, nhân dân là chủ của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thể hiện bản chất dân chủ của chế độ nhà nước, là giải pháp nâng cao chất lượng và bảo đảm tính khả thi của pháp luật kinh tế.

II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC THI PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH TỪ THỰC TẾ THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT KINH TẾ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP VÀ HIỆP HỘI KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Thực trạng pháp luật

1.1. Pháp luật quy định về việc thành lập, tổ chức hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam.

Trên cơ sở Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/05/1957 ban hành Luật quy định về quyền lập hội, Bộ luật Dân sự năm 1995 (đã được thay thế bởi) Bộ luật Dân sự năm 2005), Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức và hoạt động và quản lý hội. Các văn bản này quy định về tư cách pháp nhân của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; việc thành lập, tổ chức hoạt động của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ của hội và hội viên; tổ chức phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; cung cấp các thông tin cần thiết cho hội viên; tư vấn phản biện các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của hội theo đề nghị của tổ chức, cá nhân; tham gia ý kiến vào các VBQPPL có liên quan đến nội dung hoạt động của hội; kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hoạt động…

Quyền tham gia xây dựng chính sách pháp luật cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế còn được quy định trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều văn bản pháp luật khác và ngay chính trong điều lệ của từng tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn. Ví dụ:

- Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) ban hành kèm Quyết định số 123/2003/QĐ-TTg ngày 12/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là tổ chức quốc gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, người sử dụng lao động và các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam...”. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có nhiệm vụ: tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các doanh nghiệp để phản ánh, kiến nghị và tham mưu cho Nhà nước các vấn đề về pháp luật, chính sách kinh tế - xã hội nhằm cải thiện môi trường kinh doanh; tham gia xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, tham dự các hội nghị, các đoàn đàm phán về kinh tế và thương mại phù hợp với qui định của Nhà nước; Tổ chức các diễn đàn, đối thoại, các cuộc tiếp xúc giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao động với các cơ quan Nhà nước, với đại diện người lao động và với các tổ chức hữu quan khác ở trong và ngoài nước để trao đổi thông tin và ý kiến về các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp và môi trường kinh doanh; Tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp và người sử dụng lao động trong các quan hệ kinh doanh trong nước và quốc tế;

- Liên minh hợp tác xã Việt Nam đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên; Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật có liên quan; Đại diện cho các thành viên trong quan hệ đối nội và đối ngoại theo quy định của pháp luật. Tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã; Tập hợp ý kiến, nguyện vọng của các thành viên để phản ánh, kiến nghị và đề xuất với Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề chính sách, pháp luật có liên quan; phối hợp tham gia xây dựng các văn bản pháp luật (Điều 3 Điều lệ liên minh hợp tác xã Việt Nam ban hành kèm Quyết định số 127/2000/QĐ-TTg ngày 17/11/2000) v.v..

1.2. Pháp luật quy định về việc tham gia xây dựng chính sách pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam.

Đề tài đã khái quát quá trình xây dựng chính sách, pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng thành 4 giai đoạn. Cụ thể:

Thứ nhất, giai đoạn đưa ra sáng kiến pháp luật.

Đây là việc tham gia vào giai đoạn lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định của Chính phủ… Qua phân tích các quy định pháp luật, nhóm nghiên cứu cho rằng các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể tham gia vào giai đoạn đưa ra sáng kiến pháp luật, hoặc kiến nghị thay đổi chương trình xây dựng pháp luật đã được cơ quan có thẩm quyền ấn định với các phương thức sau:

Một là, trực tiếp đưa ra sáng kiến pháp luật với tư cách là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

Hai là, tham gia gián tiếp thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để đưa ra sáng kiến pháp luật;

Ba là, tham gia gián tiếp thông qua Đại biểu Quốc hội là doanh nhân hoặc người đại diện trong tổ chức mình được cử tri bầu ra;

Bốn là, tham gia ý kiến đóng góp vào dự thảo chương trình xây dựng pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định.

Như vậy, pháp luật hiện hành quy định khá mở về quyền đưa ra sáng kiến pháp luật của các cơ quan tổ chức khác nhau, trong đó có tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế, không hạn chế lĩnh vực hay tính chất của văn bản pháp luật, không có hạn chế về thời điểm đưa ra đề nghị, nhưng bị ràng buộc chặt chẽ về nội dung đề nghị của các chủ thể có quyền đưa ra sáng kiến pháp luật.

Tuy nhiên, với quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đưa ra sáng kiến pháp luật như đã phân tích trong đề tài, khó có thể có tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế nào có thể đảm đương được nhiệm vụ (do trình độ khả năng, do thời gian, nguồn nhân lực, điều kiện cơ sở vật chất…). Đó là chưa nói đến việc có được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ủng hộ và tạo điều kiện hay không? Hơn nữa nếu như tổ chức xã hội nghề nghiệp hay hiệp hội kinh tế có đưa ra sáng kiến và trình dự án pháp luật sẽ bị các cơ quan có thẩm quyền nghi ngờ tính khách quan, trung thực của dự án đó. Nếu như họ có mục đích vận động xây dựng chính sách có lợi cho mình thì không bao giờ họ trực diện đối mặt như vậy.

Pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thời hạn trình đề nghị xây dựng pháp luật cũng như chấp nhận hoặc từ chối đề nghị, điều này có thể làm phát sinh không ít khó khăn, lúng túng hoặc tuỳ tiện trong quá trình thực thi.

Thứ hai, giai đoạn soạn thảo VBQPPL.

Xét trên phương diện lý thuyết, việc tham gia vào việc soạn thảo VBQPPL kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế được xem là quan trọng và thực chất nhất. Tuy nhiên, trên thực tế còn gặp không ít khó khăn và chưa thực sự có hiệu quả, cụ thể:

- Việc có người đại diện tham gia vào ban soạn thảo hay không phụ thuộc vào quyết định của cơ quan có thẩm quyền thành lập ban soạn thảo.

- Pháp luật chỉ quy định thành viên ban soạn thảo là các đại diện từ các cơ quan, tổ chức hữu quan, các nhà chuyên môn, nhà khoa học, nhưng không xác định rõ được “tổ chức” nào là “hữu quan”, như thế nào là nhà khoa học, nhà chuyên môn… dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào đánh giá chủ quan và thiện chí của cơ quan có thẩm quyền thành lập.

- Trong nhiều trường hợp có đại diện của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế tham gia là thành viên ban soạn thảo chỉ là hình thức, việc soạn thảo VBQPPL thực chất là việc của cơ quan chủ trì soạn thảo và tổ biên tập.

- Pháp luật chưa có quy định cụ thể về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành lấy ý kiến của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế đối với các dự thảo mà mình đang tham gia hoặc chủ trì soạn thảo, nên cũng không thể bảo đảm các ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện trong quá trình soạn thảo là phản ánh đầy đủ, trung thực ý kiến của đối tượng có liên quan này.

Thứ ba, giai đoạn góp ý kiến vào dự thảo VBQPPL.

Theo quy định của pháp luật thì các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế nói riêng và nhân dân nói chung được quyền tham gia góp ý vào các dự thảo VBQPPL bằng cả hai phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua MTTQ, được tham gia góp ý dự thảo VBQPPL một cách chủ động hoặc tham gia khi cơ quan soạn thảo xin ý kiến.

Về hình thức góp ý, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể góp ý trực tiếp bằng việc trình bày quan điểm của mình trước cơ quan soạn thảo, hoặc gián tiếp thông qua gửi văn bản góp ý đến cơ quan soạn thảo hoặc góp ý thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, làm thế nào để mọi hình thức góp ý kiến vào dự thảo VBQPPL đến được với cơ quan hữu quan và đều được tiếp nhận và được xử lý kịp thời thì vần đề này còn có nhiều ý kiến khác nhau.

 Pháp luật không có bất kỳ hạn chế nào về loại văn bản cần góp ý, cũng như thủ tục góp ý. Đối với một số văn bản do HĐND, UBND ban hành, Luật quy định: khi được xin ý kiến các tổ chức hữu quan được lấy ý kiến có trách nhiệm phải trả lời trong một thời hạn cụ thể và bằng hình thức văn bản. Quy định này có thể nói không phù hợp đối với trường hợp đối tượng tham gia góp ý kiến là các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vì việc góp ý kiến là việc làm tự nguyện không thể bắt buộc đối với họ, nếu họ không muốn hoặc không quan tâm đến vấn đề VBQPPL quy định, hoặc họ thấy mình chưa có đủ thông tin hoặc hiểu biết của họ về vấn đề đó chưa sâu sắc…

Pháp luật quy định một số trường hợp bắt buộc cơ quan soạn thảo phải tổ chức lấy ý kiến. Căn cứ vào tính chất và nội dung của VBQPPL thì cơ quan có thẩm quyền quyết định việc xin ý kiến của các cơ quan tổ chức có liên quan. Như vậy sẽ có một số văn bản mà cơ quan hữu quan không tiến hành xin ý kiến, chẳng hạn, do tính chất hoặc nội dung đặc biệt như có liên quan đến bí mật quốc gia, an ninh quốc phòng… không thể công khai để xin ý kiến công chúng. Tuy nhiên, pháp luật chỉ quy định chung như vậy đã khiến cho nhiều cơ quan lẩn tránh việc lấy ý kiến bằng lập luận chủ quan của mình.

Pháp luật còn thiếu các quy định cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan đến dự thảo từ phía các cơ quan soạn thảo VBQPPL cho các đối tượng được quyền tham gia đóng góp ý kiến. Điều này không chỉ gây khó khăn cho việc góp ý kiến của đối tượng tham gia mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của các ý kiến đóng góp.

Các kênh trung gian để doanh nghiệp, doanh nhân tham gia đóng góp ý kiến tập trung, chọn lọc là các hiệp hội, đoàn thể, các diễn đàn chưa thực sự được quan tâm và tận dụng có hiệu quả…

Thứ tư, giai đoạn góp ý kiến trong quá trình thực thi VBQPPL.

Tại Điều 8, khoản 3 Điều 12a Luật Ban hành VBQPPL, khoản 3 Điều 15 Nghị định số 50/2001/NĐ-CP quy định:

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cơ quan, tổ chức khác và công dân có quyền giám sát VBQPPL và kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý VBQPPL sai trái.

- Cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành VBQPPL.

- Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét những kiến nghị của tổ chức và cá nhân về việc đình chỉ hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ việc thi hành VBQPPL được phản ánh thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.

2. Thực tiễn tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam

Thông qua nghiên cứu thực tế ở Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hiệp hội Công thương Hà Nội, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã làm rõ các hình thức tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam như sau:

2.1. Chủ động đề xuất chính sách pháp luật , sửa đổi bổ sung pháp luật

Mặc dù chưa phải là hoạt động mang tính thường xuyên nhưng việc các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế chủ động đề xuất chính sách pháp luật, đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật bước đầu đã có tác dụng thiết thực trong việc nâng cao chất lượng và hoàn thiện pháp luật kinh tế.

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam chủ động đề xuất chính sách thông qua các cuộc tiếp xúc, diễn đàn. Đại diện lãnh đạo của các ngân hàng hội viên, Hiệp hội Ngân hàng tham dự các cuộc họp của Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh với các ngân hàng trên địa bàn để phản ánh, kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc của các ngân hàng tại thành phố; đại diện của Hiệp hội ngân hàng tham dự và báo cáo với Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp các doanh nghiệp về những khó khăn và giải pháp tháo gỡ khó khăn trong hoạt động ngân hàng…

Để chủ động đề xuất sáng kiến về chính sách, pháp luật kinh tế, một số hiệp hội đã tiến hành các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học. Ví dụ, khảo sát về lợi ích của doanh nghiệp để thấy được sự tác động của các chi phí như: thuế, chi phí nguyên vật liệu đầu vào, lãi suất ngân hàng... đã làm ảnh hưởng và làm giảm nhiều lợi ích của doanh nghiệp. Từ đó, Hiệp hội đã có những kiến nghị về thực trạng với Chính phủ, phối hợp cùng các cơ quan chức năng tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho vấn đề này.

2.2. Trực tiếp soạn thảo VBQPPL

Do cơ chế xây dựng pháp luật ở nước ta nên tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ít khi đóng vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL. Hội Luật gia Việt Nam là một trong số ít tổ chức xã hội nghề nghiệp được giao nhiệm vụ chủ trì soạn thảo VBQPPL (xây dựng trình dự thảo và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua “Pháp lệnh Trọng tài thương mại”, đang triển khai xây dựng Dự Luật Trưng cầu dân ý). Đây là một biểu hiện rõ rệt sự tin cậy của Nhà nước trong việc giao cho tổ chức xã hội nghề nghiệp thực hiện công việc thuộc chức năng của Nhà nước.

2.3. Tham gia ban soạn thảo VBQPPL

Việc tham gia ban soạn thảo VBQPPL là cơ hội tạo điều kiện để tổ chức xã hội nghề nghiệp phản ánh nguyện vọng và nhu cầu của xã hội mà họ nắm bắt được. Có thể nói, phần lớn các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh doanh đều có sự tham gia của VCCI. Một số luật quan trọng có đại diện của VCCI trong Ban soạn thảo như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Giao dịch điện tử v.v..

Đặc biệt đối với các luật chuyên ngành, việc tham gia của các hiệp hội chuyên ngành có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng pháp luật. Hiệp hội ngân hàng Việt Nam với tư cách là thành viên ban soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh sau: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2004, Luật Các công cụ chuyển nhượng, Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005. Hiệp hội ngân hàng Việt Nam đã tổ chức thu thập ý kiến của hội viên và giành nhiều thời gian tham gia các phiên họp của Ban soạn thảo, đóng góp tích cực vào nội dung của dự án.

Một số cán bộ của cơ quan thường trực Hiệp hội ngân hàng là những chuyên gia am hiểu sâu sắc lĩnh vực ngân hàng được mời làm thành viên của nhóm chuyên viên tư vấn của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội tham gia soạn thảo và thẩm định các dự án luật. Thông qua đó, ý kiến của các hội viên đã được phản ánh trực tiếp, kịp thời với Quốc hội.

Hiệp hội ngân hàng dành nhiều thời gian nghiên cứu, tham gia ý kiến vào các VBQPPL trong ngân hàng. Hiệp hội ngân hàng đã xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các Vụ, Cục chức năng của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và các Bộ ngành khác để chủ động tham gia ngay từ đầu các dự thảo VBQPPL trong ngành ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước đã tạo điều kiện cho Hiệp hội ngân hàng được tham dự các phiên họp của Ban lãnh đạo để nắm bắt được chủ trương, chính sách chỉ đạo của Thống đốc và có cơ hội tham gia ý kiến vào các dự thảo văn bản dưới luật trước khi Thống đốc ký ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền.

2.4. Tổ chức lấy ý kiến góp ý VBQPPL

Luật Doanh nghiệp là một điển hình thành công của việc huy động sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo.

Luật Doanh nghiệp đánh dấu sự thay đổi lớn trong hoạt động xây dựng, ban hành VBQPPL. Thành công của Luật Doanh nghiệp chính là sự kết hợp hài hòa của 2 công đoạn tổ chức lấy ý kiến doanh nghiệp và tiếp thu ý kiến của doanh nghiệp. VCCI đã tham gia tích cực trong quá trình soạn thảo đạo luật này. Ngoài việc có đại diện trong ban soạn thảo, VCCI đã tổ chức rất nhiều hội thảo, diễn đàn trên phạm vi toàn quốc để cộng đồng doanh nghiệp tham gia góp ý.

- Thông qua phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình là những phương tiện thu hút số lượng công chúng đông, VCCI sử dụng trên cả hai phương diện trực tiếp và gián tiếp. Ngoài việc các đối tượng chính là lực lượng doanh nghiệp, trong các diễn đàn đều có đại diện của cơ quan thông tấn báo chí. Đây là công cụ phản ánh dư luận khá hiệu quả. Rất nhiều vấn đề đã được trao đổi, thảo luận công khai trên các phương tiện này, giúp các ban soạn thảo có cái nhìn toàn diện và sâu sát hơn trong quá trình xây dựng văn bản.

- Ngoài ra, để tạo ra diễn đàn xây dựng pháp luật và môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch và thuận lợi, VCCI đã ứng dụng công nghệ hiện đại trong việc thu hút ý kiến của công chúng bằng việc mở trang webwww.vibonline.com.vn. Đây được coi là một trong những trang điện tử đầu tiên của Việt Nam đăng tải các dự thảo luật và văn bản dưới luật, đồng thời là diễn đàn để đăng tải các tranh luận của các nhà khoa học, nhà lý luận và thực tiễn về các dự thảo luật. Mô hình này không mới trên thế giới nhưng tại Việt Nam được coi như sự đột phá trong hoạt động góp ý xây dựng pháp luật, công khai trước công chúng về chương trình xây dựng pháp luật.

VCCI cũng là cơ quan đầu tiên có sáng kiến đưa dự thảo luật lên mạng internet. Luật Cạnh tranh là văn bản đầu tiên được VCCI phối hợp với Báo Vnexpress đăng trên Báo điện tử của Vnexpress. Thông qua công cụ này, ban soạn thảo đã tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp có giá trị của các chuyên gia, luật gia trong và ngoài nước. Mở đường cho sáng kiến này, tiếp sau đó, hàng chục dự thảo luật đã được đăng trên các Báo điện tử để lấy ý kiến công chúng.

Để triển khai các hoạt động trên, VCCI có sự cộng tác và phối hợp của một số Ban soạn thảo, các Bộ, ngành có liên quan, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia pháp lý, chuyên ngành có kiến thức và kinh nghiệm, đảm bảo kết hợp cả lý luận và thực tiễn.

2.5. Tổ chức hội thảo để xác định chính sách pháp luật, hoàn thiện pháp luật

Tổ chức các cuộc hội thảo là hình thức phổ biến được các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế thu hút ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế.

2.6. Những vấn đề cần giải quyết từ thực tế tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế

Để phát huy vai trò của các các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế cần thiết phải đổi mới cơ chế cả từ hai phía: Nhà nước (chủ thể trao quyền) và tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế (chủ thể được trao quyền). Riêng đối với các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế cần thiết phải có phương pháp định hướng dư luận thông qua báo chí, các phương tiện truyền thông, sinh hoạt khoa học, công trình nghiên cứu.v.v.. kết hợp với hình thức trực tiếp tư vấn cho các nhóm lợi ích để họ có khả năng phản ánh ý chí, nguyện vọng một cách năng động, tránh hiện tượng không hiểu vấn đề nên phản ứng thiếu căn cứ.

Về phía Nhà nước, ngoài việc hoàn thiện cơ chế lấy ý kiến góp ý, mở rộng quyền của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc tham gia các công việc của Nhà nước, cần minh bạch hoá quan hệ nhận góp ý và phản hồi về những vấn đề được góp ý.

3. So sánh thực tiễn nước ngoài với thực tiễn Việt Nam và những vấn đề cần giải quyết.

3.1. Sự tham gia của các hiệp hội ở Pháp vào việc xây dựng chính sách, pháp luật.

Trên thực tế, các hiệp hội ở Pháp hết sức đa dạng, hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, chỉ một số hiệp hội lớn (Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, Phòng Thương mại và Công nghiệp) tham gia xây dựng chính sách, pháp luật. Sau khi phân tích các quy định của pháp luật Pháp, xác định vai trò của Hiệp hội trong việc xây dựng chính sách, pháp luật, so sánh với mô hình các hiệp hội tham gia vào việc xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu đưa ra một số kết luận sau đây:

Thứ nhất, các hiệp hội ở Pháp có lịch sử tồn tại lâu đời hơn so với Việt Nam. Luật lập hội của Pháp được ban hành từ năm 1901, còn ở Việt Nam, do những nguyên nhân khác nhau mà đến nay Luật về hội mới đang trong quá trình soạn thảo. Văn bản pháp lý có giá trị cao nhất điều chỉnh về hội hiện nay là Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003. Trên thực tế, các hiệp hội, hội ở Việt Nam chủ yếu phát triển mạnh trong thời gian kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986) đến nay;

Thứ hai, vai trò của các hội, hiệp hội, đặc biệt là các hiệp hội kinh tế trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam chưa được đề cao như ở Pháp. Nếu như ở Pháp, cơ chế tham vấn bắt buộc của Chính phủ đối với một số Hiệp hội (Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, Phòng Thương mại và Công nghiệp…) đã được quy định từ lâu, thì ở Việt Nam mới đây tại Nghị định số 161/2005/NĐ-CP mới có quy định bắt buộc các cơ quan công quyền phải tham vấn các hiệp hội khi xây dựng chính sách, pháp luật. Trong thời gian gần đây, khi xây dựng các đạo luật quan trọng, đặc biệt là các đạo luật trong lĩnh vực kinh tế (Luật Cạnh tranh, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản…), việc lấy ý kiến nhân dân nói chung, trong đó có các hiệp hội, hội đã được thực hiện khá phổ biến, song có thể nói rằng nhận thức của các cơ quan công quyền về vai trò của các hội, hiệp hội vẫn còn nhiều hạn chế. Trong không ít trường hợp, việc tham vấn các hiệp hội được thực hiện còn mang tính hình thức, thậm chí còn bị bỏ qua;

Thứ ba, bản thân các hiệp hội, hội ở Việt Nam cũng chưa thực sự chủ động trong hoạt động để phát huy vai trò của mình. Nếu như các hiệp hội ở Pháp đều hoạt động theo phương thức tự quản, tự trang trải, thì hầu hết các hiệp hội ở Việt Nam hoạt động vẫn nặng về tính “hành chính” và xin Nhà nước hỗ trợ ngân sách.

3.2. Sự tham gia của hiệp hội vào quá trình ra quyết định tại EU

Sự tham gia của các hiệp hội trong việc hình thành chính sách đã trở thành một cách để tăng cường cơ hội cho tranh luận công khai các vấn đề châu Âu, cải thiện tính minh bạch và cởi mở trong việc xây dựng chính sách của EU. Việc tham vấn các hiệp hội châu Âu không nhằm mục đích vô hiệu hoá việc biểu tình phản đối mà nhằm lắng nghe các hiệp hội thông qua các kênh tham vấn có tổ chức và được chấp nhận. Đồng thời, việc tham gia nhiều hơn của các hiệp hội vào việc xây dựng chính sách không có nghĩa là làm cho quá trình ra các quyết định về chính trị trở nên dân chủ hơn, bởi vì tính dân chủ trong các cơ quan của châu Âu không bắt nguồn từ các tổ chức, các hiệp hội mà bắt nguồn từ Nghị viện.

Việc tham gia của các hiệp hội vào quá trình xây dựng chính sách cũng là một cách để đảm bảo chất lượng của các quyết định liên quan tới chính sách. Các viên chức EU ghi nhận nhu cầu cần phải có sự đóng góp chuyên môn từ bên ngoài và hoan nghênh sự đóng góp này, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà các cơ quan của EU không có chuyên môn cao.

Tóm lại, việc thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự tại EU vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật ngày càng được coi là một chính sách mang tính chính trị của Ủy ban châu Âu. Trên thực tế, các chính phủ thành viên EU đang muốn lợi dụng các tổ chức xã hội dân sự nhằm thực hiện một cách khôn khéo các chính sách đối nội và đối ngoại của mình, đặc biệt là các chính sách đối ngoại. Việc các chính phủ cấp vốn ODA cho các quốc gia nghèo thông qua các tổ chức NGO có thể xem là một ví dụ điển hình cho xu hướng mới này.

3.3. Hiệp hội doanh nghiệp trong công tác lập pháp - kinh nghiệm của Nhật Bản

Ở Nhật Bản, Hiệp hội doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với công tác lập pháp. Theo quy định tại Điều 16 Hiến pháp Nhật Bản năm 1947, mọi người đều có quyền kiến nghị ban hành, bãi bỏ các luật, pháp lệnh, VBQPPL khác. Điều 41 Hiến pháp Nhật Bản quy định chỉ Quốc hội (gồm Hạ Viện và Thượng Viện) mới có quyền lập pháp. Nguồn lập pháp chủ yếu của Nhật là từ đề xuất của Chính phủ. Theo thống kê thì trong số các dự luật được Quốc hội thông qua thì có tới 80% là do sự đề xuất từ phía Chính phủ. Chỉ có 20% là do các thành viên Quốc hội trực tiếp đề nghị.

Ở Nhật, khi đề cập tới vai trò của Hiệp hội trong quá trình lập pháp, người ta thường nhắc tới vai trò của Hiệp hội kinh doanh Nhật Bản bởi đây chính là Hiệp hội ở tầm quốc gia có sự tham gia của rất nhiều các Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ lẻ khác trong toàn quốc. Tuy nhiên, do quyền ban hành luật chỉ do Quốc hội nắm giữ, nên Hiệp hội - với tư cách là tổ chức tư nhân, không nắm quyền lực nhà nước - không có quyền tham gia trực tiếp vào quá trình quyết định thông qua luật mà chỉ có tác động gián tiếp.

Hiệp hội doanh nghiệp ở Nhật có thể ảnh hưởng tới quá trình lập pháp bằng những cách nào:

- Cách 1, do sự tài trợ về tài chính trong các cuộc tranh cử của các Nghị sĩ. Theo chế độ đa đảng và bầu cử bằng vận động tranh cử, các ứng cử viên vào Quốc hội rất cần sự tài trợ của các cá nhân, tổ chức, trong đó Hiệp hội doanh nghiệp (và cả nhân viên của Hiệp hội). Các Hiệp hội, bằng việc tài trợ này, có thể ủng hộ cho những ứng cử viên có lợi cho Hiệp hội của mình và các nghị sĩ khi đắc cử thường “trả ơn” các Hiệp hội bằng việc sẵn sàng tuân thủ các yêu cầu, đề xuất từ phía các Hiệp hội. Kinh nghiệm cho thấy, việc biểu quyết thông qua ngân sách là lúc các Nghị sĩ này gây ảnh hưởng nhất. Chẳng hạn, nhóm Nghị sĩ đại diện cho các nhà thầu xây dựng thường đưa ra các đề xuất sửa đổi ngân sách để tăng ngân sách cho hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng như xây đường sá, cầu cống.

- Cách 2, tham gia ý kiến vào quá trình soạn thảo văn bản luật. Trong hầu hết các trường hợp xây dựng các dự thảo luật, việc soạn thảo phải do các bộ chuyên môn phụ trách. Ở Nhật Bản, bất cứ sáng kiến lập pháp nào cũng đều phải được góp ý bởi một “Hội đồng tư vấn” do Bộ có liên quan thành lập để thúc đẩy sự tham dự của các ý kiến chuyên gia từ bên ngoài. Ý kiến của Hội đồng tư vấn thường được lắng nghe bởi các quan chức của Bộ phụ trách việc soạn thảo luật và được đưa vào dự thảo luật. Thông thường “Hội đồng tư vấn” này bao giờ cũng tập hợp bởi đại diện của các ngành công nghiệp, nhóm lợi ích bị ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật (được dự kiến). Ngoài ra, còn có sự tham gia của cả những thành viên thuộc giới học thuật và các nhà báo có uy tín. Các “Hội đồng tư vấn” này là một công cụ hữu hiệu để cộng đồng doanh nghiệp ảnh hưởng tới việc xây dựng và thực thi chính sách bởi trong hầu hết các trường hợp, thành viên Hội đồng tư vấn chính là đại diện của các Hiệp hội doanh nghiệp. Điều này cho thấy, việc tham gia vào quá trình lập pháp của các Hiệp hội doanh nghiệp là khá sớm - từ giai đoạn khởi thảo chính sách, chứ không phải sau khi đã có những dự thảo khá “hoàn chỉnh” như ở Việt Nam. Cách làm như vậy sẽ tạo một cơ hội tốt để các Hiệp hội doanh nghiệp bày tỏ quan điểm của mình một cách dễ dàng và có thể tham gia ý kiến một cách thực chất hơn.

- Cách 3, trực tiếp đưa ra các đề xuất chính sách nhân danh Hiệp hội. Điều đặc biệt là, các Hiệp hội doanh nghiệp quan trọng, đầu tư rất nhiều vào các hoạt động nghiên cứu và hoạch định chính sách. Những tác phẩm kiểu “Tầm nhìn Nhật Bản đến năm 2000, 2010, 2020, 2025, v.v..”, thể hiện cam kết tự nguyện của cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản đối với sự phát triển của đất nước cung cấp nhiều thông tin quan trọng đối với quá trình lập pháp.

Trong số những ví dụ về việc Hiệp hội doanh nghiệp có ảnh hưởng tới việc xây dựng pháp luật có thể coi việc sửa đổi, bổ sung Luật Chống độc quyền của Nhật Bản trong những năm đầu của thập kỷ 1950 là ví dụ điển hình.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

- Thứ nhất, Việt Nam không nên học việc có các nhóm nghị sỹ đại diện cho những ngành, lĩnh vực hoạt động cụ thể, bởi điều đó không phù hợp với tính chất và cơ cấu chính trị ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, việc tăng tính động lực cho các đại biểu Quốc hội để các đại biểu Quốc hội phản ánh tốt hơn nữa, nhu cầu, bức xúc từ phía cộng đồng doanh nghiệp cũng là việc nên làm (nhất là trong cơ cấu Đại biểu Quốc hội).

- Thứ hai, từ trước tới nay, chúng ta vẫn tổ chức các buổi lấy ý kiến của Hiệp hội vào các dự thảo văn bản: việc làm này là cần thiết. Tuy nhiên, ngay trong hội đồng tư vấn hoặc Ban soạn thảo (tổ biên tập), có lẽ nên có thành phần từ phía cộng đồng doanh nghiệp. Kinh nghiệm lập ra các hội đồng tư vấn để thảo luận, xác định ý tưởng lập pháp, phác thảo những tư tưởng căn bản của văn bản pháp luật cần soạn thảo trong đó có sự tham gia của đại diện các hiệp hội doanh nghiệp là có thể được. Thêm vào đó, cách gửi dự thảo văn bản tới các hiệp hội hiện nay chủ yếu diễn ra tại thời điểm các dự thảo đã tương đối hoàn chỉnh, ít nhất là ý đồ điều chỉnh, những nội dung căn bản trong chính sách đã được quyết định rồi, vì thế, các doanh nghiệp rất khó có thể bày tỏ ý kiến quan trọng liên quan tới chính sách thể hiện trong văn bản. Rất hiếm khi việc phản hồi từ phía cộng đồng doanh nghiệp lại khiến cho ban soạn thảo kết cấu lại những vấn đề có tính chất chính sách, nền tảng trong dự thảo VBQPPL. Chính vì thế, việc góp ý từ phía cộng đồng doanh nghiệp thường chỉ là những vấn đề về kỹ thuật lập pháp, một vài chính sách nhỏ, chứ chưa phải là góp ý những vấn đề có tính chất chính sách nền tảng.

- Thứ ba, các hiệp hội nên chủ động tiến hành những nghiên cứu sâu để chủ động đưa ra các đề xuất, sáng kiến về chính sách, về xây dựng pháp luật nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của mình. Điều này có lợi đối với cả Nhà nước bởi vì thông qua việc công bố quan điểm của hiệp hội, Nhà nước sẽ nắm bắt được nhu cầu thực sự, quan điểm của cộng đồng doanh nghiệp, từ đó Nhà nước sẽ đưa ra chính sách, pháp luật điều chỉnh phù hợp và có tính khả thi hơn. Các Hiệp hội cần có ý kiến mạnh mẽ hơn nữa về các vấn đề liên quan trực tiếp tới lợi ích của mình như thuế, quản trị, lao động, đất đai, tín dụng v.v..

- Thứ tư, các Hiệp hội cần chủ động kiện toàn tổ chức hoạt động của mình, nhất là sáp nhập các hiệp hội để tạo những hiệp hội lớn, có tiềm lực đủ mạnh để duy trì bộ máy thực sự phù hợp, đảm bảo yêu cầu.

3.4. Kinh nghiệm để nhân dân đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật của Thái Lan

Thực tế ở Thái Lan, các loại dự án luật do nội các trình Quốc hội chiếm 95%, các dự án luật do Nghị viện tự trình chiếm số còn lại, còn các dự luật do người dân hoặc các tổ chức quần chúng tự xây dựng và trình tới nay chỉ có hai dự luật. Các bước trong quá trình lập pháp của Thái Lan cơ bản gồm 5 bước: Cơ quan Chính phủ đề xuất; Hội đồng nhà nước xem xét; Chính phủ trình Hạ Viện; Hạ Viện trình Thượng Viện, Thủ tướng trình Quốc Vương ký ban hành.

Hội đồng nhà nước thực hiện việc thẩm tra, thẩm định dự thảo luật (về căn cứ chung, nguyên tắc pháp lý, cơ chế thi hành, tác động đến cả khu vực công và tư), các Bộ thuộc Chính phủ cũng đều có chức trách tự kiểm tra, xem xét văn bản ngay trong giai đoạn soạn thảo nhưng chỉ trong phạm vi quản lý của họ mà thôi. Khi thực hiện các công việc này nếu xét thấy cần, Hội đồng nhà nước có thể tổ chức lấy ý kiến công chúng hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc này.

Khi tiến hành lấy ý kiến công chúng, Thái Lan thường thành lập một ủy ban gồm 11 vị đại diện trong đó có 3 vị đại diện dân, 4 vị đại diện các tỉnh/vùng, còn lại đai diện khối cơ quan nhà nước. Dưới có tiểu ban kỹ thuật gồm 30 đại diện địa phương. Tại 4 miền chính có 4 văn phòng đại diện tập hợp đại diện các ngành tại địa phương đó.

Phương pháp lấy ý kiến chủ yếu là thông qua các ý kiến của nhân dân lấy tại các cuộc họp. Tài liệu được gửi trước và tổ chức diễn đàn. Ngoài ra có việc lấy ý kiến thông qua Internet hoặc gửi thông tin qua thư lấy ý kiến tới các nhà khoa học hoặc đối tượng có liên quan, hoặc gửi các tổ chức có liên quan đóng góp ý kiến. Các tổ chức này có thể kết hợp với các tổ chức khác trong hệ thống được gọi là xã hội công dân, ý kiến thu về có thể gửi qua Hội đồng nhà nước hoặc các ủy ban của Nghị viện. Hiến pháp 1997 cũng đã được lấy ý kiến qua cách này. Khi đó Thái Lan thành lập một ủy ban gồm 76 thành viên mỗi người đại diện cho một tỉnh để lấy ý kiến của nhân dân, như vậy là dân tham gia từ đầu. Cộng cả hệ thống phi Chính phủ (NGO) về kinh tế, môi trường, sức khỏe thì trên toàn quốc có khoảng hơn 1000 diễn đàn lấy ý kiến của nhân dân.

Việc lấy ý kiến của nhân dân được khuyến khích ở bất kỳ giai đoạn lập pháp nào. Khi dự luật do dân đề xuất được đưa ra Hạ nghị viện thì các chính đảng hoặc Chính phủ có thể trình bày ý kiến ủng hộ hoặc phản đối, nhưng khi dự luật được trình lên Thượng nghị viện thì không có quyền đó nữa.

Theo Hiến pháp Thái Lan năm 1997, tất cả các dự luật ảnh hưởng đến đời sống người dân, môi trường nhất thiết phải lấy ý kiến. Bên cạnh đó Hiến pháp quy định người dân có quyền đóng góp ý kiến vào tất cả các văn bản pháp luật.

Quá trình lấy ý kiến được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn bắt đầu từ khi văn bản đang được dự thảo còn giai đoạn thứ 2 từ khi văn bản được trình. Văn phòng Chính phủ có quy định các nguyên tắc và biện pháp lấy ý kiến trong trường hợp văn bản có ảnh hưởng đến dân. Có hai hạn chế, thứ nhất, quy định tầm cỡ của dự án được tiến hành lấy ý kiến (cho dù dự án có ảnh hưởng đến đời sống dân nhưng quy mô của dự án chưa đến mức cần thiết nên chưa được lấy ý kiến); thứ hai, thực tiễn áp dụng hình thức lấy ý kiến một cách cứng nhắc hiện nay (chỉ có duy nhất một hình thức là người dân thể hiện ý kiến trực tiếp). Cũng có trường hợp do trưng cầu ý dân mà xảy ra bạo động. Hiện Thái Lan đang dự thảo một đạo luật về lấy ý kiến nhân dân, theo đó người dân có quyền đòi hỏi việc đóng góp ý kiến và cung cấp các thông tin được quy định tại đạo luật về thông tin chính thức. Một rào cản hiện nay là cơ quan nhà nước còn dấu diếm thông tin.

Các phương thức lấy ý kiến công chúng hiện nay. Chủ yếu là thông báo công khai tại địa phương, trong đó nói rõ Nhà nước xin ý kiến nhân dân sau đó chờ ý kiến đóng góp gửi về. Các phương thức khác gồm: phỏng vấn, khảo sát, Internet, trao đổi thông tin, họp không chính thức, thảo luận, tranh luận hoặc diễn đàn công khai.

Việc lấy ý kiến qua Internet sau một thời gian thực hiện đã bộc lộ một số hạn chế: kỹ thuật mạng máy tính vẫn chưa phổ thông, đa số người vẫn chưa sử dụng được. Các biện pháp có hiệu quả về cơ bản vẫn là các biện pháp cũ như họp trao đổi.

Từ thực tế lấy ý kiến nhân dân vào các dự thảo, dự án chính sách và pháp luật vừa qua, các chuyên gia Thái Lan nhận thấy để khuyến khích người dân đóng góp ý kiến thì phải huy động mạng lưới cơ sở để họ họp dân phổ biến trước, khi các chuyên gia đến làm việc trực tiếp với dân thì chỉ cần làm việc ngắn gọn. Biện pháp tốt nhất đã được nêu ra trong dự luật là cơ quan nào chuẩn bị ra văn bản thì cơ quan đó phải trực tiếp xuống dân, không thông qua bất kỳ cơ quan nào khác, lấy nghĩa vụ công làm động lực trước.

Văn bản đưa lên Internet không phải chỉ có dự thảo mà phải gồm cả văn bản rút gọn và các gợi ý. Nên chăng đặt ra nhiều câu hỏi trắc nghiệm để trả lời và nhiều hộp thoại để những người có quan tâm có thể đóng góp ý kiến một cách thuận tiện. Phần thông tin gíải thích cũng phải được phổ biến một cách rộng rãi. Các thông tin mang tính chất hồi âm nên được tích hợp vào cơ sở dữ liệu để tiện khai thác chung.

Để làm tốt việc lấy ý kiến nhân dân, vấn đề cần nhất là cần chuẩn bị tốt về các khả năng tiếp cận nhóm đối tượng. Xác định rõ các phương pháp tiếp xúc và lấy ý kiến trước khi tiến hành. Cần có kế hoạch triển khai chi tiết và khả thi, nhất là về mặt tổ chức và thời gian. Phương thức lấy ý kiến nên tập trung chủ yếu là gợi ý và vận động bà con chủ động hơn trong việc chất vấn và đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản và quyết định.

3.5. Các hiệp hội kinh tế và nhóm lợi ích trong hoạt động lập pháp ở Mỹ và một số nước phương tây

Các hiệp hội kinh tế ở Mỹ và các quốc gia thuộc EU, ngày càng có một ảnh hưởng đáng kể trong hoạt động lập pháp. Kênh ảnh hưởng đáng kể nhất của các hiệp hội này là thông qua “vận động hành lang-lobbying”, một thuật ngữ tượng hình phản ánh những gì diễn ra bên lề hành lang nghị viện. Theo một số liệu thống kê mới đây, thường xuyên có khoảng 91.000 nhà vận động chính sách (lobbyist) và nhân viên của họ hoạt động tại thủ đô nước Mỹ, trong số đó có 6.000 nhà vận động đăng kí hoạt động thường xuyên tại Quốc hội Mỹ. Tương tự, khoảng 10.000 nhà vận động chính sách hoạt động thường xuyên tại trụ sở trung tâm của Liên minh Châu Âu, hơn 1.700 văn phòng của các nhà vận động chính sách đăng ký thường xuyên tại Quốc hội CHLB Đức. Nói một cách dễ hiểu, vây quanh một hạ nghị sĩ Hoa Kỳ thường xuyên có ít nhất 12 nhà vận động chính sách đã đăng ký và vô số nhân viên của họ. Những nhà vận động này đại diện cho đủ loại hiệp hội kinh doanh, tổ chức nghề nghiệp, các nhóm lợi ích và các công ty.

