Sau gần hai mươi năm đổi mới, hệ thống pháp luật của nước ta đã có những bước phát triển và hoàn thiện với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đầy đủ, điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực. Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của chế định pháp luật về hợp đồng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, thực hiện công cuộc đổi mới pháp luật, chuyển đổi cơ chế tạo hành lang thông thoáng tạo quyền tự chủ, tự do kinh doanh của các chủ thể, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản pháp luật về hợp đồng ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Trong đó phải kể đến: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 và đến năm 1995, Bộ luật dân sự được ban hành bao gồm 838 điều trong đó có hơn 200 điều quy định về hợp đồng. Đây thực sự là một sự khẳng định tầm quan trọng của chế định hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, do được xây dựng ở các thời kỳ kinh tế xã hội khác nhau nên các quy định của pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, thống nhất. Một số văn bản được xây dựng trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế khi các quan hệ được luật điều chỉnh chưa thật ổn định, tư duy làm luật chưa bao quát và dự liệu được các quy luật của sự phát triển, những tác động và đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường. Trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế, xã hội có những bước phát triển nhanh chóng thì hệ thống pháp luật của nước ta đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Pháp luật Việt Nam về hợp đồng cũng không nằm ngoài quy luật đó, các quy định về hợp đồng còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo và trùng lặp giữa ba lĩnh vực dân sự, kinh tế và thương mại. Chế định pháp luật về hợp đồng đã bộc lộ một số điểm bất cập và hạn chế cần có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp như:
- Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự chưa được xác định là quy phạm pháp luật có tính chất chung điều chỉnh các quan hệ được xác lập dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng thoả thuận trong xã hội. Một số vấn đề như khái niệm hợp đồng, hình thức, chủ thể tham gia, phương thức giao kết hợp đồng, thời điểm giao kết hợp đồng.. cần được quy định chặt chẽ hơn. Một số quy định không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội. Mặt khác nhiều quy định của Bộ luật dân sự còn thể hiện sự can thiệp khá sâu của Nhà nước vào các giao dịch dân sự, ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của các bên.
- Có sự trùng lặp rất lớn và không cần thiết trong các quy định về hợp đồng (dân sự, kinh tế, thương mại). Điều này dẫn đến hậu quả là chúng ta đã phải bỏ ra rất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc để lập ra các quy định riêng của từng lĩnh vực. Điều này khiến cho hệ thống pháp luật về hợp đồng của chúng ta trở nên cồng kềnh một cách bất hợp lý, làm mất đi tính thống nhất, tính hỗ trợ lẫn nhau và làm giảm hiệu quả của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng.
- Việc phân biệt giữa hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại một cách không rõ ràng đã gây khó khăn, lúng túng, không chuẩn xác cho các cơ quan thi hành pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp trong quan hệ hợp đồng.
- Từ những bất cập trên đã dẫn đến hệ quả tiếp theo là việc ký kết và thực hiện các hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh trong thời gian qua là rất khó khăn, làm chậm đi quá trình hình thành các giao dịch kinh tế…
Vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá pháp luật về hợp đồng trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết nhằm làm rõ những điểm bất cập, hạn chế và kiến nghị những giải pháp hoàn thiện, khắc phục. Trên cơ sở đó, Ban Nghiên cứu pháp luật dân sự - kinh tế - thương mại, Viện Khoa học pháp lý đã lựa chọn nghiên cứu đề tài cấp cơ sở: "Pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại - những điểm tương đồng, khác biệt và giải pháp hoàn thiện".
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
- Tiến hành nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng trong các lĩnh vực kinh tế, dân sự và thương mại. Từ đó thấy được những điểm bất cập, hạn chế trong các quy định và những vướng mắc trong quá trình thực thi.
- Phân tích và kiến giải những nguyên nhân đó, đồng thời đề xuất những giải pháp cần thiết để nâng cao hiệu lực thực tế của những quy định pháp luật về hợp đồng, góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng trong hệ thống pháp luật nước ta. Từ đó đưa ra một cách nhìn khái quát về xu hướng phát triển của pháp luật về hợp đồng trong thời kỳ hiện nay của Việt Nam.
PHẦN THỨ NHẤT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
I. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA HỢP ĐỒNG
Trong phần này, các tác giả đã tổng hợp kết quả nghiên cứu về các học thuyết, lịch sử, lý luận chung về hợp đồng nhằm làm rõ khái niệm, bản chất chung và quá trình phát triển của chế định hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, cũng như pháp luật một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới như Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc và Nhật Bản.
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, ở các quốc gia khác nhau, tại mỗi thời điểm khác nhau thì khái niệm về hợp đồng có đôi chút khác biệt nhưng bản chất của quan hệ hợp đồng là thống nhất. Nhìn chung, khoa học nhiều nước đều đề cao sự tự do của ý chí trong giao kết hợp đồng và xem xét khái niệm hợp đồng theo ba phương diện: hoặc coi hợp đồng là căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật như luật của Pháp, Trung Quốc hay Việt Nam; hoặc coi hợp đồng là quan hệ pháp luật như Mỹ và Nhật Bản; hoặc coi hợp đồng là hình thức thể hiện quan hệ pháp luật như pháp luật La Mã. Theo quan niệm phổ biến của các nước trên thế giới và ngay cả Việt Nam có sự phân biệt hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại thì hợp đồng vẫn là khái niệm có tính khái quát rất cao liên quan đến những vấn đề pháp lý rộng lớn, đó là nghĩa vụ dân sự, quyền dân sự mà không bị hạn chế do sự tách bạch giữa dân sự hay kinh tế hay thương mại, giữa mục đích sản xuất kinh doanh hay sinh hoạt tiêu dùng. Trong pháp luật Việt Nam, mặc dù Luật thương mại không đưa ra khái niệm về hợp đồng trong khi Bộ luật dân sự và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chỉ đề cập đến khái niệm hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế nhưng cũng có thể xem khái niệm về hợp đồng trong Bộ luật dân sự là khái niệm chung cho các loại hợp đồng. Theo đó, Điều 394 Bộ luật dân sự Việt Nam, khái niệm hợp đồng đã được thể hiện tương đối đầy đủ và toàn diện: "Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự".
Pháp luật hợp đồng Việt Nam mặc dù có sự phân biệt hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại, nhưng cơ bản vẫn thống nhất trong cách nhìn nhận về bản chất của hợp đồng. Đó chính là sự gắn kết chặt chẽ của sự thoả thuận và mục đích của sự thoả thuận mà không phụ thuộc vào mục đích ký kết, chủ thể tham gia hay hình thức thể hiện. Đây chính là ý nghĩa cơ bản và quan trọng nhất của việc tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về hợp đồng.
II. LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VIỆT NAM
Tại mục này, các tác giả đã phân tích quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hợp đồng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Qua đó, làm rõ nguyên nhân của tình trạng phân chia của pháp luật hợp đồng kinh tế, dân sự, thương mại trong hệ thống pháp luật Việt nam hiện nay.
1. Pháp luật hợp đồng thời kỳ phong kiến.
Trong thời kỳ này, các tác giả tập trung phân tích các quy định pháp luật hợp đồng trong hai Bộ luật: Quốc triều hình luật và Bộ luật Gia Long. Nghiên cứu cả hai Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long cho thấy, luật pháp thời phong kiến chưa có sự phân hoá thành các ngành luật chuyên biệt mà tất cả các quan hệ chủ yếu đều được điều chỉnh tập trung trong một văn bản mang nặng tính chất của luật hình. Việc áp dụng hình phạt để xử lý các vi phạm khế ước là một hạn chế mang tính lịch sử của Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Hai Bộ luật này đều quy định rất chung về hợp đồng và không có sự phân biệt hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế hay hợp đồng thương mại cũng như các ngành luật điều chỉnh tương ứng. Theo đó các quan hệ dân sự mang tính chất tài sản, tính bình đẳng thoả thuận nhưng lại có sự can thiệp rất sâu sắc từ phía nhà nước và áp dụng các chế tài hình sự mang nặng tính trừng phạt hơn là phục hồi các quan hệ.
