• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh lý lịch tư pháp
Nội dung tóm tắt

Lý lịch tư pháp là "bộ nhớ" về các án tích của những cá nhân đã từng can án hình sự. Trong sự đổi mới và phát triển của nước ta hiện nay, hoạt động quản lý lý lịch tư pháp có vai trò rất quan trọng không chỉ trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và hoạch định chính sách phòng, chống tội phạm mà còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động quản lý trật tự xã hội, quản lý con người của Nhà nước ta được chặt chẽ, hiệu quả. Mặt khác, lý lịch tư pháp còn là phương tiện để thực hiện xoá án tích theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động quản lý trên lĩnh vực này đã và đang bộc lộ nhiều điểm bất cập, hạn chế cơ bản như: chúng ta chưa có một tổ chức tập trung thống nhất trực tiếp quản lý lý lịch tư pháp; hoạt động quản lý lý lịch tư pháp hiện nay chưa đảm bảo được mục đích cơ bản và chủ yếu là nhằm hỗ trợ cho hoạt động tố tụng và quản lý nhà nước; lý lịch tư pháp là phương tiện để thực hiện xoá án tích theo quy định của pháp luật; xóa án tích là một chính sách thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của Nhà nước ta. Tuy nhiên, hiện nay, việc thực hiện chính sách này chưa thực sự được coi trọng.

Đề tài khoa học cấp Bộ "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh Lý lịch tư pháp” được triển khai nghiên cứu từ tháng 4/2005. Tuy nhiên trong bối cảnh để tạo tiền đề cho việc triển khai xây dựng Luật lý lịch tư pháp theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2006, Ban chủ nhiệm Đề tài đã mạnh dạn tiến hành nghiên cứu "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Lý lịch tư pháp”. Mục tiêu của đề tài được xác định là: hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc xây dựng Luật lý lịch tư pháp như: khái niệm, ý nghĩa, vai trò của lý lịch tư pháp trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; sự cần thiết, cấp bách phải xây dựng Luật lý lịch tư pháp. Đưa ra các kiến nghị làm cơ sở cho việc xây dựng Luật: đối tượng, phạm vi điều chỉnh, bố cục của Luật; mô hình tổ chức, quản lý lý lịch tư pháp, cơ chế cập nhật thông tin và cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp".

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN XÂY DỰNG LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

1. Khái niệm lý lịch tư pháp

1.1. Khái niệm lý lịch tư pháp

Thuật ngữ "lý lịch tư pháp" không phải được sử dụng một cách giống nhau ở các nước khác nhau, nhưng có thể nói rằng trong các thuật ngữ khác nhau theo cách gọi của mỗi nước đều hàm chứa những nội dung tương tự. Lý lịch tư pháp được hiểu một cách chung nhất, khái quát nhất là hồ sơ về phương diện tư pháp của một đối tượng cụ thể. Định nghĩa này tuy còn rất chung chung nhưng có tác dụng định hướng, khoanh vùng giới hạn để chúng ta đi sâu tìm hiểu, xác định những nội dung cụ thể của lý lịch tư pháp để từ đó đi đến một định nghĩa toàn diện hơn, cụ thể hơn.

1.2. Phân biệt lý lịch tư pháp với hồ sơ căn cước can phạm

Lý lịch tư pháp và căn cước can phạm là hai loại hồ sơ chủ yếu tạo thành hồ sơ hình sự của một cá nhân. Hai loại hồ sơ này có những nội dung trùng nhau nhưng không phải là một và không thể thay thế cho nhau.

Căn cước can phạm là một loại hồ sơ phục vụ cho công tác điều tra. Thông thường ở nhiều nước, hồ sơ này do cơ quan cảnh sát tư pháp lập và quản lý. Khi có một người nào đó bị bắt, cơ quan cảnh sát tiến hành lập căn cước của người đó. Trong căn cước gồm có: họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú; họ tên của cha, mẹ, vợ (chồng), con; nơi bị bắt, ngày tháng năm bị bắt, lý do bị bắt...(gọi là danh bản). Đồng thời, cảnh sát tiến hành lấy điểm chỉ vân tay gồm 10 ngón tay và cả hai bàn tay của đương sự (gọi là chỉ bản). Trong hồ sơ căn cước can phạm còn ghi lại toàn bộ tiền án (kể cả những bản án đã được xoá án tích) và tiền sự của đương sự.

