• Thuộc tính
Tên đề tài Đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn - Thực trạng và phương hướng kiện toàn nâng cao năng lực hoạt động
Nội dung tóm tắt

Trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với xu thế mở cửa và hội nhập khu vực, quốc tế, vị trí, vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật ở địa phương ngày càng được tăng cường, ngành tư pháp trong đó có tư pháp cấp xã ngày càng được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới nặng nề và phức tạp. 

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới, việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã nói riêng có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi là đòi hỏi cấp bách.

Trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp, các ngành, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã đã từng bước được kiện toàn và củng cố. Tuy nhiên vẫn còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra (hầu hết cán bộ tư pháp cấp xã chưa được đào tạo cơ bản, thậm chí chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ). Mặt khác, việc quản lý đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã trong thời gian vừa qua cũng chưa được quan tâm đúng mức, việc thực hiện các biện pháp để nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ này chưa được tiến hành một cách đầy đủ, thường xuyên và có hệ thống; tiêu chuẩn cán bộ cũng như mô hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp cấp xã chưa phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể về nguồn nhân lực của từng địa phương; việc tuyển chọn cán bộ chưa được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy trình, thủ tục quy định.

Trước tình hình trên, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã để kiến nghị các giải pháp tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ này ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới là hết sức cần thiết và là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp đã được xác định trong Chỉ thị số 01/2001/CT-BTP ngày 15/01/2001 về thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp năm 2001.

Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:

1- Tổng kết, đánh giá đầy đủ và toàn diện về thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã trong giai đoạn hiện nay - những mặt đã làm được và những hạn chế, tồn tại cần khắc phục;

2- Xác định phương hướng, kiến nghị các biện pháp kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay;

3- Góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Ban tư pháp cũng như đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã trong hệ thống các cơ quan Nhà nước hiện nay, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao, góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành tư pháp, đặc biệt ở cấp cơ sở.

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP VÀ BAN TƯ PHÁP TRONG HỆ THỐNG CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ

1. Vị trí, vai trò của Ban tư pháp cấp xã

Trong cơ cấu chính quyền xã, phường, thị trấn, Ban tư pháp luôn giữ một vị trí quan trọng, góp phần thực hiện chủ trương, yêu cầu lớn hiện nay của Đảng và Nhà nước là ổn định xã hội, quản lý Nhà nước bằng pháp luật và mở rộng dân chủ ở cơ sở. Điều 53 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: “Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương và đảm bảo sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở”.

Như vậy, Ban tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Uỷ ban nhân dân, có chức năng giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp tại địa phương; đồng thời Ban tư pháp là đơn vị cấp cơ sở trong hệ thống ngành tư pháp, chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của các cơ quan tư pháp cấp trên, bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành tư pháp từ trung ương đến cơ sở. Vị trí của Ban tư pháp thể hiện sự phụ thuộc hai chiều giống như các cơ quan quản lý Nhà nước khác ở địa phương, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ trong quản lý Nhà nước.

Thông tư liên bộ số 12/TTLB-BTP-TCCP ngày 26/07/1993 của Bộ Tư pháp, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan tư pháp địa phương, Ban tư pháp có các nhiệm vụ sau:

+ Giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước về các công việc tư pháp;

+ Giúp Uỷ ban nhân dân soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị để thi hành các quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

+ Thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân;

+ Tổ chức việc đăng ký, quản lý hộ tịch, quản lý lý lịch tư pháp và thống kê tư pháp;

+ Hướng dẫn, quản lý hoạt động của các tổ hoà giải;

+ Tổ chức phối hợp việc thi hành án ở địa phương theo sự chỉ đạo của Đội Thi hành án.

Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện sự nghiệp cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp nói chung và Ban tư pháp nói riêng ngày càng được tăng cường, mở rộng. Nhiều nhiệm vụ mới được giao thêm, nhiều nhiệm vụ cũ được tăng cường mở rộng cho Ban tư pháp như: giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo, hỗ trợ các làng, bản thôn, ấp, cụm dân cư xây dựng hương ước, quy ước và kiểm tra việc tổ chức thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn; Quản lý tủ sách pháp luật của xã, phường, thị trấn; hàng ngày tổ chức phục vụ cho cán bộ, nhân dân tìm hiểu pháp luật, giải quyết một số vấn đề về quốc tịch; thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm; thực hiện một số hành vi chứng thực theo thẩm quyền; chỉ đạo Tổ hoà giải thực hiện rà soát, thống kê nhu cầu giúp đỡ pháp luật, các vướng mắc của đối tượng được trợ giúp pháp lý...” Cùng với quá trình đẩy mạnh thực hiện mở rộng dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,  vị trí, vai trò của Ban tư pháp ngày càng được khẳng định trong hệ thống ngành tư pháp cũng như trong hệ thống chính quyền cơ sở.

2. Vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp xã, phường trị trấn

Với nhiệm vụ được giao, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã là đầu mối tiếp nhận các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc đưa pháp luật đến với người dân đồng thời là người trực tiếp triển khai các chương trình, kế hoạch công tác của cơ quan tư pháp cấp trên tại địa bàn cơ sở. Do vậy, đội ngũ cán bộ này mạnh hay yếu có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở cũng như của toàn ngành tư pháp.

Theo quy định của pháp luật, cán bộ tư pháp là một trong 4 chức danh chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực pháp luật và quản lý công tác tư pháp ở cấp xã. Kết quả hoạt động của đội ngũ cán bộ này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước bằng pháp luật của chính quyền cấp xã trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

II. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP CẤP XÃ

Qua kết quả khảo sát tại 10.344/10.511 cấp xã của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (tính đến ngày 01/01/2001), đề tài đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

1. Về tổ chức Ban tư pháp cấp xã.

Kết quả khảo sát cho thấy, đã có 10.246 cấp xã thành lập Ban tư pháp (chiếm 99%); còn 98 cấp xã chưa thành lập Ban tư pháp, tập trung tại một số địa phương như Hà Tây (49 xã), Khánh Hoà (23 xã), Kon Tum (10 xã), thành phố Hồ Chí Minh (7 xã),... Nguyên nhân chủ yếu là do chia tách địa giới hành chính và nhận thức của một số chính quyền địa phương về vị trí, vai trò của công tác tư pháp và của Ban tư pháp cấp xã còn chưa đầy đủ. Ở những nơi chưa thành lập Ban tư pháp, công tác tư pháp cấp xã do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã kiêm nhiệm, công tác hộ tịch giao cho cán bộ tư pháp chuyên trách hoặc Trưởng, Phó Công an xã hoặc thư ký Văn phòng Uỷ ban nhân dân, cán bộ địa chính, văn hoá thông tin Uỷ ban nhân dân xã kiêm nhiệm.

- Về số lượng các thành viên, trong tổng số 10.246 Ban tư pháp tại 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có 27.732 cán bộ (trung bình 2,7 cán bộ / Ban tư pháp).

- Về cơ cấu, thành phần phổ biến của Ban tư pháp là: Trưởng Ban tư pháp, cán bộ tư pháp chuyên trách, cán bộ tư pháp kiêm nhiệm. Tuy nhiên, một số Ban chỉ có Trưởng Ban tư pháp và cán bộ tư pháp chuyên trách. Một số Ban không có cán bộ tư pháp chuyên trách mà chỉ có Trưởng Ban tư pháp và cán bộ tư pháp kiêm nhiệm. Ngoài ra trong thành phần của một số Ban tư pháp có Phó Ban tư pháp. Số lượng Ban tư pháp đã có cán bộ chuyên trách chiếm 92%. Trong đó, vẫn còn 28% cán bộ tư pháp chuyên trách cấp xã phải kiêm nhiệm các công việc khác của xã như Phó Công an xã, cán bộ thanh tra, thống kê, văn phòng Uỷ ban nhân dân,... Ngoài các chức danh nêu trên, trong cơ cấu của Ban tư pháp cấp xã còn có các thành viên kiêm nhiệm khác là đại diện của một số ban, ngành, đoàn thể ở địa phương như: Mặt trận tổ quốc, Công an xã, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Văn phòng Uỷ ban nhân dân, địa chính - nhà đất, Hội Nông dân,... Trong đó, đại diện Mặt trận tổ quốc tham gia nhiều nhất (17%), tiếp đó là Uỷ viên Hội Phụ nữ (16%), Công an xã (14%), Đoàn Thanh niên (11,5%), Văn phòng Uỷ ban nhân dân (9,1%), Hội Cựu Chiến binh (6,5%), Hội Nông dân (5,3%). Đặc biệt đội ngũ cán bộ tư pháp kiêm nhiệm này còn có sự tham gia của những người không nằm trong bộ máy chính quyền, đoàn thể cấp xã như Trưởng thôn, Trưởng bản (0,5%).

2. Về đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

2.1. Ưu điểm

- Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã có sự kế thừa giữa các thế hệ, giữa các cán bộ trẻ, năng động, sung sức với các cán bộ được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã có 38,7% cán bộ có tuổi đời dưới 40, trong đó có 10,7 % cán bộ có tuổi đời dưới 30. Đây là đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, sung sức, có khả năng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã có 8,3% cán bộ tư pháp cấp xã có tuổi đời trên 60, số cán bộ có độ tuổi từ 41 - 55 chiếm 46,1%. Đa số cán bộ này đã được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, có ý thức giác ngộ và bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngại khó khăn, gian khổ, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao.

- Trình độ đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã đã được tăng cường một bước.

Trình độ đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã trong thời gian qua đã có tiến bộ, tỷ lệ cán bộ tư pháp cấp xã có trình độ học cấp III đã tăng lên chiếm gần một phần hai tổng số cán bộ tư pháp cấp xã  (năm 2001 là 48,3%, so với năm 1997 là 40%). Toàn quốc đã có 8% cán bộ tư pháp cấp xã có trình độ nghiệp vụ về luật từ Trung học trở lên, trong khi năm 1997 chỉ có 1,4%, trong đó đã có 583 người có trình độ Đại học Luật và tương đương. Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã cũng được quan tâm bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và cập nhật các đường lối chính sách của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước với  15588 người được đào tạo lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên và  4380 người được bồi dưỡng nghiệp vụ. Kết quả đó đã giúp cho đội ngũ này hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ được giao.

- Hầu hết cán bộ tư pháp cấp xã đều là cư dân địa phương, sống gần với dân, do đó hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của dân. Đây là điểm thuận lợi cho người cán bộ tư pháp khi thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật hay tiến hành hoà giải,..

2.2. Hạn chế

- Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã vẫn còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.

Cả nước vẫn còn khoảng 8% Ban tư pháp chưa có cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách. Tỷ lệ người có trình độ cấp II vẫn cao, chiếm 40,76 % tổng số cán bộ tư pháp cấp xã. Đặc biệt trong đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã còn có đến 7,9 % cán bộ có trình độ học vấn cấp I và 1% cán bộ chưa tốt nghiệp cấp 1. Đối tượng này rất khó đào tạo để đáp ứng trình độ đặt ra. Trình độ học vấn yếu kém dẫn đến vẫn còn tồn tại 73,4% cán bộ tư pháp cấp xã chưa được đào tạo cơ bản. Toàn quốc vẫn còn tới 84,2 % cán bộ tư pháp cấp xã chưa được tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ.

- Các cán bộ tư pháp cấp xã thường phải kiêm nhiệm rất nhiều mảng công việc, do vậy việc đầu tư thời gian, công sức vào công tác tư pháp có nơi, có lúc còn hạn chế, dẫn đến hiệu quả hoạt động của Ban tư pháp chưa cao

- Đội ngũ cán bộ Ban tư pháp cấp xã thường xuyên bị thay đổi.

Theo kết quả khảo sát, có 20,5% cán bộ tư pháp mới tham gia Ban tư pháp trong vòng một năm trở lại đây. Như vậy, tính không ổn định trong đội ngũ cán bộ là tương đối cao. Nếu tính trung bình mỗi Ban tư pháp có 2,7 cán bộ thì với tỷ lệ 20,5% trên, hàng năm, cứ trong 02 Ban tư pháp lại có một người trong Ban bị thay đổi. Trong việc thay đổi đó, một số cán bộ đã qua đào tạo trình độ nghiệp vụ về luật được bổ sung, thay thế các cán bộ có tuổi, kém năng lực và trình độ. Song, điều cơ bản cần lưu ý là trong này có nhiều cán bộ tư pháp cấp xã  đã được đào tạo, bồi dưỡng, có năng lực hoạt động lại thuyên chuyển để đảm nhận chức vụ cao hơn hoặc sang làm công tác khác dẫn đến đội ngũ cán bộ mới chưa đủ trình độ, chưa quen công việc nên vẫn lại phải đào tạo, bồi dưỡng từ đầu.

- Cơ cấu cán bộ, trình độ cán bộ tư pháp cấp xã phân bố không đều.

Trong tổng số các cán bộ tư pháp cấp xã, tỷ lệ cán bộ tư pháp là nữ còn chiếm tương đối ít, ở mức 14,2%, trong khi nam giới là 85,8 %. Cơ cấu trình độ có sự chênh lệch rất xa giữa người kinh và người dân tộc. Trong số các cán bộ có trình độ học vấn cấp 3 thì tỷ lệ người Kinh gấp 9 lần so với người dân tộc (90,4% so 9,6%). Ngược lại, nếu xét trong số cán bộ chưa tốt nghiệp cấp I thì người kinh chiếm 15,7%, trong khi đó, người dân tộc lại chiếm tới 85,3%. Trình độ nghiệp vụ cán bộ tư pháp cấp xã ở những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn còn thấp. Một số tỉnh như Lào Cai, Hà Giang cá biệt vẫn còn cán bộ tư pháp chưa đọc thông viết thạo, trình độ nghiệp vụ của cán bộ tư pháp cấp xã mới chỉ dừng lại ở việc bồi dưỡng, còn lại hầu hết cán bộ không được  đào tạo chuyên môn nghiệp vụ có hệ thống theo quy định.

2.3. Về đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách.

Cả nước vẫn còn 8% Ban tư pháp chưa có cán bộ tư pháp chuyên trách. 45,8% cán bộ tư pháp chuyên trách hiện hành không đủ điều kiện chuyên môn nghiệp vụ và điều kiện độ tuổi, trình độ văn hoá để bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy, để tiếp tục xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác tư pháp trong thời gian tới cần có kế hoạch tạo nguồn, quy hoạch cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách.

- Trình độ cán bộ có sự chênh lệch rõ nét giữa các vùng, miền, địa phương. Tại các thành phố lớn, số cán bộ có trình độ chiếm tỷ lệ tương đối lớn, trong đó tại các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa (trừ Tây Nguyên), trình độ cán bộ tư pháp còn rất hạn chế.

- Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã có nhiều biến động với 22% cán bộ tư pháp chuyên trách cấp xã có thời gian công tác từ 01 năm trở xuống. Tuy vậy, đội ngũ cán bộ mới công tác lại có trình độ học vấn tốt nghiệp phổ thông trung học, tốt nghiệp đại học Luật và Trung học Luật cao hơn tỷ lệ chung. Đặc biệt một số tiêu chí như trình độ học vấn tốt nghiệp phổ thông trung học, tốt nghiệp Đại học Luật chiếm tỷ lệ cao nhất trong tất cả các nhóm tuổi. Đây cũng là một điểm đáng lưu ý trong quá trình hoạch định các chính sách ổn định đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

3. Về quản lý cán bộ tư pháp cấp xã

Sau khi phân tích các quy định pháp lụât về cơ cấu, chức, danh, tiêu chuẩn cán bộ tư pháp cấp xã, chế độ tuyển chọn, sắp xếp cán bộ tư pháp cấp xã theo quy định tại Nghị định 38/CP ngày 4/6/1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp; Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn; Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan tư pháp địa phương; Thông tư liên tịch số 99/1998/TTLT-TCCP-BTC-BLĐTBXH ngày 19/5/1998 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Bộ Tài chính - Bộ Lao động, thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành Nghị định số 09/1998/ NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26/07/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn; Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về việc đăng ký hộ tịch; Công văn số 778/CV-TCCB ngày 07/9/1995 của Bộ Tư pháp về việc kiện toàn tổ chức tư pháp xã, phường, thị trấn... Đề tài đã đưa ra một số nhận xét như sau:

- Trước yêu cầu tăng cường vị trí vai trò của Ban tư pháp, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng nhằm hoàn thiện công tác quản lý cán bộ tư pháp cấp xã với các quy định về xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, chế độ tuyển dụng, sử dụng cán bộ tư pháp chuyên trách,... Đặc biệt, từ tháng 1/1998 thực hiện theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP, mức sinh hoạt phí của cán bộ chuyên môn tư pháp cấp xã được điều chỉnh rõ rệt, có sự hợp lý hơn trước. Chế độ sinh hoạt phí của cán bộ xã và trợ cấp hàng tháng được ngân sách Nhà nước bảo đảm chi trả qua hệ thống kho bạc. Điều này thể hiện sự quan tâm, cố gắng rất lớn của Chính phủ.

Bên cạnh đó, cán bộ chuyên môn tư pháp cấp xã được thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc; được hưởng một số chế độ khác như mai táng phí, công tác phí, bảo hiểm y tế, khen thưởng, đào tạo bồi dưỡng...Đây là quy định mới mà trước đây chưa áp dụng, có tác dụng động viên rất lớn đối với cán bộ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp cấp xã đã được chú ý hơn trước, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cán bộ tư pháp cấp xã.

- Tuy vậy, việc quản lý đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã vẫn còn một số hạn chế sau:

Các quy định về chức danh cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ tư pháp cấp xã còn chưa thống nhất và chưa được cụ thể hoá. Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã sử dụng những thuật ngữ khác nhau để chỉ cùng một chức danh chuyên môn tư pháp cấp xã, cụ thể như: tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP được gọi là "cán bộ tư pháp", tại Thông tư số 99/1998/ TTLT-TCCP-BTC-BLĐTB&XH được gọi là "cán bộ Tư pháp - hộ tịch", tại Nghị định 83/1998/ NĐ-CP được gọi là "cán bộ hộ tịch tư pháp" và tại Thông tư số 12/1999/TT-BTP ngày 25/6/1999 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định 83/1998/NĐ-CP lại được gọi là "cán bộ hộ tịch - tư pháp".

Sự không thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ để chỉ chức danh chuyên môn Tư pháp cấp xã tại các văn bản này đã ảnh hưởng tới việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ Tư pháp cấp xã.

Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ quy định yêu cầu về trình độ mà chưa xác định cụ thể chức trách, nhiệm vụ và khả năng hiểu biết về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hiểu biết về thực tiễn và kỹ năng nghiệp vụ... của cán bộ tư pháp cấp xã.

Mặt khác, quy định về trình độ đối với cán bộ chuyên môn tư pháp ở cấp xã ở một số văn bản pháp luật có những điểm chưa thống nhất như: Nghị định số 09/1998/NĐ-CP quy định cán bộ tư pháp cấp xã phải có trình độ từ sơ cấp pháp lý trở lên, trong khi đó Nghị định số 83/1998/NĐ-CP lại quy định cán bộ này phải có trình độ từ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên, có chữ viết rõ ràng và được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.

Các tiêu chuẩn của cán bộ chuyên môn Tư pháp ở cấp xã theo quy định hiện hành chưa được cụ thể hoá để phù hợp với điều kiện của từng vùng, miền trong cả nước. Đối với các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, thì việc lựa chọn, đào tạo cán bộ tại chỗ là hết sức cần thiết, nhưng do trình độ văn hoá phần lớn chỉ là cấp I, cá biệt có trường hợp chỉ học hết lớp 1 hoặc lớp 2, nên việc lựa chọn, đào tạo cán bộ theo tiêu chuẩn quy định là hết sức khó khăn.

Một số địa phương, việc áp dụng quy trình tuyển chọn, sắp xếp cán bộ này còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với số cán bộ Tư pháp cấp xã đã làm việc nhiều năm nhưng không đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, tuổi đời cao, việc đào tạo, bồi dưỡng khó khăn; cũng có nơi chưa thực hiện nghiêm túc quy trình tuyển chọn, sắp xếp này, nên đã ảnh hưởng tới việc kiện toàn, củng cố đội  ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

4. Thực trạng hoạt động Tư pháp cấp xã

4.1. Giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc soạn thảo văn bản pháp luật.

Trên thực tế, hầu hết Ban tư pháp đã có nhiều nỗ lực giúp Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ trên. 64,5% lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã được hỏi cho biết Ban tư pháp cấp xã đã giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp soạn thảo các văn bản pháp luật, trong đó chủ yếu là soạn thảo các quyết định, thông báo. Ngoài ra, các Ban tư pháp cấp xã còn tham gia ý kiến đối với các văn bản khác của Ủy ban nhân dân cùng cấp (76,5%).

Thực hiện mở rộng dân chủ ở cơ sở, Ban tư pháp đã tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ đạo, hỗ trợ xây dựng hương ước, quy ước của  các làng, bản thôn,  ấp, cụm dân cư. Chính vì vậy, hầu hết các hương ước khi ban hành đều hợp hiến, hợp pháp và phù hợp với thuần phong mỹ tục của nhân dân.

 Dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp, cán bộ tư pháp cấp xã đã thực hiện rà soát văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Ủy ban nhân dân cấp xã có nội dung và hình thức không phù hợp với pháp luật hoặc và ban hành không đúng thẩm quyền để kiến nghị với Ủy ban nhân dân xã sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ.