Người phương Tây dùng thuật ngữ “nhóm lợi ích - interest group” để chỉ các hội đoàn có quan hệ và sức mạnh tài chính cần thiết để ảnh hưởng đến công chúng, và thông qua các quan hệ vận động với cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp tác động tới quy trình xây dựng chính sách và luật pháp. Hội đoàn thường đại diện cho lợi ích của những nhóm người có ít nhất một số mục đích chung. Các nhóm lợi ích có thể được chia thành nhiều loại: (i) Các nhóm có lợi ích kinh tế; (ii) Các nhóm có liên quan tới lợi ích công; (iii) Các nhóm có lợi ích hành chính, quản lý; (iv) Các nhóm có lợi ích chính trị; (v) Các nhóm có lợi ích tôn giáo, tín ngưỡng; (vi) Các nhóm có lợi ích bảo vệ dân quyền.

Hình thức tổ chức của các nhóm lợi ích rất đa dạng. Điều chung nhất là các nhóm này đều hình thành trên sáng kiến của những hội viên cùng ngành nghề, sở thích, có cùng một số mục đích chung nhằm tập hợp lực lượng một cách tự nguyện. Bởi thế, người ta cho rằng hội đoàn về cơ bản là một tổ chức hoạt động theo luật tư chứ không phải cơ quan công lập; các nước theo truyền thống dân luật thường có một chương về hội trong các Bộ luật dân sự. Điều này làm cho hội có phần nào khác với các phòng thương mại và công nghiệp, các tổ chức mặt trận, công đoàn. Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm về hội được hiểu tương đối hẹp hơn so với các nước phương Tây. Quy định về hội không áp dụng cho các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội là thành viên thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức giáo hội.

Một trong các mục đích chính của hội đoàn thường là tập hợp lực lượng, thực hiện tương hỗ, đoàn kết để bảo vệ những lợi ích chung của hội viên. Khác với các đảng phái chính trị, hội đoàn thường tập trung vào một số chính sách cụ thể, ít quan tâm đến chính sách vĩ mô của quốc gia theo nghĩa rộng; thường không tranh giành quyền lực trong các cuộc bầu cử cũng như không giới thiệu đại diện của mình khi thành lập chính phủ. Nếu đảng phái chính trị là đại diện cho những tầng lớp xã hội nhất định, thường được xây dựng trên những hệ tư tưởng khá rõ ràng và hướng tới mục đích cầm quyền, thì hội đoàn thường dùng ảnh hưởng của nó để thuyết phục chính khách nhằm đề ra và thực hiện một hoặc nhiều chính sách cụ thể, có lợi cho hội viên của họ.

Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của các hội đoàn/nhóm lợi ích ở Việt Nam, có thể cần nhấn mạnh vào một số điểm dưới đây:

Thứ nhất, sự xuất hiện và gia tăng hoạt động của hội đoàn là tất yếu, trong số đó hiệp hội kinh tế có vị thế áp đảo, cần được ghi nhận để có phản ứng hợp lý với hiện tượng xã hội này.

Thứ hai, các hiệp hội sẽ gia tăng các kênh để bảo vệ lợi ích cho hội viên và vận động các cơ quan lập pháp, chấp pháp và kể cả các cơ quan tư pháp ban hành các chính sách có lợi cho hội viên của họ; quy trình vận động chính sách của các hiệp hội tất yếu cũng sẽ diễn ra ở Việt Nam.

Thứ ba, do không thể ngăn chặn, cũng không thể làm ngơ, người Việt Nam cần tìm hiểu các thể thức khuyến khích và giám sát quy trình vận động hành lang này một cách hợp lý nhất, đảm bảo lợi ích một cách tốt nhất cho cộng đồng và xã hội.

Hội đoàn là một sinh hoạt cộng đồng, có lẽ đã cổ xưa như chính lịch sử con người. Tuy vậy, hiện diện của hội đoàn và các nhóm lợi ích trong đời sống chính trị, đặc biệt trong quá trình xây dựng chính sách và lập pháp, dường như vẫn còn là một đề tài rất mới trong thời đại ngày nay. Sự tái xuất hiện và gia tăng ảnh hưởng của các hiệp hội, nhất là hiệp hội kinh tế ở Việt Nam, làm cho việc nghiên cứu quy luật hoạt động của những mô hình này trở nên cần thiết. Các hiệp hội này tìm cách gây ảnh hưởng đối với hoạt động lập pháp chủ yếu thông qua vận động hành lang, trước hết là vận động giới hoạch định chính sách. Vừa cung cấp thông tin, vừa dùng các lợi ích vật chất và tinh thần để có được sự quan tâm ủng hộ của quan chức hành chính và các nhà lập pháp, các hiệp hội có khả năng điều tiết dư luận có lợi cho những chính sách vì lợi ích của họ. Minh bạch hoá các giao dịch vận động hành lang này là một cách hợp lý để giám sát ảnh hưởng của hiệp hội, đảm bảo cho các chính sách và pháp luật được ban hành vì lợi ích của số đông dân chúng.

III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT KINH TẾ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP VÀ HIỆP HỘI KINH TẾ

1. Giải pháp về phát triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế

Để phát triển các tổ chức xã hội và hiệp hội kinh tế ở nước ta cần thiết phải chú trọng các hoạt động sau:

Một là, khuyến khích các hiệp hội thiết lập những mối quan hệ hợp tác, liên kết hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp thành viên, họ đã biết chung sức chung lòng thực thi các dự án lớn, chia sẻ cơ hội và rủi ro. Các hiệp hội đã thực hiện tốt vai trò môi giới (cầu nối) giữa các nhà khoa học công nghệ, kể cả chuyên gia nước ngoài, giữa cơ quan quản lý nhà nước, giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực với các doanh nghiệp để đưa khoa học công nghệ mới và nhân lực mới vào sản xuất kinh doanh, tất cả vì sự phát triển của doanh nghiệp và sự phồn thịnh của xã hội.

Hai là, Nhà nước cần tạo điều kiện để các hiệp hội trao đổi kinh nghiệm, trao đổi thông tin kinh doanh nghiệp vụ cho các doanh nghiệp thường xuyên và liên tục thông qua các hội thảo, các lớp huấn luyện ngắn ngày, các tạp chí thông tin… làm cho hiệp hội có ý nghĩa thiết thực đối với các thành viên.

Ba là, Nhà nước tạo điều kiện để các hiệp hội làm tốt chức năng đại diện để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các doanh nghiệp thành viên và của cộng đồng trên các diễn đàn trong nước, trong khu vực và trên thế giới, qua đó nâng cao uy tín của các doanh nghiệp, làm cơ sở cho liên kết liên doanh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài hiệp hội, giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài.

Bốn là, đổi mới cơ chế để hiệp hội đại diện cho các doanh nghiệp của mình phản ánh với Nhà nước về các vấn đề có liên quan đến các chính sách, luật pháp, chiến lược phát triển… tạo nên một kênh thông tin, một luồng ý kiến tư vấn cho Đảng và Nhà nước, cho địa phương để các cấp có thẩm quyền đưa ra được những quyết sách khả thi, hiệu quả.

Tóm lại, để phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, trước hết phải phát triển và nâng cao năng lực của chính họ. Nhà nước muốn các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế phát huy được vai trò trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế thì không chỉ đóng vai trò là chủ thể trao quyền mà phải là chủ thể đóng vai trò tổ chức mang tính định hướng, tạo lập môi trường chính trị - pháp lý để các hội, hiệp hội phát triển và tham gia có hiệu quả thiết thực vào đời sống chính trị - pháp lý của đất nước.

2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật.

2.1. Giải pháp chung

a) Sớm ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lí cao như luật, pháp lệnh về quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân và các tổ chức phi chính phủ, tạo cơ chế pháp luật cho việc tham gia một cách thiết thực, hiệu quả vào việc quản lí nhà nước, quản lí xã hội của người dân và các tổ chức của họ như Luật Trưng cầu dân ý, Luật Hội; Hoàn thiện Luật ban hành VBQPPL theo hướng mở rộng sự tham gia trực tiếp của người dân và các tổ chức phi chính phủ vào quy trình nghiên cứu, điều tra tình hình kinh tế xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh pháp luật của các quan hệ xã hội, soạn thảo dự án, dự thảo văn bản chính sách, pháp luật… Đối với Luật về hội, cần khẳng định vị trí, vai trò, quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế, tạo môi trường pháp lí thuận lợi để các tổ chức đó phát huy vai trò của mình trên thực tế đối với quy trình ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là trên lĩnh vực kinh tế.

b) Hoàn thiện các quy định pháp luật về các hình thức tham gia cụ thể đối với quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế

- Ở hình thức tham gia điều tra tình hình kinh tế xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh pháp luật, cần có sự tổng kết rút kinh nghiệm và dần dần có thể giao việc thực hiện công đoạn này cho tổ chức xã hội đảm nhiệm là chủ yếu, cơ quan nhà nước đóng vai trò thẩm tra, nghiệm thu…

- Ở hình thức tham gia ban soạn thảo. Pháp luật cần quy định rõ nhất thiết phải có đại diện các tổ chức liên quan tham gia ban soạn thảo đối với các dự án, dự thảo VBQPPL. Ở đây, có hai vấn đề cần được quy định dứt khoát, một là, nếu tổ chức nào có đại diện tham gia ban soạn thảo thì tổ chức đó phải có trách nhiệm huy động nhân lực, vật chất cùng tham gia, đảm bảo cho người đại diện trình bày thể hiện các quan điểm của tổ chức khi tiến hành tham gia soạn thảo. Hai là, quy trình, nguyên tắc làm việc của ban soạn thảo phải thể hiện tính dân chủ, bình đẳng, phát huy năng lực của mọi thành viên ban soạn thảo, tránh mọi biểu hiện áp đặt, thiên vị, coi thường các tổ chức hiệp hội.

- Ở hình thức tham gia góp ý dự án, dự thảo. Pháp luật cần quy định rõ hơn một số vấn đề như đảm bảo có cả ý kiến tham gia cụ thể của các hiệp hội có liên quan và ý kiến tổng hợp của tổ chức xã hội đại diện lớn nhất cho họ; quy định rõ quyền bảo lưu ý kiến tham gia và công bố công khai ý kiến đó trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt khác, pháp luật cũng cần mở rộng phạm vi hình thức tham gia này của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiêp hội kinh tế bằng quy định các tổ chức xã hội đại diện lớn nhất của họ có quyền phản biện đối với bộ phận hay toàn bộ nội dung bản thảo văn bản chính sách, pháp luật dự kiến trình ra cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cũng phải công bố rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng.

- Ở hình thức tham gia ý kiến đề nghị bổ sung, sửa đổi, huỷ bỏ văn bản hiện hành, ban hành văn bản mới, phải coi đây là quyền đưa ra sáng kiến chính sách, pháp luật - một trong những hình thức pháp lí thể hiện tính độc lập sáng tạo và vai trò chủ động tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội ở mức độ cao của các tổ chức phi chính phủ ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Về vấn đề này pháp luật cần quy định rõ:

* Quyền được tham gia vào quá trình xây dựng VBQPPL của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ngay từ giai đoạn đưa ra sáng kiến pháp luật.

* Phải đa dạng hoá thành phần ban soạn thảo ngoài đại diện các Bộ, Ngành cần có đại diện cho các nhóm lợi ích, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp (đối tượng chịu tác động của văn bản) nhằm bảo đảm tính khách quan, dân chủ trong xây dựng pháp luật. Đồng thời, cần luật hoá trách nhiệm của ban soạn thảo trong việc tổ chức lấy ý kiến. Việc lấy ý kiến các đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản là bắt buộc mà không nên quy định có tính chất tuỳ nghi.

* Ban soạn thảo phải giải trình và công khai ý kiến đóng góp và cho ý kiến trả lời tiếp thu hay không tiếp thu ý kiến đóng góp đó và lý do cụ thể, để xoá bỏ tình trạng lấy ý kiến chỉ mang tính chất hình thức.

* Mọi ý kiến đóng góp được ghi nhận (phản hồi) phải được lưu giữ để gửi cho cơ quan thẩm định, cơ quan thẩm tra. Cơ quan thẩm định, thẩm tra phải kiểm tra cả việc lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động này và việc tiếp thu chỉnh lý của cơ quan soạn thảo văn bản. Cơ quan thẩm định, thẩm tra sẽ không thẩm định, thẩm tra nếu trong hồ sơ không có bản báo cáo tổng hợp quá trình và kết quả lấy ý kiến cụ thể.

* Phải quy định rõ cơ chế phối hợp giữa ban soạn thảo và các tổ chức đóng vai trò trung gian kết nối ban soạn thảo với các đối tượng cần xin ý kiến. Đặc biệt trong các trường hợp xin ý kiến các doanh nghiệp thông qua tổ chức đại diện cộng đồng doanh nghiệp như VCCI, các hiệp hội ngành nghề.

* Từng bước tiến hành hình thức đấu thầu trong soạn thảo các dự án luật và pháp lệnh nhằm hạn chế tính chủ quan cục bộ của chính cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành được giao nhiệm vụ trực tiếp soạn thảo VBQPPL trong lĩnh vực quản lý của mình. Cơ quan chủ trì soạn thảo có thể đặt ra các tiêu chí soạn thảo VBQPPL như về nội dung, hình thức, tính khả thi, thời gian, chi phí… để các đối tượng đều có thể tham gia đấu thầu;

- Nghiên cứu để sớm xây dựng Dự luật lấy ý kiến công chúng, quy định chi tiết về trình tự lấy ý kiến công chúng, trách nhiệm của ban soạn thảo trong việc lấy ý kiến công chúng và tiếp thu, phản hồi ý kiến của công chúng (tham khảo kinh nghiệm của Thái Lan).

- Nghiên cứu cơ chế vận động hành lang để vận dụng những yếu tố tích cực của nó trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam để xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động vận động hành lang để việc vận động này được công khai, minh bạch và dễ kiểm soát bảo đảm phù hợp với cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của đất nước.

2.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện

Nhóm nghiên cứu đề xuất một số yêu cầu cơ bản đối với sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

2.2.1. Trước hết, từ phía cơ quan nhà nước, cần tạo điều kiện để các tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế tham gia thực sự vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật kinh tế. Để đạt được điều này, quá trình xây dựng chính sách pháp luật kinh tế cần:

- Đảm bảo tính công khai, minh bạch trong việc hoạch định và xây dựng thể chế, chính sách pháp luật kinh tế.

- Quy trình soạn thảo và ban hành VBQPPL kinh tế cần được đổi mới theo hướng là một quy trình mở. Theo đó, có sự tham gia trực tiếp từ phía các tổ chức/hiệp hội để luật pháp khi đã được ban hành phù hợp với tình hình thực tế, có sức sống lâu hơn và góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định.

- Đa dạng hoá các hình thức lấy ý kiến: các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế có thể tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế. Cụ thể, việc tham gia có thể theo 4 hình thức sau tương ứng với các giai đoạn của quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế: (i) sáng kiến pháp luật; (ii) soạn thảo VBQPPL; (iii) góp ý dự thảo VBQPPL và (iv) quyết định VBQPPL.

Để đảm bảo sự tham gia của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế, tương ứng với mỗi giai đoạn của quá trình xây dựng và ban hành chính sách/pháp luật kinh tế cơ quan nhà nước cần có những hình thức lấy ý kiến phù hợp như:

+ Khảo sát, đánh giá nhu cầu xây dựng pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề...(đề xuất sáng kiến pháp luật)

+ Thành lập ban soạn thảo mà thành phần có đại diện của cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức, hiệp hội ngành nghề ....(soạn thảo VBQPPL).

+ Khi đã có sáng kiến pháp luật và thể hiện thành dự thảo, tổ chức lấy ý kiến góp ý trực tiếp cho các dự thảo bằng các hình thức như: hội thảo, toạ đàm, khảo sát bằng phiếu hỏi, tổ chức các diễn đàn trao đổi (mạng internet); công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng... (góp ý dự thảo VBQPPL).

Như vậy, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế có thể tham gia vào giai đoạn này bằng nhiều hình thức khác nhau như: (1) Tư vấn qua mạng; (2) Kiến nghị bằng văn bản; (3) Góp ý bằng văn bản; (4) Đối thoại trực tiếp với các cơ quan chức năng; (5) Hội nghị bàn tròn, tổ chức các Tọa đàm giữa Ban soạn thảo với những chuyên gia và những cá nhân, tổ chức có liên quan.

- Có cơ chế thiết thực khuyến khích các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội ngành nghề tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật kinh tế.

Ban soạn thảo cần có thái độ hợp tác, cầu thị trong quá trình tổ chức lấy ý kiến phản biện và tiếp thu ý kiến. Theo đó,

+ Ban soạn thảo công khai kế hoạch xây dựng văn bản và các vấn đề cần trưng cầu ý kiến.

+ Tạo điều kiện để các tổ chức/hiệp hội được tiếp cận tới văn bản sớm để có điều kiện lấy ý kiến một cách rộng rãi.

+ Tổng hợp và công khai các ý kiến đóng góp và có bản giải trình việc tiếp thu/không tiếp thu để khuyến khích việc góp ý sau này. Cơ quan chức năng phải thông tin lại hoặc phúc đáp cho các tổ chức/hiệp hội được lấy ý kiến về việc tập hợp, tổng hợp và tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật sau khi kết thúc đợt lấy ý kiến. Mặc dù việc phản hồi ý kiến chưa được quy định trong các văn bản pháp luật quy định về việc lấy ý kiến nhân dân; tuy nhiên, trên thực tế, ở một số dự án luật đã có hình thức phản hồi qua báo chí (đăng báo cáo tổng hợp ý kiến hoặc báo cáo giải trình, tiếp thu của Ban Soạn thảo - trường hợp Luật đất đai), tổ chức báo cáo nội dung tổng kết và trả lời kiến nghị sau đợt lấy ý kiến. Ngoài ra, việc phản hồi cũng có thể được thể hiện qua việc tiếp xúc của các đại biểu Quốc hội, qua công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.

2.2.2. Từ phía các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế:

a) Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế cần chủ động tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản pháp luật, nhất là những văn bản có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của mình hoặc của các hội viên.

b) Đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính, tiến hành xã hội hoá một số hoạt động nhà nước

c) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế./.

 



1 Điều 104, 230, 231, 232  Bộ luật Dân sự  2005

2 Khoản 2, Điều 3 Luật cạnh tranh

3 Điều 14, Điều 15 Nghị định số 88/2003/NĐ - CP.

 

Nội dung toàn văn

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật ”... “ Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng[1]”.

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiệm vụ cấp bách là phải đổi mới và hoàn thiện khung pháp luật, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau.

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến luợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ: “...Từ nay đến năm 2010 và các năm tiếp theo tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung vào một số lĩnh vực pháp luật kinh tế trọng điểm đáp ứng kịp thời yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế”.

Kể từ khi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được Đảng và Nhà nước ta khởi động, đặc bịêt là trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật của nước ta trong đó có pháp luật kinh tế từng bước được đổi mới và hướng tới sự phù hợp với những đòi hỏi của kinh tế thị trường và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thực tế thi hành cho thấy, pháp luật kinh tế ở nước ta còn chưa ổn định và thiếu đồng bộ. Các quy định pháp luật chưa bảo đảm tính dự báo cao nên còn lạc hậu so với sự vận động và phát triển của các quan hệ kinh tế, dẫn tới tình trạng phải sửa đổi, bổ sung nhiều. Để nâng cao chất lượng của pháp luật kinh tế đòi hỏi đồng thời phải tiến hành nhiều giải pháp, trong đó có việc thu hút đông đảo các lực lượng xã hội, các tầng lớp, các tổ chức tham gia vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế .

Các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là hình thức tổ chức tập hợp các cá nhân, các tổ chức kinh tế gắn với các quan hệ sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế. Chính vì vậy, việc thu hút lực lượng xã hội này tham gia vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta có ý nghĩa thiết thực. Mặc dù trong những năm gần đây, các chính sách kinh tế và pháp luật kinh tế được ban hành đã có sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế nhưng hiệu quả chưa cao chưa phát huyđược đầy đủ tiềm năng của họ. Điều đó đặt ra yêu cầu là cần nghiên cứu làm rõ vai trò và tình hình thực tế tham gia của các tổ chức này vào việc xây dựng chính sách pháp luật kinh tế, trên cơ sở đó tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả tham gia của các chủ thể này. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề này.

Từ thực tế trên đây cho thấy, việc nghiên cứu làm rõ về lý luận, tình hình thực tế và tìm cơ chế phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có ý nghĩa thiết thực đối với việc tìm giải pháp để đổi mới quy trình xây dựng, nâng cao chất lượng pháp luật kinh tế.

2.Mục đích nghiên cứu của đề tài

- Làm rõ căn cứ lý luận và thực tiễn của việc tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

3.Nhu cầu kinh tế xã hội và địa chỉ áp dụng

- Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung luận cứ khoa học cho việc triển khai Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và những năm tiếp theo; trực tiếp phục vụ việc xây dựng đề án đổi mới quy trình xây dựng pháp luật kinh tế.

- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế ở Việt Nam.

- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, học tập liên quan tới xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế.

4.Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích xác định cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế, để trên cơ sở đó tìm giải pháp phát huy vai trò của các tổ chức này. Do đó, việc nghiên cứu đề tài không nhằm mục đích xác định vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hay xác định tư cách chủ thể quan hệ pháp luật nói chung của các tổ chức này. Ngoài ra, việc tiếp cận nghiên cứu đề tài cũng chỉ giới hạn ở góc độ công trình nghiên cứu khoa học pháp lý.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, phương pháp luận nghiên cứu là phép biện chứng duy vật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, về phát huy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học, thống kê..v.v.

6.Kết cấu của đề tài

Công trình nghiên cứu sẽ tập trung giải quyết các vấn đề sau:

1. Những vấn đề lý luận.

1.1. Khái niệm, phân loại các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế

1.2 Những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp và luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở VN.

1.3.Sự cần thiết tham gia của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

1.4. Các hình thức tham gia của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và các hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế.

2. Thực trạng pháp luật và những vấn đề phát sinh từ thực tế tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở nước ta hiện nay.

2.1 Thực trạng pháp luật về việc tham gia của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế ở Việt Nam.

2.2 Thực tế tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam, kinh nghiệm nước ngoài và những vấn đề cần giải quyết.

3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội -nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế.

3.1.Giải pháp về phát triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế

3.2 Giải pháp về hoàn thiện pháp luật

7. Những tư tưởng cơ bản rút ra từ việc nghiên cứu đề tài

a) Tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là xã hội hoá công việc của Nhà nước, đó là trao quyền của Nhà nước cho các tổ chức này mà không phải là sự phân công hay phân cấp trong một hệ thống quyền lực. Trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là do nhu cầu nội tại của pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường mà không phải là sự ban phát quyền lợi của Nhà nước.

b) Các quy định của pháp luật về sự tham gia của hội, hiệp hội trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là điều kiện bắt buộc phải có để thực hiện việc tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế. Cùng với các quy định về trao quyền tham gia rõ rang, minh bạch, pháp luật phải có các quy định cụ thể về cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế, đồng thời chính bản thân Nhà nước phải quan tâm thực sự đến việc tổ chức thì việc tham gia của các tổ chức này mới có hiệu quả thiết thực.

c) Cơ chế tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế phụ thuộc cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước nên ở Việt Nam việc nâng cao vai trò, phát huy hiệu quả của các tổ chức này phải đi theo côn đường đổi mới mà không phải là con đường cải tổ.

Để thực hiện đổi mới việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế, Nhà nước không chỉ đóng vai trò là chủ thể trao quyền mà phải là chủ thể tổ chức mang tính định hướng, tạo lập môi trường chính trị - pháp lý.

 

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1.Khái niệm, phân loại các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế.

1.1.1.Đặt vấn đề

Trước đây, hiện nay và về sau, ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế giới, có những vấn đề mà Nhà nước tự bản thân không có khả năng giải quyết được, hoặc giải quyết kém hiệu quả. Lại có những vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ mối quan hệ chính trị và pháp lý giữa công dân và Nhà nước mà từng cá nhân cũng không thể giải quyết được. Đối với những vấn đề như vậy, các Nhà nước đều phải dựa vào các tổ chức dân sự (phi nhà nước) để giải quyết bằng những phương pháp quản lý, điều chỉnh đa dạng, phù hợp với từng loại đối tượng. Bằng sự phân công và hợp tác này giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội mà một xã hội dân chủ được tạo ra và phát triển một cách ổn định, bền vững.

Trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, các mối quan hệ trong xã hội nước ta, nhất là quan hệ giữa Nhà nước và công dân đã có sự thay đổi rất cơ bản. Quan điểm cũ trước đây về việc Nhà nước quản lý, chăm lo mọi mặt của đời sống xã hội (thực chất là sự can thiệp quá trực tiếp và qúa sâu vào đời sống dân sự) đã hoàn toàn thay đổi. Chủ trương xã hội hoá một số hoạt động mà Nhà nước không nhất thiết phải trực tiếp làm hoặc dân có thể tự làm có hiệu quả hơn, chính là điều kiện để khai thác mọi nguồn lực trong dân (cả về vốn, nhân lực và khả năng quản lý) thông qua các tổ chức tự quản. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, khoa học những năm qua đã giúp sức cho từng cá nhân trong xã hội nâng cao thêm ý thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tính sáng tạo của mình. Trong điều kiện như vậy, quần chúng nhân dân đã có thêm cơ hội để phát triển bản thân, muốn đóng góp ngày càng nhiều hơn cho phát triển xã hội và đó chính là lý do làm cho các tổ chức dân sự ngày càng trở nên có sức hấp dẫn và có chiều hướng phát triển tích cực.

Theo quy định của pháp luật, ngoài các tổ chức chính trị, tổ chức tôn giáo ở Việt Nam hiện có các loại tổ chức dân sự sau đây:

Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội (Công đoàn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên: Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh);

Trong quá trình tổ chức và hoạt động, các tổ chức chính trị - xã hội thể hiện rõ nét 2 tính chất: tính chất chính trị và tính chất xã hội như sau:

 Về tính chất chính trị: Tính chất chính trị của các tổ chức này có được là nhờ 2 yếu tố cơ bản sau đây:

Một là, các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức gần gũi và có quan hệ chặt chẽ nhất với các cơ quan của Đảng cầm quyền, nói cách khác là các tổ chức này chịu sự lãnh đạo trực tiếp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, Đảng tập hợp quần chúng. Các tổ chức chính trị - xã hội phản ánh trung thành những nhu cầu, nguyện vọng, tâm tư của hội viên với Đảng để Đảng có những chủ trương, đường lối, chính sách đúng. Căn cứ từ đường lối, chính sách của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội hướng dẫn hội viên thực hiện tốt các nhiệm vụ của hội theo mục tiêu, đường lối của Đảng.

Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội còn có quan hệ rất chặt chẽ với bộ máy nhà nước. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn với Nhà nước là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của đất nước là xây dựng một nước Việt Nam dân chủ và giàu mạnh. Nói một cách thẳng thắn thì, các tổ chức này là bàn tay nối dài của Nhà nước, giúp Nhà nước thực hiện những nhiệm vụ kinh tế – xã hội quan trọng trong những lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. Sự gắn bó chặt chẽ này đã làm tăng thêm tính chất chính trị của các tổ chức này. Trong quá trình hoạt động, các tổ chức chính trị - xã hội phải tuân thủ luật pháp của Nhà nước, tham gia các hoạt động nhằm đề ra và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ liên quan đến nghĩa vụ, quyền lợi của các đối tượng là thành viên của tổ chức mình, đồng thời, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước, khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng của bộ máy nhà nước.

Về tính chất xã hội của các tổ chức này được thể hiện ở những điểm sau đây:

- Các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức có sự tham gia của đông đảo người lao động, các tầng lớp nhân dân, các giai tầng xã hội.

- Cơ chế tham gia và quản lý của các tổ chức này là mềm dẻo, chủ yếu dựa trên cơ sở tự nguyện của các thành viên, chế tài không mang tính cưỡng chế, áp đặt, mà chủ yếu là dùng biện pháp giáo dục, thuyết phục để điều chỉnh các mối quan hệ giữa các thành viên và giữa tổ chức với thành viên.

Thứ hai, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp (Hội Luật gia Việt Nam, Hội nhà văn, Hội nhà báo…)

Thứ ba, tổ chức xã hội thuần tuý (Hội người cao tuổi, Hội khuyến học, Hội phẫu thuật nụ cười, Hội phục hồi chức năng...) Trong các tổ chức xã hội, tính xã hội này còn được thể hiện đậm nét hơn ở những biểu hiện cụ thể sau đây:

- Trong kết cấu tổ chức, các tổ chức xã hội là tổ chức liên kết hoàn toàn tự nguyện của công dân, không phân biệt thành phần xã hội, trình độ chuyên môn, tín ngưỡng, giàu, nghèo, nam, nữ. Hình thức tổ chức cũng như tên gọi của các tổ chức này là hết sức đa dạng, phong phú, phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của các công dân. Các tổ chức xã hội, đoàn thể vừa là người đại diện, vừa là người bảo vệ lợi ích của các thành viên trong những mối quan hệ xã hội nhất định.

- Trong nội dung hoạt động, các tổ chức xã hội luôn lấy mặt xã hội của sản xuất, kinh tế, chính trị, văn hoá (tức là từ nhân tố con người) để hoạch định nội dung hoạt động của mình nhằm thoả mãn các nhu cầu, sở thích, nguyện vọng của các thành viên.

- Phương thức hoạt động, các tổ chức này hoạt động theo những nguyên tắc và phương pháp hết sức mềm dẻo. Cán bộ của các tổ chức xã hội thường được bầu ra trên cơ sở uy tín và sự tôn vinh của các thành viên nên họ thực sự là thủ lĩnh của tổ chức, là người đại diện thật sự của các thành viên. Không có biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước nào được áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức và hội viên cũng như giữa các hội viên với nhau. Các quan hệ này được xác lập và xử lý trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và tính tự giác cao.

- Các tổ chức xã hội, đoàn thể hoạt động dựa trên cơ sở pháp luật và các quy chế, điều lệ do tổ chức tự ban hành mà không cần có sự phê duyệt của cơ quan nhà nước.

Thứ tư, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp (các hội, hiệp hội ngành nghề);

Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là tổ chức của quần chúng, được phát triển mạnh mẽ trong cơ chế kinh tế thị trường. Các tổ chức này ít mang tính chất chính trị, bên cạnh tính xã hội thì các tổ chức này còn mang nặng tính nghề nghiệp. Tính nghề nghiệp của tổ chức này được thể hiện chủ yếu ở đối tượng tham gia và lĩnh vực hoạt động của tổ chức đó. Thành viên của tổ chức xã hội - nghề nghiệp thường gồm những người có cùng nghề nghiệp chuyên môn, tập hợp nhau trong một hội hoặc hiệp hội nhằm hỗ trợ, giúp đỡ nhau hành nghề tốt hơn, chống lại hoặc giảm thiểu những tác nhân bất lợi từ bên ngoài.

Thứ năm, các tổ chức kinh tế (các doanh nghiệp dưới mọi hình thức: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã...).

Với phương thức tổ chức, quản lý mềm dẻo, linh hoạt, nội dung hoạt động phong phú, đa dạng, các tổ chức dân sự đã góp phần bảo đảm sự ổn định xã hội, đáp ứng được các nhu cầu trong cuộc sống của mọi giới (về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, nghề nghiệp...), tạo ra đối trọng (không phải là đối lập) cần thiết đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần ngăn chặn các hành vi quan liêu, cửa quyền. Vai trò đối trọng đó thể hiện qua việc các tổ chức dân sự này chia sẻ với Chính phủ các dịch vụ công cộng, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu đời sống với hiệu qủa cao; hoặc qua tham gia thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội với cách làm gọn nhẹ, tiết kiệm, thiết thực và được dân trực tiếp kiểm tra. Các tổ chức này còn cung cấp cho Chính phủ các thông tin, những kiến nghị thiết thực của dân, qua đó giúp Chính phủ kịp thời xem xét, điều chỉnh chính sách và các chủ trương của mình cho sát đúng với tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp

Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một loại pháp nhân hoạt động theo các quy định của Bộ luật Dân sự, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập, chuẩn y điều lệ và có hội viên là cá nhân, tổ chức tự nguyện đóng góp tài sản hoặc hội phí nhằm phục vụ nhu cầu chung của hội viên và mục đích của hội[2]

Tổ chức xã hội - nghề nghiệp chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình. Hội viên không chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản riêng về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong trường hợp tổ chức xã hội - nghề nghiệp chấm dứt hoạt động, thì tài sản của tổ chức đó không được phân chia cho các hội viên mà phải được giải quyết theo quy định của pháp luật[3].

Nghiên cứu các quy định của pháp luật, có thể rút ra một số đặc điểm của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp như sau:

Thứ nhất, tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một pháp nhân;

Thứ hai, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập theo sáng kiến và ý chí tự nguyện của các thành viên;

Thứ ba, phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các tổ chức xã hội - nghề nghiệp mới được thành lập và hoạt động;

Thứ tư, mục đích của tổ chức xã hội - nghề nghiệp là phục vụ các hoạt động có tính chất nghề nghiệp.

1.1.3. Hiệp hội của các tổ chức kinh tế

Hiệp hội của các tổ chức kinh tế là hình thức liên kết kinh tế của các tổ chức kinh tế có hoạt động cùng ngành nghề. Trong cơ chế kinh tế tập trung, bao cấp, với việc Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cụ thể cho từng đơn vị kinh tế, định giá và bao tiêu sản phẩm, các hình thức liên kết trong hoạt động kinh tế trở nên đơn điệu và không thiết thực. Nhìn chung, trong thời kỳ này, các hội/ hiệp hội kinh tế không phát triển vì các doanh nghiệp nhà nước chiếm vai trò tuyệt đối trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, không có nhu cầu thành lập và tham gia hiệp hội.

Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế phát triển mạnh. Đây là hình thức phối hợp hoạt động, do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng nhau bàn bạc và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của mình, nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng có lợi nhất[4]. Mục tiêu của việc liên kết kinh tế là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động của từng tổ chức liên kết, để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hoá và hiệp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vị tham gia liên kết, góp phần nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập của các bên liên kết, cũng như tăng thu ngân sách Nhà nước, hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm, để bảo vệ lợi ích kinh tế của nhau, tạo cho nhau có khoản thu nhập cao nhất.[5]

Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam, các doanh nghiệp cần thiết gia nhập các hiệp hội vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, tiến trình cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước đang diễn ra một cách mạnh mẽ mà trọng tâm của nó là tách bạch chức năng quản lý hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước với chức năng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tiến tới xoá bỏ sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp. Theo đó, khái niệm “cơ quan chủ quản” của doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước) sẽ dần mất đi, một số điều kiện thuận lợi do cơ quan chủ quản đưa lại sẽ không còn, mọi doanh nghiệp sẽ bình đẳng trước pháp luật, do vậy, nhu cầu dựa vào các hiệp hội để hỗ trợ và đại diện bảo vệ quyền lợi sẽ tăng lên.

Thứ hai, trong quá trình phát triển và hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) sẽ bị cạnh tranh mạnh. Trong khi đó, với năng lực cạnh tranh thấp (hạn chế về tài chính, nhân lực, công nghệ, thông tin, kỹ năng quản lý...) thì tất yếu các doanh nghiệp sẽ đoàn kết tập hợp lại theo các ngành hàng để tăng năng lực cạnh tranh cho mình. Thông qua các hiệp hội, doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận được thị trường rộng lớn hơn, được hưởng các dịch vụ tốt hơn, được bảo vệ và hỗ trợ hiệu qủa hơn, tránh lãng phí các nguồn lực.

Thứ ba, khi tham gia vào thị trường quốc tế sẽ có những thoả thuận, đàm phán giữa các khu vực thị trường về chính sách thương mại. Đây là lúc các hiệp hội thể hiện vai trò của mình, đấu tranh cho các hội viên và cũng chỉ có hiệp hội mới làm được điều này. Doanh nghiệp đứng ngoài hiệp hội vừa bị thiếu thông tin, vừa không có tiếng nói. Hiệp hội sẽ là tổ chức hợp tác, liên kết “mềm” theo chiều ngang để phối hợp hoạt động bảo vệ lợi ích chung và giúp nhau nâng cao sức cạnh tranh và đó là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Nhận thức được vai trò và tác dụng rất quan trọng đó của hiệp hội các tổ chức kinh tế, Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) đã đề ra tư tưởng chỉ đạo: “Phát triển các hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với các hợp tác xã, với các hộ nông dân, xây dựng các hiệp hội ngành nghề theo cơ chế dân chủ, tự quản”. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá IX (3/2002) về phát triển kinh tế tư nhân cũng khẳng định việc tăng cường vai trò các hiệp hội doanh nghiệp: Phát triển vai trò Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam và các hội doanh nghiệp, có chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động của các hiệp hội...

Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng nêu rõ: “Chính phủ khuyến khích thành lập và củng cố việc trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các cơ quan, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức nghề nghiệp”.

Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ đã tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các vấn đề về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Theo quy định tại khoản 4, Điều 37 của Nghị định số 88/2003/NĐ-CP thì: Hiệp hội của các tổ chức kinh tế được thành lập theo Quyết định số 38-HĐBT ngày 10/4/19989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về liên kết kinh tế trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ không phải xin phép thành lập lại. Nếu như trước đây, có một số tổ chức nghề nghiệp vẫn được gọi là Hội, Đoàn… khiến có sự thiếu rõ ràng về vai trò, tính chất của tổ chức, dễ gây nhầm lẫn ảnh hưởng đến phương thức hoạt động của hiệp hội thì nay, tại Thông tư số 01/2004/TT-BNV ngày 15/01/2004 của Bộ Nội vụ, các hình thức liên kết về kinh tế được gọi thống nhất là hiệp hội của các tổ chức kinh tế.

Hiệp hội của các tổ chức kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp được hình thành trên cơ sở tự nguyện của các tổ chức kinh tế cùng ngành nghề, thuộc mọi thành phần kinh tế, có tư cách pháp nhân, nhằm bảo vệ và phát triển ngành nghề. Hiệp hội kinh tế hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự trang trải, trong khuôn khổ pháp luật.

Hiệp hội của các tổ chức kinh tế được chia thành 2 loại là hiệp hội ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp[6].

Với quy định trên của pháp luật về hiệp hội của các tổ chức kinh tế, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, hiệp hội của các tổ chức kinh tế là tổ chức dân sự (phi Chính phủ) mang tính chất nghề nghiệp (nghĩa là có mục đích phục vụ cho nghề nghiệp), do các tổ chức kinh tế tự nguyện liên kết với nhau để điều hoà lợi ích nội bộ hiệp hội, bảo vệ lợi ích chung, hỗ trợ lẫn nhau đối phó với các tác nhân bất lợi từ bên ngoài, nâng cao hiệu qủa kinh doanh, gia tăng lợi nhuận của từng đơn vị thành viên.

