• Thuộc tính
Tên đề tài Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
Nội dung tóm tắt

Trong nền kinh tế thị trường, việc ký kết các giao dịch bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhằm đáp ứng lợi ích không chỉ của người sử dụng vốn mà còn của người cung cấp tín dụng. Về phía người sử dụng vốn, các giao dịch bảo đảm giúp họ tiếp cận nguồn vốn đầu tư một cách thuận tiện, nhanh chóng với chi phí thấp. Về phía người cấp tín dụng, những giao dịch nêu trên sẽ góp phần hạn chế rủi ro đối với các khoản đầu tư. Như vậy, các giao dịch bảo đảm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khuyến khích hoạt động đầu tư vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh hoặc cho vay để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt.

Tuy nhiên, nếu việc ký kết, thực hiện các hợp đồng này chỉ có các bên biết với nhau, thì có thể xảy ra một số hiện tượng như: bên vay dùng chính tài sản đó để tiếp tục cầm cố, thế chấp nhiều nơi, nhiều lần mang tính chất lừa đảo hoặc cá nhân, tổ chức mua phải tài sản đang dùng để cầm cố, thế chấp, trong khi bên nhận cầm cố, thế chấp có quyền ưu tiên thanh toán, nên người mua không trở thành chủ sở hữu, nếu không ngay tình v.v... Ngoài ra, khi xử lý tài sản bảo đảm đã xảy ra không ít các tranh chấp về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm hoặc giữa những người có quyền, lợi ích liên quan. Nhằm ngăn chặn tình trạng nêu trên, một trong các biện pháp hữu hiệu nhất, đó là công khai hoá các giao dịch bảo đảm thông qua việc đăng ký các giao dịch đó tại cơ quan có thẩm quyền; đồng thời mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu về giao dịch bảo đảm đều được cung cấp thông tin.

Việc nghiên cứu đề tài “Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm trên cơ sở so sánh, phân tích các hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.

- Xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động và tổ chức đăng ký và cung cấp thông tin giao dịch bảo đảm tại Việt Nam.

- Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu nêu trên, đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm ở nước ta.

PHẦN 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

I. GIAO DỊCH BẢO ĐẢM - ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

1. Khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam

Thuật ngữ “giao dịch bảo đảm” được chính thức sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta tại Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, v.v… Trong Bộ luật dân sự 2005, khái niệm “giao dịch bảo đảm” được thể hiện bao quát hơn cả: “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này”. Như vậy, tất cả các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp đều có thể được “gọi” dưới một cái tên chung là “giao dịch bảo đảm".

2. Khái quát về giao dịch bảo đảm trong hệ thống pháp luật của một số quốc gia

Theo pháp luật của các nước theo án lệ (common law), tiêu biểu là Mỹ và Canađa, khái niệm giao dịch bảo đảm1 (secured transactions) được hiểu là toàn bộ các giao dịch, không phụ thuộc vào hình thức và tên gọi, có mục đích tạo lập một quyền lợi được bảo đảm (secured interest) đối với tài sản riêng hoặc tài sản cố định, bao gồm: hàng hoá, giấy tờ (có giá) hoặc các tài sản vô hình khác; là giao dịch được thiết lập thông qua một thoả thuận bảo đảm (là thoả thuận trong đó quy định về hoặc tạo lập nên một lợi ích bảo đảm giữa chủ nợ và bên bảo đảm). Như vậy, giao dịch bảo đảm theo khái niệm trong luật án lệ không bị giới hạn về loại hình của giao dịch mà được xác định căn cứ vào mục đích thiết lập giao dịch. Do đó, các giao dịch bảo đảm không chỉ gồm những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo luật dân sự truyền thống, mà còn bao gồm cả các giao dịch khác như bảo lưu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần, chuyển nhượng quyền đòi nợ, quyền cầm giữ, thuê tài sản … Đối tượng của các giao dịch này là các động sản, bao gồm tài sản hữu hình và cả tài sản vô hình. Với tư duy pháp luật coi lợi ích bảo đảm là “gốc” của mọi giao dịch bảo đảm, pháp luật của Hoa Kỳ, New Zealand và một số bang của Canada không điều chỉnh chi tiết, riêng biệt đối với các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố, thế chấp bằng động sản v.v… mà điều chỉnh về lợi ích bảo đảm và các vấn đề liên quan đến việc thực hiện lợi ích bảo đảm. Do đó, tất cả các giao dịch làm phát sinh lợi ích bảo đảm, không phụ thuộc vào tên gọi của giao dịch, đều thuộc phạm vi áp dụng của pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này. Chính vì vậy, bên cạnh các biện pháp bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp, pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này còn được áp dụng với các giao dịch khác có tính chất bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ như thuê mua tài chính, gửi bán thương mại, chuyển nhượng nợ, cho thuê tài sản dài hạn.v.v… Các giao dịch làm phát sinh lợi ích bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ được gọi chung là giao dịch bảo đảm.

Ở các nước theo trường phái pháp luật thành văn, tiêu biểu là CH Pháp, CHLB Đức, Nhật Bản, không có khái niệm giao dịch bảo đảm như nêu trên, mà giao dịch bảo đảm được hiểu là các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, bảo lưu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần. Các quy định này tập trung chủ yếu trong Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.

 3. Phân biệt biện pháp bảo đảm đối vật và biện pháp bảo đảm đối nhân

Pháp luật của các nước theo trường phái pháp luật thành văn (civil law) thường phân biệt những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành hai nhóm: các biện pháp bảo đảm đối vật và các biện pháp bảo đảm đối nhân, ví dụ: Pháp luật dân sự của CHLB Đức2, CH Pháp, Nhật Bản3. Sự phân biệt này nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên và từ đó có phương pháp điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan một cách tương ứng.

Các biện pháp bảo đảm đối vật được hiểu là quyền được xác lập trực tiếp trên một vật cụ thể nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Nó có đối tượng là tài sản của người có nghĩa vụ hoặc của người thứ ba và người có quyền được yêu cầu xử lý tài sản đó theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Trong số các biện pháp bảo đảm đối vật, cầm cố, thế chấp là hai biện pháp cơ bản.

Tuy có những điểm khác biệt về hình thức xác lập, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch, nhưng các biện pháp bảo đảm đối vật theo hệ thống luật dân sự và các giao dịch bảo đảm theo hệ thống luật án lệ đều có một số đặc điểm chung như sau:

a) Xác lập các quyền đối với những tài sản cụ thể (là tài sản hữu hình hoặc vô hình).

b) Các quyền này đều có thứ tự ưu tiên cao hơn so với quyền của những chủ nợ khác không được bảo đảm thực hiện bằng chính tài sản đó.

c) Các quyền này không bị chấm dứt hoặc vô hiệu bởi các giao dịch được thiết lập sau đó liên quan đến tài sản bảo đảm.

Các biện pháp bảo đảm đối nhân được hiểu là người thứ ba cam kết với người có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ khi đến hạn mà người có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc có thực hiện nghĩa vụ, nhưng không đúng thỏa thuận. Biện pháp bảo đảm đối nhân có tính chất tiêu biểu là bảo lãnh. Khác với biện pháp bảo đảm đối vật, tài sản bảo đảm trong biện pháp bảo đảm đối nhân không được xác định cụ thể, mà là toàn bộ khối tài sản của bên bảo đảm. Việc cá thể hóa tài sản nào được phát mại để thanh toán cho bên có quyền thông thường được tiến hành sau khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận.