Ngoài ra, nhiều Ban tư pháp đã giúp Ủy ban nhân dân hoặc được Ủy ban nhân dân xã giao trực tiếp tổ chức lấy ý kiến của nhân dân đóng góp vào các dự thảo văn bản pháp luật của Nhà nước như các Bộ luật, các Luật, các Pháp lệnh... giúp cho việc xây dựng pháp luật của nhà nước phù hợp với yêu cầu khách quan, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và bảo đảm cho pháp luật dễ đi vào cuộc sống.

Tuy nhiên, một số Ban tư pháp ở các vùng sâu, vùng xa, miền núi vẫn chưa thực hiện được chức năng giúp Ủy ban nhân dân soạn thảo và ban hành văn bản pháp quy ở địa phương hoặc không được Ủy ban nhân dân giao cho nhiệm vụ này, hoặc được giao nhưng việc tổ chức thực hiện còn yếu. Vì vậy, những địa phương đó, văn bản được xây dựng có chất lượng thấp, có nội dung, hình thức không phù hợp với pháp luật, ban hành sai thẩm quyền hoặc không phù hợp với thực tiễn.

4.2. Giúp Ủy ban nhân dân thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Nhìn chung, trong thời gian qua, phần lớn các Ban tư pháp cấp xã đã tổ chức tuyên truyền pháp luật cho người dân địa phương trên cơ sở bám sát quá trình xây dựng pháp luật của Nhà nước, cập nhật được các văn bản pháp luật mới, đáp ứng nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đồng thời, là người thường xuyên tiếp xúc, gần gũi với người dân, hiểu rõ được điều kiện hoàn cảnh, tình hình hiểu biết pháp luật của từng người dân nên đã lựa chọn nội dung, hình thức tuyên truyền thích hợp với từng loại đối tượng dân cư, từng độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp ở địa phương...Có thể nói, đây là một trong những nhiệm vụ mà tất cả các Ban tư pháp cấp xã trong toàn quốc đều triển khai thực hiện và thực hiện có hiệu quả cao.

Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của cán bộ tư pháp cấp xã chưa toàn diện và chưa thực hiện thường xuyên. Phần lớn các địa phương mới chỉ dừng lại ở việc phổ biến, học tập một số văn bản pháp luật mới theo hướng dẫn của các cơ quan nhà nước cấp trên mà chưa thường xuyên phổ biến những văn bản pháp luật có hiệu lực cao như Hiến pháp, các Bộ luật, Luật... có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân; hoặc chỉ phổ biến pháp luật đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt của cơ sở, mà chưa mở rộng đến mọi đối tượng dân cư, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa...

 Một số địa phương, Ban tư pháp cấp xã còn chưa chủ động trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật, chủ yếu thực hiện khi có chủ trương, chỉ thị của cấp trên và thường nhờ cấp trên giúp đỡ là chính. Mặt khác, Ban tư pháp cấp xã chưa có cán bộ chuyên trách về phổ biến, giáo dục pháp luật cho nên việc phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu nhờ sự giúp đỡ của cơ quan tư pháp cấp trên, các luật gia đã và đang công tác trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an, Chi hội luật gia địa phương.

Chất lượng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa cao. Nhiều cán bộ tư pháp cấp xã mới có trình độ văn hoá thấp, chưa được đào tạo cơ bản về luật và chuyên môn nghiệp vụ nên việc tuyên truyền mới chỉ là đọc các văn bản pháp luật cho người dân nghe hoặc phát tài liệu. Hơn nữa, lực lượng này quá mỏng, kiêm nhiệm nhiều công việc khác; địa bàn đa dạng, đi lại khó khăn, phương tiện và kinh phí hạn hẹp đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc truyền tải các thông tin pháp luật đến người dân ở cơ sở.

Mặc dù công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ chung của tất cả các ngành, các cấp và trực tiếp là nhiệm vụ của Uỷ ban nhân dân các cấp. Nhưng trong thực tế, nhiều ngành, cấp uỷ và chính quyền địa phương còn coi đó là nhiệm vụ của cơ quan tư pháp hoặc của cơ quan văn hoá, thông tin... nên chưa thường xuyên quan tâm chỉ đạo, chưa đầu tư thích đáng cho công tác này.

Việc xây dựng, khai thác tủ sách pháp luật tại cấp xã đã được triển khai rộng khắp trong cả nước, tuy nhiên, hiện nay, nhiều tủ sách pháp luật chưa được bổ sung đầy đủ, chưa cập nhật được các văn bản pháp luật mới. Cán bộ tư pháp chưa phát huy hết vai trò trong việc quản lý và hướng dẫn người dân khai thác một cách hiệu quả.

4.3. Giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc quản lý và đăng ký hộ tịch

Công tác quản lý và đăng ký hộ tịch trong thời gian qua đã được các địa phương quan tâm củng cố kiện toàn. Phần lớn các tỉnh đã có cán bộ hộ tịch chuyên trách ở cấp xã và công tác đăng ký hộ tịch được coi là nhiệm vụ chính của cán bộ tư pháp cấp xã. Cán bộ tư pháp xã đã có nhiều cố gắng đảm bảo việc đăng ký cho người dân được kịp thời. Thậm chí, ở những khu vực còn bị chi phối bởi những những phong tục, tập quán, điều kiện đi lại khó khăn cán bộ hộ tịch đã đến tận nhà dân để đăng ký những sự kiện hộ tịch phát sinh cũng như trực tiếp vận động người dân tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hộ tịch. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ này, cán bộ tư pháp cấp xã vẫn gặp những khó khăn sau đây:

- Ở hầu hết các cấp xã trong cả nước hiện nay chỉ có một cán bộ tư pháp, ngoài công tác đăng ký hộ tịch, họ còn kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác nhau nên đôi khi các yêu cầu đăng ký hộ tịch của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời, dẫn đến phiền hà cho nhân dân;

- Đội ngũ cán bộ tư pháp làm công tác đăng ký hộ tịch thường không ổn định, luôn thay đổi theo yêu cầu công việc nên rất khó khăn trong việc theo dõi và thực hiện. Bên cạnh đó, do phần lớn cán bộ không được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ quản lý và đăng ký hộ tịch thường xuyên nên còn lúng túng trong khi thực hiện nhiệm vụ hoặc hiệu quả đạt được không cao. Thực tiễn đã xảy ra nhiều tình trạng để thất lạc hồ sơ; lưu trữ, bảo quản hồ sơ, sổ sách hộ tịch không chặt chẽ hoặc để hư hỏng, rách nát; đăng ký hộ tịch sai thẩm quyền... gây khó khăn cho cơ quan quản lý hộ tịch cũng như đối với yêu cầu của nhân dân về hộ tịch;            

- Nhận thức của nhân dân về ý nghĩa, vai trò của công tác hộ tịch chưa đầy đủ nên một bộ phận dân cư không tự giác đến khai báo, đăng ký các sự kiện hộ tịch phát sinh. Trong khi đó các địa phương chưa đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về hộ tịch.

4.4. Quản lý về tổ chức và hướng dẫn hoạt động cho các Tổ hoà giải ở cơ sở

Trong giai đoạn này, dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của các cơ quan tư pháp, trực tiếp là Ban tư pháp cấp xã, Tổ hoà giải trong cả nước đã được kiện toàn thêm một bước. Đội ngũ hoà giải viên được nâng cao về cả số lượng và chất lượng. Nhiều tỉnh, thành phố đã có hàng nghìn Tổ hoà giải ở hầu hết các xóm, thôn, làng, ấp, tổ dân phố... Hoạt động hoà giải cũng có chất lượng tốt hơn. Nhiều nơi đạt 80%, một số nơi hoà giải thành 100% số vụ việc góp phần không nhỏ vào việc giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật xảy ra và đã làm giảm đáng kể số vụ việc phải đưa đến Toà án xét xử. Ban tư pháp đã giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức các Hội thi hoà giải viên giỏi tại cơ sở. Đáng lưu ý là đã góp phần tích cực cho sự thành công của Hội thi hoà giải viên giỏi toàn quốc vào dịp kỷ niệm 55 ngày thành lập ngành tư pháp và chào mừng Đại hội chiến sỹ thi đua toàn ngành.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc quản lý về tổ chức và hướng dẫn về hoạt động của Tổ hoà giải cơ sở còn gặp nhiều khó khăn; kinh phí để thực hiện các hoạt động quản lý như: tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng và nghiệp vụ hoà giải, tổ chức sơ kết, tổng kết công tác hoà giải, cung cấp tài liệu, văn bản pháp luật cho các Tổ hoà giải còn thiếu... Chưa có chế độ, chính sách động viên, khuyến khích những người tham gia công tác hoà giải.

4.5. Tổ chức phối hợp việc thi hành án ở địa phương theo sự chỉ đạo của Đội thi hành án

Thực tế hoạt động phối hợp công tác giữa cơ quan thi hành án với Ban tư pháp đã đạt được những kết quả khả quan, phát huy được sức mạnh và trách nhiệm của bộ máy chính quyền địa phương và vai trò tích cực của cơ quan, tổ chức hữu quan. Tuy nhiên, việc phối hợp của Ban tư pháp trong công tác thi hành án còn gặp một số khó khăn do cơ quan thi hành án có trường hợp không chủ động phối hợp trong việc tổ chức thi hành án dân sự; công tác thi hành án hình sự chưa phân định rõ nhiệm vụ của cơ quan quản lý với cơ quan thi hành; cán bộ tư pháp chưa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chưa có kinh nghiệm trong hoạt động phối hợp thi hành án; quy định về việc phối hợp giữa Ban tư pháp và cơ quan thi hành án ở nhiều nơi chưa có hoặc có nhưng chưa chặt chẽ, cụ thể và còn chồng chéo...

4.6. Phối hợp trong việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng hương ước, quy ước

Để người dân hiểu và sử dụng đúng các quyền của mình đã quy định trong Quy chế dân chủ ở cơ sở ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, đồng thời chấp hành đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân, tư pháp cấp xã đã  phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, tổ chức trợ giúp pháp lý tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong hội viên, đoàn viên và nhân dân về nội dung quy chế này, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình.

Ban tư pháp cấp xã đã tích cực phát huy vai trò giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo, định hướng quản lý việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước có nội dung phong phú, thiết thực, phù hợp với pháp luật cũng như kiểm tra việc thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn. Đồng thời, cán bộ tư pháp đã trực tiếp tham gia, góp ý, giúp cộng đồng dân cư xây dựng hương ước phù hợp với quy định của pháp luật, phát huy tính dân chủ; tư vấn, giải đáp những vướng mắc trong quá trình xây dựng hương ước...

4.7. Phối hợp trong hoạt động trợ giúp pháp lý

Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ mới của ngành tư pháp từ năm 1997. Mặc dù, hiện nay văn bản pháp luật chưa quy định Ban tư pháp cấp xã có nhiệm vụ thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý nhưng để đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý của người nghèo và đối tượng chính sách mà chủ yếu lại cư trú và sinh sống ở cơ sở, đặc biệt là vùng sâu, vùng cao, vùng xa, trên thực tế sự phối hợp này đã được hình thành tương đối chặt chẽ và có hiệu quả tại một số địa phương. Nội dung phối hợp trong hoạt động trợ giúp pháp lý tập trung vào các vấn đề sau:

- Tham gia thông tin, tuyên truyền đến người dân tại cơ sở về mục đích, ý nghĩa, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý; giới thiệu, hướng dẫn đối tượng hoàn chỉnh các thủ tục trợ giúp pháp lý để họ dễ dàng tiếp cận với hoạt động này khi cần thiết;

- Khảo sát, thống kê nhu cầu trợ giúp pháp lý và dự kiến kế hoạch, nội dung cần tập trung phục vụ hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động được sâu sát, phù hợp với nhu cầu của người dân và các vấn đề đang là điểm nóng của địa phương;

- Phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý, Tổ cộng tác viên cấp huyện trong việc thông báo và thực hiện trợ giúp pháp lý lưu động tại địa bàn xã;

- Tham mưu đề xuất với Ủy ban nhân dân về việc cấp giấy chứng nhận cho đối tượng, hộ gia đình được hưởng trợ giúp pháp lý;

- Tham gia làm cộng tác viên trợ giúp pháp lý trực tiếp thực hiện tư vấn, giải đáp pháp luật miễn phí và hoà giải các vụ việc tranh chấp, vướng mắc pháp luật đơn giản có liên quan đến người nghèo và đối tượng chính sách hoặc tham mưu cho chính quyền cùng cấp giải quyết các vướng mắc pháp luật của các đối tượng trên một cách kịp thời và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho họ;

- Chuyển lên Trung tâm trợ giúp pháp lý hoặc Tổ cộng tác viên cấp huyện các vụ việc phức tạp, kéo dài, khó giải quyết;

- Giúp các Trung tâm trợ giúp pháp lý điều tra, xác minh các vụ việc, các loại giấy tờ gốc từ cơ sở nhằm giúp đỡ cho người nghèo và đối tượng chính sách kịp thời, chính xác, có lý, có tình...;

- Phối hợp cùng các Trung tâm trợ giúp pháp lý trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua nhiều hình thức: phát tờ gấp pháp luật; nói chuyện chuyên đề; phổ biến trên loa phát thanh xã; lễ hội văn hoá truyền thống....

4.8. Ngoài các nhiệm vụ nêu trên, Ban tư pháp còn giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện một số nhiệm vụ khác. Đó là:

- Phối hợp với cơ quan Công an và Mặt trận Tổ quốc cùng cấp giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã đối với người nhiều lần có hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục hoặc người nghiện ma tuý, người mại dâm chưa đến mức đưa vào cơ sở chữa bệnh;

- Chứng thực chữ ký của công dân Việt Nam trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch dân sự ở trong nước; Chứng thực di chúc, văn bản từ chối nhận di chúc; Chứng thực các việc khác theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất trong trường hợp bên bảo đảm là hộ gia đình, cá nhân.

- Giải quyết một số vấn đề về quốc tịch.

III. PHƯƠNG HƯỚNG KIỆN TOÀN, NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP CẤP XÃ

1. Yêu cầu đặt ra đối với việc kiện toàn, nâng cao đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã

Một là, kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải trên cơ sở quan điểm cơ bản của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Hai là, việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã phải xuất phát từ yêu cầu chức năng, nhiệm vụ đặt ra.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã phải xuất phát từ thực tiễn, có bước đi thích hợp với điều kiện của từng vùng, miền, địa phương.

Bốn là, kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã phải đi đôi với với hoàn thiện mô hình tổ chức, cơ cấu của Ban tư pháp.

Năm là, việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã phải đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện chế độ, chính sách.

Để đáp ứng các yêu cầu nêu trên, mục tiêu của việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã được đề tài xác định cụ thể như sau:

Mục tiêu tổng quát, quán triệt những quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ, xuất phát từ thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã và yêu cầu nhiệm vụ công tác tư pháp trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã trong thời gian tới là: xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã, đặc biệt là cán bộ tư pháp chuyên trách đủ về số lượng, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị, đạo đức, tận tình với công việc, ổn định, chuyên môn hoá, có khả năng chủ động tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

Mục tiêu cụ thể:

Thứ nhất, kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã, đảm bảo đến năm 2005, 100% các xã, phường, thị trấn đều có cán bộ tư pháp chuyên trách. Tuỳ theo khối lượng công việc và điều kiện cụ thể của từng địa phương hình thành đội ngũ cán bộ tư pháp kiêm nhiệm từ 5 đến 7 người để tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp cơ sở.

Đối với các xã có điều kiện kinh tế phát triển, dân số đông, trình độ dân trí cao, nguồn cán bộ dồi dào và công việc Tư pháp phát sinh với khối lượng lớn sẽ có 02 cán bộ tư pháp chuyên trách, trong đó:

+ 01 cán bộ thực hiện các nhiệm vụ về đăng ký, quản lý hộ tịch (đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, nuôi con nuôi...) và giúp Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện các việc chứng thực theo thẩm quyền;

+ 01 cán bộ thực hiện các nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị; phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn hoạt động của tổ hoà giải ở cơ sở và các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp xã giao.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách, khắc phục tình trạng hạn chế, hẫng hụt về kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ này, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

+ Trung thành với chế độ, tận tuỵ với nhân dân, trong sạch về đạo đức, lối sống;

+ Nắm bắt kịp thời quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, am hiểu tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp được giao;

+ Chủ động, sáng tạo vận dụng các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như ý kiến chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao;

+ Thông thạo kỹ năng, nghiệp vụ tư pháp về soạn thảo văn bản, phổ biến giáo dục pháp luật, đăng ký hộ tịch, hoà giải, thi hành án,...

Phấn đấu đến năm 2005, 80% cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách ở các địa phương thuộc vùng đồng bằng, đô thị có trình độ từ Trung học Luật trở lên; 50% cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa có trình độ từ Trung học Luật trở lên; đến năm 2007, về cơ bản đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách có trình độ nghiệp vụ từ Trung học Luật trở lên; đến năm 2010, không còn cán bộ tư pháp cấp xã chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.

Thứ ba, phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp kiêm nhiệm là những cán bộ của các ban, ngành, đoàn thể hoặc những người đã nghỉ hưu có kiến thức, kinh nghiệm và nhiệt tình với công tác tư pháp ở địa phương để phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở cơ sở.

Thứ tư, xác định cụ thể nội dung, thẩm quyền quản lý công tác tư pháp cấp xã; đổi mới cơ chế hoạt động của Ban tư pháp cấp xã đáp ứng yêu cầu thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp cho địa phương, cơ sở và chiến lược cải cách hành chính 2001 - 2010 của Nhà nước ta.

2. Giải pháp kiện toàn, nâng cao năng lực, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã

2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Bộ Tư pháp phối hợp với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và các cơ quan có liên quan sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và cơ cấu chức danh của cơ quan tư pháp địa phương nói chung và Tư pháp cấp xã nói riêng, cụ thể như sau:

+ Trên cơ sở Nghị định thay thế Nghị định số 38/CP ngày 4/6/1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp và Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và các văn bản pháp luật có liên quan quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của hệ thống ngành tư pháp từ Trung ương đến cơ sở trong đó xác định rõ vị trí, vai trò của Ban tư pháp trong tổ chức chính quyền cơ sở và trong hệ thống các cơ quan tư pháp.

+ Sửa đổi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực... trong đó quy định thống nhất và cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ tư pháp cấp xã.

+ Xây dựng và trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ, quy trình tuyển chọn đối với cán bộ tư pháp cấp xã phù hợp với việc sửa đổi Pháp lệnh cán bộ công chức theo hướng bao gồm cả cán bộ, công chức cơ sở.

+ Sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi, đối tượng quản lý của ngành tư pháp như quản lý và đăng ký hộ tịch, quốc tịch, công chứng, chứng thực, thi hành án, hoà giải ở cơ sở, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý... theo hướng cụ thể, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực hiện ở cơ sở.

2.2. Kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban tư pháp cấp xã.

a- Thành lập Ban tư pháp ở những cấp xã hiện chưa có Ban tư pháp; kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ.

b- Hoàn thiện cơ chế hoạt động, cải tiến lề lối làm việc của Ban tư pháp.

- Xây dựng và ban hành quy chế mẫu trong đó xác định rõ vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng thành viên trong Ban tư pháp.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch công tác hàng năm, 6 tháng, hàng quý, tháng, tuần theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan tư pháp cấp trên; kế hoạch, chương trình công tác tư pháp cấp xã phải quán triệt và thực hiện được nội dung kế hoạch, chương trình công tác của cơ quan tư pháp cấp trên, quán triệt và thể hiện được nghị quyết và kế hoạch, chương trình công tác của chính quyền địa phương cùng cấp, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở từng địa phương.

- Quy định và thực hiện chế độ giao ban định kỳ giữa các thành viên trong Ban tư pháp, giữa Ban tư pháp với các tổ hoà giải trong phạm vi xã, phường, thị trấn, giữa các Ban tư pháp trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cải tiến nội dung giao ban đôn đốc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác đã đề ra và giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao.

- Thực hiện nghiêm túc chế độ sơ kết định kỳ 6 tháng và tổng kết hàng năm. Nội dung sơ kết, tổng kết cần tập trung kiểm điểm, đánh giá kết quả đã đạt được, những tồn tại cần khắc phục, đồng thời biểu dương, khen thưởng kịp thời những đơn vị, cá nhân có thành tích tốt, kinh nghiệm hay trong công tác và đề ra phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác sát hợp với nhiệm vụ công tác tư pháp trong thời gian tiếp theo.

- Tăng cường và nâng cao hiệu quả trong phối hợp hoạt động giữa Tư pháp cấp xã với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương để thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở cấp xã.

2.3. Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

Sở Tư pháp phối hợp với các cơ quan liên quan ở địa phương tham mưu cho Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã của địa phương.

Quy hoạch đội ngũ cán bộ này phải tiến hành đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và phải xuất phát từ nhiệm vụ của Ban tư pháp, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã hiện có, dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ này để chủ động tạo nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn theo quy định, kịp thời đáp ứng yêu cầu.

Trong quy hoạch phải xác định được nguồn cán bộ kế cận chức danh Tư pháp cấp xã, các biện pháp tổ chức thực hiện và các bước đi thích hợp với từng địa phương, xác định trách nhiệm của các cơ quan chính quyền, ngành tư pháp trong việc thực hiện quy hoạch.

Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, cần xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp cấp xã đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh cán bộ.