Tính chất nghề nghiệp của hiệp hội thể hiện ở chỗ bản thân hiệp hội không phải là một tổ chức kinh doanh, không trực tiếp hoạt động kinh doanh với sự góp vốn và điều hành chung như các tổ chức liên kết cứng (tổng công ty, công ty mẹ, công ty con, tập đoàn kinh tế); không can thiệp vào hoạt động kinh doanh riêng của từng đơn vị thành viên. Đó là tổ chức phi lợi nhuận, chỉ gián tiếp tác động để từng thành viên tối đa hoá lợi nhuận.

Thứ hai, hiệp hội là tổ chức tự nguyện, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có tư cách pháp nhân, độc lập với khu vực nhà nước và không phải chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản theo ngành như các doanh nghiệp nhà nước. Hiệp hội là một đối tác của chính quyền để làm cầu nối giữa doanh nghiệp với nhà nước, được nhà nước bảo vệ quyền lợi, tạo điều kiện để thúc đẩy kinh doanh phát triển có hiệu quả. Nhà nước khuyến khích và có thể hỗ trợ thêm đối với các ngành trọng yếu (không phải bao cấp mà là ưu tiên giao các dự án phát triển).

Do đặc tính này mà việc thành lập hiệp hội do một số sáng lập viên vận động và đăng ký hoạt động với cơ quan Nội vụ chứ không phải do Bộ, Sở quản lý ngành đứng ra thành lập hoặc cho phép cũng như phê duyệt điều lệ[7]. Nói cách khác, hiệp hội chịu sự điều chỉnh của pháp luật về dân sự thay vì pháp luật về doanh nghiệp. Điều này cần được nhấn mạnh, bởi lẽ, lâu nay có nhiều trường hợp các Bộ, Sở quản lý ngành vẫn hành xử như là cơ quan chủ quản của các hiệp hội, thậm chí có Thứ trưởng, Giám đốc Sở đứng ra làm Chủ tịch hiệp hội.

Thứ ba, về phương thức hoạt động của hiệp hội, hiệp hội không hoạt động như một cơ quan quản lý kinh doanh, không can thiệp vào các hoạt động tự chủ của các đơn vị thành viên. Bản thân hiệp hội cũng không tổ chức hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà chỉ có thể tổ chức một số dịch vụ phục vụ nội bộ hiệp hội để gây quỹ hoạt động tự trang trải kinh phí hoặc tạo thêm phúc lợi tập thể.

 Mọi chủ trương của hiệp hội đều thông qua thương lượng dân chủ, bình đẳng giữa các thành viên, phục vụ quyền lợi chung của hiệp hội, có sự nhất trí cao.

Các hoạt động chung được huy động lực lượng từ các đơn vị thành viên với sự phân công hợp lý có sự điều phối của cơ quan điều hành hiệp hội. Bộ máy giúp việc cơ quan điều hành hiệp hội rất gọn nhẹ, chủ yếu là thuê theo hợp đồng (bao gồm chuyên gia, nhân viên).

 Tài chính (thu, chi kinh phí hoạt động) phải công khai, minh bạch, có chức danh kiểm soát và có chế độ báo cáo. Phần kinh phí kết dư không được phân chia cho cá nhân, phải để lại quỹ để chi đúng mục đích. Hội phí đóng góp của các hội viên được quy định trong điều lệ, cũng có thể tự nguyện đóng góp thêm. Khi hợp nhất, chia, tách hoặc giải thể chấm dứt hoạt động cần phải kiểm kê, đánh giá tài sản và thống nhất cách xử lý.

 Việc gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội là hoàn toàn tự nguyện. Khi tham gia mỗi đơn vị thành viên được bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết qủa kinh doanh; được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; không hoạt động riêng rẽ trái với thỏa thuận chung gây phương hại cho các thành viên khác. Các biện pháp cạnh tranh với đối tác bên ngoài cần được phối hợp.

 Cơ quan quyền lực cao nhất của hiệp hội là Đại hội toàn thể đại diện các đơn vị thành viên với nhiệm kỳ 2 hoặc 3 năm. Đại hội lần đầu do các thành viên sáng lập (Ban vận động thành lập) triệu tập và chủ trì. Đại hội bàn và quyết định điều lệ, các cơ chế, chương trình hoạt động từng nhiệm kỳ và các chủ trương lớn có ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của hiệp hội.

 Cơ cấu thành viên hiệp hội do điều lệ quy định. Ban điều hành hiệp hội là cơ quan điều phối các hoạt động thường xuyên, chấp hành nghị quyết đại hội. Tuỳ theo quy mô hiệp hội, có thể có chủ tịch, phó chủ tịch, tổng thư ký... hoặc gọn hơn là chủ tịch và một uỷ viên điều hành. Thành viên ban điều hành thường là những giám đốc đơn vị thành viên kiêm nhiệm, chỉ trường hợp hiệp hội có quy mô toàn quốc mới cần có người chuyên trách (tổng thư ký). Nói chung, mô hình tổ chức cơ quan điều hành là đa dạng với nguyên tắc gọn nhẹ với số cán bộ, nhân viên giúp việc tối thiểu. Hiệp hội có thể có ban kiểm soát (tài chính) do đại hội bầu ra (ngoài ban điều hành), hoặc chỉ cần 1 uỷ viên kiểm soát. Khi cần thiết có thể sử dụng cơ quan kiểm toán để xử lý.

 Các nguồn thu kinh phí của hiệp hội bao gồm:

  • Đóng góp vào quỹ của các hội viên (do Đại hội quy định), không nhất thiết bình quân mà tuỳ quy mô và thực lực của từng đơn vị;
  • Tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
  • Hỗ trợ của Nhà nước do đóng góp có hiệu qủa vào các nhiệm vụ của Nhà nước;
  • Các nguồn thu hợp pháp khác (gửi tiết kiệm, dịch vụ gây quỹ...)

1.1.4. Những điểm khác biệt giữa tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hiệp hội của các tổ chức kinh tế theo pháp luật Việt Nam

Trước hết phải khẳng định: về bản chất, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hiệp hội của các tổ chức kinh tế là những hình thức tổ chức tập hợp các cá nhân, các tổ chức kinh tế gắn với các quan hệ sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế. Đây là những tổ chức phi Chính phủ, được các thành viên tự nguyện gia nhập, hoạt động theo pháp luật, nội quy và điều lệ của tổ chức. Các tổ chức này vừa mang tính xã hội, vừa mang tính nghề nghiệp, đặc biệt phát triển và phát huy tác dụng trong cơ chế kinh tế thị trường.

Theo pháp luật hiện hành, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hiệp hội của các tổ chức kinh tế có những loại sau:

* Loại tổ chức chỉ thuần tuý về một loại nghề nghiệp, một lĩnh vực (ví dụ: Đoàn luật sư, Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam, Hiệp hội kinh doanh vàng, Hiệp hội ngân hàng, Hiệp hội lương thực Việt Nam, Hiệp hội kinh doanh bảo hiểm...):

* Loại tổ chức chuyên về một loại chủ thể (ví dụ Hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam):

* Loại tổ chức riêng về một thành phần kinh tế (ví dụ Liên minh hợp tác xã Việt Nam):

* Loại tổ chức bao trùm lên mọi thành phần kinh tế và các hiệp hội (ví dụ Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam):

Từ những nghiên cứu trên, bước đầu có thể nêu một số điểm khác nhau cơ bản giữa các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và hiệp hội của các tổ chức kinh tế, đó là:

* Về thành viên của tổ chức:

- Hội viên của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là các cá nhân, tổ chức.

- Hội viên của Hiệp hội của các tổ chức kinh tế là các tổ chức kinh tế phần lớn là có tư cách pháp nhân. Các tổ chức kinh tế cử đại diện pháp nhân tham gia hiệp hội để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của thành viên. Hiệp hội cũng có thể có thành viên là cá nhân nhưng chỉ trong trường hợp đặc biệt và thường là thành viên danh dự.

* Về tính chất hoạt động:

- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp: mang tính xã hội và tính nghề nghiệp, chủ yếu là các thành viên hỗ trợ nhau trong nghề nghiệp của mình.

- Hiệp hội của các tổ chức kinh tế: Cũng mang tính xã hội và tính nghề nghiệp, tuy nhiên, tính nghề nghiệp và mục tiêu kinh tế của hiệp hội cũng như của từng thành viên được xác định rõ.

1.2.Những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

1.2.1. Nhận xét sơ lược về hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam.

Chính sách pháp luật là hệ thống quan điểm, tư tưởng, đường hướng có tính chỉ đạo chi phối nội dung pháp luật, những nội dung cơ bản trong chính sách đó được thể chế hoá thành các quy phạm pháp luật.

Pháp luật kinh tế là một mảng pháp luật khá rộng lớn, bao trùm lên mọi hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế, hoạt động sản xuất, kinh doanh và tổ chức, hoạt động của chủ thể kinh doanh...Ngoại trừ hệ thống pháp luật về quyền cơ bản của công dân, hình sự, tố tụng và tổ chức bộ máy nhà nước, còn lại mọi văn bản pháp luật đều liên quan (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến hoạt động sản xuất, kinh doanh - tạo thành hệ thống pháp luật về kinh tế. Pháp luật kinh tế bao gồm các lĩnh vực sau: Lĩnh vực tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp; Lĩnh vực tài chính - thuế - ngân hàng - chứng khoán.; Lĩnh vực Thương mại, đầu tư - xuất nhập khẩu; Lĩnh vực đất đai, xây dựng; Lĩnh vực kế toán - thống kê; lĩnh vực lao động ….

 Pháp luật quy định về việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể hiểu theo nghĩa rộng hẹp khác nhau.

Theo nghĩa rộng đó chính là tổng thể các quy định của Nhà nước trong hệ thống pháp luật hiện hành, có liên quan đến việc điều chỉnh nhiều mặt tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà nước và xã hội như: Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp); chế độ dân chủ trực tiếp và quy chế dân chủ ở cơ sở; tổ chức và hoạt động của các hội nói chung và các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội kinh tế nói riêng; quy trình xây dựng và ban hành văn bản chính sách, pháp luật…

Theo nghĩa hẹp, pháp luật về việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là tổng thể các quy định của Nhà nước trong hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành quy định về quyền tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế.

Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này khái niệm pháp luật về việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm

Pháp luật của một nhà nước bị chi phối bởi chế độ chính trị, chế độ kinh tế đang tồn tại. Trong mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế, các tiền đề kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật, mà còn quyết định nội dung, tính chất và cơ chế điều chỉnh pháp luật. Đối với các quan hệ kinh tế, pháp luật tạo ra tiền đề pháp lý vững chắc để ổn định các quan hệ kinh tế, nếu pháp luật phù hợp với các quan hệ kinh tế thì sẽ có tác dụng thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển; ngược lại, nếu pháp luật không phù hợp, nó sẽ có tác dụng ngược lại – kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.

Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986), pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế quan liêu, bao cấp chỉ phù hợp ở giai đoạn đầu, giai đoạn mà chúng ta mới giành được độc lập, thống nhất đất nước. Lúc này pháp luật quy định về việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch được đặt ra nhằm xây dựng, củng cố đất nước sau chiến tranh, củng cố kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể để từng bước tạo sự ổn định về cuộc sống cho nhân dân. Kinh tế Việt Nam giai đoạn này không phải là nền kinh tế hàng hóa mà là nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp, không có cạnh tranh mà chỉ có sự độc quyền của Nhà nước trong mọi lĩnh vực.

 Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi lớn. Nền kinh tế Việt Nam từng bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Chính vì vậy, các quy định pháp luật không thừa nhận sự phát triển của kinh tế tư nhân cần được thay thế và đến ngày 21 -12-1990 Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã ra đời. Pháp luật về kinh tế thời kỳ này dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền con người trong đó có quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu là những quyền cơ bản nhất. Sự can thiệp của pháp luật vào kinh tế theo phương thức liệt kê những điều cấm và những điều pháp luật cho phép để tổ chức, cá nhân dựa vào các quy định pháp luật đó mà thực hiện.

Hiến pháp 1992 ra đời đã khẳng định: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều 15), “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật” (Điều 12).

Trải qua gần 20 năm đổi mới, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang, khuôn khổ pháp luật cho sự vận động của xã hội, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Pháp luật đã thực sự trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý xã hội. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được khẳng định và phát huy hiệu quả trên thực tế.

Bước chuyển biến cơ bản, rõ nét nhất của hệ thống pháp luật thể hiện ở chỗ, nếu như trước đây, Nhà nước quản lý kinh tế, xã hội chủ yếu bằng chính sách, nghị quyết và mệnh lệnh hành chính thì nay pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của nhà nước. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được khẳng định và phát huy hiệu quả trên thực tế. Hoạt động lập pháp ngày càng trở nên công khai hơn, dân chủ XHCN ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước từ khâu soạn thảo văn bản pháp luật đến thực thi pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam của dân, do dân, vì dân đặt ra yêu cầu cơ bản là phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thống nhất, phản ánh đúng ý chí lợi ích của các cá nhân và tổ chức trong xã hội.

Trong lĩnh vực kinh tế, về cơ bản chúng ta đã tạo dựng được khung pháp luật cho việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xác lập chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, quy định địa vị pháp lý của các loại hình doanh nghiệp, các quy định về bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu tư; khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội nhằm hình thành môi trường cạnh tranh lành mạnh; từng bước xác lập nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm trong hoạt động kinh doanh; Các nguyên tắc hành chính trong điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại đang từng bước được thay thế bằng các nguyên tắc dân luật truyền thống; Đồng thời, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, trong lĩnh vực pháp luật hành chính và cải cách hành chính, nhà nước đã có những bước tiến tích cực, giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại nói chung và các hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng, giảm cơ chế xin cho. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, pháp luật công chức, công vụ ngày càng được xác định rành mạch, rõ ràng; cải cách hành chính theo hướng đơn giản, công khai, dễ tiếp cận và dễ kiểm tra[[8]].

Đặc biệt là tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật Dân sự mới thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại mới thay thế Luật Thương mại năm 1997. Trong đó đã xác định Bộ luật Dân sự là Bộ luật gốc quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân các chủ thể khác về nhân thân, về tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Năm 2005 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp (áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp), Luật Đầu tư (áp dụng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài) nhằm tạo sự bình đẳng giữa các chủ thể trong các quan hệ kinh tế. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 đã cho thấy chúng ta đã bắt đầu nhận thức về sự cần thiết phải bảo vệ cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh, đây là một yêu cầu không thể thiếu của nền kinh tế thị trường, đáp ứng phần nào đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế...

Một trong những điểm yếu của hệ thống pháp luật kinh tế nước ta trong gần 20 năm qua là hiệu quả điều chỉnh và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật kinh tế chưa cao. Điều này thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất là về tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật về kinh tế.

 Hệ thống văn bản pháp luật về kinh tế còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, nhiều lĩnh vực bức xúc của đời sống xã hội vẫn chưa có luật, thậm chí chưa có cả văn bản của Chính phủ để điều chỉnh. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế việc xây dựng luật chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn nên tính dự báo thấp, pháp luật thiếu ổn định, thường xuyên phải sửa đổi. Ngoài ra, trong nhiều đạo luật vẫn có sự hiện diện của các quy định mang tính chung chung như “Nhà nước có chính sách…”, “Nhà nước bảo đảm…” mới chỉ thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về những lĩnh vực đó mà thiếu các quy định bảo đảm thực hiện các chính sách đó.

Thứ hai, pháp luật kinh tế vẫn mang tính hỗn hợp các nguyên tắc của hai cơ chế quản lý kinh tế là kế hoạch hoá và kinh tế thị trường.

Trong lĩnh vực kinh tế, pháp luật chưa thực sự tạo động lực mạnh mẽ cho hoạt động kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, nhà nước vẫn sử dụng một số biện pháp can thiệp vào thị trường như can thiệp bằng giá, can thiệp bằng con đường hành chính. Các quy định về thanh tra, chức năng thanh tra ít thay đổi, chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong một số lĩnh vực quan trọng, sự liên kết các doanh nghiệp nhà nước bằng các quyết định hành chính thành tổng công ty đã tạo ra sự hạn chế cạnh tranh và có thể dẫn tới tình trạng độc quyền hơn là đáp ứng mong muốn ban đầu chỉ là tạo ra các tổng công ty nhà nước thực sự đủ mạnh để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong tiến trình hội nhập.

Thứ ba, còn tồn tại những văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực trên giấy tờ mà thiếu tính thực tế. Ví dụ Luật Thương mại năm 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 – các văn bản này đã tồn tại trong suốt thời kỳ chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường và cho đến gần đây mới được xóa bỏ. Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tuy đã được thông qua ngày 27-4-1999, nhưng quyền lợi của người tiêu dùng vẫn không được bảo vệ một cách hữu hiệu…

Thứ tư, một số văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu tính chính xác, thiếu đồng bộ. Ví dụ các văn bản pháp luật về đất đai và Bộ luật Dân sự là một minh chứng. Mặc dù tại thời điểm ban hành Bộ luật Dân sự, các quy định về chuyển quyền sử dụng đất trong Bộ luật Dân sự là phù hợp với quy định của Luật Đất đai năm 1993, nhưng đứng trước xu thế vận động của các quan hệ đất đai, Luật Đất đai năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 1998 và 2001, nhưng các quy định của Bộ luật Dân sự vẫn tồn tại khiến cho các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai thiếu thống nhất. Các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Bộ luật Hàng hải, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Bộ luật Dân sự không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn với nhau.

Thứ năm, còn thiếu những quy định cần thiết làm cơ sở cho các quan hệ kinh tế phát triển và bảo vệ quyền của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế. Ví dụ như còn thiếu các quy định đồng bộ về đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản, thiếu các quy định về bảo vệ tài sản thuộc sở hữu toàn dân…

Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của những điểm yếu nêu trên. Trong đó có nguyên nhân từ việc xây dưng pháp luật. Nền kinh tế thị trường của Việt Nam khi được xây dựng bắt đầu từ một nền kinh tế kế hoạch hóa bao cấp. Đây là hai thái cực đối lập nhau, với nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật không thể dựa trên (hay có thể nói là phải đối lập) với hệ thống pháp luật của nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp, đối lập với cơ chế cấp phát, giao nộp. Tuy nhiên, việc xây dựng pháp luật phải dựa vào nhận thức và ý thức pháp luật của con người cụ thể. Vì vậy, không thể một lúc mà có thể thay đổi tư duy, nhận thức của các nhà làm luật cũng như của dân chúng. Quá trình xây dựng pháp luật kinh tế của nước ta là một khoảng thời gian dài, vì vậy không thể tránh khỏi những bất cập trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.

Khi xây dựng pháp luật, việc tuân thủ quy trình xây dựng pháp luật như thế nào là hợp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng và việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật đó. Bất cập của quy trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hiện nay là cơ chế xây dựng, sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật chưa hợp lý. Điều này được thể hiện ở cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi cho người dân. Việc thông qua luật hoặc pháp lệnh thường chậm, còn hiện tượng vấn đề dễ soạn thảo thì thông qua trước, vấn đề rất bức xúc nhưng khó thì vẫn để lại tiếp tục nghiên cứu mà không có các giải pháp thúc đẩy, hỗ trợ tích cực cho việc soạn thảo. Nội dung của văn bản luật thường thiếu cụ thể, những nội dung khó thường dành cho nghị định và các văn bản của Bộ, ngành quy định. Vì vậy, đã dẫn đến tình trạng văn bản dưới luật mở rộng hoặc thu hẹp hơn phạm vi điều chỉnh của luật, luật tuy đã được ban hành nhưng không thể áp dụng được ngay mà còn phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành. Mặc dù Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi tháng 12 năm 2002) đã đổi mới một bước trình tự xem xét, thông qua luật, pháp lệnh nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được đề cập, cần tiếp tục nghiên cứu như: chưa có phương thức để có thể sửa đổi, bổ sung đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan với một luật, pháp lệnh mới được ban hành hoặc mới được sửa đổi, bổ sung. Điều này dẫn đến sự không đồng bộ về nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật kinh tế nói riêng, gây khó khăn cho việc thi hành luật. Quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật chưa có đủ cơ chế thu hút các chuyên gia giỏi, những người trực tiếp thi hành pháp luật và huy động thực sự hiệu quả trí tuệ của nhân dân, của thành viên các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp vào hoạt động xây dựng pháp luật. Việc tổ chức lấy ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, của các thành viên của Chính phủ về các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nhiều khi còn hình thức. Không phải tất cả hoặc phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước đều có sự đóng góp ý kiến của nhân dân nói chung và của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của các văn bản quy phạm pháp luật nếu văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Việc lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, của nhân dân vào văn bản quy phạm pháp luật từ giai đoạn nào cũng chưa thống nhất và đang là vấn đề còn phải bàn. Từ trước đến nay, chỉ một số văn bản quy phạm pháp luật được lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và thông thường nhân dân chỉ được hỏi ý kiến khi văn bản quy phạm pháp luật đó chuẩn bị được Quốc hội xem xét, thông qua. Việc tiếp thu hoặc không tiếp thu ý kiến của nhân dân vào việc xây dựng quy phạm pháp luật không được các cơ quan xây dựng pháp luật phản hồi. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nội dung văn bản quy phạm pháp luật và việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành vào cuộc sống.

1.2.2. Những yêu cầu đặt ra trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới

Để đáp ứng yêu cầu hội nhập và cải cách kinh tế, trong thời gian tới, trọng tâm của Nhà nước Việt Nam là tập trung phát triển kinh tế. Vì vậy, trong chương trình cải cách pháp luật, hệ thống pháp luật kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng. Hướng tới mục tiêu xây dựng một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp một cách phù hợp, đồng thời khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc cả khối nhà nước và khối dân doanh, công tác xây dựng pháp luật của Việt Nam hiện nay dành một phần lớn nguồn lực để xây dựng hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 tại Mục II.3 - Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã chỉ rõ từ nay đến năm 2010 và các năm tiếp theo tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung vào một số lĩnh vực pháp luật kinh tế trọng điểm đáp ứng kịp thời yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh. Làm rõ nội hàm và cơ chế quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân, chủ sở hữu nhà nước và các chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO, các cam kết quốc tế và lộ trình đã công bố; thực hiện nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm nhất là trong lĩnh vực dân sự, kinh tế. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật, chính sách áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tiếp tục tách bạch rõ vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước của các Bộ, Uỷ ban nhân dân với quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra và kiểm soát hành chính, chấm dứt tình trạng gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp.

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Nhà nước không can thiệp vào quyền tự do hợp đồng, trừ trường hợp thoả thuận trong hợp đồng trái với đạo đức xã hội hoặc làm ảnh hưởng đến trật tự công cộng.

Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường. Tạo lập cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất, từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài đầu tư ở Việt Nam. Bảo đảm tính minh bạch, dân chủ trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch sử dụng đất, ban hành quy chế về đấu giá, đấu thầu công khai quyền sử dụng đất, bảo đảm để người sử dụng đất thực hiện dễ dàng, thuận lợi các quyền về sử dụng đất. Tạo môi trường pháp lý cho sự hình thành và hoạt động lành mạnh của thị trường lao động, khuyến khích các tổ chức, lĩnh vực hoạt động tạo nhiều việc làm, xuất khẩu lao động, đồng thời có chính sách khuyến khích mở rộng thị trường lao động có hàm lượng chất xám cao trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ mới. Hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo hướng Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng đóng góp; mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành thị trường khoa học- công nghệ theo hướng mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ – tín dụng, tạo môi trường lành mạnh, bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, khuyến khích cạnh tranh trong hoạt động tín dụng trên nguyên tắc an toàn hệ thống. Tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương quản lý hoạt động ngân hàng, tín dụng bằng pháp luật và các chính sách, công cụ vĩ mô. Hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán để tăng cường khả năng của thị trường vốn, mở rộng khả năng lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp lao động, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động.

Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, xác định rõ nguồn thu và cơ cấu chi của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, thống nhất chế độ chi tiêu, sử dụng một cách hiệu quả các nguồn ngân sách, làm rõ cơ chế đầu tư các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Công khai, minh bạch việc hình thành, quản lý và sử dụng các nguồn vốn, tài chính huy động từ dân cư, cộng đồng. Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế theo hướng ổn định, đơn giản hơn, mức thuế phù hợp có tính đến mức trung bình của ASEAN/AFTA và các định chế kinh tế quốc tế và khu vực cũng như các điều ước quốc tế khác có liên quan.

Hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật (xây dựng, điện lực, bưu chính viễn thông, an ninh lương thực, thú y, thuỷ sản...) thể hiện các nguyên tắc, điều kiện, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật liên quan đến phát triển và quản lý ngành, chống thất thoát. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường theo nguyên tắc phát triển bền vững, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và các thành phần môi trường, đảm bảo tính toán đầy đủ các chi phí sử dụng, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ....

1.3. Cơ sở, sự cần thiết và ý nghĩa của việc tham gia vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

1.3.1. Cơ sở cho việc tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

1.3.1.1 Cơ sở lý luận

Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của hệ thống pháp luật kinh tế hiển nhiên chính là hoặc liên quan đến các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề - tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp trong cùng một nhóm ngành/nghề. Đứng trước yêu cầu, đòi hỏi của việc phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống văn bản pháp luật về kinh tế nói riêng, sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp thông qua đại diện là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế là một yêu cầu bắt buộc mang tính khách quan, vì các lý do sau:

Thứ nhất, soạn thảo và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là quá trình ý chí chủ quan được chuyển hoá thành các quy tắc xử sự chung áp đặt cho các chủ thể chịu sự điều chỉnh của văn bản đó. Xét từ góc độ lý thuyết, một nhà nước dân chủ phải là nhà nước mà pháp luật thể hiện ý chí chung của nhân dân. Nói cách khác, bản chất của hoạt động xây dựng pháp luật trong nhà nước dân chủ thể hiện ở việc đưa ý chí của nhân dân lên thành pháp luật, là hình thức pháp lý quan trọng để thực hiện quyền lực của nhân dân. Do vậy, việc tham gia của nhân dân vào quá trình này là một biểu hiện của dân chủ trực tiếp. Theo luồng tư duy này, việc khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế tham gia vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật kinh tế là phù hợp với bản chất của nhà nước Việt Nam - là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đáp ứng công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Đảm bảo quyền được tiếp cận và tham gia vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật của tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế một cách rộng rãi, thường xuyên chính là việc mở rộng phát huy dân chủ tạo điều kiện cho người dân tích cực tham gia vào công việc quản lý nhà nước, theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra.

Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp là sự ghi nhận và thể hiện lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau và của công dân. Những nhóm lợi ích này đôi khi có xu hướng đối lập nhau. Do đó, vấn đề mấu chốt đặt ra trong quá trình xây dựng pháp luật là phải dung hòa được lợi ích của các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội. Mục đích này chỉ đạt được khi quá trình làm luật hình thành cơ chế khách quan để các nhóm lợi ích khác nhau, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản pháp luật có cơ hội được tiếp cận và bày tỏ quan điểm của mình, đối thoại với cơ quan hoạch định chính sách pháp luật. Theo đó, quá trình xây dựng chính sách pháp luật kinh tế không thể đạt được kết quả cao nếu không có sự tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách này - cộng đồng doanh nghiệp.

Thứ ba, kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay đang phát triển ở giai đoạn sơ khai, các quan hệ kinh tế cần có pháp luật điều chỉnh rộng và rất đa dạng, đồng thời thường xuyên thay đổi do yếu tố nội sinh và những yếu tác động từ bên ngoài. Do đó, pháp luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay một mặt giữ vai trò ghi nhận và trật tự hóa các quan hệ kinh tế đã hình thành và có xu hướng phổ biến, mặt khác, phải bảo đảm độ thông thoáng cần thiết, tạo thuận lợi tối đa cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nếu xét ở khía cạnh này, thì quá trình xây dựng pháp luật kinh tế phải là một quá trình cần sự tham gia trực tiếp của cộng đồng doanh nghiệp, bởi vì không một nhà hoạch định chính sách kinh tế nào lại có thể am hiểu mọi vấn đề, trong khi đó, các doanh nghiệp - những “người” thường xuyên cọ xát với thương trường hơn ai hết họ chính là những người biết rõ nhất những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc trong chính sách hiện hành và nhu cầu xây dựng chính sách sách mới.

Thứ tư, hạn chế được sự chủ quan, lợi ích cục bộ của các bộ, ngành chủ trì soạn thảo văn bản.

1.3.1.2. Cơ sở chính trị-pháp lý

* Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự thúc đẩy mạnh mẽ đối với cải cách nền hành chính. Trên cơ sở đánh giá thực trạng công cuộc cải cách hành chính trong 10 năm (1991 - 2000), Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ - TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ ra đời đã tạo nên những bước đột phá đối với hệ thống hành chính. Trong đó đổi mới quy trình xây dựng và ban hành VBQPPL được xem là một nội dung quan trọng để góp phần hoàn thành mục tiêu đề ra và “Ban hành các quy định bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật, tổ chức tốt việc lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, của những người là đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn bản trước khi ban hành” được tiến hành song song với các hoạt động rà soát, hệ thống hoá các VBQPPL, tăng cường năng lực của các cơ quan hành chính Nhà nước, tránh tình trạng cục bộ, thiếu khách quan trong xây dựng pháp luật.

* Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Mục III về các giải pháp, trong đó tại phần các giải pháp về xây dựng pháp luật đã chỉ rõ: Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật. Sớm triển khai đề án thu hút các chuyên gia giỏi, các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội- nghề nghiệp đại diện cho các đối tượng chịu sự tác động của văn bản vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật. Hình thành cơ chế phản biện xã hội đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, có cơ chế thiết thực tiếp thu và phản hồi ý kiến của các tầng lớp nhân dân trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật...."

* Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) ngoài điều 2 quy định về quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tại Điều 53 có quy định về quyền của công dân tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương.

* Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 1996, được sửa đổi, bổ sung năm 2002): các Điều 3, 26, 39, 40, 41, 61, 62 quy định về lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh. Luật được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý để đưa công tác soạn thảo, thẩm định và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dần đi vào nền nếp, theo một quy trình thống nhất, chặt chẽ, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, đồng thời tạo điều kiện để tổ chức, công dân có thể tham gia đóng góp ý kiến cho dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

* Luật Tổ chức Quốc hội (năm 2001): Điều 8 quy định về thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội và ý kiến của nhân dân để chỉnh lý dự án luật, dự thảo nghị quyết và các dự án khác trình Quốc hội;

* Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, tại Điều 13 quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo luật căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án hoặc theo quyết định của Quốc hội và cho ý kiến về việc tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, của nhân dân, các ngành, các cấp đối với dự thảo luật; thông qua báo cáo giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua.

* Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội: tại Điều 37 quy định Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp, đại biểu Quốc hội về dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết hoặc về vấn đề quan trọng khác.

* Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 07 năm 2003 của Chính phủ Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.

* Chỉ thị số 28/2001/CT-TTg ngày 28/11/2001, Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh nhất thiết phải có ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

*Nghị định 161/2005/NĐ–CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

1.3.1.3. Cơ sở thực tiễn                    

Thực tiễn hoạt động xây dựng pháp luật kinh tế trong gần 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt nam đã chứng minh những văn bản được chuẩn bị tốt, có sự tham gia ý kiến rộng rãi của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản thì được triển khai một cách có hiệu quả, phát huy tác dụng trong cuộc sống. Luật doanh nghiệp 1999 là một ví dụ điển hình, Luật Doanh nghiệp đã trở thành “hình mẫu” về cách thức soạn thảo dân chủ có nội dung phù hợp với thực tế, phù hợp với cơ chế thị trường và cả các thông lệ quốc tế, về quyết tâm của Chính phủ trong tổ chức thực hiện kết hợp với sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp có liên quan.[[9]]

1.3.2. Sù cÇn thiÕt và ý nghĩa của sự tham gia vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế cña c¸c tæ chøc x· héi nghÒ nghiÖp vµ hiÖp héi kinh tÕ trong nÒn kinh tÕ thÞ tr­êng ë ViÖt Nam

Một là, bảo đảm các quyền hiến định và luật định của nhân dân.

Hiến pháp năm 1992 khẳng định, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời cũng tuyên bố: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân” (Điều 53). Như vậy, một trong những nội dung của việc “tham gia quản lý nhà nước” chính là việc nhân dân nói chung tham gia xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Tham gia xây dựng pháp luật được xem như là một trong những quyền cơ bản của công dân - quyền hiến định và tương ứng với nó là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo công dân thực hiện quyền này. Việc các cơ quan nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế tham gia xây dựng chính sách pháp luật một cách rộng rãi, thường xuyên chính là biểu hiện rõ nét nhất của quá trình mở rộng phát huy dân chủ tạo điều kiện cho người dân tích cực tham gia vào công việc quản lý nhà nước, thể hiện bản chất của nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân.

Hai là, thể hiện tính dân chủ trong hoạt động xây dựng, ban hành chính sách; là biện pháp thực hiện dân chủ trực tiếp.

Theo tinh thần tham gia quản lý nhà nước và xã hội là một quyền hiến định của công dân, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 3) đã khẳng định về quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức... Việc tổ chức một cách hiệu quả để nhân dân tham gia xây dựng pháp luật nói chung hay các tổ chức xã hội-nghề nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật kinh tế là một biểu hiện và xu hướng tất yếu của quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta để xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Ba là, sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là cách thức bảo đảm tính khả thi của chính sách và hiệu quả quản lý nhà nước.

Việc tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế được tham gia vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế sẽ nâng cao hiệu quả thi hành của các chính sách/văn bản quy phạm pháp luật này. Bởi vì khi được tham gia vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, họ có tâm lý rằng văn bản đó là sản phẩm của chính bản thân họ hoặc ít ra cũng có phần đóng góp của họ và từ đó làm cho họ tự giác chấp hành và thuyết phục người khác cùng chấp hành. Như vậy, tham gia xây dựng pháp luật cũng là một hình thức để đối tượng chịu sự tác động quan tâm đến pháp luật, có ý thức trong xây dựng và thực hiện pháp luật và đây cũng chính là một trong những hình thức Nhà nước tuyên truyền phổ biến pháp luật đến đối tượng thực thi một cách hiệu quả nhất.

Bốn là, sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế góp phần nâng cao chất lượng của văn bản pháp luật trong lĩnh vực này.

 Các quy định của pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động kinh doanh đều có tác động/ảnh hưởng nhất định đến lợi ích kinh tế, khả năng cạnh tranh của các cá nhân/doanh nghiệp – thành viên của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế. Để các quy định này phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh rất cần ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp phản ánh thông qua các tổ chức/Hiệp hội đại diện. Như vậy, việc tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế tham gia xây dựng pháp luật sẽ làm tăng tính thực tế, khả thi của các văn bản pháp luật. Chính các tổ chức này thông qua việc tập hợp ý kiến của các thành viên sẽ là những “người” giúp cho các cơ quan xây dựng pháp luật phát hiện những điểm bất hợp lý của một chính sách, những khiếm khuyết của dự thảo, sự thiếu đầy đủ trong điều chỉnh pháp luật để kịp thời khắc phục trước và sau khi văn bản pháp luật được ban hành. Nhờ đó, chất lượng văn bản pháp luật được cải tiến và pháp luật phát huy được hiệu quả mong đợi. Với ý nghĩa như vậy, việc tổ chức để tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là hết sức cần thiết.

Năm là, sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế có hiệu quả tác động cao.

Việc các đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật tham gia ý kiến ngay từ giai đoạn soạn thảo chuyển tải được ý kiến, quan điểm theo chiều hướng có lợi cho mình vào nội dung văn bản sẽ dễ dàng hơn là việc đề nghị sửa đổi/huỷ bỏ khi văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành. Bên cạnh đó, tiếng nói của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế sẽ có sức nặng hơn so với tiếng nói của từng thành viên nhỏ lẻ.

Sáu là, sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là biện pháp thể hiện tinh thần chủ động hội nhập quốc tế.

Dưới góc độ chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tự nguyện tham gia thì việc công khai hoá các chính sách/dự thảo văn bản để thu hút sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp/nhân dân là một biểu hiện của xu hướng minh bạch hoá hệ thống pháp luật, bảo đảm tính công khai của quá trình hoạch định chính sách. Đây cũng là một biện pháp thiết thực để thực hiện các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ. Theo Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ, mỗi Bên cần tạo cơ hội cho doanh nghiệp và công dân của Bên khác đóng góp ý kiến đối với những quy định pháp luật có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình (Chương VI, điều 3).

1.4. C¸c h×nh thøc tham gia cña c¸c tæ chøc x· héi nghÒ nghiÖp vµ hiÖp héi kinh tÕ trong x©y dùng chÝnh s¸ch, ph¸p luËt nãi chung vµ ph¸p luËt kinh tÕ nãi riªng.

Chính sách và pháp luật kinh tế là một trong những công cụ quản lí có vai trò quan trọng số một của Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc nghiên cứu nhu cầu điều chỉnh, nắm vững các quy luật khách quan, tiến hành xây dựng, ban hành và thực thi chính sách, pháp luật để vận hành nền kinh tế theo các chương trình mục tiêu nhất định thuộc về chức năng cơ bản của Nhà nước. Tuy nhiên, một trong những điểm khác biệt cơ bản so với quá trình xây dựng, ban hành và thực thi các chính sách và pháp luật kinh tế trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây là tính dân chủ thể hiện ở mức độ tham gia sâu rộng của công dân và các thiết chế xã hội phi nhà nước vào công việc của Nhà nước như là yêu cầu bắt buộc, một tất yếu khách quan để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều này còn xuất phát từ bản chất của hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường không chỉ là công cụ quản lí của riêng Nhà nước mà còn là hệ thống các định hướng chiến lược, nguyên tắc và tiêu chuẩn chung để nền kinh tế vận hành một cách tự do, an toàn; bảo đảm tính dân chủ và công bằng về lợi ích cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường, chính sách, pháp luật của Nhà nước mang tính xã hội sâu sắc.

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước là chủ thể kinh tế, các cơ quan nhà nước là chủ quản đối với các đơn vị kinh tế, do đó, không có cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển một cách đúng thực chất của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế với tư cách là tổ chức tự nguyện đại diện cho lợi ích chung của các đơn vị, cá nhân tham gia hoạt động kinh tế là thành viên. Ngược lại, với bản chất của nền kinh tế thị trường và trong điều kiện mở rộng hợp tác, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế cùng với vị trí, vai trò của các tổ chức này ngày càng được khẳng định như là điều tất yếu. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở các nước, người ta đều chú trọng sự phát triển hài hoà, cân đối cả ba khu vực là: Nhà nước - Thị trường - Tổ chức xã hội, trong đó nhà nước là các tổ chức công quyền hoạt động trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp; thị trường bao gồm các đơn vị kinh doanh; tổ chức xã hội gồm các tổ chức có tính phi nhà nước do dân lập ra và tự quản. Như vậy, quản lí của nhà nước (quản lí của cơ quan công quyền) và quản lí của xã hội (tự quản) trong nền kinh tế thị trường không những không đối lập, loại trừ nhau mà hỗ trợ, tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau.

