• Thuộc tính
Tên đề tài Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
Nội dung tóm tắt

Trong nền kinh tế thị trường, việc ký kết các giao dịch bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhằm đáp ứng lợi ích không chỉ của người sử dụng vốn mà còn của người cung cấp tín dụng. Về phía người sử dụng vốn, các giao dịch bảo đảm giúp họ tiếp cận nguồn vốn đầu tư một cách thuận tiện, nhanh chóng với chi phí thấp. Về phía người cấp tín dụng, những giao dịch nêu trên sẽ góp phần hạn chế rủi ro đối với các khoản đầu tư. Như vậy, các giao dịch bảo đảm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khuyến khích hoạt động đầu tư vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh hoặc cho vay để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt.

Tuy nhiên, nếu việc ký kết, thực hiện các hợp đồng này chỉ có các bên biết với nhau, thì có thể xảy ra một số hiện tượng như: bên vay dùng chính tài sản đó để tiếp tục cầm cố, thế chấp nhiều nơi, nhiều lần mang tính chất lừa đảo hoặc cá nhân, tổ chức mua phải tài sản đang dùng để cầm cố, thế chấp, trong khi bên nhận cầm cố, thế chấp có quyền ưu tiên thanh toán, nên người mua không trở thành chủ sở hữu, nếu không ngay tình v.v... Ngoài ra, khi xử lý tài sản bảo đảm đã xảy ra không ít các tranh chấp về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm hoặc giữa những người có quyền, lợi ích liên quan. Nhằm ngăn chặn tình trạng nêu trên, một trong các biện pháp hữu hiệu nhất, đó là công khai hoá các giao dịch bảo đảm thông qua việc đăng ký các giao dịch đó tại cơ quan có thẩm quyền; đồng thời mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu về giao dịch bảo đảm đều được cung cấp thông tin.

Việc nghiên cứu đề tài “Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm trên cơ sở so sánh, phân tích các hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.

- Xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động và tổ chức đăng ký và cung cấp thông tin giao dịch bảo đảm tại Việt Nam.

- Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu nêu trên, đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm ở nước ta.

PHẦN 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

I. GIAO DỊCH BẢO ĐẢM - ĐỐI TƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

1. Khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam

Thuật ngữ “giao dịch bảo đảm” được chính thức sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta tại Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, v.v… Trong Bộ luật dân sự 2005, khái niệm “giao dịch bảo đảm” được thể hiện bao quát hơn cả: “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này”. Như vậy, tất cả các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp đều có thể được “gọi” dưới một cái tên chung là “giao dịch bảo đảm".

2. Khái quát về giao dịch bảo đảm trong hệ thống pháp luật của một số quốc gia

Theo pháp luật của các nước theo án lệ (common law), tiêu biểu là Mỹ và Canađa, khái niệm giao dịch bảo đảm1 (secured transactions) được hiểu là toàn bộ các giao dịch, không phụ thuộc vào hình thức và tên gọi, có mục đích tạo lập một quyền lợi được bảo đảm (secured interest) đối với tài sản riêng hoặc tài sản cố định, bao gồm: hàng hoá, giấy tờ (có giá) hoặc các tài sản vô hình khác; là giao dịch được thiết lập thông qua một thoả thuận bảo đảm (là thoả thuận trong đó quy định về hoặc tạo lập nên một lợi ích bảo đảm giữa chủ nợ và bên bảo đảm). Như vậy, giao dịch bảo đảm theo khái niệm trong luật án lệ không bị giới hạn về loại hình của giao dịch mà được xác định căn cứ vào mục đích thiết lập giao dịch. Do đó, các giao dịch bảo đảm không chỉ gồm những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo luật dân sự truyền thống, mà còn bao gồm cả các giao dịch khác như bảo lưu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần, chuyển nhượng quyền đòi nợ, quyền cầm giữ, thuê tài sản … Đối tượng của các giao dịch này là các động sản, bao gồm tài sản hữu hình và cả tài sản vô hình. Với tư duy pháp luật coi lợi ích bảo đảm là “gốc” của mọi giao dịch bảo đảm, pháp luật của Hoa Kỳ, New Zealand và một số bang của Canada không điều chỉnh chi tiết, riêng biệt đối với các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố, thế chấp bằng động sản v.v… mà điều chỉnh về lợi ích bảo đảm và các vấn đề liên quan đến việc thực hiện lợi ích bảo đảm. Do đó, tất cả các giao dịch làm phát sinh lợi ích bảo đảm, không phụ thuộc vào tên gọi của giao dịch, đều thuộc phạm vi áp dụng của pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này. Chính vì vậy, bên cạnh các biện pháp bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp, pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này còn được áp dụng với các giao dịch khác có tính chất bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ như thuê mua tài chính, gửi bán thương mại, chuyển nhượng nợ, cho thuê tài sản dài hạn.v.v… Các giao dịch làm phát sinh lợi ích bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ được gọi chung là giao dịch bảo đảm.

Ở các nước theo trường phái pháp luật thành văn, tiêu biểu là CH Pháp, CHLB Đức, Nhật Bản, không có khái niệm giao dịch bảo đảm như nêu trên, mà giao dịch bảo đảm được hiểu là các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, bảo lưu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần. Các quy định này tập trung chủ yếu trong Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.

 3. Phân biệt biện pháp bảo đảm đối vật và biện pháp bảo đảm đối nhân

Pháp luật của các nước theo trường phái pháp luật thành văn (civil law) thường phân biệt những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành hai nhóm: các biện pháp bảo đảm đối vật và các biện pháp bảo đảm đối nhân, ví dụ: Pháp luật dân sự của CHLB Đức2, CH Pháp, Nhật Bản3. Sự phân biệt này nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên và từ đó có phương pháp điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan một cách tương ứng.

Các biện pháp bảo đảm đối vật được hiểu là quyền được xác lập trực tiếp trên một vật cụ thể nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Nó có đối tượng là tài sản của người có nghĩa vụ hoặc của người thứ ba và người có quyền được yêu cầu xử lý tài sản đó theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Trong số các biện pháp bảo đảm đối vật, cầm cố, thế chấp là hai biện pháp cơ bản.

Tuy có những điểm khác biệt về hình thức xác lập, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch, nhưng các biện pháp bảo đảm đối vật theo hệ thống luật dân sự và các giao dịch bảo đảm theo hệ thống luật án lệ đều có một số đặc điểm chung như sau:

a) Xác lập các quyền đối với những tài sản cụ thể (là tài sản hữu hình hoặc vô hình).

b) Các quyền này đều có thứ tự ưu tiên cao hơn so với quyền của những chủ nợ khác không được bảo đảm thực hiện bằng chính tài sản đó.

c) Các quyền này không bị chấm dứt hoặc vô hiệu bởi các giao dịch được thiết lập sau đó liên quan đến tài sản bảo đảm.

Các biện pháp bảo đảm đối nhân được hiểu là người thứ ba cam kết với người có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ khi đến hạn mà người có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc có thực hiện nghĩa vụ, nhưng không đúng thỏa thuận. Biện pháp bảo đảm đối nhân có tính chất tiêu biểu là bảo lãnh. Khác với biện pháp bảo đảm đối vật, tài sản bảo đảm trong biện pháp bảo đảm đối nhân không được xác định cụ thể, mà là toàn bộ khối tài sản của bên bảo đảm. Việc cá thể hóa tài sản nào được phát mại để thanh toán cho bên có quyền thông thường được tiến hành sau khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận.

4. Một số nhận xét về khái niệm giao dịch bảo đảm trong hệ thống pháp luật Việt Nam với tư cách là đối tượng của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm

Trước tiên, có thể dễ dàng nhận thấy khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam hoàn toàn khác so với khái niệm giao dịch bảo đảm nêu tại Điều 9 Bộ luật thương mại thống nhât Hoa Kỳ (UCC). Khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam là sự liệt kê những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, không chỉ ra được những đặc điểm chung, cơ bản nhất của các giao dịch đó. Ngược lại, giao dịch bảo đảm theo Điều 9 UCC lại không phân biệt về hình thức giao dịch, các quyền phát sinh từ giao dịch mà chỉ căn cứ vào mục đích xác lập giao dịch đó là có xác lập nên lợi ích bảo đảm hay không. Do nội dung của giao dịch không có ý nghĩa trong việc xác định giao dịch đó có phải là giao dịch bảo đảm hay không, nên dẫn đến tính chất không xác định về hình thức của giao dịch. Do đó có thể thấy khái niệm giao dịch bảo đảm của chúng ta dường như gần gũi hơn với khái niệm giao dịch bảo đảm của bang Queebec. Thực chất, các giao dịch bảo đảm của Việt Nam là những biện pháp bảo đảm đối vật của hệ thống luật thành văn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đối với một số vấn đề, chúng ta đang áp dụng những nguyên tắc của hệ thống luật án lệ để giải quyết những giao dịch đó, mà tiêu biểu là cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản.

II. HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI VIỆC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM 

1. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm 

1.1. Hiệu lực của lợi ích bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật common law

a) Hiệu lực giữa các bên tham gia giao dịch

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật common law xác định thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực là thời điểm các bên tham gia giao dịch thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc thời điểm các bên ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia này, do lợi ích bảo đảm được xem là vấn đề mấu chốt trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đồng thời, hiệu lực của hợp đồng (thường phát sinh vào thời điểm các bên ký kết hợp đồng) trong nhiều trường hợp chưa hẳn đã làm phát sinh hiệu lực trên thực tế của lợi ích bảo đảm (ví dụ: cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai…) nên vấn đề được quan tâm nhiều hơn là xác định thời điểm lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực trên thực tế gắn với tài sản bảo đảm (attach to collateral).

Trong trường hợp tài sản bảo đảm là động sản, Điều 9-203 UCC, Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada đều quy định lợi ích bảo đảm “gắn” với tài sản bảo đảm, nếu thỏa mãn một số điều kiện cụ thể. Đối với trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản, quy định về việc lợi ích bảo đảm “gắn liền” với tài sản bảo đảm cũng tương tự như đối với động sản. Tuy nhiên, khi đáp ứng các điều kiện theo quy định thì lợi ích bảo đảm cũng chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia giao dịch, chứ không đương nhiên có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba.

b) Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

Lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba sau khi được hoàn thiện (perfect). Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm (perfection of security interest) được hiểu là việc công bố công khai sự tồn tại của lợi ích bảo đảm cho người thứ ba được biết. Sau khi hoàn thiện, người thứ ba tham gia giao dịch bảo đảm được coi là biết và có nghĩa vụ phải biết về sự tồn tại của lợi ích bảo đảm. Nói cách khác, “hoàn thiện” là cách thức để biến hợp đồng từ luật riêng giữa các bên tham gia thành luật chung đối với người thứ ba. Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm cũng là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên của lợi ích bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan tới tài sản bảo đảm. Trong trường hợp có hai hay nhiều lợi ích bảo đảm liên quan đến tài sản bảo đảm, thì lợi ích bảo đảm nào được hoàn thiện trước sẽ được ưu tiên thực hiện.

Theo các quy định tại Điều 9 UCC và các quy định tương tự tại Luật về bảo đảm của Canada và New Zealand, lợi ích bảo đảm được hoàn thiện sau khi đã gắn liền với tài sản bảo đảm, và chủ nợ có bảo đảm thực hiện hoàn thiện theo một trong các phương thức sau: chiếm hữu tài sản bảo đảm, kiểm soát tài sản bảo đảm hoặc đăng ký lợi ích bảo đảm. Về lý thuyết, một lợi ích bảo đảm có thể được hoàn thiện bằng nhiều phương thức. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra trên thực tế. Các bên tham gia giao dịch thường tùy vào loại tài sản bảo đảm để lựa chọn phương thức hoàn thiện thích hợp. 

1.2. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law

a) Hiệu lực giữa các bên tham gia giao dịch

Trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của đa số quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law, hiệu lực của giao dịch bảo đảm được xác định căn cứ vào quy định về hiệu lực của hợp đồng. Một số quốc gia không quy định cụ thể về thời điểm hợp đồng có hiệu lực, mà chỉ quy định về các điều kiện chủ yếu để hợp đồng có hiệu lực, theo đó, hợp đồng được coi là có hiệu lực khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định. Bên cạnh đó, cũng có những quốc gia quy định giao dịch bảo đảm phải được đăng ký mới có hiệu lực (ví dụ: CHLB Đức). Tuy nhiên, những quy định này chỉ áp dụng riêng đối với các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản.

b) Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law không có khái niệm “hoàn thiện” tương tự như pháp luật của các quốc gia theo hệ thống common law, cũng không quy định trực tiếp về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của giao dịch bảo đảm, mà quy định gián tiếp thông qua quyền ưu tiên và hiệu lực đối kháng với người thứ ba của quyền ưu tiên này. Đồng thời có sự phân biệt khá rõ ràng về các phương thức để giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, hay nói cách khác, để quyền ưu tiên phát sinh từ giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

2. Hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Qua nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, cho thấy việc đăng ký giao dịch bảo đảm có thể làm phát sinh một trong hai loại hiệu lực sau đây của giao dịch bảo đảm:

- Đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực.

- Đăng ký là điều kiện để vật quyền hay giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba.

2.2. Tại các quốc gia theo hệ thống civil law, hình thức của giao dịch bảo đảm đối với động sản phổ biến là cầm cố (chuyển giao tài sản). Do đó, không đặt ra vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản, bởi bản thân việc chuyển giao đã xác lập hiệu lực đối kháng với bên thứ ba. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ đặt ra đối với việc thế chấp bất động sản.

Hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản tại các quốc gia thuộc hệ thống này không giống nhau. Có thể tham khảo vấn đề nêu trên trong bảng dưới đây:

 

Pháp luật của Pháp

Pháp luật của Đức

Pháp luật của Nhật bản

Điều kiện hình thành vật quyền

Ký kết hợp đồng

Thoả thuận về vật quyền + đăng ký

Ký kết hợp đồng

Hình thái xác lập vật quyền

Nguyên tắc ý chí

Nguyên tắc hình thức

Nguyên tắc ý chí

Thời điểm xác lập vật quyền

Ký kết hợp đồng

Thời điểm đăng ký

Ký kết hợp đồng

Hiệu lực của việc đăng ký

Hiệu lực đối với bên thứ ba

Điều kiện xác lập quyền

Hiệu lực đối với bên thứ ba

Nghĩa vụ đăng ký

Bắt buộc

Không bắt buộc

Không bắt buộc

Công chứng giấy tờ đăng ký

Bắt buộc

Không bắt buộc

Không bắt buộc

 

2.3. Trong khi đó, tại các quốc gia như Mỹ, New Zealand, Canada …, bên cạnh việc đăng ký thế chấp bất động sản còn tồn tại việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản theo pháp luật của các quốc gia nêu trên chỉ làm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba.

III. ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM VÀ VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN

1. Thứ tự ưu tiên thanh toán trong giao dịch bảo đảm

1.1. Quy định về thứ tự ưu tiên của các lợi ích bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống common law

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống common law quy định về thứ tự ưu tiên (priority order) của các lợi ích bảo đảm khá phức tạp, theo đó, thứ tự ưu tiên của một lợi ích bảo đảm được hiểu là thứ tự ưu tiên thực hiện quyền đó đối với tài sản bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan đến tài sản đó trong trường hợp con nợ vi phạm cam kết về thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc thỏa thuận bảo đảm. Mặc dù khá phức tạp nhưng chúng đều tuân thủ những nguyên tắc cơ bản nhằm xác định thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích bảo đảm cùng liên quan đến một tài sản, cụ thể là:

- Đối với cùng một tài sản bảo đảm, lợi ích bảo đảm đã hoàn thiện luôn có thứ tự ưu tiên cao hơn lợi ích bảo đảm chưa hoàn thiện.

- Giữa hai lợi ích bảo đảm đã hoàn thiện, thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự hoàn thiện lợi ích bảo đảm (thứ tự đăng ký, chiếm hữu hoặc hoàn thiện tạm thời).

- Giữa các lợi ích bảo đảm chưa hoàn thiện, thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự lợi ích bảo đảm phát sinh trên thực tế gắn với tài sản bảo đảm (attachment).

Nguyên tắc này cũng được áp dụng để xác định thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích bảo đảm liên quan đến bất động sản.

1.2. Quy định về thứ tự ưu tiên giữa các quyền ưu tiên trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống civil law

Như đã trình bày ở trên, trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống Civil Law, thì vấn đề thứ tự ưu tiên trong giao dịch bảo đảm chỉ được đặt ra đối với bất động sản, bởi đối với động sản thì chủ nợ có bảo đảm thực hiện quyền chiếm giữ tài sản đó luôn được ưu tiên thanh toán. Giữa các quyền ưu tiên liên quan đến cùng một bất động sản được xác định theo một tiêu chí duy nhất là thứ tự đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm.

IV. NGUYÊN TẮC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo một trong hai nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất: Đăng ký thông báo;

Thứ hai: Đăng ký xác minh (hay còn gọi là đăng ký kèm theo giấy tờ chứng minh quyền lợi bảo đảm).

1. Theo nguyên tắc đăng ký thông báo, thì việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở Đơn yêu cầu đăng ký, không kèm theo giấy tờ chứng minh quyền lợi bảo đảm và chứng minh cho các nội dung được kê khai trong đơn. Hệ thống đăng ký thông báo có lợi thế cơ bản đó là: đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ đăng ký; việc thiết lập đăng ký nhanh chóng, tiết kiệm chi phí cho các bên tham gia giao dịch; bộ máy cơ quan đăng ký cũng như hệ thống lưu trữ thông tin, tài liệu đăng ký gọn nhẹ.

2. Với nguyên tắc đăng ký xác minh, thì việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở Đơn yêu cầu đăng ký và tùy từng trường hợp cụ thể còn kèm theo một số loại giấy tờ như: giấy tờ sở hữu, hồ sơ kỹ thuật, hợp đồng cầm cố, thế chấp. Quy trình đăng ký theo nguyên tắc này đòi hỏi sự kiểm tra của cán bộ đăng ký đối với các hồ sơ đăng ký. Lợi thế khi áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh là các thông tin có tính xác thực cao, đáng tin cậy. Tuy nhiên, hạn chế của nó đã được nhiều công trình nghiên cứu chỉ rõ: tốn kém thời gian, chi phí liên quan đến việc đăng ký, bộ máy cơ quan đăng ký cồng kềnh.

Có một điểm chung là nhiều nước áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh đối với đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản và chỉ trong một số trường hợp đối với động sản như tàu bay, tàu biển…Nguyên tắc đăng ký thông báo thường được áp dụng đối với việc đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng động sản. Hiện nay, việc thiết lập mô hình đăng ký thông báo đối với động sản là một xu hướng có tính phổ biến4, do các lợi thế mà hệ thống này đem lại, đặc biệt là trong việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế, bảo đảm giảm nhẹ chi phí quản lý, xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký cũng như các chi phí liên quan đến việc đăng ký cho các bên liên quan. Đồng thời tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch bảo đảm.

V. NỘI DUNG ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

Chỉ những thông tin nào thực sự cần thiết, đáp ứng yêu cầu của hệ thống đăng ký thì mới buộc các bên phải kê khai. Để bảo đảm mục tiêu thông báo về các vật quyền đối với tài sản, những thông tin cần phải đăng ký bao gồm: thông tin về bên bảo đảm, thông tin về bên nhận bảo đảm hoặc người có vật quyền đối với tài sản, mô tả tài sản.

VI. TỔ CHỨC HỆ THỐNG CƠ QUAN ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM   

1. Hệ thống cơ quan đăng ký tại Canada và Bắc Mỹ

Một trong những mô hình đăng ký phổ biến tại Bắc Mỹ là hệ thống “New Brunswick”. Các bang hoặc quốc gia theo mô hình này thực hiện đăng ký kinh doanh tập trung cùng với đăng ký giao dịch bảo đảm bằng cả động sản và bất động sản, tách khỏi hệ thống cơ quan đăng ký tài sản (đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng). Trong trường hợp đăng ký các giao dịch liên quan đến động sản, bất động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì khi kê khai nội dung đăng ký sẽ viện dẫn về nơi đăng ký và số đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đó. Ưu điểm của hệ thống cơ quan này là:

- Giúp xác định rõ ràng thứ tự ưu tiên thanh toán từ toàn bộ tài sản của bên vay, không kể tài sản đó có được đăng ký quyền sở hữu hay không;

- Giúp cho bên vay tra cứu dễ dàng hơn khi tìm hiểu thông tin về việc tài sản của bên vay đã được cầm cố, thế chấp hay chưa;

- Tạo điều kiện để bảo đảm bằng các động sản không có đăng ký sở hữu mà không phải giao tài sản đó cho bên nhận bảo đảm; tạo điều kiện cho việc nhận thế chấp, cầm cố cả những tài sản đang lưu thông để làm cơ sở cho việc cấp tín dụng- một phương thức phổ biến trong nền kinh tế thị trường phát triển;

- Giảm chi phí, thời gian, thủ tục cho những người muốn cấp tín dụng khi xem xét đến khả năng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của con nợ;

- Khi thực hiện hiện đại hoá hệ thống cơ quan đăng ký (vi tính hoá, ứng dụng đăng ký trực tuyến …) sẽ dễ dàng, nhanh chóng và ít tốn kém hơn so với việc thực hiện đồng bộ tại cả hệ thống cơ quan đăng ký được bố trí ở trung ương và địa phương.

Riêng tại một số bang của Canada, bộ phận đăng ký giao dịch bảo đảm được tổ chức tập trung với các bộ phận đăng ký khác (bao gồm cả cơ quan đăng ký tài sản) trong cùng một cơ quan (Ví dụ, đăng ký đất đai, đăng ký kinh doanh, đăng ký xe cộ).

Cơ quan này có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

Cung cấp hồ sơ thông tin được công khai hoá

Quản lý, phổ biến và lưu giữ các hồ sơ đó

Đảm bảo dễ sử dụng và khả năng tiếp cận dễ dàng đối với công chúng

2. Nhật Bản

Đăng ký là việc ghi một số nội dung vào Sổ theo quy định pháp luật nhằm mục đích công khai hoá nội dung đăng ký cho công chúng (như quyền lợi, chủ thể của các quyền v.v…) cho bên thứ ba là bên sẽ thực hiện giao dịch với một trong các bên đăng ký.

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm ở Nhật bản chủ yếu được thực hiện đối với bất động sản. Đây cũng là một trong những nội dung của đăng ký bất động sản. Ở Nhật bản không có một hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản riêng biệt mà do cơ quan đăng ký bất động sản thực hiện. Ngoài các bất động sản, động sản chỉ được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thông qua cầm cố. Do đó, Nhật Bản không có một hệ thống cơ quan nào thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Tuy nhiên, ngoài các bất động sản, giao dịch bảo đảm bằng quyền đòi nợ cũng được đăng ký. Và việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản này được thực hiện tập trung tại một trong số các cơ quan đăng ký bất động sản.

3. Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản tại Cộng hoà Pháp

Cũng như ở Nhật Bản, Cộng hoà Pháp không có hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản chỉ có hiệu lực đối với người thứ ba thông qua việc chuyển giao tài sản đó cho chủ nợ (cầm cố), do vậy việc công bố công khai quyền của chủ nợ đối với tài sản bảo đảm qua hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm là không cần thiết. Đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản: đây được coi như một trong các giao dịch về bất động sản. Do đó, được thực hiện đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký bất động sản.

Hệ thống đăng ký bất động sản (bao gồm cả đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản) ở Pháp có nhiều điểm tương đồng với hệ thống đăng ký bất động sản ở Nhật Bản. Cụ thể: mô hình cơ quan đăng ký cũng được tổ chức tập trung theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương, quản lý tập trung, thống nhất trong cả nước. Các Văn phòng trong hệ thống được phân định thẩm quyền theo địa giới hành chính và có địa vị pháp lý như nhau.

Cơ quan thực hiện việc đăng ký (công bố) các giao dịch về bất động sản là Phòng đăng ký giao dịch bảo đảm đối với bất động sản (gọi tắt là Phòng đăng ký giao dịch bảo đảm). Tuy có tên gọi là đăng ký giao dịch bảo đảm, nhưng trên thực tế, Phòng này đăng ký toàn bộ các giao dịch mà hậu quả pháp lý là xác lập các vật quyền đối với bất động sản, ví dụ như: mua bán, thế chấp, quyền hưởng dụng, quyền địa dịch, quyền ưu tiên mua … Cả nước Pháp hiện nay có 354 Phòng đăng ký, được chia thành 6 hạng. Số lượng cán bộ đăng ký mỗi Phòng do Bộ Tài chính, kinh tế và công nghiệp quyết định, căn cứ vào khối lượng công việc đã quy định (ví dụ: quy định trung bình mỗi cán bộ phải giải quyết 2.400 hồ sơ/năm. Nếu Phòng phải giải quyết trung bình 36.000 hồ sơ/năm, thì số lượng nhân viên là 15 người).

PHẦN II. THỰC TRẠNG ĐĂNG KÝ, CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM Ở VIỆT NAM

I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ, CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

1. Nhận xét chung

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó phải kể đến Bộ Luật Dân sự, Bộ luật hàng hải, Luật Hàng không dân dụng, Luật Đất đai, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính... Các văn bản này đã tạo thành khung pháp luật quan trọng cho lĩnh vực đăng ký nêu trên. Cho đến nay, có thể nói rằng trong mọi lĩnh vực đăng ký chuyên ngành đều đã có các văn bản hướng dẫn thi hành. Qua việc áp dụng cho thấy, hầu hết các văn bản này đều đáp ứng được nhu cầu thực tế, rõ ràng, dễ hiểu, khả thi và phù hợp pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số quy định lạc hậu hoặc còn thiếu một số quy định cần thiết, đòi hỏi sớm được sửa đổi, bổ sung.

2. Một số hạn chế cơ bản của hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Hạn chế về phạm vi giao dịch bảo đảm được đăng ký

2.1.1. Về các trường hợp đăng ký

Các giao dịch bảo đảm thuộc diện đăng ký được quy định tại Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, tài sản cho thuê tài chính cũng được đăng ký theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 16/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.

Phạm vi đăng ký nêu trên có một số hạn chế như sau:

a)  Các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm không đăng ký các giao dịch bảo đảm khác khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức

b) Không bảo đảm xác định đầy đủ thứ tự các quyền ưu tiên thanh toán của các chủ nợ trong các giao dịch khác có liên quan đến tài sản bảo đảm.

2.2. Hạn chế về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán căn cứ vào thời điểm đăng ký

2.2.1. Pháp luật hiện hành của Việt Nam về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán

Bộ Luật Dân sự 2005 quy định chủ nợ có bảo đảm được ưu tiên thu hồi nợ từ xử lý tài sản bảo đảm5. Trong trường hợp tài sản có đăng ký sở hữu được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, nhiều chủ nợ, thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác lập theo nguyên tắc thứ tự đăng ký6 - đăng ký trước có quyền ưu tiên trước. Tuy nhiên, quy tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán hiện hành của Việt Nam chưa giải quyết được thực tế khi tài sản được bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, nhiều chủ nợ và có chủ nợ đăng ký giao dịch bảo đảm, có chủ nợ lại chiếm giữ tài sản.

Điều 9 Bộ Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) đã đưa ra các trường hợp ngoại lệ khi xác định thứ tự ưu tiên thanh toán. Theo đó, nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán theo thời điểm đăng ký hoặc chuyển giao tài sản không được áp dụng đối với các chủ nợ cấp tín dụng cho bên nợ để mua tài sản mới. Ngoại lệ này mở rộng khả năng tiếp cận của bên nợ để có tín dụng, tài sản mới khi đã cam kết sử dụng tài sản bảo đảm bằng toàn bộ (cam kết bảo đảm chung), đồng thời cũng thúc đẩy khả năng tài trợ của chủ nợ, bảo đảm an toàn, công bằng hơn cho quyền lợi của chủ nợ.

2.3. Hạn chế về phương thức đăng ký

2.3.1. Đăng ký bằng giấy – phương thức chủ yếu của hệ thống đăng ký hiện hành của Việt Nam

Hiện nay, các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm đều dựa trên phương thức đăng ký, cung cấp thông tin bằng giấy.

Phương thức này có lợi thế về bằng chứng yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, nhưng lại phát sinh một số hạn chế như sau:

a. Thời gian hoàn thành việc đăng ký giao dịch bảo đảm cũng như tra cứu thông tin về giao dịch bảo đảm bị kéo dài, gây tốn kém cho các bên liên quan.

b. Có khoảng trống thông tin về giao dịch bảo đảm từ thời điểm nhận đơn đến thời điểm đơn được ghi nhận trong Sổ Đăng ký hoặc trong Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm. Từ đó, có thể gây rủi ro cho người yêu cầu cung cấp thông tin trong khoảng thời gian giải quyết đơn. Chính vì vậy, ở Bang Caliphonia của Hoa Kỳ (là nơi thực hiện việc đăng ký bằng giấy), chủ nợ thường phải lấy thông tin hai lần đối với một giao dịch bảo đảm. 

c. Có thể phát sinh sai sót trong việc nhập dữ liệu từ đơn yêu cầu đăng ký vào Sổ Đăng ký hoặc Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm.

d. Chi phí liên quan đến việc đăng ký, gửi đơn đăng ký cũng gia tăng, nếu địa điểm đăng ký ở xa.

2.4. Hạn chế trong quy định về mô tả tài sản bảo đảm

Một trong yếu điểm của hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm của những nước có nền kinh tế chuyển đổi tương tự như Việt Nam, có truyền thống lập pháp kiểu civil law, đó là yêu cầu mô tả tài sản bảo đảm quá chi tiết7.

Ngoài ra còn có một số hạn chế khác trong pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm cần sớm được sửa đổi bổ sung.

II. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CƠ QUAN ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

1. Mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm 

Theo quy định hiện hành, thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam được xác định căn cứ theo loại tài sản bảo đảm là bất động sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất), tàu bay, tàu biển hay các động sản khác (trừ tàu bay, tàu biển). Mô hình tổ chức của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam được khái quát bằng sơ đồ dưới đây:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mô hình trên cho thấy, hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam hiện nay được tổ chức phân tán, chưa có sự tập trung. Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản mới chỉ tập trung ở mức độ tương đối, vì việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện tại Chi cục đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam, các động sản khác (trừ tàu bay, tàu biển) được đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp. Trong khi đó, việc đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được thực hiện tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, tổ chức theo đơn vị hành chính ở cấp tỉnh và cấp huyện.

Trên cơ sở nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận thấy, mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam hiện bộc lộ những ưu điểm và nhược điểm sau

1.1. Ưu điểm

a) Các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tàu bay, tàu biển được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng và các biến động khác liên quan đến tình trạng pháp lý của tài sản. Do vậy, đã tạo thuận lợi cho việc theo dõi lịch sử các biến động của các tài sản nêu trên. Khi muốn tìm hiểu thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm chỉ cần nộp đơn tại một cơ quan là có thể nhận được những thông tin cần thiết cho phép xác định chủ sở hữu tài sản, tình trạng biến động của tài sản.

b) Với điều kiện địa lý của Việt Nam, hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được tổ chức đến cấp huyện, sẽ góp phần đảm bảo sự thuận tiện cho việc đăng ký và tìm hiểu thông tin trực tiếp của người dân trong lĩnh vực này.

c) Đối với các giao dịch bảo đảm bằng động sản được tổ chức đăng ký tương đối tập trung, nên đã giảm được các chi phí đăng ký, tìm hiểu thông tin và thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất đối với một số lĩnh vực, như các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển và các động sản khác.

1.2. Nhược điểm

Mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam, nhất là đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản hiện chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, đó là: An toàn (đảm bảo xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán), thân thiện với người sử dụng (tổ chức, cá nhân dễ dàng tiếp cận với dịch vụ đăng ký), tiết kiệm (giảm thiểu chi phí khi khách hàng tiến hành đăng ký, tìm hiểu thông tin về các giao dịch bảo đảm) và hiệu quả (với sự trợ giúp của các trang thiết bị trong quá trình đăng ký, giúp cho việc đăng ký được thực hiện nhanh nhất, với chi phí khiêm tốn nhất).

2. Hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm 

2.1. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp

Trên cơ sở kết quả hoạt động của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, có thể rút ra những kết luận sau:   

a) Về kết quả đăng ký

Kể từ khi chính thức triển khai hoạt động đăng ký cho đến cuối tháng 7/2006, các Trung tâm thuộc Cục Đăng ký đã tiếp nhận và giải quyết gần 80.000 hồ sơ yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, cho thuê tài chính. Kết quả thống kê cho thấy, số lượng các giao dịch bảo đảm được đăng ký năm sau cao hơn năm trước. Điều này chứng tỏ xu hướng phát triển của đăng ký giao dịch bảo đảm về quy mô, tổ chức, phương thức hoạt động trước sự vận động của nền kinh tế thị trường là kịp thời và đúng đắn. Tuy nhiên, việc đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký này cũng bộc lộ những hạn chế như: thời gian thực hiện đăng ký chưa đáp ứng tốt nhất yêu cầu đặt ra của nguyên tắc đăng ký thông báo; tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sai sót, nhầm lẫn trong quá trình nhập liệu; chi phí phục vụ cho việc đăng ký, cung cấp thông tin cao; khách hàng ở xa gặp khó khăn về chi phí khi tiếp cận với cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm...   

Bên cạnh đó, sự hạn chế về số lượng đơn yêu cầu cung cấp thông tin thời gian qua do một trong những nguyên nhân quan trọng đó là sự nhận thức chưa đúng đắn của các tổ chức, cá nhân trong xã hội về tầm quan trọng và lợi ích của các thông tin được cung cấp khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự - kinh tế và đặc biệt là khi pháp luật chưa có quy định thừa nhận thông tin do cơ quan đăng ký có thẩm quyền cung cấp là chứng cứ không cần phải chứng minh trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm.  

b) Về quy trình đăng ký

Thời gian qua, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã triển khai một quy trình đăng ký đơn giản, nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng có điều kiện tiếp cận với hệ thống đăng ký. Nguyên tắc được áp dụng trong quá trình đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là nguyên tắc đăng ký thông báo. Với quy trình đăng ký hiện nay, các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản đặt ra đối với một hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Đội ngũ cán bộ đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm hiện đáp ứng tốt những yêu cầu đặt ra trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm về năng lực và chuyên môn nghiệp vụ. Cán bộ đăng ký đã được bồi dưỡng và được tạo điều kiện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đăng ký, đáp ứng tốt những yêu cầu đặt ra trong điều kiện hiện nay. Do vậy, đội ngũ cán bộ đăng ký đã góp phần tạo lòng tin cho khách hàng khi tiếp cận với hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc thẩm quyền đăng ký.

2.2. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Phòng Pháp chế phối hợp với các bộ phận có liên quan thụ lý hồ sơ xin đăng ký và cấp chứng chỉ đăng ký; Ban an toàn ghi chép các chi tiết đăng ký vào Sổ đăng bạ tàu bay.

a) Về kết quả đăng ký

Theo số liệu thống kê, trong 2 năm (2003 - 2004), Cục Hàng không dân dụng Việt Nam mới chỉ thực hiện đăng ký được 09 giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, trong đó năm 2003 có 03 giao dịch và năm 2004 có 06 giao dịch được đăng ký. Điều này cho thấy các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay ở Việt Nam hiện không nhiều với số lượng hồ sơ xin đăng ký thế chấp bằng tàu bay tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam không thường xuyên.

b) Về quy trình đăng ký

Cục Hàng không dân dụng Việt Nam hiện áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh. Theo đó, việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở thẩm tra, đối chiếu những thông tin trong hồ sơ đăng ký của khách hàng với các thông tin được lưu trữ tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam về chủ sở hữu, về tình trạng pháp lý - kỹ thuật của tàu bay được dùng làm tài sản bảo đảm. Cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay phải chịu trách nhiệm pháp lý về tính xác thực của hợp đồng.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Theo thông báo của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay do cán bộ, chuyên viên pháp chế của Cục đảm nhiệm. Cục Hàng không dân dụng Việt Nam chưa bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay và chưa tổ chức tập huấn về nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ đăng ký hoạt động kiêm nhiệm.

2.3. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm Chi cục đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam

Hiện nay, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện tại 3 cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực đặt tại: Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh.

a) Về kết quả đăng ký

Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, số lượng tàu biển được đăng ký thế chấp năm 2003 là 76 trường hợp, năm 2004 là 123 trường hợp.

b) Về quy trình đăng ký

Theo quy định hiện hành, quy trình đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện theo nguyên tắc đăng ký xác minh.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Hiện nay, đội ngũ cán bộ đăng ký của các giao dịch bảo đảm bằng tàu biển là những cán bộ, công chức của cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, trực thuộc Chi cục hàng hải Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh. Đội ngũ cán bộ đăng ký thuộc lĩnh vực này cũng hoạt động mang tính kiêm nhiệm. Do được sự hướng dẫn về nghiệp vụ đăng ký từ các cán bộ pháp luật của Cục Hàng hải Việt Nam, nên việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện an toàn, đúng pháp luật.

2.4. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

Tháng 9 năm 2004, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp đã tiến hành khảo sát về thực trạng đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại một số tỉnh, thành phố thuộc ba khu vực Bắc, Trung, Nam. Kết quả khảo sát cho thấy, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hiện còn nhiều bất cập cần nhanh chóng khắc phục.

a) Kết quả đăng ký tại một số địa phương

Theo kết quả khảo sát, số lượng các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được đăng ký ngày càng tăng. Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, công tác đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất chưa được triển khai đồng bộ và rộng khắp. Trên cơ sở báo cáo của 24 địa phương về việc triển khai công tác đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, cho thấy công tác này hiện còn nhiều vấn đề như: Việc triển khai công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các địa phương có sự không đồng đều; Sự chậm chễ trong việc kiện toàn tổ chức, hoạt động của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tại một số nơi đã dẫn đến những khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện quy định về đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Số lượng thế chấp được đăng ký, mà bên thế chấp là hộ gia đình, cá nhân chiếm tỷ lệ chủ yếu; Công tác thống kê về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chưa được quan tâm đúng mức.

b) Về quy trình đăng ký

Kết quả khảo sát cho thấy, ở một số địa phương, cơ quan đăng ký chưa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Phần lớn đội ngũ cán bộ đăng ký, đặc biệt là cán bộ xã, phường, thị trấn chưa được bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ đăng ký; trình độ, năng lực rất hạn chế, đặc biệt là cấp xã hiện vẫn chưa có cán bộ đăng ký tốt nghiệp Đại học Luật, mà chủ yếu tự nghiên cứu các quy định của pháp luật trong điều kiện các văn bản pháp luật không được cung cấp, cập nhật đầy đủ và kịp thời. Mặt khác, số lượng cán bộ trực tiếp đăng ký tại các địa phương rất mỏng, thực hiện kiêm nhiệm việc đăng ký, chưa có cán bộ chuyên trách. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn không ổn định do có sự luân chuyển theo nhiệm kỳ bầu cử.

3. Về mức độ ứng dụng tin học trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam

3.1. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm bước đầu đã được vi tính hoá, nối mạng, đáp ứng được nhu cầu đăng ký, tìm hiểu thông tin của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, qua đó cho phép xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các nghĩa vụ được bảo bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển) và tình trạng pháp lý của động sản trong các giao dịch dân sự - kinh tế. Tuy nhiên, các thao tác nghiệp vụ của cán bộ đăng ký vẫn mang tính thủ công, vì việc nhập liệu được thực hiện trên cơ sở thông tin được người yêu cầu đăng ký kê khai trong đơn.

3.2. Theo Cục Hàng hải Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải, hiện nay, Cục Hàng hải Việt Nam đã triển khai xây dựng, lắp đặt xong mạng đăng ký tàu biển và thuyền viên trên cả nước và đưa vào sử dụng từ tháng 01 năm 2005. Thông qua mạng thông tin được kết nối giữa các cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, khách hàng có thể truy cập, tìm kiếm và được cung cấp thông tin theo các tiêu chí nhất định.

3.3. Theo Cục Hàng không dân dụng Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải thì cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay hiện sử dụng chung với các trang thiết bị của ngành hàng không, do số lượng các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay trên thực tế không nhiều. Để thực hiện mục tiêu vi tính hoá, nối mạng nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về các giao dịch bảo đảm, đòi hỏi Nhà nước phải có sự đầu tư kinh phí, con người và phương tiện vật chất - kỹ thuật. Tuy nhiên, khó khăn này có thể khắc phục được do công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tập trung tại duy nhất một cơ quan, đó là Cục Hàng không dân dụng Việt Nam.

3.4. Trong khi đó, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các địa phương còn rất nghèo nàn, lạc hậu, chưa có sự đầu tư thoả đáng.

III. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM  

Theo quy định hiện hành, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất về đăng ký giao dịch bảo đảm và Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là cơ quan thuộc Bộ Tư pháp, chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; Bộ Giao thông vận tải thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển, tàu bay và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất tại địa phương.

1. Kết quả đạt được

1.1. Về công tác xây dựng pháp luật

a) Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, như: Quyết định số 412/2001/QĐ-BTP ngày 26/10/2001 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp kèm theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp; Thông tư số 01/2002/TT-BTP ngày 28/9/2002 hướng dẫn một số vấn đề về thẩm quyền, trình tự thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại Cục Đăng ký QGGD BĐ thuộc Bộ Tư pháp và các Chi nhánh; Thông tư số 04/2002/TT-BTP ngày 22/02/2002 hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về tài sản cho thuê tài chính và việc quản lý Nhà nước về đăng ký tài sản cho thuê tài chính (gọi tắt là Thông tư số 04). Đồng thời, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch số 03/2003/TTLT-BTP-BTNMT ngày 04/7/2003 hướng dẫn về việc đăng ký, cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 03), Thông tư liên tịch số 05, Thông tư liên tịch số 03 sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 05 và phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 33/2002/TTLT-BTC-BTP về phí và lệ phí đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm và tài sản cho thuê tài chính. Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn tham gia góp ý, thẩm định Thông tư số 01/2004/TT-BGTVT ngày 16/1/2004 của Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn việc đăng ký tàu bay và đăng ký các quyền đối với tàu bay, trong đó có việc đăng ký thế chấp tàu bay.

Để đáp ứng những đòi hỏi của đời sống kinh tế - xã hội, nhằm đảm bảo tính thống nhất trong các văn bản pháp luật, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng Dự thảo Pháp lệnh về đăng ký giao dịch bảo đảm (hiện đã có dự thảo số 5) và dự thảo Luật Đăng ký bất động sản (hiện đã có dự thảo số 11), dự thảo Thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 33...

b) Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu bay, tàu biển, Bộ Giao thông vận tải.

c) Từ sau khi có Chỉ thị số 21/2003/CT-TTg ngày 02/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có những chuyển biến tích cực. Uỷ ban nhân dân một số địa phương đã ban hành Chỉ thị, Kế hoạch nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác đăng ký, cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ở địa phương như: Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu, Yên Bái, Đồng Nai, Hải Dương, TP Hồ Chí Minh, TP Hải Phòng..., trong đó xác định rõ cơ quan chuyên môn có tránh nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.

d) Theo quy định tại Nghị định số 08, Bộ Tài nguyên và Môi trường không phải là cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm nhưng với chức năng là cơ quan chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

1.2. Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Ngoài việc tổ chức Toạ đàm, mở các lớp tập huấn, phát hành các Số báo chuyên đề..., một Website về đăng ký giao dịch bảo đảm đã được xây dựng và đưa vào sử dụng nhằm phục vụ  công tác tuyên truyền về đăng ký giao dịch bảo đảm. 

1.3. Về công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ và ban hành, hướng dẫn theo thẩm quyền việc sử dụng các mẫu đơn, giấy tờ, sổ đăng ký 

Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành và hướng dẫn việc sử dụng thống nhất các loại biểu mẫu, giấy tờ phục vụ cho công tác đăng ký như: sổ đăng ký giao dịch bảo đảm, mẫu đơn yêu cầu đăng ký... nhằm chuẩn hoá các thông tin về giao dịch bảo đảm được đăng ký, đáp ứng kịp thời và đầy đủ yêu cầu của công tác quản lý về đăng ký giao dịch bảo đảm. 

1.4. Một số vấn đề khác trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm         

a) Chế độ tổng hợp và báo cáo về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm đã được Bộ Tư pháp thực hiện nghiêm túc theo định kỳ.

b) Công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đăng ký giao dịch bảo đảm cho cán bộ đăng ký (nhất là cán bộ đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng động sản) đã được Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành có liên quan triển khai kịp thời, thường xuyên.

2. Những hạn chế còn tồn tại trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Hệ thống văn bản pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm còn tản mát, chưa được pháp điển hoá trong những văn bản pháp luật có tính ổn định cao như: Luật, Pháp lệnh. Bên cạnh đó, vẫn có những quy định không phù hợp với tính chất của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường, chưa thúc đẩy nhanh sự hình thành và vận động của thị trường tài chính.

2.2. Việc ban hành một số văn bản pháp luật không kịp tiến độ theo chương trình xây dựng pháp luật đã đề ra. Mặt khác, trong thực tế, nhiều văn bản pháp luật như Luật, Nghị định được ban hành và có hiệu lực, nhưng không thể triển khai thực hiện do thiếu văn bản hướng dẫn.

2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ đăng ký chưa được thực hiện thường xuyên và chưa được chú trọng đúng mức.

2.4. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được thực hiện sâu rộng và hiệu quả, vẫn còn không ít tổ chức và cá nhân trong xã hội chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vai trò, ý nghĩa và nội dung các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm, dẫn đến cách hiểu, cách thực hiện chưa thống nhất, chưa đúng pháp luật.

2.5. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và công tác kiểm tra việc thực hiện quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được một số cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này chú trọng đúng mức làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả của công tác đăng ký, dẫn đến tình trạng quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm có nơi được áp dụng chưa đúng, song, chậm bị phát hiện và xử lý.

2.6. Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm chưa được thiết lập đã hạn chế hiệu quả họat động của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam.

2.7. Thời gian qua, nhiều Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, vẫn còn hiện tượng buông lỏng trong công tác quản lý, cụ thể như: chưa xác định cơ quan chuyên môn có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; chưa xây dựng đội ngũ cán bộ đăng ký có trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao; chưa đảm bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho công tác đăng ký, chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thống kê số liệu về đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương.        

IV. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN DẪN ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TẠI VIỆT NAM

1. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm

1.1. Trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm chưa thực sự đơn giản, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Thời gian thực hiện các thủ tục đăng ký kéo dài, có thể phát sinh thiệt hại cho các chủ thể do cơ hội kinh doanh bị bỏ qua.

1.2. Pháp luật về đăng ký bất động sản chậm được hoàn thiện, nhiều quy định chưa cụ thể, rõ ràng (nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà Luật Đăng ký bất động sản chưa được ban hành).

1.3. Sự thiếu tương thích của mô hình tổ chức hệ thống cơ quan đăng ký các giao dịch bảo đảm hiện là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của hệ thống đăng ký.

1.4. Theo kết quả khảo sát, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến yếu kém trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các địa phương là do cơ sở vật chất - kỹ thuật và đội ngũ cán bộ đăng ký còn nhiều hạn chế.

2. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Các thiết chế quan trọng để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm vẫn còn hạn chế.

2.2. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa kịp thời, khoa học, dẫn đến khó khăn trong đề xuất cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.

2.3. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương.

2.4. Ở Việt Nam, hiện vẫn còn thiếu các chuyên gia pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, đặc biệt là tại các địa phương, nên việc tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tế về chuyên môn chưa kịp thời, có trường hợp không chính xác, dẫn đến việc áp dụng, thi hành pháp luật của một số cơ quan đăng ký không thống nhất, thiếu chính xác.

PHẦN III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ, CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

I. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã và đang phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng dự thảo Pháp lệnh Đăng ký giao dịch bảo đảm. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra các đề xuất về nội dung Dự thảo. Trong đó có các vấn đề chủ yếu sau đây: 

1. Về phạm vi áp dụng: mở rộng phạm vi áp dụng, cụ thể là: quy định về thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và trình tự, thủ tục đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm; được áp dụng thống nhất đối với các cá nhân là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài; tổ chức trong nước và nước ngoài, nếu giao dịch bảo đảm được giao kết, thực hiện tại Việt Nam hoặc tài sản bảo đảm có tại Việt Nam.

2. Về nguyên tắc đăng ký:  Dự thảo cần quy định, đối với tài sản bảo đảm là động sản, thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm mang tính tự nguyện và việc đăng ký được thực hiện theo nguyên tắc đăng ký thông báo, nguyên tắc công khai các giao dịch đã đăng ký cho mọi người có nhu cầu tìm hiểu. Các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản cũng được đăng ký theo nguyên tắc thông báo đối với những trường hợp phải công chứng, chứng thực. Còn đối với những trường hợp dùng bất động sản khác để thế chấp, do hiện nay chưa có quy định về đăng ký sở hữu các tài sản đó, nên cơ quan đăng ký không thể kiểm tra và đứng ra bảo đảm về tính hợp pháp của giao dịch. Do đó, dự thảo cần quy định các bên chịu trách nhiệm về nội dung đăng ký đối với các trường hợp bảo đảm bằng tài sản không có đăng ký quyền sở hữu.

3. Nội dung đăng ký: Những nội dung thông tin đăng ký được xác định gồm có:

* Đối với đơn yêu cầu đăng ký lần đầu có các nội dung chủ yếu sau đây: Thông tin đầy đủ về bên bảo đảm và bên được bảo đảm; Mô tả về tài sản bảo đảm; Mô tả về nghĩa vụ được bảo đảm hoặc quyền được xác lập đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể mô tả theo giá trị, phạm vi hoặc theo cơ sở pháp lý để xác lập nghĩa vụ hoặc quyền đó.

* Đối với đơn yêu cầu sửa đổi, bổ sung đăng ký, gia hạn đăng ký, xoá đăng ký gồm có những nội dung chủ yếu sau đây: Thông tin về yêu cầu đăng ký cần sửa đổi, bổ sung, gia hạn, xoá; Thông tin về người yêu cầu đăng ký, trừ trường hợp đăng ký qua mạng; Nội dung và thông tin cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung đăng ký, gia hạn đăng ký, xoá đăng ký.

Ngoài ra, Dự thảo cần đưa ra nguyên tắc chung về việc mô tả tài sản, đó là: tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung chung, nhưng cần phải rõ ràng, phù hợp với thoả thuận của các bên và không gây nhầm lẫn cho người tìm hiểu thông tin về tài sản bảo đảm, lợi ích được bảo đảm, đồng thời có hướng dẫn về việc mô tả tài sản bảo đảm trong một số trường hợp cụ thể.

So với quy định của pháp luật hiện hành, dự thảo có thể đưa ra một số phương án nhằm xác định thứ tự ưu tiên giữa các quyền, lợi ích cùng được xác lập đối với một tài sản thông qua việc mô tả tài sản khi đăng ký.

4. Giá trị pháp lý của việc đăng ký và nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên

a) Về giá trị pháp lý của việc đăng ký

Việc đăng ký làm giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý với người thứ ba và thời điểm đăng ký là căn cứ xác định thứ tự ưu tiên giữa các nghĩa vụ được bảo đảm bằng một tài sản hoặc có liên quan đến cùng một tài sản. Đây là điểm quan trọng trong việc thực hiện đăng ký theo nguyên tắc thông báo. Thông thường, hợp đồng bảo đảm được ký kết chỉ có giá trị pháp lý đối với các bên tham gia ký kết hợp đồng đó (được coi là luật của các bên tham gia hợp đồng). Tuy nhiên, thông qua việc đăng ký (và một số phương thức công khai hoá khác), hợp đồng bảo đảm sẽ có giá trị pháp lý đối với người thứ ba bởi đã được công bố công khai cho công chúng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, với giá trị pháp lý nêu trên, thì việc đã thực hiện đăng ký không phải là căn cứ pháp lý để xác lập quyền đối với tài sản bảo đảm, cũng như không làm cho giao dịch có nội dung vi phạm pháp luật trở nên có hiệu lực pháp lý.

Các trường hợp không thừa nhận giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm

Về nguyên tắc, việc đăng ký giao dịch bảo đảm làm phát sinh các giá trị pháp lý theo quy định của Pháp lệnh này. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp, thì việc xem xét, quyết định về giá trị pháp lý của việc đăng ký sẽ do Toà án quyết định căn cứ vào các yếu tố sau đây:

- Trừ trường hợp giao dịch bảo đảm được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực pháp lý đối với người thứ ba, nếu tại thời điểm xem xét về hiệu lực của việc đăng ký, giao dịch bảo đảm có đầy đủ các điều kiện sau đây:

+ Văn bản thể hiện giao dịch bảo đảm đã được các bên ký kết, trong đó có mô tả về tài sản bảo đảm;

+ Tiền hoặc lợi ích khác đã được bên được bảo đảm trao cho bên bảo đảm;

+ Bên bảo đảm có quyền đối với vật bảo đảm theo quy định của pháp luật.

- Giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm không phát sinh trong các trường hợp sau đây:

+ Căn cứ xác lập quyền của bên được bảo đảm bị tuyên bố là vô hiệu;

+ Việc đăng ký giao dịch bảo đảm không được thực hiện tại cơ quan đăng ký có thẩm quyền.

b) Về việc xác định thứ tự ưu tiên

Theo quy định tại dự thảo Pháp lệnh thì thứ tự ưu tiên giữa các nghĩa vụ cùng được bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thời điểm đăng ký hoặc phát sinh giá trị pháp lý đối với người thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

5. Cơ quan đăng ký

Dự thảo Pháp lệnh cần quy định những vấn đề về tổ chức, thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, trong đó có hai phương án về mô hình tổ chức sau đây: đó là tổ chức phân tán (như hiện thời); phương án 2 là đăng ký tập trung (Việc đăng ký các loại giao dịch bảo đảm được đăng ký tập trung tại một hệ thống cơ quan có thẩm quyền đăng ký). 

Cơ quan đăng ký phải bảo đảm việc đăng ký theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Pháp lệnh này và chịu trách nhiệm duy trì khả năng tra cứu thông tin theo một số tiêu chí do Pháp lệnh quy định. Cơ quan đăng ký không kiểm tra tính hợp pháp của các thông tin nêu trong đơn yêu cầu đăng ký. Nội dung này do các bên tự chịu trách nhiệm với nhau và trước pháp luật.

6. Tra cứu, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm

Dự thảo Pháp lệnh cần quy định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc trong quá trìnnh tra cứu, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm, bao gồm quyền tiếp cận thông tin được lưu giữ tại cơ quan đăng ký; các phương thức tiếp cận thông tin; nguyên tắc cung cấp thông tin; thẩm quyền cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm đã đăng ký. Quan trọng nhất đó là cần quy định mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền tìm hiểu thông tin một cách dễ dàng, thuận tiện.

7. Quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

Dự thảo cần quy định hoạt động quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, bao gồm quy định về nội dung quản lý nhà nước về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm; cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó. Dự thảo pháp điển hoá các quy định tương tự trong Nghị định số 08.

 8. Về một số nội dung khác

a) Về thời điểm đăng ký

Dự thảo cần quy định thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản là thời điểm các thông tin về giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm đó có thể được tra cứu trên Cơ sở dữ liệu các giao dịch bảo đảm hoặc trong Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm. Để tránh việc Đăng ký viên có thể không khách quan trong qúa trình đăng ký hoặc chậm đưa thông tin vào Cơ sở dữ liệu các giao dịch bảo đảm hoặc trong Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm, cần quy định rõ trách nhiệm của họ khi có vi phạm.

b) Về việc sửa đổi, bổ sung đăng ký khi tài sản trong tương lai được hình thành trong trường hợp đã đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai

Dự thảo cần thể hiện quan điểm không cần sửa đổi, bổ sung đăng ký khi tài sản trong tương lai được hình thành trong trường hợp đã đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai. Lý do là dự thảo đã cho phép mô tả tài sản và nghĩa vụ được bảo đảm một cách chung chung tại đơn. Do đó, việc tài sản trong tương lai được hình thành không làm thay đổi khả năng xác định tài sản.

c) Việc đăng ký từ xa, thông qua mạng điện tử đã có đủ cơ sở hạ tầng, kỹ thuật để thực hiện và cũng phù hợp với nhu cầu, xu hướng phát triển. Pháp luật cần có qui định theo đó cho phép đăng ký trực tiếp qua mạng điện tử, không cần trình tự kiểm tra, để bảo đảm nâng cao trách nhiệm của người đăng ký, giảm nhẹ chi phí quản lý hệ thống đăng ký.

d) Thời hạn hiệu lực của đăng ký cần được qui định theo hướng mềm dẻo, theo đề nghị của người yêu cầu đăng ký. Song, lệ phí đăng ký cần phải được tính toán trên cơ sở thời gian hiệu lực, để bảo đảm thông tin lưu giữ lâu thì phải tốn nhiều chi phí hơn.

II. THÍ ĐIỂM ĐĂNG KÝ TẬP TRUNG CÁC GIAO DỊCH BẢO ĐẢM - BƯỚC ĐI CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MÔ HÌNH CƠ QUAN ĐĂNG KÝ TẬP TRUNG CÁC GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

Theo nhóm nghiên cứu, việc đăng ký tập trung cần được thực hiện đối với các giao dịch bảo đảm phổ biến hiện nay là thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và cầm cố, thế chấp các động sản không phải là tàu bay, tàu biển. Việc xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm cần thực hiện theo những bước đi thích hợp cho từng giai đoạn. Về mô hình cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm, nhóm nghiên cứu đề xuất cụ thể mô hình theo từng giai đoạn, theo đó, về tổ chức bộ máy cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm không có nhiều thay đổi so với tổ chức bộ máy hiện nay của Cục Đăng ký, không tạo thêm đầu mối cơ quan đăng ký. Việc thành lập các điểm đăng ký hoàn toàn dựa trên nhu cầu kinh tế, xã hội và điều kiện tự nhiên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tế.

III. XÂY DỰNG CHỨC DANH ĐĂNG KÝ VIÊN

Theo nhóm nghiên cứu, tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của chức danh Đăng ký viên sẽ là:

a) Về chức trách: Là cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, trực tiếp giải quyết các đơn yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản theo thẩm quyền do pháp luật quy định và chịu trách nhiệm trực tiếp về việc giải quyết đơn nêu trên; nếu có sai sót, thì phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.

b) Về hiểu biết:

- Nắm được đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định pháp luật về dân sự, kinh tế, trong đó tập trung vào các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch, tài sản theo thẩm quyền.

- Nắm được kiến thức pháp lý

- Nắm được quy trình đăng ký, cung cấp thông tin, đáp ứng các yêu cầu về giải quyết đăng ký, cung cấp thông tin đúng quy định của pháp luật.

- Am hiểu tình hình kinh tế - xã hội nói chung, tình hình trong lĩnh vực công tác nói riêng, để từ đó có thể đề xuất các giải pháp để cải tiến, đổi mới quy trình đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch, tài sản.

- Biết tổ chức và phối hợp với các cơ quan đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch, tài sản khác, các cơ quan, tổ chức khác có liên quan để triển khai công việc đăng ký, cung cấp thông tin có hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của cải cách hành chính trong lĩnh vực này.

c) Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Đăng ký viên :

Xuất phát từ sự phân tích các vấn đề nêu trên và tình hình thực tế tại Việt Nam, để trở thành Đăng ký viên cần phải có đủ các tiêu chuẩn chủ yếu sau đây:

- Tốt nghiệp đại học Luật; đã qua thời gian tập sự nghiệp vụ;

-  Qua đào tạo về nghiệp vụ đăng ký giao dịch bảo đảm;

-  Trình độ tin học văn phòng (thành thạo).

d) Về chế độ lương, phụ cấp trách nhiệm

Về nguyên tắc, chế độ lương của Đăng ký viên giống như lương của công chức tốt nghiệp đại học. Nhóm nghiên cứu đề nghị xếp chức danh công chức Đăng ký viên cùng ngạch công chức như đối với chức danh Công chứng viên, do tính chất công việc của hai loại chức danh này có nhiều điểm gần giống nhau.

Ngoài các kiến nghị trên, nhóm nghiên cứu còn đưa ra một số kiến nghị về nâng cao hiệu quả phối hợp công tác giữa các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm và tăng cường ứng dụng tin học vào hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính./.



1 Chương 9 Bộ Luật Thương mại thống nhất của Mỹ

2 Nguyễn Thúy Hiền. Sự phát triển của pháp luật về bảo đảm an toàn tín dụng của Việt Nam - So sánh với pháp luật về bảo đảm an toàn tín dụng của CHLB Đức. Luận án Tiến sĩ Luật của Nguyễn Thúy Hiền, bản tiếng Đức. NXB các Luận án Tiến sĩ trên mạng -CHLB Đức, 2003, trang 200.

3 Nguyễn Ngọc Điện. Một số vấn đề về biện pháp bảo đảm trong pháp luật dân sự Việt Nam, 1999, trang 15, 16

4 Xem Secured Transactions Law Reform in Asia: Unleashing the Potential of Collateral (ADB, 2002)

5 Điều 325 Bộ Luật Dân Sự 2005

6 Luật hàng không dân dụng, 

7 Xem Secured Transactions Law Reform in Asia: Unleashing the Potential of Collateral

 

Nội dung toàn văn

BÁO CÁO PHÚC TRÌNH ĐỀ TÀI

Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam-

Thực trạng và giải pháp”

 

 

 

Phần thứ nhất

TÍNH CẤP THIẾT, PHƯƠNG PHÁP, MỤC TIÊU VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

 

I. Tính cấp thiết của đề tài

Trong nền kinh tế thị trường, việc ký kết các giao dịch bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhằm đáp ứng lợi ích không chỉ của người sử dụng vốn mà còn của người cung cấp tín dụng. Về phía người sử dụng vốn, các giao dịch bảo đảm giúp họ tiếp cận nguồn vốn đầu tư một cách thuận tiện, nhanh chóng với chi phí thấp. Về phía người cấp tín dụng, những giao dịch nêu trên sẽ góp phần hạn chế rủi ro đối với các khoản đầu tư. Như vậy, các giao dịch bảo đảm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khuyến khích hoạt động đầu tư vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh hoặc cho vay để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt.

Tuy nhiên, nếu việc ký kết, thực hiện các hợp đồng này chỉ có các bên biết với nhau, thì có thể xảy ra một số hiện tượng như: bên vay dùng chính tài sản đó để tiếp tục cầm cố, thế chấp nhiều nơi, nhiều lần mang tính chất lừa đảo hoặc cá nhân, tổ chức mua phải tài sản đang dùng để cầm cố, thế chấp,  trong khi bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp có quyền ưu tiên thanh toán, nên người mua không trở thành chủ sở hữu, nếu không ngay tình v.v... Ngoài ra, khi xử lý tài sản bảo đảm đã xảy ra không ít các tranh chấp về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm hoặc giữa những người có quyền, lợi ích liên quan.

Nhằm ngăn chặn tình trạng nêu trên, một trong các biện pháp hữu hiệu nhất, đó là công khai hoá các giao dịch bảo đảm thông qua việc đăng ký các giao dịch đó tại cơ quan có thẩm quyền; đồng thời mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu về giao dịch bảo đảm đều được cung cấp thông tin.

Việc thực hiện đề tài nghiên cứu “Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” dựa trên những căn cứ chủ yếu sau đây:

1. Đánh giá mức độ đáp ứng của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam hiện nay so với yêu cầu xây dựng một hệ thống đăng ký hiệu lực, hiệu quả. Các yêu cầu đó là:

* Mang tính toàn diện nghĩa là mọi tài sản (động sản và bất động sản) của người  vay đều có thể dễ dàng đem thế chấp, cầm cố theo quy định của pháp luật, đặc biệt không phải chuyển giao tài sản đó người cho vay, mà bên bảo đảm vẫn có thể khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm.

* Mang tính hiệu quả, đảm bảo mục tiêu phục vụ công chúng. Trong bối cảnh nước ta hiện nay, điều đó hết sức cần thiết, nhằm tạo môi trường pháp lý thông thoáng, thu hút đầu tư trong và ngoài nước.

* Mang tính rõ ràng, dễ hiểu, tức là công chúng có thể tiếp cận được pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và các nội dung đăng ký.

* Mang tính đơn giản và thuận tiện cho các chủ nợ và những người quan tâm khi sử dụng hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm.

* Đảm bảo thực thi các quyền về nội dung và thủ tục của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm.

2. Góp phần xây dựng luận cứ cho việc hoàn thiện khung pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm, đồng thời định hướng cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống đăng ký bất động sản ở nước ta trong thời gian tới. Đặc biệt đối với công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản, bởi đây là hoạt động còn mới mẻ, không chỉ với Việt Nam mà còn với đa số quốc gia trên thế giới.

Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản bắt đầu được hình thành từ Hoa Kỳ, sau đó được phổ biến rộng rãi tới các quốc gia, vùng lãnh thổ khác thuộc khu vực Bắc Mỹ. Đến nay, việc triển  khai hệ thống này đang được nghiên cứu, thực hiện tại một số quốc gia Châu Âu, đặc biệt là khu vực Đông Âu và một số quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, do xuất phát từ hệ thống pháp luật án lệ (common law), nên việc áp dụng mô hình đăng ký nêu trên vào Việt Nam- nơi chịu ảnh hưởng nhiều của văn hoá pháp luật thành văn sẽ không khỏi có những xung đột pháp luật. Đó là những vấn đề gì và cần được giải quyết như thế nào là những nội dung cần được tập trung làm rõ.

3. Góp phần thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực xây dựng Luật, Pháp lệnh trong chương trình kế hoạch 2002-2007, 2007-2011, cụ thể là việc xây dựng Pháp lệnh Đăng ký giao dịch bảo đảm.

4. Thực trạng nghiên cứu đề tài

Cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu một cách tổng quát nhiều vấn đề về đăng ký giao dịch bảo đảm như nội dung của đề tài này.

II. Phương pháp thực hiện đề tài

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận về kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa đã được chỉ rõ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X của Đảng Cộng sản Việt Nam và các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:

1. Phương pháp khảo sát thực trạng tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tại nước ta trong thời gian qua.

2. Phương pháp phân tích nhằm đưa ra những đánh giá, phân tích cụ thể, có cơ sở khoa học và thực tiễn về thực trạng pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm; thực trạng tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm.

3. Phương pháp nghiên cứu so sánh: đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt nam và của các nước; tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam và nước ngoài.

4. Ngoài ra, có áp dụng các phương pháp như quy nạp, hệ thống hoá các vấn đề được nghiên cứu.

III. Mục tiêu của đề tài

Việc nghiên cứu đề tài “Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:

1. Làm rõ một số vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm trên cơ sở so sánh, phân tích các hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong đó, tập trung làm rõ các vấn đề sau đây:

- Khái niệm giao dịch bảo đảm;

- Mục tiêu, ý nghĩa của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Phạm vi, đối tượng đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Hiệu lực của việc đăng ký; giá trị pháp lý của việc đăng ký; cơ chế, nguyên tắc đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Mô hình tổ chức cơ quan quản lý, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm  v.v…

2. Xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động và tổ chức đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam. Trong đó tập trung vào các nội dung sau đây:

- Đánh giá thực trạng pháp luật trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Đánh giá thực trạng hoạt động của các cơ quan trực tiếp thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Đánh giá tác động, ảnh hưởng của việc đăng ký giao dịch bảo đảm  đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá;

- Phát hiện những điểm bất cập trong chế độ đăng ký giao dịch bảo đảm hiện nay, nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị khắc phục các bất cập còn tồn tại, hoàn thiện hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm.

3. Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu nêu trên, nhóm nghiên cứu đư ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm ở nước ta.

IV. Quá trình thực hiện đề tài

Đề tài được thực hiện qua các giai đoạn sau:

1. Xây dựng đề cương

Sản phẩm của giai đoạn này là đề cương tổng thể và chi tiết của đề tài.

2. Xây dựng đề cương các chuyên đề nghiên cứu

Sản phẩm của giai đoạn này là đề cương chi tiết của 07 chuyên đề.

3. Xây dựng phiếu khảo sát và tiến hành khảo sát thực tế

Sản phẩm của giai đoạn này là thu thập được các số liệu và đánh giá thực trạng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam.

4. Hoàn chỉnh các báo cáo khoa học của đề tài

Sản phẩm của giai đoạn này là hoàn chỉnh các chuyên đề của các thành viên tham gia thực hiện đề tài.

5. Viết báo cáo phúc trình, in ấn phẩm

Sản phẩm của giai đoạn này là xây dựng, chỉnh sửa và in ấn xong báo cáo phúc trình về kết quả nghiên cứu của đề tài.

6. Bảo vệ đề tài

 

Phần thứ hai

KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

 

 

A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

I. Giao dịch bảo đảm- Đối tượng của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm

1. Khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ luật dân sự 2005 còn được hiểu là các “giao dịch bảo đảm”. Đó là các giao dịch được xác lập nhằm tạo ra những “bảo đảm” cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các giao dịch dân sự như hợp đồng vay và từ các căn cứ pháp lý khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Lần đầu tiên, thuật ngữ “giao dịch bảo đảm” được chính thức sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta là tại Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của văn bản này, thì “giao dịch bảo đảm" được hiểu “là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Với việc định nghĩa theo phương pháp liệt kê nêu trên, giao dịch bảo đảm theo pháp luật nước ta có những đặc điểm cơ bản sau đây:

  • Là những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản cụ thể (tài sản bảo đảm). Như vậy, những biện pháp có tính chất bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nhưng không bằng tài sản cụ thể thì không được coi là giao dịch bảo đảm, ví dụ như bảo lãnh bằng việc thực hiện một công việc thay cho bên được bảo lãnh, phạt vi phạm (là biện pháp bảo đảm theo quy định của Bộ luật dân sự 1995), hợp đồng bao tiêu sản  phẩm của con nợ v.v… Tuy nhiên, không phải biện pháp bảo đảm bằng tài sản nào cũng là giao dịch bảo đảm mà chỉ giới hạn ở cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản (theo quy định của Bộ luật dân sự 1995). Việc đặt cọc, ký cược, ký quỹ tuy cũng là biện pháp bảo đảm bằng tài sản nhưng không được coi là giao dịch bảo đảm.
  • Tài sản bảo đảm được xác định theo khái niệm giao dịch bảo đảm bao gồm động sản và bất động sản. Các biện pháp bảo đảm được gọi chung là giao dịch bảo đảm, nhưng về cơ bản vẫn được điều chỉnh riêng biệt theo các quy định khác nhau tại Bộ luật dân sự. Ví dụ: tuy cùng được coi là bên bảo đảm, nhưng bên bảo đảm trong quan hệ cầm cố tài sản có những quyền và nghĩa vụ khác với bên bảo đảm trong quan hệ thế chấp tài sản.

Trên cơ sở các quy định của Nghị định số 165, thuật ngữ giao dịch bảo đảm đã được sử dụng rộng rãi tại các văn bản ban hành sau đó như Nghị định số 178, Nghị định số 08, v.v…

Bộ luật dân sự 2005 đã đưa ra khái niệm bao quát hơn về giao dịch bảo đảm. Theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật dân sự 2005 thì “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này”. Như vậy, tất cả các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp đều có thể được “gọi” dưới một cái tên chung là “giao dịch bảo đảm".

2. Khái quát về giao dịch bảo đảm trong hệ thống pháp luật của một số quốc gia

Theo pháp luật của các nước theo án lệ (common law), tiêu biểu là Mỹ và Canađa, khái niệm giao dịch bảo đảm[1] (secured transactions) được hiểu là toàn bộ các giao dịch, không phụ thuộc vào hình thức và tên gọi, có mục đích tạo lập một quyền lợi được bảo đảm (secured interest) đối với tài sản riêng hoặc tài sản cố định, bao gồm: hàng hoá, giấy tờ (có giá) hoặc các tài sản vô hình khác; là giao dịch được thiết lập thông qua một thoả thuận bảo đảm (là thoả thuận trong đó quy định về hoặc tạo lập nên  một lợi ích bảo đảm giữa chủ nợ và bên bảo đảm). Như vậy, giao dịch bảo đảm theo khái  niệm trong luật án lệ không bị giới hạn về loại hình của giao dịch mà được xác định căn cứ vào mục đích thiết lập giao dịch. Do đó, các giao dịch bảo đảm không chỉ gồm những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo luật dân sự truyền thống, mà còn bao gồm cả các giao dịch khác như bảo lưu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần, chuyển nhượng quyền đòi nợ, quyền cầm giữ, thuê tài sản … Đối tượng của các giao dịch này là các động sản, bao gồm tài sản hữu hình và cả tài sản vô hình.

Ở các nước theo trường phái pháp luật thành văn, tiêu biểu là CH Pháp, CHLB Đức, Nhật Bản, không có khái niệm giao dịch bảo đảm như nêu trên, mà giao dịch bảo đảm được hiểu là các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, bảo lưu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần. Các quy định này tập trung chủ yếu trong Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thuật ngữ “giao dịch bảo đảm" tồn tại trong hệ thống pháp luật của một số quốc gia như Hoa Kỳ, New Zealand và đa số các bang của Canada. Trong đó, có sự phân biệt rõ ràng giữa các giao dịch bảo đảm bằng động sản và giao dịch bảo đảm bằng bất động sản. Tại Hoa Kỳ, các quy định về giao dịch bảo đảm bằng động sản tập trung vào Điều 9 của UCC, được xem như một đạo luật riêng về giao dịch bảo đảm liên quan đến động sản. Bên cạnh đó là Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm đối với đất đai và Đạo luật thống nhất về giao dịch đối với đất đai quy định về các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản. Bang New Brunswick của Canada có Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản và Luật về lợi ích bảo đảm liên quan đến đất đai. New Zealand cũng xây dựng Đạo luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản (Personal Property Security Act).

 Ở Hoa Kỳ, New Zealand, một số bang của Canada, khái niệm “giao dịch bảo đảm" (secured transactions) không bao gồm các quan hệ bảo đảm đối nhân mà chỉ áp dụng đối với các quan hệ nhận bảo đảm bằng tài sản (bảo đảm mang tính đối vật theo sự phân loại của hệ thống pháp luật dân sự). Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia nêu trên, quan hệ bảo đảm mang tính đối nhân được coi là sự ghép nối giữa hai lợi ích bảo đảm (secured interest): lợi ích bảo đảm giữa chủ nợ với con nợ và lợi ích bảo đảm giữa con nợ với bên bảo lãnh cho con nợ. Vì vậy, pháp luật sẽ điều chỉnh quan hệ bảo đảm mang tính đối nhân theo từng lợi ích bảo đảm.

Một điểm đáng lưu ý nữa, đó là khái niệm giao dịch bảo đảm tại các quốc gia theo hệ thống common law như Hoa Kỳ, New Zealand và một số bang của Canada thường không được sử dụng khi đề cập đến các quan hệ nhận bảo đảm bằng bất động sản. Đối với bất động sản, việc nhận bảo đảm luôn được áp dụng biện pháp thế chấp.

          Như vậy, khái niệm giao dịch bảo đảm (secured transactions) chỉ được áp dụng đối với các quan hệ nhận bảo đảm bằng động sản. Tuy nhiên, khái niệm này lại có tính khái quát cao bởi chỉ xét trên một tiêu chí duy nhất, đó là mục đích xác lập giao dịch. Theo đó, mọi giao dịch, không kể tên gọi, hình thức thể hiện là gì, quyền phát sinh từ giao dịch đó là như thế nào, nhưng nếu nhằm mục đích xác lập một lợi ích bảo đảm (secured interest) đối với động sản thì được gọi là giao dịch bảo đảm[2]. Với phương thức xác định như vậy, khái niệm giao dịch bảo đảm bao quát cả các biện pháp bảo đảm đối vật truyền thống theo hệ thống luật thành văn như cầm cố, thế chấp và các giao dịch có tính chất tương tự như thỏa thuận bán hàng có bảo lưu quyền sở hữu, cho thuê động sản dài hạn, quyền ưu tiên theo luật định hoặc theo phán quyết của Toà án … Nói cách khác, mọi giao dịch liên quan đến động sản đều có thể được thừa nhận là giao dịch bảo đảm và áp dụng quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm để điều chỉnh, nếu giao dịch đó hướng tới việc xác lập “lợi ích bảo đảm”.

Khái niệm “lợi ích bảo đảm” được coi là có nguồn gốc từ Điều 9 UCC. Tuy nhiên, Điều 9 UCC lại không có giải thích nào về khái niệm “lợi ích bảo đảm”. Song trên cơ sở các quy định tại văn bản nêu trên, New Zealand và một số bang của Canada, với tư cách là các quốc gia đi sau và tiếp nhận khái niệm này vào hệ thống pháp luật của mình, đã cụ thể hóa khái niệm “lợi ích bảo đảm” trong Luật về bảo đảm. Điều 2(ar) Luật về bảo đảm của bang Nova Scotia – Canada quy định như sau:

“Lợi ích bảo đảm được hiểu là:

(i) lợi ích gắn với động sản nhằm bảo đảm cho một khoản nợ hoặc cho việc thực hiện nghĩa vụ, nhưng không bao gồm lợi ích của người bán hàng trong việc chuyển hàng đến cho người mua hàng theo vận đơn hoặc các văn bản tương tự của người bán, hoặc của người đại diện của người bán, trừ trường hợp các bên có những bằng chứng chứng minh rằng đã có ý định xác lập hoặc cung cấp một lợi ích bảo đảm trên/gắn với hàng hóa đó; và

(ii) lợi ích của:

(a) người giao tài sản cho bên nhận tài sản theo hợp đồng gửi bán thương mại.

(b) bên cho thuê theo hợp đồng cho thuê có thời hạn trên một năm.

(c) bên được chuyển giao theo tài khoản chuyển giao hoặc theo chứng thư bảo đảm (chattel paper).

(d) người mua theo việc mua bán không chuyển giao tài sản và không bảo đảm cho khoản nợ hoặc cho việc thực hiện nghĩa vụ”.

Điều 17 Luật về bảo đảm của NewZealand (NewZealand PPSA) cũng có khái niệm “lợi ích bảo đảm” tương tự:

“1) Theo Luật này, cụm từ “lợi ích bảo đảm” được hiểu như sau:

(a) là lợi ích đối với động sản được xác lập hoặc cung cấp thông qua  giao dịch nhằm bảo đảm cho một khoản nợ hoặc cho việc thực hiện nghĩa vụ, không  phụ thuộc vào:

(i) hình thức của giao dịch; và

(ii) nhân thân của người có quyền với tài sản bảo đảm; và

(b) bao gồm lợi ích được xác lập hoặc cung cấp thông qua việc chuyển giao tài khoản nợ hoặc chứng thư bảo đảm, việc thuê có thời hạn trên một năm, và ký gửi thương mại (bất kể việc chuyển giao, thuê hay ký gửi đó có bảo đảm cho khoản nợ hoặc cho việc thực hiện nghĩa vụ hay không).

(2) Bên có nghĩa vụ theo tài khoản nợ có thể được thực hiện lợi ích bảo đảm trên tài khoản nợ mà người này có nghĩa vụ phải thanh toán.

(3) Để tránh hạn chế các quy định của khoản (1), cũng như để tránh nhầm lẫn, Luật này áp dụng cả với các nghĩa vụ đặc định/cố định, nghĩa vụ luân chuyển, thế chấp động sản, hợp đồng mua bán có điều kiện (bao gồm cả hợp đồng mua bán có bảo lưu quyền), hợp đồng thuê mua, cầm cố, nhận ủy thác có bảo đảm, ủy thác tiếp nhận, gửi bán, cho thuê và hợp đồng, hoặc hợp đồng sửa chữa tài sản, bảo đảm cho việc trả tiền hoặc thực hiện nghĩa vụ”

Qua đó, với tư duy pháp luật coi lợi ích bảo đảm là “gốc” của mọi giao dịch bảo đảm, pháp luật của Hoa Kỳ, New Zealand và một số bang của Canada không điều chỉnh chi tiết, riêng biệt đối với các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố, thế chấp bằng động sản v.v… mà điều chỉnh về lợi ích bảo đảm và các vấn đề liên quan đến việc thực hiện lợi ích bảo đảm. Do đó, tất cả các giao dịch làm phát sinh lợi ích bảo đảm, không phụ thuộc vào tên gọi của giao dịch, đều thuộc phạm vi áp dụng của pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này. Chính vì vậy, bên cạnh các biện pháp bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp, pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này còn được áp dụng với các giao dịch khác có tính chất bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ như thuê mua tài chính, gửi bán thương mại, chuyển nhượng nợ, cho thuê tài sản dài hạn.v.v… Các giao dịch làm phát sinh lợi ích bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ được gọi chung là giao dịch bảo đảm.

Xu hướng hài hoà hoá các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (theo hệ thống luật thành văn) và quy định về giao dịch bảo đảm bảo đảm (theo pháp luật các quốc gia khu vực Bắc Mỹ) hiện nay ngày càng trở nên phổ biến tại những quốc gia theo hệ thống pháp luật thành văn (civil law).

Một trong những quốc gia đi đầu về việc kết hợp các quy định về giao dịch bảo đảm theo Điều 9 UCC với quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại Bộ luật Dân sự là Tỉnh Queebec (Canada)[3]. Quá trình sửa đổi Bộ Luật Dân sự tại vùng lãnh thổ này được khởi động từ những năm 1950 và cho đến giữa những năm 1990, các nội dung cải cách cuối cùng đã được thông qua (một phần Bộ Luật Dân sự có hiệu lực từ năm 1994 và cả Bộ luật chính thức có hiệu lực từ năm 1999). Trước khi sửa đổi, Bộ Luật Dân sự của Queebec thuần tuý chịu ảnh hưởng của Bộ Luật Dân sự Cộng hoà Pháp. Điều này đã gây ra không ít khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật và bảo đảm tính thống nhất của các quy phạm pháp luật, bởi các vùng lãnh thổ và quốc gia trong khu vực đều áp dụng hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng của hệ thống common law. Do đó, khi tiến hành sửa đổi, tuy Bộ luật vẫn giữ những nguyên tắc cơ bản theo hệ thống luật thành văn, nhưng bên cạnh đó cũng bổ sung một số cơ chế hoặc phương thức “vay mượn” của UCC nhằm tạo ra một hệ thống dễ tiếp cận, đơn giản và hiệu quả. Một trong những thay đổi quan trọng đó là việc bổ sung hệ thống quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản, trên cơ sở sửa đổi các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ từ các khái niệm thuần tuý theo hệ thống luật thành văn (cầm cố, thế chấp, …) sang những khái niệm mang tính trung gian, gần gũi hơn với khái niệm “giao dịch bảo đảm" của hệ thống pháp luật commom law. Việc không áp dụng rập khuôn Điều 9 UCC xuất phát từ việc một số nguyên tắc quy định tại Điều này không phù hợp và khó tiếp nhận trong hệ thống pháp luật đi theo văn hoá pháp lý Pháp của Queebec, trong khi đó, cũng không thể phủ nhận những điểm tích cực của quy định về giao dịch bảo đảm tại Điều 9 UCC. Nội dung sửa đổi về giao dịch bảo đảm tại Bộ Luật Dân sự Queebec cơ bản như sau:

  • Mở rộng khái niệm thế chấp (hypothèque) theo hướng áp dụng thế chấp đối với cả động sản. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, động sản đều có thể được dùng làm tài sản thế chấp mà phụ thuộc vào việc bên thế chấp là người hoạt động kinh doanh (doanh nghiệp, cá nhân) hay là cá nhân không hoạt động kinh doanh. Người hoạt động kinh doanh có thể thế chấp mọi động sản của doanh nghiệp mình, trong khi cá nhân không hoạt động kinh doanh chỉ có thể thế chấp một số động sản theo quy định (bao gồm các phương tiện giao thông cơ giới có số đăng ký).
  • Bổ sung quy định điều chỉnh các “giao dịch bảo đảm song trùng” như giao dịch mua trả dần, bảo lưu quyền sở hữu, bán với điều khoản chuộc lại, nhận vật khác thay cho đối tượng của nghĩa vụ, thuê mua tài chính... Các giao dịch này không phải là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mang tính truyền thống, phổ biến như cầm cố, thế chấp, nhưng thường xuyên được sử dụng trong lĩnh vực cấp tín dụng thương mại. Tuy nhiên, Luật quy định các nguyên tắc của thế chấp động sản cũng được áp dụng đối với “giao dịch bảo đảm song trùng”.
  • Bổ sung quy định về quyền thế chấp theo luật định[4] liên quan đến quyền ưu tiên thanh toán của Nhà nước đối với các khoản nợ thuế, quyền ưu tiên thanh toán của một số đối tượng khác trong giao dịch dân sự;

Với những thay đổi cơ bản nêu trên, Bộ Luật Dân sự Queebec bổ sung khái niệm “giao dịch bảo đảm". Theo đó, giao dịch bảo đảm bao gồm: thế chấp động sản, quyền ưu tiên, thế chấp theo luật định và các giao dịch bảo đảm song trùng. Tuy nhiên, việc bổ sung những khái niệm  này không làm mất đi những đặc thù trong từng giao dịch cụ thể. Khái niệm giao dịch bảo đảm chỉ được sử dụng chủ yếu khi quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản. Đó là các giao dịch bảo đảm chỉ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba khi đã đăng ký. Việc công bố công khai về giao dịch bảo đảm (thông qua hoạt động đăng ký) được thực hiện thống nhất tại một Sổ Đăng ký. Về nguyên tắc, không thể tồn tại một giao dịch bảo đảm nào (đối với người thứ ba) nếu không được đăng ký.

Tiếp sau Queebec, trong những năm vừa qua ngày càng có nhiều quốc gia thuộc hệ thống luật thành văn thực hiện việc sửa đổi, cải tiến các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo hướng kết hợp với Điều 9 UCC. Trong số đó, chủ yếu là các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi tại Đông Âu như Séc, Nga, Anbani … Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là xu hướng này không tác động đến những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển tại Châu Âu. Ngay như Cộng hoà Pháp, cái nôi của hệ thống luật thành văn, cũng đang đặt ra vấn đề cải cách hệ thống pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo xu hướng tiếp cận hơn nữa các quy định về giao dịch bảo đảm tại Điều 9 UCC[5].

 3. Về sự phân biệt biện pháp bảo đảm đối vật và biện pháp bảo đảm đối nhân

Đây là một trong các vấn đề lý luận cần được làm sáng tỏ, vì nó là một trong các tiền đề quan trọng giúp chúng ta giải quyết về đối tượng đăng ký, cụ thể đó là những giao dịch bảo đảm nào được đăng ký.

Pháp luật của các nước theo trường phái pháp luật thành văn (civil law) thường phân biệt những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành hai nhóm: các biện pháp bảo đảm đối vật và các biện pháp bảo đảm đối nhân, ví dụ: Pháp luật dân sự của CHLB Đức[6], CH Pháp, Nhật Bản[7]. Sự phân biệt này nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên và từ đó có phương pháp điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan một cách tương ứng.

Các biện pháp bảo đảm đối vật được hiểu là quyền được xác lập trực tiếp trên một vật cụ thể nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Nó có đối tượng là tài sản của người có nghĩa vụ hoặc của người thứ ba và người có quyền được yêu cầu xử lý tài sản đó theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Trong số các biện pháp bảo đảm đối vật, cầm cố, thế chấp là hai biện pháp cơ bản.

Các biện pháp bảo đảm đối nhân được hiểu là người thứ ba cam kết với người có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ khi đến hạn mà người có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc có thực hiện nghĩa vụ, nhưng không đúng thỏa thuận. Biện pháp bảo đảm đối nhân có tính chất tiêu biểu là bảo lãnh. Khác với biện pháp bảo đảm đối vật, tài sản bảo đảm trong biện pháp bảo đảm đối nhân không được xác định cụ thể, mà là toàn bộ khối tài sản của bên bảo đảm. Việc cá thể hóa tài sản nào được phát mại để thanh toán cho bên có quyền thông thường được tiến hành sau khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận.

Tuy cùng có sự phân biệt về hình thức pháp lý giữa các biện pháp bảo đảm theo hai nhóm cơ bản nêu trên, nhưng tiêu chí cụ thể để xác định, phân loại các biện pháp bảo đảm cũng có những khác biệt nhất định. Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phân định các biện pháp cầm cố và thế chấp chủ yếu trên cơ sở yếu tố chuyển giao tài sản bảo đảm. Điều 2017 và Điều 2114 Bộ luật Dân sự Pháp, “Cầm cố là một hợp đồng theo đó người có nghĩa vụ giao cho người có quyền một tài sản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, còn “quyền thế chấp là quyền trên những bất động sản được sử dụng vào việc thi hành một nghĩa vụ”. Tuy nhiên, việc phân định biện pháp cầm cố và thế chấp này không hoàn toàn dựa trên tiêu chí chuyển giao tài sản, mà cũng phần nào dựa trên tiêu chí loại tài sản, theo đó cầm cố có thể thực hiện cả đối với động sản và bất động sản, còn thế chấp chỉ được áp dụng hạn chế đối với một số loại bất động sản tài sản đặc biệt.

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Cộng hòa liên bang Nga lại phân biệt cầm cố và thế chấp thuần túy theo tiêu chí loại tài sản, theo đó, biện pháp cầm cố được áp dụng đối với động sản và biện pháp thế chấp được thực hiện đối với bất động sản. Việc phân biệt này không được quy định trực tiếp, mà được thể hiện gián tiếp tại khoản 2 Điều 334 Bộ luật Dân sự của Cộng hòa liên bang Nga: “Việc cầm cố thửa đất, doanh nghiệp, công trình xây dựng, công trình kiến trúc, căn hộ chung cư và các bất động sản khác (thế chấp) được điều chỉnh theo quy định của Luật về Thế chấp tài sản. Các nguyên tắc về cầm cố quy định trong Bộ luật này được áp dụng đối với thế chấp, trừ trường hợp Bộ luật này hoặc Luật về Thế chấp tài sản có quy định khác”.

Xuất phát từ sự phân biệt nêu trên, chúng ta rút ra một số kết luận sau đây:

Thứ nhất: Ở Việt Nam hiện nay cũng đã có biện pháp bảo đảm đối nhân, đó là bảo lãnh trong Bộ luật dân sự 2005. Trước đó, trong Bộ luật dân sự 1995 chỉ có các biện pháp bảo đảm đối vật. Bảo lãnh trong Bộ luật dân sự 1995 thực chất cũng là biện pháp bảo đảm đối vật, vì đối tượng của bảo lãnh là một hoặc nhiều tài sản được xác định cụ thể hoặc bằng việc thực hiện một công việc nhất định.

Thứ hai: Nhằm đa dạng hóa các biện pháp bảo đảm và giảm bớt sự khác biệt so với pháp luật của các nước trong quá trình hội nhập quốc tế, Bộ luật dân sự 2005 đã quy định bảo lãnh theo hướng là biện pháp bảo đảm đối nhân, theo đó bên bảo lãnh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình; đồng thời chuyển bảo lãnh bằng tài sản cụ thể thành cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba, kể cả chuyển đổi quy định về bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất trong Luật Đất đai năm 2003 thành thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba. Từ đó, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm cũng không điều chỉnh đăng ký bảo lãnh.

Thứ ba: Do bản chất của biện pháp bảo đảm đối vật là bảo đảm bằng tài sản cụ thể và bên nhận bảo đảm chỉ có quyền đối với tài sản đó, nên các biện pháp này là đối tượng đăng ký, để qua đó xác lập quyền, đặc biệt là quyền ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó. Ngược lại, bên bảo đảm đối nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình và bên nhận bảo đảm có quyền đối với toàn bộ tài sản đó, nên biện pháp bảo đảm đối nhân không thuộc diện đăng ký. Ngoài ra, theo Bộ luật dân sự 2005, cầm cố được hiểu là bên cầm cố chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ, nên cũng không cần đăng ký, vì việc chuyển giao này đã là phương thức công khai cầm cố.

Tuy có những điểm khác biệt về hình thức xác lập, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch, nhưng các biện pháp bảo đảm đối vật theo hệ thống luật dân sự và các giao dịch bảo đảm theo hệ thống luật án lệ đều có một số đặc điểm chung như sau:

a) Xác lập các quyền đối với những tài sản cụ thể (là tài sản hữu hình hoặc vô hình).

b) Các quyền này đều có thứ tự ưu tiên cao hơn so với quyền của những chủ nợ khác không được bảo đảm thực hiện bằng chính tài sản đó.

c) Các quyền này không bị chấm dứt hoặc vô hiệu bởi các giao dịch được thiết lập sau đó liên quan đến tài sản bảo đảm.

          4. Một số nhận xét về khái niệm giao dịch bảo đảm trong hệ thống pháp luật Việt Nam với tư cách là đối tượng của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm

          Trước tiên, có thể dễ dàng nhận thấy khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam hoàn toàn khác so với khái niệm giao dịch bảo đảm nêu tại Điều 9 UCC. Khái niệm giao dịch bảo đảm theo hệ thống pháp luật Việt Nam là sự liệt kê những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, không chỉ ra được những đặc điểm chung, cơ bản nhất của các giao dịch đó. Ngược lại, giao dịch bảo đảm theo Điều 9 UCC lại không phân biệt về hình thức giao dịch, các quyền phát sinh từ giao dịch mà chỉ căn cứ vào mục đích xác lập giao dịch đó là có xác lập nên lợi ích bảo đảm hay không. Do nội dung của giao dịch không có ý nghĩa trong việc xác định giao dịch đó có phải là giao dịch bảo đảm hay không, nên dẫn đến tính chất không xác định về hình thức của giao dịch. Do đó có thể thấy khái niệm giao dịch bảo đảm của chúng ta dường như gần gũi hơn với khái niệm giao dịch bảo đảm của bang Queebec.

          Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ, chúng ta có thể nhận thấy khái niệm giao dịch bảo đảm mà chúng ta đang sử dụng hiện nay có những khác biệt không nhỏ so với bang Queebec- nơi cũng hình thành khái niệm này trên cơ sở những nguyên tắc nền tảng của hệ thống pháp luật thành văn. Cụ thể:

So sánh khái niệm giao dịch bảo đảm giữa Việt Nam và bang Queebec

 

Nội dung

Bang Queebec

Việt Nam

Các giao dịch dân sự được coi là giao dịch bảo đảm

- Thế chấp động sản

- Thế chấp theo luật định

- Giao dịch bảo đảm song trùng (bảo lưu quyền sở hữu, cho thuê tài sản,,,)

- Quyền ưu tiên

- Cầm cố,   - Thế chấp,

- Đặt cọc,   - Ký cược,

- Ký quỹ,   - Bảo lãnh

Tài sản trong giao dịch bảo đảm

Động sản

Động sản và bất động sản

          Tóm lại: Khái niệm giao dịch bảo đảm ở Việt Nam và một số nước khác trên thế giới có sự khác nhau cơ bản, cụ thể là về phạm vi và đối tượng của giao dịch như phân tích trên. Thực chất, các giao dịch bảo đảm của Việt Nam là những biện pháp bảo đảm đối vật của hệ thống luật thành văn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đối với một số vấn đề, chúng ta đang áp dụng những nguyên tắc của hệ thống luật án lệ để giải quyết những giao dịch đó, mà tiêu biểu là cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản.

          Như phần trên đã phân tích, xu hướng kết hợp, hài hoà hoá các quy định về giao dịch bảo đảm giữa hai hệ thống pháp luật ngày càng trở nên phổ biến tại các quốc gia có truyền thống pháp luật thành văn. Nhưng điều này đòi hỏi phải có sự cải tiến mạnh mẽ, đồng bộ các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm, mà trường hợp bang Queebec (Canada) là một ví dụ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm. Bởi kinh nghiệm tại những quốc gia đang vận hành hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm đã chứng minh: hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ phát huy hiệu quả và đem lại những lợi ích to lớn nếu có tính đồng bộ với hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm, và ngược lại, một hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm hiện đại, minh bạch, thuận tiện cho việc áp dụng không thể thiếu được hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm.

II. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm trong mối liên hệ với việc đăng ký giao dịch bảo đảm

1. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm

Pháp luật về giao dịch bảo đảm của cả hai hệ thống pháp luật common law và civil law đều có quy định tách biệt và rõ ràng về hai loại hiệu lực của giao dịch bảo đảm, đó là hiệu lực của giao dịch bảo đảm đối với các bên tham gia giao dịch (sau đây gọi là hiệu lực giữa các bên) và hiệu lực của giao dịch bảo đảm đối kháng với người thứ ba (sau đây gọi là hiệu lực với bên thứ ba).

          1.1. Hiệu lực của lợi ích bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật common law

          a) Hiệu lực giữa các bên tham gia giao dịch

          Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật common law xác định thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực là thời điểm các bên tham gia giao dịch thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc thời điểm các bên ký kết hợp giữa các bên.

          Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia này, do lợi ích bảo đảm được xem là vấn đề mấu chốt trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nên vấn đề được quan tâm nhiều hơn là xác định thời điểm lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực trên thực tế gắn với tài sản bảo đảm (attach to collateral). Nguyên nhân là lợi ích bảo đảm được xem là vấn đề mấu chốt của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Đồng thời, hiệu lực của hợp đồng (thường phát sinh vào thời điểm các bên ký kết hợp đồng) trong nhiều trường hợp chưa hẳn đã làm phát sinh hiệu lực trên thực tế của lợi ích bảo đảm (ví dụ: cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai…). Lợi ích bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực trên thực tế khi được “gắn liền” (attach) với tài sản bảo đảm. Kể từ thời điểm đó, quyền của con nợ đối với tài sản bảo đảm bị hạn chế, lợi ích của chủ nợ được bảo đảm một cách chắc chắn hơn và khả năng tác động đến lợi ích được bảo đảm có thể phát sinh từ bên thứ ba được giảm thiểu. Vì vậy, thời điểm lợi ích bảo đảm “gắn liền” với tài sản bảo đảm là một nội dung quan trọng trong pháp luật về bảo đảm của các quốc gia nêu trên.