2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với công tác tư pháp cấp xã và đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

- Các cấp Uỷ Đảng và chính quyền địa phương cần tăng cường chỉ đạo việc kiện toàn, củng cố Ban tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã ở địa phương. Các nhiệm vụ công tác tư pháp cấp xã cần trở thành một nội dung hoạt động trong chương trình, kế hoạch công tác định kỳ của cấp uỷ và chính quyền địa phương.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy định về quản lý đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn có trách nhiệm phối hợp với các ban, ngành có liên quan ở địa phương giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện các nhiệm vụ này.

Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan trực tiếp quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ này theo quy định của pháp luật và sự chỉ đạo, hướng dẫn của chính quyền cấp trên.

- Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan tư pháp cấp trên đối với Tư pháp cấp xã, Phòng Tư pháp, Sở Tư pháp, Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện tốt chủ trương hướng về cơ sở, thường xuyên tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thực tiễn ở cơ sở, để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở cơ sở.

- Coi trọng việc tổng kết thực tiễn, đánh giá hiệu quả công tác để khẳng định vị trí, vai trò của Tư pháp cấp xã, giải toả những khó khăn, vướng mắc, đồng thời nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành đối với công tác tư pháp cấp xã.

2.5. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ

 Trên cơ sở kết quả khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã, Sở Tư pháp phối hợp với Ban Tổ chức chính quyền tỉnh cần tiến hành phân loại và xác định các biện pháp để từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ này, cụ thể như sau:

+ Đối với những cán bộ đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo mục tiêu đã đề ra thì cần tạo điều kiện để họ làm việc ổn định, lâu dài.

+ Đối với những nơi còn thiếu, cần tuyển chọn những người đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo mục tiêu đã đề ra để đảm nhận chức danh chuyên môn Tư pháp cấp xã.

+ Đối với những cán bộ có đủ điều kiện để đào tạo Trung học Luật thì cần có kế hoạch cử những cán bộ này đi học để đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ.

+ Đối với những cán bộ không có khả năng để tiếp tục đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn đặt ra thì cần có kế hoạch tuyển mới những người có đủ tiêu chuẩn để thay thế và thực hiện chế độ, chính sách theo quy định đối với những cán bộ này.

Riêng đối với các cấp xã thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nếu trình độ của đội ngũ cán bộ quá thấp và không có nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn để bổ sung, thay thế thì trước mắt chấp nhận những cán bộ có trình độ văn hoá từ Trung học phổ thông (cấp II) trở lên và có kế hoạch bồi dưỡng văn hoá để đạt trình độ tốt nghiệp Phổ thông trung học (cấp III) sau đó tiến hành đào tạo chuyển tiếp ở trình độ Trung học Luật để vừa đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp cấp xã vừa đảm bảo đủ trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn đặt ra.

2.6. Tăng cường công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ

- Xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế đánh giá cán bộ chính quyền cơ sở, trong đó có cán bộ tư pháp cấp xã phù hợp với đặc thù tính chất công việc, bao gồm: đánh giá về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; trình độ, năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm và hiệu quả công tác.

Thực hiện chế độ đánh giá cán bộ tư pháp xã hàng năm và theo định kỳ. Căn cứ vào quy chế đánh giá cán bộ chính quyền cơ sở, Ủy ban nhân dân cấp xã cần tiến hành đánh giá cán bộ theo đúng quy chế đã xây dựng.

- Tăng cường chế độ kiểm tra thường xuyên của cấp uỷ và chính quyền địa phương đối với đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã; nghiên cứu từng bước mở rộng các hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Ban tư pháp và cán bộ tư pháp cấp xã.

2.7. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

a) Đối với Bộ Tư pháp

- Phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp xã; xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng thống nhất trong phạm vi cả nước trong đó chú trọng cơ cấu phần kỹ năng nghiệp vụ tương xứng với yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

- Trên cơ sở mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp cấp xã, xây dựng và hoàn thiện giáo trình, tài liệu phục vụ kịp thời công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp này.

- Phát triển đội ngũ giáo viên giảng dạy Luật có trình độ, năng lực và phương pháp giảng dạy phù hợp với các đối tượng đào tạo ở bậc Trung học Luật (bao gồm giáo viên chuyên trách và giáo viên kiêm nhiệm).

- Mở rộng, đa dạng hoá các hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp cấp xã phù hợp với điều kiện từng vùng, miền, địa phương và đối tượng đào tạo, đảm bảo yêu cầu chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và không ảnh hưởng quá trình công tác tư pháp ở cấp xã.

b) Đối với địa phương

- Sở Tư pháp phối hợp với Ban Tổ chức chính quyền cấp tỉnh và các Trường Hành chính, Trung tâm đào tạo cán bộ tiến hành khảo sát, xác định nhu cầu đào tạo Trung cấp Luật cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã ở địa phương. Trên cơ sở đó xây dựng và trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt Đề án, kế hoạch đào tạo Trung học Luật cho đội ngũ cán bộ này, trong đó có biện pháp khai thác và phát huy năng lực đào tạo của các Trường Hành chính và các trung tâm đào tạo cán bộ ở địa phương trong việc tổ chức các khoá đào tạo Trung học Luật cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã của địa phương mình.

- Sở Tư pháp phối hợp với các Trường Hành chính và Trung tâm đào tạo cán bộ của địa phương tổ chức thực hiện Đề án, kế hoạch đã được phê duyệt. Việc đào tạo Trung học Luật cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã cần được thực hiện theo đúng mục tiêu và nội dung chương trình do Bộ Tư pháp quy định.

- Trường hợp nhu cầu đào tạo Trung học Luật của cán bộ tư pháp cấp xã không đủ để tổ chức các khoá đào tạo thì Sở Tư pháp cần tham mưu với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với các tỉnh lân cận để tổ chức đào tạo.

- Sở Tư pháp chỉ đạo, hướng dẫn các Phòng Tư pháp chủ động tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn theo định kỳ (ít nhất mỗi năm một lần) hoặc theo chuyên đề cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã để cập nhật văn bản, kiến thức mới, đồng thời, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này.

2.8. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ

Để khuyến khích, động viên đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã yên tâm công tác ổn định, lâu dài, Bộ Tư pháp cần phối hợp với Bộ Nội vụ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách áp dụng đối với đối tượng này, cụ thể như sau:

- Xây dựng chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách ở cơ sở theo chế độ chung của cán bộ, công chức theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (Khóa IX) như chế độ tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách đào tạo và bồi dưỡng.

Trước mắt, cần có chế độ phụ cấp tương xứng cho cán bộ ở những xã có số dân đông, diện tích lớn, có đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước vì khối lượng công việc, trách nhiệm của các cán bộ này lớn hơn so với các cán bộ ở những địa phương khác.

 - Nghiên cứu chế độ thu hút những người có trình độ, năng lực về công tác tại cơ sở, đặc biệt tại các xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi như: có chính sách hỗ trợ đào tạo, cải tiến chế độ công tác phí, mở rộng các hình thức phụ cấp, giảm thời gian thực tập cho sinh viên, bổ nhiệm, đề bạt...

2.9. Phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã kiêm nhiệm.

- Căn cứ vào khối lượng công việc và nguồn cán bộ kiêm nhiệm ở địa phương, các cơ quan tư pháp cấp trên cần có hướng dẫn cụ thể về thành phần tham gia kiêm nhiệm công tác tư pháp cấp xã. Cán bộ tư pháp cấp xã kiêm nhiệm có thể là đại diện của các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương như: Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Đoàn thanh niên...

- Cấp uỷ, chính quyền địa phương cần động viên, khen thưởng, khuyến khích những người có uy tín trong nhân dân, có lòng nhiệt tình, ý thức tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, đồng thời nắm được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tham gia kiêm nhiệm công tác tư pháp.

- Có kế hoạch cập nhật, bồi dưỡng kiến thức chung cũng như nghiệp vụ công tác tư pháp ở cấp xã cho đội ngũ cán bộ kiêm nhiệm.

- Có chế độ phụ cấp hoạt động phí phù hợp để khuyến khích, phát huy tinh thần hăng say công tác của đội ngũ cán bộ này.

2.10. Đảm bảo nguồn kinh phí phục vụ hoạt động của Tư pháp cấp xã.

- Cần xác định rõ khoản kinh phí cho các hoạt động Tư pháp cấp xã là một bộ phận của ngân sách của Ủy ban nhân dân cấp xã để Ban tư pháp chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai các hoạt động Tư pháp ở địa phương.

Đối với những xã có khó khăn về kinh phí, cấp huyện và cấp tỉnh cần có sự hỗ trợ về kinh phí hoặc trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở những địa phương này, khắc phục tình trạng bỏ trống nhiệm vụ do thiếu kinh phí thực hiện.

- Quản lý công tác tư pháp cấp xã là nhiệm vụ của chính quyền ở cơ sở, do đó cần có biện pháp và cơ chế động viên, khuyến khích, phát huy nguồn nhân lực, tài lực ở địa phương vào việc thực hiện công tác tư pháp ở cơ sở.

2.11. Củng cố bộ phận theo dõi về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp địa phương

Chính quyền địa phương và các cơ quan tư pháp cần củng cố, kiện toàn các Phòng Tư pháp huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh, Phòng Tổ chức, cán bộ thuộc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo thuộc Bộ Tư pháp theo hướng có cán bộ chuyên trách riêng. Đội ngũ cán bộ này có nhiệm vụ theo dõi tổ chức và hoạt động của Ban tư pháp cấp xã, phát hiện kịp thời những vướng mắc, khó khăn, từ đó có biện pháp hỗ trợ Ban tư pháp giải quyết những vẫn đề phát sinh hoặc đề nghị người có thẩm quyền giải quyết.

 

 
 

 

Nội dung toàn văn

Bộ tư pháp

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý

 

 

 

 

 

Đề tài

 

Đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn

Thực trạng và phương hướng kiện toàn

nâng cao năng lực hoạt động

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hà Nội. 2003

 

Bộ tư pháp

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý

 

 

 

 

Đề tài

Đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn

Thực trạng và phương hướng kiện toàn

nâng cao năng lực hoạt động

 

 

Ban chủ nhiệm đề tài:

 

 

Lê Thị Thu Ba

Chủ nhiệm

Trần Văn Quảng

P. Chủ nhiệm

Dương Bạch Long

Thư ký

Nguyễn Bá Yên

Thư ký

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hà Nội. 2003

Danh sách cộng tác viên của đề tài

 

STT

Họ và tên

Cơ quan, đơn vị công tác

1.

Lê Thị Thu Ba

Thứ trưởng Bộ Tư pháp

2.

Hà Thị Nga

Vụ trưởng Vụ TCCB&ĐT

3.

PGS.TS. Hoàng Thế Liên

Thứ trưởng Bộ Tư pháp

4.

TS. Nguyễn Ninh Thực

P.Vụ trưởng Vụ Chính quyền địa phương – Bộ Nội vụ

5.

Nguyễn Hữu Tám

Vụ Chính quyền địa phương - Bộ Nội vụ

6.

ThS. Trần Văn Quảng

P. Vụ trưởng Vụ TCCB&ĐT

7.

Vũ Văn Quý

P. Vụ trưởng Vụ TCCB&ĐT

8.

ThS. Chu Văn Thịnh

Phó Chánh Văn phòng Bộ Tư pháp

9.

TS. Trần Thất

Vụ trưởng Vụ Công chứng, giám định, hộ tịch.....

10.

Nguyễn Duy Lãm

Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật

11.

Nguyễn Quốc Việt

Vụ trưởng Vụ pháp luật hành chính - hình sự

12.

Tạ Minh Lý

Cục trưởng Cục trợ giúp pháp lý

13.

Nguyễn Bá Yên

Vụ TCCB&ĐT

14.

Dương Bạch Long

Viện NCKH pháp lý

15.

Vũ Ngọc Tú

Chuyên viên Vụ Tổ chức, Cán bộ và Đào tạo

16.

Dương Thiên Hương

Chuyên viên Vụ Tổ chức, Cán bộ và Đào tạo

17.

Nguyễn Văn Xê

P.GĐ. Sở Tư pháp Tây Ninh

18.

Trần Đình Long

Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Đăk Lăk

19.

Nguyễn Văn Khuê

Giám đốc Sở Tư pháp Nam Định

20.

Huỳnh Chánh Huy

Giám đốc Sở Tư pháp An Giang

21.

Cao Xuân Bé

P. Giám đốc Sở Tư pháp Hà Giang

22.

Nguyễn Đức Dũng

Giám đốc Sở Tư pháp Kon Tum

23.

Lê Văn Chắt

Giám đốc Sở Tư pháp Ninh Bình

 

 

 

Mục lục

 

Lời nói đầu

Phần thứ nhất: Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã

Vài nét về sự hình thành và phát triển của Tư pháp cấp xã.

II. Vị trí, vai trò của cán bộ Tư pháp cấp xã.

III. Nhiệm vụ của cán bộ Tư pháp cấp xã.

Phần thứ hai: thực trạng đội ngũ cán bộ Và CÔNG TáC QUảN Lý CáN Bộ Tư pháp cấp xã

I. Thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã

1. Thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã nói chung.

2. Thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách.

3. Nhận xét và đánh giá về đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

II. Thực trạng công tác quản lý đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã .

1. Cơ cấu, chức danh và tiêu chuẩn cán bộ Tư pháp cấp xã.

2. Tuyển chọn, sắp xếp cán bộ Tư pháp cấp xã.

3. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Tư pháp cấp xã.

4. Chế độ chính sách đối với cán bộ Tư pháp cấp xã.

5. Nhận xét về công tác quản lý cán bộ Tư pháp cấp xã

III. Nguyên nhân những tồn tại, hạn chế của đội ngũ cán bộ và công tác quản lý cán bộ tư pháp cấp xã

Phần thứ ba: Phương hướng kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã

Những quan điểm chỉ đạo việc kiện toàn nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

II. Mục tiêu của việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

1. Mục tiêu tổng quát.

2. Mục tiêu cụ thể.

III. Giải pháp cụ thể kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã

1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của cơ quan Tư pháp .

2. Kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã.

3. Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan Tư pháp cấp trên đối với hoạt động của Ban Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

5. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

6. Tăng cường công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

7. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tư pháp cấp xã.

8. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ cấp xã.

9. Phát huy vai trò và nâng cao hoạt động đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã kiêm nhiệm.

10. Đảm bảo nguồn kinh phí phục vụ hoạt động của Tư pháp cấp xã.

11. Củng cố bộ phận theo dõi về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp phương.

Kết luận

 

Các chuyên đề của đề tài

 

I. Nhóm chuyên đề về lý luận

1. Cơ quan Tư pháp địa phương - Thực trạng và phương hướng đổi mới

TS. Hoàng Thế Liên - Viện trưởng Viện NCKH pháp lý

2. Công tác tư pháp của chính quyền cơ sở trước yêu cầu quản lý Nhà nước bằng pháp luật và thực hiện dân chủ ở cơ sở

TS. Nguyễn Ninh Thực - Nguyễn Hữu Tám

Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ

3. Quá trình hình thành và phát triển của Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn

Dương Bạch Long - Viện NCKH pháp lý

4. Mối quan hệ của Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn với Uỷ ban nhân dân và tổ chức chính trị - xã hội ở cấp cơ sở

Thạc sĩ Chu Văn Thịnh P. chánh Văn phòng Bộ Tư pháp

 

5. Thực trạng tổ chức cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn trong giai đoạn hiện nay

Hà Thị Nga - Vụ trưởng Vụ TCCB&ĐT.

Vũ Ngọc Tú - Chuyên viên Vụ TCCB&ĐT

6. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tư pháp cấp xã

Vũ Văn Quý - P. Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ và Đào tạo

7. Công tác quản lý Đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn

ThS. Trần Văn Quảng - P. Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ và Đào tạo

8. Phương hướng kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã trong giai đoạn hiện nay

Lê Thị Thu Ba - Thứ trưởng Bộ Tư pháp

II. Nhóm chuyên đề về thực tiễn.

1. Cần sớm ổn định và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn.

Nguyễn Văn Xê - P.GĐ. Sở Tư pháp Tây Ninh.

 

2. Đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn thực trạng và phương pháp kiện toàn

Trần Đình Long - Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Đăk Lăk

3. Thực trạng công tác tư pháp xã và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã ở địa phương ở tỉnh Nam Định

Nguyễn Văn Khuê - Sở Tư pháp Nam Định

4. Thực trạng công tác Tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã, phường, thị trấn tỉnh An Giang

Huỳnh Chánh Huy - Sở Tư pháp tỉnh An Giang

5. Thực trạng công tác tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã ở địa phương

Cao Xuân Bé - Sở Tư pháp Hà Giang

6. Thực trạng công tác Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã ở địa phương

Nguyễn Đức Dũng - Giám đốc Sở Tư pháp Kon Tum

7. Đánh giá thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn tỉnh Ninh Bình

Lê Văn Chắt - Giám đốc Sở Tư pháp Ninh Bình

III. Nhóm chuyên đề về thực tiễn.

1. Nhiệm vụ của UBND cấp xã trong đăng ký, Quản lý hộ tịch và chứng thực

TS. Trần Thất - Vụ trưởng Vụ Quản lý công chứng, giám định, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch Tư pháp

2. Phổ biến, giáo dục pháp luật ở xã, phường, thị trấn - thực trạng và giải pháp

Nguyễn Duy Lãm - Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật

3. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn xây dựng hương ước

và thực hiện dân chủ ở cấp xã

Nguyễn Quốc Việt - Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hành chính - Hình sự

4. Trợ giúp pháp lý với tư pháp xã, phường, thị trấn và Tổ hoà giải

Tạ Minh Lý - Cục trưởng - Cục Trợ giúp Pháp lý

 

 

Phụ lục

1. Báo cáo kết quả tổ chức Hội thảo "Đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn - Thực trạng và phương hướng kiện toàn nâng cao năng lực hoạt động"

2. Tổng hợp kết quả xử lý Phiếu Khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã

3. Bảng Tổng hợp thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

 

 

Lời nói đầu

 

I. Tính cấp thiết của đề tài.

Trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là UBND cấp xã) là cơ quan hành chính cơ sở, có chức năng tổ chức thực hiện việc thi hành Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn theo thẩm quyền được giao, bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở. UBND cấp xã là cấp gần dân nhất, quan hệ trực tiếp với dân, bảo đảm quyền làm chủ của dân trên địa bàn; là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống.

Là một bộ phận cấu thành của UBND cấp xã, Ban Tư pháp là cơ quan chuyên môn của UBND, giúp UBND cùng cấp quản lý công tác tư pháp ở địa phương và trực tiếp thực thi các công việc tư pháp trên địa bàn, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước bằng pháp luật của chính quyền địa phương. Đồng thời là đơn vị cấp cơ sở trong ngành Tư pháp, Ban Tư pháp cấp xã chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan Tư pháp cấp trên, bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao cho Ban Tư pháp, đội ngũ cán bộ của Tư pháp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cán bộ tư pháp cấp xã), bao gồm cán bộ chuyên trách công tác chuyên môn tư pháp ở cấp xã được hưởng định suất theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23-1-1998 về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cán bộ chuyên trách) và cán bộ kiêm nhiệm (cán bộ tham gia hoạt động của Ban Tư pháp), đã không ngừng được củng cố, tăng cường. Đội ngũ cán bộ này là một bộ phận của cán bộ chính quyền cơ sở và là lực lượng cán bộ đông đảo nhất của ngành Tư pháp. Hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trực tiếp là cấp uỷ và chính quyền địa phương, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã đã từng bước được kiện toàn, củng cố, không ngừng phát huy vị trí, vai trò của mình trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, từng bước vươn lên triển khai thực hiện có hiệu quả nhiều hoạt động tư pháp ở cơ sở như: xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, quản lý và đăng ký hộ tịch, hoà giải ở cơ sở, thi hành án dân sự, xây dựng, phát triển tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn...

Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã đang bộc lộ những tồn tại, bất cập như đội ngũ cán bộ chuyên trách còn thiếu về số lượng, đặc biệt, nhiều xã ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa vẫn chưa có cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách; phần lớn đội ngũ cán bộ tư pháp ở cơ sở chưa được đào tạo cơ bản về chuyên môn, việc bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời; chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung, cán bộ tư pháp cấp xã nói riêng chưa được quan tâm đúng mức... Điều này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng công tác tư pháp ở cơ sở.

Trong giai đoạn xây dựng, phát triển đất nước hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến hành cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, mở rộng và phát huy dân chủ ở cơ sở đã đặt ra những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới đối với chính quyền cấp xã nói chung và Tư pháp cấp xã nói riêng. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (khoá IX) về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn" đã xác định: "xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân". Đồng thời, Nghị quyết này cũng xác định cán bộ tư pháp cấp xã là một trong những chức danh chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, là một bộ phận cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở.

Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và xây dựng đất nước, việc củng cố, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp chính quyền và của ngành Tư pháp.

Trong những năm qua, vấn đề Tư pháp cấp xã đã được nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm, nghiên cứu như: Đề tài khoa học cấp Bộ về "Tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn và Tổ hoà giải ở cơ sở trong quá trình hoàn thiện bộ máy Nhà nước" mã số 98-98-077; Đề tài khoa học cấp Bộ về "Thực trạng và mô hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp cấp xã trong giai đoạn hiện nay" mã số 99-98-177 và nhiều công trình nghiên cứu khác được công bố trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí Luật học,... Tuy nhiên, những công trình khoa học này mới chỉ nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau của Tư pháp cấp xã mà chưa nghiên cứu, đánh giá được một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống về thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã và đề ra những biện pháp để củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ này.