Ở Việt Nam, hiện nay chúng ta đang tiến hành công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Trên thực tế, một mặt, chúng ta đang từng bước thực hiện việc xã hội hoá nhiều hoạt động vốn trước đây thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, mặt khác cùng với sự phát triển của các thành phần kinh tế và công việc làm ăn, kinh doanh của dân, nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế ra đời và phát triển, bước đầu khẳng định được vị trí, vai trò tích cực của mình cho sự chấn hưng nền kinh tế. Một trong những nội dung rất quan trọng thể hiện vai trò, chức năng của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong thời gian quan là tham gia vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của Nhà nước. Việc này dù còn một số biểu hiện lệch lạc về nhận thức và tổ chức thực tiễn nhưng đã có những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ở nước ta đang trong quá trình xây dựng trên cơ sở thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nên việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như sự thể hiện vai trò nói chung và vai trò tham gia vào việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế nói riêng của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế cũng đang đặt ra những vấn đề cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc hơn để có thể đưa ra các giải pháp tối ưu cho việc hoạch định và thực thi các quy định có liên quan, góp phần hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam phù hợp với yêu cầu của xã hội và tương thích với thông lệ quốc tế.

Hình thức tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là những phương thức, cách thức, biện pháp cụ thể theo quy định của pháp luật để thực hiện vai trò của các tổ chức đó đối với quá trình hình thành và thực thi các thể chế kinh tế của Nhà nước ta nhằm phát huy dân chủ và năng lực to lớn của xã hội vào quản lí nhà nước bằng pháp luật trên lĩnh vực kinh tế.

Cần chú ý hai điểm có tính nguyên tắc là:

- Xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế là chức năng của Nhà nước, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế chỉ thể hiện vai trò trong tư cách là người tham gia;

- Sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào việc xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế được xác định là yêu cầu bắt buộc hiện nay.

Theo nguyên lí chung và theo các quy định của pháp luật hiện hành, các hình thức tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể được tiếp cận từ những góc độ khác nhau và từ đó có những hình thức nhất định thể hiện vai trò tham gia của các tổ chức này.

Xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước là quá trình hoạt động đặc thù thuộc chức năng cơ bản của Nhà nước gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn khác nhau, từ nghiên cứu điều tra cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội và xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ kinh tế - xã hội đến việc nêu sáng kiến chính sách, pháp luật, tham khảo thông lệ quốc tế và pháp luật các nước, tiến hành soạn thảo, lấy ý kiến nhân dân, thẩm tra, thông qua dự án và công bố ban hành chính thức, tổ chức thực hiện[10]… Nếu xem xét từ quá trình xây dựng chính sách, pháp luật thì có các hình thức tham gia theo các bước của quá trình đó như tham gia vào quá trình điều tra cơ bản tình hình kinh tế - xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế, thương mại; tham gia góp ý cho các dự án, dự thảo văn bản chính sách, pháp luật có liên quan; tham gia triển khai, giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật, tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành chính sách, pháp luật, tham gia giải quyết tranh chấp.

Nếu xem xét từ việc tham gia đối với dự án, dự thảo văn bản chính sách, pháp luật thì có thể phân chia thành các hình thức tham gia là góp ý cho dự án, dự thảo văn bản chính sách, pháp luật và tham gia xây dựng dự án, dự thảo văn bản pháp luật. Còn nếu xem xét từ việc tham gia đối với văn bản chính sách, pháp luật (văn bản đã được ban hành) thì có các hình thức tham gia trước khi ban hành và tham gia góp ý sửa đổi, bổ sung hoàn thiện (sau khi văn bản chính sách pháp luật đã được ban hành).

Sáng kiến chính sách, pháp luật là khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, do tính chất đặc trưng của khâu này nên việc đưa ra sáng kiến pháp luật được coi là hình thức tham gia cần được nghiên cứu độc lập.

Trên thực thế, nếu xét hình thức tham gia dưới góc độ tổ chức kĩ thuật thì ta có tham gia bằng văn bản và tham gia bằng việc tổ chức hội nghị lấy ý kiến trực tiếp của các hiệp hội (tất nhiên, các hiệp hội cũng phải nghiên cứu thu thập và tổng hợp từ ý kiến các thành viên là các doanh nghiệp thuộc tổ chức mình).

 Nếu xem xét hệ thống chính sách và pháp luật kinh tế không chỉ là hệ thống các văn bản mà còn xem xét nó như là thực thể đang hiện hữu trong đời sống kinh tế xã hội thì cần phải nghiên cứu các hình thức tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào quá trình vận hành các văn bản pháp luật, qua đó mới có thế thấy được toàn diện vai trò to lớn của các tổ chức này đối với quá trình đưa văn bản pháp luật vào thực tiễn hoạt động của nền kinh tế. Từ quan điểm này, chúng ta có thể nhận thấy các hình thức tham gia chủ yếu như:

- Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật;

- Kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách pháp luật;

- Giải quyết tranh chấp.

Mỗi cách phân chia các hình thức tham gia như trên xuất phát từ một góc độ nhất định và đều có mục tiêu và ý nghĩa riêng. Trong ®Ò tµi khoa häc này, cách tiếp cận các hình thức tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là tiếp cận theo quá trình xây dựng văn bản chính sách, pháp luật.

Dưới đây, chúng tôi xin đề cập cụ thể các hình thức tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế theo quá trình xây dựng văn bản chính sách, pháp luật.

a. Tham gia điều tra, nghiên cứu cơ bản về kinh tế - xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội

Nội dung, mức độ, phạm vi của hình thức tham gia này có thể được xác định gồm: Cung cấp thông tin về tình hình kinh tế xã hội có liên quan đến hoạt động của các thành viên hiệp hội của mình. Các thông tin này có thể là những thông tin về tình hình kinh doanh, phối hợp cạnh tranh, hiệu quả và những nhân tố ảnh hưởng đến sự nghiệp kinh doanh hiện tại và tương lai; việc chấp hành chính sách, pháp luật, những điểm tồn tại, bất cập trong các chính sách kinh tế có liên quan và việc Nhà nước thực thi ở các đơn vị thành viên; dự báo nhu cầu điều chỉnh các quan hệ kinh tế tương ứng.

Sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào khâu này có ý nghĩa quan trọng không thể thiếu trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản chính sách và pháp luật kinh tế. Một mặt, nó đảm bảo tính dân chủ công khai của hoạt động nghiên cứu, điều tra, xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội trên lĩnh vực kinh tế, thương mại. Mặt khác, nó đảm bảo tính xác thực của các thông tin được chuyển lên các cơ quan và nhân viên nhà nước có thẩm quyền để tiến hành hoạch định các chính sách, pháp luật được sát hợp. Tính dân chủ, công khai trong khâu thu thập và xử lí thông tin kinh tế - xã hội có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, góp phần quan trọng đảm bảo tính khách quan của việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.

Hình thức tham gia này ngày càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng hơn khi Nhà nước ta đang từng bước tiến hành xã hội hoá một số hoạt động dịch vụ công, trong đó có khâu nghiên cứu, điều tra cơ bản tình hình kinh tế - xã hội. Do đó, mức độ và hiệu quả của hình thức tham gia này cũng ngày càng được khẳng định nhiều hơn.

b. Góp ý dự án, dự thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế

Hình thức tham gia này có thể tiến hành với tư cách là bước tiếp theo của hình thức tham gia trên nếu xét cả quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế nhưng cũng có thể được tiến hành độc lập với hình thức tham gia đó. Như vậy cũng có nghĩa là hình thức tham gia vào việc nghiên cứu, điều tra cơ bản tình hình kinh tế - xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội có thể được đặt ra hoặc không được đặt ra đối với văn bản chính sách, pháp luật nhất định nhưng hình thức tham gia góp ý vào dự án, dự thảo văn bản chính sách pháp luật kinh tế có liên quan đến lợi ích của các thành viên tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là hình thức tham gia nhất thiết phải có đối với cả phía cơ quan nhà nước và phía tổ chức hiệp hội. Bởi vậy, đây được coi là hình thức tham gia cơ bản và có ý nghĩa thực tế lớn nhất trong số các hình thức tham gia. Nếu hình thức tham gia nghiên cứu, điều tra tình hình kinh tế - xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành định hướng chỉ đạo hình thành các quan điểm cơ bản của chính sách, pháp luật thì hình thức tham gia góp ý cho dự án, dự thảo văn bản chính sách, pháp luật lại có ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung văn bản chính sách, pháp luật sắp được ban hành.

Hình thức tham gia nghiên cứu, điều tra cơ bản về tình hình kinh tế -xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội có tác dụng lên cả quá trình xây dựng chính sách, pháp luật một cách sâu sắc, thể hiện ở chỗ nó tác động ngay từ khâu đầu tiên là xác định cơ sở, điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu thực tế của đời sống xã hội. Nếu khâu này được tiến hành có chất lượng cao sẽ là điều kiện thuận lợi để có thể làm nên dự án, dự thảo tốt. Đồng thời, hình thức tham gia góp ý cho dự án, dự thảo không những có tác dụng trực tiếp đến nội dung của dự án, dự thảo mà còn có thể đặt ra vấn đề xem xét lại kết quả của hình thức đầu nêu trên. Bởi lẽ, dù bị giới hạn nhất định trong định hướng, nguyên tắc hay phạm vi các vấn đề lấy ý kiến đối với dự án, dự thảo đã có nhưng các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vẫn có thể và cần phải lật lại những vấn đề thuộc về quan điểm thiết kế nội dung các văn bản chính sách, pháp luật vốn dựa trên kết quả của khâu đầu tiên. Nếu việc góp ý cho dự thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế được thực hiện độc lập thì điều vừa nêu có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, nếu điều kiện cho phép sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân và các tổ chức xã hội vào việc hình thành các quan điểm chiến lược để xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước thì chắc chắn sẽ tạo nên cơ sở vững chắc và khoa học cho việc xây dựng các dự thảo văn bản có liên quan.

c. Tham gia soạn thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế

Tham gia soạn thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế là hình thức tham gia đặc biệt, thể hiện sự tham gia ở mức độ cao của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế khi được giao nhiệm vụ trực tiếp tiến hành soạn thảo chính sách và pháp luật kinh tế của Nhà nước ta.

Hiện nay, đối với việc soạn thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế, các chủ thể tham gia với một trong hai tư cách là cơ quan chủ trì xây dựng dự thảo hoặc là cơ quan tham gia (thành viên) ban soạn thảo. Là cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước, một số tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế thường được Nhà nước giao nhiệm vụ làm thành viên ban soạn thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế. Khác với hình thức tham gia góp ý vào dự thảo – hình thức tham gia chỉ giới hạn ở việc nêu ra các ý kiến đối với nội dung đã có trước, hình thức tham gia xây dựng dự thảo thể hiện sự đóng góp tích cực, chủ động các quan điểm, ý kiến của mình vào tất cả các công đoạn của quá trình soạn thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế, từ khâu nghiên cứu kết quả điều tra tình hình kinh tế - xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, tham khảo kinh nghiệm các nước và thông lệ quốc tế đến việc hình thành các quan điểm về mục tiêu điều chỉnh, cơ cấu, phạm vi đối tượng điều chỉnh, các nguyên tắc cơ bản, nội dung các điều khoản… Như vậy, quan điểm thể hiện lợi ích của các doanh nghiệp, thành viên tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế được nghiên cứu, xem xét một cách trực tiếp, cụ thể ngay trong quá trình làm việc của ban soạn thảo và hệ quả của việc này là nó trực tiếp xác định nội dung dự án, dự thảo văn bản chính sách và pháp luật kinh tế. Do đó, dự thảo có chất lượng tốt hơn trong việc bảo đảm lợi ích của các đối tượng chịu sự tác động của chính sách, pháp luật mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp.

Trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, khâu soạn thảo văn bản có ý nghĩa quan trọng. Để khâu này có chất lượng tốt, việc lựa chọn thành viên và tổ chức ban soạn thảo là vấn đề cần được chú trọng đặc biệt. Trong công tác soạn thảo chính sách, pháp luật, nếu thành phần ban soạn thảo chỉ gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lí trên lĩnh vực tương ứng thì dễ xảy ra tình trạng cục bộ hay chỉ coi trọng việc quản lí của cơ quan nhà nước mà coi nhẹ lợi ích và sự thuận tiện cho người dân. Hình thức tham gia này có ý nghĩa lớn đối với quá trình xây dựng chính sách, pháp luật nói chung và việc soạn thảo văn bản nói riêng, nó đảm bảo mỗi văn bản chính sách, pháp luật trên lĩnh vực kinh tế do Nhà nước ban hành vừa thể hiện được lợi ích của người tiêu dùng, của Nhà nước và cả của người kinh doanh, cung ứng dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường, tính cân đối và hài hoà về lợi ích là điều kiện để các quan hệ kinh tế - xã hội có thể phát triển bền vững. Việc Nhà nước ta ngày càng giao cho các tổ chức xã hội thực hiện nhiều hơn những công việc hay công đoạn nhất định trước đây vốn do Nhà nước đảm nhận toàn bộ, trong đó có việc tham gia soạn thảo văn bản chính sách, pháp luật thể hiện quá trình xã hội hoá một số hoạt động nhà nước đang diễn ra hiện nay. Cơ sở lí luận của quá trình xã hội hoá khâu tham gia soạn thảo chính sách, pháp luật xuất phát từ chỗ trong nền kinh tế thị trường chính sách, pháp luật không chỉ là công cụ điều chỉnh riêng của Nhà nước mà còn là quy tắc ứng xử cần thiết của chính các chủ thể kinh doanh trong quan hệ hợp tác với nhau trên thương trường. Do vậy việc các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản chính sách, pháp luật có ý nghĩa kinh tế - xã hội rộng lớn cần được chú trọng triển khai trên cơ sở phát huy năng lực thực tế của các tổ chức đó.

d. Đưa ra sáng kiến chính sách và pháp luật kinh tế

Về mặt lí luận, có hai hình thức tham gia cụ thể ở đây là:

+ Đề xuất sáng kiến ban hành văn bản chính sách, pháp luật kinh tế mới;

+ Đề xuất ý kiến bổ sung, sửa đổi văn bản chính sách, pháp luật kinh tế hiện hành.

Hai hình thức đó thể hiện mức độ tham gia khác nhau nhưng thực chất đều là sáng kiến xây dựng pháp luật. Hiện tại, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở nước ta chủ yếu tham gia ở hình thức thứ hai là đề xuất ý kiến bổ sung, sửa đổi văn bản pháp luật hiện hành. Ngoài ra, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể tham gia thông qua các đại diện của tổ chức này là Đại biểu Quốc hội hoặc thông qua kiến nghị đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà hiệp hội là thành viên.

Kết luận

1. Vai trò và hình thức tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế phụ thuộc trước hết vào cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của từng quốc gia. Do đó, việc nghiên cứu vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế phải gắn với điều kiện chính trị pháp lý cụ thể.

2.Xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế là hoạt động chức năng của nhà nước nên việc tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào hoạt động này là xã hội hoá hoạt động của nhà nước. Với vai trò là công cụ quản lý, pháp luật phải được nhà nước sử dụng để xác lập phạm vi quyền tham gia của các tổ chức này trong xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế. Đây là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường mà không phải là sự ban phát của Nhà nước cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế. Sự tham gia của họ là một trong những bảo đảm cơ bản để pháp luật kinh tế sinh ra từ đời sống kinh tế và trở lại điều chỉnh đời sống kinh tế phù hợp với yêu cầu kinh tế khách quan.

3. Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế là bảo đảm quyền hiến định và luật định của nhân dân, nhân dân là chủ của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thể hiện bản chất dân chủ của chế độ nhà nước, là giải pháp nâng cao chất lượng và bảo đảm tính khả thi của pháp luật kinh tế.

 

 

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC THI PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH TỪ THỰC TẾ THAM GIA XÂYDỰNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT KINH TẾ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP VÀ HIỆP HỘI KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1.Thực trạng pháp luật quy định về việc tham gia của các các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế ở Việt Nam.

2.1.1.Pháp luật quy định về việc thành lập, tổ chức hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam.

Trên cơ sở sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/05/1957 ban hành Luật quy định về quyền lập hội, trên cơ sở BLDS ngày 28/10/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2003/NĐ- CP ngày 30/ 07/2003 quy định về tổ chức và hoạt động và quản lý hội. Điều 104 Bộ Luật Dân sự 2005 có quy định về tư cách pháp nhân của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp:

 Đối với các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam được coi là hội quần chúng nên việc thành lập, tổ chức hoạt động cũng trên cơ sở các văn bản pháp luật này[11] (bao gồm các quy định về nguyên tắc thành lập, tổ chức, hoạt động; điều kiện thủ tục thành lập; quyền và nghĩa vụ cơ bản và các quy định về chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể; Quản lý nhà nước đối với hội nói chung và các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế nói riêng và các quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm...) Điểm đáng chú ý tại điều 22, 23, Nghị định số 88/2003/NĐ - CP Ngày 30/07/2003 quy định về quyền và nghĩa vụ của hội đó là: Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến chức năng nhiệm vụ của hội; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội và hội viên; Tổ chức phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; Cung cấp các thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật; Tư vấn phản biện các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của hội theo đề nghị của tổ chức, cá nhân; Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hội. Kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hoạt động…Hoạt động của hội phải theo đúng điều lệ đã được phê duyệt; Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó; Hàng năm hội phải báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực mà hội hoạt động chậm nhất vào ngày 01/12 hàng năm. Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tuân thủ pháp luật. Hàng năm phải báo cáo quyết toán tài chính theo quy định của Nhà nước và gửi cơ quan tài chính cùng cấp…”

Quyền năng chung trong việc tham gia xây dựng chính sách pháp luật cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế còn được quy định trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều các văn bản pháp luật khác và ngay chính trong điều lệ của từng tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn.

Tại điều 1, Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ban hành kèm Quyết định số 123/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12 tháng 6 năm 2003 về việc phê chuẩn Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã quy định: “Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là tổ chức quốc gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, người sử dụng lao động và các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển, bảo vệ và hỗ trợ các doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học - công nghệ giữa Việt Nam với các nước trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có những nhiệm vụ: Tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các doanh nghiệp để phản ánh, kiến nghị và tham mưu cho Nhà nước các vấn đề về pháp luật, chính sách kinh tế - xã hội nhằm cải thiện môi trường kinh doanh; Tham gia xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, tham dự các hội nghị, các đoàn đàm phán về kinh tế và thương mại phù hợp với qui định của Nhà nước; Tổ chức các diễn đàn, đối thoại, các cuộc tiếp xúc giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao động với các cơ quan Nhà nước, với đại diện người lao động và với các tổ chức hữu quan khác ở trong và ngoài nước để trao đổi thông tin và ý kiến về các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp và môi trường kinh doanh; Tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp và người sử dụng lao động trong các quan hệ kinh doanh trong nước và quốc tế[12];

 Trong điều 2, 3 Quyết định 310/TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về quan hệ giữa các cơ quan chính quyền nhà nước với VCCI như sau: “Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có trách nhiệm tham gia ý kiến với các cơ quan Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc xây dựng và thực hiện các thể chế, chính sách kinh tế nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, hướng dẫn hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có trách nhiệm tập hợp ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa đại diện các nhà doanh nghiệp với cơ quan chính phủ để trao đổi các vấn đề liên quan đến hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp”.

Điều 3, Điều lệ liên minh hợp tác xã Việt Nam ban hành kèm Quyết định số 127/2000 /QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Ngày 17 tháng 11 năm 2000 Về việc chuẩn y Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam quy định: “ Liên minh hợp tác xã Việt Nam có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: “ Đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên; Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật có liên quan; Đại diện cho các thành viên trong quan hệ đối nội và đối ngoại theo quy định của pháp luật. Tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã ; Tập hợp ý kiến, nguyện vọng của các thành viên để phản ánh, kiến nghị và đề xuất với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề chính sách, pháp luật có liên quan; phối hợp tham gia xây dựng các văn bản pháp luật v.v.

2.1.2.Pháp luật quy định cụ thể về việc tham gia xây dựng chính sách pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam.

Xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước là quá trình hoạt động đặc thù thuộc chức năng cơ bản của Nhà nước gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn khác nhau, từ nghiên cứu điều tra cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội và xác định nhu cầu điều chỉnh của các quan hệ kinh tế - xã hội ®Ó ®i đến việc nêu sáng kiến chính sách, pháp luật, tham khảo thông lệ quốc tế và pháp luật các nước, tiến hành soạn thảo, lấy ý kiến nhân dân, thẩm tra, thông qua dự án và công bố ban hành chính thức, tổ chức thực hiện…

Có thể khái quát quá trình xây dựng chính sách, pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng thành 4 giai đoạn là:

  • Đưa ra sáng kiến pháp luật;
  • Soạn thảo văn bản QPPL;
  • Góp ý kiến vào dự thảo VBQPPL
  • Góp ý kiến trong quá trình thực thi văn bản quy phạm pháp luật.

Pháp luật hiện hành ở nước ta đã trực tiếp hoặc gián tiếp quy định cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế tham gia vào 4 giai đoạn của quá trình xây dựng pháp luật kinh tế nói trên. Cụ thể:

Thứ nhất, giai đoạn đưa ra sáng kiến pháp luật

Thực chất đây là việc tham gia vào giai đoạn lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định của Chính phủ…

Theo điều 22, 23, 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải được thực hiện theo một chương trình, cụ thể: “Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh bao gồm chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo nhiệm kỳ Quốc hội và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm. Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ trong năm đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm tại kỳ họp cuối năm của năm trước…Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội quyết định điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh”.

Đối với chương trình xây dựng Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ: Căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà nước, Chính phủ quyết định chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định ba tháng, sáu tháng và hàng năm của Chính phủ theo sáng kiến của mình và đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ điều chỉnh chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định[13] ”.

Pháp luật hiện hành chỉ rõ cơ quan có thẩm quyền quyết định chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời chỉ ra đối tượng được quyền đưa ra sáng kiến pháp luật. Đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh thì những đối tượng được quyền đề nghị (đưa ra sáng kiến) chính là đối tượng được quyền trình dự án pháp luật được quy định cụ thể tại điều 87 của Hiến pháp năm 1992[14]. Trong đó đáng chú ý là có đối tượng là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và cá nhân Đại biểu Quốc hội.

Vậy các tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế có được quyền trực tiếp đưa ra sáng kiến pháp luật hay không? và có thể thực hiện bằng hình thức nào? Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành Luật này không quy định cụ thể vấn đề này.

Theo điều 1 và điều 4, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 và Tại điều 1, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua ngày 23 tháng 09 năm 2004 quy định: “Thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp bao gồm tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài.

Việc gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, tán thành Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Việt Nam cùng cấp xem xét công nhận”.

 Như vậy, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế nếu gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp xét công nhận là thành viên của Mặt trận Tổ quốc thì có quyền trực tiếp tham gia vào giai đoạn đưa ra sáng kiến pháp luật hoặc kiến nghị thay đổi chương trình xây dựng pháp luật đã được cơ quan có thẩm quyền ấn định.

Về cơ chế bảo đảm thực hiện, tại văn bản hướng dẫn thi hành Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam có quy định rõ: “Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp có trách nhiệm tập hợp những kiến nghị của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận về dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, cơ quan tư pháp của Uỷ ban nhân dân cùng cấp có trách nhiệm tập hợp những ý kiến của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận cùng cấp về dự kiến chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân trình cơ quan có thẩm quyền”.[15]

Pháp luật còn quy định: “Cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật”[16].

Tóm lại, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể tham gia vào giai đoạn đưa ra sáng kiến pháp luật hoặc kiến nghị thay đổi chương trình xây dựng pháp luật đã được cơ quan có thẩm quyền ấn định với các phương thức sau:

Một là, trực tiếp đưa ra sáng kiến pháp luật với tư cách là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Hai là, tham gia gián tiếp thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam[17] để đưa ra sáng kiến pháp luật;

Ba là, tham gia gián tiếp thông qua Đại biểu Quốc hội là doanh nhân hoặc người đại diện trong tổ chức mình được cử tri bầu ra. Theo số liệu thống kê, thành phần Quốc hội khoá XI có 498 đại biểu, trong đó 25 đại biểu thuộc khối doanh nghịêp (chiếm 5,02%), trong đó DNNN có 20 người (4,02%) và doanh nghịêp thuộc các thành phần kinh tế khác có 5 người (chíêm 1%). Như vậy, có thể thông qua phương thức này, tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế đưa ra sáng kiến pháp luật, tuy nhiên, khả năng này cũng rất khó có thể thực hiện được.

Bốn là, Tham gia ý kiến đóng góp vào dự thảo chương trình xây dựng pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định.

Như vậy, pháp luật hiện hành quy định khá mở về quyền đưa ra sáng kiến pháp luật của các cơ quan tổ chức khác nhau trong đó có tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế và không hạn chế lĩnh vực hay tính chất của văn bản pháp luật, cũng không có hạn chế về thời điểm đưa ra đề nghị nhưng bị ràng buộc chặt chẽ về nội dung đề nghị của các chủ thể có quyền đưa ra sáng kiến pháp luật. Cụ thể:

 “Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; những quan điểm, nội dung chính của văn bản; dự báo tác động kinh tế - xã hội; dự kiến nguồn lực bảo đảm thi hành và điều kiện bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản[18]”.

Tại điều 24 Luật Ban hành VBQPPL quy định: “Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự án pháp lệnh đã được quyết định trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có trách nhiệm tổ chức việc soạn thảo, bảo đảm chất lượng và thời hạn trình dự án”.

 Cơ quan, tổ chức trình dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo, trõ tr­êng hîp ph¸p luËt quy ®Þnh Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo.

 Cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo chịu trách nhiệm bảo đảm các điều kiện hoạt động của Ban soạn thảo; chịu trách nhiệm trước cơ quan trình dự án, dự thảo về nội dung, chất lượng của dự án, dự thảo và tiến độ soạn thảo[19].

Ngoài ra, pháp luật còn quy định: “Cơ quan, tổ chức trình dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có nhiệm vụ, quyền hạn: Chỉ đạo Ban soạn thảo trong quá trình xây dựng dự án, dự thảo; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến dự án, dự thảo; Xem xét, quyết định việc trình dự án luật, dự thảo nghị quyết ra Quốc hội, trình dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp chưa trình được dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết theo chương trình thì phải kịp thời báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội và nêu rõ lý do[20]”.

Với quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đưa ra sáng kiến pháp luật như nêu trên thì khó có thể có tổ chức xã hội nghề nghiệp – hiệp hội kinh tế nào có thể đảm đương được nhiệm vụ (do trình độ khả năng, do thời gian, nguồn nhân lực, điều kiện cơ sở vật chất…) Chưa nói đến việc có được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ủng hộ và tạo điều kiện hay không? Hơn nữa nếu như tổ chức xã hội nghề nghiệp hay hiệp hội kinh tế có đưa ra sáng kiến và trình dự án pháp luật sẽ bị các cơ quan có thẩm quyền nghi ngờ tính khách quan, trung thực của dự án đó. Nếu như họ có mục đích vận động xây dựng chính sách có lợi cho mình thì không bao giờ họ trực diện đối mặt như vậy.

Pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thời hạn trình đề nghị xây dựng pháp luật cũng như chấp nhận hoặc từ chối đề nghị, điều này có thể làm phát sinh không ít khó khăn, lúng túng hoặc tuỳ tiện trong quá trình thực thi.

Thứ hai, giai đoạn soạn thảo văn bản QPPL

Pháp luật quy định các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể trực tiếp hoặc thông qua MTTQ tham gia vào Ban soạn thảo văn bản QPPL với tư cách thành viên là đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, các nhà khoa học được lựa chọn vào ban soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Chẳng hạn, Hội luật gia Việt Nam là tổ chức trình và thành lập ban soạn thảo dự án Luật Trưng cầu dân ý (Nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005), hay trường hợp đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp VN tham gia vào Ban soạn thảo Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Thương mại 2005, Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp 2005… Tuy nhiên, việc các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế tham gia vào Ban soạn thảo không mang tính phổ biến và bắt buộc. Hơn nữa, việc tham gia của một cá nhân với tư cách là đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, các nhà khoa học…ít mang tính đại diện vì việc lựa chọn mang tính chủ quan và không có gì bảo đảm rằng ý kiến của họ thực sự là ý kiến chung của tổ chức xã hội nghề nghiệp hay hiệp hội kinh tế với tư cách là ý chí của nhóm đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của VBQPPL. Để tránh tình trạng này tại khoản 5, Điều 25 Luật Ban hành VBQPPL quy định: “Cơ quan, tổ chức có thành viên trong Ban soạn thảo có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.''

Các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế tham gia vào việc soạn thảo VBQPPL một cách gián tiếp thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc VN, đây có thể nói là cách thức thể hiện được đầy đủ ý chí của đa số. Tuy nhiên, cơ chế bảo đảm cho đại diện của Mặt trận Tổ quốc đưa ra ý kiến trong ban soạn thảo lại chưa được quy định rõ ràng.

Xét trên phương diện lý thuyết, việc tham gia vào việc soạn thảo VBQPPL kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế được xem là quan trọng và thực chất nhất. Tuy nhiên, trên thực tế còn gặp không ít khó khăn và chưa thực sự có hiệu quả, cụ thể:

Thứ nhất, việc có người đại diện tham gia vào Ban soạn thảo hay không phụ thuộc vào quyết định của cơ quan có thẩm quyền thành lập ban soạn thảo.

 Thứ hai, pháp luật chỉ quy định thành viên ban soạn thảo là các đại diện từ các cơ quan, tổ chức hữu quan, các nhà chuyên môn, nhà khoa học, nhưng không xác định rõ được “tổ chức” nào là “hữu quan”, như thế nào là nhà khoa học, nhà chuyên môn…điều này dẫn đến tình trạng tuỳ tiện và hoàn toàn phụ thuộc vào đánh giá chủ quan và thiện chí của cơ quan có thẩm quyền thành lập.

Thứ ba, trong nhiều trường hợp có đại diện của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế tham gia là thành viên ban soạn thảo chỉ là hình thức chiếu lệ, việc soạn thảo VBQPPL thực chất là việc của cơ quan chủ trì soạn thảo và tổ biên tập.

Thứ tư, pháp luật chưa có quy định cụ thể về quy trình Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành lấy ý kiến của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế về các dự thảo mà mình đang tham gia hoặc chủ trì soạn thảo nên cũng không thể bảo đảm các ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện trong quá trình soạn thảo là phản ánh đầy đủ, trung thực ý kiến của đối tượng có liên quan này. Tất nhiên việc đánh giá này là rất khó khăn nhưng chí ít cũng có quy định để đánh giá nó.

Thứ ba, giai đoạn góp ý kiến vào dự thảo VBQPPL.

Với hình thức tham gia này, pháp luật hiện hành có nhiều quy định rõ ràng nhất. Quyền tham gia góp ý của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế nói riêng và nhân dân nói chung được ghi nhận trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại các điều 26, 30, 39, 40, 41, 61, 62, 66, 70, 74 hoặc trong Luật Ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có ở các điều 4, 23, 30, 33, 37, 41, 45. Trong các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản ban hành quy chế soạn thảo ban hành các VBQPPL của một số bộ ngành đều có quy định.

Tại điều 3, Luật Ban hành VBQPPL quy định về việc tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cã quy ®Þnh râ:

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

2. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án, dự thảo, cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến; tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản trong phạm vi và với hình thức thích hợp.

3. Ý kiến tham gia về dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu để tiếp thu chỉnh lý dự án, dự thảo văn bản.''

Tại chỉ thị số 08/2003/CT-TTg có quy định về nghĩa vụ của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch UBND các cấp là: Phải tổ chức lấy ý kiến rộng rãi và nghiêm túc tiếp thu các ý kiến đóng góp hợp lý của các doanh nghiệp, các hiệp hội trong quá trình nghiên cứu, ban hành các quy định có liên quan đến môi trường kinh doanh, đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Hoặc tại Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg có quy định: “Trong quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến môi trường kinh doanh, đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp thì phải lấy ý kiến tham gia của cộng đồng doanh nghiệp”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế nói riêng và nhân dân nói chung được quyền tham gia góp ý vào các dự thảo VBQPPL bằng cả hai phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua MTTQ, được tham gia góp ý dự thảo VBQPPL một cách chủ động hoặc tham gia khi cơ quan soạn thảo xin ý kiến.

Về hình thức góp ý, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể góp ý trực tiếp bằng việc trình bày quan điểm của mình trước cơ quan soạn thảo hoặc gián tiếp thông qua gửi văn bản góp ý đến cơ quan soạn thảo hoặc góp ý thông qua các phương tiện thông tin đại chúng ( điều 40 và điều 63). Tuy nhiên, làm thế nào để mọi hình thức góp ý kiến vào dự thảo VBQPPL đến được với cơ quan hữu quan và đều được tiếp nhận và được xử lý kịp thời thì vần đề này còn có nhiều ý kiến khác nhau. Pháp luật hiện hành cho phép cơ quan xin ý kiến được chủ động về phương thức và phạm vi xin ý kiến. Chẳng hạn, cho phép cơ quan soạn thảo công khai hoá dự thảo VBQPPL trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên Internet để các đối tượng khác nhau trong xã hội tham gia góp ý kiến. Trong một số VBPL hiện hành còn quy định rõ thời hạn lấy ý kiến, những vấn đề cần lấy ý kiến, địa chỉ nhận ý kiến đóng góp[21]

Việc pháp luật quy định khá rõ các hình thức, cách thức lấy ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền, quy định trách nhiệm tiếp thu các ý kiến đóng góp cho dự thảo của các cơ quan hữu quan cũng là một biện pháp tránh hiện tượng xin ý kiến một cách hình thức. Tất nhiên, không phải bất cứ ý kiến đóng góp nào cơ quan hữu quan cũng phải tiếp thu và cũng có thể tiếp thu được. Tuy nhiên, để việc tiếp thu ý kiến của cơ quan có thẩm quyền được thực hiện một cách đầy đủ nghiêm túc thì phải có những quy định đó để bảo đảm rằng, mọi ý kiến đóng góp đều được cân nhắc và việc có hay không tiếp thu ý kiến đóng góp hoặc tiếp thu ở mức độ nhất định nào đó cho đối tượng đóng góp ý kiến được biết. Nếu ý kiến đóng góp không được tiếp thu thì cũng phải giải thích rõ lý do…Pháp luật còn thiếu các quy định về việc phản hồi ý kiến đóng góp của đối tượng tham gia, điều này đã ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế tham gia góp ý kiến cho dự thảo VBQPPL của cơ quan nhà nước.

 Pháp luật hiện không có bất kỳ hạn chế nào về loại văn bản cần góp ý, cũng như thủ tục góp ý. Đối với một số văn bản do HĐND, UBND ban hành, Luật quy định: khi được xin ý kiến các tổ chức hữu quan được lấy ý kiến có trách nhiệm phải trả lời trong một thời hạn cụ thể và bằng hình thức văn bản. Quy định này có thể nói không phù hợp đối với trường hợp đối tượng tham gia góp ý kiến là các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vì việc góp ý kiến là việc làm tự nguyện không thể bắt buộc đối với họ, nếu họ không muốn hoặc không quan tâm đến vấn đề VBQPPL quy định hoặc họ thấy mình chưa có đủ thông tin hoặc hiểu biết của họ về vấn đề đó chưa sâu sắc…

Đối với trường hợp góp ý kiến khi có yêu cầu của cơ quan hữu quan thì pháp luật quy định đối với một số trường hợp bắt buộc cơ quan soạn thảo phải tổ chức lấy ý kiến (xem điều 30). Bên cạnh đó, pháp luật quy định: căn cứ vào tính chất và nội dung của VBQPPL thì cơ quan có thẩm quyền quyết định việc xin ý kiến của các cơ quan tổ chức có liên quan. Như vậy sẽ có một số văn bản mà cơ quan hữu quan không tiến hành xin ý kiến, chẳng hạn, do tính chất hoặc nội dung đặc biệt như có liên quan đến bí mật quốc gia, an ninh quốc phòng… không thể công khai để xin ý kiến công chúng nói chung được. Tuy nhiên, pháp luật chỉ quy định chung như vậy đã khiến cho nhiều cơ quan lẩn tránh việc lấy ý kiến bằng lập luận chủ quan của mình.

Pháp luật hiện hành còn thiếu các quy định cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan đến dự thảo từ phía các cơ quan soạn thảo VBQPPL cho các đối tượng được quyền tham gia đóng góp ý kiến. Điều này không chỉ gây khó khăn cho việc góp ý kiến của đối tượng tham gia mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của các ý kiến đóng góp.

Các kênh trung gian để doanh nghiệp, doanh nhân tham gia đóng góp ý kiến tập trung chọn lọc và hậu quả là các hiệp hội, đoàn thể, các diễn đàn chưa thực sự được quan tâm và tận dụng có hiệu quả…

Có thể nói, giai đoạn này là giai đoạn các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế tham gia vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật kinh tế mang tính chủ yếu, phổ biến nhất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công việc này chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, trong đó, có một phần nguyên nhân cơ bản từ chính các quy định của pháp luật như đã nêu ở trên.

Thứ tư, giai đoạn góp ý kiến trong qua trình thực thi văn bản quy phạm pháp luật.

Tại khoản 3 điều 12a Luật Ban hành VBQPPL quy định: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, cơ quan, tổ chức khác và công dân có quyền giám sát văn bản quy phạm pháp luật và kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật sai trái."

Pháp luật còn quy định: “Cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật”[22].

“Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét những kiến nghị của tổ chức và cá nhân về việc đình chỉ hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật được phản ánh thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp”[23].

2.2. Thực tiễn tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam

cần nhận thức đầy đủ là vai trò của các hội hay hiệp hội kinh tế đối với việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế xuất phát từ nhu cầu của chính bản thân họ và yêu cầu của hiệu quả điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ kinh tế. Các hội, hiệp hội gây ảnh hưởng hoặc thuyết phục các quan chức hành chính và các nhà lập pháp về tầm quan trọng và tính hợp lý về các chính sách có lợi cho hội/hiệp hội. Cách thức gây ảnh hưởng của hội/hiệp hội chủ yếu bằng cách cung cấp thông tin và định hướng dư luận; gia nhập các diễn đàn để từng bước góp phần chuyển hóa các chính sách dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật. Các nước trên thế giới gọi quá trình này là quá trình “vận động hành lang”. Xuất phát từ khả năng gây ảnh hưởng của hội, hiệp hội kinh tế đến việc xây dựng pháp luật là ngày càng cao, sự hiện diện của các hội, hiệp hội kinh tế ngày càng gia tăng, nên nhiều nước trên thế giới đã ban hành đạo luật điều chỉnh về việc “vận động hành lang” này (Ví dụ: Mỹ và các nước châu Âu). Còn ở Việt Nam, sự chủ động tham gia vào việc xây dựng chính sách và pháp luật nói chung và chính sách và pháp luật kinh tế nói riêng còn hạn chế, mặc dù các hội, hiệp hội kinh tế ở Việt Nam ngày càng phát triển và Nhà nước đã trao cho họ quyền tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hội theo qui định của pháp luật; Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hội hoạt động (khoản 7 Điều 22 Nghị định số 88/2003/NĐ-CP). Vấn đề đặt ra là các hội/hiệp hội kinh tế thực hiện quyền này như thế nào, sự chủ động của các hội/hiệp hội kinh tế đến đâu và tác động thực tế của họ đối với chính sách, pháp luật kinh tế cần được khảo sát , đánh giá để rút ra nguyên nhân và tìm giải pháp thích hợp nhằm phát huy vai trò của các tổ chức này. Thông qua nghiên cứu thực tế ở Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hiệp hội Công thương Hà Nội, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, chúng tôi đã làm rõ các vấn đề sau:

2.2.1. Chủ động đề xuất chính sách pháp luật , sửa đổi bổ sung pháp luật

Mặc dù chưa phải là hoạt động mang tính thường xuyên nhưng việc các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế chủ động đề xuất chính sách pháp luật, đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật bước đầu đã có tác dụng thiết thực trong việc nâng cao chất lượng và hoàn thiện pháp luật kinh tế.

 Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam chủ động đề xuất chính sách thông qua các cuộc tiếp xúc, diễn đàn. Một số hoạt động phản ánh sự chủ động này như đại diện lãnh đạo của các ngân hàng hội viên, Hiệp hội ngân hàng tham dự các cuộc họp của Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh với các ngân hàng trên địa bàn để phản ánh, kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc của các ngân hàng tại Thành phố; đại diện của Hiệp hội ngân hàng tham dự và báo cáo với Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp các doanh nghiệp về những khó khăn và giải pháp tháo gỡ khó khăn trong hoạt động ngân hàng…

Để chủ động đề xuất sáng kiến về chính sách, pháp luật kinh tế, một số hiệp hội đã tiến hành các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học; Ví dụ: Hiệp hội Công thương Thành phố Hà Nội đã tiến hành các cuộc khảo sát về chi phí đầu vào của doanh nghiệp, trên cơ sở đó kiến nghị với Chính phủ về chính sách giá bán điện cho sản xuất của các doanh nghiệp; Tiến hành cuộc khảo sát về lợi ích của doanh nghiệp và thấy được sự tác động của các chi phí như: thuế, chi phí nguyên vật liệu đầu vào, lãi suất ngân hàng... đã làm ảnh hưởng và làm giảm nhiều lợi ích của doanh nghiệp.Từ đó, Hiệp hội đã có những kiến nghị về thực trạng với Chính phủ, phối hợp cùng các cơ quan chức năng tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho vấn đề này, chẳng hạn như: Cần có giải pháp phân chia lại lợi ích 3 bên: Cơ quan thuế, Ngân hàng và Doanh nghiệp; Lãi suất ngân hàng cần điều chỉnh giảm; Đã khuyến nghị và phối hợp cùng Bộ Tài chính giảm thuế môn bài...

Từ thực tế đề xuất sáng kiến chính sách, pháp luật kinh tế của các hiệp hội có thể thấy rằng, việc phát hiện và đề xuất với Nhà nước các giải pháp thiết thực nhằm gỡ bỏ những vướng mắc về chính sách, pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội và hiệp hội kinh tế là hết sức cần thiết và thông thường đó là những vấn đề gắn với lợi ích của họ.

2.2.2. Trực tiếp soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

Do cơ chế xây dựng pháp luật ở nước ta nên tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ít khi đóng vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Hội Luật gia Việt Nam là một trong số ít tổ chức xã hội nghề nghiệp được giao nhiệm vụ chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ do Quốc hội, Chính phủ giao, Hội Luật gia Việt Nam đã xây dựng trình dự thảo và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua “ Pháp lệnh Trọng tài thương mại”. Đây là một trong những pháp lệnh được các chuyên gia, các nhà quản lý đánh giá cao.

Theo nhiệm vụ được Quốc hội giao, từ năm 2005, Hội Luật gia Việt Nam triển khai xây dựng Dự luật Trưng cầu dân ý. Đây là một biểu hiện rõ rệt sự tin cậy của Nhà nước trong việc giao cho tổ chức xã hội nghề nghiệp thực hiện công việc thuộc chức năng của nhà nước. Quá trình xây dựng Dự luật này cho thấy, với vị trí, vai trò của mình, Hội Luật gia Việt Nam có khả năng thu hút được các nhà khoa học, hội viên và nhiều tầng lớp xã hội tham gia xây dựng Đạo luật quy định về quyền của nhân dân trong việc thể hiện ý chí đối với các vấn đề quan trọng của đất nước.

2.2.3.Tham gia ban soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật

Việc tham gia ban soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật là cơ hội tạo điều kiện để tổ chức xã hội nghề nghiệp phản ánh nguyện vọng và nhu cầu của xã hội mà họ nắm bắt được.

Có thể nói, phần lớn các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh doanh đều có sự tham gia của VCCI. Một số Luật quan trọng có đại diện của VCCI trong Ban soạn thảo như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại (sửa đổi), Luật Doanh nghiệp (thống nhất), Luật giao dịch điện tử v.v. ..

Đặc biệt đối với các Luật chuyên ngành, việc tham gia của các hiệp hội chuyên ngành có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng pháp luật.

Hiệp hội ngân hàng Việt Nam với tư cách là thành viên Ban soạn thảo 2 dự án Luật ngân hàng (Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 1997) cũng như 2 dự án Luật sửa đổi, bổ sung 2 Luật ngân hàng (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2004) đã tổ chức thu thập ý kiến của hội viên và giành nhiều thời gian tham gia các phiên họp của Ban soạn thảo, đóng góp tích cực vào nội dung của dự án. Để có thể đóng góp được nhiều ý kiến có giá trị thực tiễn, Hiệp hội ngân hàng đã tổ chức các buổi hội thảo nhằm trưng cầu các ý kiến tham luận từ phía các hội viên, các chuyên gia, các nhà khoa học am hiểu các vấn đề về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

Hiệp hội ngân hàng đã tham gia Ban soạn thảo 2 dự án quan trọng của ngành là dự án Luật các công cụ chuyển nhượng và dự án Pháp lệnh Ngoại hối trình Quốc hội thông qua trong năm 2005.

- Một số cán bộ của cơ quan thường trực Hiệp hội ngân hàng là những chuyên gia am hiểu sâu sắc lĩnh vực ngân hàng được mời làm thành viên của nhóm chuyên viên tư vấn của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội tham gia soạn thảo và thẩm định các dự án luật. Thông qua đó, ý kiến của các hội viên đã được phản ánh trực tiếp, kịp thời với Quốc hội.

Hiệp hội ngân hàng dành nhiều thời gian nghiên cứu, tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật trong ngân hàng. Hiệp hội ngân hàng đã xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các Vụ, Cục chức năng của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và các Bộ ngành khác để chủ động tham gia ngay từ đầu các dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật trong ngành ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước đã tạo điều kiện cho Hiệp hội ngân hàng được tham dự các phiên họp của Ban lãnh đạo để nắm bắt được chủ trương, chính sách chỉ đạo của Thống đốc và có cơ hội tham gia ý kiến vào các dự thảo văn bản dưới luật trước khi Thống đốc ký ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền.

2.2.4. Tổ chức lấy ý kiến góp ý văn bản quy phạm pháp luật

Luật Doanh nghiệp là một điển hình thành công của việc huy động sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo.

Luật Doanh nghiệp đánh dấu sự thay đổi lớn trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật. Thành công của Luật doanh nghiệp chính là sự kết hợp hài hòa của 2 công đoạn tổ chức lấy ý kiến doanh nghiệp và tiếp thu ý kiến của doanh nghiệp. VCCI đã tham gia tích cực trong quá trình soạn thảo đạo luật này. Ngoài việc có đại diện trong ban soạn thảo, VCCI đã tổ chức rất nhiều hội thảo, diễn đàn trên phạm vi toàn quốc để cộng đồng doanh nghiệp tham gia góp ý.

Sở dĩ Luật doanh nghiệp nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy được hiệu quả vì Luật đã phản ảnh được hơi thở của thực tiễn cuộc sống. Về cơ bản các quy định đều phù hợp với môi trường kinh doanh Việt Nam và đi vào đời sống kinh doanh. Với các quy định thông thoáng, đơn giản, điều kiện thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kinh doanh đơn giản, gọn nhẹ, đã góp phần làm gia tăng nhanh chóng lực lượng doanh nghiệp. Rõ ràng, thủ tục thông thoáng là nhân tố quan trọng kích thích nhân dân bỏ tiền của để đầu tư kinh doanh. Thành công đó do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến việc trong quá trình soạn thảo Dự án luật đã được đưa ra cho cộng đồng doanh nghiệp góp ý một cách rộng rãi với tinh thần cầu thị của ban soạn thảo. Vì vậy, qua mỗi đợt tổ chức lấy ý kiến, ban soạn thảo đã tập hợp được nhiều kiến nghị của giới kinh doanh, tiếp thu ý kiến nghiêm túc để đưa vào dự thảo. Các ý kiến đóng góp đều được ban soạn thảo xem xét, phân tích kỹ lưỡng và có sự chắt lọc để đưa vào dự thảo. Rõ ràng, để có một dự thảo tốt phải có sự kết hợp tốt cả hai khâu tổ chức lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến công chúng. Nếu chỉ quá đề cao khâu tổ chức lấy ý kiến nhưng khâu tiếp thu lại không được quan tâm đúng mực thì không thể có một dự thảo luật tốt, chỉ là hình thức mà thôi.

- Thông qua phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình là những phương tiện thu hút số lượng công chúng đông, VCCI sử dụng trên cả hai phương diện trực tiếp và gián tiếp. Ngoài việc các đối tượng chính là lực lượng doanh nghiệp, trong các diễn đàn đều có đại diện của cơ quan thông tấn báo chí. Đây là công cụ phản ánh dư luận khá hiệu quả. Rất nhiều vấn đề đã được trao đổi, thảo luận công khai trên các phương tiện này, giúp các ban soạn thảo có cái nhìn toàn diện và sâu sát hơn trong quá trình xây dựng văn bản.

- Ngoài ra, để tạo ra diễn đàn xây dựng pháp luật và môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch và thuận lợi, VCCI đã ứng dụng công nghệ hiện đại trong việc thu hút ý kiến của công chúng bằng việc mở trang webwww.vibonline.com.vn. Đây được coi là một trong những trang điện tử đầu tiên của Việt Nam đăng tải các dự thảo luật và văn bản dưới luật, đồng thời là diễn đàn để đăng tải các tranh luận của các nhà khoa học, nhà lý luận và thực tiễn về các dự thảo luật. Mô hình này không mới trên thế giới nhưng tại Việt Nam được coi như sự đột phá trong hoạt động góp ý xây dựng pháp luật, công khai trước công chúng về chương trình xây dựng pháp luật.

Hoạt động này bắt đầu được phát triển mạnh vào năm 2003 và đến năm 2004 trở thành một công cụ lấy ý kiến rộng rãi nhất, tiết kiệm chi phí nhất. Các dự thảo luật được đưa lên trang web của VCCI để phổ biến rộng rãi tới nhiều doanh nghiệp và để các doanh nghiệp nêu ý kiến của mình. Theo thống kê sơ bộ, chỉ tính trong năm 2004, số lượt truy cập vào trang web đã lên đến hơn 700.000 lượt.

VCCI cũng là cơ quan đầu tiên có sáng kiến đưa dự thảo luật lên mạng internet. Luật Cạnh tranh là văn bản đầu tiên được VCCI phối hợp với Báo Vnexpress đăng trên Báo điện tử của Vnexpress. Thông qua công cụ này, Ban soạn thảo đã tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp có giá trị của các chuyên gia, luật gia trong và ngoài nước. Mở đường cho sáng kiến này, tiếp sau đó, hàng chục dự thảo luật đã được đăng trên các Báo điện tử để lấy ý kiến công chúng.

Để triển khai các hoạt động trên, VCCI có sự cộng tác và phối hợp của một số Ban soạn thảo, các Bộ, ngành có liên quan, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia pháp lý, chuyên ngành có kiến thức và kinh nghiệm, đảm bảo kết hợp cả lý luận và thực tiễn.

Thực tế tham gia góp ý kiến các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cho thấy, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có tinh thần trách nhiệm cao và mang lại hiệu quả thiết thực. Chẳng hạn, Hiệp hội Công thương Thành phố Hà Nội được yêu cầu đóng góp bao gồm các dự án Luật và Nghị định như: Luật Thương mại, Luật Đất đai, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Các tổ chức tín dụng…, các luật thuế như: Thuế VAT, Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Thuế Tiêu thụ đặc biệt, Thuế Xuất khẩu, nhập khẩu, Luật Hải quan, các Nghị định 90, 88, 57…, các Pháp lệnh về thanh tra, về giá.v.v. không chỉ là góp ý qua loa, mà là thảo luận phát hiện bổ sung nhiều ý, nhiều lần. Nhưng không có dự luật nào, Hiệp hội Công thương Thành phố Hà Nội lại tham gia đóng góp nhiều lần, nhiều ý kiến vào dự thảo Luật doanh nghiệp, trong 13 lần dự thảo, Hiệp hội tham kiến tới 10 lần, không kể các lần do Ủy Ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội yêu cầu, và trong những vấn đề nêu ra không vấn đề nào là không được lặp lại nhiều lần và phải viện dẫn nhiều chứng lý để xin Quốc hội ghi vào dự luật bằng vấn đề “Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không bị Quốc hữu hoá, hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính” cho đến khi được ghi nhận mới thôi. (khoản 3 điều 4 Luật doanh nghiệp).

2.2.5. Tổ chức hội thảo để xác định chính sách pháp luật , hoàn thiện pháp luật

Tổ chức các cuộc hội thảo là hình thức phổ biến được các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế thu hút ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế. Trong nhiều năm qua, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam còn phối hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan tổ chức nhiều cuộc hội thảo về các chủ đề quan trọng liên quan đến cơ chế chính sách cũng như việc thi hành luật pháp liên quan đến hoạt động ngân hàng như: Diễn đàn về giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong đăng ký giao dịch bảo đảm và tài sản bảo đảm tiền vay, diễn đàn về giải pháp khắc phục vấn đề hình sự hóa và phi hình sự hóa liên quan đến hoạt động ngân hàng; Hội thảo về các chủ đề giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thanh toán điện tử, kiểm soát rủi ro, quản trị ngân hàng…Gần đây, những kiến nghị của các hội viên Hiệp hội ngân hàng về những vướng mắc liên quan đến Luật Đất đai đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường điều chỉnh tại Nghị định mới hướng dẫn Luật Đất đai, Bộ Tư pháp với Thông tư liên tịch về thủ tục đăng ký, thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất…

- Hiệp hội ngân hàng tổ chức thu thập ý kiến nắm bắt kịp thời những khó khăn, vướng mắc những vấn đề bức xúc của các hội viên và đại diện các hội viên phản ánh, đề xuất, kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý ngành đã khẩn trương xem xét điều chỉnh nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền. Những vấn đề thuộc thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước khác, Ngân hàng Nhà nước cũng tích cực đề nghị và phối hợp xử lý. Nhờ đó, nhiều kiến nghị của Hiệp hội ngân hàng đã được giải quyết (như: về truy thu thuế đối với các khoản lãi tiền gửi đã đến hạn phải trích chờ thanh toán; về xóa bỏ thuế thu nhập qua kênh kiều hối; về xóa bỏ việc khống chế mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay; về hạ mức thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước đối với các tổ chức tín dụng; về xóa bỏ thu thuế giá trị gia tăng đối với việc bán tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng…).

-Tổ chức hội thảo: Đây là hình thức truyền thống và phổ biến đã được VCCI thường xuyên thực hiện. VCCI đã phối hợp với các Ban soạn thảo và/hoặc các ủy ban của Quốc hội với sự tham gia của đông đảo hiệp hội, doanh nghiệp, các nhà chuyên gia, tư vấn, luật sư, trong đó có các nhóm lợi ích “đối lập” nhau, bên cạnh đó các phương tiện thông tin đại chúng cũng được mời tham gia để phản ánh các ý kiến, quan điểm của các bên. Cách làm này đã phát huy được hiệu quả tốt trong thời gian qua. Rất nhiều quan điểm, kiến nghị cụ thể của từng nhóm đối tượng doanh nghiệp đã được giải quyết ngay tại hội thảo hoặc được VCCI tập hợp để gửi tới các ban soạn thảo, các ủy ban của Quốc hội. Ngoài ra, tổ chức lấy ý kiến doanh nghiệp thông qua công văn xin ý kiến doanh nghiệp. Đây cũng là công cụ được VCCI thường xuyên sử dụng. Hình thức này thường được sử dụng để thăm dò dư luận về một số vấn đề chính để giúp ban soạn thảo đưa ra các quy định phù hợp trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật.

Hội thảo cũng là hình thức được Hội Luật gia Việt Nam thực hiện thường xuyên để thu hút ý kiến của đông đảo hội viên, các nhà khoa học, nhà quản lý trong việc xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế.

Những vấn đề cần giải quyết từ thực tế tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế:

Việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế là nhu cầu của chính các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế, vì việc tham gia này gắn với việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Đồng thời, việc tham gia này là bảo đảm cần thiết để pháp luật kinh tế gắn với đời sống kinh tế theo chu trình “sinh ra từ đời sống kinh tế để trở lại điều chỉnh đời sống kinh tế”. Tuy nhiên, theo cách làm việc hiện nay, sự trao đổi giữa Nhà nước và Hiệp hội vẫn mang tính một chiều: chỉ khi Chính phủ và các cơ quan Nhà nước hỏi tới một vấn đề liên quan đến Hiệp hội thì hiệp hội mới có cơ hội trình bày các vấn đề của doanh nghiệp; còn chiều ngược lại chưa hiệu quả, nghĩa là nếu có vấn đề phát sinh từ phía doanh nghiệp và Hiệp hội muốn tìm kiếm sự chia sẻ của các cơ quan Nhà nước là rất khó khăn. Mặt khác, qua khảo sát tại Hiệp hội Công thương Thành phố Hà Nội, cho thấy, có một số Hiệp hội chuyên ngành đã hành xử theo kiểu đặt lợi ích cục bộ của mình lên trên lợi ích chung của cộng đồng người tiêu dùng và người dân, làm ảnh hưởng đến uy tín của Hội, làm giảm trọng lượng tiếng nói của Hội trong các diễn đàn.

Cơ chế phối hợp giữa các Hội, hiệp hội kinh tế với các cơ quan chức năng, các đơn vị liên quan hiệu quả chưa cao. Ví dụ, ở Hiệp hội Ngân hang Việt Nam, cơ chế phối hợp giữa Hiệp hội ngân hàng với tư cách là một tổ chức nghề nghiệp và Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng chính sách, pháp luật chưa được đảm bảo một cách chặt chẽ. Quy chế ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Ngân hàng Nhà nước ban hành theo Quyết định số 180/2005/QĐ-NHNN ngày 21/02/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã quy định: Dự thảo văn bản sau khi được hoàn chỉnh tại đơn vị đầu mối, chủ trì soạn thảo phải được gửi Vụ Pháp chế và các đơn vị liên quan để lấy ý kiến tham gia…Trường hợp tổ chức lấy ý kiến của Hiệp hội ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các Bộ, ngành, tổ chức chính trị- xã hội, đơn vị chủ trì phải bảo đảm cho các tổ chức này có thời gian nghiên cứu, góp ý tối đa là 10 ngày làm việc kể từ ngày gửi hồ sơ xin ý kiến…Sau khi nhận được các ý kiến tham gia, đơn vị chủ trì có trách nhiệm tổng hợp nghiên cứu các ý kiến để tu chỉnh dự thảo. Tuỳ theo tính chất, nội dung dự thảo đơn vị chủ trì có thể tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan các lần tiếp theo để hoàn thiện dự thảo.

Đây là một khâu rất quan trọng của quá trình soạn thảo văn bản, vì nếu không thực hiện tốt công việc này, thì việc tổ chức lấy ý kiến đối với dự thảo văn bản trở nên vô nghĩa. Nhiều đơn vị đã thực hiện khá tốt khâu này, thể hiện việc tổng hợp rất đầy đủ ý kiến của các đơn vị tham gia, nghiên cứu tiếp thu hoặc giải trình một cách thuyết phục những vấn đề xin bảo lưu và đề nghị các đơn vị tham gia ý kiến một vài lần nữa. Đối với những văn bản thực hiện nghiêm túc việc tổng hợp, tiếp thu ý kiến thì chất lượng văn bản bao giờ cũng tốt hơn và tính khả thi cao hơn. Tuy nhiên, vẫn có những đơn vị không coi trọng công tác này, việc lấy ý kiến mang tính hình thức, đối phó, các văn bản góp ý chỉ được tập hợp cho đủ bộ hồ sơ, còn các ý kiến tham gia không được đơn vị chủ trì quan tâm nghiên cứu một cách thấu đáo để hoàn chỉnh dự thảo. Điều đó lý giải cho tình trạng “chết yểu” của nhiều văn bản (hoặc một số điều, khoản của văn bản) ngay khi mới được ban hành hoặc phải gấp rút sửa đổi, bổ sung ngay sau đó.

Như vậy có thể thấy rằng, mặc dù khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tham gia xây dựng chính sách, pháp luật Ngân hàng của các đơn vị, tổ chức nói chung và Hiệp hội Ngân hàng nói riêng và trách nhiệm tiếp thu ý kiến của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước đã có, nhưng những quy định pháp luật này không phải khi nào cũng được nhận thức và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ trên thực tế.

Để phát huy vai trò của các các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế cần thiết phải đổi mới cơ chế cả từ hai phía: Nhà nước (chủ thể trao quyền ) và tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế (chủ thể được trao quyền). Riêng đối với các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế cần thiết phải có phương pháp định hướng dư luận (vì không phải số đông bao giờ cúng đúng) thông qua báo chí, các phương tiện truyền thông, sinh hoạt khoa học, công trình nghiên cứu.v.v. kết hợp với hình thức trực tiếp tư vấn cho các nhóm lợi ích để họ có khả năng phản ánh ý chí, nguyện vọng một cách năng động , tránh hiện tượng không hiểu vấn đề nên phản ứng thiếu căn cứ.

Về phía Nhà nước, ngoài việc hoàn thiện cơ chế lấy ý kiến góp ý, mở rộng quyền của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc tham gia các công việc của nhà nước, cần minh bạch hoá quan hệ nhận góp ý và phản hồi về những vấn đề được góp ý, từng bước loại bỏ tình trạng “ bên góp ý cứ góp ý còn bên không nghe cứ không nghe mà chẳng ai biết vì sao”.

2.3. So sánh thực tiễn nước ngoài với thực tiễn Việt Nam và những vấn đề cần giải quyết.

2.3.1.Sự tham gia của các hiệp hội ở Pháp vào việc xây dựng chính sách, pháp luật.

Trên thực tế, các hiệp hội ở Pháp hết sức đa dạng, có mặt ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Vai trò của các hiệp hội trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật cũng chỉ tập trung vào một số hiệp hội lớn. Chẳng hạn: Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng; Phòng Thương mại và Công nghiệp Pháp...

- Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng là một thiết chế được quy định tại Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng của Pháp. Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng của Pháp quy định các hiệp hội này được Chính phủ mời tham gia ý kiến đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích của người tiêu dùng. Pháp là một trong những nước có luật bảo vệ người tiêu dùng rất phát triển. Pháp hầu như không phải nội luật hóa các Chỉ thị của Uỷ ban châu Âu về bảo vệ người tiêu dùng, bởi lẽ luật bảo vệ người tiêu dùng của Pháp thường “đi trước” các chỉ tiêu mà các Chỉ thị của Uỷ ban châu Âu xác định. Để có được thành công này có một phần đóng góp rất tích cực của các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, bởi các hiệp hội này tham gia vào quá trình xây dựng hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng ở Pháp.

Sau đây chúng tôi xin đề cập thêm về vai trò của hai thiết chế bảo vệ người tiêu dùng rất có hiệu quả ở Pháp, đó là Hiệp hội quốc gia về bảo vệ người tiêu dùng và Uỷ ban về các điều khoản lạm dụng người tiêu dùng.

Thứ nhất, về Hiệp hội quốc gia về bảo vệ người tiêu dùng: theo quy định của Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng (Điều D.511-3), thì các cơ quan công quyền có thể tham vấn Hội đồng về các vấn đề định hướng, chính sách liên quan đến người tiêu dùng. Hội đồng được mời tham gia ý kiến vào các dự thảo luật, nghị định có khả năng ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. ý kiến tham vấn của Hội đồng được công bố công khai, ngay cả trong trường hợp ý kiến trong nội bộ Hội đồng khác nhau thì các ý kiến bảo lưu vẫn được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hàng năm, Hội đồng công bố báo cáo thường niên về hoạt động của mình, đặc biệt là về các ý kiến tư vấn của Hội đồng. Các báo cáo này, tuy chỉ có giá trị khuyến nghị, nhưng rất có ý nghĩa đối với các cơ quan công quyền khi hoạch định chính sách, pháp luật có liên quan đến người tiêu dùng.

Thứ hai, về Uỷ ban quốc gia về các điều khoản lạm dụng người tiêu dùng: đây là một thiết chế rất đặc biệt trong pháp luật Pháp. Lý do của việc thành lập Uỷ ban này xuất phát từ thực tiễn trong các hợp đồng ký kết giữa người tiêu dùng và giới doanh nhân, nhất là các hợp đồng mẫu (như các hợp đồng sử dụng điện, nước, bưu chính, viễn thông…) thường tồn tại các điều khoản lạm dụng người tiêu dùng. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp soạn thảo sẵn các hợp đồng và người tiêu dùng chỉ có quyền lựa chọn là ký hay không ký hợp đồng mà thôi. Các hợp đồng thuộc loại này rất hay chứa những điều khoản mang tính lạm dụng quyền lợi của người tiêu dùng (ví dụ như quy định về miễn trách nhiệm của bên cung ứng dịch vụ nếu xảy ra rủi ro). Bắt nguồn từ mối quan tâm bảo vệ người tiêu dùng trong các hợp đồng mẫu, nên ngay từ cuối những thập niên 70 của thế kỷ trước, Pháp đã thành lập Uỷ ban quốc gia về các điều khoản lạm dụng người tiêu dùng. Theo quy định của Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng, thì thành phần của Uỷ ban này là những giáo sư đại học, những nhà chuyên môn và đại diện người tiêu dùng. Uỷ ban này được mời tham vấn xây dựng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là trong các hợp đồng mẫu, hợp đồng khung. Cũng giống như Hiệp hội quốc gia về bảo vệ người tiêu dùng, hàng năm, Uỷ ban quốc gia về các điều khoản lạm dụng người tiêu dùng công bố báo cáo thường niên, trong đó thường nêu ra những vụ điển hình có tính chất như những án lệ và có giá trị khuyến nghị rất cao không những đối với các cơ quan công quyền mà ngay cả với chính bản thân mỗi người tiêu dùng khi tham gia vào các giao dịch dân sự-thương mại.

Phòng thương mại và công nghiệp Pháp: Thiết chế này được thành lập theo Luật ngày 9/4/1898, được đặt bên cạnh các cơ quan công quyền về lĩnh vực thương mại và công nghiệp từ trung ương đến địa phương (Bộ thương mại và công nghiệp ->Sở thương mại và công nghiệp).

Theo quy định của Bộ luật thương mại Pháp, thì Phòng thương mại và công nghiệp có thẩm quyền tham vấn cho Chính phủ về các vấn đề liên quan đến thương mại và công nghiệp (Điều L.771-2 Bộ luật thương mại). Điều L.711-3 Bộ luật thương mại còn quy định riêng trong các trường hợp sau thì Chính phủ bắt buộc phải hỏi ý kiến Phòng thương mại và công nghiệp:

+ Dự kiến ban hành các văn bản quy phạm liên quan đến các tập quán thương mại;

+ Dự kiến thành lập trong phạm vi địa hạt, các phòng thương mại và công nghiệp mới, trọng tài hàng hải, tòa án thương mại, tòa lao động, trung tâm bán đấu giá tài sản;

+ Dự kiến đặt ra các loại thuế do các cơ quan công quyền đánh vào các dịch vụ vận tải;

+ Dự kiến điều tiết các lĩnh vực do luật hoặc nghị định quy định, nhất là lợi ích của các công trình công cộng thực hiện trong phạm vi quản hạt của địa phương và các khoản thuế đánh vào các công trình này;

+ Dự kiến điều tiết về giá nhân công trong các nhà tù của Pháp.

Theo Điều L.711.4 Bộ luật thương mại Pháp, thì Phòng thương mại và công nghiệp còn được quyền tự mình đưa ra các ý kiến liên quan đến các vấn đề sau:

- Các sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực pháp luật thương mại, thuế quan và kinh tế;

- Về bảng giá hải quan;

- Bảng giá và quy trình điều tiết các dịch vụ giao thông theo ủy quyền của các cơ quan công quyền trong phạm vi địa hạt;

-Về bảng giá và quy định liên quan đến các cơ sở tập quán thương mại trong phạm vi quản hạt của địa phương do các cơ quan hành chính cho phép áp dụng.

Như vậy có thể thấy vai trò của các phòng thương mại và công nghiệp rất quan trọng trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật ở Pháp.

 So sánh với mô hình các hiệp hội tham gia vào việc xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam:

Thứ nhất, các hiệp hội ở Pháp có lịch sử tồn tại lâu đời hơn so với Việt Nam. Luật lập hội của Pháp được ban hành từ năm 1901, còn ở Việt Nam, do những nguyên nhân khác nhau mà đến nay Luật về hội mới đang trong quá trình soạn thảo. Văn bản pháp lý có giá trị cao nhất điều chỉnh về hội hiện nay là Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003. Trên thực tế, các hiệp hội, hội ở Việt Nam chủ yếu phát triển mạnh trong thời gian kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986) đến nay;

Thứ hai, vai trò của các hội, hiệp hội, đặc biệt là các hiệp hội kinh tế trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam chưa được đề cao như ở Pháp. Nếu như ở Pháp, cơ chế tham vấn bắt buộc của Chính phủ đối với một số Hiệp hội (Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, Phòng thương mại và công nghiệp…) đã được quy định từ lâu, thì ở Việt Nam mới đây tại Nghị định 161/2005/NĐ-CP mới có quy định bắt buộc các cơ quan công quyền phải tham vấn các hiệp hội khi xây dựng chính sách, pháp luật. Trong thời gian gần đây, khi xây dựng các đạo luật quan trọng, đặc biệt là các đạo luật trong lĩnh vực kinh tế (Luật Cạnh tranh, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản…), việc lấy ý kiến nhân dân nói chung, trong đó có các hiệp hội, hội đã được làm khá phổ biến, song có thể nói rằng nhận thức của các cơ quan công quyền về vai trò của các hội, hiệp hội vẫn còn nhiều hạn chế. Trong không ít trường hợp, việc tham vấn các hiệp hội được thực hiện còn mang tính hình thức, thậm chí còn bị bỏ qua;

Thứ ba, bản thân các hiệp hội, hội ở Việt Nam cũng chưa thực sự chủ động trong hoạt động để phát huy vai trò của mình. Nếu như các hiệp hội ở Pháp đều hoạt động theo phương thức tự quản, tự trang trải, thì có thể nói rằng hầu hết các hiệp hội ở Việt Nam hoạt động vẫn nặng về tính “hành chính” và xin Nhà nước hỗ trợ ngân sách.

2.3.2. Sự tham gia của các hiệp hội vào quá trình ra quyết định tại EU:

Quá trình ra quyết định tại EU trước tiên được hợp pháp hoá bởi các đại diện của công dân châu Âu, đáng kể nhất là tại Nghị viện EU. Tuy nhiên, các cơ quan của châu Âu luôn luôn hoan nghênh việc các hiệp hội tham gia đóng góp ý kiến trong việc hoạch định chính sách, pháp luật. Uỷ ban châu Âu, Hội đồng và Nghị viện châu Âu luôn công khai thừa nhận nhu cầu phải mở cửa tiến trình hoạch định chính sách của EU để thu hút sự tham gia của các hiệp hội tại tất cả các giai đoạn từ xác định vấn đề tới đánh giá và rà soát lại các chính sách.

Có thể mô tả quá trình tham vấn các hiệp hội tại EU như sau:

Thứ nhất là việc thông báo và lôi cuốn sự tham gia của các hiệp hội vào quá trình ra quyết định của các cơ quan của châu Âu. Lâu nay ở Châu Âu xuất hiện khái niệm “thâm hụt dân chủ”[24], thực tế là người dân cảm thấy họ không có tiếng nói trong các công việc chung của châu Âu. Sự tham gia của các hiệp hội trong việc hình thành chính sách đã trở thành một cách để tăng cường cơ hội cho tranh luận công khai các vấn đề châu Âu, cải thiện tính minh bạch và cởi mở trong việc xây dựng chính sách của EU.

Cũng cần phải nói thêm rằng việc tham vấn các hiệp hội châu Âu không nhằm mục đích vô hiệu hoá việc biểu tình phản đối mà nhằm lắng nghe các hiệp hội thông qua các kênh tham vấn có tổ chức và được chấp nhận.

Đồng thời, việc tham gia nhiều hơn của các hiệp hội vào việc xây dựng chính sách không có nghĩa là làm cho quá trình ra các quyết định về chính trị trở nên dân chủ hơn, bởi vì tính dân chủ trong các cơ quan của châu Âu không bắt nguồn từ các tổ chức, các hiệp hội mà bắt nguồn từ Nghị viện.

Thứ hai, việc tham gia của các hiệp hội vào quá trình xây dựng chính sách cũng là một cách để đảm bảo chất lượng của các quyết định liên quan tới chính sách. Trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau ngày nay, kiến thức và chuyên môn trong ngày càng nhiều các vấn đề phức tạp và thay đổi nhanh không thể chỉ dựa vào chính phủ và các cơ quan công quyền. Các viên chức EU ghi nhận nhu cầu cần phải có của sự đóng góp chuyên môn từ bên ngoài và hoan nghênh sự đóng góp này, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà các cơ quan của EU không có chuyên môn cao.

Việc thúc đẩy sự tham gia của các hiệp hội tại các nước thứ ba trong những năm gần đây đã ngày càng trở nên quan trọng trong chính sách đối ngoại của EU. Nhằm tăng cường các chính sách về nhân quyền và dân chủ hoá, Uỷ ban châu Âu dựa vào nhiều công cụ nhằm cung cấp tài chính trực tiếp cho các tổ chức cơ sở tại các nước đối tác.

Một trong những công cụ gây ảnh hưởng nhất có lẽ là “Sáng kiến của châu Âu về dân chủ và nhân quyền”, một chương trình cung cấp mỗi năm 120 triệu Euro cho tất cả các tổ chức xã hội nhân sự liên quan tới nhân quyền trên toàn thế giới. Công cụ này đã hỗ trợ các dự án tiên phong tại châu Á (ví dụ: xây dựng trung tâm hỗ trợ pháp lý cho phụ nữ tại Trung Quốc; hỗ trợ đoàn luật sư tại Nê-pan, xây dựng phòng xét nghiệm ADN tại Philippin để cung cấp các chứng cứ nhằm tránh việc xử oan các tội phạm bị kết án tử hình…) và hy vọng đóng góp khiêm tốn cho sự hình thành ngày càng mạnh xã hội d©n sự tại một số nước.

Tóm lại, việc thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự tại EU vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật ngày càng được coi là một chính sách mang tính chính trị của Ủy ban châu Âu. Có một thực tế đang diễn ra phổ biến hiện nay là các chính phủ thành viên EU đang muốn lợi dụng các tổ chức xã hội dân sự nhằm thực hiện một cách khôn khéo các chính sách đối nội và đối ngoại của mình, đặc biệt là các chính sách đối ngoại. Việc các chính phủ cấp vốn ODA cho các quốc gia nghèo thông qua các tổ chức NGO có thể xem là một ví dụ điển hình cho xu hướng mới này. Và có một điều cũng không thể phủ nhận được là các chính phủ thành viên EU ngày càng quan tâm đến vai trò của các tổ chức xã hội dân sự, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế.

2.3.3.Hiệp hội doanh nghiệp trong công tác lập pháp - kinh nghiệm của Nhật Bản

Ở Nhật, tư tưởng về Nhà nước chủ động phát triển kinh tế (hay Nhà nước lãnh đạo kinh tế) là nội dung đặc trưng trong triết lý phát triển của Nhật Bản. Hệ quả là, mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước (người đặt ra mục tiêu phát triển đất nước) với cộng đồng doanh nghiệp (người trực tiếp thực hiện, triển khai chính sách phát triển kinh tế đất nước) có lịch sử từ trước chiến tranh thế giới lần thứ II. Vì thế, quan niệm “nhà nước đối đầu với doanh nghiệp”, Nhà nước “kiềm chế sức mạnh của doanh nghiệp” (như quan niệm của nhiều nước phương Tây) hầu như không được thừa nhận. Thay vào đó, Nhà nước đóng vai trò là hỗ trợ, thậm chí có thể nói là “công cụ” của cộng đồng doanh nghiệp. Nhà nước đóng vai trò “tích cực” chủ động hơn nhiều so với quan niệm về một nhà nước trong nền kinh tế thị trường với vai trò là “tạo điều kiện, thúc đẩy, hỗ trợ xã hội phát triển” – Nhà nước Nhật Bản, thông qua những “chỉ dẫn hành chính” (administrative guidance) đã quyết định thay nhiều quyết định thị trường, khiến cho cộng đồng doanh nghiệp phải tuân thủ (trong đó, điển hình phải kể đến các quyết định về điều hành thị trường tiền tệ và tín dụng, định hướng xuất nhập khẩu các loại hàng hoá, đặc biệt là công nghệ, định hướng thị trường xuất khẩu chủ lực, cũng như các quyết định về việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng).

Thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II được coi là thời kỳ trong đó, mối quan hệ tay ba (mối quan hệ thép – “iron triangle”) giữa Đảng cầm quyền (Đảng dân chủ Tự do – LDP) – Các cơ quan quản lý Nhà nước (bureaucracy) và các doanh nghiệp lớn được coi là một đặc trưng trong cơ cấu kinh tế, chính trị của Nhật Bản thời hiện đại (từ thời hậu chiến cho mãi tới tận ngày nay). Chính ba trụ cột này đã khiến cho nước Nhật trở thành như ngày nay “một đất nước giàu có và phồn thịnh”. Hay nói cách khác, ba trụ cột Đảng LDP-Nhà nước - Cộng đồng doanh nghiệp đã quyết định con đường đi lên của nước Nhật.

Do bị bó buộc, kiềm chế sức mạnh về các lĩnh vực nhạy cảm về an ninh (Nhật Bản không được tự do phát triển công nghiệp quốc phòng), Nhật Bản tập trung vào phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó, có thể nói tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp nói chung (thông qua các hiệp hội) và các doanh nghiệp lớn nói riêng là cực kỳ quan trọng trong hoạt động hoạch định chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hệ quả là, vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp và các doanh nghiệp lớn là rất quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật ở Nhật Bản.

Cơ sở pháp lý cho sự tham gia của Hiệp hội vào quá trình lập pháp và quy trình lập pháp của Nhật Bản

Điều 16 Hiến pháp Nhật Bản (năm 1947) quy định quyền của mọi người dân Nhật Bản về việc đề nghị chính sách như sau: “Mọi người đều có quyền kiến nghị hoà bình về các vấn đề như: ban hành, bãi bỏ các luật, pháp lệnh, văn bản quy phạm pháp luật khác”.

Đây chính là cơ sở hiến định để các tổ chức, cá nhân có quyền tham gia ý kiến vào quá trình xây dựng pháp luật ở Nhật Bản.

Điều 41 Hiến pháp Nhật Bản quy định “Quốc hội (Diet) là cơ quan cao nhất của quyền lực Nhà nước và là cơ quan duy nhất có quyền ban hành luật”.

Quy trình lập pháp của Nhật từ giai đoạn soạn thảo dự luật của Chính phủ đến khi được chấp thuận và thông qua cụ thể như sau[25]:

Bước 1. Dự thảo một dự luật:

- Dự luật do Chính phủ đệ trình Quốc hội được soạn thảo bởi Bộ có thẩm quyền.