4. Một số nhận xét về khái niệm giao dịch bảo đảm trong hệ thống pháp luật Việt Nam với tư cách là đối tượng của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm

Trước tiên, có thể dễ dàng nhận thấy khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam hoàn toàn khác so với khái niệm giao dịch bảo đảm nêu tại Điều 9 Bộ luật thương mại thống nhât Hoa Kỳ (UCC). Khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam là sự liệt kê những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, không chỉ ra được những đặc điểm chung, cơ bản nhất của các giao dịch đó. Ngược lại, giao dịch bảo đảm theo Điều 9 UCC lại không phân biệt về hình thức giao dịch, các quyền phát sinh từ giao dịch mà chỉ căn cứ vào mục đích xác lập giao dịch đó là có xác lập nên lợi ích bảo đảm hay không. Do nội dung của giao dịch không có ý nghĩa trong việc xác định giao dịch đó có phải là giao dịch bảo đảm hay không, nên dẫn đến tính chất không xác định về hình thức của giao dịch. Do đó có thể thấy khái niệm giao dịch bảo đảm của chúng ta dường như gần gũi hơn với khái niệm giao dịch bảo đảm của bang Queebec. Thực chất, các giao dịch bảo đảm của Việt Nam là những biện pháp bảo đảm đối vật của hệ thống luật thành văn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đối với một số vấn đề, chúng ta đang áp dụng những nguyên tắc của hệ thống luật án lệ để giải quyết những giao dịch đó, mà tiêu biểu là cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản.

II. HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI VIỆC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM 

1. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm 

1.1. Hiệu lực của lợi ích bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật common law

a) Hiệu lực giữa các bên tham gia giao dịch

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật common law xác định thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực là thời điểm các bên tham gia giao dịch thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc thời điểm các bên ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia này, do lợi ích bảo đảm được xem là vấn đề mấu chốt trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đồng thời, hiệu lực của hợp đồng (thường phát sinh vào thời điểm các bên ký kết hợp đồng) trong nhiều trường hợp chưa hẳn đã làm phát sinh hiệu lực trên thực tế của lợi ích bảo đảm (ví dụ: cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai…) nên vấn đề được quan tâm nhiều hơn là xác định thời điểm lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực trên thực tế gắn với tài sản bảo đảm (attach to collateral).

Trong trường hợp tài sản bảo đảm là động sản, Điều 9-203 UCC, Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada đều quy định lợi ích bảo đảm “gắn” với tài sản bảo đảm, nếu thỏa mãn một số điều kiện cụ thể. Đối với trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản, quy định về việc lợi ích bảo đảm “gắn liền” với tài sản bảo đảm cũng tương tự như đối với động sản. Tuy nhiên, khi đáp ứng các điều kiện theo quy định thì lợi ích bảo đảm cũng chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia giao dịch, chứ không đương nhiên có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba.

b) Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

Lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba sau khi được hoàn thiện (perfect). Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm (perfection of security interest) được hiểu là việc công bố công khai sự tồn tại của lợi ích bảo đảm cho người thứ ba được biết. Sau khi hoàn thiện, người thứ ba tham gia giao dịch bảo đảm được coi là biết và có nghĩa vụ phải biết về sự tồn tại của lợi ích bảo đảm. Nói cách khác, “hoàn thiện” là cách thức để biến hợp đồng từ luật riêng giữa các bên tham gia thành luật chung đối với người thứ ba. Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm cũng là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên của lợi ích bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan tới tài sản bảo đảm. Trong trường hợp có hai hay nhiều lợi ích bảo đảm liên quan đến tài sản bảo đảm, thì lợi ích bảo đảm nào được hoàn thiện trước sẽ được ưu tiên thực hiện.

Theo các quy định tại Điều 9 UCC và các quy định tương tự tại Luật về bảo đảm của Canada và New Zealand, lợi ích bảo đảm được hoàn thiện sau khi đã gắn liền với tài sản bảo đảm, và chủ nợ có bảo đảm thực hiện hoàn thiện theo một trong các phương thức sau: chiếm hữu tài sản bảo đảm, kiểm soát tài sản bảo đảm hoặc đăng ký lợi ích bảo đảm. Về lý thuyết, một lợi ích bảo đảm có thể được hoàn thiện bằng nhiều phương thức. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra trên thực tế. Các bên tham gia giao dịch thường tùy vào loại tài sản bảo đảm để lựa chọn phương thức hoàn thiện thích hợp. 

1.2. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law

a) Hiệu lực giữa các bên tham gia giao dịch

Trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của đa số quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law, hiệu lực của giao dịch bảo đảm được xác định căn cứ vào quy định về hiệu lực của hợp đồng. Một số quốc gia không quy định cụ thể về thời điểm hợp đồng có hiệu lực, mà chỉ quy định về các điều kiện chủ yếu để hợp đồng có hiệu lực, theo đó, hợp đồng được coi là có hiệu lực khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định. Bên cạnh đó, cũng có những quốc gia quy định giao dịch bảo đảm phải được đăng ký mới có hiệu lực (ví dụ: CHLB Đức). Tuy nhiên, những quy định này chỉ áp dụng riêng đối với các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản.

b) Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law không có khái niệm “hoàn thiện” tương tự như pháp luật của các quốc gia theo hệ thống common law, cũng không quy định trực tiếp về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của giao dịch bảo đảm, mà quy định gián tiếp thông qua quyền ưu tiên và hiệu lực đối kháng với người thứ ba của quyền ưu tiên này. Đồng thời có sự phân biệt khá rõ ràng về các phương thức để giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, hay nói cách khác, để quyền ưu tiên phát sinh từ giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

2. Hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Qua nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, cho thấy việc đăng ký giao dịch bảo đảm có thể làm phát sinh một trong hai loại hiệu lực sau đây của giao dịch bảo đảm:

- Đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực.

- Đăng ký là điều kiện để vật quyền hay giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba.

2.2. Tại các quốc gia theo hệ thống civil law, hình thức của giao dịch bảo đảm đối với động sản phổ biến là cầm cố (chuyển giao tài sản). Do đó, không đặt ra vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản, bởi bản thân việc chuyển giao đã xác lập hiệu lực đối kháng với bên thứ ba. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ đặt ra đối với việc thế chấp bất động sản.

Hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản tại các quốc gia thuộc hệ thống này không giống nhau. Có thể tham khảo vấn đề nêu trên trong bảng dưới đây:

 

Pháp luật của Pháp

Pháp luật của Đức

Pháp luật của Nhật bản

Điều kiện hình thành vật quyền

Ký kết hợp đồng

Thoả thuận về vật quyền + đăng ký

Ký kết hợp đồng

Hình thái xác lập vật quyền

Nguyên tắc ý chí

Nguyên tắc hình thức

Nguyên tắc ý chí

Thời điểm xác lập vật quyền

Ký kết hợp đồng

Thời điểm đăng ký

Ký kết hợp đồng

Hiệu lực của việc đăng ký

Hiệu lực đối với bên thứ ba

Điều kiện xác lập quyền

Hiệu lực đối với bên thứ ba

Nghĩa vụ đăng ký

Bắt buộc

Không bắt buộc

Không bắt buộc

Công chứng giấy tờ đăng ký

Bắt buộc

Không bắt buộc

Không bắt buộc

 

2.3. Trong khi đó, tại các quốc gia như Mỹ, New Zealand, Canada …, bên cạnh việc đăng ký thế chấp bất động sản còn tồn tại việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản theo pháp luật của các quốc gia nêu trên chỉ làm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba.

III. ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM VÀ VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN

1. Thứ tự ưu tiên thanh toán trong giao dịch bảo đảm

1.1. Quy định về thứ tự ưu tiên của các lợi ích bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống common law

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống common law quy định về thứ tự ưu tiên (priority order) của các lợi ích bảo đảm khá phức tạp, theo đó, thứ tự ưu tiên của một lợi ích bảo đảm được hiểu là thứ tự ưu tiên thực hiện quyền đó đối với tài sản bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan đến tài sản đó trong trường hợp con nợ vi phạm cam kết về thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc thỏa thuận bảo đảm. Mặc dù khá phức tạp nhưng chúng đều tuân thủ những nguyên tắc cơ bản nhằm xác định thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích bảo đảm cùng liên quan đến một tài sản, cụ thể là:

- Đối với cùng một tài sản bảo đảm, lợi ích bảo đảm đã hoàn thiện luôn có thứ tự ưu tiên cao hơn lợi ích bảo đảm chưa hoàn thiện.