          Trong trường hợp tài sản bảo đảm là động sản, Điều 9-203 UCC, Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada đều quy định lợi ích bảo đảm “gắn” với tài sản bảo đảm, nếu thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây:

 (1) Bên nhận bảo đảm (bên có quyền) trao cho bên bảo đảm (con nợ) một khoản giá trị.[8]

 (2) Con nợ có quyền đối với tài sản bảo đảm, hoặc có quyền chuyển giao các quyền liên quan đến tài sản cho bên nhận bảo đảm.

 (3) Các bên ký kết hợp đồng bảo đảm, trong đó có mô tả tài sản bảo đảm.

          Đối với trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản, quy định về việc lợi ích bảo đảm “gắn liền” với tài sản bảo đảm cũng tương tự như đối với động sản. Mục 203 Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm đối với đất đai quy định việc lợi ích bảo đảm gắn liền với bất động sản như sau:

“Lợi ích bảo đảm gắn với bất động sản khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận trì hoãn thời điểm lợi ích bảo đảm gắn liền với bất động sản:

1. Con nợ ký hợp đồng bảo đảm, trong đó có mô tả tài sản bảo đảm;

2. Một khoản giá trị đã được trao[9];

3. Con nợ có quyền đối với tài sản bảo đảm”.

          Đồng thời, cũng theo quy định tại Mục 203 của Đạo luật này, thì lợi ích bảo đảm chỉ có hiệu lực thi hành đối với con nợ liên quan đến tài sản bảo đảm khi lợi ích bảo đảm này đã gắn liền với tài sản bảo đảm.

          Tuy nhiên, khi đáp ứng các điều kiện nói trên, thì lợi ích bảo đảm cũng chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia giao dịch, chứ không đương nhiên có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba. Lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba sau khi được hoàn thiện, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Đối với các trường hợp ngoại lệ này, lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba ngay từ thời điểm gắn liền với tài sản bảo đảm.

          b) Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

          Lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba sau khi được hoàn thiện (perfect). Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm (perfection of security interest) được hiểu là việc công bố công khai sự tồn tại của lợi ích bảo đảm cho người thứ ba được biết. Sau khi hoàn thiện, người thứ ba tham gia giao dịch bảo đảm được coi là biết và có nghĩa vụ phải biết về sự tồn tại của lợi ích bảo đảm. Nói cách khác, “hoàn thiện” là cách thức để biến hợp đồng từ luật riêng giữa các bên tham gia thành luật chung đối với người thứ ba.

          Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm cũng là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên của lợi ích bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan tới tài sản bảo đảm. Trong trường hợp có hai hay nhiều lợi ích bảo đảm liên quan đến tài sản bảo đảm, thì lợi ích bảo đảm nào được hoàn thiện trước sẽ được ưu tiên thực hiện.

          Theo các quy định tại Điều 9 UCC và các quy định tương tự tại Luật về bảo đảm của Canada và New Zealand, lợi ích bảo đảm được hoàn thiện sau khi đã gắn liền với tài sản bảo đảm, và chủ nợ có bảo đảm thực hiện hoàn thiện theo một trong các phương thức sau: chiếm hữu tài sản bảo đảm, kiểm soát tài sản bảo đảm hoặc đăng ký lợi ích bảo đảm. Về lý thuyết, một lợi ích bảo đảm có thể được hoàn thiện bằng nhiều phương thức. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra trên thực tế. Các bên tham gia giao dịch thường tùy vào loại tài sản bảo đảm để lựa chọn phương thức hoàn thiện thích hợp.

  • Hoàn thiện bằng cách chiếm hữu tài sản bảo đảm: chủ nợ chiếm hữu tài sản bảo đảm trong các trường hợp: cầm cố động sản; khi con nợ giao tài sản cho bên thứ ba để bảo quản thay cho chủ nợ; khi chủ nợ hoặc đại diện của chủ nợ chiếm hữu giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với vật đó. Hoàn thiện bằng cách chiếm hữu phù hợp và thường được áp dụng đối với những lợi ích bảo đảm liên quan đến hàng hóa, dụng cụ, văn bản thỏa thuận, tiền và chứng thư tín dụng (chattel paper).
  • Hoàn thiện bằng cách kiểm soát tài sản bảo đảm: phương thức này thường được áp dụng trong trường hợp lợi ích bảo đảm liên quan đến tài khoản tiền gửi, thư tín dụng, cổ phiếu, chứng khoán và các loại giấy tờ tương tự như cổ phiếu phát hành không có biên lai hoặc kỳ phiếu, trái phiếu của Nhà nước không phát hành dưới dạng in ấn. Các tài sản này được coi là tài sản vô hình, chỉ tồn tại trong hồ sơ của người phát hành hoặc của ngân hàng. Trong trường hợp này, lợi ích bảo đảm được hoàn thiện bằng cách chuyển giao một quyền dành riêng cho con nợ, cho phép con nợ trao những hướng dẫn chuyển giao cho bên thứ ba đang quản lý tài sản đó. Theo các quy định tại Điều 9 UCC, hoàn thiện bằng phương thức kiểm soát chỉ được áp dụng khi bên nhận bảo đảm là chính ngân hàng nơi có tài sản bảo đảm là tài khoản tiền gửi, bên nhận bảo đảm, ngân hàng, bên bảo đảm có thỏa thuận về việc ngân hàng thay mặt bên nhận bảo đảm kiểm soát tài sản bảo đảm đó
  • Hoàn thiện bằng cách đăng ký lợi ích bảo đảm: cho đến nay phần lớn các lợi ích bảo đảm đều được hoàn thiện theo cách này. Biện pháp đăng ký được áp dụng đối với lợi ích bảo đảm trên tất cả các loại tài sản và là biện pháp được khuyến khích nhằm xác lập thứ tự ưu tiên, ngoại trừ những lợi ích bảo đảm được hoàn thiện theo cách thủ đắc quyền sở hữu và những lợi ích bảo đảm tự động hoàn thiện hoặc không cần phải hoàn thiện. Thực chất, phương pháp này là một loại đăng ký thông báo nhằm xác định thứ tự ưu tiên của các chủ nợ.
  • Lợi ích bảo đảm tự động hoàn thiện: Ngoài ba phương thức để hoàn thiện một lợi ích bảo đảm nêu trên, Điều 9 UCC, Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada còn quy định một số trường hợp theo đó lợi ích bảo đảm được tự động hoàn thiện tại thời điểm lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực trên thực tế gắn liền với tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm trong trường hợp này chỉ có thể là một số loại tài sản nhất định, ví dụ như: tiền mua hàng đối với hàng hóa tiêu dùng, ngoại trừ những trường hợp liên quan đến hàng tiêu dùng là đối tượng của các đạo luật hoặc Hiệp ước; việc chuyển nhượng nợ; bán giấy hẹn thanh toán (promisory notes); chuyển nhượng yêu cầu thanh toán bảo hiểm sức khỏe cho người cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ chăm sóc sức khỏe; vận chuyển tài sản tài chính; lợi ích bảo đảm trong tài sản đầu tư được xác lập bởi người môi giới v.v…

          1.2. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law

          a) Hiệu lực giữa các bên tham gia giao dịch

          Trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của đa số quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law, hiệu lực của giao dịch bảo đảm được xác định căn cứ vào quy định về hiệu lực của hợp đồng. Một số quốc gia không quy định cụ thể về thời điểm hợp đồng có hiệu lực, mà chỉ quy định về các điều kiện chủ yếu để hợp đồng có hiệu lực, theo đó, hợp đồng được coi là có hiệu lực khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định. Theo quy định tại Điều 1108 Bộ luật dân sự Pháp, “hợp đồng chỉ có hiệu lực khi đã thỏa mãn đầy đủ bốn điều kiện chủ yếu:

- Các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện;

- Các bên giao kết có năng lực giao kết hợp đồng;

- Đối tượng của hợp đồng phải được xác định;

- Căn cứ của hợp đồng phải hợp pháp”

          Đồng thời, Điều 1134 Bộ luật dân sự Pháp cũng quy định về hiệu lực của nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng: “Hợp đồng được giao kết có giá trị là luật đối với các bên giao kết”.  Căn cứ vào các quy định này, có thể xác định trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của Pháp, giao dịch bảo đảm được coi là có hiệu lực giữa các bên nếu hợp đồng bảo đảm đáp ứng đầy đủ các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, và từ thời điểm giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp đặc biệt, hiệu lực của quyền phát sinh từ hợp đồng bảo đảm chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ quy định về hình thức. Tiêu biểu là hiệu lực của quyền thế chấp theo thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch. Quyền thế chấp theo thỏa thuận chỉ có hiệu lực khi được công chứng. Điều 2127 Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Thế chấp theo thỏa thuận chỉ có thể thực hiện dưới hình thức văn bản công chứng trước hai công chứng viên  hoặc một công chứng viên và hai người làm chứng”.

          Bên cạnh đó, cũng có những quốc gia quy định giao dịch bảo đảm phải được đăng ký mới có hiệu lực (ví dụ: CHLB Đức). Tuy nhiên, những quy định này chỉ áp dụng riêng đối với các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản.

          b) Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

          Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật civil law không có khái niệm “hoàn thiện” tương tự như pháp luật của các quốc gia theo hệ thống common law, cũng không quy định trực tiếp về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của giao dịch bảo đảm, mà quy định gián tiếp thông qua quyền ưu tiên và hiệu lực đối kháng với người thứ ba của quyền ưu tiên này.

          Cũng khác với pháp luật của các quốc gia theo hệ thống common law, pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống civil law thường có sự phân biệt khá rõ ràng về các phương thức để giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, hay nói cách khác, để quyền ưu tiên phát sinh từ giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

          Đối với cầm cố tài sản, đây được coi là giao dịch thực tế, chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. Do đó, phương thức công khai hoá đối với cầm cố là việc bên nhận cầm cố giữ tài sản cầm cố[10]. Tuy nhiên, trong trường hợp cầm cố bất động sản (một số quốc gia vẫn cho phép), thì phương thức công khai hoá để việc cầm cố đó có hiệu lực với người thứ ba vẫn phải là đăng ký như đối với thế chấp. Điều này giải thích tại sao đa số các quốc gia không thừa nhận việc cầm cố đối với bất động sản.

          Đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến bất động sản, phương thức để giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba là thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan đăng ký có thẩm quyền. Điều 2134 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Giữa những người có quyền, việc thế chấp, dù là thế chấp theo luật định, theo bản án hay theo thỏa thuận chỉ được xếp thứ tự căn cứ vào ngày tháng người có quyền tiến hành đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo thể thức do pháp luật quy định. Nếu nhiều đăng ký thế chấp được thực hiện cùng một ngày đối với một bất động sản, thì căn cứ vào ngày tháng của chứng thư đăng ký, đăng ký thế chấp nào sớm hơn sẽ được xếp ở hàng trước dù thứ tự trong sổ đăng ký quy định tại Điều 2200 như thế nào”.

2. Hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm

          2.1. Qua nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, cho thấy việc đăng ký giao dịch bảo đảm có thể làm phát sinh một trong hai loại hiệu lực sau đây của giao dịch bảo đảm:

  • Đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực.
  • Đăng ký là điều kiện để vật quyền hay giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba.

          2.2. Tại các quốc gia theo hệ thống civil law, hình thức của giao dịch bảo đảm đối với động sản phổ biến là cầm cố (chuyển giao tài sản). Do đó, không đặt ra vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản, bởi bản thân việc chuyển giao đã xác lập hiệu lực đối kháng với bên thứ ba. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ đặt ra đối với việc thế chấp bất động sản.

Hiệu lực của việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản tại các quốc gia thuộc hệ thống này không giống nhau. Có thể tham khảo vấn đề nêu trên trong bảng dưới đây:

 

 

Pháp luật của Pháp

Pháp luật của Đức

Pháp luật của Nhật bản

Điều kiện hình thành vật quyền

Ký kết hợp đồng

Thoả thuận về vật quyền + đăng ký

Ký kết hợp đồng

Hình thái xác lập vật quyền

Nguyên tắc ý chí

Nguyên tắc hình thức

Nguyên tắc ý chí

Thời điểm xác lập vật quyền

Ký kết hợp đồng

Thời điểm đăng ký

Ký kết hợp đồng

Hiệu lực của việc đăng ký

Hiệu lực đối với bên thứ ba

Điều kiện xác lập quyền

Hiệu lực đối với bên thứ ba

Nghĩa vụ đăng ký

Bắt buộc

Không bắt buộc

Không bắt buộc

Công chứng giấy tờ đăng ký

Bắt buộc

Không bắt buộc

Không bắt buộc

 

2.3. Trong khi đó, tại các quốc gia như Mỹ, New Zealand, Canada …, bên cạnh việc đăng ký thế chấp bất động sản còn tồn tại việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản theo pháp luật của các quốc gia nêu trên chỉ làm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba.

          Việc xây dựng hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản xuất phát từ việc cho phép áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng động sản mà không chuyển giao tài sản bảo đảm (thế chấp bằng động sản). Do tính chất phong phú, đa dạng và dễ biến động (cả về không gian và quyền năng pháp lý) của động sản, nên việc đăng ký quyền sở hữu của động sản trong đa số trường hợp là không khả thi. Từ đó dẫn đến việc nhận thế chấp đối với động sản có nhiều rủi ro cho các chủ nợ, bởi nếu chỉ dựa trên nguyên tắc suy đoán thì không thể chắc chắn con nợ có quyền sở hữu đối với động sản đó hay không. Bên cạnh đó, sau khi đem tài sản đi bảo đảm, con nợ lại có thể dùng chính tài sản đó đi cầm cố, thế chấp ở nơi khác hoặc bán đi. Và việc tranh chấp về quyền đối với động sản đó nằm ngoài mong muốn của chủ nợ có bảo đảm và các chủ nợ trong tương lai cũng như người mua tài sản bảo đảm hoặc chủ sở hữu đích thực của tài sản. Đó là nguyên nhân tại sao, cùng với việc cho phép áp dụng các biện pháp bảo đảm không chuyển giao tài sản là động sản thì việc xây dựng hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản lại trở thành yêu cầu không thể thiếu.

          2.4. Tại Việt Nam, hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bảo đảm bằng động sản ra đời theo quy định của Nghị định 08 cũng gắn liền với việc cho phép thực hiện cầm cố (bằng động sản) mà con nợ vẫn giữ tài sản[11]. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của giao dịch bảo đảm.

          Đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản, việc đăng ký giao dịch bảo đảm làm phát sinh hai loại hiệu lực sau đây của giao dịch bảo đảm:

  • Là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất.
  • Là điều kiện làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của giao dịch trong trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản gắn liền với đất.

III. Đăng ký giao dịch bảo đảm và vấn đề xác định thứ tự ưu tiên thanh toán

1. Thứ tự ưu tiên thanh toán trong giao dịch bảo đảm

1.1. Quy định về thứ tự ưu tiên của các lợi ích bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống Common Law

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống  Common Law quy định về thứ tự ưu tiên (priority order) của các lợi ích bảo đảm khá phức tạp, theo đó, thứ tự ưu tiên của một lợi ích bảo đảm được hiểu là thứ tự ưu tiên thực hiện quyền đó đối với tài sản bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan đến tài sản đó trong trường hợp con nợ vi phạm cam kết về thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc thỏa thuận bảo đảm. Mặc dù hệ thống quy định về thứ tự ưu tiên trong Điều 9 UCC, Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada khá phức tạp như đã nói trên, nhưng chúng tuân thủ những nguyên tắc cơ bản nhằm xác định thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích bảo đảm cùng liên quan đến một tài sản, cụ thể là:

- Đối với cùng một tài sản bảo đảm, lợi ích bảo đảm đã hoàn thiện luôn có thứ tự ưu tiên cao hơn lợi ích bảo đảm chưa hoàn thiện.

          - Giữa hai lợi ích bảo đảm đã hoàn thiện, thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự hoàn thiện lợi ích bảo đảm (thứ tự đăng ký, chiếm hữu hoặc hoàn thiện tạm thời).

          - Giữa các lợi ích bảo đảm chưa hoàn thiện, thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự lợi ích bảo đảm phát sinh trên thực tế gắn với tài sản bảo đảm (attachment).

          Nguyên tắc này cũng được áp dụng để xác định thứ tự ưu tiên giữa các lơi ích bảo đảm liên quan đến bất động sản. Mục 301 Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm liên quan đến đất đai cũng quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các lợi ích bảo đảm theo nguyên tắc này, cụ thể là:

“Nếu hai lợi ích bảo đảm cùng chưa được hoàn thiện thì lợi ích bảo đảm nào “gắn liền” với bất động sản là tài sản bảo đảm trước sẽ có thứ tự ưu tiên cao hơn.

Thứ tự ưu tiên giữa hai lợi ích bảo đảm đã được hoàn thiện sẽ được pháp luật về hoàn thiện và thứ tự ưu tiên điều chỉnh”.

          1.2. Quy định về thứ tự ưu tiên giữa các quyền ưu tiên trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống Civil Law

          Như đã trình bày ở trên, trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống Civil Law, thì vấn đề thứ tự ưu tiên trong giao dịch bảo đảm chỉ được đặt ra đối với bất động sản. Bởi đối với động sản thì chủ nợ có bảo đảm thực hiện quyền chiếm giữ tài sản đó luôn được ưu tiên thanh toán.

          Giữa các quyền ưu tiên liên quan đến cùng một bất động sản được xác định theo một tiêu chí duy nhất là thứ tự đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Điều 2074 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: "Quyền ưu đãi này chỉ có hiệu lực đối với người thứ ba khi có một công chứng thư hoặc tư chứng thư đăng ký hợp lệ, ghi rõ số tiền cũng như chủng loại và bản chất của tài sản  cầm cố hoặc một bản kê chất lượng, số lượng và kích thước của tài sản đó". Điều 2134 cũng quy định: "Giữa những người có quyền, quyền thế chấp dù là thế chấp theo luật định, thế chấp theo quyết định của Tòa án hay thế chấp theo thoả thuận, chỉ được xếp thứ hạng kể từ ngày người có quyền đăng ký tại cơ quan đăng ký quản thủ theo đúng thể thức do pháp luật quy định".

2. Kết luận về vai trò của việc đăng ký giao dịch bảo đảm trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán

          Đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm có giá trị xác định thứ tự các quyền ưu tiên.

Trong khi đó, đối với giao dịch bảo đảm bằng động sản thì vấn đề xác định thứ tự ưu tiên giữa các bên nhận bảo đảm không được đặt ra trong hệ thống pháp luật civil law. Nguyên nhân là bên nhận bảo đảm luôn thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó thông qua việc cầm cố. Còn đối với những quốc gia có quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản, thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ là một trong những căn cứ xác định thứ tự ưu tiên. Thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm phải được đặt trong mối quan hệ với các thời điểm hoàn thiện giao dịch bảo đảm theo phương thức khác thì mới có thể xác định được thứ tự ưu tiên.

IV. Nguyên tắc đăng ký giao dịch bảo đảm

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo một trong hai nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất: Đăng ký thông báo;

Thứ hai: Đăng ký xác minh (hay còn gọi là đăng ký kèm theo giấy tờ chứng minh quyền lợi bảo đảm).

1. Theo nguyên tắc đăng ký thông báo, thì việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở Đơn yêu cầu đăng Ký, không kèm theo giấy tờ chứng minh quyền lợi bảo đảm và chứng minh cho các nội dung được kê khai trong đơn. Nhiệm vụ của Cơ quan đăng ký là đăng ký đúng, đủ các nội dung được kê khai trong đơn yêu cầu đăng ký. Tiêu biểu cho nguyên tắc này là mô hình đăng ký thông báo của Mỹ và Canada (theo chương 9 BLTM thống nhất - UCC). Hệ thống đăng ký thông báo có lợi thế cơ bản đó là: đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ đăng ký; việc thiết lập đăng ký nhanh chóng, tiết kiệm chi phí cho các bên tham gia giao dịch; bộ máy cơ quan đăng ký cũng như hệ thống lưu trữ thông tin, tài liệu đăng ký gọn nhẹ.

2. Với nguyên tắc đăng ký xác minh, thì việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở Đơn yêu cầu đăng ký và tùy từng trường hợp cụ thể còn kèm theo một số loại giấy tờ như: giấy tờ sở hữu, hồ sơ kỹ thuật, hợp đồng cầm cố, thế chấp. Quy trình đăng ký theo nguyên tắc này đòi hỏi sự kiểm tra của cán bộ đăng ký đối với các hồ sơ đăng ký. Lợi thế khi áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh là các thông tin có tính xác thực cao, đáng tin cậy. Tuy nhiên, hạn chế của nó đã được nhiều công trình nghiên cứu chỉ rõ: tốn kém thời gian, chi phí liên quan đến việc đăng ký, bộ máy cơ quan đăng ký cồng kềnh.

Việc áp dụng nguyên tắc đăng ký nào thường mang tính lịch sử và phụ thuộc vào chính sách lập pháp của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, có một điểm chung là nhiều nước áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh đối với đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản và chỉ trong một số trường hợp đối với động sản như tàu bay, tàu biển…Nguyên tắc đăng ký thông báo thường được áp dụng đối với việc đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng động sản.

Hiện nay, việc thiết lập mô hình đăng ký thông báo đối với động sản là một xu hướng có tính phổ biến[12], do các lợi thế mà hệ thống này đem lại, đặc biệt là trong việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế, bảo đảm giảm nhẹ chi phí quản lý, xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký cũng như các chi phí liên quan đến việc đăng ký cho các bên liên quan. Đồng thời tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch bảo đảm.

V. Nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm

Nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm là các thông tin được ghi nhận nhằm công khai hoá cho công chúng. Việc những thông tin nào cần được ghi nhận phải căn cứ vào mục đích, ý nghĩa của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm. Yêu cầu về thông tin khi đăng ký có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm. Bên cạnh đó, việc yêu cầu quá nhiều thông tin đăng ký còn có thể xâm phạm tới quyền tự do kinh doanh, ảnh hướng tới bí mật thông tin của doanh nghiệp. Do đó, chỉ những thông tin nào thực sự cần thiết, đáp ứng yêu cầu của hệ thống đăng ký thì mới buộc các bên phải kê khai.

Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm có thông báo cho các chủ nợ tiềm tàng về tình trạng tài sản được dùng để bảo đảm của bên nợ, chủ yếu là các vật quyền đối với tài sản bảo đảm. Tuỳ thuộc vào nguyên tắc đăng ký, thông báo đó có ý nghĩa cảnh báo hoặc có ý nghĩa xác thực. Do vậy, các thông tin cần thiết, đủ để thông báo cho các chủ nợ biết được tài sản đang được dùng để bảo đảm là đủ.

Để bảo đảm mục tiêu thông báo về các vật quyền đối với tài sản, những thông tin cần phải đăng ký bao gồm: thông tin về bên bảo đảm, thông tin về bên nhận bảo đảm hoặc người có vật quyền đối với tài sản, mô tả tài sản. Như vậy, các thông tin về trái quyền cơ bản không nên và cũng không cần thiết phải được đưa vào hệ thống đăng ký.

VI. Tổ chức hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm 

          1. Mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của một số quốc gia trên thế giới

1.1. Hệ thống cơ quan đăng ký tại Canada và Bắc Mỹ

          Một trong những mô hình đăng ký phổ biến tại Bắc Mỹ là hệ thống “New Brunswick”. Các bang hoặc quốc gia theo mô hình này thực hiện đăng ký kinh doanh tập trung cùng với đăng ký giao dịch bảo đảm bằng cả động sản và bất động sản, tách khỏi hệ thống cơ quan đăng ký tài sản (đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng). Trong trường hợp đăng ký các giao dịch liên quan đến động sản, bất động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì khi kê khai nội dung đăng ký sẽ viện dẫn về nơi đăng ký và số đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đó. Ưu điểm của hệ thống cơ quan này là:

  • Giúp xác định rõ ràng thứ tự ưu tiên thanh toán từ toàn bộ tài sản của bên vay, không kể tài sản đó có được đăng ký quyền sở hữu hay không;
  • Giúp cho bên vay tra cứu dễ dàng hơn khi tìm hiểu thông tin về việc tài sản của bên vay đã được cầm cố, thế chấp hay chưa;
  • Tạo điều kiện để bảo đảm bằng các động sản không có đăng ký sở hữu mà không phải giao tài sản đó cho bên nhận bảo đảm; tạo điều kiện cho việc nhận thế chấp, cầm cố cả những tài sản đang lưu thông để làm cơ sở cho việc cấp tín dụng- một phương thức phổ biến trong nền kinh tế thị trường phát triển;
  • Giảm chi phí, thời gian, thủ tục cho những người muốn cấp tín dụng khi xem xét đến khả năng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của con nợ;
  • Khi thực hiện hiện đại hoá hệ thống cơ quan đăng ký (vi tính hoá, ứng dụng đăng ký trực tuyến …) sẽ dễ dàng, nhanh chóng và ít tốn kém hơn so với việc thực hiện đồng bộ tại cả hệ thống cơ quan đăng ký được bố trí ở trung ương và địa phương.

          Riêng tại một số bang của Canada, bộ phận đăng ký giao dịch bảo đảm được tổ chức tập trung với các bộ phận đăng ký khác (bao gồm cả cơ quan đăng ký tài sản) trong cùng một cơ quan (Ví dụ, đăng ký đất đai, đăng ký kinh doanh, đăng ký xe cộ).

Cơ quan này có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

  • Cung cấp hồ sơ thông tin được công khai hoá
  • Quản lý, phổ biến và lưu giữ các hồ sơ đó
  • Đảm bảo dễ sử dụng và khả năng tiếp cận dễ dàng đối với công chúng

Sơ đồ tổ chức cơ quan đăng ký tập trung tại Canada:

1.2. Nhật bản

1.2.1. Tổng quan về hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm tại Nhật bản:

Đăng ký là việc ghi một số nội dung vào Sổ theo quy định pháp luật nhằm mục đích công khai hoá nội dung đăng ký cho công chúng ( như quyền lợi, chủ thể của các quyền v.v…) cho bên thứ ba là bên sẽ thực hiện giao dịch với một trong các bên đăng ký.

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm ở Nhật bản chủ yếu được thực hiện đối với bất động sản. Đây cũng là một trong những nội dung của đăng ký bất động sản. Theo quy định tại Điều 369 Bộ luật Dân sự Nhật bản, thì đối tượng thế chấp để vay vốn là bất động sản. Trong trường hợp thế chấp tài sản, thì bên thế chấp vẫn có quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản thế chấp. Do vậy, phạm vi đối tượng của quyền thế chấp đã được quy định trong một đạo luật chuyên ngành (ví dụ: Luật về thế chấp quỹ, tiêu biểu là thế chấp quỹ nhà máy; cầm cố động sản như ô tô, máy bay…). Như vậy, ở Nhật bản không có một hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản riêng biệt mà do cơ quan đăng ký bất động sản thực hiện.

Ngoài các bất động sản, động sản chỉ được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thông qua cầm cố. Do đó, Nhật Bản không có một hệ thống cơ quan nào thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Tuy nhiên, ngoài các bất động sản, giao dịch bảo đảm bằng quyền đòi nợ cũng được đăng. Và việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản này được thực hiện tập trung tại một trong số các cơ quan đăng ký bất động sản.

1.2.2.  Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản

1.2.2.1. Nội dung:  Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản là một trong những nội dung của chế độ đăng ký bất động sản nói chung. Thực chất, đây là chế độ công bố tình trạng vật chất và pháp lý của bất động sản thông qua việc vào sổ theo quy định pháp luật( Sở đăng ký), đồng thời công bó những biến động về quyền liên quan đến bất động sản đó ( như chuyển nhượng quyền sở hữu, thế chấp bất động sản v.v…).

Trong Sổ đăng ký bất động sản, chủ thể có quyền sở hữu được ghi vào phần “A” của trang trong Sổ đăng ký, các vật quyền ( quyền thế chấp, quyền sử dụng mặt đất được ghi vào phần “B” để là rõ mối quan hệ quyền lợi liên quan đến bất động sản đó.

1.2.2.2. Vấn đề hiệu lực của việc đăng ký

Ở Nhật bản, việc đăng ký là không bắt buộc. Hợp đồng thế chấp bất động sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên, nếu hợp đồng đó không được đăng ký theo chế độ đăng ký bất động sản thì không có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba.

1.2.2.3. Hiện trạng về tổ chức, hoạt động đăng ký

Việc đăng ký do cơ quan nhà nước thực hiện, cụ thể như sau:

Trong trường hợp dùng bất động sản để thế chấp, để việc thế chấp có hiệu lực đối với bên thứ ba, bên nhận bảo đảm cần thực hiện việc đăng ký. Việc đăng ký thế chấp được thực hiện tại các Trạm đăng ký là đơn vị ở cấp thấp nhất thực hiện việc đăng ký.

Hệ thống đăng ký gồm có : Cục pháp vụ ( Sở Tư pháp) vùng hoặc Cục pháp vụ địa phương, Chi Cục, Trạm đăng ký địa phương.

Nhật bản có các Trạm đăng ký được đặt tại khoảng 800 địa điểm trên cả nước. Người thi đỗ kỳ thi tuyển công chức nhà nước được tuyển dụng vào Cục pháp vụ và được giao công việc đăng ký. Hiện nay có khoảng 10.000 công chức nhà nước ( chuyên viên của Cục pháp vụ) làm công tác đăng ký.

Số lượng các Trạm đăng ký có xu hướng giảm dần do việc hợp lý hoá công tác đăng ký , cụ thể được nêu trong bảng dưới đây:

 

Năm

1/4/1955

1/4/1961

1/4/1996

1/5/1999

1/3/2002

Số lượng Trạm đăng ký

2.085

1.769

1.021

894

791

 

1.2.3. Đăng ký bảo đảm chuyển nhượng

a. Khái niệm: bảo đảm chuyển nhượng là chế định bảo đảm quyền đòi nợ thông qua việc chuyển quyền sở hữu vật bảo đảm từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm.

Về hiệu lực của bảo đảm chuyển nhượng : nói chung, khi con nợ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì chủ nợ có thể bán tài sản bảo đảm dể thanh toán nợ, Hoặc chủ nợ có thể sở hữu tài sản bảo đảm thay cho việc thanh toán nợ. Khi con nợ thanh toán nợ thì được trả lại tài sản bảo đảm.

Vật có khả năng chuyển nhượng thì có thể là đối tượng bảo đảm chuyển nhượng. Ngoài động sản, bất động sản, quyền đòi nợ, cổ phiếu, quyền tài sản đang hình thành như quyền là thành viên câu lạc bộ sân gôn v.v… cũng có thể là đối tượng bảo đảm chuyển nhượng.

Điều kiện để việc bảo đảm chuyển nhượng có hiệu lực đối với bên thứ ba: đối với động sản là giao vật, đối với bất động sản là đăng ký. Để việc bảo đảm chuyển nhượng đối với bất động sản có hiệu lực đối với bên thứ ba, thì khi đăng ký phải ghi rõ lý do bảo đảm chuyển nhượng, nếu không, việc bảo đảm chuyển nhượng đó sẽ không có hiệu lực đối với bên thứ ba.

Ngoài ra, nếu không đăng ký chuyển quyền sở hữu từ chủ nợ sang con nợ( trả lại vật bảo đảm) sau khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ, thì việc chuyển quyền sở hữu không có hiệu lực đối với người thứ ba.

Các giấy tờ kèm theo khi đăng ký bảo đảm chuyển nhượng: Giấy chứng nhận về lý do bảo đảm chuyển nhượng, giấy chứng nhận đăng ký, giấy chứng nhận con dấu, giấy chứng nhận nơi cư trú.

Đặc điểm của việc đăng ký nhằm công khai  hoá thông tin:

- Việc đăng ký phải do cả hai bên cùng thực hiện tại Trạm đăng ký ;

- Về nguyên tắc, đăng ký viên thực hiện việc đăng ký theo nội dung yêu cầu đăng ký ( đây là điểm khác biệt so với trường hợp xác định lý lịch đất. Đối với việc xác định lý lịch đất, nhiệm vụ đăng ký và nhiệm vụ điều tra thực địa được quy định rõ ràng.