2. Pháp luật hợp đồng thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945)
Đây là thời kỳ đất nước ta bị chia cắt thành ba miền. Thực dân Pháp cho ban hành ba Bộ dân luật để thi hành tại mỗi miền của đất nước. Đó là: Bộ Dân luật Bắc kỳ ban hành năm 1931, Bộ Dân luật Trung kỳ ban hành năm 1936 và Bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ ban hành năm 1883. Trong các bộ luật nêu trên đều có các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự Trung kỳ có các quy định để điều chỉnh quan hệ dân sự trọn vẹn và tốt hơn cả. Nội dung của các quy định trong ba Bộ dân luật đều cho thấy pháp luật về hợp đồng được áp dụng chung, thống nhất cho tất cả các hợp đồng thuộc đối tượng điều chỉnh mà không có sự phân biệt trên cơ sở chủ thể hay mục đích. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những tư tưởng tự do hoá thương mại và đặc biệt dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Luật thương mại Pháp, năm 1942 theo chiếu dự số 46 ngày 12/6/1942, chính quyền Nam triều Bảo Đại đã ban hành Bộ luật thương mại áp dụng tại Trung phần. Bộ luật này điều chỉnh các hành vi thương mại của các thương nhân. Song, sự xuất hiện của Bộ luật thương mại thời kỳ này cũng không nhằm phân tách các quan hệ thương mại một cách độc lập với quan hệ dân sự và các quy định pháp luật về hợp đồng nhìn chung vẫn nằm trong một thể thống nhất.
3. Pháp luật hợp đồng thời kỳ sau cách mạng tháng Tám đến nay
3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 97/SL tuy vẫn cho phép tiếp tục áp dụng các luật lệ cũ nhưng với điều kiện không được trái với các nguyên tắc của Sắc lệnh này. Sắc lệnh này đã đặt cơ sở cho sự hình thành và phát triển của pháp luật dân sự mới ở nước ta nói chung, trong đó có những quy định liên quan đến hợp đồng nói riêng. Từ năm 1954 đất nước ta bị chia cắt làm 2 miền. Ở miền Nam dưới chế độ nguỵ quyền, quan hệ hợp đồng tiếp tục được điều chỉnh chủ yếu bằng quy định của Bộ luật dân sự Trung kỳ và Bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ. Sau này, quan hệ hợp đồng được điều chỉnh chủ yếu bởi 2 đạo luật: Bộ luật dân sự Sài Gòn 1972 và Bộ luật Thương mại. Ở miền Bắc, bên cạnh Bộ dân luật Bắc kỳ còn có Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh số 735/TTg ngày 10/4/1956 của Thủ tướng Chính phủ. Đến 1959, Toà án nhân dân tối cao đã ra Chỉ thị số 772-CT/TATC về việc đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến. Với Chỉ thị này, toàn bộ các luật lệ phong kiến trước đây đều bị đình chỉ áp dụng ở miền Bắc.
3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988. Năm 1960 lần đầu tiên ở nước ta xuất hiện khái niệm hợp đồng kinh tế bằng việc ra đời của “hợp đồng kinh doanh” theo quy định của Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh ban hành kèm theo Quyết định số 735/TTg ngày 10/04/1956. Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế năm 1960, Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng chính phủ ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế...Như vậy, cùng với sự phân tách ngành luật kinh tế ra khỏi luật dân sự thì đồng thời cũng có sự phân tách trong pháp luật về hợp đồng thành pháp luật hợp đồng dân sự và pháp luật hợp đồng kinh tế. Thêm vào đó, hệ thống các thiết chế nhằm xây dựng, thực thi các quy định pháp luật của các ngành luật kinh tế và dân sự cũng được hình thành. Các tranh chấp về dân sự vẫn được giải quyết tại Toà án và tranh chấp, vi phạm về hợp đồng kinh tế được giải quyết theo thủ tục tố tụng riêng về trọng tài tại cơ quan Trọng tài kinh tế nhà nước. Đây là thời điểm đánh dấu sự phân tách một cách hoàn toàn giữa ngành luật kinh tế và dân sự nói chung cũng như pháp luật về hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự nói riêng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Và sự khác biệt giữa các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ hợp đồng vốn có cùng bản chất cũng được hình thành từ đây.
3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay
Trong thời gian này, hàng loạt văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành (Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, Bộ luật dân sự năm 1995, Luật thương mại năm 1997) đã tạo nên sự phân biệt giữa ba loại hợp đồng: dân sự, kinh tế, thương mại. Sự phân biệt này căn cứ vào mục đích, chủ thể, nội dung và một số yếu tố khác của hợp đồng. Các quy định của pháp luật về hợp đồng trong ba lĩnh vực trên được ban hành trong những thời điểm khác nhau do chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội khác nhau nên không tránh khỏi những mâu thuẫn, chồng chéo, ảnh hưởng rất lớn đến thực trạng áp dụng. Do đó, việc đổi mới và xây dựng hệ thống pháp luật hợp đồng cho đồng bộ và hoàn thiện là nhiệm vụ cấp thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập hiện nay cũng như tạo ra môi trường pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế.
III. PHÂN LOẠI HỢP ĐỒNG
Dựa trên các quy định pháp luật, các tác giả đã chia hợp đồng thành các loại sau đây: Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ; Hợp đồng ngang giá và hợp đồng không ngang giá; Hợp đồng có đền bù và hợp đồng không đền bù; Hợp đồng chính và hợp đồng phụ; Hợp đồng có tên và hợp đồng không tên; Hợp đồng ưng thuận và hợp đồng không mang tính ưng thuận; Hợp đồng thực hiện ngay và hợp đồng thực hiện theo định kỳ; Hợp đồng có thương lượng và hợp đồng không có thương lượng; Hợp đồng cá thể và hợp đồng tập thể; Hợp đồng chủ thể đơn và hợp đồng chủ thể kép; Hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại.
PHẦN THỨ HAI
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - KINH TẾ -THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM – NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
Trong phần này, Ban chủ nhiệm đề tài đã tổng hợp kết quả nghiên cứu từ các chuyên đề của đề tài trên cơ sở so sánh những điểm tương đồng, cũng như những điểm còn mâu thuẫn, chồng chéo và chưa thống nhất trong pháp luật hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại của Việt Nam theo những tiêu chí cơ bản về: chủ thể của hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại; Nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại; Phương thức giao kết hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại; Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại; Hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu; Vi phạm hợp đồng và trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại.
Qua việc nghiên cứu, so sánh, phân tích, đánh giá các tiêu chí này, nhóm nghiên cứu đã làm rõ được những điểm đã thống nhất và chưa thống nhất trong các quy định về hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Từ đó, làm rõ được những khó khăn, bất cập trong thực tế áp dụng và thực thi các quy định này, đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu đó, đã đề xuất những giải pháp, kiến nghị trong phần III của phúc trình nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại và góp phần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng của Việt Nam.
I. CHỦ THỂ, HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG.
1. Chủ thể hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại
1.1. Điểm tương đồng: pháp luật hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại đều quy định các đối tượng cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình là chủ thể hợp đồng.
1.2. Điểm khác biệt:
- Bộ luật dân sự quy định bao quát nhất về các chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Các chủ thể khi đáp ứng đủ các điều kiện về năng lực chủ thể đều có thể thiết lập quan hệ hợp đồng dân sự phục vụ cho nhu cầu của bản thân. Chủ thể hợp đồng thương mại rộng hơn so với hợp đồng kinh tế vì không bắt buộc một bên phải là pháp nhân. Chủ thể hợp đồng kinh tế bó hẹp nhất với đòi hỏi khắt khe hơn cả, bắt buộc một bên chủ thể phải là pháp nhân.
- Mặc dù có các quy định khác nhau về chủ thể, nhưng trong nội tại các văn bản pháp luật về từng loại hợp đồng và văn bản pháp luật về hợp đồng dân sự kinh tế thương mại có sự mâu thuẫn. Ví dụ quy định về chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và văn bản hướng dẫn thi hành; khái niệm về pháp nhân trong Bộ luật dân sự năm 1995 và văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Khái niệm “thương nhân” được đưa ra không rõ ràng và mâu thuẫn, quy định về đăng ký kinh doanh trùng lặp, mâu thuẫn trong quy định của Luật thương mại và văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp. Bộ luật dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật thương mại đều quy định thống nhất hộ gia đình là chủ thể của một số quan hệ nhất định. Tuy nhiên, do chưa có quy định cụ thể và chặt chẽ hơn về tư cách cũng như các mối quan hệ giữa các thành viên trong hộ gia đình, cho nên trên thực tế, chủ thể này tham gia các giao dịch hợp đồng chưa hiệu quả và gây khó khăn khi có tranh chấp xảy ra, phát sinh từ các thành viên trong hộ gia đình.
1.3. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật dân sự, kinh tế, thương mại về chủ thể hợp đồng
Bằng nhiều ví dụ cụ thể, các tác giả đã cho thấy những vướng mắc trong các quy định pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại đã gây nên nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật, đặc biệt là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
2. Hình thức hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại
2.1. Điểm tương đồng: chủ thể giao kết hợp đồng có quyền lựa chọn hình thức hợp đồng (trừ những loại hợp đồng pháp luật quy định phải tuân thủ hình thức nhất định), và cả ba loại hợp đồng dân sự, kinh tế, thương mại đều có hình thức hợp đồng bằng văn bản.