So sánh nội dung của lý lịch tư pháp và nội dung của hồ sơ căn cước can phạm, ta thấy có những điểm khác nhau cơ bản sau đây:

- Lý lịch tư pháp ghi chép không chỉ những vấn đề thuộc phạm vi hình sự như hồ sơ căn cước can phạm;

- Trong lý lịch tư pháp (phần về hình sự) không ghi toàn bộ các tiền án và tiền sự như hồ sơ căn cước can phạm. Đối với các bản án, lý lịch tư pháp chỉ ghi những bản án đã thành nhất định (không còn bị kháng cáo, kháng nghị). Trong khi đó, hồ sơ căn cước can phạm ghi nhận tất cả án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm (nếu có).

- Trong trường hợp án đã được xoá theo quy định của luật hình sự về xoá án tích thì trong lý lịch tư pháp cấp cho đương sự không ghi án đó. Còn trong hồ sơ căn cước can phạm, án đã được xoá không làm thay đổi hồ sơ.

- Hồ sơ căn cước can phạm, như đã nói ở trên là loại hồ sơ của cơ quan điều tra, phục vụ cho công tác điều tra. Vì vậy, nó được xếp vào loại tài liệu mật, không được cung cấp cho bất kỳ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào - kể cả chính bản thân đương sự (trừ một số cơ quan chức năng được quyền biết). Trong khi đó, lý lịch tư pháp được cấp tương đối rộng rãi cho đương sự, các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác khi họ có lý do chính đáng cần được biết về tình trạng tiền án của đương sự.

2. Phạm vi quản lý lý lịch tư pháp

Xét về mặt lịch sử thì phạm vi và nội dung của lý lịch tư pháp lúc đầu chỉ là những vấn đề mang tính chất thuần túy hình sự (tức là những án hình). Về sau này, do sự phát triển và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nên phạm vi quản lý lý lịch tư pháp cũng được mở rộng ra các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, hành chính… Việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi này tùy thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia và xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cách làm của mỗi nước. Tuy nhiên, dù mở rộng hay thu hẹp phạm vi này thì nội dung chủ yếu của lý lịch tư pháp vẫn là những vấn đề về hình sự (chẳng hạn ở Cộng hoà Pháp hiện nay có 90% thông tin được đưa vào lý lịch tư pháp là thuộc hình sự1). Thực ra việc phân loại thông tin theo lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, thương mại… cũng chỉ mang tính chất tương đối. Nó không phải là một nguyên tắc.

Ngoài cách phân loại thông tin theo lĩnh vực nói trên người ta còn phân loại theo thông tin ban đầu và thông tin bổ sung. Thông tin ban đầu là những bản án hay quyết định ban đầu về một vụ việc cụ thể. Thông tin bổ sung là loại thông tin phản ánh diễn biến về sau của vụ việc. Việc tiếp nhận các thông tin bổ sung vào lý lịch tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng nhưng thông thường nó hay bị lãng quên hoặc cập nhật không đầy đủ.

3. Mục đích, ý nghĩa của công tác quản lý lý lịch tư pháp

Lý lịch tư pháp như đã nêu ở trên, có thể được hiểu là hồ sơ về phương diện tư pháp của mỗi cá nhân (thậm chí cả tổ chức) nhưng nó có ý nghĩa không chỉ trong lĩnh vực công tác tư pháp mà cả trong nhiều lĩnh vực quản lý khác.