- Giữa hai lợi ích bảo đảm đã hoàn thiện, thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự hoàn thiện lợi ích bảo đảm (thứ tự đăng ký, chiếm hữu hoặc hoàn thiện tạm thời).

- Giữa các lợi ích bảo đảm chưa hoàn thiện, thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự lợi ích bảo đảm phát sinh trên thực tế gắn với tài sản bảo đảm (attachment).

Nguyên tắc này cũng được áp dụng để xác định thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích bảo đảm liên quan đến bất động sản.

1.2. Quy định về thứ tự ưu tiên giữa các quyền ưu tiên trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống civil law

Như đã trình bày ở trên, trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống Civil Law, thì vấn đề thứ tự ưu tiên trong giao dịch bảo đảm chỉ được đặt ra đối với bất động sản, bởi đối với động sản thì chủ nợ có bảo đảm thực hiện quyền chiếm giữ tài sản đó luôn được ưu tiên thanh toán. Giữa các quyền ưu tiên liên quan đến cùng một bất động sản được xác định theo một tiêu chí duy nhất là thứ tự đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm.

IV. NGUYÊN TẮC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo một trong hai nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất: Đăng ký thông báo;

Thứ hai: Đăng ký xác minh (hay còn gọi là đăng ký kèm theo giấy tờ chứng minh quyền lợi bảo đảm).

1. Theo nguyên tắc đăng ký thông báo, thì việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở Đơn yêu cầu đăng ký, không kèm theo giấy tờ chứng minh quyền lợi bảo đảm và chứng minh cho các nội dung được kê khai trong đơn. Hệ thống đăng ký thông báo có lợi thế cơ bản đó là: đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ đăng ký; việc thiết lập đăng ký nhanh chóng, tiết kiệm chi phí cho các bên tham gia giao dịch; bộ máy cơ quan đăng ký cũng như hệ thống lưu trữ thông tin, tài liệu đăng ký gọn nhẹ.

2. Với nguyên tắc đăng ký xác minh, thì việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở Đơn yêu cầu đăng ký và tùy từng trường hợp cụ thể còn kèm theo một số loại giấy tờ như: giấy tờ sở hữu, hồ sơ kỹ thuật, hợp đồng cầm cố, thế chấp. Quy trình đăng ký theo nguyên tắc này đòi hỏi sự kiểm tra của cán bộ đăng ký đối với các hồ sơ đăng ký. Lợi thế khi áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh là các thông tin có tính xác thực cao, đáng tin cậy. Tuy nhiên, hạn chế của nó đã được nhiều công trình nghiên cứu chỉ rõ: tốn kém thời gian, chi phí liên quan đến việc đăng ký, bộ máy cơ quan đăng ký cồng kềnh.

Có một điểm chung là nhiều nước áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh đối với đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản và chỉ trong một số trường hợp đối với động sản như tàu bay, tàu biển…Nguyên tắc đăng ký thông báo thường được áp dụng đối với việc đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng động sản. Hiện nay, việc thiết lập mô hình đăng ký thông báo đối với động sản là một xu hướng có tính phổ biến4, do các lợi thế mà hệ thống này đem lại, đặc biệt là trong việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế, bảo đảm giảm nhẹ chi phí quản lý, xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký cũng như các chi phí liên quan đến việc đăng ký cho các bên liên quan. Đồng thời tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch bảo đảm.

V. NỘI DUNG ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

Chỉ những thông tin nào thực sự cần thiết, đáp ứng yêu cầu của hệ thống đăng ký thì mới buộc các bên phải kê khai. Để bảo đảm mục tiêu thông báo về các vật quyền đối với tài sản, những thông tin cần phải đăng ký bao gồm: thông tin về bên bảo đảm, thông tin về bên nhận bảo đảm hoặc người có vật quyền đối với tài sản, mô tả tài sản.

VI. TỔ CHỨC HỆ THỐNG CƠ QUAN ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM   

1. Hệ thống cơ quan đăng ký tại Canada và Bắc Mỹ

Một trong những mô hình đăng ký phổ biến tại Bắc Mỹ là hệ thống “New Brunswick”. Các bang hoặc quốc gia theo mô hình này thực hiện đăng ký kinh doanh tập trung cùng với đăng ký giao dịch bảo đảm bằng cả động sản và bất động sản, tách khỏi hệ thống cơ quan đăng ký tài sản (đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng). Trong trường hợp đăng ký các giao dịch liên quan đến động sản, bất động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì khi kê khai nội dung đăng ký sẽ viện dẫn về nơi đăng ký và số đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đó. Ưu điểm của hệ thống cơ quan này là:

- Giúp xác định rõ ràng thứ tự ưu tiên thanh toán từ toàn bộ tài sản của bên vay, không kể tài sản đó có được đăng ký quyền sở hữu hay không;

- Giúp cho bên vay tra cứu dễ dàng hơn khi tìm hiểu thông tin về việc tài sản của bên vay đã được cầm cố, thế chấp hay chưa;

- Tạo điều kiện để bảo đảm bằng các động sản không có đăng ký sở hữu mà không phải giao tài sản đó cho bên nhận bảo đảm; tạo điều kiện cho việc nhận thế chấp, cầm cố cả những tài sản đang lưu thông để làm cơ sở cho việc cấp tín dụng- một phương thức phổ biến trong nền kinh tế thị trường phát triển;

- Giảm chi phí, thời gian, thủ tục cho những người muốn cấp tín dụng khi xem xét đến khả năng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của con nợ;

- Khi thực hiện hiện đại hoá hệ thống cơ quan đăng ký (vi tính hoá, ứng dụng đăng ký trực tuyến …) sẽ dễ dàng, nhanh chóng và ít tốn kém hơn so với việc thực hiện đồng bộ tại cả hệ thống cơ quan đăng ký được bố trí ở trung ương và địa phương.

Riêng tại một số bang của Canada, bộ phận đăng ký giao dịch bảo đảm được tổ chức tập trung với các bộ phận đăng ký khác (bao gồm cả cơ quan đăng ký tài sản) trong cùng một cơ quan (Ví dụ, đăng ký đất đai, đăng ký kinh doanh, đăng ký xe cộ).

Cơ quan này có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

Cung cấp hồ sơ thông tin được công khai hoá

Quản lý, phổ biến và lưu giữ các hồ sơ đó

Đảm bảo dễ sử dụng và khả năng tiếp cận dễ dàng đối với công chúng

2. Nhật Bản

Đăng ký là việc ghi một số nội dung vào Sổ theo quy định pháp luật nhằm mục đích công khai hoá nội dung đăng ký cho công chúng (như quyền lợi, chủ thể của các quyền v.v…) cho bên thứ ba là bên sẽ thực hiện giao dịch với một trong các bên đăng ký.

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm ở Nhật bản chủ yếu được thực hiện đối với bất động sản. Đây cũng là một trong những nội dung của đăng ký bất động sản. Ở Nhật bản không có một hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản riêng biệt mà do cơ quan đăng ký bất động sản thực hiện. Ngoài các bất động sản, động sản chỉ được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thông qua cầm cố. Do đó, Nhật Bản không có một hệ thống cơ quan nào thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Tuy nhiên, ngoài các bất động sản, giao dịch bảo đảm bằng quyền đòi nợ cũng được đăng ký. Và việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản này được thực hiện tập trung tại một trong số các cơ quan đăng ký bất động sản.

3. Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản tại Cộng hoà Pháp

Cũng như ở Nhật Bản, Cộng hoà Pháp không có hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản chỉ có hiệu lực đối với người thứ ba thông qua việc chuyển giao tài sản đó cho chủ nợ (cầm cố), do vậy việc công bố công khai quyền của chủ nợ đối với tài sản bảo đảm qua hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm là không cần thiết. Đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản: đây được coi như một trong các giao dịch về bất động sản. Do đó, được thực hiện đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký bất động sản.

Hệ thống đăng ký bất động sản (bao gồm cả đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản) ở Pháp có nhiều điểm tương đồng với hệ thống đăng ký bất động sản ở Nhật Bản. Cụ thể: mô hình cơ quan đăng ký cũng được tổ chức tập trung theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương, quản lý tập trung, thống nhất trong cả nước. Các Văn phòng trong hệ thống được phân định thẩm quyền theo địa giới hành chính và có địa vị pháp lý như nhau.

Cơ quan thực hiện việc đăng ký (công bố) các giao dịch về bất động sản là Phòng đăng ký giao dịch bảo đảm đối với bất động sản (gọi tắt là Phòng đăng ký giao dịch bảo đảm). Tuy có tên gọi là đăng ký giao dịch bảo đảm, nhưng trên thực tế, Phòng này đăng ký toàn bộ các giao dịch mà hậu quả pháp lý là xác lập các vật quyền đối với bất động sản, ví dụ như: mua bán, thế chấp, quyền hưởng dụng, quyền địa dịch, quyền ưu tiên mua … Cả nước Pháp hiện nay có 354 Phòng đăng ký, được chia thành 6 hạng. Số lượng cán bộ đăng ký mỗi Phòng do Bộ Tài chính, kinh tế và công nghiệp quyết định, căn cứ vào khối lượng công việc đã quy định (ví dụ: quy định trung bình mỗi cán bộ phải giải quyết 2.400 hồ sơ/năm. Nếu Phòng phải giải quyết trung bình 36.000 hồ sơ/năm, thì số lượng nhân viên là 15 người).

PHẦN II. THỰC TRẠNG ĐĂNG KÝ, CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM Ở VIỆT NAM

I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ, CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

1. Nhận xét chung

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó phải kể đến Bộ Luật Dân sự, Bộ luật hàng hải, Luật Hàng không dân dụng, Luật Đất đai, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính... Các văn bản này đã tạo thành khung pháp luật quan trọng cho lĩnh vực đăng ký nêu trên. Cho đến nay, có thể nói rằng trong mọi lĩnh vực đăng ký chuyên ngành đều đã có các văn bản hướng dẫn thi hành. Qua việc áp dụng cho thấy, hầu hết các văn bản này đều đáp ứng được nhu cầu thực tế, rõ ràng, dễ hiểu, khả thi và phù hợp pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số quy định lạc hậu hoặc còn thiếu một số quy định cần thiết, đòi hỏi sớm được sửa đổi, bổ sung.

2. Một số hạn chế cơ bản của hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Hạn chế về phạm vi giao dịch bảo đảm được đăng ký

2.1.1. Về các trường hợp đăng ký

Các giao dịch bảo đảm thuộc diện đăng ký được quy định tại Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, tài sản cho thuê tài chính cũng được đăng ký theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 16/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.

Phạm vi đăng ký nêu trên có một số hạn chế như sau:

a)  Các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm không đăng ký các giao dịch bảo đảm khác khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức

b) Không bảo đảm xác định đầy đủ thứ tự các quyền ưu tiên thanh toán của các chủ nợ trong các giao dịch khác có liên quan đến tài sản bảo đảm.

2.2. Hạn chế về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán căn cứ vào thời điểm đăng ký

2.2.1. Pháp luật hiện hành của Việt Nam về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán

Bộ Luật Dân sự 2005 quy định chủ nợ có bảo đảm được ưu tiên thu hồi nợ từ xử lý tài sản bảo đảm5. Trong trường hợp tài sản có đăng ký sở hữu được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, nhiều chủ nợ, thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác lập theo nguyên tắc thứ tự đăng ký6 - đăng ký trước có quyền ưu tiên trước. Tuy nhiên, quy tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán hiện hành của Việt Nam chưa giải quyết được thực tế khi tài sản được bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, nhiều chủ nợ và có chủ nợ đăng ký giao dịch bảo đảm, có chủ nợ lại chiếm giữ tài sản.

Điều 9 Bộ Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) đã đưa ra các trường hợp ngoại lệ khi xác định thứ tự ưu tiên thanh toán. Theo đó, nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán theo thời điểm đăng ký hoặc chuyển giao tài sản không được áp dụng đối với các chủ nợ cấp tín dụng cho bên nợ để mua tài sản mới. Ngoại lệ này mở rộng khả năng tiếp cận của bên nợ để có tín dụng, tài sản mới khi đã cam kết sử dụng tài sản bảo đảm bằng toàn bộ (cam kết bảo đảm chung), đồng thời cũng thúc đẩy khả năng tài trợ của chủ nợ, bảo đảm an toàn, công bằng hơn cho quyền lợi của chủ nợ.

2.3. Hạn chế về phương thức đăng ký

2.3.1. Đăng ký bằng giấy – phương thức chủ yếu của hệ thống đăng ký hiện hành của Việt Nam

Hiện nay, các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm đều dựa trên phương thức đăng ký, cung cấp thông tin bằng giấy.

Phương thức này có lợi thế về bằng chứng yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, nhưng lại phát sinh một số hạn chế như sau:

a. Thời gian hoàn thành việc đăng ký giao dịch bảo đảm cũng như tra cứu thông tin về giao dịch bảo đảm bị kéo dài, gây tốn kém cho các bên liên quan.

b. Có khoảng trống thông tin về giao dịch bảo đảm từ thời điểm nhận đơn đến thời điểm đơn được ghi nhận trong Sổ Đăng ký hoặc trong Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm. Từ đó, có thể gây rủi ro cho người yêu cầu cung cấp thông tin trong khoảng thời gian giải quyết đơn. Chính vì vậy, ở Bang Caliphonia của Hoa Kỳ (là nơi thực hiện việc đăng ký bằng giấy), chủ nợ thường phải lấy thông tin hai lần đối với một giao dịch bảo đảm. 

c. Có thể phát sinh sai sót trong việc nhập dữ liệu từ đơn yêu cầu đăng ký vào Sổ Đăng ký hoặc Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm.

d. Chi phí liên quan đến việc đăng ký, gửi đơn đăng ký cũng gia tăng, nếu địa điểm đăng ký ở xa.

2.4. Hạn chế trong quy định về mô tả tài sản bảo đảm

Một trong yếu điểm của hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm của những nước có nền kinh tế chuyển đổi tương tự như Việt Nam, có truyền thống lập pháp kiểu civil law, đó là yêu cầu mô tả tài sản bảo đảm quá chi tiết7.

Ngoài ra còn có một số hạn chế khác trong pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm cần sớm được sửa đổi bổ sung.

II. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CƠ QUAN ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

1. Mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm 

Theo quy định hiện hành, thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam được xác định căn cứ theo loại tài sản bảo đảm là bất động sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất), tàu bay, tàu biển hay các động sản khác (trừ tàu bay, tàu biển). Mô hình tổ chức của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam được khái quát bằng sơ đồ dưới đây:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mô hình trên cho thấy, hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam hiện nay được tổ chức phân tán, chưa có sự tập trung. Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản mới chỉ tập trung ở mức độ tương đối, vì việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện tại Chi cục đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam, các động sản khác (trừ tàu bay, tàu biển) được đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp. Trong khi đó, việc đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được thực hiện tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, tổ chức theo đơn vị hành chính ở cấp tỉnh và cấp huyện.