2.2. Điểm khác biệt
Bộ luật dân sự, Luật thương mại quy định hình thức hợp đồng đa dạng (bằng văn bản, lời nói, hành vi cụ thể), đáp ứng được yêu cầu của giao lưu dân sự, nhưng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không thừa nhận hình thức hợp đồng bằng lời nói, hành vi cụ thể. Quy định hợp đồng kinh tế phải được thiết lập thành văn bản cũng không còn phù hợp với các giao lưu kinh tế ngày càng hiện đại, nhanh chóng và nắm bắt mọi cơ hội của người kinh doanh. Bộ luật dân sự không quy định cụ thể thế nào là hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể mà chỉ gián tiếp thừa nhận trong một số quan hệ dân sự. Trong quan hệ thương mại cũng có những hành vi được coi hình thức của hợp đồng ví dụ như hành vi môi giới thương mại cho chủ thể có sản phẩm, khi chưa có sự đồng ý của chủ thể đó, nhưng không bị phản đối.
2.3. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật dân sự, kinh tế, thương mại về hình thức hợp đồng
- Khi áp dụng các quy định về cách xử lý của cơ quan có thẩm quyền khi hợp đồng không đáp ứng điều kiện về hình thức, một hợp đồng có đầy đủ yếu tố của hợp đồng kinh tế nhưng không được xác lập bằng văn bản thì sẽ được coi là hợp đồng thương mại hoặc hợp đồng dân sự (nếu đủ điều kiện). Mặc dù theo quy định của Bộ luật dân sự, các bên có một thời hạn để thực hiện quy định về hình thức hợp đồng và công nhận hợp đồng đó đúng với bản chất của nó. Nhưng vì Luật thương mại và cả Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đều không dẫn chiếu nên cũng không có cơ sở áp dụng Bộ luật dân sự.
- Việc áp dụng quy định về hình thức như một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nảy sinh nhiều bất cập. Bộ luật dân sự năm 1995 với quá nhiều quy định buộc các giao dịch phải thể hiện bằng những hình thức nhất định mới được công nhận là giao dịch hợp pháp, giao dịch có hiệu lực đã khiến cho tình trạng tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (nhất là các giao dịch về nhà đất) diễn ra quá tùy tiện, thậm chí ngay cả khi các bên không khởi kiện về việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu mà chỉ khởi kiện tranh chấp về thực hiện hợp đồng.
II. NGUYÊN TẮC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
1. Điểm tương đồng
Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận thể hiện sự thống nhất ý chí giữa các bên tham gia quan hệ, nên pháp luật không can thiệp trực tiếp vào các quan hệ, đó mà chỉ tạo ra hành lang pháp lý nhằm điều chỉnh các quan hệ đi đúng hướng. Với tư cách là những tư tưởng chỉ đạo, các nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng đòi hỏi các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải triệt để tuân theo. Do vậy, pháp luật kinh tế, thương mại và dân sự đều đề cao nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, các bên cùng có lợi.
2. Điểm khác biệt
Điều 395, 409 Bộ luật dân sự quy định nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự là:
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực và ngay thẳng”;
- Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
- Đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác;
- Không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích của người khác.
Điểm khác biệt với luật dân sự và cũng có thể coi là hạn chế của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế là không thừa nhận nguyên tắc không trái đạo đức xã hội cũng như các nguyên tắc: thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng trong giao kết hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã ghi nhận nguyên tắc “trực tiếp chịu trách nhiệm bằng tài sản”. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ hợp đồng kinh tế là quan hệ hàng hóa tiền tệ. Điều đó không chỉ quy định trách nhiệm mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ.
Đối với hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, một hạn chế rất cơ bản là pháp luật không ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng. Tuy nhiên, do đối tượng của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là hàng hoá và các dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hoá nên Luật thương mại đưa ra một nguyên tắc hết sức đặc trưng là “bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất và tiêu dùng”.
III. PHƯƠNG THỨC GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
1. Giao kết trực tiếp
1.1. Điểm tương đồng: Quy định về phương thức giao kết hợp đồng trực tiếp được quy định khá đơn giản và được hiểu thống nhất giữa ba ngành luật dân sự, kinh tế, thương mại.
1.2. Điểm khác biệt
Mặc dù cùng quy định trường hợp giao kết trực tiếp nhưng pháp luật dân sự công nhận trường hợp phát sinh hiệu lực của hợp đồng theo sự thoả thuận, thì Pháp lệnh hợp đồng kinh tế do chỉ chấp nhận hình thức của hợp đồng bằng văn bản nên không đề cập đến trường hợp này. Thực chất quy định về hình thức của hợp đồng kinh tế không xuất phát từ thực tế khách quan mà mang đậm ý chí chủ quan của nhà làm luật.
Đối với hợp đồng thương mại, pháp luật chưa có quy định cụ thể về phương thức giao kết hợp đồng trực tiếp. Tuy nhiên trên thực tế, những quy định của Bộ luật dân sự và cả những quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế sẽ được áp dụng cho hợp đồng thương mại theo từng trường hợp cụ thể. Vì thế, mặc dù Luật thương mại không quy định về phương thức giao kết hợp đồng trực tiếp, nhưng hợp đồng trong lĩnh vực thương mại vẫn có thể được giao kết bằng phương thức này.
2. Giao kết gián tiếp
2.1. Điểm tương đồng
Giao kết hợp đồng gián tiếp là cách thức ký kết mà theo đó các bên gửi cho nhau những tài liệu giao dịch, đơn chào hàng, đơn đặt hàng chứa đựng nội dung của giao dịch. Việc giao kết phải tuân theo một trình tự nhất định, thông thường gồm hai bước là đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự, Luật thương mại đều quy định thống nhất về yêu cầu của lời đề nghị trong phương thức giao kết hợp đồng gián tiếp. Tuy nhiên, những điểm khác biệt trong giao kết hợp đồng gián tiếp vẫn được thể hiện rõ ở các quy định pháp luật dân sự, kinh tế, thương mại.
2.2. Điểm khác biệt
Pháp luật dân sự, kinh tế, thương mại cùng quy định về việc đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không thống nhất trong việc quy định có hay không có việc thể hiện thời hạn trả lời là một bắt buộc của đề nghị giao kết hợp đồng. Vì sự chưa rõ ràng này mà trong trường hợp bên đề nghị không quy định rõ thời gian trả lời thì có thể hiểu theo ba cách: đề nghị có hiệu lực vô thời hạn, đề nghị không có hiệu lực, đề nghị không ràng buộc trách nhiệm bên đưa ra đề nghị (theo pháp luật dân sự), hoặc bên chào hàng (theo pháp luật thương mại). Việc quy định của pháp luật tạo ra nhiều cách hiểu như vậy là một hạn chế. Tuy nhiên, trong trường hợp có quy định thời gian trả lời thì quy định đối với mỗi loại hợp đồng lại có những hạn chế khác nhau đối với bên đề nghị. Theo quy định của Bộ luật dân sự, bên đề nghị không được mời người thứ ba giao kết trong thời hạn chờ trả lời và chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình; Luật thương mại quy định rõ hơn về “Thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng bắt đầu từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận chào hàng. Trong trường hợp không xác định thời hạn chấp nhận chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng là 30 ngày, kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng”. Quy định rõ ràng của Luật thương mại đã giúp cho các bên tham gia giao kết hợp đồng hiểu đúng về thời điểm bắt đầu đề nghị chào hàng và thời hạn chấp nhận chào hàng, tránh tạo ra nhiều cách hiểu như quy định của Bộ luật dân sự.
Luật thương mại quy định riêng về chào hàng trong hợp đồng mua bán hàng hoá, chưa có sự tổng hợp cho hầu hết các giao kết hợp đồng trong hoạt động thương mại. Chào hàng trong quy định của hợp đồng thương mại cũng mang nét khác biệt so với hợp đồng dân sự. Luật dân sự quy định trong trường hợp bên đề nghị hay bên được đề nghị đề nghị thay đổi nội dung thì coi là đề nghị mới nhưng đối với hợp đồng thương mại, chỉ “trong trường hợp bên được chào hàng có sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành chào hàng mới”, và “trong trường hợp bên được chào hàng có sửa đổi, bổ sung nội dung chào hàng nhưng không làm thay đổi nội dung một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là chấp nhận chào hàng, trừ trường hợp người chào hàng từ chối ngay những sửa đổi, bổ sung đó”. Quy định này có nội dung rõ ràng và hợp lý hơn so với quy định của Bộ luật dân sự.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không quy định về thời điểm chào hàng và thời hạn chấp nhận chào hàng như Bộ luật dân sự và Luật thương mại.