Thứ nhất, lý lịch tư pháp là nguồn cung cấp những tư liệu chính thức về quá khứ nhân thân của bị can, bị cáo để cơ quan điều tra, truy tố và xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với họ trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể. Xét theo góc độ này thì những tình tiết mà cơ quan lý lịch tư pháp cung cấp có giá trị chứng cứ về tái phạm hay không tái phạm.

Thứ hai, lý lịch tư pháp giúp cho công tác thi hành án thực hiện một cách đầy đủ, chính xác các bản án và quyết định của Toà án. Một đặc điểm của công tác thi hành án của ta hiện nay là chưa có một cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý toàn bộ việc thi hành tất cả các bản án và quyết định của Toà án. Thẩm quyền này được giao cho các cơ quan khác nhau như cơ quan công an, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan; các cơ sở chuyên khoa y tế; các tổ chức trong quân đội;... Việc quy định nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành án như vậy là xuất phát từ những đặc thù của từng loại án nhưng cũng có điều bất tiện là không có một cơ quan thống nhất giám sát chung.

Thứ ba, lý lịch tư pháp là nguồn thông tin chính thức để các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế… xem xét đạo đức tư cách của công dân trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể.

Thứ tư, lý lịch tư pháp là phương tiện để thực hiện xoá án tích theo quy định của pháp luật hình sự.

4. Mô hình quản lý lý lịch tư pháp của một số nước trên thế giới

1.1. Quản lý lý lịch tư pháp của Cộng hoà Pháp

Lý lịch tư pháp, theo quan niệm của Pháp trước hết là một tập phiếu lý lịch tư pháp ghi nhận về những người bị kết án. Mục đích chính của lý lịch tư pháp là chứng minh sự tồn tại hay không tồn tại các tiền án của một người. Tại Pháp, cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thuộc Vụ pháp luật hình sự và ân xá nhưng cơ quan lý lịch tư pháp hoạt động một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Các thông tin được ghi nhận vào lý lịch tư pháp được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự bao gồm: quyết định ban đầu; các quyết định bổ sung, sửa đổi hoặc xoá bỏ chúng. Ngoài ra pháp luật Pháp còn quy định những thông tin khác cũng được ghi nhận vào lý lịch tư pháp như: bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, các quyết định của cơ quan hành chính đặc thù... Tuy nhiên, các thông tin được ghi vào lý lịch tư pháp tại Pháp vẫn chủ yếu là những thông tin về hình sự - là những bản án do Toà án hình sự tuyên (90%).

Lý lịch tư pháp được lập ra trước hết nhằm phục vụ cho cơ quan tư pháp. Ngoài ra, các cơ quan hành chính nhà nước và các cá nhân cũng có quyền yêu cầu cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào cơ quan yêu cầu mà có thể xin cấp loại Phiếu lý lịch tư pháp tương ứng. Cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia Pháp có quyền cung cấp 3 loại Phiếu lý lịch tư pháp sau:

- Phiếu số 1 chỉ được cấp cho cơ quan tư pháp, theo yêu cầu của thẩm phán xét xử hay Viện công tố. Phiếu số 1 ghi lại toàn bộ các quyết định của Toà án liên quan đến đương sự. Các cơ quan tư pháp có thể sử dụng phiếu này trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Đối với các cơ quan tư pháp, Phiếu số 1 là nguồn thông tin quan trọng về nhân thân của đương sự.

- Phiếu số 2 chủ yếu được cấp cho các cơ quan hành chính nhà nước. Phiếu số 2 là bản trích lại thông tin từ Phiếu số 1. Những xử phạt vi phạm hành chính, những án tích nhẹ nhất và những bản án được tuyên đối với trẻ vị thành niên thì không được ghi lại trên Phiếu số 2. Phiếu số 2 giúp cho các cơ quan quản lý hành chính tìm hiểu để tuyển dụng người làm việc hoặc giải quyết các thủ tục khác như: xin phép kinh doanh, gọi nhập ngũ, lập danh sách cử tri... Nhưng không phải bất kỳ cơ quan hành chính nào cũng có thể yêu cầu cấp Phiếu số 2. Khi gửi phiếu yêu cầu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp Phiếu số 2, phải nêu rõ lý do và căn cứ điều luật nào để được quyền yêu cầu.