Trên cơ sở nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận thấy, mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam hiện bộc lộ những ưu điểm và nhược điểm sau

1.1. Ưu điểm

a) Các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tàu bay, tàu biển được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng và các biến động khác liên quan đến tình trạng pháp lý của tài sản. Do vậy, đã tạo thuận lợi cho việc theo dõi lịch sử các biến động của các tài sản nêu trên. Khi muốn tìm hiểu thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm chỉ cần nộp đơn tại một cơ quan là có thể nhận được những thông tin cần thiết cho phép xác định chủ sở hữu tài sản, tình trạng biến động của tài sản.

b) Với điều kiện địa lý của Việt Nam, hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được tổ chức đến cấp huyện, sẽ góp phần đảm bảo sự thuận tiện cho việc đăng ký và tìm hiểu thông tin trực tiếp của người dân trong lĩnh vực này.

c) Đối với các giao dịch bảo đảm bằng động sản được tổ chức đăng ký tương đối tập trung, nên đã giảm được các chi phí đăng ký, tìm hiểu thông tin và thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất đối với một số lĩnh vực, như các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển và các động sản khác.

1.2. Nhược điểm

Mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam, nhất là đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản hiện chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, đó là: An toàn (đảm bảo xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán), thân thiện với người sử dụng (tổ chức, cá nhân dễ dàng tiếp cận với dịch vụ đăng ký), tiết kiệm (giảm thiểu chi phí khi khách hàng tiến hành đăng ký, tìm hiểu thông tin về các giao dịch bảo đảm) và hiệu quả (với sự trợ giúp của các trang thiết bị trong quá trình đăng ký, giúp cho việc đăng ký được thực hiện nhanh nhất, với chi phí khiêm tốn nhất).

2. Hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm 

2.1. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp

Trên cơ sở kết quả hoạt động của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, có thể rút ra những kết luận sau:   

a) Về kết quả đăng ký

Kể từ khi chính thức triển khai hoạt động đăng ký cho đến cuối tháng 7/2006, các Trung tâm thuộc Cục Đăng ký đã tiếp nhận và giải quyết gần 80.000 hồ sơ yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, cho thuê tài chính. Kết quả thống kê cho thấy, số lượng các giao dịch bảo đảm được đăng ký năm sau cao hơn năm trước. Điều này chứng tỏ xu hướng phát triển của đăng ký giao dịch bảo đảm về quy mô, tổ chức, phương thức hoạt động trước sự vận động của nền kinh tế thị trường là kịp thời và đúng đắn. Tuy nhiên, việc đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký này cũng bộc lộ những hạn chế như: thời gian thực hiện đăng ký chưa đáp ứng tốt nhất yêu cầu đặt ra của nguyên tắc đăng ký thông báo; tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sai sót, nhầm lẫn trong quá trình nhập liệu; chi phí phục vụ cho việc đăng ký, cung cấp thông tin cao; khách hàng ở xa gặp khó khăn về chi phí khi tiếp cận với cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm...   

Bên cạnh đó, sự hạn chế về số lượng đơn yêu cầu cung cấp thông tin thời gian qua do một trong những nguyên nhân quan trọng đó là sự nhận thức chưa đúng đắn của các tổ chức, cá nhân trong xã hội về tầm quan trọng và lợi ích của các thông tin được cung cấp khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự - kinh tế và đặc biệt là khi pháp luật chưa có quy định thừa nhận thông tin do cơ quan đăng ký có thẩm quyền cung cấp là chứng cứ không cần phải chứng minh trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm.  

b) Về quy trình đăng ký

Thời gian qua, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã triển khai một quy trình đăng ký đơn giản, nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng có điều kiện tiếp cận với hệ thống đăng ký. Nguyên tắc được áp dụng trong quá trình đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là nguyên tắc đăng ký thông báo. Với quy trình đăng ký hiện nay, các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản đặt ra đối với một hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Đội ngũ cán bộ đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm hiện đáp ứng tốt những yêu cầu đặt ra trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm về năng lực và chuyên môn nghiệp vụ. Cán bộ đăng ký đã được bồi dưỡng và được tạo điều kiện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đăng ký, đáp ứng tốt những yêu cầu đặt ra trong điều kiện hiện nay. Do vậy, đội ngũ cán bộ đăng ký đã góp phần tạo lòng tin cho khách hàng khi tiếp cận với hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc thẩm quyền đăng ký.

2.2. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Phòng Pháp chế phối hợp với các bộ phận có liên quan thụ lý hồ sơ xin đăng ký và cấp chứng chỉ đăng ký; Ban an toàn ghi chép các chi tiết đăng ký vào Sổ đăng bạ tàu bay.

a) Về kết quả đăng ký

Theo số liệu thống kê, trong 2 năm (2003 - 2004), Cục Hàng không dân dụng Việt Nam mới chỉ thực hiện đăng ký được 09 giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, trong đó năm 2003 có 03 giao dịch và năm 2004 có 06 giao dịch được đăng ký. Điều này cho thấy các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay ở Việt Nam hiện không nhiều với số lượng hồ sơ xin đăng ký thế chấp bằng tàu bay tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam không thường xuyên.

b) Về quy trình đăng ký

Cục Hàng không dân dụng Việt Nam hiện áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh. Theo đó, việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở thẩm tra, đối chiếu những thông tin trong hồ sơ đăng ký của khách hàng với các thông tin được lưu trữ tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam về chủ sở hữu, về tình trạng pháp lý - kỹ thuật của tàu bay được dùng làm tài sản bảo đảm. Cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay phải chịu trách nhiệm pháp lý về tính xác thực của hợp đồng.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Theo thông báo của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay do cán bộ, chuyên viên pháp chế của Cục đảm nhiệm. Cục Hàng không dân dụng Việt Nam chưa bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay và chưa tổ chức tập huấn về nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ đăng ký hoạt động kiêm nhiệm.

2.3. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm Chi cục đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam

Hiện nay, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện tại 3 cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực đặt tại: Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh.

a) Về kết quả đăng ký

Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, số lượng tàu biển được đăng ký thế chấp năm 2003 là 76 trường hợp, năm 2004 là 123 trường hợp.

b) Về quy trình đăng ký

Theo quy định hiện hành, quy trình đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện theo nguyên tắc đăng ký xác minh.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Hiện nay, đội ngũ cán bộ đăng ký của các giao dịch bảo đảm bằng tàu biển là những cán bộ, công chức của cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, trực thuộc Chi cục hàng hải Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh. Đội ngũ cán bộ đăng ký thuộc lĩnh vực này cũng hoạt động mang tính kiêm nhiệm. Do được sự hướng dẫn về nghiệp vụ đăng ký từ các cán bộ pháp luật của Cục Hàng hải Việt Nam, nên việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện an toàn, đúng pháp luật.

2.4. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

Tháng 9 năm 2004, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp đã tiến hành khảo sát về thực trạng đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại một số tỉnh, thành phố thuộc ba khu vực Bắc, Trung, Nam. Kết quả khảo sát cho thấy, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hiện còn nhiều bất cập cần nhanh chóng khắc phục.

a) Kết quả đăng ký tại một số địa phương

Theo kết quả khảo sát, số lượng các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được đăng ký ngày càng tăng. Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, công tác đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất chưa được triển khai đồng bộ và rộng khắp. Trên cơ sở báo cáo của 24 địa phương về việc triển khai công tác đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, cho thấy công tác này hiện còn nhiều vấn đề như: Việc triển khai công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các địa phương có sự không đồng đều; Sự chậm chễ trong việc kiện toàn tổ chức, hoạt động của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tại một số nơi đã dẫn đến những khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện quy định về đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Số lượng thế chấp được đăng ký, mà bên thế chấp là hộ gia đình, cá nhân chiếm tỷ lệ chủ yếu; Công tác thống kê về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chưa được quan tâm đúng mức.

b) Về quy trình đăng ký

Kết quả khảo sát cho thấy, ở một số địa phương, cơ quan đăng ký chưa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Phần lớn đội ngũ cán bộ đăng ký, đặc biệt là cán bộ xã, phường, thị trấn chưa được bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ đăng ký; trình độ, năng lực rất hạn chế, đặc biệt là cấp xã hiện vẫn chưa có cán bộ đăng ký tốt nghiệp Đại học Luật, mà chủ yếu tự nghiên cứu các quy định của pháp luật trong điều kiện các văn bản pháp luật không được cung cấp, cập nhật đầy đủ và kịp thời. Mặt khác, số lượng cán bộ trực tiếp đăng ký tại các địa phương rất mỏng, thực hiện kiêm nhiệm việc đăng ký, chưa có cán bộ chuyên trách. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn không ổn định do có sự luân chuyển theo nhiệm kỳ bầu cử.