IV. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG, CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Tuy các điều kiện để hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có hiệu lực pháp luật được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau nhưng về cơ bản điều kiện để các loại hợp đồng nói trên có hiệu lực là khá thống nhất. Bởi xét đến cùng thì hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại đều mang bản chất của hợp đồng, đó là sự thoả thuận của các bên tham gia quan hệ trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện. Nhìn chung, để hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế hay hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có hiệu lực thì phải đáp ứng các điều kiện sau:
(i): Các bên tham gia quan hệ hợp đồng phải có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự).
(ii) Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và phải có thẩm quyền ký kết hợp đồng.
(iii) Nội dung và mục đích của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
(iv) Các bên tham gia quan hệ hợp đồng phải tự nguyện.
(v) Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, xuất phát từ các đặc trưng riêng của quan hệ dân sự, kinh tế mà việc vận dụng các quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự để xem xét hiệu lực của hợp đồng kinh tế, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có thể có nhiều điểm khác biệt.
2. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
So với pháp luật về hợp đồng kinh tế, pháp luật về hợp đồng thương mại thì Bộ luật dân sự quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự chặt chẽ và đầy đủ hơn rất nhiều, trong khi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật thương mại quy định thiếu sót, do đó ảnh hưởng rất lớn đến thực tiễn áp dụng.
Qua một thời gian áp dụng quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nói chung tuy đã phát huy được những tác dụng tích cực nhất định đối với các giao dịch kinh tế, dân sự, thương mại, nhưng cũng mang lại có nhiều vướng mắc, phản ánh tính chất phức tạp của nền kinh tế thị trường.
Vướng mắc trước hết là tình trạng một số quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự khó áp dụng được trong thực tế. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do những quy định của Bộ luật dân sự còn mang tính nguyên tắc, không có văn bản hướng dẫn cụ thể và cũng không được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện. Chẳng hạn như quy định về việc hoàn thành nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng dân sự thông qua cơ chế gửi giữ chưa thực hiện được vì hiện chưa thành lập cơ quan có chức năng nhận giữ tài sản theo cơ chế này. Các quy định về đăng ký quyền sở hữu tài sản, về đăng ký giao dịch bảo đảm cũng chưa được thực thi trên thực tế vì thiếu trình tự, thủ tục đăng ký quyền sở hữu tài sản; các Sở địa chính, các UBND cấp xã chưa tổ chức đăng ký các giao dịch bảo đảm theo thẩm quyền. Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm tuy đã được thành lập nhưng với các quy định về giao dịch bảo đảm quá cứng nhắc như hiện nay thì cơ quan này sẽ rất khó phát huy được vai trò của mình.
Một số vướng mắc cụ thể:
Thứ nhất, đối với quan hệ hợp đồng dân sự có liên quan đến việc cầm cố tài sản thì người nhận cầm cố có được ưu tiên trong việc thanh toán nợ của bên cầm cố so với các chủ nợ khác hay không, đây là điều không được quy định rõ trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên trên thực tiễn thi hành, điều này lại được các bên áp dụng và thừa nhận. Đối với trường hợp động sản có đăng ký quyền sở hữu khi đem cầm cố thì bên cầm cố “phải giao cho bên nhận cầm cố bản gốc giấy tờ đó”. Do đó gây rất nhiều khó khăn cho bên cầm cố trong việc sử dụng tài sản cầm cố nhằm tạo ra lợi nhuận để thanh toán nợ. Hơn nữa, nếu tài sản cầm cố được bên cho vay giữ thì việc bảo quản vừa tốn kém, vừa không có điều kiện về kho tàng, bến bãi… Mặt khác, có rất ít loại tài sản được cầm cố có đăng ký quyền sở hữu (ô tô, xe máy, máy bay, tàu biển, tàu đánh cá…), mà tài sản là động sản dùng cầm cố trong giao dịch dân sự rất đa dạng, có thể là hàng hoá vật tư, máy móc thiết bị… các tài sản này đều không đăng ký sở hữu.
Thứ hai, pháp luật về hợp đồng nói chung chưa quy định rõ về những tài sản không được dùng làm vật thế chấp, cầm cố, bảo lãnh dẫn đến trường hợp khi mang vụ án ra xét xử các bên mới biết là không được chấp nhận.
Thứ ba, thủ tục công chứng hay việc xử lý tài sản đem cầm cố, thế chấp… còn để lại nhiều hậu quả rất khó giải quyết, nhất là khi có sự tham gia của các Ngân hàng vào quan hệ giao dịch hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Trong quan hệ bảo lãnh, vấn đề nổi cộm nhất là vấn đề hiệu lực của chứng thư bảo lãnh chưa được bảo đảm thực thi trên thực tế. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng trên cho thấy, các giao dịch có liên quan đến bảo lãnh, thế chấp diễn ra không đơn giản và việc áp dụng quy định pháp luật để giải quyết tranh chấp cũng gặp phải nhiều khó khăn. Hậu quả cuối cùng là quyền lợi của người nhận bảo lãnh, cũng như người có quyền lợi liên quan có khi không được đảm bảo. Quy định về các biện pháp thế chấp và bảo lãnh chưa đầy đủ dẫn đến hiệu lực của chúng không được thừa nhận và phát huy.
Thứ tư, riêng đối với các biện pháp bảo đảm khác (đặt cọc, ký cược, ký quỹ) cũng chỉ được quy định trong Bộ luật dân sự, còn trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật thương mại không quy định dẫn đến trên thực tế phải áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
V. HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU, HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
Việc áp dụng đúng những quy định về hợp đồng vô hiệu nói chung khi giao kết, thực hiện và khi xảy ra tranh chấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực tiễn. Về cơ bản, các quy định về hợp đồng vô hiệu, nhất là hợp đồng dân sự vô hiệu phù hợp với lý luận và thực tiễn của Việt Nam, đã góp phần quan trọng vào việc ngăn ngừa, phòng chống và xử lý vi phạm về hợp đồng, góp phần bảo đảm an toàn cho các bên trong quan hệ hợp đồng.
Tuy nhiên, Luật thương mại không có quy định về những trường hợp dẫn đến hợp đồng vô hiệu, đồng thời, cũng không có quy định dẫn chiếu để điều chỉnh vấn đề này. Đây là một lỗ hổng pháp lý gây ra rất nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng Luật thương mại để giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại. Trên thực tế, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các hợp đồng trong lĩnh vực thương mại áp dụng theo các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hoặc Bộ luật dân sự về hợp đồng vô hiệu.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa có sự phân biệt giữa hợp đồng kinh tế bị vô hiệu và hợp đồng kinh tế có thể bị huỷ bỏ. Các lý do hợp đồng kinh tế bị vô hiệu cũng chưa được liệt kê đầy đủ, có điều kiện còn không hợp lý cho nên bị lạm dụng nhiều trong thực tế. Chẳng hạn như điều kiện “một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng”, hay “người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền”. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định về đại diện ký kết hợp đồng kinh tế đã không theo kịp cuộc sống. Trên thực tế, các công ty, ngân hàng… thường xuyên phải ký các hợp đồng kinh tế, tín dụng… nên Tổng giám đốc (Giám đốc) thường có văn bản phân công chức năng, nhiệm vụ (thực chất là ủy quyền chung) cho các Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc, Giám đốc chi nhánh). Văn bản này đã thể hiện sự trao quyền giữa người có thẩm quyền và người được uỷ quyền cho nên sự uỷ quyền này cần được công nhận. Cũng về vấn đề đại diện, Bộ luật dân sự đã quy định, trong trường hợp người ký hợp đồng không có quyền đại diện thì hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với người được đại diện, nếu người này đồng ý; hoặc hợp đồng sẽ có giá trị ràng buộc người đại diện, nếu người được đại diện không đồng ý. Cách quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với tập quán hợp đồng quốc tế và được quy định trong pháp luật hợp đồng của nhiều nước trên thế giới.
Đối với hợp đồng dân sự vô hiệu, Bộ luật dân sự mặc dù đã quy định khá đầy đủ, nhưng trong việc áp dụng vẫn không tránh khỏi những vướng mắc, bất hợp lý. Ví dụ như vấn đề liên quan đến hợp đồng dân sự vô hiệu do chủ thể giao kết là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Điều 140 Bộ luật dân sự chưa đề cập đến trường hợp chủ thể giao kết này đến khi thực hiện hợp đồng đã ký kết thì đã thành niên, hoặc khôi phục lại được năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp đó, Toà án không nên tuyên bố hợp đồng vô hiệu nếu họ vẫn thực hiện hợp đồng đã ký kết. Hoặc trường hợp chủ thể chưa thành niên hay chưa khôi phục lại được năng lực hành vi giao kết hợp đồng thì có thể chấp nhận hợp đồng này có hiệu lực nếu được người đại diện của họ đồng ý.