- Phiếu số 3 là phiếu được cấp cho chính đương sự khi có yêu cầu. Trong Phiếu số 3 chỉ ghi lại những án tích chưa được xoá nhưng không phải bất kỳ án tích nào chưa được xoá cũng đều ghi vào. Thông thường chỉ những án nghiêm trọng hoặc tuy không nghiêm trọng nhưng án tích đó lại trực tiếp liên quan đến mục đích của việc xin Phiếu số 3 sẽ được ghi vào phiếu. Đương sự có thể trực tiếp đến hoặc gửi thư yêu cầu qua bưu điện tới cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia để xin cấp Phiếu số 3. Phiếu số 3 chỉ cấp cho chính bản thân đương sự, không cho phép cấp qua người thứ ba và được miễn phí.

4.2. Quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản

Tại Nhật Bản, lý lịch tư pháp là lý lịch phạm tội của từng cá nhân, ghi nhận các phán quyết xác định có tội do Toà án tuyên đối với người đó (các tiền án). Lý lịch tư pháp là tư liệu quan trọng không thể thiếu giúp cho quá trình kiểm sát và xét xử được chính xác.

Mục đích của lý lịch tư pháp được quy định rõ trong Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự và Luật Ân xá của Nhật Bản, nhằm phục vụ cho hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án của các cơ quan tư pháp. Cá nhân không có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Trong một số trường hợp đặc biệt, luật sư cũng có quyền yêu cầu cung cấp lý lịch tư pháp nhưng chỉ được sử dụng trong quá trình tố tụng. Quy định mang tính hạn chế này xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm bí mật đời tư của công dân.

Viện Kiểm sát là cơ quan có chức năng quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản. Lý lịch tư pháp của người có hộ tịch tại Nhật Bản được quản lý tại Viện kiểm sát địa phương, nơi đương sự có hộ tịch gốc[1]. Trong trường hợp đương sự chuyển hộ tịch thì nơi quản lý lý lịch tư pháp sẽ được thay đổi theo. Viện Kiểm sát thành phố Tokyo (cấp tỉnh) là nơi quản lý lý lịch tư pháp của những người không có hộ tịch gốc tại Nhật Bản hoặc có hộ tịch gốc không rõ ràng và người nước ngoài. Ngoài việc quản lý lý lịch tư pháp của cá nhân, thì Viện Kiểm sát địa phương còn quản lý cả lý lịch tư pháp của các pháp nhân có đăng ký kinh doanh.

Ngoài việc quản lý lý lịch tư pháp thuộc hệ thống Viện Kiểm sát nói trên, Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã (là đơn vị hành chính thuộc cấp tỉnh) cũng quản lý một số thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp của người phạm tội. Những thông tin này được gọi là “Danh sách người phạm tội”. Danh sách này được xây dựng trên cơ sở các thông báo liên quan đến tiền án của người phạm tội do Viện Kiểm sát gửi tới. Việc quản lý Danh sách người phạm tội tại Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã nhằm mục đích thực hiện công tác hành chính như chứng minh căn cước hoặc biên soạn danh sách cử tri, cho phép hoặc xoá bỏ đăng ký kinh doanh… Giống như quản lý lý lịch tư pháp của Viện Kiểm sát, Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã, nơi quản lý Danh sách người phạm tội cũng không cung cấp các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp cho cá nhân nhằm đảm bảo quyền giữ bí mật đời tư của công dân.