3. Về mức độ ứng dụng tin học trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam

3.1. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm bước đầu đã được vi tính hoá, nối mạng, đáp ứng được nhu cầu đăng ký, tìm hiểu thông tin của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, qua đó cho phép xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các nghĩa vụ được bảo bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển) và tình trạng pháp lý của động sản trong các giao dịch dân sự - kinh tế. Tuy nhiên, các thao tác nghiệp vụ của cán bộ đăng ký vẫn mang tính thủ công, vì việc nhập liệu được thực hiện trên cơ sở thông tin được người yêu cầu đăng ký kê khai trong đơn.

3.2. Theo Cục Hàng hải Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải, hiện nay, Cục Hàng hải Việt Nam đã triển khai xây dựng, lắp đặt xong mạng đăng ký tàu biển và thuyền viên trên cả nước và đưa vào sử dụng từ tháng 01 năm 2005. Thông qua mạng thông tin được kết nối giữa các cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, khách hàng có thể truy cập, tìm kiếm và được cung cấp thông tin theo các tiêu chí nhất định.

3.3. Theo Cục Hàng không dân dụng Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải thì cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay hiện sử dụng chung với các trang thiết bị của ngành hàng không, do số lượng các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay trên thực tế không nhiều. Để thực hiện mục tiêu vi tính hoá, nối mạng nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về các giao dịch bảo đảm, đòi hỏi Nhà nước phải có sự đầu tư kinh phí, con người và phương tiện vật chất - kỹ thuật. Tuy nhiên, khó khăn này có thể khắc phục được do công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tập trung tại duy nhất một cơ quan, đó là Cục Hàng không dân dụng Việt Nam.

3.4. Trong khi đó, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các địa phương còn rất nghèo nàn, lạc hậu, chưa có sự đầu tư thoả đáng.

III. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

Theo quy định hiện hành, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất về đăng ký giao dịch bảo đảm và Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là cơ quan thuộc Bộ Tư pháp, chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; Bộ Giao thông vận tải thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển, tàu bay và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất tại địa phương.

1. Kết quả đạt được

1.1. Về công tác xây dựng pháp luật

a) Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, như: Quyết định số 412/2001/QĐ-BTP ngày 26/10/2001 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp kèm theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp; Thông tư số 01/2002/TT-BTP ngày 28/9/2002 hướng dẫn một số vấn đề về thẩm quyền, trình tự thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại Cục Đăng ký QGGD BĐ thuộc Bộ Tư pháp và các Chi nhánh; Thông tư số 04/2002/TT-BTP ngày 22/02/2002 hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về tài sản cho thuê tài chính và việc quản lý Nhà nước về đăng ký tài sản cho thuê tài chính (gọi tắt là Thông tư số 04). Đồng thời, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch số 03/2003/TTLT-BTP-BTNMT ngày 04/7/2003 hướng dẫn về việc đăng ký, cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 03), Thông tư liên tịch số 05, Thông tư liên tịch số 03 sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 05 và phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 33/2002/TTLT-BTC-BTP về phí và lệ phí đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm và tài sản cho thuê tài chính. Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn tham gia góp ý, thẩm định Thông tư số 01/2004/TT-BGTVT ngày 16/1/2004 của Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn việc đăng ký tàu bay và đăng ký các quyền đối với tàu bay, trong đó có việc đăng ký thế chấp tàu bay.

Để đáp ứng những đòi hỏi của đời sống kinh tế - xã hội, nhằm đảm bảo tính thống nhất trong các văn bản pháp luật, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng Dự thảo Pháp lệnh về đăng ký giao dịch bảo đảm (hiện đã có dự thảo số 5) và dự thảo Luật Đăng ký bất động sản (hiện đã có dự thảo số 11), dự thảo Thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 33...

b) Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu bay, tàu biển, Bộ Giao thông vận tải.

c) Từ sau khi có Chỉ thị số 21/2003/CT-TTg ngày 02/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có những chuyển biến tích cực. Uỷ ban nhân dân một số địa phương đã ban hành Chỉ thị, Kế hoạch nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác đăng ký, cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ở địa phương như: Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu, Yên Bái, Đồng Nai, Hải Dương, TP Hồ Chí Minh, TP Hải Phòng..., trong đó xác định rõ cơ quan chuyên môn có tránh nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.

d) Theo quy định tại Nghị định số 08, Bộ Tài nguyên và Môi trường không phải là cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm nhưng với chức năng là cơ quan chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

1.2. Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Ngoài việc tổ chức Toạ đàm, mở các lớp tập huấn, phát hành các Số báo chuyên đề..., một Website về đăng ký giao dịch bảo đảm đã được xây dựng và đưa vào sử dụng nhằm phục vụ  công tác tuyên truyền về đăng ký giao dịch bảo đảm. 

1.3. Về công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ và ban hành, hướng dẫn theo thẩm quyền việc sử dụng các mẫu đơn, giấy tờ, sổ đăng ký 

Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành và hướng dẫn việc sử dụng thống nhất các loại biểu mẫu, giấy tờ phục vụ cho công tác đăng ký như: sổ đăng ký giao dịch bảo đảm, mẫu đơn yêu cầu đăng ký... nhằm chuẩn hoá các thông tin về giao dịch bảo đảm được đăng ký, đáp ứng kịp thời và đầy đủ yêu cầu của công tác quản lý về đăng ký giao dịch bảo đảm. 

1.4. Một số vấn đề khác trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm         

a) Chế độ tổng hợp và báo cáo về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm đã được Bộ Tư pháp thực hiện nghiêm túc theo định kỳ.

b) Công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đăng ký giao dịch bảo đảm cho cán bộ đăng ký (nhất là cán bộ đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng động sản) đã được Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành có liên quan triển khai kịp thời, thường xuyên.

2. Những hạn chế còn tồn tại trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Hệ thống văn bản pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm còn tản mát, chưa được pháp điển hoá trong những văn bản pháp luật có tính ổn định cao như: Luật, Pháp lệnh. Bên cạnh đó, vẫn có những quy định không phù hợp với tính chất của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường, chưa thúc đẩy nhanh sự hình thành và vận động của thị trường tài chính.

2.2. Việc ban hành một số văn bản pháp luật không kịp tiến độ theo chương trình xây dựng pháp luật đã đề ra. Mặt khác, trong thực tế, nhiều văn bản pháp luật như Luật, Nghị định được ban hành và có hiệu lực, nhưng không thể triển khai thực hiện do thiếu văn bản hướng dẫn.

2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ đăng ký chưa được thực hiện thường xuyên và chưa được chú trọng đúng mức.

2.4. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được thực hiện sâu rộng và hiệu quả, vẫn còn không ít tổ chức và cá nhân trong xã hội chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vai trò, ý nghĩa và nội dung các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm, dẫn đến cách hiểu, cách thực hiện chưa thống nhất, chưa đúng pháp luật.

2.5. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và công tác kiểm tra việc thực hiện quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được một số cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này chú trọng đúng mức làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả của công tác đăng ký, dẫn đến tình trạng quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm có nơi được áp dụng chưa đúng, song, chậm bị phát hiện và xử lý.

2.6. Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm chưa được thiết lập đã hạn chế hiệu quả họat động của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam.