Quy định tại Điều 139 Bộ luật dân sự về hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định về hình thức cũng chưa phù hợp. Khi xác lập hợp đồng, một bên hoặc các bên đã cố tình vi phạm về hình thức hợp đồng thì họ thường không yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Hoặc có yêu cầu Toà án tuyên bị vô hiệu thì cũng vì mục đích phá hợp đồng đã ký để vụ lợi, chẳng hạn như khi giá tài sản mua bán tăng lên (trượt giá)... nếu một trong hai bên chủ thể không có thiện chí và cố tình trốn tránh trách nhiệm thì việc hợp thức hoá hình thức của hợp đồng cũng không thể thực hiện được và lợi ích của chủ thể trong hợp đồng này không được đảm bảo.
Sự khác nhau cơ bản trong quy định về hợp đồng vô hiệu giữa Bộ luật dân sự và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã dẫn tới những cách hiểu khác nhau và việc xử lý khác nhau về hậu quả giao dịch hợp đồng vô hiệu. Do quan niệm hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế có bản chất pháp lý khác nhau, do đó pháp luật điều chỉnh chúng không có khả năng hỗ trợ, bổ sung cho nhau đã dẫn đến tình trạng các cơ quan tài phán Việt Nam thường lúng túng trong việc áp dụng pháp luật. Toà án chỉ áp dụng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, mà không áp dụng Luật thương mại, Bộ luật dân sự khi xem xét hợp đồng kinh tế vô hiệu, dù Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định chưa hợp lí và có những phán quyết rất khác nhau về cùng một tranh chấp hợp đồng. Mặt khác, ở nước ta, thường tất cả các bên trong hợp đồng kinh tế đều có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Điều này đã khuyến khích các bên, kể cả bên có lỗi gây ra sự vô hiệu, khởi kiện ra Toà án nhằm tuyên hợp đồng vô hiệu để trốn tránh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng hoặc trục lợi từ chính sự vi phạm của mình. Quy định về việc xử lý hậu quả hợp đồng kinh tế vô hiệu của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế vô tình tạo công cụ giúp những kẻ gian dối, gây nên những bất hợp lý trong thực tiễn kinh doanh, không bảo vệ được bên ngay tình trong hợp đồng. Thực trạng này không đảm bảo được quyền lợi chính đáng của các bên, gây ra không ít những thiệt hại và hậu quả xấu về kinh tế cho các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế.
VI. VI PHẠM HỢP ĐỒNG VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
1. Điểm tương đồng
Nhìn chung những quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự, Luật thương mại về vấn đề này khá đầy đủ, đặc biệt là những quy định của Bộ luật dân sự về các trường hợp vi phạm hợp đồng (không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ, chậm thực hiện nghĩa vụ…) trong các loại hợp đồng cụ thể. Trong khi đó, Luật thương mại lại có những quy định khá khái quát về chế tài trong thương mại (chương IV) làm cơ sở cho việc áp dụng các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự, Luật thương mại đều chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về vi phạm hợp đồng. Việc xác định thế nào là một vi phạm hợp đồng cũng chỉ dựa trên cơ sở vi phạm nghĩa vụ và các trường hợp không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ mà Bộ luật dân sự đưa ra. Song, hạn chế này không chỉ tồn tại trong pháp luật hợp đồng Việt Nam mà còn trong pháp luật hợp đồng của hầu hết các nước trên thế giới.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự và Luật thương mại cũng như các văn bản hướng dẫn đều chưa đưa ra được cơ sở pháp lý rõ ràng và thuyết phục về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ và thiệt hại thực tế xảy ra.
Các quy định của pháp luật về vi phạm hợp đồng và trách nhiệm phát sinh do vi phạm hợp đồng đã nói đến hình thức thể hiện và căn cứ xác định thiệt hại nhưng phương thức, căn cứ tính toán thiệt hại xảy ra chưa được đầy đủ và cụ thể. Điều này đã gây khó khăn trong việc giải quyết trách nhiệm theo hợp đồng, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
2. Điểm khác biệt
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật thương mại quy định rất chung chung về một số trường hợp vi phạm hợp đồng như không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ (giao hàng thiếu, kém chất lượng, có sai sót kỹ thuật…) hay chậm thực hiện nghĩa vụ. Các trường hợp vi phạm hợp đồng trong Bộ luật dân sự đầy đủ hơn nhưng lại tản mạn, rải rác ở những quy định về các loại hợp đồng cụ thể (hợp đồng gia công, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê nhà…).
Về trách nhiệm pháp lý phát sinh từ vi phạm hợp đồng, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật thương mại đã quy định thành một mục riêng (mục 1 chương IV Luật thương mại) hoặc một chương riêng (chương IV Pháp lệnh hợp đồng kinh tế). Bộ luật dân sự không quy định một cách khái quát về các hình thức trách nhiệm này mà quy định kèm theo các trường hợp vi phạm hợp đồng.
Đối với hành vi không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại, Bộ luật dân sự chỉ quy định bên vi phạm có nghĩa vụ “thanh toán giá trị của vật và bồi thường thiệt hại”. Vậy thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao vật cùng loại như đối với trường hợp không giao vật đặc định hay không?
Luật thương mại đã có quy định về biện pháp huỷ hợp đồng do vi phạm nghĩa vụ nhưng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Bộ luật dân sự lại không quy định biện pháp này. Tuy nhiên chế tài huỷ hợp đồng trong Luật thương mại cũng chưa thật sự được thể hiện rõ ràng bởi Luật thương mại không quy định cụ thể huỷ hợp đồng là huỷ toàn bộ hay chỉ huỷ phần nghĩa vụ bị vi phạm theo sự thoả thuận của các bên. Trên thực tế, các bên tham gia hợp đồng có thể vi phạm toàn bộ hợp đồng nhưng rất nhiều trường hợp chỉ xảy ra với một phần hợp đồng, một điều khoản cụ thể nhưng pháp luật không quy định huỷ toàn bộ hay huỷ một phần hợp đồng trong trường hợp vi phạm một phần hợp đồng, một phần nghĩa vụ.
Ngoài sự tản mạn và thiếu rõ ràng, các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự và Luật thương mại còn thiếu thống nhất khi quy định về các trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và các hình thức trách nhiệm phát sinh.
Pháp luật dân sự có rất nhiều quy định cụ thể đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng đối với từng trường hợp và từng loại giao dịch nhưng lại chưa có những quy định chung và thống nhất về các căn cứ đầy đủ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Luật kinh tế đã quy định một cách tương đối khái quát về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Luật thương mại có hệ thống các quy định về vấn đề này đầy đủ và rõ ràng hơn cả. Như vậy, Bộ luật dân sự phải có những quy định thống nhất, đầy đủ về căn cứ phát sinh trách nhiệm và nguyên tắc bồi thường thiệt hại cùng với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật thương mại.
Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ và thiệt hại thực tế xảy ra chỉ được đề cập đến với tính cách là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở khoản 3 Điều 230 Luật thương mại. Điều này đã gây không ít tranh cãi khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi có những hành vi là nguyên nhân gián tiếp gây ra thiệt hại được Bộ luật dân sự thừa nhận để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật thương mại dường như lại không chấp nhận nguyên nhân gây ra thiệt hại này.
Luật dân sự và thương mại đều có quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong hợp đồng nhưng cách đề cập lại tương đối khác nhau. Luật dân sự đưa ra nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại nếu các bên không có thoả thuận trước về mức bồi thường (Điều 379 Bộ luật dân sự). Luật thương mại quy định nguyên tắc định lượng trong xác định thiệt hại và bồi thường: “Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng” (khoản 2 Điều 229 Luật thương mại). Luật kinh tế cũng thể hiện nguyên tắc “bồi thường tương đương”, bên bị vi phạm đã bị thiệt hại khoản nào thì mới được đòi bồi thường khoản đó. Ở đây có một nguyên tắc bồi thường là các bên “phải chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp với nhau” chỉ được Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đặt ra mà không có ở Bộ luật dân sự hay Luật thương mại. Việc các bên phải chịu trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp với nhau rất quan trọng trong các hợp đồng mang tính chất trung gian (hợp đồng vận chuyển), nên nếu luật dân sự hay luật thương mại không quy định nguyên tắc bồi thường này cũng là một thiếu sót đáng kể.
Vấn đề xác định thiệt hại cũng chưa được Bộ luật dân sự quy định một cách khái quát và mang tính nguyên tắc, trong khi Luật kinh tế và thương mại đã có những quy định (mặc dù chưa cụ thể) về việc xác định thiệt hại do vi phạm hợp đồng, góp phần tạo ra cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng có liên quan.