- Trường hợp đăng ký viên phải đánh giá xem có thể thực hiện việc đăng ký hay không, thì chỉ có thể dựa trên một số tài liệu hạn chế, mà không thể yêu cầu các tài liệu khác như đối với thẩm phán.

- Việc đăng ký là điều kiện làm phát sinh hiệu lực đơi với bên thứ ba mà không phải điều kiện phát sinh hiệu lực của giao dịch.

1.3. Đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản tại Cộng hoà Pháp

1.3.1. Cũng như ở Nhật bản, Cộng hoà Pháp không có hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản. Việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản chỉ có hiệu lực đối với người thứ ba thông qua việc chuyển giao tài sản đó cho chủ nợ (cầm cố), do vậy việc công bố công khai quyền của chủ nợ đối với tài sản bảo đảm qua hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm là không cần thiết.

Đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản: đây được coi như một trong các giao dịch về bất động sản. Do đó, được thực hiện đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký bất động sản.

1.3.2. Hệ thống đăng ký bất động sản (bao gồm cả đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản) ở Pháp có nhiều điểm tương đồng với hệ thống đăng ký bất động sản ở Nhật bản. Cụ thể:

1.3.2.1. Bản chất của đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản nói riêng và đăng ký bất động sản nói chung là việc công bố các quyền đối vật đối với bất động sản. Hoạt động công bố giao dịch về bất động sản cho phép người thứ ba có liên quan biết được tình trạng pháp lý của bất động sản. Phương thức công bố các giao dịch về bất động sản là việc nộp đơn đăng ký các giao dịch đó tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Trường hợp một vật quyền không được đăng ký, thì sẽ không có giá trị pháp lý đối với người thứ ba.

1.3.2.2. Về mô hình cơ quan đăng ký cũng được tổ chức tập trung theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương, quản lý tập trung, thống nhất trong cả nước. Các Văn phòng trong hệ thống được phân định thẩm quyền theo địa giới hành chính và có địa vị pháp lý như nhau.

Cơ quan thực hiện việc đăng ký (công bố) các giao dịch về bất động sản là Phòng đăng ký giao dịch bảo đảm đối với bất động sản (gọi tắt là Phòng đăng ký giao dịch bảo đảm). Tuy có tên gọi là đăng ký giao dịch bảo đảm, nhưng trên thực tế, Phòng này đăng ký toàn bộ các giao dịch mà hậu quả pháp lý là xác lập các vật quyền đối với bất động sản, ví dụ như: mua bán, thế chấp, quyền hưởng dụng, quyền địa dịch, quyền ưu tiên mua … Cả nước Pháp hiện nay có 354 Phòng đăng ký, được chia thành 6 hạng. Số lượng cán bộ đăng ký mỗi Phòng do Bộ Tài chính, kinh tế và công nghiệp quyết định, căn cứ vào khối lượng công việc đã quy định (ví dụ: quy định trung bình mỗi cán bộ phải giải quyết 2.400 hồ sơ/năm. Nếu Phòng phải giải quyết trung bình 36.000 hồ sơ/năm, thì số lượng nhân viên là 15 người).

1.3.3. Tuy nhiên, khác với Nhật bản, hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản ở Pháp có những điểm đặc thù sau

1.3.3.1. Về hiệu lực của việc đăng ký: ngoài việc đăng ký làm giao dịch phát sinh hiệu lực đối với bên thứ ba thì một trong những điểm đáng lưu ý là việc đăng ký giao dịch về bất động sản có thể có hiệu lực hồi tố. Có nghĩa là việc đăng ký không chỉ có hiệu lực kể từ ngày đăng ký mà còn có thể có hiệu lực từ trước ngày đăng ký. Cơ chế hiệu lực hồi tố này được áp dụng chủ yếu đối với các trường hợp vay tiền để mua bất động sản.

1.3.3.2. Hình thức văn bản sử dụng trong đăng ký: theo quy định của pháp luật Pháp, mọi văn bản được sử dụng trong thủ tục đăng ký đều phải lập dưới dạng công chứng thư (văn bản do công chứng lập, văn bản của cơ quan hành chính, quyết định hoặc bản án của Toà án). Mọi văn bản không được lập dưới dạng công chứng thư sẽ không được Trưởng phòng đăng ký tiếp nhận và do đó không được đăng ký. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ngoại lệ. Đó là những văn bản viết tay được xếp vào số các văn bản gốc của công chứng viên (văn bản viết tay được chuyển cho công chứng viên xem xét và các bên liên quan đã thừa nhận chữ ký và chữ viết của mình trước công chứng viên).

Đối với văn bản được nhận ở nước ngoài, thì cơ quan đăng ký chỉ tiếp nhận khi được hợp thức hoá và được xếp vào số các văn bản gốc của một công chứng viên Pháp. Nếu văn bản được viết bằng tiếng nước ngoài, thì phải có bản dịch ra tiếng Pháp đã được chứng nhận đúng với bản gốc.

2. Những yêu cầu và mục tiêu trong việc xác định mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm

Việc xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm hữu hiệu sẽ góp phần hình thành một công cụ thiết yếu để thực hiện quản lý nhà nước, làm cho bên vay yên tâm và qua đó thu hút được nhiều nguồn vốn cho vay để đầu tư phát triển nền kinh tế.

Xét dưới góc độ lợi ích đối với xã hội và nền kinh tế, việc thiết lập hệ thống đăng ký các giao dịch bảo đảm, không phân biệt đó là biện pháp bảo đảm bằng động sản hay bất động sản, đều hướng tới các mục tiêu chủ yếu sau đây:

- Xác lập thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm bằng tài sản đó nói riêng cũng như đối với các chủ nợ khác nói chung;

- Tạo cho người có quyền lợi liên quan đến tài sản mà người khác đang nắm giữ, sử dụng khẳng định và bảo vệ quyền lợi của mình thông qua việc thông báo cho công chúng biết về sự tồn tại của quyền lợi đó;

- Tạo nguồn thông tin đáng tin cậy cho các chủ nợ trong tương lai biết tài sản nào hay toàn bộ tài sản của con nợ đang được đem cầm cố, thế chấp cho người khác hay chưa. Hệ thống này cũng tạo điều kiện cho những người có dự định xác lập các giao dịch liên quan đến một tài sản cụ thể có nguồn thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản đó (ví dụ: người định mua tài sản tìm hiểu xem tài sản đã bị thế chấp hay chưa).

- Góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về nội dung, trong đó có việc thống nhất pháp luật về nội dung và thủ tục, để cho các cá nhân, tổ chức thực hiện quyền của mình một cách thuận lợi, an toàn về mặt pháp lý.

Những mục tiêu trên đây cũng chính là đích hướng tới của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.

Để đáp ứng các mục tiêu nêu trên, phát huy hiệu quả hoạt động đăng ký, thì phải đổi mới hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm đáp ứng các yêu cầu về tính toàn diện để mọi tài sản (động sản và bất động sản) của người đi vay đều có thể dễ dàng đem thế chấp, cầm cố; tính hiệu quả, đơn giản và thuận tiện cho các chủ nợ và những người quan tâm khi sử dụng hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm.

B. THỰC TRẠNG ĐĂNG KÝ, CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM Ở VIỆT NAM

I. Thực trạng pháp luật về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm

1. Nhận xét chung

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó phải kể đến Bộ Luật Dân sự, Bộ luật hàng hải, Luật Hàng không dân dụng, Luật Đất đai, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính... Các văn bản này đã tạo thành khung pháp luật quan trọng cho lĩnh vực đăng ký nêu trên.

Cho đến nay, có thể nói rằng trong mọi lĩnh vực đăng ký chuyên ngành đều đã có các văn bản hướng dẫn thi hành. Qua việc áp dụng cho thấy, hầu hết các văn bản này đều đáp ứng được nhu cầu thực tế, rõ ràng, dễ hiểu, khả thi và phù hợp pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số quy định lạc hậu hoặc còn thiếu một số quy định cần thiết, đòi hỏi sớm được sửa đổi, bổ sung.

2. Một số hạn chế cơ bản của hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Hạn chế về phạm vi giao dịch bảo đảm được đăng ký

2.1.1. Về các trường hợp đăng ký

Các giao dịch bảo đảm thuộc diện đăng ký được quy định tại Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 08). Xuất phát từ đó, các giao dịch bảo đảm chỉ được cơ quan có thẩm quyền tiến hành đăng ký bao gồm việc thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản (nay bảo lãnh bằng tài sản được thay thế bằng thế chấp, cầm cố tài sản của người thứ ba). Ngoài ra, tài sản cho thuê tài chính cũng được đăng ký theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 16/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.

2.1.2. Một số hạn chế

Phạm vi đăng ký nêu trên có một số hạn chế như sau:

a)  Các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm không đăng ký các giao dịch bảo đảm khác khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức, ví dụ: bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản, thỏa thuận hạn chế quyền dùng tài sản để thế chấp, cầm cố, cho dù các giao dịch đó có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ. Tóm lại, các trường hợp đăng ký còn hạn chế do pháp luật chưa quy định đầy đủ các trường hợp cần phải được đăng ký.

b) Không bảo đảm xác định đầy đủ thứ tự các quyền ưu tiên thanh toán của các chủ nợ trong các giao dịch khác có liên quan đến tài sản bảo đảm. Các giao dịch đó bao gồm: bảo lưu quyền sở hữu, mua hàng trả góp, trả chậm, tài sản bị kê biên bảo đảm thi hành án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ: Ủy ban nhân dân (trong lĩnh vực quyền sử dụng đất), Tòa án (giải quyết các tranh chấp về tài sản, các quyền tài sản).

Vấn đề đặt ra là việc mở rộng đối tượng đăng ký đến đâu cần phải được xem xét ở nhiều góc độ, trong đó đặc biệt chú ý đến các quy định về giao dịch bảo đảm được quy định trong Bộ Luật Dân sự (BLDS). Yêu cầu này chỉ có thể đạt được khi BLDS quy định khái niệm giao dịch bảo đảm theo hướng đó là mọi giao dịch nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, không phụ thuộc vào tên gọi và hình thức của nó.

2.2. Hạn chế về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán căn cứ vào thời điểm đăng ký

2.2.1. Pháp luật hiện hành của Việt Nam về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán

Vấn đề các chủ nợ luôn quan tâm khi quyết định cấp tín dụng đó là vị trí, thứ tự ưu tiên của mình khi xử lý tài sản bảo đảm. Hiện tại, Bộ Luật Dân sự 2005 của Việt Nam đã có quy định rõ ràng về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm, theo đó, chủ nợ có bảo đảm được ưu tiên thu hồi nợ từ xử lý tài sản bảo đảm [[13]]. Trong trường hợp tài sản có đăng ký sở hữu được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, nhiều chủ nợ, thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác lập theo nguyên tắc thứ tự đăng ký[[14]] – đăng ký trước có quyền ưu tiên trước. Tuy nhiên, quy tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán hiện hành của Việt Nam chưa giải quyết được thực tế khi tài sản được bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, nhiều chủ nợ và có chủ nợ đăng ký giao dịch bảo đảm, có chủ nợ lại chiếm giữ tài sản.

Căn cứ xác định thứ tự ưu tiên thanh toán là thời điểm xác lập quyền đối kháng đối với người thứ ba. Do đó, pháp luật phải quy định rõ ràng cách tính thời điểm này trên cơ sở thời điểm đăng ký hoặc thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận bảo đảm giữ. Đây là hai phương thức công khai hóa các giao dịch bảo đảm. Muốn vậy, pháp luật cần làm rõ các vấn đề sau đây: các giao dịch bảo đảm thuộc diện đăng ký và ngược lại; giá trị của việc đăng ký.

2.2.2. Các ngoại lệ khi xác lập thứ tự ưu tiên thanh toán

Nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán theo thời điểm đăng ký hoặc theo thời điểm chuyển giao tài sản, về cơ bản bảo đảm được sự thống nhất, bình đẳng trong bảo vệ quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động kinh doanh đã chỉ ra một số hạn chế cần khắc phục, để tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa hiệu quả của giao dịch bảo đảm trong phát triển kinh tế, thương mại.

Giải pháp khắc phục bất cập trên đây đã được các nước theo hệ thống luật án lệ giải quyết khá triệt để, cụ thể tại Điều 9 Bộ Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) đã đưa ra các trường hợp ngoại lệ khi xác định thứ tự ưu tiên thanh toán. Theo đó, nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán theo thời điểm đăng ký hoặc chuyển giao tài sản không được áp dụng đối với các chủ nợ cấp tín dụng cho bên nợ để mua tài sản mới. Ngoại lệ này mở rộng khả năng tiếp cận của bên nợ để có tín dụng, tài sản mới khi đã cam kết sử dụng tài sản bảo đảm bằng toàn bộ (cam kết bảo đảm chung), đồng thời cũng thúc đẩy khả năng tài trợ của chủ nợ, bảo đảm an toàn, công bằng hơn cho quyền lợi của chủ nợ.

Để bảo đảm nguyên tắc này, pháp luật cần phải quy định một cách rõ ràng, đặc biệt thời hạn chủ nợ phải thực hiện đăng ký tài sản có được từ việc cấp tín dụng, thường là quy định một thời gian hợp lý cho việc đăng ký. Việc quy định thời hạn hợp lý thực hiện đăng ký trong trường hợp này sẽ bảo đảm cho chủ nợ đã đăng ký trước đó xem xét, quyết định có tiếp tục cấp tín nữa hay không khi tài sản sẽ có (tài sản mới này) lại không thuộc tài sản bảo đảm cho khoản tín dụng sẽ cấp.

          2.3. Hạn chế về phương thức đăng ký

          2.3.1. Đăng ký bằng giấy – phương thức chủ yếu của hệ thống đăng ký hiện hành của Việt Nam

          Hiện nay, các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm đều dựa trên phương thức đăng ký, cung cấp thông tin bằng giấy.

          Phương thức này có lợi thế về bằng chứng yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, nhưng lại phát sinh một số hạn chế như sau:

  1. Thời gian hoàn thành việc đăng ký giao dịch bảo đảm cũng như tra cứu thông tin về giao dịch bảo đảm bị kéo dài, gây tốn kém cho các bên liên quan.
  2. Có khoảng trống thông tin về giao dịch bảo đảm từ thời điểm nhận đơn đến thời điểm đơn được ghi nhận trong Sổ Đăng ký hoặc trong Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm. Từ đó, có thể gây rủi ro cho người yêu cầu cung cấp thông tin trong khoảng thời gian giải quyết đơn. Chính vì vậy, ở Bang Caliphonia của Hoa Kỳ (là nơi thực hiện việc đăng ký bằng giấy), chủ nợ thường phải lấy thông tin hai lần đối với một giao dịch bảo đảm. 
  3. Có thể phát sinh sai sót trong việc nhập dữ liệu từ đơn yêu cầu đăng ký vào Sổ Đăng ký hoặc Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm.
  4. Chi phí liên quan đến việc đăng ký, gửi đơn đăng ký cũng gia tăng, nếu địa điểm đăng ký ở xa.

          2.3.2. Đăng ký qua phương tiện điện tử - xu hướng phát triển tất yếu

          Đăng ký qua phương tiện điện tử có một số lợi thế cơ bản đó là:

  1. Giảm nhẹ gánh nặng cho người yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin phải đến cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, đặc biệt khi ở xa cơ quan đăng ký.
  2. Tiết kiệm chi phí, thời gian khi thực hiện đăng ký.
  3. Bảo đảm thực hiện đăng ký, tìm hiểu thông tin tức thời.
  4. Giảm bớt bộ máy của cơ quan đăng ký.

          2.4. Hạn chế trong quy định về mô tả tài sản bảo đảm

          Yêu cầu mô tả tài sản bảo đảm có ảnh hưởng đến việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Hệ thống pháp luật yêu cầu mô tả tài sản bảo đảm một cách chi tiết sẽ làm cho việc sử dụng tài sản bảo đảm gặp khó khăn. Một trong yếu điểm của hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm của những nước có nền kinh tế chuyển đổi tương tự như Việt Nam, có truyền thống lập pháp kiểu civil law, đó là yêu cầu mô tả tài sản bảo đảm quá chi tiết[15].

          Bộ luật dân sự của Việt Nam đặt ra yêu cầu đối tượng của nghĩa vụ phải được chỉ định cụ thể. Qui định này đã dẫn đến khó khăn trong việc sử dụng tài sản làm bảo đảm trong các giao dịch dân sự, kinh tế. Theo đó, các tài sản hình thành trong tương lai, tài sản luân chuyển sẽ không được coi là thỏa mãn yêu cầu về tính đích xác. Để tháo gỡ vướng mắc này, qui định trong Nghị định số 165/1999/NĐ-CP đã cho phép cầm cố, thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, cầm cố nguyên liệu, nhiên liệu, hàng hóa luân chuyển. Đây là bước đổi mới rất lớn trong qui định pháp luật về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam, tương thích với các qui định về giao dịch bảo đảm tiên tiến như UCC 9 và các nước theo hệ thống common law.

          Nghị định số 08/2000/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm đưa ra qui định theo đó cần phải mô tả tài sản bảo đảm khi thực hiện đăng ký, nhưng lại không qui định cách thức mô tả tài sản như thế nào. Hướng dẫn của Bộ tư pháp về thủ tục đăng ký đã đưa ra yêu cầu mô tả tài sản trong Đơn yêu cầu đăng ký và có hướng dẫn cụ thể về các trường hợp đăng ký thay đổi. Khi áp dụng quy định này trong thực tiễn đã không tạo thuận lợi cho việc đăng ký các tài sản bảo đảm. Trên thực tế, đối với tài sản hình thành trong tương lai, việc mô tả tài sản bao gồm số seri (trong trường hợp tài sản là ô tô, tàu bay, tàu biển) không thể thực hiện được. Thực chất, ảnh hưởng của yêu cầu về tính xác định của mô tả tài sản (đối tượng của nghĩa vụ) trong Bộ luật dân sự vẫn ăn sâu vào các văn bản pháp lý của Việt Nam, đặc biệt các qui định trong hệ thống ngân hàng càng rõ nét - yêu cầu về định giá tài sản là một ví dụ[16]. Do vậy, mặc dù Nghị định số 165/1999/NĐ-CP đã cho phép cầm cố, thế chấp tài sản hình thành trong tương lai và pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm (Thông tư liên tịch số 05, 03, Thông tư số 01) đã có quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai, song trong thực tế tổ chức thi hành các qui định này lại chưa thuận lợi, vì nhận thức của một số cán bộ đăng ký chưa đúng.

          Để mở rộng phạm vi tác dụng của biện pháp bảo đảm, tạo cơ hội thúc đẩy hơn nữa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm cho các qui định pháp luật về nội dung được thực thi trên thực tế, đòi hỏi qui định về mô tả tài sản bảo đảm trong qui định về đăng ký giao dịch bảo đảm phải ở mức độ hợp lý. Theo đó, việc mô tả tài sản bảo đảm ở mức độ chung là thích hợp, miễn là sự mô tả tài sản đó không gây nên sự nhầm lẫn. Tuy nhiên, đối với một số loại tài sản đặc thù như ô tô đã đăng ký sử dụng thì việc mô tả tài sản cần phải được ghi rõ số seri để bảo đảm đặc định hóa tài sản được dùng làm vật bảo đảm. Phương thức qui định này sẽ bảo đảm vừa mở rộng được việc sử dụng tài sản trong giao dịch bảo đảm, vừa bảo đảm được tính xác thực trong trường hợp cần thiết để bảo đảm quyền lợi của chủ nợ.

          2.5. Một số hạn chế khác trong pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản

          Thứ nhất, tuy pháp luật đã quy định về việc nhận bảo đảm tiền vay bằng hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh và thực hiện đăng ký những giao dịch bảo đảm đó (Nghị định 165, Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Nghị định 08/2000/NĐ-CP, Thông tư 06/2002/TT-BTP, Thông tư số 01/2002/TT-BTP, Thông tư 07/2003/TT-NHNN), nhưng các quy định hiện hành chưa bao quát hết những vấn đề phát sinh trong thực tế, dẫn đến việc các tổ chức tín dụng lúng túng, gặp không ít khó khăn khi thực hiện, cụ thể như sau:

          - Pháp luật hiện hành quy định việc bán tài sản bảo đảm là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh phải được thông báo cho bên nhận bảo đảm (điểm 2 mục II của Thông tư số 06/2002/TT-BTP) hoặc phải được bên nhận bảo đảm chấp thuận bằng văn bản (điểm 6 mục II Thông tư số 07/2003/TT-NHNN). Điều này không phù hợp với bản chất của loại tài sản bảo đảm này, cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của bên bảo đảm (khách hàng vay) cũng như khó thực thi trên thực tế. Ví dụ như một siêu thị muốn cầm cố bằng toàn bộ hàng hoá của mình trong siêu thị đó, thì khó có thể thực hiện theo đúng các quy định pháp luật hiện hành;

          - Theo quy định hiện hành, sau khi bán tài sản bảo đảm là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các bên phải lập phụ lục hợp đồng hoặc sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp đã ký để mô tả tài sản bảo đảm thay thế tài sản đã bán và phải thực hiện đăng ký tại cơ quan đã đăng ký giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, do tài sản bảo đảm được thay đổi liên tục, nên việc thực hiện các nghĩa vụ nêu trên sẽ gây mất thời gian, tốn kém chi phí cho các bên tham gia giao dịch bảo đảm.

          Với những vướng mắc nêu trên, pháp luật hiện hành chưa khuyến khích đầy đủ việc nhận bảo đảm tiền vay bằng hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản, kinh doanh, trong khi cần đa dạng hóa các tài sản bảo đảm. Điều này khác với xu thế nhận bảo đảm bằng tài sản tại các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển.

          Thứ hai, các quy định pháp luật về nhận bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai (bao gồm cả tài sản hình thành từ vốn vay) còn một số điểm chưa phù hợp với thực tế, cụ thể như sau:

          - Nghị định số 178/1999/NĐ-CP quy định tài sản bảo đảm tiền vay phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm (khoản 1 Điều 8). Tuy nhiên, đối với tài sản hình thành trong tương lai thì việc xác định giá trị tài sản trong khi chưa có tài sản đó là rất khó khăn, ví dụ: dựa trên căn cứ nào, pháp luật lại không quy định cụ thể.

          - Khi tài sản trong tương lai đã được hình thành, pháp luật yêu cầu các bên phải lập phụ lục hợp đồng mô tả cụ thể tài sản đó, cũng như xác định giá trị của tài sản… (điểm 8 mục II Thông tư 07/2003/TT-NHNN), đồng thời phải thực hiện đăng ký thay đổi nội dung giao dịch bảo đảm đã đăng ký (điểm 8 mục II Thông tư 07/2003/TT-NHNN, điểm 1 mục III Thông tư 01/2002/TT-BTP). Quy định nêu trên chỉ phù hợp trong trường hợp tài sản hình thành trong tương lai là một hoặc một số tài sản cá biệt (ví dụ: các tàu cá được đóng theo chương trình cho vay vốn để đánh bắt cá xa bờ). Nhưng đối với những trường hợp các bên thoả thuận về việc bảo đảm bằng một khối tài sản, bao gồm cả tài sản hiện tại và các tài sản hình thành trong tương lai (ví dụ: toàn bộ thiết bị sản xuất của một nhà máy, bao gồm các thiết bị đang có tại thời điểm ký kết hợp đồng và cả các thiết bị mà nhà máy sẽ mua trong tương lai bằng vốn vay hoặc vốn tự), thì quy định nêu trên là trở ngại lớn.

          - Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa quy định rõ về việc đăng ký đối với những tài sản mà từ khi ký kết hợp đồng bảo đảm đến khi được hình thành trong tương lai, tài sản đó có sự chuyển đổi từ động sản sang bất động sản hoặc ngược lại, như máy móc, thiết bị gắn liền với công trình xây dựng hoặc hoa lợi, mua màng. Ví dụ: khi ký kết hợp đồng bảo đảm tài sản hình thành trong tương lai là động sản (ví dụ: hệ thống thang máy đang trên đường vận chuyển), nhưng khi được đưa vào sử dụng và thuộc sở hữu của bên bảo đảm thì lại trở thành bất động sản do dụng ích (thang máy được gắn liền với công trình xây dựng), thì việc đăng ký thực hiện như thế nào, bởi hiện nay, việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản và bất động sản được thực hiện tại hai hệ thống khác nhau.

          Thứ ba, các quy định về trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản còn một số điểm cần được sửa đổi, bổ sung, cụ thể như sau:

          - Pháp luật chưa phân biệt rõ mức độ sai sót của người kê khai đăng ký, dẫn đến tình trạng: nội dung kê khai tuy chỉ có sai sót nhỏ, không ảnh hưởng đến bản chất của thông tin được đăng ký, nhưng nếu sửa chữa sai sót, các bên sẽ mất thứ tự ưu tiên thanh toán được xác lập trước đó. Ví dụ: kê khai sai địa chỉ của bên nhận bảo đảm, kê khai chưa đầy đủ, chính xác về hợp đồng tín dụng v.v…

          - Hệ thống mẫu đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản ban hành kèm theo Thông tư số 01/2002/TT-BTP và mẫu đơn yêu cầu đăng ký tài sản cho thuê tài chính ban hành kèm theo Thông tư số 04/2002/TT-BTP chưa thật sự đơn giản, thuận tiện đối với người kê khai đơn, trong một số trường hợp còn gây ra những nhầm lẫn không đáng có. Những hạn chế trên đây ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng động sản, bởi theo quy định tại Thông tư số 01/2002/TT-BTP và Thông tư số 04/2002/TT-BTP, thì cơ quan đăng ký có quyền từ chối thực hiện đăng ký nếu đơn kê khai không đầy đủ, không đúng hướng dẫn.

          Thứ tư, một trong những điểm hạn chế khác làm cho công tác đăng ký chưa phát huy hết được vai trò, hiệu quả vốn có là pháp luật chưa quy định về cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản giữa các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và hệ thống cơ quan đăng ký, quản lý các loại tài sản, quyền tài sản. Hiện nay, việc đăng ký giao dịch bảo đảm và đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng của một số động sản được thực hiện tại hai hệ thống cơ quan khác nhau, ví dụ: phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông đường thuỷ nội địa, tàu cá, quyền sở hữu trí tuệ v.v... Do đó, trong nhiều trường hợp, tài sản đã được đem cầm cố, thế chấp, nhưng cơ quan quản lý nhà nước không biết, nên vẫn tiến hành các thủ tục pháp lý liên quan đến việc chuyển dịch tài sản đó. Ví dụ: xe ô tô hiện nay được đăng ký lưu hành tại Bộ Công an, nhưng khi thế chấp lại được đăng ký tại Bộ Tư pháp. Do đó, ngay cả trong trường hợp người nhận thế chấp đã giữ giấy tờ xe (bản chính), thì chủ xe vẫn có thể báo mất giấy tờ để xin cơ quan công an cấp lại, sau đó bán xe cho người khác và làm thủ tục đăng ký sang tên mà không bị phát hiện. Điều này, một mặt làm các chủ nợ nghi ngờ vào tính hiệu quả của công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, mặt khác gây ra không ít khó khăn cho công tác đăng ký, quản lý tài sản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

          2.6. Một số hạn chế khác trong pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản

          Thứ nhất, trong khi tiến độ cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị còn chậm, thì Bộ luật dân sự, Luật Đất đai và các Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ đều quy định điều kiện để thế chấp quyền sử dụng đất, nhà ở tại đô thị là bên thế chấp phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị. Sự khập khiễng giữa pháp luật và thực tế trên đây khiến cho việc nhận bảo đảm tiền vay và thực hiện đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất gặp nhiều khó khăn.

          Thứ hai, lệ phí đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là 60.000 đồng chưa tạo điều kiện cho việc nhận bảo đảm tiền vay đối với những khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn có giá trị nhỏ, đối tượng khách hàng vay là cá nhân, hộ gia đình nông thôn và vùng sâu, vùng xa.

II. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm

          Với Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 08), hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam đã được thiết lập và hoạt động trên thực tế với vai trò của một trong những thiết chế quan trọng đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các giao dịch, mà trước hết là các giao dịch trong thị trường tài chính - tiền tệ ở Việt Nam.

          Theo Nghị định số 08, thì hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam được tổ chức như sau:

          - Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và chi nhánh (hiện là Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và các Trung tâm Đăng ký thuộc Bộ Tư pháp) thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển);

          - Cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực (thuộc Cục Hàng hải Việt Nam) thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển;

          - Cục Hàng không dân dụng Việt Nam thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay;

          - Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh, thành phố thực thuộc trung ương thực hiện đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, nếu bên thế chấp là tổ chức kinh tế, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài;

          - Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện; Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện đối với những nơi không thành lập hoặc chưa thành lập Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, nếu bên thế chấp, bên bảo lãnh là hộ gia đình, cá nhân trong nước.

1. Mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm 

 

 
 


          Theo quy định hiện hành, thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam được xác định căn cứ theo loại tài sản bảo đảm là bất động sản (quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất), tàu bay, tàu biển hay các động sản khác (trừ tàu bay, tàu biển). Mô hình tổ chức của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam được khái quát bằng sơ đồ dưới đây:   

 

 

          Mô hình nêu trên cho thấy, hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam được tổ chức phân tán, chưa có sự tập trung. Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản mới chỉ tập trung ở mức độ tương đối, vì việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện tại Chi cục đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam (hiện có 3 cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực tại 3 địa phương là Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh), các động sản khác (trừ tàu bay, tàu biển) được đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp. Trong khi đó, việc đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được thực hiện tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, tổ chức theo đơn vị hành chính ở cấp tỉnh và cấp huyện.

          Trên cơ sở nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam hiện bộc lộ những ưu điểm và nhược điểm sau:

          1.1. Ưu điểm

          a) Các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tàu bay, tàu biển được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng và các biến động khác liên quan đến tình trạng pháp lý của tài sản. Do vậy, đã tạo thuận lợi cho việc theo dõi lịch sử các biến động của các tài sản nêu trên. Khi muốn tìm hiểu thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm chỉ cần nộp đơn tại một cơ quan là có thể nhận được những thông tin cần thiết cho phép xác định chủ sở hữu tài sản, tình trạng biến động của tài sản.

          b) Với điều kiện địa lý của Việt Nam, hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được tổ chức đến cấp huyện, sẽ góp phần đảm bảo sự thuận tiện cho việc đăng ký và tìm hiểu thông tin trực tiếp của người dân trong lĩnh vực này. Trong thời gian tới, khi mà hệ thống đăng ký được hiện đại hoá, cùng với sự phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ góp phần quan trọng khắc phục những khó khăn về điều kiện địa lý tự nhiên.

          c) Đối với các giao dịch bảo đảm bằng động sản được tổ chức đăng ký tương đối tập trung, nên đã giảm được các chi phí đăng ký, tìm hiểu thông tin và thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất đối với một số lĩnh vực, như các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển và các động sản khác. Sự thuận lợi này cho phép đẩy nhanh tiến độ tin học hoá, nối mạng hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, trước hết là hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản ở Việt Nam trong thời gian tới.

          1.2. Nhược điểm

          a) Thực tế cho thấy, việc phân biệt thẩm quyền đăng ký giữa các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm gặp không ít khó khăn. Mặc dù, pháp luật đã phân định thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm theo từng loại tài sản: tàu bay, tàu biển, động sản khác (trừ tàu bay, tàu biển) và bất động sản. Song, để phân biệt tài sản gắn liền với đất và động sản trong nhiều trường hợp không thực sự rõ ràng, đặc biệt là đối với những tài sản gắn liền với đất, ví dụ: nhà ở di động, nhà có kết cấu bằng thép, giàn khoan thăm dò dầu khí, dây chuyền thiết bị trong những công trình đặc dụng như nhà máy điện, lọc dầu… Điều này không chỉ gây khó khăn cho cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và người yêu cầu đăng ký trong việc xác định thẩm quyền, mà còn dẫn đến những tốn kém về thời gian, chi phí, đặc biệt là có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi cho các bên khi tham gia giao dịch, bởi giá trị pháp lý của việc đăng ký sẽ có thể bị vô hiệu, nếu việc đăng ký được thực hiện không đúng thẩm quyền.

          b) Trong một thời gian dài, hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được tổ chức phân tán tại địa phương đã dẫn đến một mô hình tổ chức cồng kềnh, khó khăn trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất về các giao dịch bảo đảm (kể cả khi giới hạn cơ sở dữ liệu trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương); hạn chế khả năng dùng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền về địa hạt của cơ quan đăng ký, do khó khăn trong việc xác lập trật tự ưu tiên thanh toán theo phạm vi rộng. Từ đó dẫn đến các chi phí lớn hơn cho việc đăng ký và tìm hiểu thông tin so với mô hình tổ chức đăng ký tập trung.