2.7. Thời gian qua, nhiều Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, vẫn còn hiện tượng buông lỏng trong công tác quản lý, cụ thể như: chưa xác định cơ quan chuyên môn có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; chưa xây dựng đội ngũ cán bộ đăng ký có trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao; chưa đảm bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho công tác đăng ký, chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thống kê số liệu về đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương.        

IV. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN DẪN ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TẠI VIỆT NAM

1. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm

1.1. Trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm chưa thực sự đơn giản, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Thời gian thực hiện các thủ tục đăng ký kéo dài, có thể phát sinh thiệt hại cho các chủ thể do cơ hội kinh doanh bị bỏ qua.

1.2. Pháp luật về đăng ký bất động sản chậm được hoàn thiện, nhiều quy định chưa cụ thể, rõ ràng (nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà Luật Đăng ký bất động sản chưa được ban hành).

1.3. Sự thiếu tương thích của mô hình tổ chức hệ thống cơ quan đăng ký các giao dịch bảo đảm hiện là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của hệ thống đăng ký.

1.4. Theo kết quả khảo sát, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến yếu kém trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các địa phương là do cơ sở vật chất - kỹ thuật và đội ngũ cán bộ đăng ký còn nhiều hạn chế.

2. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Các thiết chế quan trọng để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm vẫn còn hạn chế.

2.2. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa kịp thời, khoa học, dẫn đến khó khăn trong đề xuất cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.

2.3. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương.

2.4. Ở Việt Nam, hiện vẫn còn thiếu các chuyên gia pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, đặc biệt là tại các địa phương, nên việc tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tế về chuyên môn chưa kịp thời, có trường hợp không chính xác, dẫn đến việc áp dụng, thi hành pháp luật của một số cơ quan đăng ký không thống nhất, thiếu chính xác.

PHẦN III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ, CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

I. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã và đang phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng dự thảo Pháp lệnh Đăng ký giao dịch bảo đảm. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra các đề xuất về nội dung Dự thảo. Trong đó có các vấn đề chủ yếu sau đây: 

1. Về phạm vi áp dụng: mở rộng phạm vi áp dụng, cụ thể là: quy định về thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và trình tự, thủ tục đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm; được áp dụng thống nhất đối với các cá nhân là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài; tổ chức trong nước và nước ngoài, nếu giao dịch bảo đảm được giao kết, thực hiện tại Việt Nam hoặc tài sản bảo đảm có tại Việt Nam.

2. Về nguyên tắc đăng ký:  Dự thảo cần quy định, đối với tài sản bảo đảm là động sản, thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm mang tính tự nguyện và việc đăng ký được thực hiện theo nguyên tắc đăng ký thông báo, nguyên tắc công khai các giao dịch đã đăng ký cho mọi người có nhu cầu tìm hiểu. Các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản cũng được đăng ký theo nguyên tắc thông báo đối với những trường hợp phải công chứng, chứng thực. Còn đối với những trường hợp dùng bất động sản khác để thế chấp, do hiện nay chưa có quy định về đăng ký sở hữu các tài sản đó, nên cơ quan đăng ký không thể kiểm tra và đứng ra bảo đảm về tính hợp pháp của giao dịch. Do đó, dự thảo cần quy định các bên chịu trách nhiệm về nội dung đăng ký đối với các trường hợp bảo đảm bằng tài sản không có đăng ký quyền sở hữu.

3. Nội dung đăng ký: Những nội dung thông tin đăng ký được xác định gồm có:

* Đối với đơn yêu cầu đăng ký lần đầu có các nội dung chủ yếu sau đây: Thông tin đầy đủ về bên bảo đảm và bên được bảo đảm; Mô tả về tài sản bảo đảm; Mô tả về nghĩa vụ được bảo đảm hoặc quyền được xác lập đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể mô tả theo giá trị, phạm vi hoặc theo cơ sở pháp lý để xác lập nghĩa vụ hoặc quyền đó.

* Đối với đơn yêu cầu sửa đổi, bổ sung đăng ký, gia hạn đăng ký, xoá đăng ký gồm có những nội dung chủ yếu sau đây: Thông tin về yêu cầu đăng ký cần sửa đổi, bổ sung, gia hạn, xoá; Thông tin về người yêu cầu đăng ký, trừ trường hợp đăng ký qua mạng; Nội dung và thông tin cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung đăng ký, gia hạn đăng ký, xoá đăng ký.

Ngoài ra, Dự thảo cần đưa ra nguyên tắc chung về việc mô tả tài sản, đó là: tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung chung, nhưng cần phải rõ ràng, phù hợp với thoả thuận của các bên và không gây nhầm lẫn cho người tìm hiểu thông tin về tài sản bảo đảm, lợi ích được bảo đảm, đồng thời có hướng dẫn về việc mô tả tài sản bảo đảm trong một số trường hợp cụ thể.

So với quy định của pháp luật hiện hành, dự thảo có thể đưa ra một số phương án nhằm xác định thứ tự ưu tiên giữa các quyền, lợi ích cùng được xác lập đối với một tài sản thông qua việc mô tả tài sản khi đăng ký.

4. Giá trị pháp lý của việc đăng ký và nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên

a) Về giá trị pháp lý của việc đăng ký

Việc đăng ký làm giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý với người thứ ba và thời điểm đăng ký là căn cứ xác định thứ tự ưu tiên giữa các nghĩa vụ được bảo đảm bằng một tài sản hoặc có liên quan đến cùng một tài sản. Đây là điểm quan trọng trong việc thực hiện đăng ký theo nguyên tắc thông báo. Thông thường, hợp đồng bảo đảm được ký kết chỉ có giá trị pháp lý đối với các bên tham gia ký kết hợp đồng đó (được coi là luật của các bên tham gia hợp đồng). Tuy nhiên, thông qua việc đăng ký (và một số phương thức công khai hoá khác), hợp đồng bảo đảm sẽ có giá trị pháp lý đối với người thứ ba bởi đã được công bố công khai cho công chúng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, với giá trị pháp lý nêu trên, thì việc đã thực hiện đăng ký không phải là căn cứ pháp lý để xác lập quyền đối với tài sản bảo đảm, cũng như không làm cho giao dịch có nội dung vi phạm pháp luật trở nên có hiệu lực pháp lý.

Các trường hợp không thừa nhận giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm

Về nguyên tắc, việc đăng ký giao dịch bảo đảm làm phát sinh các giá trị pháp lý theo quy định của Pháp lệnh này. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp, thì việc xem xét, quyết định về giá trị pháp lý của việc đăng ký sẽ do Toà án quyết định căn cứ vào các yếu tố sau đây:

- Trừ trường hợp giao dịch bảo đảm được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực pháp lý đối với người thứ ba, nếu tại thời điểm xem xét về hiệu lực của việc đăng ký, giao dịch bảo đảm có đầy đủ các điều kiện sau đây:

+ Văn bản thể hiện giao dịch bảo đảm đã được các bên ký kết, trong đó có mô tả về tài sản bảo đảm;

+ Tiền hoặc lợi ích khác đã được bên được bảo đảm trao cho bên bảo đảm;

+ Bên bảo đảm có quyền đối với vật bảo đảm theo quy định của pháp luật.

- Giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm không phát sinh trong các trường hợp sau đây:

+ Căn cứ xác lập quyền của bên được bảo đảm bị tuyên bố là vô hiệu;

+ Việc đăng ký giao dịch bảo đảm không được thực hiện tại cơ quan đăng ký có thẩm quyền.

b) Về việc xác định thứ tự ưu tiên

Theo quy định tại dự thảo Pháp lệnh thì thứ tự ưu tiên giữa các nghĩa vụ cùng được bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thời điểm đăng ký hoặc phát sinh giá trị pháp lý đối với người thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

5. Cơ quan đăng ký

Dự thảo Pháp lệnh cần quy định những vấn đề về tổ chức, thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, trong đó có hai phương án về mô hình tổ chức sau đây: đó là tổ chức phân tán (như hiện thời); phương án 2 là đăng ký tập trung (Việc đăng ký các loại giao dịch bảo đảm được đăng ký tập trung tại một hệ thống cơ quan có thẩm quyền đăng ký). 