Mối quan hệ giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng với các chế tài khác được điều chỉnh khác nhau giữa luật dân sự, kinh tế và thương mại. Theo Bộ luật dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng đồng thời với phạt vi phạm khi các bên đã có thỏa thuận, hoặc có quy định của pháp luật. Luật kinh tế quy định có thể áp dụng đồng thời cả hai loại chế tài khi có hành vi vi phạm hợp đồng mà gây thiệt hại. Còn đối với hợp đồng thương mại, khi các bên không có thoả thuận khác thì bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc buộc bồi thường thiệt hại đối với cùng một vi phạm. Quy định như vậy đã hợp lý hay chưa khi mà trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có một thiệt hại xảy ra nhằm khôi phục những tổn thất của bên bị vi phạm và phạt vi phạm hợp đồng là một loại chế tài tự thỏa thuận giữa các bên với mục đích nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ của hợp đồng được thực hiện mà không phụ thuộc vào việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có gây ra thiệt hại hay không?
Bên cạnh đó, Luật thương mại còn quy định: “trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên có quyền lợi bị vi phạm không được áp dụng các chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc huỷ hợp đồng” (Điều 225 Luật thương mại). Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi của người đang thực hiện nghĩa vụ cũng như hạn chế khả năng tư lợi của người có quyền nhưng pháp luật kinh tế và dân sự lại không quy định vấn đề này.
Về chế tài phạt vi phạm hợp đồng, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự và Luật thương mại cũng chưa có những quy định thống nhất về mức phạt vi phạm. Mức phạt vi phạm hợp đồng kinh tế từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm (điểm a khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế). Mức phạt vi phạm cao nhất mà Bộ luật dân sự đưa ra là không quá 5% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm (Điều 378 Bộ luật dân sự). Và Luật thương mại lại đưa ra mức cao nhất không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm (Điều 228). Trong khi những tiêu chí phân loại hợp đồng của pháp luật Việt Nam chưa thống nhất và rõ ràng dẫn đến việc phân biệt các loại hợp đồng là rất khó khăn thì lại thêm những quy định thiếu thống nhất của pháp luật hợp đồng về mức phạt vi phạm càng gây thêm nhiều rắc rối cho việc áp dụng luật trên thực tế.
Quy định về hình thức của thoả thuận phạt vi phạm trong Bộ luật dân sự cũng không thống nhất với quy định về hình thức của hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể (khoản 1 Điều 400 Bộ luật dân sự) nhưng thoả thuận phạt vi phạm bắt buộc phải được lập thành văn bản (khoản 2 Điều 377 Bộ luật dân sự). Ở đây xuất hiện một vấn đề bất cập là đối với hợp đồng dân sự được giao kết bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể thì nếu vi phạm hợp đồng xảy ra, chế tài phạt vi phạm (thoả thuận bằng lời nói) liệu có được áp dụng hay không bởi theo quy định của pháp luật dân sự, thoả thuận phạt vi phạm phải được thể hiện bằng văn bản?
Yếu tố lỗi để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng không được quy định một cách thống nhất trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự và Luật thương mại. Luật dân sự và thương mại có đề cập đến vấn đề lỗi như một trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Trong khi đó, pháp luật kinh tế không coi lỗi như một căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bên vi phạm luôn phải chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp với bên bị vi phạm mà không phụ thuộc vào lỗi của bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào (Nghị định 17/HĐBT ngày 16/01/1990 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế). Có thể nói đây là một vấn đề phức tạp xuất phát từ những quy định bất hợp lý của pháp luật hợp đồng Việt Nam.
Các trường hợp miễn, giảm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng chưa được quy định thống nhất trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Bộ luật dân sự và Luật thương mại. Luật dân sự không có quy định về việc miễn, giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại đầy đủ và rõ ràng như Luật kinh tế. Tuy nhiên, Luật kinh tế cũng chưa có quy định miễn, giảm trách nhiệm trong những trường hợp do thoả thuận của các bên hoặc trường hợp vi phạm nghĩa vụ và gây thiệt hại hoàn toàn do lỗi của bên có quyền. Luật thương mại cũng chưa quy định trường hợp miễn, giảm trách nhiệm khi nghĩa vụ hợp đồng không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng và gây thiệt hại là do một phần hoặc toàn bộ lỗi của người có quyền đã được quy định trong Bộ luật dân sự. Trường hợp miễn trách nhiệm do lỗi của khách hàng, do khuyết tật của hàng hoá hay do có đình công quy định trong Điều 169 Luật thương mại cũng chưa được đặt ra trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Bộ luật dân sự.
Như vậy, những quy định của pháp luật hợp đồng về vi phạm hợp đồng và trách nhiệm phát sinh do vi phạm hợp đồng mặc dù đã góp phần tạo ra sự ổn định trong quan hệ hợp đồng, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia nhưng vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót do sự mâu thuẫn, chồng chéo và thiếu thống nhất, gây không ít khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trên thực tế.
Nhìn chung, những quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại còn nhiều điểm khác biệt, thiếu thống nhất, nhiều quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau, cần phải được hoàn thiện.
PHẦN THỨ BA
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VIỆT NAM
1. Trước khi đưa ra những giải pháp và kiến nghị cụ thể cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hợp đồng của Việt Nam, trong phần thứ ba này, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu đối với kinh nghiệm xây dựng pháp luật hợp đồng của một số nước trên thế giới thông qua việc giới thiệu mô hình pháp luật hợp đồng của một số quốc gia tiêu biểu như: Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc và Nhật, đồng thời, cũng nghiên cứu tham khảo các nguyên tắc áp dụng pháp luật và thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng của các nước này nhằm làm tư liệu tham khảo cho việc đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, trong phần này, các tác giả còn phân tích và làm rõ xu hướng phát triển của pháp luật hợp đồng trên thế giới theo các nội dung sau:
- Quá trình nhất thể hoá pháp luật hợp đồng của các nước chịu ảnh hưởng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
- Xu hướng thu hẹp khoảng cách về sự khác biệt giữa hai hệ thống pháp luật trụ cột Common law và Civil law.
- Xu hướng hình thành các điều ước quốc tế hay nội luật hoá các cam kết quốc tế trong pháp luật quốc gia.
2. Từ kết quả nghiên cứu và tìm hiểu xu hướng phát triển chung của pháp luật hợp đồng thế giới, nhóm nghiên cứu cũng cho thấy sự phát triển tất yếu của pháp luật hợp đồng Việt Nam là:
- Xu hướng thống nhất hoá pháp luật về hợp đồng của Việt Nam. Thống nhất pháp luật về hợp đồng của Việt Nam thực chất chính là quá trình nhận thức lại bản chất của hợp đồng. Điều đó cho phép chúng ta xây dựng được một hệ thống các quy định nhất quán và phản ảnh đúng bản chất khách quan của các quan hệ hợp đồng, tránh những mâu thuẫn không đáng có về mặt lý luận và thực tiễn nhằm hướng tới điều chỉnh một cách phù hợp, hiệu quả đối với các quan hệ có liên quan đến hợp đồng. Mặt khác, tôn trọng bản chất của hợp đồng cần phải hạn chế tối đa sự can thiệp không cần thiết của Nhà nước vào quan hệ hợp đồng. Một thời gian nước ta tồn tại hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước đã làm mất đi bản chất đích thực của hợp đồng, việc giao kết và thực hiện hợp đồng cũng chỉ là để hoàn thành trách nhiệm Nhà nước giao mà không phải là trên cơ sở sự tự do, tự nguyện thoả thuận. Có nhiều quan điểm về thống nhất hoá pháp luật về hợp đồng của Việt Nam, nhưng nhóm nghiên cứu tán thành với quan điểm thứ ba cho rằng,với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay không cần thiết phải phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự bởi hai loại hợp đồng này hoàn toàn giống nhau về bản chất pháp lý. Theo đó, nên xem các quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự là gốc, có hiệu lực điều chỉnh chung, còn văn bản chuyên ngành chỉ điều chỉnh những nét đặc thù của các quan hệ hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mọi hợp đồng dù được giao kết giữa ai và nhằm mục đích nào cũng được coi là hợp đồng và chịu sự điều chỉnh chung của Bộ luật dân sự.