- Bộ có thẩm quyền soạn thảo dự luật đầu tiên khi Bộ quyết định cần ban hành một luật mới, sửa đổi, hủy bỏ luật đang hiện hành để đạt được mục tiêu chính sách đề ra trong thẩm quyền hành chính của Bộ.

- Trên cơ sở dự thảo đầu tiên này, hoạt động tư vấn lấy ý kiến của các Bộ khác có liên quan và các đảng phái chính trị trong chính phủ sẽ diễn ra. Thêm vào đó, khi cần thiết, có thể thành lập các hội đồng tư vấn hoặc mở các phiên điều trần về dự luật. Một khi các hoạt động trên đã hoàn tất và Bộ phụ trách thấy dự luật đã hợp lý thì Bộ sẽ xây dựng dự thảo luật theo một hình thức thích hợp để hoàn thành dự thảo cuối của dự luật.

Bước 2. Hội đồng lập pháp của Chính phủ xem xét, đánh giá

- Tất cả các dự luật do Chính phủ trình Quốc hội đều phải được Hội đồng lập pháp của Chính phủ xem xét, đánh giá trước khi đệ trình lên cuộc họp Chính phủ (họp Nội các). Về nguyên tắc, việc xem xét các dự luật của Ủy ban lập pháp chỉ được tiến hành theo yêu cầu gửi cho Thủ tướng Chính phủ về việc triệu tập cuộc họp Chính phủ có liên quan đến dự luật do Bộ chủ trì gửi. Tuy nhiên, gần đây, Ủy ban lập pháp đã phát triển một cách làm mới đó là tiến hành “xem xét sơ bộ” dự luật khi việc tư vấn cần thiết đã hoàn tất. Vì thế, chỉ khi sự xem xét sơ bộ của Ủy ban lập pháp đã kết thúc thì Bộ chuyên ngành mới đề nghị mở cuộc họp Chính phủ để bàn thảo về dự luật.

- Trong quá trình xem xét bởi Ủy ban lập pháp, dự luật sẽ được xem xét, đánh giá từ tất cả các giác độ cả về pháp lý và kỹ thuật. Các điểm cần xem xét gồm:

+ Mối quan hệ giữa dự luật với Hiến pháp và các Luật hiện hành và sự phù hợp về mặt pháp lý đối với nội dung của dự luật.

+ Ý đồ của dự luật đã được thể hiện chính xác trong lời văn của dự luật chưa?

+ Kết cấu của dự luật đã hợp lý chưa?

+ Việc sử dụng ngôn từ, thuật ngữ pháp lý đã phù hợp chưa?

+ Khi việc kiểm tra sơ bộ của Ủy ban lập pháp đã xong, Bộ trưởng phụ trách dự luật sẽ đề nghị Thủ tướng cho triệu tập cuộc họp Chính phủ thảo luận về việc đệ trình dự luật trước Quốc hội. Khi đó, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ gửi bản yêu cầu họp kèm theo dự luật tới Ủy ban lập pháp để Ủy ban lập pháp xem xét và cho ý kiến cuối cùng có tính tới kết quả xem xét sơ bộ và đưa thêm các điểm sửa đổi, bổ sung nếu thấy cần thiết. Ủy ban này sẽ gửi ý kiến của mình trở lại cho Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ.

Bước 3. Chính phủ ra quyết định đệ trình dự thảo lên Quốc hội.

Sau khi nghe ý kiến của Chủ nhiệm Ủy ban lập pháp của Chính phủ thuyết trình đánh giá về dự luật, các thành viên Chính phủ sẽ trình bày ý kiến và biểu quyết việc có nên trình Quốc hội hay không.

Bước 4. Xem xét thông qua bởi Quốc hội

Khi dự luật được trình lên Quốc hội (Thượng viện hoặc Hạ viên), chủ tịch Quốc hội (chủ tịch Thượng viện hoặc chủ tịch Hạ viện) sẽ gửi dự thảo cho một Ủy ban có thẩm quyền của Quốc hội. Ủy ban này sẽ tiến hành thẩm tra dự luật sau khi nghe Bộ trưởng phụ trách dự luật giải trình về lý do đề xuất dự luật thông qua một cuộc sát hạch dưới hình thức hỏi-đáp. Sau khi việc hỏi đáp đã kết thúc, chủ tịch ủy ban sẽ trình bày ý kiến và tiến hành bỏ phiếu quyết định có nên thông qua dự luật ở Ủy ban của mình không. Nếu đồng ý, dự luật được xem xét tại phiên họp Quốc hội (nơi dự luật đã đệ trình). Nếu được thông qua tại cuộc họp này, dự luật phải được gửi cho Viện kia của Quốc hội (Thượng viện hay Hạ viện). Sau đó, Dự luật lại được Ủy ban tương ứng của Viện kia của Quốc hội xem xét, đánh giá, bỏ phiếu và đưa ra Viện để biểu quyết.

Bước 5. Ban hành và công bố luật mới

Khi dự luật được cả 2 Viện thông qua, lãnh đạo của Viện, nơi thông qua dự luật lần cuối sẽ gửi dự luật cho Nhật hoàng thông qua Chính phủ để được chấp thuận.

Trong 30 ngày kể từ ngày chủ tịch Quốc hội nơi đã thông qua lần 2 dự luật gửi cho Nhật hoàng, Nhật hoàng phải ký và công bố luật để mọi người dân được biết và đăng trên công báo.

Cách thức ảnh hưởng của Hiệp hội doanh nghiệp tới quá trình lập pháp ở Nhật Bản

Ở Nhật Bản, Hiệp hội doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với công tác lập pháp. Tất nhiên, theo quy định của Hiến Pháp Nhật Bản, quyền lập pháp được trao cho Quốc hội (gồm Hạ Viện và Thượng Viện), chính vì thế, chỉ Quốc hội mới có quyền lập pháp. Nguồn lập pháp chủ yếu của Nhật là từ đề xuất của Chính phủ. Theo thống kê thì trong số các dự luật được Quốc hội thông qua thì có tới 80% là do sự đề xuất từ phía Chính phủ. Chỉ có 20% là do các thành viên Quốc hội trực tiếp đề nghị.

Tuy nhiên, nói tới Hiệp hội doanh nghiệp ở Nhật là phải nói tới Hiệp hội kinh doanh Nhật Bản (Nippon Keidanren), là Hiệp hội gồm rất nhiều Hiệp hội nhỏ trong các lĩnh vực khác nhau. Hiệp hội kinh doanh Nhật Bản (Nippon Keidanren) được thành lập vào tháng 5/2002 trên cơ sở sáp nhập Hiệp hội các tổ chức kinh tế của Nhật Bản (Keidanren) và Hiệp hội giới chủ (người sử dụng lao động) Nhật Bản (Nikkeiren). Tính đến ngày 27/5/2004, Hiệp hội kinh doanh Nhật Bản có 1.623 thành viên gồm có 1.306 công ty trong đó có 91 công ty vốn sở hữu nước ngoài, 129 Hiệp hội doanh nghiệp và 47 Hiệp hội người sử dụng lao động các khu vực. Hiệp hội các tổ chức kinh tế của Nhật Bản (Keidanren) được thành lập từ tháng 8/1946 với chức năng là góp phần vào xây dựng lại nền kinh tế Nhật Bản sau thời gian bị chiến tranh tàn phá. Hiệp hội giới chủ Nhật Bản (Nikkeiren) được thành lập vào tháng 4/1948 với mục đích là góp phần tạo dựng một mối quan hệ “lao động” (chủ - thợ) lành mạnh.

Ở Nhật, khi đề cập tới vai trò của Hiệp hội trong quá trình lập pháp, người ta thường nhắc tới vai trò của Hiệp hội kinh doanh Nhật Bản bởi đây chính là Hiệp hội ở tầm quốc gia có sự tham gia của rất nhiều các Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ lẻ khác trong toàn quốc. Tuy nhiên, do quyền ban hành luật chỉ do Quốc hội nắm giữ, nên Hiệp hội - với tư cách là tổ chức tư nhân, không nắm quyền lực nhà nước - không có quyền tham gia trực tiếp vào quá trình quyết định thông qua Luật mà chỉ có tác động gián tiếp.

Vậy Hiệp hội doanh nghiệp ở Nhật có thể ảnh hưởng tới quá trình lập pháp bằng những cách nào?

- Cách 1: Do sự tài trợ về tài chính trong các cuộc tranh cử của các Nghị sĩ. Theo chế độ đa đảng và bầu cử bằng vận động tranh cử, các ứng cử viên vào Quốc hội rất cần sự tài trợ của các cá nhân, tổ chức, trong đó Hiệp hội doanh nghiệp (và cả nhân viên của Hiệp hội) là nguồn quan trọng. Các Hiệp hội, bằng việc tài trợ này, có thể ủng hộ cho những ứng cử viên có lợi cho Hiệp hội của mình và các nghị sĩ khi đắc cử thường “trả ơn” các Hiệp hội bằng việc sẵn sàng tuân thủ các yêu cầu, đề xuất từ phía các Hiệp hội. Những nghị viên này thường được gọi là Zoku giin (nghị sỹ đại diện cho một quyền lợi cụ thể). Kinh nghiệm cho thấy, việc biểu quyết thông qua ngân sách là lúc các Nghị sĩ này gây ảnh hưởng nhất. Chẳng hạn, nhóm Nghị sĩ đại diện cho các nhà thầu xây dựng thường đưa ra các đề xuất sửa đổi ngân sách để tăng ngân sách cho hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng như xây đường sá, cầu cống.

- Cách 2: Tham gia ý kiến vào quá trình soạn thảo văn bản luật. Trong hầu hết các trường hợp xây dựng các dự thảo luật, việc soạn thảo phải do các bộ chuyên môn phụ trách. Ở Nhật Bản, bất cứ sáng kiến lập pháp nào cũng đều phải được góp ý bởi một “hội đồng tư vấn” (Shingikai) do Bộ có liên quan thành lập để thúc đẩy sự tham dự của các ý kiến chuyên gia từ bên ngoài. Ý kiến của Hội đồng tư vấn thường được lắng nghe bởi các quan chức của Bộ phụ trách việc soạn thảo luật và được đưa vào dự thảo luật. Việc trở thành thành viên của “Hội đồng tư vấn” là do Bộ máy công quyền quyết định. Thông thường “Hội đồng tư vấn” này bao giờ cũng tập hợp bởi đại diện của các ngành công nghiệp, nhóm lợi ích bị ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật (được dự kiến)[26]. Thông thường, “Hội đồng tư vấn” này còn có sự tham gia của cả những thành viên thuộc giới học thuật và các nhà báo có uy tín. Nhiều người cho rằng, chính các “Hội đồng tư vấn” này là một công cụ hữu hiệu để cộng đồng doanh nghiệp ảnh hưởng tới việc xây dựng và thực thi chính sách bởi trong hầu hết các trường hợp, thành viên Hội đồng tư vấn chính là đại diện của các Hiệp hội doanh nghiệp. Điều này cho thấy, việc tham gia vào quá trình lập pháp của các Hiệp hội doanh nghiệp là khá sớm - từ giai đoạn khởi thảo chính sách, chứ không phải sau khi đã có những dự thảo khá “hoàn chỉnh” như ở Việt Nam. Cách làm như vậy sẽ tạo một cơ hội tốt để các Hiệp hội doanh nghiệp bày tỏ quan điểm của mình một cách dễ dàng và có thể tham gia ý kiến một cách thực chất hơn.

- Cách 3: Trực tiếp đưa ra các đề xuất chính sách nhân danh Hiệp hội. Điều đặc biệt là, các Hiệp hội doanh nghiệp quan trọng mà cụ thể là Kaidanren đầu tư rất nhiều vào các hoạt động nghiên cứu và hoạch định chính sách. Những tác phẩm kiểu “Tầm nhìn Nhật Bản đến năm 2000, 2010, 2020, 2025 v.v.” thể hiện cam kết tự nguyện của cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản đối với sự phát triển của đất nước cung cấp nhiều thông tin quan trọng đối với quá trình lập pháp.

Một ví dụ điển hình về sự ảnh hưởng của Hiệp hội doanh nghiệp tới việc xây dựng pháp luật

Trong số những ví dụ về việc Hiệp hội doanh nghiệp có ảnh hưởng tới việc xây dựng pháp luật có thể coi việc sửa đổi, bổ sung Luật Chống độc quyền của Nhật Bản trong những năm đầu của thập kỷ 1950 là ví dụ điển hình.

Luật Chống độc quyền của Nhật Bản được soạn thảo sau khi Nhật Bản thua trận trong thế chiến thứ II và bị đặt dưới sự quản chế của quân đồng minh mà cụ thể là Hoa Kỳ. Với sự nhận thức được thừa nhận rộng rãi lúc bấy giờ rằng, nguyên nhân biến Nhật Bản - một cường quốc công nghiệp trở thành một đế quốc, chính là do sự tập trung sức mạnh kinh tế quá lớn trong một số ít tập đoàn kinh tế chi phối toàn nền kinh tế Nhật Bản đặt dưới sự lãnh đạo của Nhà nước (Nhật hoàng và Chính phủ Nhật). Hay nói cách khác, ngay từ trong cơ cấu nền kinh tế đã thiếu tính “dân chủ”. Khi Hoa Kỳ quản chế Nhật Bản, một trong những công việc đầu tiên mà Hoa Kỳ tiến hành đó là “dân chủ hoá nền kinh tế” bằng việc chia nhỏ các tập đoàn kinh tế thành những công ty con, nhỏ hơn (tức là phi tập trung hoá nền kinh tế), khiến nền kinh tế có tính cạnh tranh bình đẳng thực sự, đồng thời chống các loại liên kết giữa các doanh nghiệp nhằm chi phối nền kinh tế. Để bảo vệ thành quả của chính sách này, Hoa Kỳ đã xuất khẩu Luật chống tờ-rớt (tức là Luật chống độc quyền) của mình sang Nhật và ép buộc Chính phủ Nhật phải chấp nhận. Luật chống độc quyền của Nhật Bản năm 1947 được thông qua trong bối cảnh như vậy, và vì thế, phản ánh một chính sách chống độc quyền rất cực đoan nhằm ngăn cản nhiều loại liên kết kinh tế, tập trung kinh tế trong nền kinh tế, biến nền kinh tế Nhật thành nền kinh tế của các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nền kinh tế bị “phi tập trung hoá”. Theo Luật chống độc quyền này thì mục tiêu bảo đảm cạnh tranh công bằng và lành mạnh là ưu tiêu hàng đầu trong việc thực thi Luật Chống độc quyền. Thêm vào đó, tất cả các loại thoả thuận giữa các doanh nghiệp có liên quan đến giá cả, phân chia thị trường, kiểm soát sản lượng, thậm chí hầu hết các thoả thuận sáp nhập v.v. đều bị coi là bất hợp pháp. Điều này đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp lúc bấy giờ, đặc biệt là sự phản đối từ Keidanren.

Keidanren đã viết nhiều bài sách báo biện luận, chỉ trích nội dung của Luật Chống độc quyền năm 1947. Keidanren cho rằng, triết lý để phát triển nền kinh tế của Nhật Bản là dựa trên sự “hợp tác” chứ không phải là dựa trên sự “cạnh tranh” trong nội bộ nền kinh tế với nhau. Văn hoá của người Nhật rất coi trọng sự “hài hoà” trong các mối quan hệ, hoàn toàn xa lạ với văn hoá phương Tây, quá nhấn mạnh tới tính “cá nhân”, “tính cạnh tranh” và “xung đột” trong xã hội. Việc đưa một đạo luật ngăn cấm quá nhiều hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế là sự trói buộc vô lý quyền tự do của các doanh nghiệp trong nền kinh tế và không phù hợp với xã hội Nhật Bản. Keidanren cũng cho rằng việc coi mục tiêu của Luật Chống độc quyền chỉ là duy trì cạnh tranh tự do và lành mạnh là cách quan niệm hết sức hạn hẹp. Luật Chống độc quyền phải hướng tới mục tiêu cao hơn đó là phục vụ sự phát triển lâu dài, cân đối của nền kinh tế. Keidanren cũng gây áp lực tới các đảng phái trong chính phủ lúc bấy giờ, nhất là Đảng dân chủ tự do (LDP) - một đảng rất thân với Keidanren và nhận nguồn tài trợ chủ yếu của Keidanren.

Kết quả là, trong lần sửa đổi năm 1953, Luật Chống độc quyền năm 1947 đã được nới lỏng. Những quy định về việc cấm các thoả thuận liên kết giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhằm ấn định giá, phân chia thị trường, kiểm soát sản lượng đã bị bãi bỏ. Thay vào đó, Luật chỉ quy định cấm các thoả thuận này nếu chúng “gây hạn chế cạnh tranh một cách căn bản trên thị trường” và “trái lợi ích công cộng”. Luật cũng chỉ cấm các loại thoả thuận sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp nếu chúng gây ra sự “hạn chế cạnh tranh một cách căn bản trên thị trường”. Ngoài ra, Luật còn cho phép miễn trừ áp dụng Luật chống độc quyền trong các trường hợp liên kết doanh nghiệp nhằm vượt qua “khủng hoảng kinh tế” hoặc “suy thoái ngành”. Nhờ sự nới lỏng các quy định trong Luật này, trong nền kinh tế của Nhật Bản, việc tập trung, tích tụ tư bản để hình thành các doanh nghiệp lớn hầu như được tự do diễn ra mà không bị Nhà nước kiềm chế bằng Luật Chống độc quyền. Có thể nói rằng, Hiệp hội doanh nghiệp ở Nhật Bản đã rất thành công trong việc đưa ra các quy định có lợi cho cộng đồng doanh nghiệp trong Luật Chống độc quyền trong suốt nhiều năm liền. Phải cho đến năm 2000, những quy định ưu đãi mạnh mẽ cho cộng đồng doanh nghiệp kể trên trong Luật Chống độc quyền mới được bãi bỏ một cách căn bản.

Bên cạnh ví dụ kể trên, Keidanren còn được biết đến vì đã vận động và bảo trợ thành công nhiều đạo luật quan trọng trong đó phải kể đến Luật về Thủ tục hành chính năm 1993 (một đạo luật mà ý tưởng lập pháp đã được nêu ra cách đó khoảng 40 năm nhưng không bao giờ được thông qua) và Luật về công bố thông tin hành chính năm 1999. Để hỗ trợ cho việc thực thi các Luật này, Hiệp hội đã thiết lập các “hotline” (đường dây nóng) để tiếp nhận những phàn nàn của doanh nghiệp về việc thực thi Đạo luật công bố thông tin năm 1999. Sau khi nhận được phàn nàn, Keidaren sẽ làm việc trực tiếp với Bộ, ngành bị phàn nàn. Trong năm hoạt động đầu tiên, nó nhận được 72 lời phàn nàn qua đường dây nóng, nhưng sau đó chỉ có 5 vụ việc được tiếp tục theo kiện đến cùng.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Ở một quốc gia tư bản như Nhật, việc Hiệp hội doanh nghiệp - đại diện của giới tư bản có vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, sự thật ấy không cản trở chúng ta rút ra những bài học để tham khảo:

- Thứ nhất, đối với việc có nên có hay không các nhóm nghị sỹ đại diện cho những ngành, lĩnh vực hoạt động cụ thể: có lẽ Việt Nam không nên học điểm này bởi điều đó không phù hợp với tính chất và cơ cấu chính trị ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, việc tăng tính động lực cho các đại biểu Quốc hội để các Đại biểu Quốc hội phản ánh tốt hơn nữa, nhu cầu, bức xúc từ phía cộng đồng doanh nghiệp cũng là việc nên làm (nhất là trong cơ cấu Đại biểu Quốc hội).

- Thứ hai, từ trước tới nay, chúng ta vẫn tổ chức các buổi lấy ý kiến của Hiệp hội vào các dự thảo văn bản: việc làm này là cần thiết. Tuy nhiên, ngay trong hội đồng tư vấn hoặc Ban soạn thảo (tổ biên tập), có lẽ nên có thành phần từ phía cộng đồng doanh nghiệp. Kinh nghiệm lập ra các “Hội đồng tư vấn” để thảo luận, xác định ý tưởng lập pháp, phác thảo những tư tưởng căn bản của văn bản pháp luật cần soạn thảo trong đó có sự tham gia của đại diện các Hiệp hội doanh nghiệp là có thể được. Thêm vào đó, cách gửi dự thảo văn bản tới các Hiệp hội hiện nay chủ yếu diễn ra tại thời điểm các dự thảo đã tương đối hoàn chỉnh, ít nhất là ý đồ điều chỉnh, những nội dung căn bản trong chính sách đã được quyết định rồi, vì thế, các doanh nghiệp rất khó có thể bày tỏ ý kiến quan trọng liên quan tới chính sách thể hiện trong văn bản. Rất hiếm khi việc phản hồi từ phía cộng đồng doanh nghiệp lại khiến cho Ban soạn thảo kết cấu lại những vấn đề có tính chất chính sách, nền tảng trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì thế, việc góp ý từ phía cộng đồng doanh nghiệp thường chỉ là những vấn đề về kỹ thuật lập pháp, một vài chính sách nhỏ, chứ chưa phải là góp ý những vấn đề có tính chất chính sách nền tảng.

- Thứ ba, các Hiệp hội nên chủ động tiến hành những nghiên cứu sâu để chủ động đưa ra các đề xuất, sáng kiến về chính sách, về xây dựng pháp luật nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của mình. Điều này có lợi đối với cả Nhà nước bởi vì thông qua việc công bố quan điểm của Hiệp hội, Nhà nước sẽ nắm bắt được nhu cầu thực sự, quan điểm của cộng đồng doanh nghiệp, từ đó Nhà nước sẽ đưa ra chính sách, pháp luật điều chỉnh phù hợp và có tính khả thi hơn. Các Hiệp hội cần có ý kiến mạnh mẽ hơn nữa về các vấn đề liên quan trực tiếp tới lợi ích của mình như thuế, quản trị, lao động, đất đai, tín dụng v.v.

- Thứ tư, các Hiệp hội cần chủ động kiện toàn tổ chức hoạt động của mình, nhất là sáp nhập các Hiệp hội để tạo những Hiệp hội lớn, các tiềm lực đủ mạnh để duy trì bộ máy thực sự phù hợp, đảm bảo yêu cầu.

Như trường hợp của Nhật Bản, riêng Hiệp hội kinh doanh Nhật Bản có tới 58 Ủy ban thường trực. Mỗi Ủy ban chuyên nghiên cứu về các vấn đề, lĩnh vực riêng mà doanh nghiệp quan tâm. Khi có yêu cầu từ phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc cho ý kiến tư vấn, các Ủy ban này có thể có ý kiến ngay được.

2.3.4. Một số kinh nghiệm về công tác tổ chức để nhân dân đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật của Thái Lan.

Việc lấy ý kiến công chúng của Thái Lan không phải là một công việc có tính truyền thống và trên thực tế cũng chỉ được đẩy mạnh trong vài thập niên vừa qua. Thực tế cho thấy trong công việc xây dựng pháp luật hiện nay các loại dự án luật do nội các trình Quốc Hội chiếm 95%, các dự án luật do Nghị viên tự trình chiếm số còn lại, còn các dự luật do người dân hoặc các tổ chức quần chúng tự xây dựng và trình tới nay chỉ có hai dự luật. Các bước trong quá trình lập pháp của Thái Lan cơ bản gồm 5 bước: Cơ quan Chính phủ đề xuất; Hội đồng nhà nước xem xét; Chính phủ trình Hạ Viện ; Hạ Viện trình Thượng Viện, Thủ tướng trình Quốc Vương ký ban hành.

Một cơ quan có vai trò quan trọng trong hoạt động lập pháp của Thái Lan nói chung và việc lấy ý kiến công chúng nói riêng là Hội đồng nhà nước Thái Lan (Counclil of State) Tổ chức Hội đồng Nhà nước gồm 6 vụ (văn phòng, Trung tâm thông tin, Viện Luật sư công, Vụ pháp luật quốc tế, Trung tâm pháp luật hành chính, Viện /hoặc trung tâm dự thảo pháp luật). Bên dưới Hội đồng Nhà nước có một cơ cấu gọi là ủy ban pháp luật trong đó lại chia thành 12 phòng chuyên trách các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Ngoài ra, Hội đồng Nhà nước còn có ủy ban cải cách pháp luật chuyên nghiên cứu về quá trình xây dựng pháp luật để cải cách pháp luật.

Liên quan đến chức năng về lấy ý kiến công chúng, Hội đồng nhà nước thực hiện việc thẩm tra, thẩm định dự thảo luật (Về căn cứ chung, nguyên tắc pháp lý, cơ chế thi hành, tác động đến cả khu vực công và tư ), các Bộ thuộc Chính phủ cũng đều có chức trách tự kiểm tra, xem xét văn bản ngay trong giai đoạn soạn thảo nhưng chỉ trong phạm vi quan lý của họ mà thôi. Khi thực hiện các công việc này nếu xét thấy cần Hội đồng nhà nước có thể tổ chức lấy ý kiến công chúng hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc này. Thực ra Hội đồng nhà nước là cơ quan pháp chế thuộc về hành pháp, song thành viên là các vị Lão thành được cử từ các ngành ra (Ví dụ như cựu chánh án Tòa án tối cao), tỷ lệ đại diện tự do và quan chức Chính phủ tham gia Hội đồng là không có giới hạn tỷ lệ, khi xem xét thành viên không coi trọng yếu tố tại chức hay hưu chí mà chủ yếu là xét theo thành tích và tri thức. Hoạt động tự do, theo truyền thống của Thái Lan khi thi hành nhiệm vụ không có cấp trên. Hội đồng không có tiền lương, khi họp có phụ phí lấy từ ngân sách nhà nước. ý kiến Hội đồng có tính chất độc lập, nhiều khi trái ngược với ý kiến của Chính phủ. Hội đồng sẽ bám theo quá trình ban hành ban hành văn bản cho tới khi Quốc hội ban hành. Hội đồng soạn thảo văn bản một cách trực tiếp và sẽ xem xét lại chính văn bản trong quá trình soạn thảo. Thuật ngữ Council of State xuất phát từ cụm từ Cousnel D’ Etate trong tiếng pháp. Tuy nhiên, thuật ngữ tiếng pháp bao hàm chức năng tòa án hành chính. Thực chất Hội đồng nhà nước của Thái Lan chỉ là cơ quan tư vấn cho Chính phủ trong công tác xây dựng pháp luật.

Mỗi khi tiến hành lấy ý kiến công chúng, Thái Lan thường thành lập một ủy ban gồm 11 vị đại diện trong dó có 3 vị đại diện dân, 4 vị đại diện các tỉnh/vùng, còn lại đai diện khối cơ quan nhà nước. Dưới có tiểu ban kỹ thuật gồm 30 đại diện địa phương. Tại 4 miền chính có 4 văn phòng đại diện tập hợp đại diện các ngành tại địa phương đó.

Phương pháp lấy ý kiến chủ yếu hiện nay là thông qua các ý kiến của nhân dân lấy tại các cuộc họp. Tài liệu được gửi trước và tổ chức diễn đàn. Ngoài ra có việc lấy ý kiến thông qua Internet hoặc gửi thông tin qua thư lấy ý kiến tới các nhà khoa học hoặc đối tượng có liên quan. Hoặc gửi các tổ chức có liên quan đóng góp ý kiến, đây có thể là các tổ chức NGO hoặc tổ chức nhà nước. Các tổ chức này có thể kết hợp với các tổ chức khác trong hệ thống được gọi là xã hội công dân, ý kiến thu về có thể gửi qua Hội đồng nhà nước hoặc các ủy ban của Nghị viện. Hiến pháp 1997 cũng đã được lấy ý kiến qua cách này. Khi đó Thái Lan thành lập một ủy ban gồm 76 thành viên mỗi người đại diện cho một tỉnh để lấy ý kiến của nhân dân, như vậy là dân tham gia từ đầu. Cộng cả hệ thống phi Chính phủ (NGO) về kinh tế, môi trường, sức khỏe thì trên toàn quốc có khoảng hơn 1000 diễn đàn cho lấy ý kiến của nhân dân.

Một vấn đề khác là làm sao huy động người dân vượt qua rào cản về tâm lý chức sắc và thứ bậc để mạnh dạn đưa ra ý kiến, bên cạnh đó các tổ chức hỗ trợ người dân đưa ra sáng kiến lập pháp cũng phải có mạng lưới rộng và khả năng tổ chức – tài chính. Đây là một kênh rất quan trọng vì trên thực tế hiếm khi các nghị sĩ trực tiếp lắng nghe ý kiến của dân. Việc lấy ý kiến của nhân dân được khuyến khích ở bất kỳ giai đoạn lập pháp nào. Khi dự luật do dân đề suất được đưa ra Hạ nghị viện thì các chính đảng hoặc Chính phủ có thể trình bày ý kiến ủng hộ hoặc phản đối, nhưng khi dự luật được trình lên Thượng nghị viện thì không có quyền đó nữa.

Theo Hiến pháp Thái Lan năm 1997, tất cả các dự luật ảnh hưởng đến đời sống người dân, môi trường nhất thiết phải lấy ý kiến. Bên cạnh đó Hiến pháp quy định người dân có quyền đóng góp ý kiến vào tất cả các văn bản pháp luật.

Quá trình lấy ý kiến được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn bắt đầu từ khi văn bản đang được dự thảo còn giai đoạn thứ 2 từ khi văn bản được trình. Văn phòng Chính phủ có quy định các nguyên tắc và biện pháp lấy ý kiến trong trường hợp văn bản có ảnh hưởng đến dân. Có hai hạn chế: Quy định tầm cỡ của dự án được tiến hành lấy ý kiến (cho dù dự án có ảnh hưởng đến đời sống dân nhưng quy mô của dự án chưa đến mức cần thiết nên chưa được lấy ý kiến), và hạn chế thứ 2 là thực tiễn áp dụng hình thức lấy ý kiến một cách cứng nhắc hiện nay (chỉ có duy nhất một hình thức là người dân thể hiện ý kiến trực tiếp). Cũng có trường hợp do trưng cầu ý dân mà xảy ra bạo động. Hiện Thái Lan đang dự thảo một đạo luật về lấy ý kiền nhân dân, theo đó người dân có quyền đòi hỏi việc đóng góp ý kiến và cung cấp các thông tin được quy định tại đạo luật về thông tin chính thức. Một rào cản hiện nay là văn hóa công sở là lề lối làm việc của cơ quan nhà nước hiện nay còn dấu diếm thông tin.

Trong quá trình hoạch định chính sách, các cơ quan ban hành có thể triệu tập các cuộc họp với các nhóm có quyền lợi liên quan để tham khảo ý kiến. Tổng hợp các ý kiến này sẽ đươc gủi cùng đề xuất lập pháp lên ông Bộ trưởng. Ông Bộ trưởng sẽ cân nhắc việc có cần lấy ý kiến bổ sung. Văn bản dự thảo, tờ trình, đánh giá tác động, và bản tổng hợp ý kiến nhân dân sẽ được gửi cùng lên Chính phủ. Sau khi Chính phủ nhận được sẽ chuyển cho Hội đồng Nhà nước. Hội đồng có một số cách lấy ý kiến như tổ chức họp với một số cơ quan có liên quan. Thông tin, ý kiến thu nhập được sẽ được sử dụng để xem xét sửa đổi Dự Luật. Kết quả sửa đổi phải được báo cáo lại thành bộ tài liệu mới gửi tới Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội.

Về thời gian, không có quy định trong luật về hạn định và căn cứ vào mức độ cấp bách của tình hình và khả năng dự luật được sửa đổi, thông qua tại Quốc hội mà các cơ quan quy định thời gian lấy ý kiến cụ thể. Một khi nhận được dự thảo, chính Quốc hội cũng có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến. Viêc lấy ý kiến các cơ quan về cơ bản không được công khai. Sau khi đủ thông tin, sẽ hội thảo để thống nhất và trình bày dự thảo mới. Việc phản hồi thông tin cũng tùy theo từng dự án luật. Sau khi hết hạn lấy ý kiến, nếu không có ý kiến xin gia hạn thì các cơ quan sẽ tập hợp và phân tích. Tiêp đó các cơ quan sẽ hồi âm ý kiến tiếp thu để mọi người cùng được biết và tham khảo lẫn nhau.

Trong các phương thức lấy ý kiến có việc mở hòm thư bưu điện và đưa thông tin lên Interne. Nếu lấy ý kiên qua Internet thì thời gian nhất định là 30 ngày, nếu cần có thể gia hạn 30 ngày nữa. Riêng khâu thảo luận tại Quốc hội không có ấn định thời gian. Mọi ý kiến tập hợp được, các thông tin qua lại và giải thích của các cơ quan cấp dưới trong thời gian lấy ý kiến đều được lưu hồ sơ, cung cấp cho Quốc hội và cung cấp cho bất kỳ người dân nào có yêu cầu xin thông tin. Tại Quốc hội phần trình bày có thể được truyền hình trực tiếp nên mọi người có thể biết các quan điểm khác nhau như thế nào.

Tại Quốc hội văn bản được thông qua 3 giai đoạn, giai đoạn 1 là thông qua về nguyên tắc, giai đoạn hai thông qua điều luật, giai đoạn 3 biểu quyết. Kết quả biểu quyết là kết quả cuối cùng.

Một số nhận xét của các chuyên gia Thái Lan về các phương thức và kỹ thuật lấy ý kiến công chúng tại Thái Lan hiện nay.

Điều 59, Hiến pháp Thái Lan quy định về quyền của người dân được biết thông tin và tham gia đóng góp ý kiến đối với các văn bản pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Trên cơ sở đó một dự thảo luật lấy ý kiến công chúng đang được thực hiện với sự hỗ trợ của các chuyên gia Mỹ. Trong khi thi hành dự án phương pháp lấy ý kiến chính vẫn là mời họp đóng góp ý kiến (kể cả giới chuyên môn, nhóm quyên lợi và người dân nói chung). Tóm lại việc lấy ý kiến gồm hai công đoạn :công đoạn thứ nhất là lấy ý kiến chuyên môn qua họp kỹ thuật. Công đoạn thứ hai lấy ý kiến rộng rãi thông qua việc trả lời bằng văn bản.

Dự luật lấy ý kiến công chúng gồm hai chương, 25 điều. Chương I quy định về ủy ban lấy ý kiến tư vấn nhân dân. ủy ban sẽ đề ra khung kế hoạch để lấy ý kiến công chúng. Soạn thảo theo quy tắc, quy chế, quyết định cụ thể. Chương II về các phương thức lấy ý kiến công chúng, có đề cập đến các phạm vi lấy ý kiến cụ thể. Dự luật cũng quy định nhà nước cũng có thể tự tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý không nằm trong quy định của luật. Dự luật cũng quy định bản thân người dân cũng có quyền tập hợp nhau lại gửi đề xuất cho nhà nước phải tổ chức lấy ý kiến.

Các phương thức lấy ý kiến công chúng hiện nay. Chủ yếu là thông báo công khai tại địa phương, trong đó nói rõ nhà nước xin ý kiến nhân dân sau đó chờ ý kiến đóng góp gửi về. Các phương thức khác gồm :

  • Phỏng vấn
  • Khảo sát
  • Internet
  • Trao đổi thông tin
  • Họp không chính thức
  • Thảo luận
  • Tranh luận hoặc diễn đàn công khai

 Việc lấy ý kiến qua Internet sau một thòi gian thực hiện đã bộc lộ một số hạn chế: Kỹ thuật mạng máy tính vẫn chưa phổ thông, đa số người vẫn chưa sử dụng được. Các biện pháp có hiệu quả về cơ bản vẫn là các biện pháp cũ như họp trao đổi.

Qua quá trình lấy ý kiến nhân dân một cách tích cực vùa qua có thể nêu lên một số một số nhận xét về việc lấy ý kiến :

- Kèm theo dự bản văn bản phải có bản giải trình với ngôn ngữ rõ hơn để dân hiểu được.

- Các vấn đề đưa ra lấy ý kiến cần được thu gọn để nhân dân dễ hiểu hơn.

- Các biện pháp tổ chức lấy ý kiến phải được áp dụng linh hoạt.

- Văn bản phải được bố trí, chuẩn bị sao cho dân dễ tiếp xúc.

- Cần phải giải thích rõ hơn các điểm dân chưa rõ (theo kinh nghiêm của Hội đồng Nhà nước là phải trả lời cá nhân qua e-mails ).

- Chi phí cho quá trình lấy ý kiến phải do nhà nước chịu, không nên bắt dân đóng góp.

- Các ý kiến tranh luận phải đi đến kết luận, nếu có ý kiến chống đối phải được trình lại cho hội đồng tư vấn cùng nghe. Thực tế cho thấy cần phân biệt hai trường hợp: Sự tham gia (chủ động và có tính quyết định) và sự hợp tác (ủng hộ và áp đặt) của công chúng. Việc người dân tham gia đòi hỏi phải được cung cấp đầy đủ thông tin và được giới thiệu các hướng lựa chọn, đuợc giới thiệu về các lợi ích tương lai và có cơ hội để hưởng lợi. Trong các phương án và cách thức lấy ý kiến hiện nay, Thái Lan đang ưa chuộng việc lấy ý kiến bằng phiếu hỏi, cách này có điểm dở là không cung cấp thông tin trước cho người trả lời nên quá phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân của người trả lời, người trả lời có thể tùy tiện hoặc bị ảnh hưỏng nặng nề bởi cảm tính hay ảnh hưởng của ngưòi khác. Cách khắc phục đã được áp dụng là tổ chức trình bày trước về vấn đề cho họ trước khi lấy phiếu, sau đó để họ tự quyết. Cách này giúp cho thông tin trung thực hơn song lại có vấn đề là sự chênh lệch về các mặt giữa các giai tầng trong xã hội, khi tập trung các đối tượng thuộc các thành phần khác nhau lại cùng dự họp dễ có tình trạng công kích lẫn nhau và tự ái.

Một số giải pháp để tăng cường hiệu quả việc lấy ý kiến

Từ thực tế lấy ý kiến nhân dân vào các dự thảo, dự án chính sách và pháp luật vừa qua, các chuyên gia Thái Lan nhận thấy để khuyến khích người dân đóng góp ý kiến thì phải huy động mạng lưới cơ sở để họ họp dân phổ biến trước, khi các chuyên gia đến làm việc trực tiếp với dân thì chỉ cần làm việc ngắn gọn là xong. Biện pháp tốt nhất đã được nêu ra trong dự luật là cơ quan nào chuẩn bị ra văn bản thì cơ quan đó phải trực tiếp xuống dân, không thông qua bất kỳ cơ quan nào khác, lấy nghĩa vụ công làm động lực trước.

Văn bản đưa lên Internet không phải chỉ có dự thảo mà phải gồm cả văn bản rút gọn và các gợi ý. Nên chăng đặt ra nhiều câu hỏi trắc nghiệm để trả lời và nhiều hộp thoại để những người có quan tâm có thể đóng góp ý kiến một cách thuận tiện. Phần thông tin gíải thích cũng phải được phổ biến một cách rộng rãi. Các thông tin mang tính chất hồi âm (feedback) nên được tích hợp vào cơ sở dữ liệu để tiện khai thác chung.

Để làm tốt việc lấy ý kiến nhân dân, vấn đề cần nhất là cần chuẩn bị tốt về các khả năng tiếp cận nhóm đối tượng. Xác định rõ các phương pháp tiếp xúc và lấy ý kiến trước khi tiến hành. Cần có kế hoạch triển khai chi tiết và khả thi, nhất là về mặt tổ chức và thời gian.

Kinh nghiệm cho thấy khi lấy ý kiến nhân dân, chủ quan người tổ chức lấy ý kiến lưu tâm đến sự tham gia của dân ít mà chủ yếu mong muốn nhận được sự hợp tác và tán đồng. Từ đó phương thức lấy ý kiến nên tập trung chủ yếu là gợi ý và vận động bà con chủ động hơn trong việc chất vấn và đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản và quyết định.