          Bên cạnh đó, tổ chức hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chưa thực sự được chuyên môn hoá do thiếu cán bộ chuyên trách với chức danh Đăng ký viên. Hiện nay, Luật Đất đai năm 2003 quy định hệ thống Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất là tổ chức sự nghiệp có thu, thực hiện các hoạt động mang tính dịch vụ hành chính công. Song, các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tổ chức phân tán theo chủ thể tham gia giao dịch liên quan đến bất động sản là không phù hợp, vì không thể có thông tin đầy đủ, tập trung và kịp thời khi thay đổi các bên tham gia giao dịch (thay đổi đó dẫn đến thay đổi về cơ quan có thẩm quyền đăng ký. Do đó, hạn chế của mô hình tổ chức phân tán vẫn chưa khắc phục được, mặc dù số lượng cơ quan có thẩm quyền đăng ký đã giảm so với trước khi có Luật Đất đai năm 2003. 

          c) Mục tiêu xây dựng hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm gặp nhiều khó khăn do mô hình tổ chức phân tán. Cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản giữa các cơ quan có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin liên quan đến tình trạng pháp lý của tài sản gặp những trở ngại lớn. Đồng thời, để ứng dụng tin học vào lĩnh vực đăng ký, đòi hỏi kinh phí lớn gấp nhiều lần so với mô hình tổ chức tập trung hoặc ít nhất là giảm bớt đầu mối các cơ quan đăng ký.

          d) Việc lưu trữ thông tin phân tán tại các cơ quan đăng ký khác nhau, cho nên việc tìm hiểu thông tin cũng tốn kém về thời gian và chi phí. Nhiều cơ quan cùng có chức năng đăng ký, cung cấp thông tin về tài sản đã gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi xác định cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin liên quan đến một tàu sản nhất định. Việc tra cứu thông tin chậm do lưu trữ hồ sơ giấy với trình độ, thao tác mang tính thủ công, thiếu sự hỗ trợ cần thiết của các trang thiết bị hiện đại.

          đ) Chức năng quản lý về tổ chức và hoạt động của các cơ quan đăng ký do nhiều đầu mối thực hiện, dẫn đến một số hạn chế sau đây:

          Thứ nhất: Công tác đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được triển khai đồng đều, kịp thời.

          Thứ hai: Sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm chưa thống nhất, đồng bộ và chưa có tính hệ thống.

          Để khắc phục những hạn chế nêu trên, giải pháp quan trọng là phải kiện toàn mô hình tổ chức hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng giảm bớt đầu mối các cơ quan đăng ký, tiến tới tổ chức đăng ký tập trung vào một hệ thống thuộc tư pháp, vì thực chất đăng ký quyền sở hữu nói chung và các vật quyền khác nói riêng, trong đó có các giao dịch bảo đảm là hoạt động tư pháp. Đồng thời, cần tập trung chức năng quản lý nhà nước về đăng ký nêu trên vào một đầu mối, để đảm bảo tính thống nhất.

          Đánh giá một cách toàn diện, mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam, nhất là đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản hiện chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, đó là: An toàn (đảm bảo xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán), thân thiện với người sử dụng (tổ chức, cá nhân dễ dàng tiếp cận với dịch vụ đăng ký), tiết kiệm (giảm thiểu chi phí khi khách hàng tiến hành đăng ký, tìm hiểu thông tin về các giao dịch bảo đảm) và hiệu quả (với sự trợ giúp của các trang thiết bị trong quá trình đăng ký, giúp cho việc đăng ký được thực hiện nhanh nhất, với chi phí khiêm tốn nhất).

          Song, để xác định mức độ đăng ký tập trung của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam, cần phải xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, sao cho vừa đảm bảo được mục tiêu đề ra đối với một hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm hiện đại, vừa duy trì được sự ổn định trong hoạt động đăng ký, tránh những tác động tiêu cực đối với các giao dịch trong nền kinh tế.  

Thời gian tới, Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp về đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm.          Đây là một trong những vấn đề mấu chốt nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. 

2. Hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm 

          2.1. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp

          Theo Quyết định số 104/2001/QĐ-TTg ngày 10 tháng 7 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Theo đó, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là cơ quan có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, tổ chức việc đăng ký, cung cấp thông tin về các giao dịch bảo đảm theo thẩm quyền. Ngày 26/10/2001, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 412/2001/QĐ-BTP về Quy chế tổ chức và hoạt động của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Theo đó, bên cạnh chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm còn thực hiện nhiệm vụ đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển). Kể từ năm 2005, thực hiện chủ trương tách chức năng quản lý với chức năng đăng ký, nên Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã phê duyệt Đề án cho phép chuyển việc đăng ký giao dịch bảo đảm của Cục Đăng ký cho các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản.

          Từ ngày 12/3/2002, công tác đăng ký giao dịch bảo đảm đã được triển khai tại Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản số 1 đặt tại Hà Nội). Sau đó, Chi nhánh đăng ký giao dịch, tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản số 2) đã thực hiện đăng ký từ ngày 26/8/2002 và Chi nhánh đăng ký giao dịch, tài sản tại Thành phố Đà Nẵng (nay là Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản số 3) triển khai hoạt động đăng ký từ ngày 14/7/2004, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các tổ chức, cá nhân.

          Trên cơ sở kết quả hoạt động của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, có thể rút ra những kết luận sau:   

          a) Về kết quả đăng ký

          Kể từ khi chính thức triển khai hoạt động đăng ký cho đến cuối tháng 7/2006, các Trung tâm thuộc Cục Đăng ký đã tiếp nhận và giải quyết gần 80.000 hồ sơ yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, cho thuê tài chính. Kết quả thống kê cho thấy, số lượng các giao dịch bảo đảm được đăng ký năm sau cao hơn năm trước. Điều này chứng tỏ xu hướng phát triển của đăng ký giao dịch bảo đảm về quy mô, tổ chức, phương thức hoạt động trước sự vận động của nền kinh tế thị trường là kịp thời và đúng đắn. Số lượng các tổ chức tín dụng đăng ký danh sách khách hàng thường xuyên tiếp tục tăng,trong đó, phải kể đến các Ngân hàng có quy mô về vốn và có uy tín trên thị trường tài chính Việt Nam như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng liên doanh... Khách hàng không chỉ tập trung tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn mở rộng ra các tỉnh, thành phố trong cả nước như: Lạng Sơn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Thừa Thiên Huế, Đồng Nai, Cần Thơ... Theo thống kê của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, số lượng khách hàng thường xuyên hiện nay là 792 tổ chức tín dụng.

 

Tổng hợp số liệu về đăng ký giao dịch bảo đảm, cho thuê tài chính

Năm

Số lượng hồ sơ đăng ký

Số lượng cung cấp thông tin

2004

28.951

267

2005

(tính đến tháng 11/2005)

40.760

278

7 tháng/2006

22.102

143

 

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2004, 2005, 6 tháng đầu năm 2006, tháng 7/2006)

Kết quả trên cho thấy, lợi ích của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm đã được sự thừa nhận và đánh giá tích cực của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt là các tổ chức tín dụng. Song, do những khó khăn về cơ sở vật chất - kỹ thuật, do thiếu các quy định của pháp luật về giao dịch điện tử nên việc đăng ký qua mạng hiện chưa được triển khai tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục. Chính vì vậy, việc đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký này bộc lộ những hạn chế như: thời gian thực hiện đăng ký chưa đáp ứng tốt nhất yêu cầu đặt ra của nguyên tắc đăng ký thông báo; tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sai sót, nhầm lẫn trong quá trình nhập liệu; chi phí phục vụ cho việc đăng ký, cung cấp thông tin cao; khách hàng ở xa gặp khó khăn về chi phí khi tiếp cận với cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm...   

Thực tế cho thấy, số lượng đơn yêu cầu cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm không đáng kể. Theo số liệu thống kê của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, tính đến tháng 7/2006, tổng số lượng đơn yêu cầu cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm là 811 đơn. Sự hạn chế về số lượng đơn yêu cầu cung cấp thông tin thời gian qua bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến nguyên nhân do sự nhận thức chưa đúng đắn của các tổ chức, cá nhân trong xã hội về tầm quan trọng và lợi ích của các thông tin được cung cấp khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự - kinh tế và đặc biệt là các quy định của pháp luật nội dung chưa có quy định thừa nhận thông tin do cơ quan đăng ký có thẩm quyền cung cấp là chứng cứ không cần phải chứng minh trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm.  

b) Về quy trình đăng ký

Thời gian qua, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã triển khai một quy trình đăng ký đơn giản, nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng có điều kiện tiếp cận với hệ thống đăng ký. Nguyên tắc được áp dụng trong quá trình đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là nguyên tắc đăng ký thông báo, nghĩa là cán bộ đăng ký thực hiện đăng ký trên cơ sở đơn yêu cầu đăng ký của khách hàng. Với nguyên tắc này, cán bộ đăng ký chỉ kiểm tra tính hợp lệ của đơn yêu cầu đăng ký và không chịu trách nhiệm về tính xác thực của giao dịch do các bên xác lập. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm không làm phát sinh hiệu lực của giao dịch được bảo đảm, mà chỉ có ý nghĩa đối kháng với người thứ ba. Thời điểm đăng ký là cơ sở để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm. Nguyên tắc đăng ký thông báo đối với động sản là một nguyên tắc hiện được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trên thế giới.

Với quy trình đăng ký hiện nay, các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản đặt ra đối với một hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Đội ngũ cán bộ đăng ký tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm hiện đáp ứng tốt những yêu cầu đặt ra trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm về năng lực và chuyên môn nghiệp vụ. Cán bộ đăng ký đã được bồi dưỡng và được tạo điều kiện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đăng ký, đáp ứng tốt những yêu cầu đặt ra trong điều kiện hiện nay. Do vậy, đội ngũ cán bộ đăng ký đã góp phần tạo lòng tin cho khách hàng khi tiếp cận với hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc thẩm quyền đăng ký. Hiện nay, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã triển khai thực hiện Đề án đổi mới về tổ chức và hoạt động, theo đó các Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục sẽ hoạt động theo quy chế của đơn vị sự nghiệp có thu, với chức năng cung cấp dịch vụ công cho khách hàng. Mục tiêu đặt ra trong Đề án là tách hoạt động đăng ký khỏi hoạt động quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm. Đây là điều cần thiết, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong chương trình cải cách hành chính quốc gia là “tách hoạt động quản lý nhà nước khỏi hoạt động dịch vụ công”. 

Việc áp dụng nguyên tắc đăng ký thông báo phù hợp với tính chất của các giao dịch bảo đảm bằng động sản và thông lệ quốc tế. Song, thời gian tới, khi mở rộng phạm vi đối tượng đăng ký, một trong những yêu cầu đặt ra đối với Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là phải nâng cao hơn nữa trình độ, kỹ năng của cán bộ đăng ký. Việt Nam hiện vẫn chưa có văn bản pháp luật quy định về chức danh Đăng ký viên. Do vậy, việc chuẩn hoá đội ngũ cán bộ đăng ký và xác định trách nhiệm pháp lý của cán bộ đăng ký gặp nhiều khó khăn. Khắc phục được vấn đề này sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam.                        

Những kết quả đạt được trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản đã khẳng định sự phát triển của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp. Theo đánh giá của bà Elaine MacEachern - Cố vấn về quản lý đăng ký giao dịch bảo đảm của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) thì: “Bộ Tư pháp nói chung và Cục Đăng ký nói riêng cần được khen ngợi vì đã thực hiện thành công ý tưởng cải tiến giao dịch bảo đảm. Mặc dù, hiện còn công việc chưa hoàn thành nhưng họ vẫn được đánh giá là một cơ quan thành công”[17]. Theo dự kiến, Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm sẽ thành lập mới một số  các Trung tâm Đăng ký tại các địa phương như: Hải Phòng, Lạng Sơn, Cần Thơ. Đây là hướng đi đúng đắn và cần thiết nhưng đòi hỏi phải có sự đầu tư hơn nữa về kinh phí, con người và cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm.

Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã triển khai đồng bộ, hiệu quả hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển). Công tác đăng ký, cung cấp thông tin đã thực sự đi vào nề nếp và nhận được sự đánh giá tích cực của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, nhất là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.

2.2. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam

Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Theo quy định hiện hành, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam là cơ quan duy nhất có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay. Theo đó, Phòng Pháp chế phối hợp với các bộ phận có liên quan thụ lý hồ sơ xin đăng ký và cấp chứng chỉ đăng ký; Ban an toàn ghi chép các chi tiết đăng ký vào Sổ đăng bạ tàu bay.

          a) Về kết quả đăng ký

Theo số liệu thống kê, trong 2 năm (2003 - 2004), Cục Hàng không dân dụng Việt Nam mới chỉ thực hiện đăng ký được 09 giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, trong đó năm 2003 có 03 giao dịch và năm 2004 có 06 giao dịch được đăng ký.

Điều này cho thấy các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay ở Việt Nam hiện không nhiều với số lượng hồ sơ xin đăng ký thế chấp bằng tàu bay tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam không thường xuyên.

Ngành hàng không dân dụng hiện là một trong những lĩnh vực được nhà nước Việt Nam quản lý chặt chẽ, với số lượng các doanh nghiệp có đủ điều kiện, khả năng tham gia thị trường dịch vụ, vận chuyển bằng hàng không  khiêm tốn. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam chưa phát triển, thu nhập của người dân không cao, trong khi đó vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực hàng không đòi hỏi rất lớn nên nguồn lực xã hội không đủ khả năng đáp ứng. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến số lượng giao dịch bảo đảm bằng  tàu bay tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam hiện còn rất khiêm tốn.

b) Về quy trình đăng ký

Cục Hàng không dân dụng Việt Nam hiện áp dụng nguyên tắc đăng ký xác minh. Theo đó, việc đăng ký được thực hiện trên cơ sở thẩm tra, đối chiếu những thông tin trong hồ sơ đăng ký của khách hàng với các thông tin được lưu trữ tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam về chủ sở hữu, về tình trạng pháp lý - kỹ thuật của tàu bay được dùng làm tài sản bảo đảm. 

Theo quy định hiện hành, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay không chỉ có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba, mà còn là điều kiện để giao dịch có hiệu lực pháp luật. Điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế vì các hoạt động của hàng không dân dụng không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia, mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế với đòi hỏi tính an toàn rất cao cả về kỹ thuật và pháp lý. Xuất phát từ những đặc thù đó, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay hiện được thực hiện chặt chẽ về trình tự, thủ tục đăng ký. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài bay không chỉ nhằm xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các nghĩa vụ được bảo đảm và công khai hoá tình trạng pháp lý của tài sản, mà còn là điều kiện làm phát sinh giá trị pháp lý của giao dịch. Do vậy, cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay phải chịu trách nhiệm pháp lý về tính xác thực của hợp đồng.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Theo thông báo của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay do cán bộ, chuyên viên pháp chế của Cục đảm nhiệm. Cục Hàng không dân dụng Việt Nam chưa bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay và chưa tổ chức tập huấn về nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ đăng ký hoạt động kiêm nhiệm. Do số lượng các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay không nhiều, do vậy, việc bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện đăng ký là không cần thiết. Tuy chưa xảy ra những thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tàu bay song, theo chúng tôi, thời gian tới, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam cần bố trí cán bộ chuyên trách thực hiện việc đăng ký, cung cấp thông tin về các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay. Điều này sẽ tạo thuân lợi cho việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn - nghiệp vụ đăng ký, đảm bảo tính an toàn cho các giao dịch, ngăn chặn và giảm thiểu những thiệt hại có thể phát sinh khi thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin.   

Để phát triển hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, đặc biệt là đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, Việt Nam cần áp dụng tổng thể nhiều biện pháp nhằm kích thích sự phát triển về kinh tế - xã hội, tăng nhanh số lượng các giao dịch bảo đảm trong nền kinh tế thị trường.   

2.3. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm Chi cục đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam

Hiện nay, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện tại 3 cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực đặt tại: Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh.

a) Về kết quả đăng ký

Cùng với sự phát triển của loại hình vận chuyển bằng tàu biển, cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực đã có nhiều kinh nghiệm trong việc đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng tàu biển. Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, số lượng tàu biển được đăng ký thế chấp năm 2003 là 76 trường hợp, năm 2004 là 123 trường hợp. Qua đó, đã tạo ra một nguồn vốn lưu động cho các doanh nghiệp vận tải biển, góp phần nhân rộng và phát triển đội tàu biển của mình, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, từng bước chiếm lĩnh thị phần vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam.

b) Về quy trình đăng ký

Quy trình đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển hiện được đánh giá tốt, đơn giản và thuận tiện. Trong quá trình tác nghiệp, đội ngũ cán bộ đăng ký giao dịch bảo bằng tàu biển đã tạo điều kiện thuận lợi giúp khách hàng nhanh chóng thực hiện đăng ký. Theo quy định hiện hành, quy trình đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện theo nguyên tắc đăng ký xác minh. Trên cơ sở hồ sơ yêu cầu đăng ký, cơ quan đăng ký sẽ kiểm tra, đối chiếu với các thông tin được lưu trữ liên quan đến tình trạng thực tế - pháp lý của tàu biển. Nếu đủ điều kiện thì việc thế chấp sẽ được đăng ký. Thời điểm đăng ký là thời điểm các giao dịch được bảo đảm bằng tàu biển có hiệu lực pháp luật. Như vậy, cũng như việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển đòi hỏi cán bộ đăng ký phải đảm bảo tính an toàn pháp lý rất cao cho các giao dịch.

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Hiện nay, đội ngũ cán bộ đăng ký của các giao dịch bảo đảm bằng tàu biển là những cán bộ, công chức của cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, trực thuộc Chi cục hàng hải Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh. Đội ngũ cán bộ đăng ký thuộc lĩnh vực này cũng hoạt động mang tính kiêm nhiệm. Do được sự hướng dẫn về nghiệp vụ đăng ký từ các cán bộ pháp luật của Cục Hàng hải Việt Nam, nên việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển được thực hiện an toàn, đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi xây dựng chức danh Đăng ký viên, với những tiêu chuẩn về pháp luật, về kỹ năng - nghiệp vụ đăng ký..., đòi hỏi phải đào tạo một đội ngũ cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển chuyên trách, có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của công việc.    

2.4. Hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

Để kiện toàn về tổ chức và hoạt động của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, ngày 31 tháng 12 năm 2004, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT-BTNMT-BNV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Song, đến thời điểm hiện nay, công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chưa được triển khai tại nhiều địa phương theo đúng quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Tháng 9 năm 2004, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp đã tiến hành khảo sát về thực trạng đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại một số tỉnh, thành phố thuộc ba khu vực Bắc, Trung, Nam. Cụ thể như sau:

- Tại Thành phố Hà Nội: Tiến hành khảo sát tại 02 UBND phường; 02 UBND xã, thị trấn; 03 phòng công chứng; 08 tổ chức tín dụng.

- Tại Thành phố Hải Phòng: Tiến hành khảo sát tại Sở Tài nguyên và Môi trường; 02 UBND phường; 02 UBND xã, thị trấn; 01 phòng công chứng; 03 tổ chức tín dụng.

- Tại Tỉnh Yên Bái: Tiến hành khảo sát tại Sở Tài nguyên và Môi trường; 02 UBND phường; 02 UBND xã, thị trấn; 01 phòng công chứng; 01 tổ chức tín dụng.

- Tại Tỉnh Vĩnh Phúc: Tiến hành khảo sát tại 02 tổ chức tín dụng.

- Tại Thành phố Đà Nẵng: Tiến hành khảo sát tại Sở Tài nguyên và Môi trường; 02 UBND phường; 02 UBND xã, thị trấn; 02 phòng công chứng; 06 tổ chức tín dụng.

- Tại Tỉnh Quảng Nam: Tiến hành khảo sát tại Sở Tài nguyên và Môi trường; 02 UBND phường; 02 UBND xã, thị trấn; 01 phòng công chứng; 02 tổ chức tín dụng.

- Tại Tỉnh Quảng Ngãi: Tiến hành khảo sát tại Sở Tài nguyên và Môi trường; 03 UBND phường; 01 UBND xã, thị trấn; 01 phòng công chứng; 02 tổ chức tín dụng.

- Tại Thành phố Hồ Chí Minh: Tiến hành khảo sát tại Sở Tài nguyên và Môi trường; 02 phòng công chứng; 12 tổ chức tín dụng.

- Tại Tỉnh Bình Dương: Tiến hành khảo sát tại Sở Tài nguyên và Môi trường; 02 tổ chức tín dụng.

Kết quả khảo sát cho thấy, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hiện còn nhiều bất cập cần nhanh chóng khắc phục.

a) Kết quả đăng ký tại một số địa phương

Theo kết quả khảo sát, số lượng các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được đăng ký ngày càng tăng. Điều này chứng tỏ nhận thức của các tổ chức, cá nhân về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đăng ký giao dịch bảo đảm đã được nâng cao. Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, công tác đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất chưa được triển khai đồng bộ và rộng khắp. Tại thời điểm tiến hành khảo sát, còn không ít UBND xã, phường, thị trấn của các địa phương vẫn chưa triển khai việc đăng ký theo quy định của pháp luật như: UBND xã Bát Trang, huyện An Lão và UBND phường Lam Sơn, quận Lê Chân (T.P Hải Phòng); phần lớn UBND xã, phường, thị trấn của tỉnh Vĩnh Phúc (theo phản ánh của các tổ chức tín dụng có trụ sở hoạt động trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc).

Trên cơ sở báo cáo của 24 địa phương về việc triển khai công tác đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, cho thấy công tác này hiện có những vấn đề chủ yếu sau đây:

Thứ nhất: Việc triển khai công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các địa phương có sự không đồng đều, cụ thể như sau:

 

TT

ĐỊA PHƯƠNG

SỐ LƯỢNG

GHI CHÚ

1

Lạng Sơn

11 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

2

Tuyên Quang

06 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

3

Yên Bái

3605 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có 3577 giao dịch được

đăng ký

4

Phú Thọ

25 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

5

Ninh Bình

11 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

6

Thanh Hoá

69 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

7

Nghệ An

49 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

8

Quảng Bình

102 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

9

Quảng Nam

41823 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có 41790 giao dịch được

đăng ký

10

Long An

96 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

11

Lâm Đồng

37 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

12

Quảng Ninh

792 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có 704 giao dịch được

đăng ký

13

Vĩnh Phúc

21296 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có  21217 giao dịch được đăng ký

14

Quảng Trị

34 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

15

Đà Nẵng

13311 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có 13273 giao dịch được đăng ký

16

Quảng Ngãi

05 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

17

Hải Phòng

162 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình cá nhân

18

Điện Biên

Chưa triển khai thực hiện Nghị định số 08

 

19

Bà Rịa - Vũng Tàu

20216 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có 20109 giao dịch được đăng ký

20

Bình Phước

 23 giao dịch

Không thống kê

hộ gia đình, cá nhân

21

Gia Lai

13 giao dịch

Không thống kê hộ gia đình, cá nhân

22

Lào Cai

3540 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có 3516 giao dịch được đăng ký

23

Đồng Tháp

19056 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có 19050 giao dịch được đăng ký

24

Bình Dương

23984 giao dịch

Hộ gia đình, cá nhân có 22978 giao dịch được đăng ký

 

Kết quả thống kê cho thấy, các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố có tốc độ đô thị hoá cao. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan, vì ở những tỉnh, thành phố này, bất động sản có khả năng mang lại những giá trị kinh tế lớn và thị trường bất động sản có tốc độ phát triển nhanh.

Thứ hai: Từ thời điểm Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành đến tháng 5 năm 2005, ở 24 tỉnh, thành phố có tên nêu trên vẫn chưa thành lập xong hệ thống Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện. Sự chậm chễ trong việc kiện toàn tổ chức, hoạt động của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã dẫn đến những khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện quy định về đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.  

Thứ ba: Số lượng thế chấp được đăng ký, mà bên thế chấp là hộ gia đình, cá nhân chiếm tỷ lệ chủ yếu. Thực trạng này cho thấy, cần phải nâng cao hơn nữa năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký thế chấp ở cấp huyện nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn. 

Thứ tư: Công tác thống kê về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chưa được quan tâm đúng mức (trong số 24 tỉnh, thành phố có báo cáo gửi về Bộ Tư pháp, chỉ có 09 tỉnh tổng hợp được số lượng các giao dịch mà bên thế chấp là hộ gia đình, cá nhân). Sự yếu kém trong trong công tác thống kê về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đã dẫn đến những khó khăn trong việc hoạch định chính sách, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, cũng như khả năng cung cấp thông tin phục vụ thị trường bất động sản tại Việt Nam.

Những kết luận trên cho thấy, các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hiện vẫn chưa phát huy được tối đa hiệu lực, hiệu quả trong cuộc sống. Do vậy, hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện tốt các quy định của pháp luật là một trong những yêu cầu cấp bách của Việt Nam trong thời gian tới.

b) Về quy trình đăng ký

Trước ngày 01/7/2004, việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được thực hiện theo hướng dẫn trong Thông tư liên tịch số 03/2003/TTLT-BTP-BTNMT của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường  ngày 04/7/2003 hướng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký và cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Kể từ ngày Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành, thì trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đã có những thay đổi nhất định về thẩm quyền đăng ký, hồ sơ, thời hạn thực hiện đăng ký và giá trị pháp lý của việc đăng ký... Song, việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh vẫn được thực hiện theo nguyên tắc đăng ký xác minh. Với quy định của Luật Đất đai năm 2003, đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản không chỉ có ý nghĩa xác định thứ tự ưu tiên thanh toán và công khai hoá tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, mà còn là điều kiện làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng thế chấp, bảo lãnh. Trong thời hạn năm (05) ngày kể từ ngày ký kết hợp đồng tín dụng, các bên phải tiến hành đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Trên cơ sở hợp đồng đã được công chứng chứng nhận hoặc Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền chứng thực, trong thời hạn 05 ngày làm việc, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất phải kiểm tra, xác minh, đối chiếu những thông tin trong hồ sơ đăng ký với hồ sơ địa chính, nếu đủ điều kiện đăng ký theo quy định của pháp luật, thì chỉnh lý hồ sơ địa chính và chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp, bảo lãnh là thời điểm đăng ký.

Theo quy định hiện hành, thời hạn đăng ký đã được rút ngắn hơn so với trước (từ 07 ngày xuống còn trong ngày, trường hợp nhận hồ sơ vào cuối ngày thì có thể giải quyết trong ngày hôm sau) và ngoài Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người sử dụng đất có thể sử dụng một trong các giấy tờ hợp lệ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 để thực hiện đăng ký[18]. Tuy nhiên, trong đợt tiến hành khảo sát cuối tháng 4/2005 tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Phú Thọ, Thừ thiên-Huế, Đồng Nai do Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thực hiện với sự giúp đỡ của các chuyên gia của dự án JICA, các tổ chức tín dụng hoạt động tại các tỉnh, thành phố nêu trên cho biết quy trình đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất vẫn chưa thực sự thuận tiện, các quy định hiện hành chủ yếu và trước tiên phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, trách nhiệm của cơ quan công chứng, chứng thực và cơ quan đăng ký chưa được xác định cụ thể, hơn nữa, mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất chưa thể hiện rõ nét, cụ thể và đầy đủ nhất trong các quy định của pháp luật về đất đai. Vì vậy, nhiều quy định hiện chưa được áp dụng thống nhất, các cơ quan có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại nhiều địa phương chưa đảm bảo điều kiện tối đa để giúp các tổ chức tín dụng hoạt động hiệu quả, đặc biệt là tại các địa phương có tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn hạn chế. Đổi mới quy trình đăng ký, cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất cần được tiếp tục nghiên cứu để có những quy định theo hướng đơn giản hơn, tạo thuận lợi hơn cho sự vận động và phát triển của thị trường bất động sản, song vẫn đảm bảo được những yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai.

Kết quả khảo sát cho thấy, ở một số địa phương, cơ quan đăng ký chưa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký, đơn cử như: Thời gian đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hải Phòng có trường hợp kéo dài tới 03 tháng (theo phản ánh của các tổ chức tín dụng có trụ sở hoạt động tại Thành phố Hải Phòng tại buổi làm việc với Đoàn khảo sát của Cục ĐKQGGDBĐ ngày 24/9/2004) hoặc theo quy trình đăng ký được thực hiện tại UBND Thị trấn An Lão - Huyện An Lão (TP Hải Phòng), thì lệ phí đăng ký sẽ do UBND huyện thu (theo phản ánh của UBND Thị trấn An Lão với Đoàn cán bộ khảo sát của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm tháng 9/2004, thì quy trình trên do UBND huyện An Lão quy định); đặc biệt đến tháng 4/2005, khả năng cung cấp thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản tại các cơ quan có thẩm quyền đăng ký thế chấp, bảo lãnh vẫn rất hạn chế.

Để khắc phục những hạn chế nêu trên, một trong những giải pháp cần nhanh chóng thực hiện là các cơ quan chức năng phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm về đăng ký giao dịch bảo đảm, đặc biệt là đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của các Bộ, ngành có liên quan (Tư pháp, Ngân hàng, Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).

c) Về đội ngũ cán bộ đăng ký

Theo kết quả khảo sát được thực hiện vào tháng 9/2004, phần lớn đội ngũ cán bộ đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các địa phương, đặc biệt là cán bộ xã, phường, thị trấn chưa được bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ đăng ký. Tại Thành phố Hải Phòng, Tỉnh Yên Bái, Thành phố Đà Nẵng, Tỉnh Bình Dương, Tỉnh Quảng Ngãi... trình độ, năng lực của cán bộ đăng ký các giao dịch bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất rất hạn chế, đặc biệt là cấp xã hiện vẫn chưa có cán bộ đăng ký tốt nghiệp Đại học Luật, mà chủ yếu tự nghiên cứu các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, trong điều kiện các văn bản pháp luật không được cung cấp, cập nhật đầy đủ và kịp thời.

Mặt khác, số lượng cán bộ trực tiếp đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các địa phương rất mỏng, thực hiện kiêm nhiệm việc đăng ký, chưa có cán bộ chuyên trách. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn không ổn định do có sự luân chuyển theo nhiệm kỳ bầu cử.

Hạn chế của đội ngũ cán bộ đăng ký đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả của công tác đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Vì vậy, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là hết sức cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà các giao dịch dân sự - kinh tế liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày càng  tăng. Theo quy định hiện hành của pháp luật đất đai (Luật Đất đai năm 2003), việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện thực hiện, đội ngũ cán bộ đăng ký đã được nâng cao một bước về năng lực, trình độ, do vậy,  mục tiêu nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ đăng ký trong thời gian tới chắc chắn sẽ thuận lợi hơn.

Kết quả thu được từ hoạt động khảo sát đã chứng tỏ hạn chế của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ở Việt Nam. Để khắc phục những hạn chế trên, Việt Nam cần phải có sự đột phá về thế chế, chính sách và pháp luật, về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam. 

Theo báo cáo của 24 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và kết quả khảo sát do Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thực hiện tháng 4/2004, đội ngũ cán bộ đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ở cấp tỉnh (Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) đã tốt nghiệp Đại học. Tuy nhiên, số lượng cán bộ hiện vẫn còn thiếu, trong khi khối lượng công việc lớn, tính chất công việc phức tạp. Theo quy định của pháp luật về đất đai, ngoài thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, các cán bộ đăng ký còn có nhiệm vụ thực hiện các thao tác mang tính nghiệp vụ - kỹ thuật nhằm giúp cơ quan có thẩm quyền đánh giá về hiện trạng thửa đất, người sử dụng đất khi thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, trong nhiều trường hợp, thời hạn đăng ký thế chấp, bảo lãnh chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

3. Về mức độ ứng dụng tin học trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam

3.1. Hệ thống đăng ký giao dich bảo đảm của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm bước đầu đã được vi tính hoá, nối mạng. Hiện nay, hệ thống máy chủ được đặt tại Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm cho phép kết nối và lưu giữ thông tin với các Trung tâm Đăng ký của Cục đặt tại Thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh. Do vậy, khi người yêu cầu đăng ký thực hiện đăng ký tại một trong các Trung tâm, thì thông tin liên quan đến giao dịch đó sẽ được chuyển về hệ thống cơ sở dữ liệu do Cục quản lý. Đồng thời, khách hàng khi có nhu cầu tìm hiểu thông tin, thì có thể nộp đơn yêu cầu cung cấp thông tin tại bất kỳ địa điểm nào trong số cáẩmTung tâm Đăng ký. Với việc bước đầu ứng dụng về tin học, hệ thống đăng ký của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đã đáp ứng được nhu cầu đăng ký, tìm hiểu thông tin của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, qua đó cho phép xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các nghĩa vụ được bảo bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển) và tình trạng pháp lý của động sản trong các giao dịch dân sự - kinh tế.