Vì vậy, việc triển khai nghiên cứu Đề tài "Đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn - Thực trạng và phương hướng kiện toàn nâng cao năng lực" là hết sức cấp thiết.

II. Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài:

Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài:"Đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn - Thực trạng và phương hướng kiện toàn nâng cao năng lực hoạt động" là:

1. Phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác quản lý cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn trong giai đoạn hiện nay - những mặt đã làm được và những mặt còn tồn tại, yếu kém cần khắc phục, xác định nguyên nhân để có giải pháp thích hợp.

2. Xác định phương hướng, kiến nghị các giải pháp kiện toàn, nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

3. Góp phần hoàn thiện cơ sở về lý luận, thực tiễn của việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn.

4. Tạo sự chuyển biến về nhận thức cũng như trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành đối với công tác Tư pháp ở cơ sở.

III. Phạm vi nghiên cứu của Đề tài.

Việc nghiên cứu về cán bộ Tư pháp cấp xã bao hàm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phức tạp như: khoa học quản lý cán bộ, thực trạng đội ngũ cán bộ, lịch sử hình thành và phát triển, những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của đội ngũ cán bộ, đặc thù của đội ngũ cán bộ này...

Trong phạm vi Đề tài cấp Bộ này chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã với ý nghĩa là một bộ phận của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở và là lực lượng cán bộ đông đảo nhất của ngành Tư pháp, từ đó đề ra các giải pháp để kiện toàn, nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ này đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.

IV. Nhu cầu kinh tế - xã hội và địa chỉ áp dụng.

Việc triển khai nghiên cứu Đề tài nhằm phục vụ nhu cầu bức xúc là xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ công tác tư pháp ở địa phương đặt ra trong giai đoạn hiện nay, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX.

Với sự tham gia của những nhà nghiên cứu khoa học, những người làm công tác quản lý, công tác thực tiễn của Bộ Tư pháp và các cơ quan Tư pháp địa phương, lần đầu tiên, đề tài đã phân tích, đánh giá một cách tổng thể, đầy đủ thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã ở 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận, thực tiễn đã phục vụ kịp thời cho việc xây dựng và thực hiện "Đề án Khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn của Bộ Tư pháp"; góp phần hoàn thiện các thể chế pháp lý về chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ của Tư pháp cấp xã và các quy định về chức danh, tiêu chuẩn, quy trình tuyển dụng, chế độ, chính sách, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

V. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu Đề tài, chúng tôi đã sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng) và các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh, hệ thống, thống kê... để từ đó làm rõ thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã trong giai đoạn hiện nay, xác định phương hướng và các giải pháp kiện toàn, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ này.

Đồng thời, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn để phân tích, đánh giá thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển của đội ngũ cán bộ Tư pháp ở cơ sở.

Những nội dung chính của đề tài:

1. Xác định vị trí, vai trò của Ban Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã;

2. Đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của Tư pháp cấp xã; thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã về số lượng, cơ cấu và chất lượng; nhận xét ưu điểm, kết quả và tồn tại, hạn chế; đưa ra nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế;

3. Thực trạng công tác quản lý đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã;

4. Phương hướng và các giải pháp để kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

VI. Tổ chức thực hiện

Đề tài "Đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn - Thực trạng và phương hướng kiện toàn, nâng cao năng lực hoạt động" được tổ chức bởi:

Cơ quan chủ quản: Bộ Tư pháp;

Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý

Chủ nhiệm: Lê Thị Thu Ba - Thứ trưởng Bộ Tư pháp

Phó Chủ nhiệm: ThS. Trần Văn Quảng - Phó Vụ trưởng

Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo

Thư ký đề tài: Dương Bạch Long - Viện NCKHPL

Nguyễn Bá Yên - Vụ TCCB&ĐT

Cơ quan phối hợp chính: Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo; các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp; Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ; một số Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp.

 

 

phần thứ nhất

Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ

Tư pháp cấp xã

 

I. Vài nét về sự hình thành và phát triển của Tư pháp cấp xã.

Chế định Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn là một chế định truyền thống trong lịch sử hình thành và phát triển của nền Tư pháp dân chủ nhân dân của nước ta. Trước tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, theo Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tiểu ban Tư pháp đã được hình thành trong Uỷ ban dân tộc giải phóng làng, xã để khuôn xử các vụ xung đột, xích mích, trộm cướp, chửi bới... Tiểu ban này do một Uỷ viên trong Uỷ ban Dân tộc giải phóng phụ trách và "có các người không nhất định phải có chân trong Uỷ ban Dân tộc giải phóng".

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 28-8-1945 Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra Tuyên cáo công bố danh sách nội các thống nhất quốc gia, trong số mười ba Bộ trưởng đầu tiên có Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Theo đó, hệ thống các cơ quan Tư pháp từ trung ương đến cơ sở (trong đó có Tư pháp cấp xã) cũng được hình thành và phát triển. Ngày 28-8-1945 đã trở thành ngày mở đầu cho lịch sử Ngành Tư pháp của chế độ mới. Trong thời gian này, theo quy định tại Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 về "Tổ chức những Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính", Sắc lệnh số 13 ngày 24-11-1946 về "Tổ chức các Toà án và các ngạch thẩm phán", Sắc lệnh số 85/SL ngày 22-5-1950 về "Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng", Ban Tư pháp vừa là một cơ quan hành chính, vừa là một cơ quan tố tụng trong bộ máy chính quyền non trẻ của Nhà nước Việt Nam.

Do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, theo quy định của Hiến pháp 1959 và các Luật về tổ chức bộ máy Nhà nước, trong tổ chức Chính phủ không có Bộ Tư pháp, ở UBND cấp tỉnh và cấp huyện không có các cơ quan Tư pháp. Tuy nhiên, tổ chức Tư pháp cấp xã vẫn tiếp tục được duy trì và củng cố. Theo quy định tại Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960 và Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của các toà án nhân dân địa phương ngày 30-3-1961, Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm hướng dẫn tổ chức, hoạt động của Tư pháp cấp xã. Để thực hiện nhiệm vụ này, ngày 26-2-1964, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 02-TC về việc xây dựng tổ hoà giải và kiện toàn tổ chức Tư pháp xã, khu phố, trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Tư pháp cấp xã nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và đấu tranh thống nhất đất nước.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thống nhất trên phạm vi cả nước, Bộ Tư pháp đã được thành lập lại theo Nghị định số 143/HĐBT ngày 22-11-1981. Trong đó, Ban Tư pháp cấp xã được xác định là cơ quan chuyên môn của UBND cùng cấp, đồng thời là cấp cơ sở trong hệ thống các cơ quan Tư pháp.

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, pháp chế ở cơ sở và thực hiện công bằng xã hội đã đặt ra cho Uỷ ban nhân dân các cấp cũng như ngành Tư pháp những nhiệm vụ mới trong lĩnh vực xây dựng và thi hành pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Điều 53 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994 quy định "các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở". Ngày 4-6-1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 38/CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thay thế Nghị định số 143/HĐBT. Nghị định số 38/CP đã xác định Ban Tư pháp là cơ quan chuyên môn của UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành Tư pháp từ Trung ương đến cơ sở. Ngày 26-7-1993, Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã ban hành Thông tư liên Bộ số 12/TTLB về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các cơ quan Tư pháp địa phương, trong đó đã quy định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tư pháp cấp xã. Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23-11-1998 của Chính phủ về chế độ chính sách đối với cán bộ chính quyền cơ sở quy định cán bộ Tư pháp cấp xã là một trong bốn chức danh chuyên môn của UBND cấp xã. Việc ban hành các văn bản pháp luật nói trên đã khẳng định vị trí, vai trò của Tư pháp cấp xã và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã trong tổ chức bộ máy Nhà nước, đồng thời góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức, hoạt động và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã nhằm đáp ứng yêu cầu ngày đặt ra càng cao đối với công tác tư pháp ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.

Thực hiện Nghị định 38/CP ngày 4-6-1993 của Chính phủ, Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) và các văn bản pháp luật hiện hành quy định về tổ chức, hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã, được sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương, sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, sự nỗ lực cố gắng với tinh thần tích cực, chủ động của ngành Tư pháp, tổ chức, cán bộ của Tư pháp cấp xã đã từng bước được kiện toàn, củng cố, nhiều lĩnh vực công tác Tư pháp được tổ chức triển khai có hiệu quả, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương và của ngành Tư pháp.

Đến nay đã có 10.246 xã, phường, thị trấn thành lập Ban Tư pháp chiếm 99%; còn 98 xã, phường, thị trấn chưa thành lập được Ban Tư pháp. ở những nơi chưa thành lập Ban Tư pháp, công tác tư pháp cấp xã do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phụ trách, công tác hộ tịch giao cho cán bộ Tư pháp chuyên trách hoặc Trưởng, Phó Công an xã hoặc thư ký Văn phòng Uỷ ban nhân dân, cán bộ địa chính, văn hoá thông tin Uỷ ban nhân dân xã kiêm nhiệm. Cùng với việc mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Tư pháp cấp xã thì đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã cũng từng bước được tăng cường với 27.732 cán bộ Tư pháp cấp xã, trong đó có 9.426 cán bộ chuyên trách (chiếm 34% tổng số cán bộ tư pháp), chất lượng đội ngũ cán bộ này ngày càng được nâng cao. Đây là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả triển khai thực hiện các công tác Tư pháp ở cơ sở. Lý luận cũng như thực tiễn đã khẳng định đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã không chỉ là một bộ phận cấu thành của đội ngũ cán bộ của chính quyền cơ sở mà còn là mắt xích quan trọng của ngành tư pháp, bảo đảm sự thống nhất quản lý công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

II. Vị trí, vai trò của cán bộ Tư pháp cấp xã.

Lý luận cũng như thực tiễn đã khẳng định, cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vai trò quyết định trong mọi thời kỳ cách mạng. Lênin đã chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào".

Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Cán bộ là cái gốc của mọi việc" và "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Ngay từ khi ra đời cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta luôn coi việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ là khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đã xác định: "cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng".

Hơn nửa thế kỷ qua, đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước ta đã không ngừng được củng cố và phát triển, trong đó, đội ngũ cán bộ cơ sở đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc "đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng". Đội ngũ cán bộ cơ sở là những người trực tiếp đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Thực tiễn cho thấy không có đội ngũ cán bộ cơ sở tốt thì dù đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước có đầy đủ và đúng cũng khó có thể đi vào cuộc sống.

Với vị trí là một bộ phận của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở, cán bộ Tư pháp cấp xã phải đảm nhiệm một khối lượng công việc lớn và không ngừng gia tăng để góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội, trong đó phần lớn là các hoạt động chỉ phát sinh từ địa hạt cơ sở hoặc chỉ được tiến hành tại cấp cơ sở. Trong giai đoạn hiện nay, khi việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp ở cơ sở đang là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước, vị trí quan trọng của đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã không chỉ được khẳng định trong bộ máy chính quyền mà còn được khẳng định trong toàn bộ hệ thống chính trị ở cơ sở. Trước tình hình trên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở đã khẳng định đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã là một bộ phận quan trọng, cán bộ chuyên trách được UBND tuyển chọn, có chế độ làm việc và chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước.

Trong hệ thống tổ chức ngành Tư pháp, Ban Tư pháp là cấp cơ sở, bảo đảm sự quản lý thống nhất công tác tư pháp từ Trung ương đến cơ sở. Cùng với sự hình thành và phát triển của Ban Tư pháp, ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Ban Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã không chỉ là một bộ phận cấu thành của chính quyền cơ sở mà đồng thời còn là một mắt xích không thể thiếu được của ngành tư pháp. Kể từ đó đến nay, dù trong thời chiến hay thời bình, dù cơ quan tư pháp cấp trên có lúc không tồn tại, cơ cấu của bộ máy chính quyền cấp xã có khi thay đổi nhưng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã vẫn luôn tồn tại, phát triển và khẳng định vai trò của mình trong quản lý Nhà nước và quản lý xã hội. Theo quy định tại Nghị định 38/CP ngày 4-6-1993 của Chính phủ và Thông tư liên Bộ 12/TTLB của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức cán bộ chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) và các văn bản pháp luật hiện hành quy định về tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp, đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã có trách nhiệm tổ chức triển khai phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác của cơ quan Tư pháp cấp trên. Đồng thời Ban Tư pháp là đầu mối tiếp nhận các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước và tổ chức thực hiện đưa pháp luật đến với người dân. Đây là cấp cơ sở, gần dân nhất, trực tiếp thực hiện công tác tư pháp, đội ngũ cán bộ này mạnh hay yếu có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của toàn ngành Tư pháp.

Việc xác định vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã trong hệ thống chính trị ở cơ sở và hệ thống cơ quan Tư pháp trong tiến trình đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động đòi hỏi cấp bách phải tăng cường, củng cố đội ngũ cán bộ này, không chỉ đủ về số lượng, mà còn phải nâng cao về chất lượng trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn".

III. Nhiệm vụ của cán bộ Tư pháp cấp xã.

Theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác tư pháp ở cơ sở hiện nay, cán bộ Tư pháp cấp xã có các nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu sau:

1. Giúp UBND cấp xã thực hiện quản lý Nhà nước về các công tác tư pháp.

Quản lý Nhà nước về công tác tư pháp là sự tác động, điều chỉnh có tổ chức bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình vận động xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp nhằm thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ công tác tư pháp của Nhà nước đã đặt ra trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Để giúp UBND cấp xã quản lý Nhà nước về công tác tư pháp, cán bộ Tư pháp phải căn cứ vào sự chỉ đạo của UBND cấp xã và hướng dẫn của cơ quan Tư pháp cấp trên để thực hiện các công việc cụ thể sau:

- Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác tư pháp dài hạn và hàng năm của xã, phường, thị trấn để trình UBND cấp xã phê duyệt và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch này;

- Kiểm tra, đôn đốc các tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác tư pháp trong quá trình tổ chức thực hiện;

- Định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo kết quả thực hiện công tác tư pháp với UBND cùng cấp và cơ quan Tư pháp cấp trên; đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác tư pháp ở cơ sở.

2. Giúp UBND cấp xã soạn thảo các văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền.

 

Ban hành văn bản là một hình thức hoạt động quản lý cơ bản của các cơ quan Nhà nước. Yêu cầu của việc ban hành văn bản là phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời phải phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước cũng như của từng vùng, miền, địa phương.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, UBND cấp xã có thẩm quyền ban hành các quyết định, chỉ thị để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND cùng cấp.

Để giúp UBND cấp xã thực hiện nhiệm vụ này, cán bộ Tư pháp cấp xã phải chủ động thực hiện những công việc cụ thể sau:

- Nắm nhu cầu và lập kế hoạch soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị của UBND cấp xã trình Chủ tịch UBND cấp xã phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó; trực tiếp soạn thảo, tham gia soạn thảo hoặc tham gia ý kiến đối với các dự thảo văn bản pháp luật trước khi trình UBND cấp xã ban hành; đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật của chính quyền cấp xã.

- Tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia đóng góp vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như các Bộ luật, luật, pháp lệnh... theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan Nhà nước cấp trên.

- Rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương để phát hiện những văn bản mâu thuẫn, chồng chéo, không đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất. Từ đó, kiến nghị với UBND cấp xã có biện pháp xử lý đối với những văn bản trái pháp luật.

- Giúp UBND cấp xã chỉ đạo, hỗ trợ các làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư xây dựng hương ước, quy ước có nội dung phong phú, thiết thực, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và chương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kiểm tra việc tổ chức thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn (điểm 6 Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 19-6-1998 về việc xây dựng hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư).

3. Thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội, là phương tiện, công cụ để công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp cũng như các nghĩa vụ của mình. Có công cụ, phương tiện rồi chưa đủ, cái chính là làm sao để tất cả các cơ quan, tổ chức, các đoàn thể xã hội và mọi công dân đều biết, hiểu và sử dụng được một cách có hiệu quả công cụ đó.

Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối chuyển tải pháp luật vào cuộc sống và là biện pháp quan trọng để tăng cường pháp chế XHCN. Giáo dục pháp luật nhằm hình thành lòng tin vào pháp luật, thói quen và ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đối với xã, phường, thị trấn, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì xã, phường, thị trấn là đơn vị cơ sở trong hệ thống hành chính của nước ta, là nơi tổ chức, triển khai thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, biến chúng thành hiện thực trong đời sống hàng ngày. Xã, phường, thị trấn là cấp chính quyền gần dân nhất, nơi có thể hiểu, nắm được những diễn biến tâm tư, tình cảm, ý chí, nguyện vọng của dân, là nơi lãnh đạo nhân dân trực tiếp tổ chức cuộc sống. Do vậy, triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở xã, phường, thị trấn là con đường gần nhất, có hiệu quả nhất để đưa pháp luật đến với cuộc sống.

Để giúp UBND cấp xã thực hiện có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong phạm vi địa phương, cán bộ Tư pháp cấp xã tổ chức thực hiện các công việc cụ thể sau:

- Nắm bắt, tổng hợp nhu cầu và lập kế hoạch tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở địa phương theo hướng dẫn của cơ quan Tư pháp cấp trên và theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của xã, phường, thị trấn;

- Tổ chức phối hợp với các Ban, tổ công tác của UBND cấp xã (công an, văn hoá - thông tin, quản lý thị trường...), các đoàn thể quần chúng, trưởng thôn, trưởng bản, tổ trưởng tổ dân phố, tổ hoà giải, các trường phổ thông... để tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân;

- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện hoặc kiến nghị UBND cấp xã có biện pháp phù hợp cho việc tổ chức thực hiện kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở địa phương như: điều chỉnh kế hoạch, nội dung, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, lực lượng...;

- Sơ kết, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương.

4. Thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch.

Việc quản lý và đăng ký hộ tịch giúp UBND cấp xã và cơ quan Nhà nước cấp trên theo dõi thực trạng sự biến động về hộ tịch, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức; thống kê, phân tích dân số, thu thập các thông số quan trọng về gia đình và xã hội, tạo cơ sở hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.

Cán bộ Tư pháp cấp xã có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp thực hiện việc quản lý và đăng ký hộ tịch theo quy định tại Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10-10-1998 của Chính phủ, cụ thể như sau:

- Đăng ký sinh; tử; kết hôn; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn; đăng ký lại các việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi;

- Căn cứ vào quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ đăng ký hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, huỷ hôn nhân trái pháp luật, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc những sự kiện khác do pháp luật quy định;

- Cấp bản sao các giấy tờ hộ tịch từ sổ gốc;

- Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về hộ tịch;

- Tổng hợp tình hình và báo cáo thống kê các số liệu về hộ tịch cho UBND cấp huyện theo định kỳ sáu tháng và hàng năm;

- Lưu trữ sổ sách, hồ sơ hộ tịch;

- Sử dụng các loại sổ sách, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp;

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về đăng ký và quản lý hộ tịch theo thẩm quyền.

5. Hướng dẫn, quản lý hoạt động của các tổ hoà giải ở cơ sở.

Tổ hoà giải ở cơ sở là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác để thực hiện hoặc tổ chức thực hiện việc hoà giải những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, làm tốt đẹp hơn quan hệ gia đình, họ hàng, xóm phố và góp phần tuyên truyền, phổ biến nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, chủ động ngăn ngừa vi phạm pháp luật, hạn chế các vụ việc phải đưa ra Toà án giải quyết.

Theo quy định tại Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18-10-1999 của Chính phủ, cán bộ Tư pháp giúp UBND cấp xã trong công tác hoà giải ở cơ sở, có trách nhiệm thực hiện các công việc cụ thể sau:

- Tham mưu giúp UBND cấp xã về xây dựng các tổ hoà giải; quyết định công nhận và miễn nhiệm tổ trưởng và tổ viên tổ hoà giải;

- Thực hiện việc bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ hoà giải ở địa phương theo sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên;

- Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải ở địa phương; báo cáo công tác hoà giải với UBND cấp xã và cơ quan tư pháp cấp trên; tổ chức thi đua, khen thưởng công tác hoà giải ở địa phương.

Bên cạnh đó, cán bộ Tư pháp còn được UBND cấp xã giao nhiệm vụ trực tiếp hoà giải các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh ở địa phương khi:

- Các bên tranh chấp không đồng ý để tổ hoà giải tiến hành hoà giải mà đưa thẳng việc tranh chấp lên UBND cấp xã và yêu cầu hoà giải;

- Các vụ tranh chấp mà tổ hoà giải không hoà giải thành và hai bên đương sự yêu cầu UBND cấp xã giải quyết;

- Các vụ việc do Toà án nhân dân cấp huyện chuyển đến. Đó là các vụ việc mà nhân dân trực tiếp đưa đơn đến Toà án nhân dân cấp huyện nhưng Toà án thấy còn khả năng hoà giải được ở xã, phường, thị trấn và được các bên đương sự chấp thuận thì Toà án nhân dân cấp huyện chuyển về xã, phường, thị trấn để hoà giải.

6. Tổ chức phối hợp việc thi hành án dân sự ở địa phương theo sự chỉ đạo của Đội thi hành án.

Thi hành án là hoạt động cụ thể của các cơ quan, tổ chức và công dân theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm đưa những nội dung đươc quyết định (phán quyết) trong các bản án, quyết định của Toà án hoặc các quyết định khác theo quy định của pháp luật được thực hiện trong thực tế để đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân.