2.3.5. Các hiệp hội kinh tế và nhóm lợi ích trong hoạt động lập pháp ở Mỹ và một số nước phương tây.

Các hiệp hội kinh tế ở Mỹ và các quốc gia thuộc EU, ngày càng có một ảnh hưởng đáng kể trong hoạt động lập pháp. Kênh ảnh hưởng đáng kể nhất của các hiệp hội này là thông qua “vận động hành lang-lobbying”, một thuật ngữ tượng hình phản ánh những gì diễn ra bên lề hành lang nghị viện. Theo một số liệu thống kê mới đây, thường xuyên có khoảng 91.000 nhà vận động chính sách (lobbyist) và nhân viên của họ hoạt động tại thủ đô nước Mỹ, trong số đó có 6.000 nhà vận động đăng kí hoạt động thường xuyên tại Quốc hội Mỹ. Tương tự, khoảng 10.000 nhà vận động chính sách hoạt động thường xuyên tại trụ sở trung tâm của Liên minh Châu Âu, hơn 1.700 văn phòng của các nhà vận động chính sách đăng ký thường xuyên tại Quốc hội CHLB Đức. Nói một cách dễ hiểu, vây quanh một hạ nghị sĩ Hoa Kỳ thường xuyên có ít nhất 12 nhà vận động chính sách đã đăng ký và vô số nhân viên của họ. Những nhà vận động này đại diện cho đủ loại hiệp hội kinh doanh, tổ chức nghề nghiệp, các nhóm lợi ích và các công ty [[27]].

Người Phương Tây dùng thuật ngữ “nhóm lợi ích- interest group” để chỉ các hội đoàn có quan hệ và sức mạnh tài chính cần thiết để ảnh hưởng đến công chúng, và thông qua các quan hệ vận động với cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp tác động tới quy trình xây dựng chính sách và luật pháp. Hội đoàn thường đại diện cho lợi ích của những nhóm người có ít nhất một số mục đích chung. Các nhóm lợi ích có thể được chia thành nhiều loại:

- Các nhóm có lợi ích kinh tế, ví dụ các hiệp hội đại diện cho liên minh giữa các công ty, doanh nghiệp, giới doanh nhân, các tổ chức nghề nghiệp và nghiệp đoàn của người lao động;

- Các nhóm có liên quan tới lợi ích công, ví dụ các hiệp hội phụ huynh học sinh, các hiệp hội bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các nhóm yếu thế trong xã hội, bảo vệ di sản văn hóa;

- Các nhóm có lợi ích hành chính, quản lý, ví dụ hiệp hội các tỉnh trưởng, thị trưởng các đô thị; các hiệp hội này bảo vệ lợi ích của địa phương trong tương quan với chính quyền trung ương;

- Các nhóm có lợi ích chính trị, đại diện cho những hệ tư tưởng đa dạng;

- Các nhóm có lợi ích tôn giáo, tín ngưỡng;

- Các nhóm có lợi ích bảo vệ dân quyền, các hội đoàn có những mục đích cá biệt, riêng lẻ khác.

 Hình thức tổ chức của các nhóm lợi ích rất đa dạng. Điều chung nhất là các nhóm này đều hình thành trên sáng kiến của những hội viên cùng ngành nghề, sở thích, có cùng một số mục đích chung nhằm tập hợp lực lượng một cách tự nguyện. Bởi thế, người ta cho rằng hội đoàn về cơ bản là một tổ chức hoạt động theo luật tư chứ không phải cơ quan công lập; các nước theo truyền thống dân luật thường có một chương về hội trong các Bộ luật dân sự. Điều này làm cho hội có phần nào khác với các phòng thương mại và công nghiệp, các tổ chức mặt trận, công đoàn. Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm về hội được hiểu tương đối hẹp hơn so với các nước Phương Tây. Quy định về hội không áp dụng cho các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội là thành viên thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức giáo hội [[28]].

Một trong các mục đích chính của hội đoàn thường là tập hợp lực lượng, thực hiện tương hỗ, đoàn kết để bảo vệ những lợi ích chung của hội viên. Khác với các đảng phái chính trị, hội đoàn thường tập trung vào một số chính sách cụ thể, ít quan tâm đến chính sách vĩ mô của quốc gia theo nghĩa rộng; thường không tranh giành quyền lực trong các cuộc bầu cử cũng như không giới thiệu đại diện của mình khi thành lập chính phủ. Nếu đảng phái chính trị là đại diện cho những tầng lớp xã hội nhất định, thường được xây dựng trên những hệ tư tưởng khá rõ ràng và hướng tới mục đích cầm quyền, thì hội đoàn thường dùng ảnh hưởng của nó để thuyết phục chính khách nhằm đề ra và thực hiện một hoặc nhiều chính sách cụ thể, có lợi cho hội viên của họ.

Có thể dự báo sự hiện diện của các hội đoàn/nhóm lợi ích ngày càng gia tăng trong những thập kỷ tới. Tuy nhiên, như James Madison đã cảnh báo trước đây hơn 200 năm [[29]], sự xuất hiện và gia tăng hoạt động của các nhóm lợi ích và hội đoàn cũng có thể mang lại những hiểm hoạ nhất định cho các nền dân chủ. Có thể minh hoạ các hiểm hoạ này như sau:

Một là, số lượng các nhóm lợi ích có thể rất lớn, song chỉ một số nhóm có tiềm lực kinh tế mới có thể gây ảnh hưởng đến chính sách,

Hai là, hội đoàn chỉ quan tâm đến lợi ích của hội viên mà ít quan tâm tới lợi ích chung của cộng đồng và xã hội,

Ba là, để gây ảnh hưởng đối với nền quan chế, hội đoàn có thể dùng những mánh lới vận động phi đạo đức, làm trầm trọng thêm nạn tham nhũng,

Bốn là, thiết chế đại diện của hội đoàn nhiều khi không dân chủ, người đại diện không phải lúc nào cũng hành động vì lợi ích các hội viên.

Khi hội đoàn trở thành bè đảng, thì chính quyền có thể trở thành một cỗ máy quyền lực bị lũng đoạn bởi những nhóm người có tiền và quyền thao túng. Các khảo cứu mới đây cho thấy lời tiên đoán của Madison có rất nhiều cơ sở. Trong số 6.000 nhà vận động chính sách đã đăng ký tại Quốc hội Hoa Kỳ, người ta thấy: 72% trong số họ đại diện cho các hiệp hội kinh tế, các công ty kinh doanh và thương mại; 8% đại diện cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp; 5% đại diện cho các nhóm bảo vệ dân quyền, phúc lợi xã hội; 2% đại diện cho người nghèo, và 1% đại diện cho những nhóm yếu thế như người già, người tàn tật [[30]].

Như vậy, với một số lượng áp đảo, 80% số người hành nghề vận động hành lang đại diện cho quyền lợi của các hiệp hội kinh tế và tổ chức của những người hành nghề, tóm lại là của giới kinh doanh và doanh nghiệp nói chung. Một khảo cứu trước đây của Quốc hội Canada cũng cho thấy giới doanh nhân nước này đã dành một thời gian rất lớn cho việc vận động các chính sách có lợi cho mình; những người quản trị công ty khi được hỏi cho biết họ thường xuyên sử dụng tới 30% thời gian làm việc để quan hệ và vận động với các quan chức hành chính [[31]]. Đối với những người cánh tả, sự bất cân xứng trong quan hệ đại diện giữa các nhóm lợi ích cho phép người ta hoài nghi tính dân chủ và đại diện cho nhân dân của chính quyền Phương Tây; theo họ dường như bè đảng của các ngành công nghiệp có sức mạnh kinh tế lớn đã thao túng đáng kể đời sống chính trị các quốc gia này.

Trong cuộc ganh đua giữa các mô hình thể chế, khó có thể đưa ra kết luận vội vàng. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của các hội đoàn/nhóm lợi ích ở Việt Nam, có thể cần nhấn mạnh vào một số điểm dưới đây:

Thứ nhất, sự xuất hiện và gia tăng hoạt động của hội đoàn là tất yếu, trong số đó hiệp hội kinh tế có vị thế áp đảo, cần được ghi nhận để có phản ứng hợp lý với hiện tượng xã hội này.

Thứ hai, các hiệp hội sẽ gia tăng các kênh để bảo vệ lợi ích cho hội viên và vận động các cơ quan lập pháp, chấp pháp và kể cả các cơ quan tư pháp ban hành các chính sách có lợi cho hội viên của họ; quy trình vận động chính sách của các hiệp hội tất yếu cũng sẽ diễn ra ở Việt Nam.

Thứ ba, do không thể ngăn chặn, cũng không thể làm ngơ, người Việt Nam cần tìm hiểu các thể thức khuyến khích và giám sát quy trình vận động hành lang này một cách hợp lý nhất, đảm bảo lợi ích một cách tốt nhất cho cộng đồng và xã hội.

* Vận động hành lang: Phương cách gây ảnh hưởng của hiệp hội trong hoạt động lập pháp

Việc thương nhân tham gia triều chính không hề xa lạ trong cổ sử Phương Đông. Người ta nghĩ tới Lã Bất Vi, tới ảnh hưởng của thương nhân, trong đó có thương lái người Hoa trong chính sự nước ta, đặc biệt trong những chính sách mở mang bờ cõi về Phương Nam. Nếu thuế quan do thương lái người Hoa có khi chiếm tới gần 10% ngân khố các triều vua Nguyễn, thì ít có lý do để phủ nhận ảnh hưởng của họ trong chính sự [[32]]. Một nhân sĩ thế kỷ XIX đã khôi hài mà mô tả cách bẩm quan rằng: “đứng mà bẩm không bằng ngồi mà bẩm, ngồi mà bẩm không bằng nằm mà bẩm” [[33]]. Quan có quyền ban hành chính sách, người buôn có quyền sử dụng đồng tiền của mình; sự gian díu giữa những quyền lực đó có lẽ đã cổ xưa như chính lịch sử con người.

Trong thế giới ngày nay cũng vậy, giới thương nhân- thông qua các hiệp hội kinh tế, cũng không ngừng ảnh hưởng tới việc hoạch định, ban hành và thực thi các chính sách công. Các chính sách đó thường được thể hiện dưới những đạo luật, bởi thế quy trình lập pháp trở nên quan trọng trong việc định hình chính sách. Muốn hiểu thương nhân can dự vào chính sự ra sao, trước hết cần sơ khảo quy trình lập pháp trong các nhà nước thời nay.

Về bản chất, hoạt động lập pháp có thể chia thành 4 giai đoạn dưới đây:

  1.  nhận biết các xung đột lợi ích cần điều chỉnh trong xã hội,
  2.  tìm kiếm các giải pháp,
  3. lựa chọn giải pháp tối ưu, và
  4. thể hiện giải pháp đó dưới dạng thức một văn bản quy phạm pháp luật.

Nói cách khác, nhận diện đúng những bức xúc trong cuộc sống, tìm giải pháp và quy định giải pháp đã chọn bằng một văn bản pháp luật là những điểm cốt lõi của lập pháp. Theo nghĩa đó, cơ quan dân cử không sáng tạo ra luật pháp, mà đúng hơn là lựa chọn cách phản ứng thích hợp đối với những biến đổi của thời thế.

Tuỳ theo pháp luật các nước mà người có sáng kiến lập pháp có thể khác nhau, song dường như tuyệt đại đa số sáng kiến lập pháp đều do các cơ quan hành pháp, thông thường do một bộ chuẩn bị và xúc tiến. Sau khi tham vấn ý kiến của nhiều bộ, ngành liên đới, sáng kiến đó thường được thể hiện dưới dạng một dự luật. Dự luật được trình và thảo luận trong một hoặc nhiều uỷ ban, sau đó có thể được trình cho quốc hội thảo luận và thông qua trong các phiên họp toàn thể với nhiều phương cách khác nhau. Cuối cùng, sau khi đã được Quốc hội thông qua, đạo luật đó cần được ban hành bởi những cơ quan thích hợp. Quá trình này diễn ra cùng nhiều thủ tục phiền toái, tham vấn nhiều ý kiến đa chiều với nhiều quyền bảo lưu và phủ quyết. Chủ đích của quy trình lập pháp nhằm tránh mọi sự độc đoán, chuyên quyền của số đông và bất cẩn khi ban bố một đạo luật, cũng như nhằm cân đối mọi lợi ích trong xã hội một cách hài hoà. Cũng bởi vậy, người ta thường dùng thuật ngữ quy trình lập pháp để mô tả những thủ tục phức tạp này.

Cùng với những tác nhân khác, các nhóm lợi ích/hiệp đoàn có thể tác động một cách mạnh mẽ tới tất cả các quy trình kể trên; (thậm chí chúng còn có thể tác động tới việc thực thi, tạm dừng hoặc huỷ bỏ một đạo luật vừa mới ban hành). Phương cách tác động chính là vận động hành lang, được thực hiện bởi những người hành nghề chuyên nghiệp. Vì người có sáng kiến lập pháp chủ yếu là các cơ quan hành chính, bởi vậy không hoàn toàn ngạc nhiên khi đối tượng cần được vận động chủ yếu nhất không phải là quốc hội, mà là chính phủ và các cơ quan thuộc chính phủ. Điều tra các nhà vận động chính sách ở Mỹ cho thấy, những người được hỏi cho rằng đối tượng chính mà họ cần vận động là công chức cao cấp trong bộ máy hành chính (51%), tiếp đến là các thành viên của nội các (25%). Vận động các nghị sĩ quốc hội chỉ chiếm 13% trong mối quan tâm của những người này. Điều này góp phần giải thích vì sao trong hơn 9 vạn người hành nghề vận động chính sách ở thủ đô Mỹ, chỉ có khoảng 7% trong số họ đã đăng ký tại Quốc hội nước này [[34]].

Báo chí và các phương tiện truyền thông, sức ép của dư luận, tiếng nói của cử tri và thực tiễn điều hành đất nước là những kênh giúp cơ quan hành pháp nhận biết sự cần thiết ban hành một chính sách nhất định. Bám sát công chức đứng đầu các vụ, tổng vụ trong bộ máy hành chính, các hiệp hội kinh tế cung cấp thông tin, tham gia các hội thảo và gây sự chú ý của giới chức quản lý đối với những vấn đề mà hiệp hội quan tâm. Không hiếm khi người ta tiến hành vận động bằng cách cung cấp tài chính và tổ chức những chuyến thăm quan, khảo sát thực tế cho giới chức quản lý. Tương tự như vậy, quà biếu và chia sẻ những khoản lợi nhằm gây cảm tình và tăng sự chú ý, tăng mối quan tâm của giới chức quản lý là những công cụ quen thuộc được dùng trong quá trình vận động. Bằng những cách đó, hiệp hội cung cấp thông tin và định hướng dư luận, hướng quan chức quản lý vào những vấn đề có lợi cho họ. Sau khi chính sách được lựa chọn dưới những ảnh hưởng và tác động như vậy, bộ có trách nhiệm chính thường sẽ chủ trì việc soạn thảo dự luật. Sau khi có ý kiến của các ban ngành hữu quan và ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, dự luật thường được trình Chính phủ xem xét và quyết định trước khi trình cho các cơ quan của Quốc hội.

Vận động để dẫn tới một dự luật đã là một thành công của hiệp hội, song để một dự luật trở thành một đạo luật được ban hành và có hiệu lực trong tương lai, các hiệp hội tiếp tục quá trình vận động của họ tại Quốc hội, đặc biệt là vận động tại các uỷ ban. Trong các phiên họp toàn thể, quốc hội nhiều nước thường thảo luận dự luật qua hai hoặc nhiều lần, người ta gọi là những lần đọc. Trong lần đọc thứ nhất, người ta thường thông báo nội dung dự luật và chỉ tiến hành thảo luận nếu có yêu cầu của những nhóm nghị sĩ theo một thể thức nhất định. Mục đích của lần đọc thứ nhất thường thông báo cho công chúng về dự kiến ban hành một chính sách và phát tín hiệu cho sự quan tâm của các nhóm lợi ích trong xã hội. Sau đó việc xem xét các dự luật thường được tiến hành một cách cẩn trọng tại các uỷ ban quốc hội.

Quốc hội nhiều nước Phương Tây thường có từ 25-30 uỷ ban, tuỳ theo mỗi uỷ ban mà số lượng các uỷ viên tham gia có thể giao động từ 15-40 người [[35]]. Trong số các uỷ viên đó, chủ tịch các uỷ ban Quốc hội có một vai trò cực kỳ quan trọng trong quy trình lập pháp; bằng thủ tục nghị viện ông ta có thể thúc đẩy hoặc trì hoãn thông qua một dự luật. Từ thực tiễn hoạt động Quốc hội Hoa Kỳ cho thấy, chỉ có khoảng 10% các dự luật được các uỷ ban thông qua để trình Hạ viện thảo luận. Bởi vậy, những người vận động hành lang tìm cách tiếp cận những nghị sĩ chủ chốt này và thuyết phục họ đưa dự luật vào chương trình nghị sự; chuẩn bị thông tin cho các nghị sĩ chuẩn bị báo cáo của các uỷ ban, cũng như tìm cách giảm bớt các ý kiến phản đối hoặc thù địch trong các tiểu ban hoặc nhóm làm việc của uỷ ban.

Việc vận động hành lang của các hiệp hội tại quốc hội tiếp diễn trong những lần thảo luận tiếp theo tại các phiên họp toàn thể, cho đến khi dự luật được thông qua. Mục đích của vận động trong giai đoạn này chủ yếu nhằm định hướng mối quan tâm của các nghị sĩ và giảm bớt các ý kiến đối nghịch. Các hiệp hội thường lôi kéo quan chức đã nghỉ hưu hoặc người đã từng là nghị sĩ trong các nhiệm kỳ trước làm người vận động cho hiệp hội của mình. Mối quan hệ với giới chức quản lý và kinh nghiệm nghị trường giúp cho những người này dễ dàng hơn khi vận động cho một chính sách.

Tóm lại, không chỉ là gây dựng những mối quan hệ thân thiện, dành quà tặng và lợi ích cho giới hoạch định chính sách, các hiệp hội gây ảnh hưởng chủ yếu bằng cách cung cấp thông tin và định hướng dư luận. Họ tìm cách thuyết phục quan chức hành chính và những nhà lập pháp về tầm quan trọng và tính hợp lý của những chính sách có lợi cho hiệp hội của họ; họ gia nhập các diễn đàn để góp phần từng bước chuyển hoá chính sách dưới dạng những văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành. Đó chính là bản chất của vận động hành lang trong các xã hội Phương Tây.

* Nhu cầu giám sát ảnh hưởng của các hiệp hội

Những quan sát trên cho thấy ảnh hưởng của các hiệp hội, nhất là hiệp hội kinh tế, trong đời sống chính trị là tất yếu và khó có thể ngăn cản. Hiệp hội là sự liên kết tự nguyện của nhân dân, tiếng nói của họ là tiếng vọng của lòng dân. Hàng vạn hiệp hội ví như những ngọn đuốc thắp sáng lên ý chí nhân dân, thực hiện ý chí đó tức là góp phần làm cho người dân trở thành chủ.

Tuy nhiên, sự bất cân xứng trong tiềm năng gây ảnh hưởng đến chính sách và pháp luật của các hiệp hội lại là một nguy cơ đe doạ chế độ dân chủ. Với sức mạnh kinh tế, tài chính và các mối quan hệ thân thiện với giới chức quản lý, các hiệp hội kinh tế ở đâu cũng có một vị thế áp đảo trong việc vận động các chính sách có lợi cho mình. Lắc một hộp giấy có chứa một chùm chìa khoá, nút chai nhựa, ít mảnh giấy vụn và bông gòn; người ta thường chỉ nghe thấy tiếng kêu của chìa khoá mà thôi. Bởi vậy, ngăn ngừa trừng trị hối lộ, minh bạch hoá quy trình vận động hành lang của các hiệp hội kinh tế trở thành một chủ đề chính khi nghiên cứu ảnh hưởng của các tổ chức này đối với đời sống chính trị. Có nhiều phương cách để từng bước đạt được mục đích đó. Nghiên cứu để ban hành một quy chế giám sát và minh bạch hoá các hoạt động vận động hành lang là một trong vô số các phương pháp đó.

Về phương diện này, kinh nghiệm nước ngoài có thể có một giá trị nhất định. Hoa Kỳ có lẽ là quốc gia đầu tiên tìm cách đưa hoạt động vận động hành lang vào khuôn khổ pháp luật. Sau khi bang Massachusetts ban hành một đạo luật về vận động hành lang đầu tiên trên thế giới (1890), nhiều bang của Hoa Kỳ đã nối tiếp ban hành các đạo luật tương tự. Chính phủ liên bang Mỹ cũng ban hành một đạo luật về vận động hành lang tại Quốc hội năm 1946, có sửa đổi bổ sung đáng kể vào năm 1995 và các tu chính án. Theo đó, người được coi là hành nghề vận động hành lang là người dành ít nhất 20% thời gian làm việc cho công việc này. Muốn vận động hành lang tại Quốc hội Mỹ, người vận động phải tiến hành đăng ký với Quốc hội, trốn không đăng ký sẽ bị phạt không dưới 50.000 USD. Sau khi đăng ký, những người này phải công khai nguồn cung cấp tài chính, hàng quý và bán niên phải nộp các báo cáo về hoạt động của mình, trong đó phải tường trình các nguồn quỹ tài chính và mức độ sử dụng. Mục đích của các quy định này không phải là ngăn cản hiệp hội tiến hành vận động chính sách đối với các nghị sĩ, mà ngược lại khuyến khích họ tiến hành công việc đó một cách công khai và tường minh, đặt các quan hệ này dưới sự giám sát của Quốc hội và công luận. Sau Hoa Kỳ, nhiều nước Châu Âu, trong đó có Đức, cũng ban hành những đạo luật tương tự nhằm minh bạch hoá các giao dịch liên quan tới vận động chính sách tại nghị trường [[36]]. Từ một số nghiên cứu kinh tế học, nhiều người cho rằng, càng tăng quy chế minh bạch hoá hoạt động vận động hành lang, những người làm nghề vận động càng buộc phải cung cấp thông tin sát thực. Từ đó các nghị sĩ càng có thêm thông tin để đánh giá đúng tình hình và đưa những chính sách có lợi cho số đông các giai tầng xã hội [[37]].

Những kinh nghiệm và kết luận kể trên cần được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, bởi lẽ sự gian díu giữa các loại quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế dường như ở đâu cũng đầy bí ẩn. Thêm nữa, cách thức mà hiệp hội tác động vào đời sống chính trị biến đổi khôn lường, hoạt động nghị trường chỉ là một phần nổi của tảng băng chính sự xưa cũng như nay vốn vẫn chìm trong nhiều quy luật chưa được khám phá.

Tóm lại, Hội đoàn là một sinh hoạt cộng đồng, có lẽ đã cổ xưa như chính lịch sử con người. Tuy vậy, hiện diện của hội đoàn và các nhóm lợi ích trong đời sống chính trị, đặc biệt trong quá trình xây dựng chính sách và lập pháp, dường như vẫn còn là một đề tài rất mới trong thời đại ngày nay. Sự tái xuất hiện và gia tăng ảnh hưởng của các hiệp hội, nhất là hiệp hội kinh tế ở Việt Nam, làm cho việc nghiên cứu quy luật hoạt động của những mô hình này trở nên cần thiết. Các hiệp hội này tìm cách gây ảnh hưởng đối với hoạt động lập pháp chủ yếu thông qua vận động hành lang, trước hết là vận động giới hoạch định chính sách. Vừa cung cấp thông tin, vừa dùng các lợi ích vật chất và tinh thần để có được sự quan tâm ủng hộ của quan chức hành chính và các nhà lập pháp, các hiệp hội có khả năng điều tiết dư luận có lợi cho những chính sách vì lợi ích của họ. Minh bạch hoá các giao dịch vận động hành lang này là một cách hợp lý để giám sát ảnh hưởng của hiệp hội, đảm bảo cho các chính sách và pháp luật được ban hành vì lợi ích của số đông dân chúng./.

Kết luận

1.Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ngày càng phát huy vai trò là một chủ thể quan trong tham gia xây dựng chính sách pháp luật kinh tế, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước.

2.Các quy định về điều kiện phải có sự tham gia ý kiến của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật là một bước tiến quan trọng của pháp luật Việt Nam trong việc xác định Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

3.Bên cạnh những ưu điểm, pháp luật về sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ở Việt Nam trong xây dựng chính sách pháp luật kinh tế còn mang tính thủ tục, thiếu những quy định cụ thể để tạo ra cơ chế thực thi.

          4.So sánh thực tiễn nước ngoài với thực tiễn Việt Nam trong việc thực hiện vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc tham gia xây dựng chính sách pháp luật kinh tế là căn cứ để xác định những tương đồng và khác biệt,chọn lọc những kinh nghiệm có thể học tập phù hợp với điều kiện chính trị-pháp lý của Việt Nam.

 

 

CHƯƠNG III

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM GIA XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT KINH TẾ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP VÀ HIỆP HỘI KINH TẾ

3.1. Giải pháp về phát triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế

Ở Việt Nam, một hiện tượng khá đặc biệt, sau gần 5 thập kỷ tĩnh lặng, những năm vừa qua, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế đã phát triển mạnh, mau chóng tập hợp lực lượng và đang gây ảnh hưởng tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nước ta. Từ hiệp hội thép; mía đường; rượu, bia, nước giải khát; du lịch; quảng cáo, cho đến những hội tân kỳ như hiệp hội chứng khoán, hiệp hội các nhà đầu tư tài chính.. vô số hiệp hội kinh tế đã ra đời trong một thời gian ngắn; hoạt động của chúng trải rộng từ địa phương, tới toàn quốc hoặc vươn ảnh hưởng ra khu vực và quốc tế [[38]].

Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam, các doanh nghiệp phải gia nhập các hiệp hội vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, tham gia hiệp hội để được bảo vệ quyền lợi hợp pháp một cách có tổ chức.

Tiến trình cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước đang diễn ra một cách mạnh mẽ mà trọng tâm của nó là tách bạch chức năng quản lý hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước với chức năng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tiến tới xoá bỏ sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp. Theo đó, khái niệm “cơ quan chủ quản” của doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã) sẽ dần mất đi, một số điều kiện thuận lợi do cơ quan chủ quản đưa lại sẽ không còn nữa, mọi doanh nghiệp sẽ bình đẳng trước pháp luật, do vậy, nhu cầu dựa vào các hiệp hội để hỗ trợ và đại diện bảo vệ quyền lợi cho hội viên sẽ tăng lên.

Thứ hai, doanh nghiệp tham gia hiệp hội nâng cao năng lực cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật,

Trong quá trình phát triển và hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) sẽ bị cạnh tranh mạnh. Trong khi đó, với năng lực cạnh tranh thấp (hạn chế về tài chính, nhân lực, công nghệ, thông tin, kỹ năng quản lý...) thì tất yếu các doanh nghiệp sẽ đoàn kết tập hợp lại theo các ngành hàng để tăng năng lực cạnh tranh cho mình. Thông qua các hiệp hội, doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận được thị trường rộng lớn hơn, được hưởng các dịch vụ tốt hơn, được bảo vệ và hỗ trợ hiệu qủa hơn, tránh lãng phí các nguồn lực.

Khi tham gia vào thị trường quốc tế sẽ có những thoả thuận, đàm phán giữa các khu vực thị trường về chính sách khuyến mại, bảo hộ... Đây là lúc các hiệp hội thể hiện vai trò của mình, đấu tranh cho các hội viên và cũng chỉ có hiệp hội mới làm được điều này. Doanh nghiệp đứng ngoài hiệp hội vừa bị thiếu thông tin, vừa bị thua thiệt, vừa không có tiếng nói, ảnh hưởng đến uy tín trên thương trường. Hiệp hội sẽ là tổ chức hợp tác, liên kết “mềm” theo chiều ngang để phối hợp hoạt động bảo vệ lợi ích chung và giúp nhau nâng cao sức cạnh tranh và đó là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Nhận thức được vai trò và tác dụng rất quan trọng đó của hiệp hội các tổ chức kinh tế, Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo: “Phát triển các hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với các hợp tác xã, với các hộ nông dân, xây dựng các hiệp hội ngành nghề theo cơ chế dân chủ, tự quản”. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá IX (3/2002) về phát triển kinh tế tư nhân cũng khẳng định việc tăng cường vai trò các hiệp hội doanh nghiệp: Phát triển vai trò Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam và các hội doanh nghiệp, có chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động của các hiệp hội...

Cả nước hiện có gần 140.000 doanh nghiệp và trên 2 triệu hộ kinh doanh. Phần lớn các doanh nghiệp đều là doanh nghiệp nhỏ và vừa (Theo quy định tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ thì các doanh nghiệp này có số công nhân dưới 300 người, số vốn kinh doanh dưới 10 tỷ đồng; các doanh nghiệp có quy mô cực nhỏ như hộ kinh doanh cá thể cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này). Với ưu thế nổi bật như: tính đơn giản trong quá trình ra quyết định; sự linh hoạt, năng động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và khả năng thích ứng với những thay đổi thị trường... thì các doanh nghiệp này cũng gặp phải không ít những khó khăn như: trình độ, kỹ năng quản lý thấp; nguồn tài chính hạn chế; khả năng tiếp cận thông tin, thị trường hạn chế; công nghệ và thiết bị lạc hậu; dễ bị ảnh hưởng khi có sự thay đổi chính sách. Vì vậy nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp này là đoàn kết lại thành lập các hiệp hội, qua đó, hỗ trợ phát triển để bảo vệ quyền lợi và mở rộng quan hệ làm ăn. Thực tế cho thấy, ngay cả các doanh nghiệp lớn cũng khó có thể tự mình giải quyết mọi vấn đề mà vẫn muốn thông qua các hiệp hội bảo vệ quyền lợi của mình và tận dụng sức mạnh tập thể để phát triển.

Theo thống kê của Bộ Nội vụ, cho đến nay cả nước có khoảng 200 hội có phạm vi hoạt động trên toàn quốc và 1.400 hội địa phương. Đây là tổ chức hội tự nguyện mà hội viên của nó bao gồm các doanh nghiệp trong đó có cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Sự giao kết này mở ra những khả năng to lớn để các hiệp hội của các tổ chức kinh tế thực hiện tốt việc thống nhất các nguyên tắc và ý tưởng phát triển sản xuất kinh doanh, hỗ trợ nhau vượt qua các trở ngại đề giành lấy hiệu quả trong thương trường. Ở cấp toàn quốc có một loạt các hiệp hội doanh nghiệp ngành nghề như Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Da giầy Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Hiệp hội Lương thực, Hiệp hội Gốm sứ, Hội đồng các doanh nghiệp trẻ Việt Nam, Câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Câu lạc bộ giám đốc Trung ương, Câu lạc bộ các doanh nghiệp. Ở cấp địa phương cũng xuất hiện nhiều hội doanh nghiệp độc lập hoặc đồng thời là thành viên của các hiệp hội cấp toàn quốc như Câu lạc bộ doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, Câu lạc bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thành phố Hà Nội. Ngoài ra còn có gần 20 hiệp hội của các tổ chức kinh tế của người nước ngoài tại Việt Nam như Hiệp hội các doanh nghiệp Mỹ, Hiệp hội các doanh nghiệp Nhật Bản… và không ít các Hội đồng doanh nghiệp hỗn hợp giữa Việt Nam với các nước như Hội đồng doanh nghiệp Việt Nam - Thụy Điển, Hội đồng doanh nghiệp Việt Nam - Ôxtrâylia… Những năm qua, nhiều hiệp hội của các tổ chức kinh tế hoạt động có hiệu quả, đem lại những thành tích rất đáng tự hào, cả về lợi ích doanh nghiệp lẫn lợi ích xã hội như Hiệp hội cà phê - ca cao, Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải, Hiệp hội xi măng, Hiệp hội xuất khẩu thuỷ sản…Thực ra, tham gia hiệp hội không chỉ là các doanh nghiệp (enterprise, corporation, company) mà còn có thể gồm một số tổ chức kinh tế kỹ thuật khác có chung lợi ích cần liên kết để cùng nhau bảo vệ và phát triển (như hợp tác xã, trang trại, đơn vị dịch vụ khoa học - công nghệ, ngân hàng tín dụng...).

Để phát triển các tổ chức xã hội và hiệp hội kinh tế ở nước ta cần thiết phải chú trọng các hoạt động sau:

Một là, khuyến khích các hiệp hội thiết lập những mối quan hệ hợp tác, liên kết hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp thành viên, họ đã biết chung sức chung lòng thực thi các dự án lớn, chia sẻ cơ hội và rủi ro. Các hiệp hội đã thực hiện tốt vai trò môi giới (cầu nối) giữa các nhà khoa học công nghệ, kể cả chuyên gia nước ngoài, giữa cơ quan quản lý nhà nước, giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực với các doanh nghiệp để đưa khoa học công nghệ mới và nhân lực mới vào sản xuất kinh doanh, tất cả vì sự phát triển của doanh nghiệp và sự phồn thịnh của xã hội.

Hai là, Nhà nước cần tạo điều kiện để các hiệp hội trao đổi kinh nghiệm, trao đổi thông tin kinh doanh nghiệp vụ cho các doanh nghiệp thường xuyên và liên tục thông qua các hội thảo, các lớp huấn luyện ngắn ngày, các tạp chí thông tin…làm cho hiệp hội có ý nghĩa thiết thực đối với các thành viên.

Ba là, Nhà nước tạo điều kiện để các hiệp hội làm tốt chức năng đại diện để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các doanh nghiệp thành viên và của cộng đồng trên các diễn đàn trong nước, trong khu vực và trên thế giới, qua đó nâng cao uy tín của các doanh nghiệp, làm cơ sở cho liên kết liên doanh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài hiệp hội, giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài. Thực tế nhiều hiệp hội đã tham gia các hiệp hội kinh tế trong khu vực và thế giới như Hiệp hội doanh nghiệp ngân hàng, Hiệp hội doanh nghiệp cà phê - ca cao…đã mang lại lợi ích thiết thực cho thành viên của mình.

Bốn là, Đổi mới cơ chế để hiệp hội đại diện cho các doanh nghiệp của mình phản ánh với Nhà nước về các vấn đề có liên quan đến các chính sách, luật pháp, chiến lược phát triển… tạo nên một kênh thông tin, một luồng ý kiến tư vấn cho Đảng và Nhà nước, cho địa phương để các cấp có thẩm quyền đưa ra được những quyết sách khả thi, hiệu quả.

Hiệu quả tổ chức và hoạt động của hiệp hội của các tổ chức kinh tế tuỳ thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố thuộc về bản thân hiệp hội như: cơ sở vật chất và trang thiết bị, khả năng nguồn tài chính và đặc biệt là nhân sự lãnh đạo và thường trực của hiệp hội, mà điểm chính là năng lực và nhiệt tình của Ban lãnh đạo… Các hiệp hội kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển lành mạnh qua việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thành viên, giải quyết các tranh chấp hoặc các hành vi độc quyền, lũng đoạn (có thể thấy rõ qua các vụ kiện quốc tế về cá ba sa, về tôm, về giầy da... trong đó, tác dụng của hiệp hội rất lớn). Đây là nhân tố rất cần được chúng ta phát huy trong quá trình hội nhập kinh tế với thế giới mà các doanh nghiệp ở nước ta còn nhiều hạn chế về sức cạnh tranh. Chỉ có sự liên kết để yểm trợ lẫn nhau trong các hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nghiệp mới đủ sức vươn lên, mở rộng và trấn giữ thị trường và đó là quan hệ đồng minh để đối phó với sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường.

Nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, những năm gần đây đã xuất hiện nhiều hình thức liên kết đa dạng mang tính cộng đồng hỗ trợ cho sự phát triển và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp cần được tổng kết thực tiễn phát triển. Một trong những loại hình liên kết đó là các Hiệp hội ngành hàng. Hiệp hội ngành hàng không chỉ là khuôn khổ cho các mối quan hệ liên kết tự nguyện của các doanh nghiệp mà còn là cầu nối của quan hệ hợp tác giữa các cơ quan chính quyền với doanh nghiệp, một xu hướng và yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại. Hiệp hội các ngành hàng xuất khẩu mới chỉ bó hẹp trong phạm vi doanh nghiệp nhà nước, còn hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài) chưa được tham gia vào hiệp hội với tư cách là thành viên chính thức mà chỉ là tư cách thành viên liên kết, không tham gia bầu cử và ứng cử vào ban lãnh đạo Hội, không biểu quyết các vấn đề của Hội (Điều 18 Nghị định số 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ).

Hiệp hội là loại hình tổ chức mới, mô hình rất đa dạng, mỗi hiệp hội lại có đặc thù riêng nên hầu hết các hiệp hội chưa có kinh nghiệm về tổ chức và họat động. Một số hội viên lại chưa chủ động phối hợp hoạt động giữa các thành viên nhằm đấu tranh bảo vệ quyền lợi của các thành viên, nhất là trong quan hệ đối ngoại, chưa quen với phương thức hoạt động của các hiệp hội trong kinh tế thị trường, đó là chưa kể một số hiệp hội hoạt động còn dựa vào Nhà nước thì vai trò lãnh đạo mang tính định hướng và tạo lập môi trường chính trị- pháp lý của Nhà nước có vai trò rất quan trọng.

Tóm lại, để phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, trước hết phải phát triển và nâng cao năng lực của chính họ. Nhà nước muốn các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế phát huy được vai trò trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế thì không chỉ đóng vai trò là chủ thể trao quyền mà phải là chủ thể đóng vai trò tổ chức mang tính định hướng, tạo lập môi trường chính trị- pháp lý để các hội, hiệp hội phát triển và tham gia có hiệu quả thiết thực vào đời sống chính trị - pháp lý của đất nước.

3.2.Giải pháp về hoàn thiện pháp luật.

3.2.1. Giải pháp chung

 Sớm ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lí cao như luật, pháp lệnh về quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân và các tổ chức phi chính phủ, tạo cơ chế pháp luật cho việc tham gia một cách thiết thực, hiệu quả vào việc quản lí nhà nước, quản lí xã hội của người dân và các tổ chức của họ như Luật về trưng cầu dân ý, Luật về hội; Hoàn thiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng mở rộng sự tham gia trực tiếp của người dân và các tổ chức phi chính phủ vào quy trình nghiên cứu, điều tra tình hình kinh tế xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh pháp luật của các quan hệ xã hội, soạn thảo dự án, dự thảo văn bản chính sách, pháp luật… Đối với Luật về hội, cần khẳng định vị trí, vai trò, quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế, tạo môi trường pháp lí thuận lợi để các tổ chức đó phát huy vai trò của mình trên thực tế đối với quy trình ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là trên lĩnh vực kinh tế.