Cơ chế cung cấp và cập nhật các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp tại Nhật Bản cũng được quy định cụ thể. Sau khi Toà án tuyên án (đã có hiệu lực pháp luật), Viện kiểm sát tương ứng với Toà án đã tuyên bản án có trách nhiệm gửi thông báo bằng văn bản cho Sở Cảnh sát (đã chuyển vụ án), Viện Kiểm sát địa phương và Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã nơi đương sự có hộ tịch gốc về kết quả xét xử của Toà án. Thông báo này bao gồm khoản mục về căn cước của đương sự như “họ tên, ngày tháng năm sinh, hộ tịch gốc” và khoản mục về phán quyết xác định có tội gồm “ngày tuyên án, ngày có hiệu lực, Toà án đã tuyên, tội danh, loại hình phạt, tình trạng thi hành án….”. Căn cứ vào những khoản mục về căn cước của đương sự trong  thông báo, Viện Kiểm sát sẽ cập nhật những thông tin về tiền án mới (đối với những người đã có tiền án) hoặc tiến hành lập lý lịch tư pháp mới của đương sự (đối với những trường hợp chưa có lý lịch tư pháp).

Mục đích của quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản là nhằm phục vụ cho hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án của các cơ quan tư pháp. Do đó, lý lịch tư pháp được sử dụng để các cơ quan tư pháp “so chiếu tiền án” (tra cứu lý lịch tư pháp).

4.3. Mô hình quản lý lý lịch tư pháp của một số nước theo hệ thống pháp luật Ănglô Xắcxông

4.3.1. Quản lý lý lịch tư pháp tại Hoa Kỳ:

Hoa Kỳ không có một văn bản pháp lý riêng quy định về việc tổ chức hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc quản lý và cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, hệ thống dữ liệu có liên quan đến lý lịch tư pháp ở Hoa Kỳ cũng khá phong phú. Do đặc điểm của quốc gia liên bang, các dữ liệu về lý lịch tư pháp của công dân Mỹ được lưu trữ ở các cơ sở dữ liệu của liên bang cũng như các cơ sở dữ liệu của từng bang. Ngoài ra, căn cứ theo quy định của các đạo luật liên quan đến tự do thông tin của Hoa Kỳ, nhiều tổ chức tư nhân cũng đã tập hợp những thông tin công khai của chính quyền và xây dựng những cơ sở dữ liệu thông tin của riêng mình nhằm mục đích cung cấp cho những người có nhu cầu.

- Ở cấp độ liên bang: có hai hệ thống dữ liệu có liên quan đến lý lịch tư pháp, đó là Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm của Cục điều tra liên bang Mỹ FBI và Hệ cơ sở dữ liệu của Toà án.

Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm lưu trữ các thông tin về tội phạm như các lệnh truy nã, các quyết định bắt giam, thi hành hình phạt, các quyết định phóng thích nạn nhân... Hệ thống này phục vụ chủ yếu cho công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Do vậy, các thông tin trong dữ liệu cũng được lưu trữ dưới các tiêu chí nhằm phục vụ cho các cơ quan điều tra, công tố. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu vào mục đích cấp lý lịch tư pháp chỉ là mục đích thứ yếu.

Hệ cơ sở dữ liệu của Toà án lưu trữ các bản án, thống kê tội phạm. Đây cũng là một nguồn cơ sở dữ liệu lưu trữ các thông tin liên quan đến các chế tài, hình phạt và biện pháp tư pháp do Toà án tuyên và cũng có thể được sử dụng vào mục đích kiểm tra lý lịch tư pháp.

- Ở các bang:

+ Hệ thống cơ sở dữ liệu về tội phạm của bang. Hầu hết các bang tại Hoa kỳ (trừ bang Califonia) đã có hệ cơ sở dữ liệu về tội phạm trong phạm vi lãnh thổ của bang mình. Hệ thống này cập nhật các thông tin dựa trên các phán quyết đã được tuyên bởi toà án bang. Hệ thống dữ liệu này là công khai và mọi người đều có thể tiếp cận theo luật về tự do thông tin. Mục đích chính của hệ cơ sở dữ liệu này là thống kê tội phạm.