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, việc tổ chức thi hành án thuộc trách nhiệm của Chấp hành viên thuộc các cơ quan thi hành án dân sự (Phòng Thi hành án hoặc Đội Thi hành án), cán bộ Tư pháp chỉ tham gia với tư cách là cơ quan chuyên môn giúp UBND cùng cấp tổ chức phối hợp thi hành án dân sự.

Theo quy định tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Nghị định số 30/CP ngày 2-6-1993, Nghị định số 69/CP ngày 18-10-1993 của Chính phủ, Thông tư liên ngành số 981/TTLN ngày 21-9-1993 của Bộ Tư pháp, TANDTC, VKSNDTC, Thông tư số 67/TT-THA ngày 5-7-1996 của Bộ Tư pháp, Thông tư liên tịch số 06/1998/TTLT ngày 24-10-1998 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, trong công tác thi hành án dân sự, cán bộ Tư pháp thực hiện những công việc cụ thể sau:

- Tiến hành khấu trừ một phần thu nhập của người bị kết án cải tạo không giam giữ (mà UBND được giao giám sát, giáo dục) theo quyết định của Toà án để giao nộp cho cơ quan thi hành án dân sự;

- Chuyển cho cơ quan thi hành án dân sự những khoản tiền, tài sản của người phải thi hành án do mình đang quản lý hoặc các khoản tiền, tài sản khác theo yêu cầu của cơ quan thi hành án;

- Tổ chức phối hợp với các cơ quan hữu quan, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, tổ dân phố, tổ an ninh và các cơ quan, tổ chức khác, các cá nhân trong việc thi hành án;

- Đôn đốc, thi hành đối với các vụ việc có trị giá không quá 500.000 đồng, dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan thi hành án (Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác thi hành án dân sự);

- Cung cấp địa chỉ, tài liệu, điều kiện về thu nhập, tài sản của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án;

- Cử đại diện đến chứng kiến, tham gia cưỡng chế thi hành án hoặc xử lý tang vật, tài sản có liên quan đến việc thi hành án;

- Xác nhận đơn trình bày về việc không có tài sản hoặc thực sự có khó khăn về kinh tế của người phải thi hành án hoặc đơn chứng minh những sự kiện khách quan làm cho người được thi hành án không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn yêu cầu thi hành án;

- Tạo điều kiện thuận lợi, bố trí địa điểm, chỗ làm việc để cơ quan thi hành án triệu tập đương sự đến làm việc và những công việc khác theo quy định của pháp luật;

- Thông báo, niêm yết công khai các văn bản, giấy tờ về thi hành án như: thông báo về việc cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án;

- Chuyển các quyết định về thi hành án, giấy báo tự nguyện thi hành án cho các đương sự, giấy báo gọi đương sự đến cơ quan thi hành án hoặc trụ sở UBND để giải quyết việc thi hành án;

- Giáo dục, thuyết phục, động viên người phải thi hành án tự nguyện thi hành án;

- Xác minh điều kiện thi hành án về tài sản của người phải thi hành án.

7. Các nhiệm vụ cụ thể khác

Ngoài các nhiệm vụ cụ thể trên, từ năm 1998 đến nay, cán bộ Tư pháp cấp xã còn được giao tổ chức, triển khai thêm một số hoạt động Tư pháp khác, cụ thể như sau:

- Quản lý Tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn; tổ chức phục vụ cho cán bộ, nhân dân tìm hiểu pháp luật (Quyết định số 69/1998/QĐ-TTg ngày 31-3-1998 và Quyết định số 1067/1998/QĐ-TTg ngày 25-11-1998 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và quản lý Tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn);

- Thực hiện rà soát, thống kê nhu cầu giúp đỡ pháp luật, các vướng mắc của đối tượng được trợ giúp pháp lý (điểm 2 Mục C Phần I Thông tư số 07/1998/TT-BTP ngày 05-12-1998 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn về công tác quản lý và thực hiện trợ giúp pháp lý);

- Giúp UBND cấp xã giải quyết các vấn đề về quốc tịch thuộc thẩm quyền (Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31-12-1998 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam);

- Giúp UBND xã, phường, thị trấn thực hiện một số hành vi chứng thực theo thẩm quyền (Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8-12-2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực);

- Giúp UBND xã, phường, thị trấn thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất trong trường hợp bên bảo đảm là hộ gia đình, cá nhân (Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10-3-2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm)...

Như vậy, cùng với tiến trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cải cách hành chính, cải cách Tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị nhằm mở rộng và phát huy dân chủ ở cơ sở, chức năng, nhiệm vụ của tư pháp cấp xã ngày càng được tăng cường trên các lĩnh vực: xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống và quản lý các công tác tư pháp ở địa phương. Đồng thời, đối tượng và phạm vi của công tác tư pháp cấp xã cũng ngày càng được mở rộng. Yêu cầu nhiệm vụ trên đòi hỏi phải tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của cán bộ Tư pháp cấp xã để đảm bảo triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

 

phần thứ hai

thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác quản lý

cán bộ Tư pháp cấp xã

 

I. Thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã

1. Thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã nói chung.

1.1. Về số lượng.

Trong tổng số 27.732 cán bộ Tư pháp cấp xã gồm có:

+ Cán bộ Tư pháp chuyên trách là 9.426 người chiếm 34% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã được phân bố ở 92% số Ban Tư pháp; còn 827 (chiếm 8%) tổng số xã chưa bố trí được cán bộ Tư pháp chuyên trách

+ Cán bộ Tư pháp kiêm nhiệm là 18.306 người chiếm 66%. Trong đó có 1.077 Chủ tịch UBND cấp xã kiêm Trưởng ban chiếm 3,88%; 2.900 Phó Chủ tịch UBND cấp xã kiêm Trưởng ban chiếm 10,557%; còn lại là các thành viên kiêm nhiệm khác như: đại diện Mặt trận tổ quốc tham gia nhiều nhất (17%), tiếp đó là Hội Phụ nữ (16%), Công an xã (14%), Đoàn Thanh niên (11,5%), Văn phòng Uỷ ban nhân dân (9,1%), Hội Cựu Chiến binh (6,5%), Hội Nông dân (5,3%)...

1.2. Về độ tuổi.

+ Từ 30 tuổi trở xuống có 2.954 người, chiếm 10,7% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã;

 

+ Từ 31 đến 40 tuổi có 7.761 người, chiếm 28%;

+ Từ 41 đến 50 tuổi có 10.170 người,chiếm 36,7%;

+ Từ 51 đến 55 tuổi có 2.618 người, chiếm 9,4%;

+ Trên 55 tuổi có 2.291 người, chiếm 8,3%;

+ Không xác định độ tuổi có 1.938 người, chiếm 7,0%.

Trong tổng số cán bộ tư pháp trên, người trẻ tuổi nhất sinh năm 1983 (18 tuổi), người nhiều tuổi nhất năm 1915 (86 tuổi).

1.3. Về giới tính.

- Nam: 23.795 người, chiếm 85,8% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã;

- Nữ: 3.937 người, chiếm 14,2%.

1.4. Về trình độ văn hoá.

+ Tốt nghiệp cấp 3 có 13.401 người, chiếm 48,3% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã;

+ Tốt nghiệp cấp 2 có 10.980 người, chiếm 39,6%;

+ Tốt nghiệp cấp 1 có 2.191 người, chiếm 7,9%;

+ Chưa tốt nghiệp tiểu học có 282 người, chiếm 1%;

+ Trình độ văn hoá không xác định có 558 người, chiếm 3,2%.

1.5. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

+ Đại học Luật và tương đương có 583 người, chiếm 2,1% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã;

+ Cao đẳng Luật và tương đương có 10 người, chiếm 0,04%;

+ Trung học Luật và tương đương có 1.632 người, chiếm 5,9%;

+ Sơ cấp Luật và tương đương có 153 người, chiếm 0,6%;

+ Đại học khác có 761 người, chiếm 2,7%;

+ Cao đẳng khác có 109 người, chiếm 0,4%;

+ Trung cấp khác có 2.985 người, chiếm 10,8%;

+ Sơ cấp khác có 1.131 người, chiếm 4,1%;

+ Chưa đào tạo qua các hình thức trên có 20.368 người, chiếm 73,4%.

1.6. Về trình độ chính trị.

+ Cao cấp chính trị trở lên có 282 người, chiếm 1,0%;

+ Trung cấp chính trị có 7.432 người, chiếm 26,8%;

+ Sơ cấp chính trị có 7.874 người, chiếm 28,4%;

+ Chưa đào tạo có 12.144 người, chiếm 43,8%.

Trong số các cán bộ tư pháp trên, đã có 17.918 người là Đảng viên, chiếm 63,94% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã.

1.7. Về bồi dưỡng nghiệp vụ.

+ Số cán bộ đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ từ 01- 07 ngày có 2.798 người, chiếm 9,9% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã;

+ Số cán bộ đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ từ 8-15 ngày có 1.006 người, chiếm 3,6%;

+ Số cán bộ đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ từ 16 - 31 ngày có 385 người, chiếm 1,4%;

+ Số cán bộ đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ trên 01 tháng có 95 người, chiếm 0,3%;

+ Số cán bộ chưa được bồi dưỡng có 23.448 người, chiếm 84,2%.

1.8. Về thời gian công tác tư pháp.

+ Số cán bộ đã có thời gian công tác tư pháp từ 1 năm trở xuống có 5.677 người, chiếm 20,5% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã;

+ Số cán bộ đã có thời gian công tác tư pháp từ 2 năm đến 3 năm có 6.034 người, chiếm 21,8%;

+ Số cán bộ đã có thời gian công tác tư pháp từ 4 năm đến 5 năm có 3.391 người, chiếm 12,2%;

+ Số cán bộ đã có thời gian công tác tư pháp trên 5 năm có 6.173 người, chiếm 22,3%;

+ Số cán bộ đã có thời gian công tác tư pháp không xác định được thời gian công tác tư pháp là 6.457 người, chiếm 23,3%.

1.9. Về dân tộc.

+ Số cán bộ tư pháp là người dân tộc Kinh có 21.146 người, chiếm 76,2% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã;

+ Số cán bộ tư pháp là người dân tộc Tày có 1.667 người, chiếm 6,0%;

+ Số cán bộ tư pháp là người dân tộc Mường có 1.490 người, chiếm 5,4%;

+ Số cán bộ tư pháp là người dân tộc Thái có 859 người, chiếm 3,1%;

+ Số cán bộ tư pháp là người dân tộc Nùng có 467 người, chiếm 1,7%;

+ Số cán bộ tư pháp là người dân tộc HMông có 330 người, chiếm 1,2%;

+ Số cán bộ tư pháp là người dân tộc Dao có 257 người, chiếm 0,9%;

+ Số cán bộ tư pháp là người dân tộc khác có 377 người, chiếm 1,4%;

+ Không xác định được dân tộc là 552 người, chiếm 2,0%.

1.10. Theo vùng, miền, địa phương.

+ Số cán bộ tư pháp ở khu vực miền núi phía Bắc có 5.289 người, chiếm 19,1% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã;

+ Số cán bộ tư pháp ở khu vực đồng bằng, trung du phía Bắc (trừ Hà Nội, Hải Phòng) có 7.830 người, chiếm 28,2%;

+ Số cán bộ tư pháp ở khu vực Bắc Trung Bộ có 4.912 người, chiếm 17,7%;

+ Số cán bộ tư pháp ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (trừ Đà Nẵng) có 1.614 người, chiếm 5,8%;

+ Số cán bộ tư pháp ở khu vực Tây Nguyên có 1.316 người, chiếm 4,7%;

+ Số cán bộ tư pháp ở đồng Nam Bộ (trừ thành phố Hồ Chí Minh) có 786 người, chiếm 2,8%;

+ Số cán bộ tư pháp ở đồng bằng sông Cửu Long có 2.343 người , chiếm 8,4%;

+ Số cán bộ tư pháp ở các thành phố trực thuộc Trung ương có 3.643 người, chiếm 13,1%.

2. Thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách.

Theo thống kê danh sách trích ngang cán bộ Tư pháp cấp xã tại 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đến ngày 01/01/2001, đội ngũ cán bộ Tư pháp chuyên trách là 9.426 người trên tổng số 27.732 cán bộ Tư pháp cấp xã chiếm 34%.

2.1. Về độ tuổi.

Đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách có cơ cấu độ tuổi trẻ hơn so với đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã kiêm nhiệm và đội ngũ cán bộ Tư pháp nói chung.

 

 

 

Hình 1. Cơ cấu thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách cấp xã

theo độ tuổi

- Đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách có độ tuổi dưới 40 là 55% trong khi đó tỷ lệ này ở đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã kiêm nhiệm là 30,21%, tăng 24,79% (trong đó số người có độ tuổi từ 30 trở xuống là 18,2%, cao hơn đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã kiêm nhiệm là 11,44% và đội ngũ cán bộ Tư pháp nói chung là 7.5%).

- Đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách có độ tuổi trên 55 là 1,74% thấp hơn đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã kiêm nhiệm là 9.88% và đội ngũ cán bộ Tư pháp nói chung là 6,56%.

Trong đội ngũ này, người nhiều tuổi nhất sinh năm 1927, người ít tuổi nhất sinh năm 1984.

Trong những năm gần đây, đặc biệt sau Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/11/1998 đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã không chỉ được tăng cường về số lượng, mà còn có sự thay đổi theo hướng trẻ hoá. Nếu so với số liệu điều tra tháng 10 năm 1998 của Viện Khoa học Tổ chức nhà nước - Ban Tổ chức cán bộ chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) thì số cán bộ Tư pháp chuyên trách có độ tuổi dưới 40 hiện nay đã tăng 3,5%.

2.2. Về giới tính.

Nhìn chung, tỷ lệ cán bộ nữ làm cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách còn rất thấp. Đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách có 8,6% cán bộ nữ; trong khi đó tỷ lệ này trong đội ngũ cán bộ Tư pháp kiêm nhiệm 17,09% (thấp hơn 8,49%) vì trong cơ cấu Ban Tư pháp thường có đại diện của Hội liên hiệp Phụ nữ nên tỷ lệ nữ trong đội ngũ cán bộ Tư pháp kiêm nhiệm là cao hơn.

ở những vùng, miền, địa phương có điều kiện kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao, thì tỷ lệ cán bộ cán bộ tư pháp chuyên trách là nữ cũng cao hơn. Ví dụ: tại thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ là: 37,5% nữ và 62,5% nam; tại thủ đô Hà Nội là: 36,6% nữ và 63,3% nam. Trong khi đó, tỷ lệ nữ tham gia cán bộ tư pháp chuyên trách lại rất thấp tại các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, cụ thể như ở khu vực miền núi phía Bắc có 4,5% là nữ trong khi đó có 95,5% là nam; ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ có 3% là nữ trong khi đó có 97% là nam.

Tuy vậy, tỷ lệ cán bộ Tư pháp chuyên trách nữ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ lại cao hơn so với nam giới. Trong toàn quốc 13,7% cán bộ Tư pháp chuyên trách nữ có trình độ Đại học Luật và tương đương và 23,6% cán bộ nữ có trình độ Trung học Luật và tương đương. Trong khi đó, tỷ lệ này đối với cán bộ Tư pháp chuyên trách nam lần lượt là 2,4% và 14,2%, thấp hơn trên 10%. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số lượng cán bộ Tư pháp chuyên trách là nữ đã có chiều hướng tăng lên; tính từ tháng10/1998 đến tháng 1/2002 tỷ lệ tăng là 2%.

2.3. Về trình độ văn hoá.

Đội ngũ cán bộ Tư pháp chuyên trách có trình độ văn hoá cao hơn so với cán bộ Tư pháp cấp xã nói chung; số cán bộ có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm tỷ lệ 54% (so với bình quân chung là 48,3%, cao hơn 5,7%); số cán bộ có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 34,6%, thấp hơn đội ngũ cán bộ Tư pháp nói chung là 5%. Tuy vậy, số cán bộ chưa tốt nghiệp tiểu học là 1,4% cao hơn so với tỷ lệ chung 0,4%.

Qua khảo sát, ta có thể thấy số cán bộ có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung học, tốt nghiệp phổ thông cơ sở tập trung nhiều nhất tại các nhóm dưới 40 tuổi. ở nhóm này có 65,5% tổng cán bộ có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung học và 42,2% tổng số cán bộ có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để quy hoạch, tiếp tục bồi dưỡng và đào tạo cán bộ Tư pháp cấp xã.

Phân tích trên từng nhóm tuổi, ta có thể thấy đội ngũ cán bộ trẻ, mới công tác trong đội ngũ cán bộ Tư pháp chuyên trách có trình độ văn hoá cao hơn đội ngũ cán bộ nhiều tuổi, công tác lâu năm. Ví dụ: nhóm tuổi từ 30 trở xuống, đội ngũ cán bộ có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung học là cao nhất và giảm dần cho đến nhóm trên 55 tuổi, ngược lại, trình độ văn hoá thấp lại tăng dần tại nhóm có độ tuổi thấp lên nhóm có độ tuổi cao và tập trung nhiều nhất ở nhóm độ tuổi trên 55 tuổi.

 

 

Hình 2. Cơ cấu thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách cấp xã

theo trình độ văn hoá

2.4. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ:

Những năm vừa qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trực tiếp là cấp uỷ và chính quyền địa phương, sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành Tư pháp và của mỗi cán bộ Tư pháp cấp xã, chất lượng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã đã tăng lên rõ rệt. Toàn quốc đã có 1.727 cán bộ Tư pháp chuyên trách có trình độ chuyên môn nghiệp vụ Luật từ Trung học và tương đương trở lên, chiếm 18,3% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách, gấp 2,3 lần so với bình quân chung (8%) và 6,7 lần cán bộ tư pháp cấp xã kiêm nhiệm. Số cán bộ chưa được đào tạo cơ bản là 6.014 người, chiếm 63,8%, thấp hơn tỷ lệ bình quân chung là 9,7% và tỷ lệ cán bộ Tư pháp kiêm nhiệm là 14,6%.

Kết quả khảo sát (tính đến ngày 01/01/2001) cho thấy trình độ đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách có thể phân thành các nhóm chính sau:

Nhóm 1 là những cán bộ có trình độ chuyên môn Luật từ trung học và tương đương trở lên. Nhóm này gồm 1.727 người, chiếm 18,3% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách. Cụ thể là:

Số cán bộ có trình độ Đại học Luật và tương đương trở lên là 313 người, chiếm 3,32% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách và 18,1% số cán bộ có trình độ Luật từ trung học và tương đương trở lên;

Số cán bộ có trình độ Trung học Luật và tương đương là 1.410 người, chiếm 14,96% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách và 81,16% số cán bộ bộ có trình độ Luật từ trung học và tương đương trở lên;

Nhóm 2 là những cán bộ có trình độ chuyên môn khác từ trung học trở lên là 1.196 người, chiếm 12,6% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách và 40,9% tổng số cán bộ đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.

Trong số cán bộ thuộc nhóm 1 và 2 nếu chỉ tính riêng những cán bộ có độ tuổi từ 40 trở xuống, có thể tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ là 1.770 người, chiếm 18,8% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách và 60,55% số cán bộ đã qua đào tạo chuyên môn. Trong đó, số cán bộ có trình độ Luật từ trung học Luật trở lên là 1.072 người (chiếm 11,38% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách); số cán bộ có trình độ chuyên môn khác từ trung học trở lên có thể chuyển đổi sang Luật là 698 người (chiếm 7,4% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách).

Nhóm 3 là những cán bộ có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học, phổ thông cơ sở có trình độ Sơ cấp hoặc chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, gồm 5.451 người (chiếm 57,82% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách). Trong đó,

- Số cán bộ có trình độ sơ cấp luật và sơ cấp khác là 433 người, chiếm 4,59% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách;

- Số cán bộ có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học là 2.493 người, chiếm 26,44% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách;

- Số cán bộ có trình độ tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 2.525 người, chiếm 26,78% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách.

Số cán bộ có độ tuổi dưới 40, có thể tiếp tục đào tạo chuyên môn là 2.681 người (chiếm 28,44% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trá), gồm 1.094 cán bộ đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở và 1.587 cán bộ đã tốt nghiệp phổ thông trung học.

Nhóm 4 là những cán bộ có trình độ văn hoá thấp (tốt nghiệp tiểu học hoặc chưa tốt nghiệp tiểu học), gồm 877 người, chiếm 9,3% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách. Phần lớn đội ngũ cán bộ này chưa được đào tạo chuyên môn hoặc chỉ đạt trình độ Sơ cấp Luật hoặc Sơ cấp khác (47 người, chiếm 5,3% số cán bộ tư pháp thuộc nhóm 4). Trong đó, số cán bộ dưới 40 tuổi có thể tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn là 384 người, chiếm 4,07% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách và 47,84% số cán bộ thuộc nhóm 4; số cán bộ có độ tuổi trên 50, cần thay thế là 110 người, chiếm 1,16% tổng số cán bộ tư pháp chuyên trách.

Hình 3. Cơ cấu thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách cấp xã

theo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

 

Như vậy, qua phân tích thực trạng trình độ văn hoá, chuyên môn kết hợp với độ tuổi, ta có thể thấy:

- Để quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với những cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách từ 40 tuổi trở xuống, thì số cán bộ có thể tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng là 4.835 người (chiếm 51,29% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách). Cụ thể như sau:

Số cán bộ cần bổ túc văn hoá để đạt trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học là 1.478 người (chiếm 15,68% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách)

Số cán bộ cần đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn đạt trình độ Trung học Luật là 2.285 người (chiếm 24,23% số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách).