- Xu hướng hiện đại hoá pháp luật về hợp đồng của Việt Nam. Việc hiện đại hoá hệ thống các quy định pháp luật về hợp đồng trên cơ sở tôn trọng bản chất của các quan hệ hợp đồng là điều cần thiết để giải quyết những vấn đề còn mâu thuẫn, tồn tại nhằm điều chỉnh một cách có hiệu quả và phù hợp với các quan hệ xã hội ngày càng phát triển đa dạng. Tuy nhiên, hiện đại hóa hệ thống pháp luật hợp đồng cũng cần phải cân nhắc cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam để pháp luật Việt Nam bắt kịp xu hướng phát triển của pháp luật thế giới mà không phải là bị cuốn đi một cách thụ động. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi chúng ta phải giải quyết một cách triệt để, thoả đáng những mâu thuẫn nội tại, đồng thời nhất quán được tư duy và nhận thức đối với những yêu cầu của thực tiễn khách quan.
- Xu hướng quốc tế hoá pháp luật hợp đồng của Việt Nam. Xuất phát từ điều kiện kinh tế, xã hội cũng như những đòi hỏi bức thiết từ quá trình hội nhập và phát triển đã tạo tiền đề cho một xu hướng phát triển mới của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng. Về vấn đề này, hiện nay các nhà nghiên cứu cũng như giới luật gia Việt Nam đang có nhiều quan điểm khác nhau và nhiều giải pháp nhằm giải quyết những vướng mắc liên quan đến pháp luật hợp đồng, nhưng tất cả đều thừa nhận một xu hướng phát triển chung, mang tính tất yếu của pháp luật về hợp đồng của Việt Nam là: phải xích lại gần các quy định về hợp đồng của các nước trên thế giới và khu vực, cũng như không thể xa rời các quy định của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và khu vực thông qua khả năng cân nhắc, tiếp thu những kinh nghiệm và thông lệ quốc tế. Vì vậy, Việt Nam phải thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá pháp luật, trong đó có pháp luật về hợp đồng, chủ động nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc những chuẩn mực của pháp luật nói chung và pháp luật về hợp đồng nói riêng trong điều kiện hội nhập khu vực và toàn cầu hoá. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu giao lưu kinh tế quốc tế, để khỏi bị nhấn chìm trong sự áp đảo của các giá trị và pháp luật phương Tây thì việc hài hoà chính sách pháp luật nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng trên quy mô khu vực và thế giới là một xu hướng tất yếu của Việt Nam.
- Xu hướng đơn giản hoá pháp luật về hợp đồng của Việt Nam. Việt Nam nên có các giải pháp để khắc phục sự phân biệt hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại. Trong tương lai phải có tư duy thống nhất Bộ luật dân sự là đạo luật cơ bản của hệ thống luật tư. Xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực đã đặt ra yêu cầu xoá bỏ sự khác biệt không cần thiết giữa pháp luật quốc gia với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng. Để nâng cao hiệu quả, tránh những rắc rối, phức tạp không đáng có trong quá trình áp dụng pháp luật về hợp đồng và phù hợp với xu hướng chung của pháp luật các nước trên thế giới, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam phải đảm bảo tính thống nhất, tính giản đơn trong việc áp dụng và lựa chọn luật áp dụng, lựa chọn mô hình pháp luật về hợp đồng thích hợp. Tuy nhiên, đơn giản hoá pháp luật không có nghĩa là không dự liệu được các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ hợp đồng có thể xảy ra trong một tương lai gần. Đó là một định hướng có ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết định đến việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở nước ta.
3. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài, nhóm nghiên cứu đã đưa ra bốn giải pháp lớn nhằm thống nhất pháp luật hợp đồng Việt Nam, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp không cần thiết trong các quy định pháp luật về hợp đồng hiện hành, theo đó:
- Cần phải xây dựng các quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự thành các quy định gốc về hợp đồng.
- Cần xoá bỏ sự phân biệt không cần thiết về các loại hợp đồng (hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại) như hiện nay, thay vào đó là sự cụ thể hoá các hợp đồng đặc thù trong các văn bản pháp lý chuyên ngành: Theo giải pháp này, nhóm nghiên cứu cho rằng: khi Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung có hiệu lực, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần phải bị xoá bỏ bởi nó không còn phù hợp và cần thiết trong nền kinh tế thị trường.
- Cần xây dựng hệ thống các nguyên tắc áp dụng pháp luật.
- Cần đảm bảo tính thống nhất trong việc giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật về hợp đồng. Điều này đòi hỏi: (i) Đảm bảo được tính thực tế, nghĩa là việc giải thích và hướng dẫn phải giải quyết những vướng mắc của luật, tránh tình trạng lặp lại những quy định của luật một cách cứng nhắc. (ii) Sự hướng dẫn phải trên cơ sở phù hợp và trên tinh thần của điều luật. (iii) Cơ quan giải thích và hướng dẫn phải là những cơ quan có chức năng này theo quy định của pháp luật. Thực tế hiện nay, nhiều cơ quan không có chức năng giải thích nhưng vẫn thực hiện công việc này, gây ra sự thiếu thống nhất, thiếu khoa học trong công tác giải thích và hướng dẫn pháp luật.
Các giải pháp mà nhóm nghiên cứu đề ra đã cho thấy sự phù hợp với thực tế và xu hướng phát triển khách quan của pháp luật hợp đồng. Các giải pháp này đã được các nhà lập pháp tiếp thu và triển khai trên thực tế thông qua tinh thần xây dựng Bộ luật dân sự sửa đổi, Luật thương mại sửa đổi và các luật này đã được thông qua năm 3005.
Ngoài ra, để triển khai hiệu quả các giải pháp này, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp và đưa ra hơn 60 kiến nghị cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự và 15 kiến nghị cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung Luật thương mại và các vấn đề khác có liên quan và phần lớn các kiến nghị này đã được ban soạn thảo Bộ luật dân sự sửa đổi, Luật thương mại sửa đổi đưa ra thảo luận, xem xét, cân nhắc và tiếp thu.
Theo đó, một số quy định về hợp đồng đã được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung (Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005) phù hợp với tinh thần của những kiến nghị này, cụ thể:
1. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã quy định thêm một điều luật về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình (Điều 109), tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể này tham gia các giao dịch dân sự hiệu quả.
2. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã quy định rõ hơn về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, từ Điều 390 đến Điều 400 (từ Điều 396 đến Điều 399 ở Bộ luật dân sự năm 1995).
3. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã bổ sung một điều luật quy định về việc sửa đổi đề nghị của bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và xem đây là một đề nghị mới (Điều 395).
4. Đã sửa quy định “không được mời người thứ ba giao kết” ở Điều 396. Trong Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung, đề nghị giao kết hợp đồng đã được quy định tại Điều 390, và điều này được tách thành 2 khoản, khoản 2 đã bỏ quy định “không được mời người thứ ba giao kết”, sửa thành “bên đề nghị giao kết lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”. Như vậy, quy định sửa đổi cho phép bên đề nghị được giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ trả lời nhưng phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị nếu có thiệt hại phát sinh. Trong khi đó, Bộ luật dân sự năm 1995 quy định “không được mời người thứ ba giao kết” đã hạn chế khả năng của nhà cung cấp.
5. Mặc dù không trực tiếp quy định rõ hơn về đề nghị giao kết hợp đồng bằng thư điện tử nhưng Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung cũng đã bổ sung những phương thức đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng khác, theo đó có thể hiểu đề nghị giao kết hợp đồng bằng thư điện tử cũng đã được chấp nhận (điểm c khoản 2 Điều 391; khoản 2 Điều 397…).
6. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã bổ sung vào khoản 2 Điều 401 (ở Bộ luật dân sự năm 1995 là khoản 2 Điều 400) quy định: “hợp đồng không bị coi là vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức”.
7. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức tại Điều 134 (Điều 139 Bộ luật dân sự năm 1995). Với việc sửa đổi quy định này, việc hợp thức hoá hình thức hợp đồng trên thực tế được thực hiện dễ dàng hơn bởi các bên không thể trốn tránh trách nhiệm theo hợp đồng.
8. Điều 290 Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã bỏ quy định nghĩa vụ trả tiền phải thực hiện bằng đồng Việt Nam (khoản 2 Điều 295 Bộ luật dân sự năm 1995).
9. Điều 321 Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã bỏ quy định tiền được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải là đồng Việt Nam (khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 1995).
10. Khoản 2 Điều 320 Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã quy định bổ sung vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương lai (Điều 326 Bộ luật dân sự năm 1995 chỉ quy định vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải thuộc quyền sở hữu của người bảo đảm và được phép giao dịch).
11. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã quy định rõ hơn về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
12. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã bỏ quy định bên cầm cố phải giao cho bên nhận cầm cố bản gốc giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản cầm cố.
13. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã bổ sung biện pháp cầm giữ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng (Điều 416).
14. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã quy định rõ hơn việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 138 (Điều 147 Bộ luật dân sự năm 1995). Theo đó đã phân biệt tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký các hạn chế quyền sở hữu.
15. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã bỏ quy định thoả thuận phạt vi phạm phải được lập thành văn bản. (Bộ luật dân sự sửa đổi cũng không quy định phạt vi phạm thành một mục riêng như Bộ luật dân sự năm 1995 nữa mà chỉ quy định trong một điều luật là Điều 422 – thực hiện hợp đồng có thoả thuận phạt vi phạm).
16. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung đã quy định mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận tại khoản 2 Điều 422 (bỏ quy định mức cao nhất không quá 5%).
Như vậy, một số quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự đã được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở những kiến nghị nhóm nghiên cứu đưa ra trong đề tài. Và ở mức độ nhất định, nó sẽ trở thành những quy định gốc về hợp đồng, có thể áp dụng chung điều chỉnh tất cả các quan hệ hợp đồng.
Tuy nhiên, một số vấn đề được nhóm nghiên cứu đề xuất, kiến nghị qua quá trình nghiên cứu vẫn chưa được xem xét và tiếp thu, trong đó, có những vấn đề mà nhóm nghiên cứu cho rằng cần thiết phải tiếp tục sửa đổi nhằm hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam và để những quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự thực sự trở thành những quy định gốc về hợp đồng. Vì vậy, nhóm nghiên cứu vẫn tiếp tục đề xuất những kiến nghị này cho những lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự tiếp theo. Đó là:
- Bổ sung một điều luật quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng và trách nhiệm của các bên đối với tính trung thực và đầy đủ của thông tin cung cấp.
- Cần phải quy định rõ ràng là việc thể hiện thời hạn trả lời có phải là một bắt buộc của đề nghị giao kết hợp đồng không?
- Cần quy định thêm nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hệ thống nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng.
- Bổ sung một điều luật quy định về lãi suất cố định do luật định áp dụng trong trường hợp các bên không thoả thuận về lãi suất.
- Sửa khoản 4 Điều 295 Bộ luật dân sự năm 1995 (nay là Điều 290 Bộ luật dân sự năm 2005): về nguyên tắc, cấm thoả thuận trước về tính lãi mẹ đẻ lãi con nhưng Ngân hàng, Tổ chức tín dụng có thể thông báo trước, đến thời điểm thanh toán mà vốn và lãi không được rút ra thì có thể gộp lãi vào vốn thành một khoản vốn mới.
- Quy định cụ thể các trường hợp không thực hiện được nghĩa vụ theo hướng chia thành nhiều khả năng không thực hiện được nghĩa vụ.
- Xem xét lại quy định về lỗi khi vi phạm hợp đồng ở Điều 309 Bộ luật dân sự năm 1995 (nay là Điều 308 Bộ luật dân sự năm 2005).
- Bổ sung một điều quy định về việc huỷ bỏ hợp đồng theo ý chí của các bên tham gia hợp đồng, tức là theo thoả thuận.
- Quy định rõ về những tài sản không được dùng làm vật thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
- Quy định rõ những tài sản nào thì phải đăng ký và đăng ký ở đâu, trình tự, thủ tục như thế nào?
- Bộ luật dân sự phải có những quy định thống nhất, đầy đủ về căn cứ phát sinh trách nhiệm và nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
- Bộ luật dân sự nên có quy định về việc miễn, giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại đầy đủ và rõ ràng.
- Trường hợp miễn trách nhiệm do lỗi của khách hàng, do khuyết tật của hàng hoá hay do có đình công quy định trong Điều 169 Luật thương mại cũng chưa được đặt ra trong Bộ luật dân sự. Do đó, Bộ luật dân sự cần quy định về trường hợp miễn trách nhiệm dân sự này.
- Cần quy định bổ sung một số loại hợp đồng trong Bộ luật dân sự để đáp ứng nhu cầu thực tế.
- Bỏ một số loại hợp đồng đã được quy định chi tiết trong các văn bản pháp luật chuyên biệt.
Luật thương mại cũng đã được sửa đổi, bổ sung (Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005). Khi những quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự đã được xem là những quy định gốc về hợp đồng thì Luật thương mại chỉ điều chỉnh quan hệ hợp đồng với tính cách là một văn bản pháp lý chuyên ngành, theo đó những vấn đề không được quy định trong Luật thương mại và các luật khác sẽ được áp dụng bởi quy định của Bộ luật dân sự (khoản 3 Điều 4 Luật thương mại sửa đổi, bổ sung). Một số quy định về hợp đồng trong Luật thương mại cũng đã được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở những kiến nghị chúng tôi đưa ra trong đề tài, cụ thể như sau:
1. Khái niệm vi phạm hợp đồng đã được quy định tại khoản 12 Điều 3 Luật thương mại sửa đổi, bổ sung.
2. Luật thương mại đã bổ sung quy định về những trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm (Điều 294, 295).
3. Luật thương mại đã sửa đổi quy định về quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài buộc bồi thường thiệt hại ở Điều 307 (trước đây là Điều 234), theo đó nếu các bên có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm vẫn có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại (Luật thương mại cũ quy định bên có quyền lợi chỉ được lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc buộc bồi thường thiệt hại nếu các bên không có thoả thuận khác).
4. Luật thương mại sửa đổi, bổ sung đã quy định cụ thể hơn về biện pháp huỷ hợp đồng tại Điều 312 (huỷ bỏ toàn bộ hợp đồng và huỷ bỏ một phần hợp đồng).
5. Luật thương mại sửa đổi, bổ sung đã xem xét lại vấn đề lỗi khi vi phạm hợp đồng, lỗi không được đưa ra như một căn cứ bắt buộc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà được suy đoán, tức là khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là đã có lỗi của bên vi phạm.
Tuy nhiên, một số vấn đề đã được nghiên cứu và đề xuất trong quá trình thực hiện đề tài vẫn chưa được tiếp thu trong Luật thương mại sửa đổi lần này, chúng tôi mong muốn vẫn được xem xét và tiếp tục sửa đổi trong lần tới để hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng hoàn thiện, bao gồm các vấn đề sau:
- Luật thương mại cần quy định cụ thể về phương thức giao kết hợp đồng trực tiếp.
- Luật thương mại có đề cập đến chủ thể pháp nhân song cũng như Bộ luật dân sự hay Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đều chưa có định nghĩa rõ ràng và thống nhất về đối tượng này nên phải được sửa đổi, bổ sung.
- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã ghi nhận nguyên tắc “trực tiếp chịu trách nhiệm bằng tài sản”. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ hợp đồng kinh tế là quan hệ hàng hóa tiền tệ. Điều đó không chỉ quy định trách nhiệm mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ. Luật dân sự và đặc biệt là Luật thương mại nên đưa quy định này vào điều chỉnh các quan hệ hợp đồng vì suy cho cùng phần lớn các quan hệ hợp đồng đều mang tính chất hàng hoá, tiền tệ.
- Một hạn chế rất cơ bản trong Luật thương mại là không ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng. Vì vậy, khi sửa đổi Luật thương mại cần phải bổ sung nguyên tắc này.
- Luật thương mại cần có những quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng chặt chẽ và đầy đủ như Bộ luật dân sự.
- Luật thương mại không có quy định về những trường hợp dẫn đến hợp đồng vô hiệu, đồng thời cũng không có quy định dẫn chiếu để điều chỉnh vấn đề này. Đây là một lỗ hổng pháp lý gây ra rất nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng Luật thương mại về hợp đồng thương mại. Bởi lẽ, các hợp đồng ký kết trong lĩnh vực thương mại được điều chỉnh bởi các quy định đặc thù về phương thức giao kết, hình thức giao kết, nội dung giao kết cũng như các nguyên tắc thương mại riêng (nguyên tắc về cạnh tranh thương mại hay nguyên tắc đảm bảo lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng) nên việc xem xét tính vô hiệu của một hợp đồng trong lĩnh vực này cũng cần thiết phải có những quy định áp dụng đặc thù. Do đó, Luật thương mại sửa đổi, bổ sung cần quy định cụ thể vấn đề này.
- Luật thương mại cần phải thừa nhận nguyên nhân gián tiếp gây ra thiệt hại (khi xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ và thiệt hại thực tế xảy ra) để buộc bên gây thiệt hại bồi thường thiệt hại bởi nguyên nhân này đã được thừa nhận trong Bộ luật dân sự.
- Có một nguyên tắc bồi thường là các bên “phải chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp với nhau” chỉ được Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đặt ra mà không có ở Bộ luật dân sự hay Luật thương mại. Việc các bên phải chịu trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp với nhau rất quan trọng trong các hợp đồng mang tính chất trung gian (hợp đồng vận chuyển) nên nếu Luật dân sự hay Luật thương mại không quy định nguyên tắc bồi thường này cũng là một thiếu sót đáng kể./.