Cơ quan đăng ký phải bảo đảm việc đăng ký theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Pháp lệnh này và chịu trách nhiệm duy trì khả năng tra cứu thông tin theo một số tiêu chí do Pháp lệnh quy định. Cơ quan đăng ký không kiểm tra tính hợp pháp của các thông tin nêu trong đơn yêu cầu đăng ký. Nội dung này do các bên tự chịu trách nhiệm với nhau và trước pháp luật.

6. Tra cứu, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm

Dự thảo Pháp lệnh cần quy định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc trong quá trìnnh tra cứu, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm, bao gồm quyền tiếp cận thông tin được lưu giữ tại cơ quan đăng ký; các phương thức tiếp cận thông tin; nguyên tắc cung cấp thông tin; thẩm quyền cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm đã đăng ký. Quan trọng nhất đó là cần quy định mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền tìm hiểu thông tin một cách dễ dàng, thuận tiện.

7. Quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

Dự thảo cần quy định hoạt động quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, bao gồm quy định về nội dung quản lý nhà nước về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm; cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó. Dự thảo pháp điển hoá các quy định tương tự trong Nghị định số 08.

 8. Về một số nội dung khác

a) Về thời điểm đăng ký

Dự thảo cần quy định thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản là thời điểm các thông tin về giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm đó có thể được tra cứu trên Cơ sở dữ liệu các giao dịch bảo đảm hoặc trong Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm. Để tránh việc Đăng ký viên có thể không khách quan trong qúa trình đăng ký hoặc chậm đưa thông tin vào Cơ sở dữ liệu các giao dịch bảo đảm hoặc trong Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm, cần quy định rõ trách nhiệm của họ khi có vi phạm.

b) Về việc sửa đổi, bổ sung đăng ký khi tài sản trong tương lai được hình thành trong trường hợp đã đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai

Dự thảo cần thể hiện quan điểm không cần sửa đổi, bổ sung đăng ký khi tài sản trong tương lai được hình thành trong trường hợp đã đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai. Lý do là dự thảo đã cho phép mô tả tài sản và nghĩa vụ được bảo đảm một cách chung chung tại đơn. Do đó, việc tài sản trong tương lai được hình thành không làm thay đổi khả năng xác định tài sản.

c) Việc đăng ký từ xa, thông qua mạng điện tử đã có đủ cơ sở hạ tầng, kỹ thuật để thực hiện và cũng phù hợp với nhu cầu, xu hướng phát triển. Pháp luật cần có qui định theo đó cho phép đăng ký trực tiếp qua mạng điện tử, không cần trình tự kiểm tra, để bảo đảm nâng cao trách nhiệm của người đăng ký, giảm nhẹ chi phí quản lý hệ thống đăng ký.

d) Thời hạn hiệu lực của đăng ký cần được qui định theo hướng mềm dẻo, theo đề nghị của người yêu cầu đăng ký. Song, lệ phí đăng ký cần phải được tính toán trên cơ sở thời gian hiệu lực, để bảo đảm thông tin lưu giữ lâu thì phải tốn nhiều chi phí hơn.

II. THÍ ĐIỂM ĐĂNG KÝ TẬP TRUNG CÁC GIAO DỊCH BẢO ĐẢM - BƯỚC ĐI CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MÔ HÌNH CƠ QUAN ĐĂNG KÝ TẬP TRUNG CÁC GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

Theo nhóm nghiên cứu, việc đăng ký tập trung cần được thực hiện đối với các giao dịch bảo đảm phổ biến hiện nay là thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và cầm cố, thế chấp các động sản không phải là tàu bay, tàu biển. Việc xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm cần thực hiện theo những bước đi thích hợp cho từng giai đoạn. Về mô hình cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm, nhóm nghiên cứu đề xuất cụ thể mô hình theo từng giai đoạn, theo đó, về tổ chức bộ máy cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm không có nhiều thay đổi so với tổ chức bộ máy hiện nay của Cục Đăng ký, không tạo thêm đầu mối cơ quan đăng ký. Việc thành lập các điểm đăng ký hoàn toàn dựa trên nhu cầu kinh tế, xã hội và điều kiện tự nhiên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tế.

III. XÂY DỰNG CHỨC DANH ĐĂNG KÝ VIÊN

Theo nhóm nghiên cứu, tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của chức danh Đăng ký viên sẽ là:

a) Về chức trách: Là cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, trực tiếp giải quyết các đơn yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản theo thẩm quyền do pháp luật quy định và chịu trách nhiệm trực tiếp về việc giải quyết đơn nêu trên; nếu có sai sót, thì phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.

b) Về hiểu biết:

- Nắm được đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định pháp luật về dân sự, kinh tế, trong đó tập trung vào các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch, tài sản theo thẩm quyền.

- Nắm được kiến thức pháp lý

- Nắm được quy trình đăng ký, cung cấp thông tin, đáp ứng các yêu cầu về giải quyết đăng ký, cung cấp thông tin đúng quy định của pháp luật.

- Am hiểu tình hình kinh tế - xã hội nói chung, tình hình trong lĩnh vực công tác nói riêng, để từ đó có thể đề xuất các giải pháp để cải tiến, đổi mới quy trình đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch, tài sản.

- Biết tổ chức và phối hợp với các cơ quan đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch, tài sản khác, các cơ quan, tổ chức khác có liên quan để triển khai công việc đăng ký, cung cấp thông tin có hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của cải cách hành chính trong lĩnh vực này.

c) Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Đăng ký viên :

Xuất phát từ sự phân tích các vấn đề nêu trên và tình hình thực tế tại Việt Nam, để trở thành Đăng ký viên cần phải có đủ các tiêu chuẩn chủ yếu sau đây:

- Tốt nghiệp đại học Luật; đã qua thời gian tập sự nghiệp vụ;

-  Qua đào tạo về nghiệp vụ đăng ký giao dịch bảo đảm;

-  Trình độ tin học văn phòng (thành thạo).

d) Về chế độ lương, phụ cấp trách nhiệm

Về nguyên tắc, chế độ lương của Đăng ký viên giống như lương của công chức tốt nghiệp đại học. Nhóm nghiên cứu đề nghị xếp chức danh công chức Đăng ký viên cùng ngạch công chức như đối với chức danh Công chứng viên, do tính chất công việc của hai loại chức danh này có nhiều điểm gần giống nhau.

Ngoài các kiến nghị trên, nhóm nghiên cứu còn đưa ra một số kiến nghị về nâng cao hiệu quả phối hợp công tác giữa các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm và tăng cường ứng dụng tin học vào hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính./.



1 Chương 9 Bộ Luật Thương mại thống nhất của Mỹ

2 Nguyễn Thúy Hiền. Sự phát triển của pháp luật về bảo đảm an toàn tín dụng của Việt Nam - So sánh với pháp luật về bảo đảm an toàn tín dụng của CHLB Đức. Luận án Tiến sĩ Luật của Nguyễn Thúy Hiền, bản tiếng Đức. NXB các Luận án Tiến sĩ trên mạng -CHLB Đức, 2003, trang 200.

3 Nguyễn Ngọc Điện. Một số vấn đề về biện pháp bảo đảm trong pháp luật dân sự Việt Nam, 1999, trang 15, 16

4 Xem Secured Transactions Law Reform in Asia: Unleashing the Potential of Collateral (ADB, 2002)

5 Điều 325 Bộ Luật Dân Sự 2005

6 Luật hàng không dân dụng, 

7 Xem Secured Transactions Law Reform in Asia: Unleashing the Potential of Collateral

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về