Hoàn thiện các quy định pháp luật về các hình thức tham gia cụ thể đối với quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế như:

- Tham gia điều tra tình hình kinh tế xã hội, xác định nhu cầu điều chỉnh pháp luật: Luật về hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan cần có những quy định cụ thể hình thức tham gia này cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế. Về phương án cụ thể, theo chúng tôi, trước mắt cần quy định rõ đối với các chính sách, pháp luật có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp là thành viên của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế thì tổ chức đại diện rộng lớn nhất của họ phải được tham gia ngay từ khâu đầu tiên của quy trình xây dựng chính sách, pháp luật. Chẳng hạn, đối với việc hoạch định chính sách, pháp luật có tầm quốc gia thì Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam có thể được giao nhiệm vụ này, kèm theo khoản đầu tư kinh phí tương xứng từ ngân sách nhà nước. Tuỳ theo yêu cầu cụ thể và năng lực thực tế của các tổ chức đó, pháp luật nên quy định rõ các mức độ tham gia như trực tiếp đảm nhận toàn bộ khâu này với sự giám sát, hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cùng phối hợp tham gia với cơ quan nhà nước, đảm nhận một số khâu, công đoạn… hay tham gia với tư cách tư vấn, phản biện…

Sau một thời gian, cần có sự tổng kết rút kinh nghiệm và dần dần có thể giao việc thực hiện công đoạn này cho tổ chức xã hội đảm nhiệm là chủ yếu, cơ quan nhà nước đóng vai trò thẩm tra, nghiệm thu…

- Tham gia ban soạn thảo: Đây là hình thức tham gia mang tính tích cực chủ động cao, thể hiện vai trò và trách nhiệm to lớn của tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế, nhất là các tổ chức liên minh cao nhất của họ như Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam hay Liên minh hợp tác xã Việt Nam… Pháp luật cần quy định rõ nhất thiết phải có đại diện các tổ chức liên quan tham gia ban soạn thảo đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Ở đây, có hai vấn đề cần được quy định dứt khoát, một là, nếu tổ chức nào có đại diện tham gia ban soạn thảo thì tổ chức đó phải có trách nhiệm huy động nhân lực, vật chất cùng tham gia, đảm bảo cho người đại diện trình bày thể hiện các quan điểm của tổ chức khi tiến hành tham gia soạn thảo. Hai là quy trình, nguyên tắc làm việc của ban soạn thảo phải thể hiện tính dân chủ, bình đẳng, phát huy năng lực của mọi thành viên ban soạn thảo, tránh mọi biểu hiện áp đặt, thiên vị, coi thường các tổ chức hiệp hội.

Theo tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chúng ta ngày càng phải tăng cường hơn nữa hình thức tham gia này cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế. Thậm chí có thể quy định việc lựa chọn một số phương án dự thảo khác nhau, cơ quan chủ trì tập trung vào việc thẩm định, lựa chọn phương án, phản biện và nghiệm thu dự thảo.

- Tham gia góp ý dự án, dự thảo: Hình thức tham gia này chiếm vị trí chủ yếu hiện nay. Tuy nhiên, pháp luật cần quy định rõ hơn một số vấn đề như đảm bảo có cả ý kiến tham gia cụ thể của các hiệp hội có liên quan và ý kiến tổng hợp của tổ chức xã hội đại diện lớn nhất cho họ; quy định rõ quyền bảo lưu ý kiến tham gia và công bố công khai ý kiến đó trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt khác, pháp luật cũng cần mở rộng phạm vi hình thức tham gia này của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiêp hội kinh tế bằng quy định các tổ chức xã hội đại diện lớn nhất của họ có quyền phản biện đối với bộ phận hay toàn bộ nội dung bản thảo văn bản chính sách, pháp luật dự kiến trình ra cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cũng phải công bố rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng.

-Tham gia ý kiến đề nghị bổ sung, sửa đổi, huỷ bỏ văn bản hiện hành, ban hành văn bản mới: Hình thức tham gia này trên thực tế chưa phát huy được tác dụng nhiều. Theo chúng tôi, phải coi đây là quyền đưa ra sáng kiến chính sách, pháp luật - một trong những hình thức pháp lí thể hiện tính độc lập sáng tạo và vai trò chủ động tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội ở mức độ cao của các tổ chức phi chính phủ ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay mới chỉ quy định nguyên tắc chung là cá nhân, tổ chức có quyền tham gia ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ văn bản sai trái mà chưa có quy định cụ thể về phương thức tham gia đưa sáng kiến chính sách, pháp luật nói chung. Đây là vấn đề mà chúng ta cần nghiên cứu kinh nghiệm các nước để có thể có giải pháp thích hợp đối với tình hình kinh tế xã hội của nước ta.

Thứ nhất, Pháp luật cần quy định rõ quyền được tham gia vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế ngay từ giai đoạn đưa ra sáng kiến pháp luật. Như vậy, Luật ban hành VBQPPL phải sửa theo hướng mở rộng đối tượng chủ thể sáng kiến pháp luật trong đó có hiệp hội kinh tế và các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Trong sáng kiến pháp luật cần nêu rõ đối tượng chịu sự tác động và đồng thời là đối tượng cần tham khảo ý kiến. Đồng thời phải công khai việc lấy ý kiến rộng rãi chương trình xây dựng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền…

Thứ hai, phải đa dạng hoá thành phần ban soạn thảo ngoài đại diện các Bộ, Ngành cần có đại diện cho các nhóm lợi ích, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp (đối tượng chịu tác động của văn bản) nhằm bảo đảm tính khách quan, dân chủ trong xây dựng pháp luật. Đồng thời, cần luật hoá trách nhiệm của ban soạn thảo trong việc tổ chức lấy ý kiến. Việc lấy ý kiến các đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản là bắt buộc mà không nên quy định có tính chất tuỳ nghi như tại điều 26 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung và số lần lấy ý kiến là không hạn chế.

- Ban soạn thảo phải giải trình và công khai ý kiến đóng góp và cho ý kiến trả lời tiếp thu hay không tiếp thu ý kiến đóng góp đó và lý do cụ thể, để xoá bỏ tình trạng lấy ý kiến chỉ mang tính chất hình thức, chiếu lệ.

- Mọi ý kiến đóng góp được ghi nhận - phản hồi lưu giữ để gửi cho cơ quan thẩm định, cơ quan thẩm tra. Cơ quan thẩm định, thẩm tra phải kiểm tra cả việc lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động này và việc tiếp thu chỉnh lý của cơ quan soạn thảo văn bản. Cơ quan thẩm định, thẩm tra sẽ không thẩm định, thẩm tra nếu trong hồ sơ không có bản báo cáo tổng hợp quá trình và kết quả lấy ý kiến cụ thể. Trong báo cáo tổng hợp của ban soạn thảo phải trình bày rõ thời gian, địa điểm, các hình thức lấy ý kiến, số lần lấy ý kiến, việc tiếp thu và phản hồi ý kiến như thế nào…)

Thứ ba, phải quy định rõ cơ chế phối hợp giữa ban soạn thảo và các tổ chức đóng vai trò trung gian kết nối ban soạn thảo với các đối tượng cần xin ý kiến. Đặc biệt trong các trường hợp xin ý kiến các doanh nghiệp thông qua tổ chức đại diện cộng đồng doanh nghiệp như VCCI, các hiệp hội ngành nghề. Chẳng hạn, ban soạn thảo có trách nhiệm cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin như quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật…kèm theo các dự thảo VBQPPL mà Ban soạn thảo đã thống nhất gửi cho hiệp hội để hiệp hội triển khai các hoạt động xin ý kiến thành viên. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật áp dụng chung hoặc có tính chất quan trọng thì phải có hình thức thông báo công khai trên báo hoặc trên trang web và đăng công khai dự thảo. Ban soạn thảo phối hợp với tổ chức hiệp hội tổ chức toạ đàm hoặc hội thảo với các thành viên hiệp hội; hiệp hội có trách nhiệm tập hợp trung thực, đầy đủ các ý kiến của thành viên và chuyển cho ban soạn thảo trong thời hạn quy định…

Thứ tư, từng bước tiến hành hình thức đấu thầu trong soạn thảo các dự án luật và pháp lệnh nhằm hạn chế tính chủ quan cục bộ của chính cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành được giao nhiệm vụ trực tiếp soạn thảo VBQPPL trong lĩnh vực quản lý của mình. Cơ quan chủ trì soạn thảo có thể đặt ra các tiêu chí soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật như về nội dung, hình thức, tính khả thi, thời gian, chi phí… để các đối tượng như Trường đại học, Viện nghiên cứu, nhóm chuyên gia, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế và công ty luật đều có thể tham gia đấu thầu;

Thứ năm, pháp luật cần quy định việc tiếp thu ý kiến đóng góp cũng là trách nhiệm của cơ quan thẩm định, thẩm tra.

Thứ sáu, Nhà nước nên nghiên cứu để sớm xây dựng Dự luật lấy ý kiến công chúng quy định chi tiết về trình tự lấy ý kiến công chúng, trách nhiệm của ban soạn thảo trong việc lấy ý kiến công chúng và tiếp thu, phản hồi ý kiến của công chúng ( tham khảo kinh nghiệm của Thái lan).

Thứ bảy, nghiên cứu cơ chế vận động hành lang để vận dụng những yếu tố tích cực của nó trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam để xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động vận động hành lang để việc vận động này được công khai, minh bạch và dễ kiểm soát bảo đảm phù hợp với cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của đất nước.

Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trước khi soạn thảo các chương, điều, có thể lập ra các “Hội đồng tư vấn” để thảo luận, xác định ý tưởng lập pháp, phác thảo những tư tưởng căn bản của văn bản pháp luật cần soạn thảo trong đó có sự tham gia của đại diện các Hiệp hội doanh nghiệp để khắc phục hạn chế hiện nay là gửi dự thảo văn bản tới các Hiệp hội chủ yếu diễn ra tại thời điểm các dự thảo đã tương đối hoàn chỉnh, ít nhất là ý đồ điều chỉnh, những nội dung căn bản trong chính sách đã được quyết định rồi, vì thế, các doanh nghiệp rất khó có thể bày tỏ ý kiến quan trọng liên quan tới chính sách thể hiện trong văn bản. Rất hiếm khi việc phản hồi từ phía cộng đồng doanh nghiệp lại khiến cho Ban soạn thảo kết cấu lại những vấn đề có tính chất chính sách, nền tảng trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì thế, việc góp ý từ phía hiệp hội cộng đồng doanh nghiệp thường chỉ là những vấn đề về kỹ thuật lập pháp, một vài chính sách nhỏ, chứ chưa phải là góp ý những vấn đề có tính chất chính sách nền tảng.

3.2.2. Gi¶i ph¸p vÒ tæ chøc thùc hiÖn

Việc tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế tham gia vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế không nên hiểu một cách tuyệt đối là bất kỳ tổ chức/hiệp hội nào cũng phải tham gia hay mỗi một tổ chức/hiệp hội phải tham gia xây dựng tất cả các loại chính sách/văn bản pháp luật kinh tế. Hoạt động xây dựng pháp luật là một hoạt động do Nhà nước thực hiện, việc tổ chức để các nhóm đối tượng khác nhau cùng tham gia xây dựng pháp luật phải bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý và khoa học. Do vậy, cần nghiên cứu để có phương thức tổ chức thích hợp dựa trên các tiêu chí nhất định.

Dưới đây chúng tôi xin đề xuất một số yêu cầu cơ bản đối với sự tham gia của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Yêu cầu này được xem xét từ hai giác độ: từ phía cơ quan nhà nước - chủ thể ban hành chính sách và từ phía các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế - đối tượng chịu sự tác động của chính sách.

Trước hết, từ phía cơ quan nhà nước, cần tạo điều kiện để các tổ chức xã hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế tham gia thực sự vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật kinh tế. Để đạt được điều này, quá trình xây dựng chính sách pháp luật kinh tế cần:

Đảm bảo tính công khai, minh bạch trong việc hoạch định và xây dựng thể chế, chính sách pháp luật kinh tế.

Các cơ quan chức năng khi tiến hành xây dựng chính sách/pháp luật kinh tế cần đảm bảo tính công khai, minh bạch của quá trình này. Sự công khai quy trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế có ý nghĩa như là sự thông báo chính thức của nhà nước về ý định xây dựng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ kinh tế nào đó trong tương lai, từ đó các đối tượng dự kiến sẽ chịu sự tác động của văn bản này biết để có những phản ứng thích hợp. Việc công khai phải được thực hiện theo hướng đảm bảo thông tin đầy đủ và kịp thời tới các tổ chức xã hội-nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế cũng như cộng đồng doanh nghiệp thành viên. Sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào quá trình xây dựng các chính sách pháp luật về kinh tế phải được xem như một phần tất yếu của quá trình làm luật, bởi vì mỗi một chính sách kinh tế khi đã được thể chế hoá thành luật đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hiệp hội hay chính là cộng đồng doanh nghiệp – thành viên của các tổ chức, hiệp hội trên có quyền được thông tin về quá trình xây dựng pháp luật kinh tế để chủ động tham gia vào bất cứ giai đoạn nào. Thông tin chính là sức mạnh, nếu doanh nghiệp không có đủ thông tin thì sự tham gia chỉ là hình thức, không thể đạt hiệu quả như mong muốn. Hơn nữa, nếu thiếu thông tin, doanh nghiệp cũng không thể phân định rõ ràng đâu là lợi ích mà doanh nghiệp sẽ được hưởng nếu một văn bản pháp luật nào đó được ban hành, cũng như đâu là sự bất lợi mà doanh nghiệp phải gánh chịu. Cộng đồng doanh nghiệp thông qua các tổ chức/hiệp hội đại diện có quyền được bày tỏ quan điểm, quyền đối thoại trực tiếp với các nhà hoạch định chính sách về những chính sách kinh tế mà Nhà nước dự kiến sẽ ban hành.

Bên cạnh đó, sự công khai sẽ thu hút được sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hiệp hội kinh tế hơn, qua đó nâng cao chất lượng văn bản pháp luật, đồng thời các nhà hoạch định chính sách cũng có thêm kênh thông tin để nắm bắt được quan điểm, ý kiến của các đối tượng mà văn bản sẽ tác động trực tiếp.

Quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật kinh tế cần được đổi mới theo hướng là một quy trình mở.

Thực tế làm luật hiện nay cho thấy, quy trình này thường là một quy trình khép kín trong các cơ quan nhà nước. Sự khép kín này thể hiện từ cơ cấu ban soạn thảo, trình tự soạn thảo, đến việc lấy ý kiến phản biện.... Chính vì là quy trình khép kín nên ngay cả những văn bản mà đối tượng chịu sự tác động trực tiếp là các doanh nghiệp thì việc tổ chức lấy ý kiến góp ý của cộng đồng doanh nghiệp vào dự thảo các văn bản này là rất hình thức và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan soạn thảo.

Hơn nữa, việc xây dựng các văn bản pháp luật do các Bộ/ngành đảm nhận theo từng lĩnh vực quản lý nhà nước dễ dẫn đến tình trạng "quản được đến đâu thì cho phép đến đó". Khắc phục hạn chế này, quy trình xây dựng luật kinh tế cần được đổi mới theo hướng mở, theo đó, có sự tham gia trực tiếp từ phía các tổ chức/hiệp hội để luật pháp khi đã được ban hành phù hợp với tình hình thực tế, có sức sống lâu hơn và góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định.

Đa dạng hoá các hình thức lấy ý kiến: các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế có thể tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế. Cụ thể, việc tham gia có thể theo 4 hình thức sau tương ứng với các giai đoạn của quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế: (i) sáng kiến pháp luật; (ii) soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật; (iii) góp ý dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và (iv) quyết định văn bản quy phạm pháp luật.

Để đảm bảo sự tham gia của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế, tương ứng với mỗi giai đoạn của quá trình xây dựng và ban hành chính sách/pháp luật kinh tế cơ quan nhà nước cần có những hình thức lấy ý kiến phù hợp như:

- Khảo sát, đánh giá nhu cầu xây dựng pháp luật kinh tế của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề...(đề xuất sáng kiến pháp luật)

-Thành lập ban soạn thảo mà thành phần có đại diện của cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức, hiệp hội ngành nghề ....(soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật).

-Khi đã có sáng kiến pháp luật và thể hiện thành dự thảo, tổ chức lấy ý kiến góp ý trực tiếp cho các dự thảo bằng các hình thức như: hội thảo, toạ đàm, khảo sát bằng phiếu hỏi, tổ chức các diễn đàn trao đổi (mạng internet); công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng... (góp ý dự thảo văn bản quy phạm pháp luật).

Như vậy, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế có thể tham gia vào giai đoạn này bằng nhiều hình thức khác nhau như:

(1) Tư vấn qua mạng được sử dụng để thu thập phản hồi của đối tượng chịu sự tác động đối với các chính sách của Chính phủ, các ý kiến đóng góp đối với các dự án luật, các chính sách của Chính phủ;

(2) Kiến nghị bằng văn bản, kiến nghị này được gửi đến Quốc hội (trường hợp Dự thảo 17 Luật đầu tư chung vừa qua khi được xem xét thông qua tại kỳ họp Quốc hội đã có rất nhiều bản kiến nghị được gửi tới Quốc hội/đại biểu Quốc hội như ý kiến của Luật sư Trần Vũ Hải - đại diện cho một nhóm doanh nghiệp, ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài.... và những bản kiến nghị này đã thực sự có tác động không nhỏ tới các đại biểu Quốc hội trong quá trình biểu quyết thông qua luật);

(3) Góp ý bằng văn bản, đây là hình thức ghi lại dưới dạng văn bản ý kiến hoặc quan điểm đối với những vấn đề mà các Ủy ban Quốc hội đang xem xét;

(4) Đối thoại trực tiếp với các cơ quan chức năng, hình thức này được thực hiện thông qua các buổi làm việc giữa cơ quan chức năng với cộng đồng doanh nghiệp, ví dụ VCCI hàng năm đã đứng ra tổ chức các buổi doanh nghiệp đối thoại với ngành thuế, hải quan, Thủ tướng gặp mặt doanh nghiệp.... Những buổi làm việc này được tiến hành công khai và có sự tham gia của bất kỳ ai mong muốn; được thông báo trước các vấn đề cụ thể cần nắm bắt phản ứng của xã hội;

(5) Hội nghị bàn tròn, tổ chức các Tọa đàm giữa Ban soạn thảo với những chuyên gia và những cá nhân, tổ chức có liên quan.

Có cơ chế thiết thực khuyến khích các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội ngành nghề tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật kinh tế.

Ban soạn thảo cần có thái độ hợp tác, cầu thị trong quá trình tổ chức lấy ý kiến phản biện và tiếp thu ý kiến. Theo đó,

- Ban soạn thảo công khai kế hoạch xây dựng văn bản và các vấn đề cần trưng cầu ý kiến.

- Tạo điều kiện để các tổ chức/hiệp hội được tiếp cận tới văn bản sớm để có điều kiện lấy ý kiến một cách rộng rãi.

- Tổng hợp và công khai các ý kiến đóng góp và có bản giải trình việc tiếp thu/không tiếp thu để khuyến khích việc góp ý sau này. Cơ quan chức năng phải thông tin lại hoặc phúc đáp cho các tổ chức/hiệp hội được lấy ý kiến về việc tập hợp, tổng hợp và tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật sau khi kết thúc đợt lấy ý kiến. Mặc dù việc phản hồi ý kiến chưa được quy định trong các văn bản pháp luật quy định về việc lấy ý kiến nhân dân; tuy nhiên, trên thực tế, ở một số dự án luật đã có hình thức phản hồi qua báo chí (đăng báo cáo tổng hợp ý kiến hoặc báo cáo giải trình, tiếp thu của Ban Soạn thảo - trường hợp Luật đất đai), tổ chức báo cáo nội dung tổng kết và trả lời kiến nghị sau đợt lấy ý kiến. Ngoài ra, việc phản hồi cũng có thể được thể hiện qua việc tiếp xúc của các đại biểu Quốc hội, qua công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.

 Từ phía các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế:

a.Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế cần chủ động tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản pháp luật, nhất là những văn bản có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của mình hoặc của các hội viên.

Thông thường, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế ở Việt Nam hiện nay với hội viên là những doanh nghiệp nhỏ lẻ, chưa có được tầm nhìn chiến lược, do đó, chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật, hay nói một cách chính xác hơn là hiệu quả và lợi ích của việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế nên nhận thức rõ việc tham gia vào quá trình hoạch định và xây dựng pháp luật kinh tế là cơ hội để truyền tải những nhu cầu, lợi ích của các hội viên, do đó, cần chủ động tham gia hoặc tạo ra cơ hội để tiếp cận được với quá trình làm luật của các cơ quan công quyền.

Để việc tham gia có hiệu quả, các doanh nghiệp thông qua hiệp hội của mình cần tham gia ngay từ giai đoạn đầu tiên của quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật – giai đoạn sáng kiến pháp luật. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế có thể chủ động, đề xuất chính sách; phát huy lợi thế của hiệp hội, phân tích, đánh giá những ưu và nhược trong các chính sách hiện hành để từ đó có kiến nghị với cơ quan quản lý chuyên ngành sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hay ban hành chính sách mới.

Ngoài ra, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế cần chủ động nâng cao trình độ, kiến thức pháp lý để có thể tham gia hiệu quả vào công tác xây dựng pháp luật kinh tế khi có cơ hội.

b. Đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính, tiến hành xã hội hoá một số hoạt động nhà nước

Nhà nước là một thiết chế của xã hội và không tách rời đời sống xã hội nhưng lại có tính độc lập tương đối. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cả Nhà nước và xã hội đều phải chuyển đổi một cách toàn diện từ vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động. Nền hành chính là khâu thể hiện hàng ngày của Nhà nước, do vậy có ý nghĩa tiên quyết và quan trọng nhất trong mối liên hệ với đời sống xã hội cũng như các thiết chế của nó. Chính vì thế, để đổi mới xã hội, đổi mới nhà nước không thể không nói đến đầu tiên là cải cách nền hành chính.

Chương trình cải cách nền hành chính đến năm 2010 đã được Nhà nước ta đề ra từ năm 2001 đến nay đang thúc đẩy mạnh mẽ, tuy nhiên, vấn đề hiện nay là cần tăng cường hiệu quả, tính hiện thực của các biện pháp.

Để các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế có thể phát triển và thật sự trở thành cầu nối giữa các doanh nghiệp với Nhà nước thì chính Nhà nước trước hết cần phải tạo điều kiện thuận lợi, khách quan cho nó. Đó chính là quá trình đổi mới tổ chức bộ máy hành chính, xác định lại chức năng nhiệm vụ và cơ cấu theo hướng tinh gọn, đa năng, hiệu lực và hiệu quả. Bộ máy nhà nước tập trung vào chức năng quản lí vĩ mô trên cơ sở hệ thống chính sách, pháp luật là chủ yếu, hoạt động kinh tế và sự nghiệp dành cho các đơn vị kinh tế và sự nghiệp có quyền tự do, chủ động. Những công việc quản lí kinh tế-xã hội không nhất thiết do Nhà nước trực tiếp chỉ huy thì phải xã hội hoá, giao cho các tổ chức xã hội và nhân dân tiến hành. Xã hội là vô cùng rộng lớn, bộ máy nhà nước là một giới hạn, chính vì lẽ đó mà nhà nước chỉ có thể làm tốt một số công việc thuộc chức năng vốn có của mình, nhà nước không thể ôm lấy mọi việc, trong khi đó các tổ chức phi chính phủ có điều kiện làm tốt hơn. Tuy vậy, vấn đề thuộc nguyên tắc ở đây là đối với chính sách, pháp luật của nhà nước thì các tổ chức xã hội và công dân chỉ có quyền tham gia ở mức độ nhất định, sao lại đặt vấn đề xã hội hoá cả một số hoạt động thuộc quy trình xây dựng chính sách pháp luật của Nhà nước? Thật ra, việc xã hội hoá một số hoạt động của Nhà nước có nội dung và hình thức và mức độ rất đa dạng, xã hội hoá không có nghĩa là khoán trắng, nhà nước hoàn toàn không để tâm đến, ngược lại, sự tham gia cần được hiểu là một hình thức xã hội hoá từng phần. Mặt khác, chính sách, pháp luật trong nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền còn là công cụ của chính xã hội là nhu cầu khách quan của các quan hệ kinh tế - xã hội. Sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội vào các công việc nhà nước nếu càng nhiều, càng chất lượng và hiệu quả thì sự gắn bó, liên hệ mật thiết giữa Nhà nước với xã hội ngày càng khăng khít, cơ sở xã hội của Nhà nước và chính sách, pháp luật càng được mở rộng vững chắc. Điều đó quyết định sự thành công trong việc tổ chức thực thi các chính sách, pháp luật về kinh tế của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.

c. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ c ủa các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế

Vấn đề cuối cùng nhưng lại là vấn đề cốt lõi của mọi câu chuyện là vấn đề con người, vấn đề cán bộ. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, chủ động hội nhập quốc tế như hiện nay ở nước ta, muốn phát huy được quyền dân chủ, thể hiện vai trò của các tổ chức xã hội thì điều có ý nghĩa quyết định là bản thân đội ngũ cán bộ làm công tác trong các tổ chức xã hội phải vươn lên mạnh mẽ theo kịp bước phát triển của đất nước.

Chúng ta phải khắc phục tình trạng thực tế và tâm lí chỉ coi trọng cán bộ nhà nước, cán bộ xã hội thì lép vế, không được coi trọng. Sự cống hiến cho nhà nước cho xã hội dù ở bất kì vị trí nào cũng được tôn trọng và đối xử bình đẳng, đều vinh dự như nhau. Xã hội chúng ta sẽ phải hình thành những nghề nghiệp mới, những nội dung đào tạo mới, trong đó có đào tạo và bồi dưỡng những con người có đủ phẩm chất và năng lực đại diện cho quyền, lợi ích của các doanh nhân, biết tập hợp các thành viên trên nguyên tắc đảm bảo sức mạnh và lợi ích chung. Khi sự liên minh của các doanh nghiệp trong các hiệp hội là nhu cầu tất yếu không thể thoái thác thì yêu cầu nghề nghiệp đối với những người làm việc ở các tổ chức đó không đơn thuần chỉ là những người hoạt động có tính chất xã hội, không quan trọng, được chăng hay chớ. Những tri thức khoa học tổng hợp, những kĩ năng tiến hành các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của tổ chức xã hội đang đặt ra cho những người hoạt động hiệp hội kinh tế những thách thức mới.

Để thực hiện giải pháp này, chúng tôi cho rằng có liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và chính các hiệp hội kinh tế. Tuy vậy, chúng ta không nên đào tạo cán bộ hoạt động hiệp hội như đào tạo những công chức nhà nước. Họ phải là những người được đào tạo cơ bản như yêu cầu của chính các tổ chức đó, họ là những cán bộ xã hội, trên ý nghĩa nhất định họ là những người hoạt động ở kênh đối trọng nhưng phối hợp thống nhất với hoạt động của các công chức nhà nước, cùng thúc đẩy sự phát triển của đất nước, của nền kinh tế - xã hội.

 

 

KẾT LUẬN

1. Đổi mới và nâng cao vai trò, hiệu quả tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế vào việc xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế phải gắn bó với đổi mới, nâng cao hiệu quả của các thiết chế trong hệ thống chính trị, đặc biệt là hoàn thiện bộ máy chính quyền các cấp.

2. Các biện pháp để nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế phải bảo đảm tác động đối với cả hai phía: tác động đối với chủ thể tham gia và tác động đối với các thiết chế tạo thành một môi trường chính trị -pháp lý để thực hiện vai trò của chủ thể.

3. Các giải pháp nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế phải mang tính đồng bộ, gồm các giải pháp về pháp luật, thiết chế, con người.

4. Trong quá trình phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế trong xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế cần nhận diện rõ lợi ích của chủ thể này từ hai phía vừa là chủ thể tham gia tạo nên chính sách, pháp luật kinh tế, đồng thời lại là chủ thể chịu sự tác động của pháp luật kinh tế để trên cơ sở đó giải quyết hài hoà lợi ích Nhà nước, lợi ích chung và lợi ích của chính chủ thể.

5. Các giải pháp nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và hiệp hội kinh tế không thể rập khuôn cách làm của các nước khác mà phải tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với điều kiện chính trị - pháp lý của Việt Nam phù hợp với năng lực của loại tổ chức này trong đời sống chính trị của đất nước.

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

I/Các văn kiện của Đảng Cộng  sản Việt Nam

  1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật; Hà Nội - 1991, tr.20.
  2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001; tr. 48-49, 130, 134.
  3. Nghị quyết đại hội đại biểu tòa án quốc lần thứ VI- Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VI. Nxb Sự thật năm 1987, trang 128.
  4. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến luợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
  5. Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ  4 khoá VII
  6. Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá IX

II/ Các văn bản pháp luật

  1. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
  2. Bộ luật Dân sự  2005.
  3. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 1996, được sửa đổi, bổ sung năm 2002):
  4. Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND
  5. Sắc lệnh số 120/SL/L004 ngày 20/5/1957 quy định quyền lập hội của công dân
  6. Luật cạnh tranh
  7. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999
  8. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001:

9.Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội

  1. Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
  2. Nghị định 161/2005/NĐ–CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
  3. Nghị định số 258/TTg ngày 14/6/1957 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành Sắc lệnh số 120/SL/L004 ngày 20/5/1957.
  4. Nghị định số 50/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 8 năm 2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam
  5. Nghị định số 88/2003/NĐ - CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
  6. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
  7. Chỉ thị số 01/CT ngày 5/1/1989 của Chính phủ về việc quản lý, tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng
  8. Chỉ thị số 28/2001/CT-TTg ngày 28/11/2001, Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh nhất thiết phải có ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
  9. Điều lệ Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam được phê duyệt theo Quyết định số 43/2003/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 01/8/2003.
  10. Điều lệ liên minh hợp tác xã Việt Nam ban hành kèm Quyết định số 127/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Ngày 17 tháng 11 năm 2000 Về việc chuẩn y Điều lệ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam
  11. Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ban hành kèm Quyết định số 123/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12 tháng 6 năm 2003 về việc phê chuẩn Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
  12. Quyết định 310/TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về quan hệ giữa các cơ quan chính quyền nhà nước với VCCI
  13. Quyết định số 21/2003/QĐ-TTg ngày 29/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước
  14. Quyết định số 38-HĐBT ngày 10/4/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về liên kết kinh tế trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ.
  15. Thông tư số 01/2004/TT-BNV ngày 15/01/2004 Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội
  16. Thông tư số 123/2003/TT-BTC ngày 16/12/2003 Bộ Tài chính hướng dẫn việc hỗ trợ kinh phí ngân sách nhà nước cho các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước

III/ Các tài liệu trong nước  

  1. Đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia vào xây dựng và thực thi pháp luật”, Văn phòng Quốc hội, năm 2003.
  2. Đổi mới quy trình lập pháp, VPQH xuất bản 2003
  3. GS.TS. Lê Minh Tâm - “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - những vấn đề lí luận và thực tiễn”, Nxb. Công an nhân dân, H; 2003; tr.63-65.
  4. P.GS.TS Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật kinh tế, NXB ĐHQG HN, [2004],
  5. Bản tiếp thu ý kiến của UBTVQH về đánh giá thực trạng Hệ thống pháp luật Việt Nam sau 17 năm đổi mới
  6. TS. Trần Anh Tài - “Một số suy nghĩ về vai trò của Nhà nước trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật, T.XX, số 2/2004; tr.3.
  7. TS. Trần Thái Dương, Chức năng kinh tế của nhà nước – lí luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay; Nxb. Công an nhân dân; H, 2004.
  8. Nguyễn Văn Thảo, “Dự báo xu hướng phát triển và ảnh hưởng của hiệp hội đối với phát triển kinh tế và hội nhập” - Kỉ yếu Hội nghị đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của hiệp hội các tổ chức kinh tế trong thời kì đổi mới do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp cùng Bộ nội vụ tổ chức; H, tháng 6/2004.
  9. Thang Văn Phúc (chủ biên) Vai trò của các hội trong đổi mới và phát triển đất nước -  NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội – 2002
  10. Hàn Mạnh Tiến, “Phát triển các hiệp hội doanh nghiệp, thực trạng và một số giải pháp” - Kỉ yếu Hội nghị đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của hiệp hội các tổ chức kinh tế trong thời kì đổi mới do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp cùng Bộ nội vụ tổ chức; H, tháng 6/2004.
  11. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua Nguyễn, NXB Trình bày, Sài Gòn, 1968, tr. 196.
  12. Đặng Huy Trứ, Từ Thụ Quy Yếu, trích theo Tương Lai, Văn hoá lãnh đạo, Tuổi trẻ, 12/06/2004.
  13. Các tham luận tại Hội nghị “Đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của hiệp hội các tổ chức kinh tế trong thời kỳ đổi mới” - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - Bộ Nội vụ - Hà Nội - tháng 6 năm 2004
  14. Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật doanh nghiệp tháng 10/2003: trang 39 - mục IV, Báo cáo).
  15. Tài liệu phân bổ ngân sách cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp năm 2003-2004, Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội.
  16. Báo Hà Nội mới ngày 2/8/2004
  17. Báo Pháp luật ngày 24/8/2004. 

 

IV. Tài liệu nước ngoài

  1. Baumgartner and Leech, The Importance of Interest Groups in Politics and Political Sciences, Princeton, N.J., Princeton University Press, 1998, tr. 96
  2. James Madison, Thông điệp Người Liên bang số 10, (Federalist Paper # 10), 1787.
  3. Lagerloef, Lars Frisell, Lobbying, Information Transmission, and Unequal Representation, February 2004, Social Science Research Center Berlin, Working Paper SP 2004-02, [www.wz-berlin.de].
  4. Pierre Duchesne and Russell Ducasse, Must Lobbying Be Regulated?, Canadian Parliamentary Review, Vol. 7 No 4 1984
  5. Schick and Zeh, The German Bundestag: Functions and Procedures, Neue Darmstaedter Verlagsanstalt NDV, 1999, tr. 29-30.
  6. Tom Ginsbug: Dismantling the "Developmental State"? Administrative Procedure Reform in Japan and Korea (American Journal of Comparative Law – Fall 2001).

V. Các trang Web

  1. www.vnpca.org.vn
  2. www.vba.com.vn,
  3. http://www.lefaso.org.vn
  4. http://www.dddn.com.vn
  5.  http://www.vcci.org.vn
  6.  http://www.vibonline.com.vn
  7. http://www.vir.com.vn
  8.  http://www.clb.go.jp/english/11/11a.htm
  9. http://www.house.gov/house/CommitteeWWW.html;

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

[2] Điều 104 Bộ luật Dân sự  2005.

[3] Xem điều 230,231,232  Bộ luật Dân sự  2005

[4] Điều 1 Quyết định số 38-HĐBT ngày 10/4/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về liên kết kinh tế trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ.

[5] Điều 2 Quyết định số 38-HĐBT.

[6] Khoản 2, điều 3 Luật cạnh tranh

[7]Điều 14 và Điều 15 Nghị định số 88/2003/NĐ - CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.

[8] Bản tiếp thu ý kiến của UBTVQH về đánh giá thực trạng Hệ thống pháp luật Việt Nam sau 17 năm đổi mới

[9] Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật doanh nghiệp tháng 10/2003: trang 39 - mục IV, Báo cáo).

[10] Xem: GS.TS. Lê Minh Tâm - “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - những vấn đề lí luận và thực tiễn”, Nxb. Công an nhân dân, H; 2003; tr.63-65.

 

[11] Điều 1, NĐ 88/2003/NĐ- CP quy định về phạm vi áp dụng đối với các hội nói chung chỉ không áp dụng đối với các tổ chức là: Mặt trận tổ quốc VN ; Tổng liên đoàn lao động VN; Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân VN, Hội cựu chiến binhVN, Hội liên hiệp phụ nữ VN (tổ chức chính trị xã hội ) và Tổ chức giáo hội.

Tại điều 37 NĐ 88/2003/NĐ- CP quy định Hội được thành lập theo sắc lệnh 102/SL/L004, Hội quần chúng thành lập theo Chỉ thị 01/CT ngày 05/01/1989; Hiệp hội của các tổ chức kinh tế được thành lập theo Quyết định số 38/HĐBT ngày 14/04/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về liên kết kinh tế trong sản xuất kinh doanh thì không phải xin phép thành lập lại.

[12] Điều 6 Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp VN ban hành kèm Quyết định số 123/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12 tháng 6 năm 2003

 

[13] Điều 59, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

[14] Cơ quan, tổ chức được quy định tại điều 87 Hiến pháp 1992 gồm: “Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội.”

[15] Điều 9, 10, Nghị định số 50/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 8 năm 2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam

[16] Điêu 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

[17] Tại điều 9, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định : “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng pháp luật với các nội dung sau đây: Kiến nghị với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ về dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự án luật, pháp lệnh; Tham gia góp ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định và các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác…”.

[18] Khoản 2, Điều 28 Luật Ban hành VBQPPL

[19] Điều 25 Luật Ban hành VBQPPL

[20] Điều 28 Luật Ban hành VBQPPL

[21] Xem điều 23 Luật ban hành VBQPPL của HĐND và UBND và điều 14 Quyết định 180/2005/ QĐ- NHNN….

[22] Điêu8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

[23] Khoản 3, điều 15 Nghị định số 50/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 8 năm 2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam

 

[24] Nhiều quyết định quan trọng của EU đã không tham vấn ý kiến của người dân, như việc nhất thể hóa đồng tiền chung châu Âu. Thất bại trong việc trưng cầu dân ý về Hiến pháp EU tại Pháp và Hà Lan vừa qua một mặt cho thấy người dân EU rất bất bình về việc thiếu dân chủ, mặt khác buộc các cơ quan công quyền của EU phải nhìn lại tiến trình ra quyết định của mình.

[26] Xem: Tom Ginsbug: Dismantling the "Developmental State"? Administrative Procedure Reform in Japan and Korea (American Journal of Comparative Law – Fall 2001).

[27] Lagerloef, Lars Frisell, Lobbying, Information Transmission, and Unequal Representation, February 2004, Social Science Research Center Berlin, Working Paper SP 2004-02, [www.wz-berlin.de].

[28] Xem Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 88/2003/NĐ-CP. Quy chế về hội không áp dụng cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn TNCS HCM, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

[29] James Madison, Thông điệp Người Liên bang số 10, (Federalist Paper # 10), 1787.

[30] Baumgartner and Leech, The Importance of Interest Groups in Politics and Political Sciences, Princeton, N.J., Princeton University Press, 1998, tr. 96

[31] Pierre Duchesne and Russell Ducasse, Must Lobbying Be Regulated?, Canadian Parliamentary Review, Vol. 7 No 4 1984

[32] Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua Nguyễn, NXB Trình bày, Sài Gòn, 1968, tr. 196.

[33] Đặng Huy Trứ, Từ Thụ Quy Yếu, trích theo Tương Lai, Văn hoá lãnh đạo, Tuổi trẻ, 12/06/2004.

[34] Johan Lagerloef, Lars Frisell, sđd.

[35] Xem trang các uỷ ban Quốc hội Hoa Kỳ : http://www.house.gov/house/CommitteeWWW.html; xem thêm: Schick and Zeh, The German Bundestag: Functions and Procedures, Neue Darmstaedter Verlagsanstalt NDV, 1999, tr. 29-30.

[36] Xem thêm Schick and Zeh, sđd.

[37] Johan Lagerloef, Lars Frisell, sđd.

[38] Ví dụ: Hiệp hội nhựa, Hiệp hội sản xuất kinh doanh dược [www.vnpca.org.vn], Hiệp hội điện thoại di động, Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính, Hiệp hội siêu thị Hà Nội, Hiệp hội mía đường, Hiệp hội có vốn đầu tư nước ngoài FIEA, Hiệp hội thép Việt Nam, Hiệp hội lương thực, Hiệp hội Cà-phê Câco, Hiệp hội các doanh nghiệp KCN, Hiệp hội du lịch, Hiệp hội quảng cáo, Hiệp hội rượu, bia, nước giải khát [www.vba.com.vn], Hiệp hội cơ khí, Hiệp hội xe đạp, xe máy, Hiệp hội bảo hiểm, Hiệp hội trái cây, Hiệp hội chủ tàu, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người tàn tật.

 

File đính kèm downloadTải về downloadTải về