+ Hệ thống lưu trữ của Toà án. Các toà án cấp bang đều có ghi chép và lưu trữ các thông tin có liên quan đến lý lịch tư pháp, không chỉ trong lĩnh vực hình sự mà còn cả trong các lĩnh vực khác như: các chế tài xử phạt đối với các tội vi phạm giao thông, việc thay đổi họ tên, quyết định ly hôn, vấn đề phá sản... Hệ thống tài liệu này được lưu trữ dưới các hình thức như: biên bản làm việc của toà án (minute book), tài liệu ghi chép các hoạt động (registration of action), thông tin về phán quyết (judgment book) và tập các án lệ (case files)...

Ngoài hai hệ thống dữ liệu nêu trên, còn có một số cơ sở dữ liệu khác cũng lưu trữ các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp như cơ sở dữ liệu của cơ quan lưu trữ liên bang và các bang. Theo pháp luật của Hoa Kỳ, các dữ liệu công và các tài liệu khác do cơ quan nhà nước ghi lại sau một thời gian nhất định đều phải đưa vào hệ thống lưu trữ của liên bang cũng như của bang. Chính vì vậy, hệ cơ sở dữ liệu của cơ quan lưu trữ rất phát triển, lưu trữ các thông tin đa dạng từ các quyết định hành chính đến cả quyết định của các cơ quan tư pháp.

Ở Hoa Kỳ, vấn đề tiếp cận đối với các cơ sở dữ liệu liên quan lý lịch tư pháp còn đang gây tranh cãi, phải giải quyết mối quan hệ giữa quyền được tiếp cận các hệ cơ sở dữ liệu công cộng của quốc gia và quyền giữ bí mật riêng tư, cấm phân biệt đối xử đối với những người có án tích. Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm của FBI chỉ cung cấp thông tin cho một số cơ quan (điều tra, Toà án) và cho chính những cá nhân có yêu cầu kiểm tra lý lịch tư pháp của mình. Mặt khác, một số bang cũng có những quy định riêng về một số đối tượng nhất định có thể được tiếp cận vào hệ thống thông tin này.

4.3.2. Quản lý lý lịch tư pháp tại Vương quốc Anh

Bộ Ngoại giao là cơ quan được giao quản lý và cấp lý lịch tư pháp tại Anh. Giúp việc cho Bộ Ngoại giao có hai cơ quan trung ương quản lý: Văn phòng về lý lịch tư pháp của Scotland và Cục lý lịch tư pháp.

Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Anh được lưu trữ tại Hệ thống máy tính của cảnh sát quốc gia. Hệ thống này chỉ lưu trữ các thông tin về hình sự. Về nguyên tắc, các tội danh được lưu trữ trong hệ thống cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong thời hạn 10 năm nếu người phạm tội không phạm tội mới trong thời gian đó. Hết thời hạn trên, các án tích sẽ được xoá khỏi hệ thống máy tính cảnh sát quốc gia trừ một số trường hợp cụ thể.

Theo pháp luật của Anh, các cá nhân được tiếp cận và đề nghị Cục lý lịch tư pháp hoặc Văn phòng lý lịch tư pháp Scotland cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Các tổ chức cũng có thể tiếp cận và đề nghị cấp các Phiếu lý lịch tư pháp nếu được đương sự cho phép.

II. THỰC TIỄN QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI VIỆT NAM

Có thể nói hiện nay ở Việt Nam chưa có một hệ thống (thiết chế) về quản lý lý lịch tư pháp. Trên thực tế công tác này đang bị phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau và còn bỏ sót nhiều nội dung quan trọng.

1. Hệ thống tàng thư nghiệp vụ cảnh sát của ngành công an

Hệ thống tàng thư nghiệp vụ cảnh sát bao gồm các hệ thống hồ sơ sau: Tàng thư căn cước can phạm và một số người vi phạm pháp luật khác; Tàng thư căn cước công dân; Tàng thư căn cước thu được của địch; Tàng thư hồ sơ hộ khẩu.