Tuy nhiên, các thao tác nghiệp vụ của cán bộ đăng ký vẫn mang tính thủ công, vì việc nhập liệu được thực hiện trên cơ sở thông tin được người yêu cầu đăng ký kê khai trong đơn. Khoảng thời gian từ thời điểm nộp đơn yêu cầu đăng ký đến thời điểm thông tin được nhập vào cơ sở dữ liệu có thể ảnh hưởng đến mức độ và tính chính xác của thông tin cung cấp cho khách hàng. Một trong những mục tiêu đặt ra đối với hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm hiện đại là khả năng cung cấp thông tin về tính trạng của tài sản bảo đảm phải kịp thời, chính xác. Để đạt được điều đó, đòi hỏi công tác đăng ký của các Trung tâm Đăng ký bảo đảm phải nhanh chóng được tin học hoá, với sự trợ giúp đắc lực của các thiết bị kỹ thuật hiện đại trong quá trình thực hiện đăng ký.

Hiện nay, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm đang gấp rút xây dựng đề án hiện đại hoá hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc Cục. Việc thực hiện thành công đề án sẽ cho phép các tổ chức, cá nhân dễ dàng tìm kiếm các thông tin theo những tiêu chí nhất định, đồng thời sẽ giúp cho cơ quan đăng ký hạn chế được những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình đăng ký.

3.2. Theo Cục Hàng hải Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải, hiện nay, Cục Hàng hải Việt Nam đã triển khai xây dựng, lắp đặt xong mạng đăng ký tàu biển và thuyền viên trên cả nước và đưa vào sử dụng từ tháng 01 năm 2005. Thông qua mạng thông tin được kết nối giữa các cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, khách hàng có thể truy cập, tìm kiếm và được cung cấp thông tin theo các tiêu chí nhất định như: tên tàu/số hiệu/số IMO; Tên chủ tàu, tên cơ quan đăng ký thế chấp; Tên của các bên bảo đảm... tại các điểm đăng ký của Cục Hàng hải Việt Nam.

Do đó, việc xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm sẽ có nhiều thuận lợi và có thể đẩy nhanh tiến độ thực hiện trong thời gian tới khi tiến hành kết nối thông tin về giao dịch bảo đảm bằng tàu biển.

3.3. Theo Cục Hàng không dân dụng Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải tại Công văn số 2968/CHK-VP ngày 28 tháng 12 năm 2004, trả lời Công văn số 376/ĐKGDBĐ-NV ngày 20/12/2004 của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm về thực trạng công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay, thì cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay hiện sử dụng chung với các trang thiết bị của ngành hàng không, do số lượng các giao dịch bảo đảm bằng tàu bay trên thực tế không nhiều. Để thực hiện mục tiêu vi tính hoá, nối mạng nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về các giao dịch bảo đảm, đòi hỏi Nhà nước phải có sự đầu tư  kinh phí, con người và phương tiện vật chất - kỹ thuật. Tuy nhiên, khó khăn này có thể khắc phục được do công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay được thực hiện tập trung tại duy nhất một cơ quan, đó là Cục Hàng không dân dụng Việt Nam.

3.4. Trong khi đó, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các địa phương còn rất nghèo nàn, lạc hậu, chưa có sự đầu tư thoả đáng. Tại thời điểm Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm tiến hành khảo sát (tháng 9/2004), trong số các đối tượng được khảo sát, mới chỉ có Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư và bước đầu ứng dụng công nghệ tin học phục vụ cho công tác đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Bên cạnh đó, công tác lưu trữ hồ sơ đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất còn rất sơ sài, lạc hậu, chưa có sự hỗ trợ cần thiết của các phương tiện, máy móc hiện đại.

Ngoài cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh bước đầu đã được trang bị máy vi tính đơn chiếc phục vụ công tác lưu giữ thông tin về quyền sử dụng đất, các cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện vẫn chưa có sự đầu tư các trang thiết bị phục vụ công tác đăng ký, lưu giữ thông tin về đăng ký thế chấp, bảo lãnh và các thông tin liên quan đến quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. 

Bên cạnh đó, theo kết quả khảo sát của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thực hiện tháng 9/2004, ngoài một số đối tượng khảo sát thực hiện theo đúng hướng dẫn về ghi Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm như: UBND Phường Minh Khai (TP Hải Phòng), UBND Thị trấn Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), UBND phường Đồng Tâm (Yên Bái), UBND xã Uy Nỗ (Đông Anh – TP Hà Nội) và Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố, các đối tượng khảo sát vẫn chưa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về ghi Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm, cá biệt có địa phương thông tin về các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được ghi vào Sổ thị thực (UBND phường Lam Sơn - Lê Chân - Hải Phòng).

Những hạn chế về cơ sở vật chất - kỹ thuật đã dẫn đến những khó khăn trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, cũng như những khó khăn khi cần cung cấp các thông tin về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân.

Trong thời gian gần đây, thành phố Hà Nội đã bắt đầu thực hiện tin học hoá Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường. Như vậy, ngay chính hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất tại một địa phương (trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) chưa có sự kết nối thông tin với nhau. Với mô hình tổ chức cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn       liền với đất hiện nay, mục tiêu xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm sẽ gặp nhiều trở ngại[19].

III. Thực trạng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

Theo quy định hiện hành, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất về đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 5 Nghị định số 08) và Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là cơ quan thuộc Bộ Tư pháp, chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm (Điều 1 Quyết định số 104/2001/QĐ-TTg ngày 10/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp); Bộ Giao thông vận tải thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu biển, tàu bay (Điều 6 Nghị định số 08) và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất tại địa phương (Điều 7 Nghị định số 08).

1. Kết quả đạt được

Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đã đạt được những kết quả sau:

1.1. Về công tác xây dựng pháp luật

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các Bộ, ngành có liên quan đã xây dựng khung pháp lý trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý và đăng ký giao dịch bảo đảm, cũng như các tổ chức và cá nhân trong xã hội khi có nhu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm.

a) Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, như: Quyết định số 412/2001/QĐ-BTP ngày 26/10/2001 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp kèm theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp; Thông tư số 01/2002/TT-BTP ngày 28/9/2002 hướng dẫn một số vấn đề về thẩm quyền, trình tự thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm tại Cục Đăng ký QGGD BĐ thuộc Bộ Tư pháp và các Chi nhánh; Thông tư số 04/2002/TT-BTP ngày 22/02/2002 hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về tài sản cho thuê tài chính và việc quản lý Nhà nước về đăng ký tài sản cho thuê tài chính (gọi tắt là Thông tư số 04). Đồng thời, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch số 03/2003/TTLT-BTP-BTNMT ngày 04/7/2003 hướng dẫn về việc đăng ký, cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 03), Thông tư liên tịch số 05, Thông tư liên tịch số 03 sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 05 và phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 33/2002/TTLT-BTC-BTP về phí và lệ phí đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm và tài sản cho thuê tài chính. Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn tham gia góp ý, thẩm định Thông tư số 01/2004/TT-BGTVT ngày 16/1/2004 của Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn việc đăng ký tàu bay và đăng ký các quyền đối với tàu bay, trong đó có việc đăng ký thế chấp tàu bay.

Để đáp ứng những đòi hỏi của đời sống kinh tế - xã hội, nhằm đảm bảo tính thống nhất trong các văn bản pháp luật, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng Dự thảo Pháp lệnh về đăng ký giao dịch bảo đảm (hiện đã có dự thảo số 5) và dự thảo Luật Đăng ký bất động sản (hiện đã có dự thảo số 11), dự thảo Thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 33...

b) Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu bay, tàu biển, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 01/2004/TT-BGTVT ngày 16/1/2004 hướng dẫn việc đăng ký tàu bay và đăng ký các quyền đối với tàu bay. Bộ Giao thông vận tải đã soạn thảo Bộ luật Hàng hải để Chính phủ trình Quốc hội nhằm pháp điển hoá các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu biển. Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải đang tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc xây dựng dự thảo Pháp lệnh Đăng ký giao dịch bảo đảm.

c) Từ sau khi có Chỉ thị số 21/2003/CT-TTg ngày 02/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có những chuyển biến tích cực. Uỷ ban nhân dân một số địa phương đã ban hành Chỉ thị, Kế hoạch nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác đăng ký, cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ở địa phương như: Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu, Yên Bái, Đồng Nai, Hải Dương, TP Hồ Chí Minh, TP Hải Phòng..., trong đó xác định rõ cơ quan chuyên môn có tránh nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.

d) Theo quy định tại Nghị định số 08, Bộ Tài nguyên và Môi trường không phải là cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm nhưng với chức năng là cơ quan chịu trách nhiệm giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

 1.2. Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm. Do vậy, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan đã triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm, theo hướng ngày càng mở rộng hơn về đối tượng (không chỉ đối với tổ chức tín dụng, mà còn đối với các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong xã hội), đa dạng về hình thức (tổ chức Toạ đàm, mở các lớp tập huấn, phát hành các Số báo chuyên đề...). Cùng với mục tiêu hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký, một Website về đăng ký giao dịch bảo đảm đã được xây dựng và đưa vào sử dụng nhằm phục vụ  công tác tuyên truyền  về đăng ký giao dịch bảo đảm. 

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân trong xã hội về ý nghĩa, vai trò và nội dung của các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm. Điều này được minh chứng bởi số lượng các giao dịch bảo đảm được đăng ký đã không ngừng tăng trong thời gian qua và phạm vi hoạt động đăng ký được mở rộng khắp các tỉnh thành trong cả nước. Do vậy, đòi hỏi công tác đăng ký giao dịch bảo đảm phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội.         

1.3. Về công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ và ban hành, hướng dẫn theo thẩm quyền việc sử dụng các mẫu đơn, giấy tờ, sổ đăng ký 

Đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những lĩnh vực mới không chỉ đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội, mà còn mới ngay cả với chính cơ quan nhà nước. Do vậy, không phải trong mọi trường hợp, giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân đều có sự thống nhất khi nghiên cứu, áp dụng các quy định trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, nhất là trong điều kiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa thực sự đầy đủ, hoàn thiện, chưa theo kịp với sự vận động của thực tiễn đời sống. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Tư pháp đã kịp thời có văn bản hướng dẫn, giải đáp các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản, bất động sản của các cơ quan có thẩm quyền quản lý, đăng ký, các tổ chức (chủ yếu là các tổ chức tín dụng) và cá nhân trong xã hội.

Sự kịp thời tháo gỡ những vướng mắc phát sinh khi áp dụng các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm của các cơ quan quản lý nhà nước, mà trước hết và chủ yếu là Bộ Tư pháp (cụ thể là Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Cơ quan có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm trong phạm vi cả nước) đã góp phần hạn chế những ách tách trong quá trình thực hiện quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.

Cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật và triển khai hoạt động tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành và hướng dẫn việc sử dụng thống nhất các loại biểu mẫu, giấy tờ phục vụ cho công tác đăng ký như: sổ đăng ký giao dịch bảo đảm, mẫu đơn yêu cầu đăng ký... nhằm chuẩn hoá các thông tin về giao dịch bảo đảm được đăng ký, đáp ứng kịp thời và đầy đủ yêu cầu của công tác quản lý về đăng ký giao dịch bảo đảm. 

1.4. Một số vấn đề khác trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm         

a) Chế độ tổng hợp và báo cáo về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm đã được Bộ Tư pháp thực hiện nghiêm túc theo định kỳ. Qua đó, giúp Chính phủ Việt Nam kịp thời hoạch định, ban hành các chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, đáp ứng sự vận động của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần tạo lòng tin cho các cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

b) Công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đăng ký giao dịch bảo đảm cho cán bộ đăng ký (nhất là cán bộ đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng động sản) đã được Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành có liên quan triển khai kịp thời, thường xuyên, giúp cho việc áp dụng thống nhất và chính xác các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm, hạn chế tối đa những sai sót có thể phát sinh trong quá trình tác nghiệp.

Những kết quả đạt được trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đã đóng vai trò quan trọng trong định hướng và thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam. Bộ Tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã chủ trì, phối hợp một cách có hiệu quả với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và phát triển hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng khoa học, hiện đại. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm với vị trí, chức năng của mình, đã phát huy hiệu quả trong việc tham mưu, đề xuất với Bộ trưởng Bộ Tư pháp và chủ động triển khai thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.

Tuy nhiên, trước những đòi hỏi của thực tiễn, công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm cần tiếp tục có sự đổi mới, hoàn thiện về thể chế, với sự nỗ lực và phối hợp tích cực của các Bộ, ngành có liên quan. Có như vậy, hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam mới đáp ứng được nhu cầu và sự phát triển của nền kinh tế trong xu thế hội nhập đời sống kinh tế khu vực và  quốc tế.    

2. Những hạn chế còn tồn tại trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam hiện tồn tại những hạn chế sau:

2.1. Hệ thống văn bản pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm còn tản mát, chưa được pháp điển hoá trong những văn bản pháp luật có tính ổn định cao như: Luật, Pháp lệnh. Bên cạnh đó, vẫn có những quy định không phù hợp với tính chất của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường, chưa thúc đẩy nhanh sự hình thành và vận động của thị trường tài chính. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, mà còn dẫn đến những khó khăn, vướng mắc cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm trong giao lưu dân sự - kinh tế. Một hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa hoàn thiện, ổn định sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, do tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư.

2.2. Việc ban hành một số văn bản pháp luật không kịp tiến độ theo chương trình xây dựng pháp luật đã đề ra. Mặt khác, trong thực tế, nhiều văn bản pháp luật như Luật, Nghị định được ban hành và có hiệu lực, nhưng không thể triển khai thực hiện do thiếu văn bản hướng dẫn. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng các quy định của pháp luật chậm đi vào đời sống. 

2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ đăng ký chưa được thực hiện thường xuyên và chưa được chú trọng đúng mức. Kết quả khảo sát cho thấy, năng lực của cán bộ đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại nhiều địa phương rất yếu, chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao.

2.4. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được thực hiện sâu rộng và hiệu quả, vẫn còn không ít tổ chức và cá nhân trong xã hội chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vai trò, ý nghĩa và nội dung các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm, dẫn đến cách hiểu, cách thực hiện chưa thống nhất, chưa đúng pháp luật.

2.5. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và công tác kiểm tra việc thực hiện quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được một số cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này chú trọng đúng mức đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả của công tác đăng ký, dẫn đến tình trạng quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm có nơi được áp dụng chưa đúng, song, chậm bị phát hiện và xử lý.

2.6. Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm chưa được thiết lập đã hạn chế hiệu quả họat động của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam. Xét dưới góc độ lý thuyết, một trong những mục tiêu quan trọng của hệ thống đăng ký là khả năng công khai hoá thông tin về các giao dịch bảo đảm phải được thực hiện nhanh chóng và chính xác. Để đạt mục tiêu đó, Việt Nam phải xây dựng cho được một hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm.

2.7. Thời gian qua, nhiều Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, vẫn còn hiện tượng buông lỏng trong công tác quản lý, cụ thể như: chưa xác định cơ quan chuyên môn có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; chưa xây dựng đội ngũ cán bộ đăng ký có trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao; chưa đảm bảo cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho công tác đăng ký, chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thống kê số liệu về đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương.        

IV. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam

1. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm

1.1. Trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm chưa thực sự đơn giản, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, ví dụ như: những quy định về việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài sản luân chuyển trong quá trình sản xuất - kinh doanh; đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với trường hợp tài sản tiếp tục được sử dụng để bảo đảm cho khoản vay tiếp theo trong quan hệ tín dụng... Do vậy, không chỉ các tổ chức, cá nhân, mà ngay chính các cơ quan đăng ký cũng gặp khó khăn khi áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này.

Thời gian thực hiện các thủ tục đăng ký kéo dài, có thể phát sinh thiệt hại cho các chủ thể do cơ hội kinh doanh bị bỏ qua. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam.

1.2. Pháp luật về đăng ký bất động sản chậm được hoàn thiện, nhiều quy định chưa cụ thể, rõ ràng (nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà Luật Đăng ký bất động sản chưa được ban hành) là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự không an tâm từ phía các cơ quan có thẩm quyền khi xác nhận việc đăng ký đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, thì việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường bất động sản là rất cần thiết, do vậy, cần có sự nhìn nhận đầy đủ, đúng đắn hơn về giá trị và giá trị sử dụng đối với quyền sử dụng đất (một loại hàng hoá đặc biệt) từ góc độ chính sách và pháp luật.

1.3. Sự thiếu tương thích của mô hình tổ chức hệ thống cơ quan đăng ký các giao dịch bảo đảm hiện là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của hệ thống đăng ký. Khi cơ quan đăng ký được tổ chức không tập trung, sẽ dẫn đến khó khăn trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ đăng ký, làm phát sinh chi phí ngoài phí, lệ phí đăng ký, cản trở mục tiêu vi tính hoá, nối mạng nhằm xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm... Do vậy, đổi mới, hoàn thiện về tổ chức của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng đăng ký tập trung hiện nhận được sự ủng hộ của nhiều tổ chức tín dụng, nhiều nhà quản lý và hoạch định chính sách trong và ngoài nước. Để thực hiện được mục tiêu đó, trước hết, cần thiết lập một cơ chế phối hợp khoa học, hiệu quả giữa cơ quan đăng ký với cơ quan địa chính, nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân trong xã hội.

1.4. Theo kết quả khảo sát, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến yếu kém trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các địa phương là do cơ sở vật chất - kỹ thuật và đội ngũ cán bộ đăng ký còn nhiều hạn chế. Tại các cơ quan này, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công tác đăng ký rất thiếu thốn, trang thiết bị như: máy tính, phòng làm việc...thiếu sự đầu tư; đội ngũ cán bộ đăng ký phần lớn chưa được đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ, chưa nắm vững những quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm...

2. Một só nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

2.1. Các thiết chế quan trọng để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm vẫn còn hạn chế, ví dụ như: Hệ thống văn bản chưa có sự thống nhất, chậm được hoàn thiện; đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu, trình độ chuyên môn chưa đồng đều; cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý chưa được đầu tư thoả đáng; hệ thống cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm phân tán, đã ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

2.2. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa kịp thời, khoa học, dẫn đến khó khăn trong đề xuất cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm. Vai trò của Bộ Tư pháp trong việc giúp Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất công tác đăng ký giao dịch bảo đảm cần được nâng cao và cụ thể hóa hơn nữa trên cơ sở khắc phục các vướng mắc, bất cập cả về mặt thể chế. 

2.3. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương. Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về cơ quan chuyên môn có chức năng giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, mà giao cho Ủy ban nhân dân căn cứ vào thẩm quyền và điều kiện cụ thể của địa phương để phân công cho một cơ quan chuyên môn. Song, nhiều địa phương vẫn chưa có văn bản xác định cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng nêu trên. Theo kết quả tổng hợp, hiện mới chỉ có khoảng 28 Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có văn bản xác định cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký thế chấp, bảo lãnh tại địa phương.

2.4. Ở Việt Nam, hiện vẫn còn thiếu các chuyên gia pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm, đặc biệt là tại các địa phương, nên việc tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tế về chuyên môn chưa kịp thời, có trường hợp không chính xác, dẫn đến việc áp dụng, thi hành pháp luật của một số cơ quan đăng ký không thống nhất, thiếu chính xác.

3. Kết luận

Đăng ký giao dịch bảo đảm có ý nghĩa quan trọng nhằm minh bạch hoá các giao dịch dân sự - kinh tế, đảm bảo tính an toàn pháp lý cho sự vận động của thị trường tài chính - tiền tệ và tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Với ý nghĩa đó, Việt Nam đang hướng đến mục tiêu xây dựng một hệ thống đăng ký hiện đại, khoa học và hiệu quả. Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc củng cố niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam đã thành công trong việc thiết lập, từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách và các công cụ khác, đặt nền móng cho việc xây dựng một hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm hiện đại. Song, bên cạnh đó, hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế và khó khăn cần kịp thời khắc phục, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của tiến trình hội nhập đời sống kinh tế khu vực và quốc tế. 

C. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ, CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

I. Hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm

Hạn chế của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm đã cản trở khả năng phát triển của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam. Một trong những lo ngại của các nhà đầu tư là tính không ổn định, tính thiếu thống nhất trong các quy định của pháp luật. Do vậy, hoàn thiện pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với tương lai của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, cũng như tốc độ phát triển của thị trường tài chính - tiền tệ, nhất là khi Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Cùng với các hoạt động rà soát nhằm loại bỏ những quy định không phù hợp, mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật hiện hành, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng và ban hành văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như: Luật Đăng ký bất động sản, Pháp lệnh Đăng ký giao dịch bảo đảm.

Trong việc hoàn thiện pháp luật nêu trên, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã và đang phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng dự thảo Pháp lệnh Đăng ký giao dịch bảo đảm, trong đó có các vấn đề chủ yếu sau đây: 

1. Mục đích xây dựng Pháp lệnh

1.1. Mục đích hoàn thiện pháp luật

- Thống nhất pháp luật trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Hủy bỏ những quy định không còn phù hợp trong pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm;

- Bổ sung những quy định cần thiết, phù hợp với thực tiễn khách quan của đời sống kinh tế, xã hội.

1.2. Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, cụ thể là hình thành các thiết chế thị trường thông qua việc xây dựng hệ thống cơ quan công khai hoá các quyền đối với tài sản.

1.3. Mục đích phát triển các hoạt động kinh tế

- Thông qua việc xây dựng cơ chế đăng ký đơn giản, thuận tiện và một hệ thống cơ quan đăng ký dễ tiếp cận, tạo điều kiện cho các chủ nợ, các nhà đầu tư dễ dàng, nhanh chóng xác định được quyền, lợi ích của mình đối với tài sản bảo đảm, các khoản đầu tư, nhờ đó, góp phần thúc đẩy các hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc tiến hành các giao dịch kinh tế, thương mại;

- Tạo dựng điều kiện pháp lý giúp các thành phần kinh tế có thể vừa thu hút vốn đầu tư (trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính), vừa tiếp tục sử dụng các nguồn lực kinh tế hiện có để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh.

2. Quan điểm cơ bản trong việc soạn thảo Pháp lệnh

2.1. Thể chế hoá chủ trương cải cách tư pháp, cải cách hành chính vào lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tiếp cận với hệ thống các cơ quan đăng ký, được cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết để xem xét, quyết định trước khi giao kết các giao dịch dân sự, kinh tế.

2.2. Nội dung của dự thảo phải đáp ứng yêu cầu công khai hoá và minh bạch các giao dịch bảo đảm; phù hợp với các quy định có liên quan trong Bộ Luật Dân sự 2005 và các văn bản pháp luật khác, nhằm thúc đẩy sự phát triển các giao dịch bảo đảm nói riêng và giao dịch dân sự, kinh tế nói chung.

2.3. Kế thừa và pháp điển hóa các quy định hiện hành còn phù hợp; vận dụng kinh nghiệm tốt của nước ngoài phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

2. 4. Từng bước đổi mới về tổ chức các cơ quan đăng ký, hướng tới mục tiêu giảm bớt đầu mối các cơ quan đăng ký, đăng ký tập trung, nối mạng và tin học hoá theo Chỉ thị số 21/2003/CT-Ttg ngày 02/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đăng ký giao dịch bảo đảm.

2.5. Mở rộng phạm vi các trường hợp đăng ký giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm, để tăng cường an toàn pháp lý cho các giao dịch và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin.

2. 6. Thống nhất quy trình đăng ký các giao dịch bảo đảm, đồng thời chú trọng tới các điểm đặc thù đối với việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; bảo đảm các nguyên tắc: Đơn giản, thuận tiện, khoa học và chính xác trong quy trình đăng ký, cung cấp thông tin; công khai hoá các giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm cho mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu; xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán.

3. Một số nội dung cơ bản cần được giải quyết trong dự thảo Pháp lệnh

3.1. Về phạm vi áp dụng

Một trong những điểm nổi bật của dự thảo Pháp lệnh là cần mở rộng phạm vi áp dụng, cụ thể là:

Dự thảo quy định về thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và trình tự, thủ tục đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm; được áp dụng thống nhất đối với các cá nhân là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài; tổ chức trong nước và nước ngoài, nếu giao dịch bảo đảm được giao kết, thực hiện tại Việt Nam hoặc tài sản bảo đảm có tại Việt Nam.

So với Nghị định số 08, dự thảo này cũng cần quy định về trình tự, thủ tục đăng ký các lợi ích được bảo đảm, được hiểu là các lợi ích vật chất của tổ chức, cá nhân gắn liền với tài sản thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân khác hoặc tài sản đang do tổ chức, cá nhân khác chiếm hữu hoặc sử dụng. Các lợi ích được bảo đảm này có thể được xác lập theo hợp đồng (Thuê mua tài chính; thuê tài sản, bán, chuyển nhượng quyền yêu cầu thanh toán, bán hợp đồng mua bán có bảo đảm, bán hàng thông qua đại lý v.v…), có thể được xác lập theo quy định của pháp luật (quyền ưu tiên thanh toán, quyền cầm giữ) hoặc được xác lập theo bản án, quyết định của Toà án, quyết định của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (quyền được ưu tiên thanh toán từ tài sản kê biên để thi hành án; từ khối tài sản của con nợ, bên có nghĩa vụ bị phong toả, cấm chuyển dịch theo quyết định của Toà án v.v…)

Theo ý kiến của các chuyên gia quốc tế, những lợi ích được bảo đảm nêu trên, tuy không có tính chất như các giao dịch bảo đảm, nhưng cần thiết được đăng ký, vì lý do muốn tạo cơ hội tối đa để các chủ nợ (hiện tại và trong tương lai) biết được liệu đã có quyền, lợi ích nào của bên thứ ba được thiết lập trên vật được dùng làm tài sản bảo đảm chưa. Theo như quy định hiện hành, thì chỉ đăng ký thế chấp và hợp đồng cho thuê tài chính. Do đó, nếu một người tìm hiểu thông tin tại cơ quan đăng ký, thì chỉ có thể tìm được thông tin liên quan đến việc thế chấp và cho thuê tài chính. Tuy nhiên, có những giao dịch không phải giao dịch bảo đảm, nhưng nó có liên quan tới một số chủ nợ, và dưới con mắt của các chủ nợ, thì các giao dịch này được coi như giao dịch bảo đảm.

Do đó, việc mở rộng phạm vi áp dụng như trên đáp ứng yêu cầu công khai hoá và minh bạch các giao dịch bảo đảm, tăng cường an toàn pháp lý cho các giao dịch và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin, vì vậy cần thiết phải được đưa vào phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh.

3.2.  Về nguyên tắc đăng ký

Dự thảo cần quy định, đối với tài sản bảo đảm là động sản, thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm mang tính tự nguyện và việc đăng ký được thực hiện theo nguyên tắc đăng ký thông báo, nguyên tắc công khai các giao dịch đã đăng ký cho mọi người có nhu cầu tìm hiểu. Nguyên tắc đăng ký thông báo được hiểu là các bên kê khai trong đơn nội dung thế nào, thì cơ quan đăng ký sẽ ghi nhận những nội dung đó, đưa vào Cơ sở dữ liệu và cung cấp cho tất cả những người có nhu cầu tìm hiểu. Cơ quan đăng ký không kiểm tra tính hợp pháp của những nội dung được các bên đưa vào đơn yêu cầu đăng ký. Tính hợp pháp của giao dịch, đặc biệt là việc quyền sở hữu thuộc về ai, do các bên tự tìm hiểu và chịu trách nhiệm với nhau.

Các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản cũng được đăng ký theo nguyên tắc thông báo đối với những trường hợp phải công chứng, chứng thực. Lý do: cơ quan công chứng, chứng thực đã chịu trách nhiệm về tính xác thực, tính hợp pháp của nội dung được đăng ký, do đó, việc cơ quan đăng ký kiểm tra lại là không cần thiết và có thể dẫn đến sự chồng chéo, không rõ ràng khi xác định trách nhiệm.

Còn đối với những trường hợp dùng bất động sản khác để thế chấp, do hiện nay chưa có quy định về đăng ký sở hữu các tài sản đó, nên cơ quan đăng ký không thể kiểm tra và đứng ra bảo đảm về tính hợp pháp của giao dịch. Việc kiểm tra chỉ khả thi, nếu bất động sản đó đã được đăng ký quyền sở hữu, do đã đăng ký quyền sở hữu thì cơ quan đăng ký mới có nguồn thông tin để xác thực rõ ràng bên bảo đảm có phải là chủ sở hữu tài sản hay không; còn những trường hợp không đăng ký quyền sở hữu thì cơ quan đăng ký khó có thể làm được. Do đó, dự thảo cần quy định các bên chịu trách nhiệm về nội dung đăng ký đối với các trường hợp bảo đảm bằng tài sản không có đăng ký quyền sở hữu.

3.3. Nội dung đăng ký

Việc xác định những thông tin được đăng ký căn cứ vào nhu cầu tìm hiểu thông tin của công chúng, nhưng đồng thời phải bảo đảm sự đơn giản, thuận tiện khi kê khai, hạn chế tối đa những sai sót, nhầm lẫn có thể mắc phải khi kê khai thông đăng ký; đồng thời, bảo đảm tính thống nhất về cấu trúc dữ liệu nhằm phục vụ việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm.

Căn cứ vào những yêu cầu trên, những nội dung thông tin đăng ký được xác định gồm có:

* Đối với đơn yêu cầu đăng ký lần đầu có các nội dung chủ yếu sau đây:

- Thông tin đầy đủ về bên bảo đảm và bên được bảo đảm;

- Mô tả về tài sản bảo đảm;

- Mô tả về nghĩa vụ được bảo đảm hoặc quyền được xác lập đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể mô tả theo giá trị, phạm vi hoặc theo cơ sở pháp lý để xác lập nghĩa vụ hoặc quyền đó.

* Đối với đơn yêu cầu sửa đổi, bổ sung đăng ký, gia hạn đăng ký, xoá đăng ký gồm có những nội dung chủ yếu sau đây:

- Thông tin về yêu cầu đăng ký cần sửa đổi, bổ sung, gia hạn, xoá;

- Thông tin về người yêu cầu đăng ký, trừ trường hợp đăng ký qua mạng;

- Nội dung và thông tin cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung đăng ký, gia hạn đăng ký, xoá đăng ký.

Ngoài ra, Dự thảo cần đưa ra nguyên tắc chung về việc mô tả tài sản, đó là: tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung chung, nhưng cần phải rõ ràng, phù hợp với thoả thuận của các bên và không gây nhầm lẫn cho người tìm hiểu thông tin về tài sản bảo đảm, lợi ích được bảo đảm, đồng thời có hướng dẫn về việc mô tả tài sản bảo đảm trong một số trường hợp cụ thể.

So với quy định của pháp luật hiện hành, dự thảo có thể đưa ra một số phương án nhằm xác định thứ tự ưu tiên giữa các quyền, lợi ích cùng được xác lập đối với một tài sản thông qua việc mô tả tài sản khi đăng ký, cụ thể là:

- Mức độ rõ ràng khi mô tả tài sản bảo đảm là động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc là phương tiện giao thông cơ giới là một trong các căn cứ để giải quyết tranh chấp về thứ tự ưu tiên giữa các quyền, lợi ích được bảo đảm bằng một tài sản.

- Việc mô tả chung chung về tài sản bảo đảm không xác lập hiệu lực đối kháng với người nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm là hàng tiêu dùng.

3.4. Giá trị pháp lý của việc đăng ký và nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên

a) Về giá trị pháp lý của việc đăng ký

Việc đăng ký làm giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý với người thứ ba và thời điểm đăng ký là căn cứ xác định thứ tự ưu tiên giữa các nghĩa vụ được bảo đảm bằng một tài sản hoặc có liên quan đến cùng một tài sản. Đây là điểm quan trọng trong việc thực hiện đăng ký theo nguyên tắc thông báo. Thông thường, hợp đồng bảo đảm được ký kết chỉ có giá trị pháp lý đối với các bên tham gia ký kết hợp đồng đó (được coi là luật của các bên tham gia hợp đồng). Tuy nhiên, thông qua việc đăng ký (và một số phương thức công khai hoá khác), hợp đồng bảo đảm sẽ có giá trị pháp lý đối với người thứ ba bởi đã được công bố công khai cho công chúng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, với giá trị pháp lý nêu trên, thì việc đã thực hiện đăng ký không phải là căn cứ pháp lý để xác lập quyền đối với tài sản bảo đảm, cũng như không làm cho giao dịch có nội dung vi phạm pháp luật trở nên có hiệu lực pháp lý.