Số cán bộ hiện có đủ điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cấp xã (đã có trình độ Trung học Luật và tương đương trở lên) cần được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ là 1.072 người chiếm 11,38% tổng số cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách.

Kết hợp số cán bộ có đủ điều kiện để quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nói trên và số cán bộ hiện có đủ điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cấp xã (đã có trình độ trung học Luật và tương đương trở lên) thì mới chỉ đảm bảo 69,59% cán bộ cho công tác tư pháp cấp xã. Số còn lại 30,41% cần tuyển những người có đủ tiêu chuẩn để thay thế số cán bộ không đủ tiêu chuẩn và không thể đưa đi đào tạo được.

- Để quy hoạch đào tạo đối với cán bộ Tư pháp chuyên trách, từ 45 tuổi trở xuống đối với nữ, 50 tuổi trở xuống đối với nam, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên thì số cán bộ có đủ điều kiện đào tạo tiếp là 5854 người, chiếm 62,1% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách, kết hợp với số cán bộ Tư pháp cấp xã có đủ tiêu chuẩn đưa đi đào tạo thì đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách đủ điều kiện chuyên môn, nghiệp vụ mới chỉ chiếm 79,4% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách. Số còn lại (20,6%) cần tuyển những người có đủ tiêu chuẩn để thay thế số cán bộ không đủ tiêu chuẩn và không thể đưa đi đào tạo được.

Do vậy, để tiếp tục xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ Tư pháp chuyên trách đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác tư pháp trong thời gian tới, bên cạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã hiện tại, cần có quy hoạch, kế hoạch tạo nguồn cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách bổ sung cho những địa phương còn thiếu và thay thế khi có sự thay đổi.

2.5. Theo thời gian bồi dưỡng nghiệp vụ

Những năm qua, mặc dù công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ Tư pháp chuyên trách đã được chính quyền, các cơ quan Tư pháp địa phương quan tâm, nhưng công tác này vẫn chưa được duy trì thường xuyên và có nền nếp. Toàn quốc vẫn còn 69,8% cán bộ Tư pháp chuyên trách chưa qua bồi dưỡng nghiệp vụ. Số cán bộ được bồi dưỡng dài hạn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (0,62%), còn lại là chủ yếu bồi dưỡng ngắn ngày: (1-3 ngày: 4,73%, 4-5 ngày: 7,64%; 6-7 ngày: 5,24%). Các địa phương làm tốt công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Tư pháp như Hoà Bình đạt 94,8%, Kon Tum: 84,7%; Cà Mau: 70,4%; Tuy vậy, một số địa phương, vì nhiều lý do khác nhau, số cán bộ Tư pháp chuyên trách được bồi dưỡng đạt thấp như Phú Thọ: 0,8%; Bình Định 2,8%; cá biệt có tỉnh như Quảng Trị chưa có cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách nào được tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ.

Hình 4. Cơ cấu thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách cấp xã

 

theo thời gian bồi dưỡng nghiệp vụ

 

Một số địa phương mới chỉ tập trung chú trọng công tác đào tạo cơ bản cho cán bộ Tư pháp cấp xã, còn công tác bồi dưỡng nghiệp vụ lại ít được quan tâm như: Đắc Lắc: 54,5% cán bộ có trình độ tốt nghiệp Đại học Luật và tương đương, Trung học Luật và tương đương trở lên nhưng chỉ có 20,7% cán bộ được bồi dưỡng nghiệp vụ; Hà Nội: 36,6% cán bộ có trình độ đại học Luật và tương đương, Trung học Luật và tương đương, nhưng chỉ có 24,1% cán bộ được bồi dưỡng nghiệp vụ. thành phố Hồ Chí Minh có 35,9% cán bộ có trình độ pháp lý từ Trung học trở lên, nhưng cũng chỉ có 12,4% cán bộ được bồi dưỡng nghiệp vụ.

2.6. Theo Vùng miền, địa phương

Số lượng cán bộ Tư pháp chuyên trách tập trung tại các tỉnh đồng bằng, trung du phía Bắc là 2.113 người chiếm 22,4% tổng số cán bộ Tư pháp chuyên trách (không kể Hà Nội và Hải Phòng); miền núi phía Bắc là 1.593 người, chiếm 16,9%; Bắc Trung Bộ là 1.565 người, chiếm 16,6%; đồng bằng sông Cửu Long là 387 người , chiếm 14,7%; các thành phố trực thuộc trung ương là 795 người, chiếm 8,4%.

Chất lượng cán bộ cũng có sự khác biệt giữa các vùng, miền, địa phương. Nếu như tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tỷ lệ cán bộ Tư pháp chuyên trách có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung học lên tới 87,5%, thì tại các tỉnh miền núi phía Bắc, tỷ lệ này chỉ đạt 30,9%. Tại các tỉnh miền núi phía Bắc vẫn còn đến 14,9% cán bộ Tư pháp chuyên trách có trình độ tiểu học và 6,2% cán bộ chưa tốt nghiệp tiểu học. Các tỉnh có tỷ lệ cán bộ Tư pháp chuyên trách tốt nghiệp tiểu học và chưa tốt nghiệp tiểu học cao là Lai Châu (43,5% và 18,2%), Hà Giang (25,9% và 25,9%), Lào Cai (20,3% và 20,3%), Gia Lai (23,1% và 5%), Sơn La (22,1% và 1,6%), Quảng Nam (23,7% và 1%), Trà Vinh (37,2% và 0%).

Hình 6. Cơ cấu thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách cấp xã

 

theo trình độ văn hoá

 

Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, 19% cán bộ Tư pháp chuyên trách ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trình độ đại học Luật và tương đương, 17,7% cán bộ có trình độ Trung học Luật và tương đương, tuy vậy vẫn còn tới 33% cán bộ chưa qua đào tạo. Các thành phố có tỷ lệ trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao điển hình là Hà Nội (31,9% cán bộ có trình độ Đại học Luật và tương đương, 4,6% cán bộ có trình độ Trung học Luật và tương đương, 26,9% cán bộ chưa qua đào tạo); thành phố Hồ Chí Minh (20% cán bộ có trình độ Đại học Luật, 19,9% cán bộ có trình độ Trung học Luật và 36,8% cán bộ chưa qua đào tạo).

Tại các tỉnh Tây Nguyên, tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo lại chiếm tỷ lệ cao so với nhiều vùng khác. Mặc dù, số cán bộ có trình độ Đại học Luật và tương đương của các tỉnh Tây Nguyên chỉ có 3,1%, tuy nhiên, số cán bộ có trình độ Trung học Luật và tương đương lại chiếm tới 31,7%, số cán bộ chưa qua đào tạo là 49,9%. Trong đó, tỉnh đạt tỷ lệ cao nhất là Đắc Lắc (3% cán bộ có trình độ Đại học Luật và tương đương, 51% cán bộ có trình độ trung học Luật và tương đương, 26,3% cán bộ chưa qua đào tạo).

Tại các tỉnh đồng bằng và miền núi phía Bắc, tỷ lệ cán bộ có trình độ nhìn chung còn rất thấp. Tại các tỉnh miền núi phía Bắc, chỉ có 1,6% cán bộ Tư pháp chuyên trách có trình độ Đại học Luật và tương đương, 3,6% cán bộ có trình độ Trung học Luật và tương đương và 78,9% cán bộ chưa qua đào tạo. Các tỉnh đồng bằng, trung du phía Bắc, tuy có nhiều điện kiện thuận lợi hơn so với các vùng khác nhưng cũng chỉ có 2,7% cán bộ Tư pháp chuyên trách có trình độ Đại học Luật và tương đương, 9,4% cán bộ có trình độ Trung học Luật và tương đương và 65,9% cán bộ chưa qua đào tạo.

2.7. Theo thời gian công tác tư pháp

 

 

Hình 7. Cơ cấu thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên trách cấp xã

theo thời gian công tác tư pháp

Đội ngũ cán bộ Tư pháp chuyên trách thường xuyên biến động. Theo kết quả khảo sát ở 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 22% cán bộ Tư pháp chuyên trách có thời gian công tác từ 01 năm trở xuống, thấp hơn 4,4% so với số công tác từ 2-3 năm, tuy vậy lại cao hơn 10,6% so với số cán bộ có thời gian công tác từ 4-5 năm và 3,8% so với số cán bộ có thời gian công tác trên 5 năm. Nếu cộng cả 13,2% cán bộ Tư pháp chuyên trách không xác định được thời gian công tác thì tỷ lệ cán bộ Tư pháp chuyên trách được thay đổi hàng năm sẽ còn cao hơn nữa.

Tuy vậy, xem xét thực trạng số cán bộ mới làm công tác tư pháp từ 01 năm trở xuống, chất lượng cán bộ cao hơn tỷ lệ chung. Tỷ lệ cán bộ có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung học ở là 62,7% (tỷ lệ chung là 54%), cao nhất trong tất cả các nhóm theo thời gian công tác tư pháp; tốt nghiệp trung học cơ sở là 28,1% (tỷ lệ chung là 34,7%), tốt nghiệp tiểu học là 7,4% (so với tỷ lệ chung là 7,9%); chưa tốt nghiệp tiểu học là 0,9% (tỷ lệ chung là 1,4%). Tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học Luật và tương đương ở nhóm này là 5,4% (tỷ lệ chung là 3,3%), cao nhất trong tất cả các nhóm cán bộ tính theo thời gian công tác; có trình độ Trung học Luật và tương đương là 15,3% (so với tỷ lệ chung là 15%).

3. Nhận xét, đánh giá về đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

Từ việc phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã, có thể rút ra những nhận xét, đánh giá sau đây:

3.1. Về kết quả và ưu điểm:

- Đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã đã được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng. Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay, đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã đã được tăng cường, với hơn 27.732 cán bộ Tư pháp cấp xã trong cả nước, bình quân mỗi Ban Tư pháp có 2,7 cán bộ, trong đó có 9.426 cán bộ chuyên trách (chiếm 34%). Trình độ đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã cũng có tiến bộ rõ rệt với tỷ lệ cán bộ Tư pháp cấp xã có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm 48,3% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã so với năm 1997 tăng 8,3%.

Toàn quốc hiện nay có gần 18,3% cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách có trình độ Trung học pháp lý trở lên, so với năm 1998 tăng 11%. Bên cạnh đó, còn phải kể đến 12,7% cán bộ tư pháp có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp khác. Ngoài ra, còn có 56,21% cán bộ Tư pháp chuyên trách được đào tạo lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên và 30,87% người được bồi dưỡng nghiệp vụ. Kết quả này tuy còn khiêm tốn, nhưng đã có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của công tác Tư pháp cấp xã.

- Đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã có sự kế thừa giữa các thế hệ. Đội ngũ cán bộ có tuổi đời từ 40 trở xuống chiếm gần 55% tổng số cán bộ Tư pháp chuyên trách cấp xã, trong đó có 18,2% cán bộ có tuổi đời dưới 30. Đây là đội ngũ cán bộ trẻ, nhiệt tình, năng động, có khả năng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, 45% còn là những cán bộ có độ tuổi trên 40, phần lớn cán bộ ở độ tuổi này đã được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu, xây dựng, bảo vệ tổ quốc và thực tiễn công tác tư pháp ở cơ sở nên có ý thức giác ngộ và bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngại khó khăn, gian khổ, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao. Đây là những ưu điểm cần được phát huy trong quá trình xây dựng, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

 

- Phần lớn cán bộ Tư pháp cấp xã là cư dân địa phương nên nắm vững được những đặc điểm về đời sống vật chất cũng như tinh thần, tâm lý của cư dân trong địa bàn công tác, từ đó họ có những phương pháp tiếp cận, giải quyết vấn đề nảy sinh hợp tình, hợp lý. Việc cán bộ tư pháp là cư dân địa phương cũng tạo cho người dân tâm lý gần gũi, thoải mái hơn khi tiếp xúc. Đây là điều kiện thuận lợi của người cán bộ tư pháp khi thực thi các nhiệm vụ công tác của mình như tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đăng ký hộ tịch, chứng thực, hoà giải,...

3.2. Về tồn tại, hạn chế.

- Số lượng cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách tuy đã được tăng cường nhưng còn thiếu so với yêu cầu khối lượng công việc phải đảm nhiệm ngày càng tăng.

Cả nước vẫn còn 8% Ban Tư pháp chưa có cán bộ Tư pháp chuyên trách. Theo quy định của pháp luật cũng như trên thực tế, Tư pháp cấp xã hiện nay phải đảm đương một khối lượng công việc rất lớn của hàng chục lĩnh vực công tác có đối tượng, phạm vi và nội dung phức tạp, nhiều nhiệm vụ đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên, liên tục như soạn thảo, tham gia soạn thảo văn bản pháp luật của chính quyền cấp xã, đăng ký hộ tịch, phổ biến giáo dục pháp luật, hoà giải, thi hành án ... Vì vậy, ngay cả ở những Ban Tư pháp đã có chức danh chuyên môn Tư pháp hộ tịch theo quy định tại Nghị định 09/1998/NĐ-CP thì lực lượng cán bộ này cũng mới chỉ đóng vai trò làm nòng cốt trong tổ chức và thực hiện công tác tư pháp, bên cạnh đó vẫn cần phải có đội ngũ đông đảo cán bộ Tư pháp kiêm nhiệm để giải quyết những công việc tư pháp cụ thể ở cơ sở. Thực tế đó đặt ra đòi hỏi cấp bách là phải tăng cường số lượng cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách để đủ sức giải quyết kịp thời, bảo đảm chất lượng và hiệu quả các nhiệm vụ của công tác Tư pháp ở cơ sở như tăng thêm chỉ tiêu cán bộ Tư pháp chuyên trách đối với những địa phương có khối lượng công việc lớn hoặc tuyển dụng cán bộ ở những nơi chưa có cán bộ Tư pháp chuyên trách...

- Trình độ đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã tuy có được nâng cao nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Tỷ lệ cán bộ Tư pháp cấp xã có trình độ văn hoá từ tốt nghiệp trung học cơ sở trở xuống vẫn cao, chiếm trên 50% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã trong đó còn có 1% cán bộ chưa tốt nghiệp tiểu học. Vẫn còn tồn tại 81,7% cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ ở trình độ Trung học chuyên nghiệp trở lên và 69,8% cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách chưa được tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ một cách thường xuyên dẫn đến hiệu quả hoạt động của nhiều Ban Tư pháp chưa cao. Trong số cán bộ chuyên trách chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ 20,6% cán bộ Tư pháp chuyên trách không đủ điều kiện để đưa đi bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, 35,6% số cán bộ thuộc độ tuổi có thể đưa đi đào tạo được, nhưng trình độ văn hoá lại không đồng đều, nên việc đào tạo cũng hết sức khó khăn và mất nhiều thời gian mới đảm bảo đạt tiêu chuẩn trình độ từ Trung học Luật trở lên. Do vậy, đứng trước yêu cầu nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ Tư pháp tương xứng với nhiệm vụ đặt ra đòi hỏi phải xây dựng được kế hoạch cũng như phải đổi mới phương pháp, hình thức và nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, miền địa phương khác nhau. Đồng thời phải thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng thay thế những đối tượng không đủ điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu cấp bách của công tác Tư pháp ở cơ sở.

- Trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ Tư pháp cấp xã có sự chênh lệch giữa các vùng, miền, địa phương và giữa các dân tộc .

 

Trình độ cán bộ Tư pháp cấp xã có sự chênh lệch rõ nét giữa các vùng, miền, địa phương. Tại các thành phố lớn, số cán bộ có trình độ chiếm tỷ lệ tương đối lớn, trong khi trình độ nghiệp vụ cán bộ Tư pháp cấp xã ở những tỉnh vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn còn thấp. Vùng miền núi phía Bắc, tuy tập trung một lực lượng cán bộ đông đảo (5.289 người, chiếm 19,7% tổng số cán bộ Tư pháp cấp xã), nhưng tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ từ Trung học Luật trở lên chỉ có 110 người, chiếm 2% tổng số cán bộ của vùng và 5% tổng số cán bộ có trình độ pháp lý từ trung học trở lên của cả nước). Một số tỉnh như Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu cá biệt vẫn còn cán bộ tư pháp chưa đọc thông viết thạo. Phần lớn đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã mới chỉ được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, mà chưa được đào tạo một cách có hệ thống theo quy định của pháp luật.

Trình độ của các cán bộ Tư pháp cấp xã là người dân tộc còn thấp. Nếu như tỷ lệ người Kinh có trình độ văn hoá tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm 56,5% tổng số cán bộ dân tộc Kinh thì đối với người dân tộc tỷ lệ này chỉ đạt 22%. Trong số 283 cán bộ Tư pháp cấp xã chưa tốt nghiệp tiểu học thì số cán bộ là người dân tộc đã chiếm 87% (246 người). Điều này đòi hỏi việc xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của từng vùng, miền, địa phương.

- Đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã thường xuyên bị thay đổi.

 

Đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách có đến 22% tổng số cán bộ mới tham gia Ban Tư pháp trong vòng một năm trở lại đây (tính tại thời điểm 1-1-2001). Trong đó, một số cán bộ đã qua đào tạo trình độ pháp lý được bổ sung, thay thế một bộ phận cán bộ có tuổi, năng lực yếu, trình độ thấp hoặc một bộ phận cán bộ có năng lực, trình độ được đề bạt giữ các chức vụ cao hơn. Nhưng phần lớn cán bộ Tư pháp cấp xã bị thay đổi theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Sự thay đổi này có những ảnh hưởng nhất định đến chất lượng và hiệu quả công tác tư pháp ở cơ sở, đồng thời cũng là một khó khăn lớn trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.

- Các cán bộ Tư pháp cấp xã thường phải kiêm nhiệm rất nhiều mảng công việc và tham gia nhiều tổ chức, đoàn thể khác nhau do vậy việc đầu tư thời gian, công sức vào công tác tư pháp có nơi, có lúc còn hạn chế. Ngay cả cán bộ Tư pháp chuyên trách, tuy được giao chuyên trách công tác tư pháp nhưng vẫn còn đến 28% cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách vẫn phải kiêm nhiệm các công việc khác của xã khiến cho việc đầu tư thời gian, công sức của đội ngũ cán bộ này vào công tác của Ban Tư pháp còn hạn chế, dẫn đến hiệu quả hoạt động công tác tư pháp chưa cao.

II. Thực trạng công tác quản lý đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã .

1. Cơ cấu, chức danh và tiêu chuẩn cán bộ Tư pháp cấp xã.

1.1. Về cơ cấu cán bộ.

Thực hiện Nghị định 38/CP ngày 4-6-1993 của Chính phủ và Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), Bộ Tư pháp đã có Công văn số 778/CV-TCCB ngày 7-9-1995 về việc kiện toàn tổ chức tư pháp xã, phường, thị trấn, trong đó quy định Trưởng Ban Tư pháp do một Lãnh đạo UBND cấp xã kiêm.

ở Ban Tư pháp có ít nhất một cán bộ chuyên trách để giúp UBND xã làm công tác tư pháp và thực hiện quản lý, đăng lý hộ tịch theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23-1-1998 của Chính phủ.

Cơ cấu cán bộ của một Ban Tư pháp thường từ 5 đến 7 người. Thành viên ban Tư pháp cấp xã ngoài chức danh trưởng ban, cán bộ chuyên trách còn có các uỷ viên là thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương (Mặt trận tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh...).

1.2. Về chức danh, tiêu chuẩn cán bộ Tư pháp cấp xã.

Để chuyên môn hoá một số vị trí công tác ở cấp xã, Điều 2 Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23-1-1998 của Chính phủ đã quy định cán bộ Tư pháp cấp xã là một trong 4 chức danh chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã. Tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ này được quy định cụ thể tại điểm 2 Phần I Thông tư liên tịch số 99/TTLT ngày 19/5/1998 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và xã hội như sau:

- Lý lịch rõ ràng, đạo đức tốt;

- Có văn bằng Nhà nước cấp đạt trình độ từ sơ cấp trở lên;

- Đủ sức khoẻ, tuổi đời không quá 35 đối với nữ và không quá 40 đối với nam.

Để thực hiện việc quản lý và đăng ký hộ tịch, thực hiện chứng thực, Điều 13 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch và Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 về công chứng, chứng thực của Chính phủ quy định tiêu chuẩn của cán bộ hộ tịch tư pháp ở cấp xã như sau:

- Là công dân Việt Nam;

- Có đầy đủ năng lực hành vi;

- Có tư cách đạo đức tốt;

- Đã tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên;

- Có tinh thần trách nhiệm trong công tác;

- Chữ viết rõ ràng;

- Được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch, chứng thực.

Sau khi có các văn bản trên, Uỷ ban nhân dân các địa phương đã tiến hành rà soát, sắp xếp và kiện toàn đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã theo tiêu chuẩn chức danh đã quy định. Đến nay, đa số các Ban Tư pháp đã có cán bộ Tư pháp chuyên trách.

2. Tuyển chọn, sắp xếp cán bộ Tư pháp cấp xã.

Việc tuyển chọn, sắp xếp đội ngũ cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và kiện toàn đội ngũ cán bộ. Đây là một trong những nội dung trọng tâm của công tác quản lý cán bộ. Đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn cấp xã nói chung và cán bộ Tư pháp cấp xã nói riêng, việc tuyển chọn, sắp xếp được quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP và Thông tư số 99/1998/TTLT-TCCP-BTC-BLĐTB&XH.

Theo các văn bản này, quy trình tuyển chọn, sắp xếp cán bộ Tư pháp được thực hiện như sau:

- Căn cứ vào tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ, UBND cấp xã đề nghị Phòng tổ chức chính quyền huyện phối hợp với Phòng Tư pháp thống nhất đánh giá chất lượng từng cán bộ Tư pháp cấp xã trình Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định giao cho Chủ tịch UBND cấp xã ký hợp đồng lao động dài hạn với từng cán bộ theo đúng chức danh chuyên môn sau khi có ý kiến của Sở Tư pháp.

Việc thay thế cán bộ Tư pháp cấp xã chỉ được thực hiện trong các trường hợp: cán bộ được điều động đi nhận nhiệm vụ khác; không đủ tiêu chuẩn để đảm nhiệm công tác chuyên môn; vi phạm hợp đồng buộc phải thôi việc. Việc thay thế cán bộ này theo yêu cầu của UBND cấp xã do 7UBND cấp huyện quyết định. Chủ tịch UBND cấp xã căn cứ vào quyết định này để huỷ hợp đồng và ký hợp đồng với cán bộ mới được cử.

Trong điều kiện hiện nay, các quy định trên là cơ sở quan trọng để các địa phương tiến hành tuyển chọn, sắp xếp, từng bước tiêu chuẩn hoá và ổn định đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã. Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chủ động ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về tiêu chuẩn, quy trình tuyển chọn đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.

3. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Tư pháp cấp xã.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

Tại Quyết định số 874/TTg ngày 20/11/1996 về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức Nhà nước và Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 7-5-2001 về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức giai đoạn 2001-2005 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định: hàng năm ít nhất 20% cán bộ chính quyền cơ sở cấp xã, phường được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý hành chính, quản lý Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với công việc và nhiệm vụ được giao.

Theo quy định tại Nghị định số 38/CP ngày 4-6-1993 của Chính phủ, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Tư pháp nói chung và cán bộ Tư pháp cấp xã nói riêng. Thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp để xây dựng thống nhất các nội dung chương trình đào tạo trung cấp Luật, bồi dưỡng nghiệp vụ giảng dạy cho đội ngũ giáo viên kiêm chức và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Tư pháp, đồng thời phối hợp với các địa phương mở các lớp trung cấp Luật để tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho việc tuyển chọn chức danh chuyên môn Tư pháp cấp xã. Chỉ tính trong hai năm 1998, 1999 - những năm đầu tiên thực hiện Đề án Đào tạo Trung học pháp lý, các địa phương đã phối hợp với Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh mở được 31 lớp Trung học pháp lý tại các địa phương với số lượng trên 3000 người, trong đó phần lớn là cán bộ Tư pháp cấp xã.

Bên cạnh đó, theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư pháp, nhiều địa phương đã xây dựng chương trình và tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu ngắn ngày theo từng chuyên đề cho đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã. Để thống nhất nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ, hiện nay, Bộ đang chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ biên soạn tập tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ Tư pháp cấp xã để phục vụ tốt hơn nhu cầu nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này.

4. Chế độ chính sách đối với cán bộ Tư pháp cấp xã.

Chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm quyền, lợi ích vật chất, tinh thần, đồng thời đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của đội ngũ cán bộ này trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung và cán bộ Tư pháp cấp xã.

Theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP và Thông tư số 99/1998/TTLT-TCCP-BTC-BLĐTB&XH, cán bộ Tư pháp là một trong 4 chức danh chuyên môn của UBND cấp xã được hưởng chế độ sinh hoạt phí và phụ cấp hàng tháng như sau:

- Cán bộ chưa qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ được hưởng mức sinh hoạt phí là 154.000 đồng/tháng và được phụ cấp thêm 5% mức sinh hoạt phí hàng tháng đang hưởng.

- Cán bộ đã qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ được vận dụng xếp mức sinh hoạt phí theo hệ số của ngạch, bậc chuyên môn đào tạo quy định tại Nghị định 25/CP ngày 23-5-1993 của Chính phủ và được nâng mức sinh hoạt phí tương ứng với bậc và hệ số mức lương liền kề trong ngạch công chức sau 5 năm công tác và đáp ứng đủ các tiêu chuẩn quy định.

Ngoài ra, cán bộ cấp xã trong đó có cán bộ Tư pháp cấp xã còn được hưởng chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội và chế độ trợ cấp khi nghỉ việc, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chế độ công tác phí, mai táng phí và được khen thưởng theo quy định của Nhà nước.

Thực hiện việc điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, từ 144.000 đồng lên 180.000 đồng và sau đó là 210.000 đồng, chế độ sinh hoạt phí của cán bộ Tư pháp cấp xã cũng được quan tâm điều chỉnh tương ứng. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 72/2000/TTLT-BTCCBCP-BTC ngày 26-12-2000 hướng dẫn thực hiện điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp và sinh hoạt phí đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp và sinh hoạt phí từ nguồn kinh phí thuộc ngân sách nhà nước, cán bộ Tư pháp là một trong 4 chức danh chuyên môn của UBND cấp xã được hưởng chế độ sinh hoạt phí và phụ cấp hàng tháng như sau:

Mức sinh hoạt phí thực hiện từ 1-1-2001

=

 

Mức lương tối thiểu 210.000 đồng/tháng

x

Hệ số mức sinh hoạt phí hiện hưởng đã được vận dụng xếp theo tiền lương công chức

- Đối với cán bộ chuyên môn chưa có bằng cấp chuyên môn qua đào tạo do Nhà nước cấp, không được vận dụng xếp mức sinh hoạt phí theo hệ số ngạch, bậc công chức, thì áp dụng công thức tính lại mức sinh hoạt phí như sau:

Mức sinh hoạt phí thực hiện từ 1-1-2001

=

 

Mức sinh hoạt phí đã hưởng tháng 12-2000 theo quy định

x

210.000 đồng

------------------

180.000 đồng

Việc ban hành các chế độ, chính sách trên đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ cấp xã và có tác dụng tích cực trong việc động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ này yên tâm công tác ổn định, lâu dài, đồng thời thu hút những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về công tác tại các xã, phường, thị trấn, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cấp uỷ và chính quyền cơ sở.

5. Nhận xét về công tác quản lý cán bộ Tư pháp cấp xã

5.1. Về ưu điểm và kết quả

Trong thời gian qua, công tác quản lý cán bộ Tư pháp cấp xã đã được Đảng và Nhà nước quan tâm và từng bước hoàn thiện. Trước yêu cầu tăng cường vị trí, vai trò của Ban Tư pháp, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng về công tác quản lý cán bộ Tư pháp cấp xã như xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, chế độ tuyển dụng, sử dụng cán bộ Tư pháp chuyên trách,... Đặc biệt, thực hiện theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP và Thông tư số 99/1998/TTLT-TCCB-BTC-BLDTB&XH, mức sinh hoạt phí mà cán bộ chuyên môn tư pháp cấp xã được hưởng đã được điều chỉnh hợp lý hơn trước và được đảm bảo chi trả bằng ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, các chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách cũng được Nhà nước bảo đảm thực hiện như chế độ sinh hoạt phí, chế độ bảo hiểm xã hội, công tác phí, khen thưởng, đào tạo, bồi dưỡng...

Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã có tác dụng tích cực trong việc động viên, khuyến khích, đồng thời thu hút nhữngngười có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xã, phường, thị trấn, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị - xã hội ở địa phương.

5.2. Về tồn tại, hạn chế.

Các quy định về chức danh cán bộ chưa thống nhất. Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã sử dụng những thuật ngữ khác nhau để chỉ cùng một chức danh chuyên môn Tư pháp cấp xã, cụ thể như chức danh này tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP được gọi là "cán bộ Tư pháp", tại Thông tư số 99/1998/TTLT-TCCP-BTC-BLĐTB&XH được gọi là "cán bộ Tư pháp - hộ tịch", tại Nghị định 83/1998/NĐ-CP được gọi là "cán bộ hộ tịch tư pháp" và tại Thông tư số 12/1999/TT-BTP ngày 25-6-1999 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định 83/1998/NĐ-CP lại được gọi là "cán bộ hộ tịch - tư pháp". Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật hiện hành chỉ quy định yêu cầu về trình độ mà chưa xác định cụ thể chức trách, nhiệm vụ và khả năng hiểu biết về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hiểu biết về thực tiễn và kỹ năng nghiệp vụ... của cán bộ Tư pháp cấp xã.

 

Các quy định về trình độ đối với cán bộ chuyên môn Tư pháp ở cấp xã ở một số văn bản pháp luật có những điểm chưa thống nhất. Nghị định số 09/1998/NĐ-CP quy định cán bộ Tư pháp cấp xã phải có trình độ từ sơ cấp pháp lý trở lên, trong khi đó Nghị định 83/1998/NĐ-CP, Nghị định 75/2000/NĐ-CP lại quy định cán bộ này phải có trình độ từ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên, có chữ viết rõ ràng và được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch, chứng thực.

Các tiêu chuẩn của cán bộ chuyên môn Tư pháp ở cấp xã theo quy định hiện hành chưa được cụ thể hoá để phù hợp với điều kiện của từng vùng, miền trong cả nước. Đối với các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, thì việc lựa chọn, đào tạo cán bộ tại chỗ là hết sức cần thiết, nhưng do trình độ văn hoá phần lớn chỉ là tốt nghiệp tiểu học, cá biệt có trường hợp chỉ học hết lớp 1 hoặc lớp 2, nên việc lựa chọn, đào tạo cán bộ theo tiêu chuẩn quy định là hết sức khó khăn.

 

Một số địa phương thực hiện các quy định về quản lý đội ngũ cán bộ cấp xã chưa nghiêm túc như chưa kiên quyết tuyển chọn những người đảm bảo đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật để thay thế những cán bộ đã làm việc nhiều năm, tuổi đời cao, không đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, không thể đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Một số địa phương còn xuất hiện những biểu hiện cục bộ, thiếu vô tư khách quan trong việc thực hiện tuyển chọn cán bộ hoặc chưa thực hiện nghiêm túc quy trình tuyển chọn...

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, cần phải đổi mới công tác quản lý đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã, trước hết là phải hoàn thiện cơ chế quản lý, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp đồng thời tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp uỷ và chính quyền cũng như của ngành Tư pháp; thực hiện nghiêm túc các quy định về quản lý đội ngũ cán bộ này.

III. Nguyên nhân những tồn tại, hạn chế của đội ngũ cán bộ và công tác quản lý cán bộ Tư pháp cấp xã

Qua những nghiên cứu, nhận xét và đánh giá về thực trạng của đội ngũ cán bộ và công tác quản lý đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã trên đây, có thể rút ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại, bất cập của thực trạng đó là:

Một là, nhận thức của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở về vị trí, vai trò của công tác Tư pháp và cán bộ Tư pháp cấp xã cũng như về quản lý công tác Tư pháp còn chưa đầy đủ, chưa thống nhất. Là một bộ phận của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở, cán bộ Tư pháp cấp xã phải thực hiện những nhiệm vụ hết sức nặng nề trong việc giúp UBND cùng cấp quản lý công tác tư pháp trên địa bàn, góp phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước bằng pháp luật của chính quyền địa phương. Đặc biệt là trong tiến trình cải cách tư pháp và cải cách hành chính xây dựng Nhà nước pháp quyền, đội ngũ cán bộ Tư pháp này lại ngày càng được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới trên các lĩnh vực xây dựng pháp luật, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân... Do chưa nhận thức đầy đủ về vị trí vai trò của cán bộ Tư pháp cấp xã nên trong một thời gian dài, các cấp, các ngành đã chưa thực sự quan tâm đến việc củng cố Ban Tư pháp, kiện toàn và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ này, cũng như đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý đối với Tư pháp cấp xã và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

 

Đồng thời, bản thân cán bộ Tư pháp cấp xã nhận thức về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình chưa thực sự rõ ràng và đầy đủ. Một bộ phận cán bộ này đã chưa thấy được những yêu cầu, đòi hỏi phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyện môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác Tư pháp cấp xã.

Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp cấp trên đối với công tác Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã có lúc, có nơi chưa kịp thời, thường xuyên, chưa bao quát hết và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn công tác tư pháp ở cơ sở.

Đặc biệt, các cấp, các ngành, trong chỉ đạo, điều hành, đã chưa xây dựng, thực hiện được cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với cán bộ Tư pháp cấp xã, chưa coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để đánh giá, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, phát hiện những điển hình tiên tiến để phổ biến, nhân rộng trong phạm vi địa phương cũng như toàn quốc.

Ba là, hệ thống pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức cán bộ, cơ chế hoạt động và những quy định về lĩnh vực thuộc phạm vi, đối tượng quản lý của ngành Tư pháp từ Trung ương đến cơ sở còn có những điểm bất cập như chưa đầy đủ, thống nhất và đồng bộ, chưa phù hợp với đặc điểm kinh tế-xã hội của từng vùng, từng miền, địa phương đang là một trở ngại lớn cho việc tổ chức triển khai thực hiện công tác Tư pháp ở cơ sở, đồng thời cũng gây khó khăn cho cán bộ Tư pháp cấp xã trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình để thực hiện công vụ. Chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ Tư pháp còn chắp vá, bất cập chưa thực sự khuyến khích đội ngũ cán bộ cơ sở yên tâm công tác và phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.

 

Bốn là, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được quan tâm đúng mức. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, chức trách của cán bộ Tư pháp cấp xã. Hình thức và phương pháp đào tạo thiếu đa dạng để phù hợp với đối tượng đào tạo là những cán bộ làm công tác thực tiễn và có sự chênh lệch lớn về trình độ giữa các vùng, miền, địa phương.

Năm là, ở nhiều địa phương đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng so với yêu cầu nhiệm vụ được giao, do đó chưa phát huy được vai trò chủ động, sáng tạo trong việc tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền địa phương để tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp ở cơ sở. Thậm chí ở một số nơi, đội ngũ cán bộ Tư pháp việc thực hiện các quy định pháp luật chưa nghiêm túc, còn lúng túng, thiếu sót trong thực thi tác nghiệp của công tác tư pháp nên hoạt động còn mang tính hình thức, chất lượng và hiệu quả chưa cao.

 

Sự phối hợp để phát huy vai trò của các ban, ngành, hội và đoàn thể ở địa phương có mặt còn hạn chế, hiệu quả chưa cao, chưa khai thác được đầy đủ thế mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp. Kinh phí, điều kiện và phương tiện làm việc còn nhiều khó khăn đặc biệt là những xã ở miền núi, vùng sâu, vùng xa...

 

Phần thứ ba

Phương hướng kiện toàn, nâng cao năng lực

đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã

 

I. Những quan điểm chỉ đạo việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

Để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách, pháp luật, Đảng ta luôn chú trọng tới việc chăm lo tăng cường đội ngũ cán bộ cho cơ sở. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Ba (Khoá VIII) về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" đã xác định: "Quy định hợp lý số lượng cán bộ chính quyền cơ sở có phân biệt theo đặc điểm và dân số của từng loại đơn vị cơ sở; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách đãi ngộ phù hợp với chức trách của họ". Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra: "Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn". Nghị quyết Hội nghị Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (khoá IX) về "đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn" đã khẳng định: "cán bộ chuyên môn do UBND tuyển chọn có cán bộ tư pháp "." Tích cực trẻ hoá và từng bước chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở". " Pháp lệnh cán bộ công chức hiện hành cần sửa đổi theo hướng bao gồm cả cán bộ, công chức cơ sở".

 

Quán triệt những quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ ở cơ sở, xuất phát từ vị trí, vai trò, thực trạng của đội ngũ cán bộ và công tác quản lý cán bộ Tư pháp cấp xã cũng như để đáp ứng yêu cầu công tác trong giai đoạn mới, việc kiện toàn và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải thực hiện theo những định hướng sau:

1. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã là một nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở và cán bộ Tư pháp.

Theo quy định của pháp luật hiện nay, cán bộ Tư pháp là một trong 4 chức danh chuyên môn của UBND cấp xã có nhiệm vụ giúp UBND cùng cấp thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực pháp luật và quản lý công tác Tư pháp ở cấp xã. Kết quả hoạt động của đội ngũ cán bộ này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước bằng pháp luật của chính quyền cấp xã trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Mặt khác, hàng vạn cán bộ Tư pháp cấp xã đang hoạt động trên 10.511 xã, phường, thị trấn trong phạm vi cả nước là lực lượng cán bộ Tư pháp đông đảo, gần dân nhất, có nhiệm vụ trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như các chương trình, kế hoạch công tác của ngành Tư pháp trên thực tế. Cán bộ Tư pháp cấp xã không chỉ là cán bộ chuyên môn, một bộ phận hợp thành đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở, mà còn là đại diện của ngành Tư pháp tại cơ sở, nếu không có đội ngũ cán bộ này thì các hoạt động Tư pháp khó có thể đi vào thực tiễn cuộc sống.

Do đó, việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã là một nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở và cán bộ Tư pháp để phát huy hiệu quả, sức mạnh tổng hợp của đội ngũ cán bộ nói chung.

2. Việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải xuất phát từ yêu cầu chức năng, nhiệm vụ đặt ra.

Theo quy định tại Nghị định số 38/CP ngày 4-6-1993 của Chính phủ và Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Ban Tư pháp có chức năng là cơ quan chuyên môn có nhiệm vụ giúp UBND cấp xã quản lý và triển khai thực hiện các công tác Tư pháp ở địa phương.

Trong giai đoạn hiện nay, chủ trương "Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị trấn..." và "Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở" được xác định trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đặt ra những nhiệm vụ mới ngày càng nặng nề, phức tạp đối với chính quyền cấp xã nói chung và Tư pháp cấp xã nói riêng. Việc mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Ban Tư pháp không chỉ đòi hỏi hoàn thiện mô hình tổ chức, cơ cấu chức danh, mà còn phải tăng cường số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ này.

Vì vậy, việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ công tác Tư pháp đặt ra nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ này đủ về số lượng, vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm bảo triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

3. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã phải xuất phát từ thực tiễn, có bước đi thích hợp với điều kiện của từng vùng, miền, địa phương.

Trong thời gian qua, để phát huy vị trí, vai trò, khuyến khích tạo điều kiện cho cán bộ chính quyền cơ sở hoạt động có hiệu quả, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23-1-1998 về sửa đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26-7-1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở Nghị định này, cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương đã tiến hành kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó có đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã. Đến nay, phần lớn các xã, phường, thị trấn trên cả nước đã có cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách; trình độ của đội ngũ cán bộ này từng bước được nâng cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra thì đội ngũ cán bộ này còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, không ổn định và tính chuyên môn hoá chưa cao. Đặc biệt ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã không những thiếu về số lượng, mà cũng chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, thậm chí có những cán bộ trình độ văn hoá còn rất thấp (cấp I, cấp II).

Mặt khác, đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã được hình thành chủ yếu từ nguồn tại chỗ, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán... của mỗi vùng, miền và từng địa phương. Một bộ phận không nhỏ là cán bộ nhà nước, lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu hoặc từ các ban, ngành khác của địa phương chuyển sang làm công tác Tư pháp. Đây là những cán bộ có kinh nghiệm thực tiễn nhưng lại không được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ Tư pháp. Bên cạnh đó, một bộ phận là những cán bộ trẻ mới được tuyển dụng, được đào tạo tương đối cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ theo tiêu chuẩn nhưng kinh nghiệm thực tiễn cũng như kỹ năng thực hành còn hạn chế.

Do vậy, việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải quan tâm đến các đặc điểm điều kiện thực tiễn của từng vùng, miền, địa phương, từ thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp, để có bước đi và các biện pháp thích hợp nhằm khai thác, phát huy những mặt ưu điểm, tích cực, khắc phục những tồn tại, yếu kém của từng cán bộ, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài.

4. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải đi đôi với với hoàn thiện mô hình tổ chức, cơ cấu của Ban Tư pháp.

Mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ là hai vấn đề gắn bó chặt chẽ với nhau, có quan hệ và tác động qua lại với nhau. Mô hình và cơ chế hoạt động của một tổ chức quyết định phương hướng phát triển và sử dụng đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện để mỗi cán bộ phát huy năng lực, trình độ của mình. Hiện nay, để thực hiện các nhiệm vụ công tác Tư pháp ở cơ sở, phần lớn các cấp xã đều đã thành lập Ban Tư pháp. Thực tiễn đã khẳng định Ban Tư pháp là mô hình tổ chức phù hợp với đặc điểm công tác Tư pháp cấp xã. Tuy nhiên, cơ cấu của Ban Tư pháp cấp xã còn chưa thống nhất trên phạm vi toàn quốc, cơ chế hoạt động và mối quan hệ công tác của Ban chưa được xác định cụ thể, một số nơi, hoạt động còn mang tính hình thức, nên đã ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả hoạt động của cán bộ Tư pháp cấp xã.

Do vậy, việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải được tiến hành trên cơ sở xác định được mô hình tổ chức, cơ cấu cán bộ hợp lý và cơ chế hoạt động có hiệu quả của Ban Tư pháp.

5. Việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phải đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện chế độ, chính sách.

Cơ chế quản lý, chế độ, chính sách đối với cán bộ là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến chất lượng cán bộ. Nếu có chế độ, chính sách phù hợp thì sẽ thu hút được những cán bộ có năng lực, trình độ, có ý thức, tinh thần trách nhiệm, đồng thời là động lực thúc đẩy họ phát huy tính tích cực, sáng tạo và khả năng của mình để hoàn thành có hiệu quả các nhiệm vụ được giao. Ngược lại, nếu chế độ, chính sách không phù hợp thì cũng có thể hạn chế tinh thần trách nhiệm, tính tích cực, sáng tạo của người cán bộ trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác.