 Các trường hợp không thừa nhận giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm

Về nguyên tắc, việc đăng ký giao dịch bảo đảm làm phát sinh các giá trị pháp lý theo quy định của Pháp lệnh này. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp, thì việc xem xét, quyết định về giá trị pháp lý của việc đăng ký sẽ do Toà án quyết định căn cứ vào các yếu tố sau đây:

- Trừ trường hợp giao dịch bảo đảm được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc bản án, quyết định của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực pháp lý đối với người thứ ba, nếu tại thời điểm xem xét về hiệu lực của việc đăng ký, giao dịch bảo đảm có đầy đủ các điều kiện sau đây:

+ Văn bản thể hiện giao dịch bảo đảm đã được các bên ký kết, trong đó có mô tả về tài sản bảo đảm;

+ Tiền hoặc lợi ích khác đã được bên được bảo đảm trao cho bên bảo đảm;

+ Bên bảo đảm có quyền đối với vật bảo đảm theo quy định của pháp luật.

- Giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm không phát sinh trong các trường hợp sau đây:

+ Căn cứ xác lập quyền của bên được bảo đảm bị tuyên bố là vô hiệu;

+ Việc đăng ký giao dịch bảo đảm không được thực hiện tại cơ quan đăng ký có thẩm quyền.

b) Về việc xác định thứ tự ưu tiên

Theo quy định tại dự thảo Pháp lệnh thì thứ tự ưu tiên giữa các nghĩa vụ cùng được bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thời điểm đăng ký hoặc phát sinh giá trị pháp lý đối với người thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3.5. Cơ quan đăng ký

Dự thảo Pháp lệnh cần quy định những vấn đề về tổ chức, thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, trong đó có hai phương án về mô hình tổ chức sau đây:

a) Phương án 1: mô hình tổ chức phân tán

- Cục Hàng không dân dụng Việt Nam thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm bằng tàu bay dân dụng;

- Cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, nơi đã đăng ký tàu biển thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm bằng tàu biển;

- Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thực hiện đăng ký những giao dịch bảo đảm bằng các loại động sản, trừ các giao dịch bảo đảm thuộc thẩm quyền của hai cơ quan nêu trên.

b) Phương án 2: mô hình đăng ký tập trung

Việc đăng ký các loại giao dịch bảo đảm được đăng ký tập trung tại một hệ thống cơ quan có thẩm quyền đăng ký sau khi việc đăng ký thí điểm kết thúc và có hiệu quả tốt (xem kiến nghị về việc thí điểm đăng ký tập trung).

 c) Về trách nhiệm của cơ quan đăng ký

Cơ quan đăng ký phải bảo đảm việc đăng ký theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Pháp lệnh này và chịu trách nhiệm duy trì khả năng tra cứu thông tin theo một số tiêu chí do Pháp lệnh quy định. Cơ quan đăng ký không kiểm tra tính hợp pháp của các thông tin nêu trong đơn yêu cầu đăng ký. Nội dung này do các bên tự chịu trách nhiệm với nhau và trước pháp luật.

3.6. Tra cứu, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm

Dự thảo Pháp lệnh cần quy định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc trong quá trìnnh tra cứu, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm, bao gồm quyền tiếp cận thông tin được lưu giữ tại cơ quan đăng ký; các phương thức tiếp cận thông tin; nguyên tắc cung cấp thông tin; thẩm quyền cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm đã đăng ký. Quan trọng nhất đó là cần quy định mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền tìm hiểu thông tin một cách dễ dàng, thuận tiện.

3.7. Quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm

Dự thảo cần quy định hoạt động quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, bao gồm quy định về nội dung quản lý nhà nước về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm; cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó. Dự thảo pháp điển hoá các quy định tương tự trong Nghị định số 08.

 3.8 Về một số nội dung khác

a) Về thời điểm đăng ký

Dự thảo cần quy định thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản là thời điểm các thông tin về giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm đó có thể được tra cứu trên Cơ sở dữ liệu các giao dịch bảo đảm hoặc trong Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm. Lý do là mục tiêu của việc đăng ký giao dịch bảo đảm, lợi ích được bảo đảm là công khai hoá thông tin. Do đó, sau khi thông tin được công khai hoá (có thể được tra cứu), thì đăng ký mới bắt đầu có hiệu lực. Để tránh việc Đăng ký viên có thể không khách quan trong qúa trình đăng ký hoặc chậm đưa thông tin và Cơ sở dữ liệu các giao dịch bảo đảm hoặc trong Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm, cần quy định rõ trách nhiệm của họ khi có vi phạm.

b) Về việc sửa đổi, bổ sung đăng ký khi tài sản trong tương lai được hình thành trong trường hợp đã đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai

Dự thảo cần thể hiện quan điểm không cần sửa đổi, bổ sung đăng ký khi tài sản trong tương lai được hình thành trong trường hợp đã đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai. Lý do là dự thảo đã cho phép mô tả tài sản và nghĩa vụ được bảo đảm một cách chung chung tại đơn. Do đó, việc tài sản trong tương lai được hình thành không làm thay đổi khả năng xác định tài sản. Ví dụ: mô tả tài sản bảo đảm là “mọi trang thiết bị hiện có và sẽ có trong tương lai của nhà máy”, thì sau khi nhà máy mua trang thiết bị mới, việc mô tả tài sản bảo đảm nói trên vẫn cho phép xác định trang thiết bị mới mua đó đã được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

        c) Việc đăng ký từ xa, thông qua mạng điện tử đã có đủ cơ sở hạ tầng, kỹ thuật để thực hiện và cũng phù hợp với nhu cầu, xu hướng phát triển. Pháp luật cần có qui định theo đó cho phép đăng ký trực tiếp qua mạng điện tử, không cần trình tự kiểm tra, để bảo đảm nâng cao trách nhiệm của người đăng ký, giảm nhẹ chi phí quản lý hệ thống đăng ký.

        d) Thời hạn hiệu lực của đăng ký cần được qui định theo hướng mềm dẻo, theo đề nghị của người yêu cầu đăng ký. Song, lệ phí đăng ký cần phải được tính toán trên cơ sở thời gian hiệu lực, để bảo đảm thông tin lưu giữ lâu thì phải tốn nhiều chi phí hơn.

   II. Thực hiện chủ trương cải cách hành chính và đổi mới hoạt động đăng ký

          Lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm cần được đổi mới theo chủ trương cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước, trong đó đảm bảo cơ chế một cửa, với trình tự, thủ tục đơn giản, không gây phiền hà cho khách hàng, nhưng vẫn bảo đảm tính chính xác, khoa học; công khai quy trình, thủ tục đăng ký để mọi người đều biết và có thể giám sát việc thực hiện, ngăn ngừa và phòng chống các biểu hiện quan liêu, cửa quyền và các biểu hiện tiêu cực khác.

          Vấn đề cơ bản cần khắc phục hiện nay là tình trạng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản có số lượng lớn, bố trí phân tán và không được chuyên môn hoá theo hướng tập trung hoá các cơ quan đăng ký.

          Một trong các chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, đó là xây dựng bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả.

          Thực hiện chủ trương này và xuất phát từ sự phân tích về thực trạng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cho thấy việc tổ chức đăng ký tập trung các loại giao dịch bảo đảm tại một hệ thống cơ quan đăng ký sẽ đạt được các lợi thế quan trọng như sau:

          a) Thực hiện chủ trương giảm đầu mối các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm, từ đó dẫn đến việc giảm số lượng các nhân viên làm công tác đăng ký, giảm chi phí hoạt động v.v.., tiết kiệm được ngân sách nhà nước. Ngoài ra, về phía công chúng, thay vì phải liên hệ với nhiều cơ quan đăng ký, thì họ chỉ cần liên hệ với một địa chỉ duy nhất là có thể đăng ký và tìm hiểu thông tin về các giao dịch bảo đảm, do đó giảm thiểu chi phí cho việc đăng ký, tìm hiểu thông tin và tiết kiệm thời gian cho các công việc này.   

          b) Công tác quản lý đăng ký giao dịch bảo đảm được tập trung, do đó việc chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra được thực hiện thường xuyên, thống nhất, kịp thời, khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trên thực tế.

          c) Tránh được việc có quá nhiều các loại trình tự, thủ tục đăng ký khác nhau đã và đang gây khó khăn cho việc đăng ký và tìm hiểu thông tin; tiến tới thống nhất về phương thức, trình tự, thủ tục trong lĩnh vực này.

          d) Lập được trật tự chính xác về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt khi xử lý một tài sản để thanh toán nhiều nghĩa vụ và cơ sở chứng cứ quan trọng cho việc giải quyết tranh chấp. Khi tổ chức đăng ký tập trung, thì việc xác định thứ tự thời điểm đăng ký rất thuận tiện và đảm bảo khoa học; nếu đăng ký tại nhiều cơ quan khác nhau, thì khó kiểm soát việc dùng một tài sản để cầm cố, thế chấp tại nhiều nơi và có thể phát sinh việc đăng ký trùng lặp. Từ đó tạo ra thứ tự ưu tiên thanh toán không chính xác.

          đ) Có được Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất mà không cần tiếp tục thực hiện các biện pháp truyền tải thông tin từ các cơ quan đăng ký chuyên ngành về Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm như dự kiến hiện nay.

          e) Góp phần thực hiện chủ trương mà Đảng ta đã đề ra tại Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 (Báo cáo của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng): “Tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân” (điểm 2 mục VII).

          Như vậy, đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm là một trong những giải pháp cơ bản khắc phục những hạn chế, tồn tại hiện nay trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, đồng thời là phương hướng phát triển của Hệ thống đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm ở Việt Nam. Đây cũng là mô hình mà không ít nước trên thế giới đã áp dụng và thực hiện thành công. Bên cạnh đó, theo kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp, đa số các tổ chức, cá nhân được tìm hiểu ý kiến đều ủng hộ phương án xây dựng cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm, bao gồm cả quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất bởi những thuận lợi mà mô hình này đem lại không chỉ trong việc đăng ký, mà còn trong việc tìm hiểu thông tin về các giao dịch bảo đảm.

III. Thí điểm đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm- bước đi cần thiết để xây dựng mô hình cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm

3.1. Xây dựng hệ thống đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm- Phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm

Vấn đề cơ bản cần khắc phục hiện nay là tình trạng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản có số lượng lớn, bố trí phân tán và không được chuyên môn hoá theo hướng tập trung hoá các cơ quan đăng ký.

Thực hiện chủ trương xây dựng bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, xuất phát từ sự phân tích về thực trạng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cho thấy việc tổ chức đăng ký tập trung các loại giao dịch bảo đảm tại một hệ thống cơ quan đăng ký sẽ đạt được các lợi thế quan trọng như sau:

a) Giảm đầu mối các cơ quan có thẩm quyền đăng ký, giảm số lượng các nhân viên làm công tác đăng ký, giảm chi phí hoạt động v.v.., do đó tiết kiệm được ngân sách nhà nước. Về phía công chúng, người dân sẽ giảm thiểu chi phí cho việc đăng ký, tìm hiểu thông tin và tiết kiệm thời gian cho các công việc này.         

b) Bảo đảm sự chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra được thực hiện thường xuyên, thống nhất, kịp thời.

c) Tiến tới thống nhất về phương thức, trình tự, thủ tục trong lĩnh vực này.

d) Lập được trật tự chính xác về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt khi xử lý một tài sản để thanh toán nhiều nghĩa vụ.

đ) Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và vận hành Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất.

e) Góp phần thực hiện chủ trương: “Tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân”.

Như vậy, đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm là một trong những giải pháp cơ bản khắc phục những hạn chế, tồn tại hiện nay trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, đồng thời là phương hướng phát triển của Hệ thống đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm ở Việt Nam.

3.2. Về mức độ đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm

3.2.1. Việc đăng ký tập trung cần được thực hiện đối với các giao dịch bảo đảm phổ biến hiện này là thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và cầm cố, thế chấp các động sản không phải là tàu bay, tàu biển. Việc xác định mức độ đăng ký tập trung như trên dựa trên những căn cứ sau đây:

  • Việc đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến tàu bay, tàu biển có nhiều nét đặc thù và cần có hệ thống cơ quan riêng để thực hiện việc đăng ký.
  • Bất động sản và các động sản không phải là tàu bay, tàu biển là đối tượng chủ yếu của các giao dịch dân sự, kinh tế và thường được xem như một khối tài sản thống nhất khi đưa vào giao dịch. Do đó, việc tổ chức mô hình hệ thống cơ quan đăng ký phân tán theo từng loại tài sản sẽ làm phát sinh những chi phí, thủ tục gây cản trở cho việc công khai hoá các quyền, lợi ích của các bên trong giao dịch, cũng như việc tìm hiểu thông tin khi tiến hành các giao dịch.
  • Một trong các căn cứ cơ bản cho việc đăng ký tập trung, mà vẫn không ảnh hưởng đến vấn đề xác định sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất, đó là pháp luật quy định về thủ tục đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng các loại tài sản này phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất, đồng thời vấn đề này cũng đã được bên cho vay vốn kiểm tra kỹ mới nhận tài sản đó để bảo đảm. Ngoài ra, các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực theo Điều 130 Luật Đất đai năm 2003.

3.2.2. Việc xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm là yêu cầu khách quan nhằm đáp ứng tốt nhất sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này thì chúng ta phải có một quá trình chuyển đổi, bao gồm những bước đi thích hợp cho từng giai đoạn.

Căn cứ vào những thực trạng pháp luật và thực trạng tổ chức đăng ký giao dịch bảo đảm nói riêng, đăng ký bất động sản nói chung hiện nay, chúng tôi cho rằng việc tổ chức đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm nên được thực hiện theo các giai đoạn sau đây:

a) Giai đoạn 1: tổ chức đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản tại một địa phương vào một đầu mối (Ví dụ như Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường). Tiếp tục thực hiện đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm bằng động sản tại Cục Đăng ký.

b) Giai đoạn 2: Tập trung đăng ký toàn bộ các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản và động sản vào một đầu mối là cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm. Cơ quan này được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương, có chức năng đăng ký các giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển) và đăng ký việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền liên quan đến bất động sản (bao gồm cả giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất).

3.3. Mô hình cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm

3.3.1. Mô hình tổ chức cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản (giai đoạn 1)

a) Cơ cấu tổ chức

 

 
 


Trong sơ đồ nêu trên, Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan giữ vai trò quản lý tổ chức và hoạt động của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm; Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất và các Chi nhánh của Văn phòng là cơ quan thực hiện đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm.

 

b) Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan quản lý và Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản

- Về cơ bản được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc hướng dẫn của liên tịch Bộ Tài nguyên và Môi trường- Bộ Nội vụ;

- Riêng về thẩm quyền đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, thì tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ có một cơ quan duy nhất duy nhất có thẩm quyền thực hiện đăng ký, không phân biệt người sử dụng đất, có tài sản gắn liền với đất là tổ chức hay hộ gia đình, cá nhân, ở trong nước hay ở nước ngoài. Các Chi nhánh của cơ quan đăng ký này có thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn như nhau trong việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng bất động sản trên địa bản tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đó.

3.3.2. Mô hình tổ chức cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm (giai đoạn 2)

 

 
 


a) Cơ cấu tổ chức

 

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký tập trung giao dịch bảo đảm, hệ thống cơ quan này được tổ chức như sơ đồ nêu trên.

Trong sơ đồ nêu trên, Cơ quan Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là cơ quan giữ vai trò quản lý tổ chức và hoạt động của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm; Chi nhánh Đăng ký giao dịch, tài sản và các điểm đăng ký (ĐĐK) là cơ quan thực hiện đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm.

b) Cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm:

- Là cơ quan giúp Bộ trưởng quản lý việc đăng ký: tập trung vào việc nghiên cứu, xây dựng chính sách trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm; chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ; kiểm tra công tác đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm tại địa phương.

- Cơ cấu tổ chức của Cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm dự kiến như sau:


c) Chi nhánh Đăng ký giao dịch, tài sản:

- Về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ:

  • Thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm theo thẩm quyền sau đây:
    • Đối với giao dịch bảo đảm bằng động sản (như hiện nay đang làm): thực hiện việc đăng ký không giới hạn theo địa giới hành chính (trong phạm vi cả nước); xử lý thông tin về giao dịch bảo đảm bằng động sản do các điểm đăng ký (nếu có) chuyển về.
    • Đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản: Thực hiện việc đăng ký trong phạm vi địa giới hành chính được phân cấp, xử lý thông tin về giao dịch bảo đảm bằng bất động sản do các điểm đăng ký (nếu có) chuyển về.
  • Thực hiện việc cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng động sản trong phạm vi toàn quốc và thông tin về giao dịch bảo đảm bằng bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi dự kiến.


- Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh dự kiến như sau:

d) Điểm đăng ký trực thuộc Chi nhánh:

- Tùy theo tình hình thực tế tại địa phương, Chi nhánh có các điểm đăng ký (ĐĐK) khác với nơi đặt trụ sở chính trong phạm vi địa giới hành chính được phân cấp. Việc thành lập các điểm đăng ký thuộc Chi nhánh do Thủ trưởng Cơ quan đăng ký quyết định.

- Điểm đăng ký thuộc Chi nhánh thực hiện việc tiếp nhận và xử lý yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm theo thẩm quyền sau đây:

  • Đối với giao dịch bảo đảm bằng động sản: tiếp nhận và xử lý yêu cầu đăng ký không giới hạn theo địa giới hành chính (trong phạm vi cả nước) sau đó chuyển dữ liệu cho Cơ quan đăng ký quốc gia để đưa vào cơ sở dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm.
  • Đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản: tiếp nhận và xử lý yêu cầu đăng ký không giới hạn theo địa giới hành chính trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sau đó chuyển dữ liệu cho Chi nhánh để đưa vào cơ sở dữ liệu về các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản.

- Về cơ cấu tổ chức: Tại mỗi điểm đăng ký có từ 1 - 2 Đăng ký viên, tuỳ  theo số lượng giao dịch trung bình thực hiện trong năm. Ngoài ra, còn có các cán bộ hỗ trợ làm việc theo chế độ hợp đồng lao động.

đ) Kết luận

Như vậy, về tổ chức bộ máy cơ quan đăng ký tập trung các giao dịch bảo đảm không có nhiều thay đổi so với tổ chức bộ máy hiện nay của Cục Đăng ký, không tạo thêm đầu mối cơ quan đăng ký. Việc thành lập các điểm đăng ký hoàn toàn dựa trên nhu cầu kinh tế, xã hội và điều kiện tự nhiên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tế.

IV. Xây dựng chức danh Đăng ký viên

4.1. Sự cần thiết

Hiện nay, đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các cơ quan nêu trên chưa có tiêu chuẩn và chức danh phù hợp. Điều này dẫn đến những bất hợp lý sau:

- Thứ nhất, đặc thù của lĩnh vực công tác đăng ký giao dịch bảo đảm đòi hỏi đội ngũ cán bộ thực hiện đăng ký phải chuyên trách, đáp ứng các yêu cầu cụ thể về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và chịu trách nhiệm cá nhân trong hoạt động tác nghiệp. Tuy nhiên, do chưa có quy định của pháp luật về chức danh Đăng ký viên cũng như tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nên đội ngũ cán bộ làm công tác đăng ký hiện nay chưa được tiêu chuẩn hóa, chưa có tư cách pháp lý để ký vào Giấy chứng nhận đăng ký và chịu trách nhiệm về chữ ký của mình; đồng thời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới yêu cầu tăng cường công tác đăng ký giao dịch bảo đảm mà Chính phủ đã đề ra.

- Thứ hai, trong khi một số lĩnh vực như công chứng, do có chức danh Công chứng viên, nên các Công chứng viên vừa thực hiện công chứng vừa ký các giấy tờ liên quan đến hoạt động này, thì tại các cơ quan có thẩm quyền đăng ký, việc công chức lãnh đạo đơn vị phải ký và chịu trách nhiệm về việc cấp Giấy chứng nhận, tức thực hiện một hành vi thuộc nhiệm vụ của Đăng ký viên là không hợp lý.

- Thứ ba, tại Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và các Chi nhánh, cán bộ đăng ký là cán bộ chuyên trách thực hiện đăng ký và cung cấp thông tin  Tuy nhiên, đối với Cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam hiện chưa có cán bộ chuyên trách thực hiện đăng ký mà cán bộ vẫn phải làm kiêm nhiệm. Cán bộ đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất ngoài đăng ký quyền sử dụng đất còn đăng ký các biến động liên quan đến quyền sử dụng đất, trong đó có các giao dịch bảo đảm.

- Thứ tư, cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm tại các đơn vị đăng ký thuộc Cục Đăng ký hiện nay đều có trình độ Đại học Luật, được bồi dưỡng về nghiệp vụ đăng ký, thành thạo tin học văn phòng, các phần mềm đăng ký và cung cấp thông tin, do vậy cơ bản đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ cán bộ này do chưa có chức danh Đăng ký viên nên họ đang hưởng lương theo chế độ chuyên viên và chưa có bất cứ quyền lợi, chế độ, chính sách gì của chức danh Đăng ký viên. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến tâm lý của các cán bộ thực hiện công tác đăng ký.

Vì thế, nhằm tăng cường công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, ngày 2 tháng 10 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 21/2003/CT-TTg trong đó xác định rõ: “Bộ Nội vụ có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính nghiên cứu, xây dựng chức danh, tiêu chuẩn Đăng ký viên của các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, hoàn thành trong quý III năm 2004”.

Việc xây dựng tiêu chuẩn, chức danh Đăng ký viên là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách nhằm:

- Triển khai thực hiện Chỉ thị số 21 của Thủ tướng Chính phủ đáp ứng yêu cầu tăng cường công tác đăng ký giao dịch bảo đảm mà Chính phủ đã đề ra;

- Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đăng ký giao dịch bảo đảm, từ đó tăng cường trách nhiệm của cán bộ đăng ký;

- Giảm bớt thủ tục trong quy trình đăng ký, cung cấp thông tin.

4.2. Một số vấn đề về tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của chức danh Đăng ký viên

4.2.1. Một số yêu cầu về nghiệp vụ  Đăng ký viên:

Đặc thù nghề nghiệp của Đăng ký viên xuất phát từ tính chất công việc, quy trình đăng ký, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của họ. Do đó có thể rút ra một số điểm đặc thù nghề nghiệp sau đây:

a) Đăng ký giao dịch bảo đảm nói riêng và đăng ký các quyền sở hữu, quyền tài sản nói chung thực chất là đăng ký các quyền, do đó phải được coi là hoạt động tư pháp. Để thực hiện tốt quy trình đăng ký, cung cấp thông tin, Đăng ký viên phải nắm vững các kiến thức về pháp luật dân sự, kinh tế, đặc biệt về hợp đồng, về giao dịch bảo đảm và về đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung, về thẩm quyền, quy trình đăng ký tại các cơ quan đăng ký.

b) Tại một số loại cơ quan đăng ký hiện nay và về lâu dài, việc đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính được vi tính hoá. Do đó, Đăng ký viên  phải có kiến thức về tin học, sử dụng thành thạo tin học văn phòng và phần mềm đăng ký, cung cấp thông tin, đảm bảo việc truy nhập chính xác các thông tin vào cơ sở dữ liệu và lấy ra được đầy đủ, chính xác các thông tin để cung cấp cho khách hàng.

c) Đăng ký viên được ký vào Giấy chứng nhận, Văn bản cung cấp thông tin và đóng dấu của cơ quan đăng ký, nơi công tác. Đăng ký viên phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc đăng ký, cung cấp thông tin, trong đó có việc chịu trách nhiệm về việc cấp Giấy chứng nhận, Văn bản cung cấp thông tin; nếu đăng ký không chính xác, cung cấp thông tin không đầy đủ, chính xác, thì phải bồi thường thiệt hại( nếu có) theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chức gây ra; chịu trách nhiệm về kỷ luật hành chính, hình sự, tuỳ theo mức độ vi phạm.

d) Về nguyên tắc, Đăng ký viên làm việc độc lập, nhưng riêng trong quá trình nhập liệu, thì hai Đăng ký viên cùng thực hiện, kiểm tra chéo và cùng phải bảo đảm việc nhập liệu đầy đủ, chính xác các thông tin.

e) Đăng ký viên phải hoàn thành công việc trong một thời hạn rất chặt chẽ, 3 ngày đến 5 ngày, kể từ ngày nhận đơn; không được phép chậm trễ; nếu chậm, thì phải chịu trách nhiệm, kể cả bồi thường thiệt hại cho khách hàng, nếu có. Do đó, vấn đề đặt ra là định mức công việc cho từng Đăng ký viên như thế nào để phù hợp, đồng thời xác định được số lượng cán bộ cần thiết cho cơ quan đăng ký.

g) Công việc của Đăng ký viên nhiều khi rất tỷ mỉ, chi tiết, đòi hỏi phải cẩn thận, kiên trì; thao tác chủ yếu trên máy vi tính, dễ gây mệt mỏi.

4.2.2. Xác định tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của chức danh Đăng ký viên

a) Về chức trách:

Là cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, trực tiếp giải quyết các đơn yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản theo thẩm quyền do pháp luật quy định và chịu trách nhiệm trực tiếp về việc giải quyết đơn nêu trên; nếu có sai sót, thì phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.

b) Về hiểu biết:

- Nắm được đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định pháp luật về dân sự, kinh tế, trong đó tập trung vào các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch, tài sản theo thẩm quyền.

- Nắm được kiến thức pháp lý

- Nắm được quy trình đăng ký, cung cấp thông tin, đáp ứng các yêu cầu về giải quyết đăng ký, cung cấp thông tin đúng quy định của pháp luật.

- Am hiểu tình hình kinh tế-xã hội nói chung, tình hình trong lĩnh vực công tác nói riêng, để từ đó có thể đề xuất các giải pháp để cải tiến, đổi mới quy trình đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch, tài sản.

- Biết tổ chức và phối hợp với các cơ quan đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch, tài sản khác, các cơ quan, tổ chức khác có liên quan để triển khai công việc đăng ký, cung cấp thông tin có hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của cải cách hành chính trong lĩnh vực này.

c) Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Đăng ký viên :

Xuất phát từ sự phân tích các vấn đề nêu trên và tình hình thực tế tại Việt Nam, để trở thành Đăng ký viên cần phải có đủ các tiêu chuẩn chủ yếu sau đây:

- Tốt nghiệp đại học Luật; đã qua thời gian tập sự nghiệp vụ;

-  Qua đào tạo về nghiệp vụ đăng ký giao dịch bảo đảm;

-  Trình độ tin học văn phòng (thành thạo).

4.3. Về chế độ lương, phụ cấp trách nhiệm

Về nguyên tắc, chế độ lương của Đăng ký viên giống như lương của công chức tốt nghiệp đại học. Chúng tôi đề nghị xếp chức danh công chức Đăng ký viên cùng ngạch công chức như đối với chức danh Công chứng viên, do tính chất công việc của hai loại chức danh này có nhiều điểm gần giống nhau.

V. Nâng cao hiệu quả phối hợp công tác giữa các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm

Công tác đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến nhiều Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức. Do đó, sự phối hợp công tác giữ một vai trò quan trọng trong việc hoàn thành nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý, tổ chức đăng ký giao dịch bảo đảm, trong đó tập trung vào lĩnh vực xây dựng pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm; tuyên truyền, phổ biến pháp luật; tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ đăng ký; kiện toàn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan đăng ký.

Các Bộ, ngành hữu quan nghiên cứu, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản giữa các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và hệ thống cơ quan đăng ký, quản lý các loại tài sản, quyền tài sản nhằm khắc phục tình trạng chưa có sự trao đổi thông tin giữa các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với nhau và với hệ thống cơ quan đăng ký, quản lý các loại tài sản, quyền tài sản, khai thác thông tin để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước của các cơ quan đó.

VI. Tăng cường ứng dụng tin học vào hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, tài sản cho thuê tài chính

Hiện đại hoá hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những giải pháp chiến lược có ý nghĩa quan trọng mà Việt Nam cần triển khai. Kết quả khảo sát cho thấy, hạn chế về cơ sở vật chất - kỹ thuật đã cản trở rất nhiều đến sự phát triển của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm. Những lợi ích mà hệ thống đăng ký sau khi được vi tính hoá, nối mạng mang lại đã và đang thúc đẩy nhiều quốc gia gấp rút thực hiện mục tiêu này.

Việc ứng dụng công nghệ tin học vào lĩnh vực nêu trên góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hoá hệ thống các cơ quan đăng ký và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc đăng ký, tìm hiểu thông tin. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý, tổ chức đăng ký cần quan tâm đến vấn đề này và tăng cường đầu tư vào ứng dụng công nghệ tin học. Từ đó, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm.

 



[1] Chương 9 Bộ Luật Thương mại thống nhất của Mỹ

[2] Điều 9 UCC

[3] Theo Suzanne Potvin Plamondon, Cục trưởng Cục Đăng ký và Chứng thực, Bộ Tư pháp bang Queebec (Hội thảo pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm và tin học hoá hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, Nhà Pháp luật Việt- Pháp tổ chức tại Hà Nội từ ngày 17-19/1/2005)

[4] Được hiểu là trường hợp chủ nợ không có bảo đảm trở thành chủ nợ có bảo đảm (bên thế chấp) thông qua quyết định của Toà án, chứ không phải trên cơ sở thoả thuận với bên thế chấp.

[5] Theo Michel Grimaldi, Giáo sư trường Đại học Panthéon-Assas. Paris II (Hội thảo pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm và tin học hoá hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, Nhà Pháp luật Việt- Pháp tổ chức tại Hà Nội từ ngày 17-19/1/2005)

[6] Nguyễn Thúy Hiền. Sự phát triển của pháp luật về bảo đảm an toàn tín dụng của Việt Nam-So sánh với pháp luật về bảo đảm an toàn tín dụng của CHLB Đức. Luận án Tiến sĩ Luật của Nguyễn Thúy Hiền, bản tiếng Đức. NXB các Luận án Tiến sĩ trên mạng-CHLB Đức, 2003, trang 200.

[7] Nguyễn Ngọc Điện. Một số vấn đề về biện pháp bảo đảm trong pháp luật dân sự Việt Nam, 1999, trang 15, 16

[8] Khoản giá trị này có thể là tiền, tài sản, hoặc cam kết thực hiện một công việc.

[9] Được hiểu là chủ nợ có bảo đảm (bên nhận bảo đảm) trao một khoản giá trị có thể là tiền, vật cho con nợ (bên bảo đảm) hoặc cam kết thực hiện công việc đối với bên này.

[10] Xaca Vacaxum và Tori Aridumi.Bình luận khoa học BLDS Nhật Bản. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 287.

[11] Quy định tại Nghị định 165. Theo BLDS năm 2005 thì giao dịch này được định nghĩa là thế chấp.

[12] Xem Secured Transactions Law Reform in Asia: Unleashing the Potential of Collateral (ADB, 2002)

[13] Điều 325 Bộ Luật Dân Sự 2005

[14] Luật hàng không dân dụng,

[15] Xem Secured Transactions Law Reform in Asia: Unleashing the Potential of Collateral

[16] Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999về về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.

[17] Xem “Báo cáo đánh giá về thủ tục hoạt động và tổ chức của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm” của Cố vấn về quản lý đăng ký giao dịch bảo đảm Elaine MacEachern tháng 11 năm 2003 thuộc Dự án TA 4060.

[18] Xem Điều 50 - Luật Đất đai năm 2003

[19] Trong giai đoạn từ ngày 1/7/2004 trở về trước (trước ngày Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành), với việc phân cấp thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin đến tận cấp cơ sở, hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất có tới hơn 11 .000 cơ quan, gồm 8781 Uỷ ban nhân dân xã, 991 Uỷ ban nhân dân phường, 550 Uỷ ban nhân dân thị trấn và 61 Sở Tài nguyên và Môi trường (trước là Sở Địa chính hoặc Sở Địa chính-Nhà đất). Sau ngày 1/7/2004, với việc hình thành hệ thống Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, thì bên cạnh việc nâng cao tính chuyên môn hoá trong hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký, số lượng cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực này cũng đã giảm đi đáng kể. Tuy nhiên, với việc cả nước có 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 523 huyện, 42 quận, 60 thị xã, 22 thành phố thuộc tỉnh, thì số lượng cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực này đã lên đến 711 cơ quan, chưa kể các Chi nhánh của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh.

 

 

File đính kèm downloadTải về