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở, trong đó có cán bộ Tư pháp cấp xã. Đặc biệt, những chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ này quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ đã có tác dụng đảm bảo quyền lợi vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, khuyến khích những người có trình độ, bằng cấp về công tác tại cấp xã, góp phần ổn định và từng bước chuyên môn hoá, tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở. Tuy nhiên, cùng với quá trình cải cách chế độ tiền lương của công chức Nhà nước, thì cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở nói chung, cán bộ Tư pháp nói riêng tương xứng với chế độ, chính sách của công chức Nhà nước, đảm bảo gắn quyền hạn với trách nhiệm, lợi ích với nghĩa vụ của từng chức danh cán bộ, công chức cơ sở.

Vì vậy, việc kiện toàn, nâng cao năng lực cán bộ Tư pháp cấp xã phải gắn liền với việc đổi mới cơ chế quản lý, bổ sung và hoàn thiện các chế độ, chính sách của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp cơ sở.

II. mục tiêu của việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

1. Mục tiêu tổng quát:

Quán triệt những quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ, xuất phát từ thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã và yêu cầu nhiệm vụ công tác Tư pháp trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã trong thời gian tới là: xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã, đặc biệt là cán bộ Tư pháp chuyên trách đủ về số lượng, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị, đạo đức, tận tình với công việc, ổn định, chuyên môn hoá, có khả năng chủ động tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.

 

2. Mục tiêu cụ thể:

2.1. Kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã, đảm bảo đến năm 2005, 100% các xã, phường, thị trấn đều có cán bộ Tư pháp chuyên trách. Tuỳ theo khối lượng công việc và điều kiện cụ thể của từng địa phương hình thành đội ngũ cán bộ Tư pháp kiêm nhiệm từ 5 đến 7 người để tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp cơ sở.

Đối với các xã có điều kiện kinh tế phát triển, dân số đông, trình độ dân trí cao, nguồn cán bộ dồi dào và công việc Tư pháp phát sinh với khối lượng lớn sẽ có 02 cán bộ Tư pháp chuyên trách, trong đó:

+ 01 cán bộ thực hiện các nhiệm vụ về đăng ký, quản lý hộ tịch (đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn, nuôi con nuôi...) và giúp Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cùng cấp thực hiện các việc chứng thực theo thẩm quyền;

+ 01 cán bộ thực hiện các nhiệm vụ giúp UBND cùng cấp soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị; phổ biến, giáo dục pháp luật; hướng dẫn hoạt động của tổ hoà giải ở cơ sở và các nhiệm vụ khác do UBND cấp xã giao.

2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách, khắc phục tình trạng hạn chế, hẫng hụt về kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ này, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

+ Trung thành với chế độ, tận tuỵ với nhân dân, trong sạch về đạo đức, lối sống;

+ Nắm bắt kịp thời quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, am hiểu tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ công tác Tư pháp được giao;

+ Chủ động, sáng tạo vận dụng các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như ý kiến chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan Tư pháp cấp trên trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao;

+ Thông thạo kỹ năng nghiệp vụ công tác Tư pháp về soạn thảo văn bản, phổ biến giáo dục pháp luật, đăng ký hộ tịch, hoà giải, thi hành án,...

Phấn đấu đến năm 2005, 80% cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách ở các địa phương thuộc vùng đồng bằng, đô thị có trình độ từ Trung học Luật trở lên; 50% cán bộ tư pháp cấp xã chuyên trách ở các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa có trình độ từ Trung học Luật trở lên; đến năm 2007, về cơ bản đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách có trình độ nghiệp vụ từ Trung học Luật trở lên; đến năm 2010, không còn cán bộ tư pháp cấp xã chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.

2.3. Phát triển đội ngũ cán bộ Tư pháp kiêm nhiệm là những cán bộ của các ban, ngành, đoàn thể hoặc những người đã nghỉ hưu có kiến thức, kinh nghiệm và nhiệt tình với công tác tư pháp ở địa phương để phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác Tư pháp ở cơ sở.

2.4. Xác định cụ thể nội dung, thẩm quyền quản lý công tác Tư pháp cấp xã; đổi mới cơ chế hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã đáp ứng yêu cầu thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp cho địa phương, cơ sở và chiến lược cải cách hành chính 2001 - 2010 của Nhà nước ta.

III. giải pháp cụ thể kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã.

1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp.

Bộ Tư pháp phối hợp với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và các cơ quan có liên quan sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và cơ cấu chức danh của cơ quan Tư pháp địa phương nói chung và Tư pháp cấp xã nói riêng, cụ thể như sau:

+ Trên cơ sở Nghị định thay thế Nghị định số 38/CP ngày 4-6-1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp và Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26-7-1993 của Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và các văn bản pháp luật có liên quan quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của hệ thống ngành Tư pháp từ Trung ương đến cơ sở trong đó xác định rõ vị trí, vai trò của Ban Tư pháp trong tổ chức chính quyền cơ sở và trong hệ thống các cơ quan Tư pháp.

+ Sửa đổi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực... trong đó quy định thống nhất và cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ Tư pháp cấp xã.

+ Xây dựng và trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ, quy trình tuyển chọn đối với cán bộ Tư pháp cấp xã phù hợp với việc sửa đổi Pháp lệnh cán bộ công chức theo hướng bao gồm cả cán bộ, công chức cơ sở.

+ Sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi, đối tượng quản lý của ngành Tư pháp như quản lý và đăng ký hộ tịch, quốc tịch, công chứng, chứng thực, thi hành án, hoà giải ở cơ sở, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý... theo hướng cụ thể, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực hiện ở cơ sở.

2. Kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã.

a- Thành lập Ban Tư pháp ở những cấp xã hiện chưa có Ban Tư pháp; kiện toàn đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã chuyên trách theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23-1-1998 của Chính phủ.

b- Hoàn thiện cơ chế hoạt động, cải tiến lề lối làm việc của Ban Tư pháp.

- Xây dựng và ban hành quy chế mẫu trong đó xác định rõ vị trí, nhiệm vụ, quyển hạn cụ thể của từng thành viên trong Ban Tư pháp.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch công tác hàng năm, 6 tháng, hàng quý, tháng, tuần theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của UBND cấp xã và cơ quan Tư pháp cấp trên; kế hoạch, chương trình công tác Tư pháp cấp xã phải quán triệt và thực hiện được nội dung kế hoạch, chương trình công tác của cơ quan Tư pháp cấp trên, quán triệt và thể hiện được nghị quyết và kế hoạch, chương trình công tác của chính quyền địa phương cùng cấp, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở từng địa phương.

- Quy định và thực hiện chế độ giao ban định kỳ giữa các thành viên trong Ban Tư pháp, giữa Ban Tư pháp với các tổ hoà giải trong phạm vi xã, phường, thị trấn, giữa các Ban Tư pháp trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cải tiến nội dung giao ban đôn đốc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác đã đề ra và giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao.

- Thực hiện nghiêm túc chế độ sơ kết định kỳ 6 tháng và tổng kết hàng năm. Nội dung sơ kết, tổng kết cần tập trung kiểm điểm, đánh giá kết quả đã đạt được, những tồn tại cần khắc phục, đồng thời biểu dương, khen thưởng kịp thời những đơn vị, cá nhân có thành tích tốt, kinh nghiệm hay trong công tác và đề ra phương hướng, chương trình, kế hoạch công tác sát hợp với nhiệm vụ công tác Tư pháp trong thời gian tiếp theo.

- Tăng cường và nâng cao hiệu quả trong phối hợp hoạt động giữa Tư pháp cấp xã với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương để thực hiện các nhiệm vụ công tác Tư pháp ở cấp xã.

3. Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

Sở Tư pháp phối hợp với các cơ quan liên quan ở địa phương tham mưu cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã của địa phương.

Quy hoạch đội ngũ cán bộ này phải tiến hành đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và phải xuất phát từ nhiệm vụ của Ban Tư pháp, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã hiện có, dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ này để chủ động tạo nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn theo quy định, kịp thời đáp ứng yêu cầu.

Trong quy hoạch phải xác định được nguồn cán bộ kế cận chức danh Tư pháp cấp xã, các biện pháp tổ chức thực hiện và các bước đi thích hợp với từng địa phương, xác định trách nhiệm của các cơ quan chính quyền, ngành Tư pháp trong việc thực hiện quy hoạch.

Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, cần xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tư pháp cấp xã đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh cán bộ.

4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan Tư pháp cấp trên đối với công tác Tư pháp cấp xã và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

- Các cấp Uỷ Đảng và chính quyền địa phương cần tăng cường chỉ đạo việc kiện toàn, củng cố Ban Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã ở địa phương. Các nhiệm vụ công tác Tư pháp cấp xã cần trở thành một nội dung hoạt động trong chương trình, kế hoạch công tác định kỳ của cấp uỷ và chính quyền địa phương.

UBND cấp tỉnh, cấp huyện có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy định về quản lý đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn có trách nhiệm phối hợp với các ban, ngành có liên quan ở địa phương giúp UBND cùng cấp thực hiện các nhiệm vụ này.

UBND cấp xã là cơ quan trực tiếp quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ này theo quy định của pháp luật và sự chỉ đạo, hướng dẫn của chính quyền cấp trên.

- Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan Tư pháp cấp trên đối với Tư pháp cấp xã, Phòng Tư pháp, Sở Tư pháp, Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện tốt chủ trương hướng về cơ sở, thường xuyên tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thực tiễn cở cơ sở, để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác Tư pháp ở cơ sở.

- Coi trọng việc tổng kết thực tiễn, đánh giá hiệu quả công tác để khẳng định vị trí, vai trò của Tư pháp cấp xã, giải toả những khó khăn, vướng mắc, đồng thời nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành đối với công tác Tư pháp cấp xã.

5. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ.

Trên cơ sở kết quả khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã, Sở Tư pháp phối hợp với Ban Tổ chức chính quyền tỉnh cần tiến hành phân loại và xác định các biện pháp để từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ này, cụ thể như sau:

+ Đối với những cán bộ đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo mục tiêu đã đề ra thì cần tạo điều kiện để họ làm việc ổn định, lâu dài.

+ Đối với những nơi còn thiếu, cần tuyển chọn những người đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo mục tiêu đã đề ra để đảm nhận chức danh chuyên môn Tư pháp cấp xã.

+ Đối với những cán bộ có đủ điều kiện để đào tạo Trung học Luật thì cần có kế hoạch cử những cán bộ này đi học để đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ.

+ Đối với những cán bộ không có khả năng để tiếp tục đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn đặt ra thì cần có kế hoạch tuyển mới những người có đủ tiêu chuẩn để thay thế và thực hiện chế độ, chính sách theo quy định đối với những cán bộ này.

Riêng đối với các cấp xã thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nếu trình độ của đội ngũ cán bộ quá thấp và không có nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn để bổ sung, thay thế thì trước mắt chấp nhận những cán bộ có trình độ văn hoá từ Trung học phổ thông (cấp II) trở lên và có kế hoạch bồi dưỡng văn hoá để đạt trình độ tốt nghiệp Phổ thông trung học (cấp III) sau đó tiến hành đào tạo chuyển tiếp ở trình độ Trung học Luật để vừa đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ công tác Tư pháp cấp xã vừa đảm bảo đủ trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn đặt ra.

6. Tăng cường công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ.

- Xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế đánh giá cán bộ chính quyền cơ sở, trong đó có cán bộ Tư pháp cấp xã phù hợp với đặc thù tính chất công việc, bao gồm: đánh giá về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; trình độ, năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm và hiệu quả công tác.

Thực hiện chế độ đánh giá cán bộ Tư pháp xã hàng năm và theo định kỳ. Căn cứ vào quy chế đánh giá cán bộ chính quyền cơ sở, UBND cấp xã cần tiến hành đánh giá cán bộ theo đúng quy chế đã xây dựng.

- Tăng cường chế độ kiểm tra thường xuyên của cấp uỷ và chính quyền địa phương đối với đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã; nghiên cứu từng bước mở rộng các hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Ban Tư pháp và cán bộ Tư pháp cấp xã.

7. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

7.1. Đối với Bộ Tư pháp:

- Phối hợp với các cơ quan Nhà nước có liên quan tiếp tục hoàn thiện mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Tư pháp cấp xã; xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng thống nhất trong phạm vi cả nước trong đó chú trọng cơ cấu phần kỹ năng nghiệp vụ tương xứng với yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã.

- Trên cơ sở mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tư pháp cấp xã, xây dựng và hoàn thiện giáo trình, tài liệu phục vụ kịp thời công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Tư pháp này.

- Phát triển đội ngũ giáo viên giảng dạy Luật có trình độ, năng lực và phương pháp giảng dạy phù hợp với các đối tượng đào tạo ở bậc Trung học Luật (bao gồm giáo viên chuyên trách và giáo viên kiêm nhiệm).

- Mở rộng, đa dạng hoá các hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tư pháp cấp xã phù hợp với điều kiện từng vùng, miền, địa phương và đối tượng đào tạo, đảm bảo yêu cầu chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và không ảnh hưởng quá trình công tác Tư pháp ở cấp xã.

7.2. Đối với địa phương:

- Sở Tư pháp phối hợp với Ban Tổ chức chính quyền cấp tỉnh và các Trường Hành chính, Trung tâm đào tạo cán bộ tiến hành khảo sát, xác định nhu cầu đào tạo Trung cấp Luật cho đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã ở địa phương. Trên cơ sở đó xây dựng và trình UBND cấp tỉnh phê duyệt Đề án, kế hoạch đào tạo Trung học Luật cho đội ngũ cán bộ này, trong đó có biện pháp khai thác và phát huy năng lực đào tạo của các Trường Hành chính và các trung tâm đào tạo cán bộ ở địa phương trong việc tổ chức các khoá đào tạo Trung học Luật cho đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã của địa phương mình.

- Sở Tư pháp phối hợp với các Trường Hành chính và Trung tâm đào tạo cán bộ của địa phương tổ chức thực hiện Đề án, kế hoạch đã được phê duyệt. Việc đào tạo Trung học Luật cho đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã cần được thực hiện theo đúng mục tiêu và nội dung chương trình do Bộ Tư pháp quy định.

- Trong trường hợp nhu cầu đào tạo Trung học Luật của cán bộ Tư pháp cấp xã không đủ để tổ chức các khoá đào tạo thì Sở Tư pháp cần tham mưu với UBND cấp tỉnh phối hợp với các tỉnh lân cận để tổ chức đào tạo.

- Sở Tư pháp chỉ đạo, hướng dẫn các Phòng Tư pháp chủ động tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn theo định kỳ (ít nhất mỗi năm1 lần) hoặc theo chuyên đề cho đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã để cập nhật văn bản, kiến thức mới, đồng thời, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này.

8. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ.

Để khuyến khích, động viên đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã yên tâm công tác ổn định, lâu dài, Bộ Tư pháp cần phối hợp với Bộ Nội vụ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách áp dụng đối với đối tượng này, cụ thể như sau:

- Xây dựng chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ Tư pháp chuyên trách ở cơ sở theo chế độ chung của cán bộ, công chức theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (Khóa IX) như chế độ tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách đào tạo và bồi dưỡng.

Trước mắt, cần có chế độ phụ cấp tương xứng cho cán bộ ở những cấp xã có số dân đông, diện tích lớn, có đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước vì khối lượng công việc, trách nhiệm của các cán bộ này lớn hơn so với các cán bộ ở những địa phương khác.

- Nghiên cứu chế độ thu hút những người có trình độ, năng lực về công tác tại cơ sở, đặc biệt tại các cấp xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi như: có chính sách hỗ trợ đào tạo, cải tiến chế độ công tác phí, mở rộng các hình thức phụ cấp, giảm thời gian thực tập cho sinh viên, bổ nhiệm, đề bạt...

9. Phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động đội ngũ cán bộ Tư pháp cấp xã kiêm nhiệm.

- Căn cứ vào khối lượng công việc và nguồn cán bộ kiêm nhiệm ở địa phương, các cơ quan Tư pháp cấp trên cần có hướng dẫn cụ thể về thành phần tham gia kiêm nhiệm công tác Tư pháp cấp xã. Cán bộ Tư pháp cấp xã kiêm nhiệm có thể là đại diện của các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương như: Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Đoàn thanh niên...

- Cấp uỷ, chính quyền địa phương cần động viên, khen thưởng, khuyến khích những người có uy tín trong nhân dân, có lòng nhiệt tình, ý thức tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, đồng thời nắm được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tham gia kiêm nhiệm công tác Tư pháp.

- Có kế hoạch cập nhật, bồi dưỡng kiến thức chung cũng như nghiệp vụ công tác Tư pháp ở cấp xã cho đội ngũ cán bộ kiêm nhiệm.

- Có chế độ phụ cấp hoạt động phí phù hợp để khuyến khích, phát huy tinh thần hăng say công tác của đội ngũ cán bộ này.

10. Đảm bảo nguồn kinh phí phục vụ hoạt động của Tư pháp cấp xã.

- Cần xác định rõ khoản kinh phí cho các hoạt động Tư pháp cấp xã là một bộ phận của ngân sách của UBND cấp xã để Ban Tư pháp chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai các hoạt động Tư pháp ở địa phương.

Đối với những xã có khó khăn về kinh phí, cấp huyện và cấp tỉnh cần có sự hỗ trợ về kinh phí hoặc trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác Tư pháp ở những địa phương này, khắc phục tình trạng bỏ trống nhiệm vụ do thiếu kinh phí thực hiện.

- Quản lý công tác Tư pháp cấp xã là nhiệm vụ của chính quyền ở cơ sở, do đó cần có biện pháp và cơ chế động viên, khuyến khích, phát huy nguồn nhân lực, tài lực ở địa phương vào việc thực hiện công tác Tư pháp ở cơ sở.

11. Củng cố bộ phận theo dõi về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp địa phương.

Chính quyền địa phương và các cơ quan Tư pháp cần củng cố, kiện toàn các Phòng Tư pháp huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh, Phòng Tổ chức, cán bộ thuộc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo thuộc Bộ Tư pháp theo hướng có cán bộ chuyên trách riêng. Đội ngũ cán bộ này có nhiệm vụ theo dõi tổ chức và hoạt động của Ban Tư pháp cấp xã, phát hiện kịp thời những vướng mắc, khó khăn, từ đó có biện pháp hỗ trợ Ban Tư pháp giải quyết những vẫn đề phát sinh hoặc đề nghị người có thẩm quyền giải quyết.

* *

*

Kết luận

Hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền cơ sở, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã đã không ngừng được củng cố và kiện toàn. Đội ngũ cán bộ tư pháp này, bao gồm cả cán bộ chuyên trách và cán bộ kiêm nhiệm, là một bộ phận cấu thành của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở và là lực lượng cán bộ đông đảo nhất của ngành Tư pháp. Trong quá trình hình thành và phát triển, dù thời chiến hay thời bình, dù cơ quan Tư pháp cấp trên có lúc không tồn tại, cơ cấu bộ máy chính quyền cấp xã có khi thay đổi, nhưng tổ chức và đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã vẫn luôn tồn tại và phát triển, khẳng định được vị trí và vai trò không thể thiếu được của mình trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Những năm qua, hàng vạn cán bộ tư pháp cơ sở trên khắp mọi miền đất nước, bằng sự lao động không mệt mỏi của mình, đã đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước vào đời sống nhân dân, nhiều hoạt động tư pháp đã được triển khai thực hiện có hiệu quả như xây dựng pháp luật, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, quản lý và đăng ký hộ tịch, hoà giải cơ sở, thi hành án dân sự, xây dựng và phát triển tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn,... góp phần vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, xã hội của địa phương và bảo đảm sự quản lý thống nhất công tác Tư pháp từ trung ương đến cơ sở.

Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (khoá IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở đã đặt ra cho các cơ quan Tư pháp nói chung và Ban Tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã nói riêng những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới. Trong đó tư pháp cấp xã có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ dân trí pháp luật cho người dân, giúp người dân có điều kiện tiếp cận với pháp luật và được pháp luật bảo vệ, cũng như tổ chức thực hiện và đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống một cách có hiệu quả, nâng cao ý thức pháp luật, mở rộng và phát huy dân chủ cơ cơ sở, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.

Vì vậy, việc kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban tư pháp và đội ngũ Tư pháp cấp xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là khách quan, cấp thiết. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan Tư pháp các cấp, việc kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ là yêu cầu trước mắt mà còn mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cũng như các nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Quá trình kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã có nhiều khó khăn, phức tạp và liên quan đến trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành từ Trung ương đến cơ sở, trước hết là chính quyền cơ sở và cơ quan Tư pháp các cấp. Điều đó đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất, có quyết tâm cao, phát huy thế mạnh và tính chủ động, sáng tạo của các địa phương, đồng thời cần có bước đi thích hợp với điều kiện thực tiễn của từng vùng, miền, địa phương; thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp như xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của tư pháp cấp xã, xây dựng và thực hiện hiện quy hoạch cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, chính quyền địa phương và cơ quan Tư pháp cấp trên đối với công tác Tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã, thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, tăng cường đánh giá kiểm tra, giám sát, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách... nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới./.

 

File đính kèm downloadTải về