Tàng thư căn cước can phạm tập trung lưu trữ danh bản, chỉ bản, phim, quản lý thông tin cơ bản về căn cước, lai lịch, tiền án, tiền sự, thông tin diễn biến của những đối tượng bị khởi tố, bị bắt trong trường hợp phạm pháp quả tang, bắt theo lệnh truy nã, bắt khẩn cấp, quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, công dân Việt Nam đang ở nước ngoài vi phạm pháp luật bị nước ngoài trả về Việt Nam. Tài liệu thông tin diễn biến về can phạm được tổ chức, quản lý nhằm phục vụ các yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm và công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự của lực lượng công an nhân dân, cũng như các yêu cầu chính đáng của các cơ quan, tổ chức và cá nhân theo quy định của pháp luật và của Bộ Công an. Tàng thư căn cước can phạm được tổ chức quản lý ở 2 cấp; cấp Bộ do Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (C27) quản lý; cấp tỉnh, thành phố do Phòng Hồ sơ nghiệp vụ (PC27) quản lý.

Tàng thư căn cước công dân là nơi tập trung lưu trữ tờ khai, chỉ bản, phim quản lý thông tin cơ bản và diễn biến về căn cước của công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên được cấp chứng minh nhân dân. Tàng thư căn cước công dân có nhiệm vụ: quản lý, khai thác tờ khai, chỉ bản của những người đã được cấp chứng minh nhân dân phục vụ công tác nghiệp vụ của ngành công an, công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự và đáp ứng yêu cầu chính đáng của công dân... Tàng thư căn cước công dân do Phòng hồ sơ nghiệp vụ công an cấp tỉnh quản lý, khai thác.

Tàng thư căn cước thu được của địch quản lý thông tin cơ bản về căn cước, lý lịch, vân tay, ảnh, phim của tất cả những người sinh từ năm 1960 trở về trước thuộc các tỉnh từ Quảng Trị trở vào do chế độ ngụy cấp căn cước và các đối tượng như: những người làm trong các ngành, nghề đặc biệt, việt kiều, ngoại kiều xin cư trú tại miền Nam Việt Nam, ngụy quân, ngụy quyền; người vi phạm pháp luật hình sự, pháp luật hành chính, đối tượng chính trị và tệ nạn xã hội; bộ đội, cán bộ của ta bị địch bắt hoặc ra đầu thú làm việc cho địch (đầu hàng, chiêu hồi, hồi chánh, hoàn lương…). Tàng thư căn cước thu được của địch do Cục hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (bộ phận phía Nam) trực tiếp quản lý, khai thác...

Tàng thư hồ sơ hộ khẩu là nơi tập trung lưu trữ hồ sơ hộ khẩu, quản lý các tài liệu về nhân khẩu trong một hộ và quá trình đăng ký, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu đối với hộ đó. Tàng thư hồ sơ hộ khẩu được xây dựng ở quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh đã đáp ứng kịp thời, chính xác việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, của Nhà nước, yêu cầu chính đáng của công dân và yêu cầu nghiệp vụ của ngành công an.

Với những nội dung trong hệ thống hồ sơ trên đây, chúng ta thấy rằng lý lịch tư pháp trong hệ thống quản lý của ngành công an đã được đồng nhất hoá với hồ sơ căn cước can phạm nhằm phục vụ chủ yếu cho hoạt động điều tra của ngành công an. Trong hồ sơ này có cả “tiền sự” chứ không chỉ có tiền án. Hơn nữa vấn đề xoá án tích không được phản ánh trong hệ thống hồ sơ này.

2. Công tác hồ sơ và trích lục án của các Toà án nhân dân

Mặc dù theo Thông tư liên bộ số 1909 – VHC, các Toà án nhân dân không còn nhiệm vụ lập và quản lý lý lịch tư pháp nữa, nhưng trên thực tế do chúng ta chưa có một hệ thống quản lý đầy đủ về lý lịch tư pháp cho nên để phục vụ cho công tác xét xử của mình Toà án nhân dân đã phải tự tổ chức công tác hồ sơ mà nội dung thực chất là liên quan trực tiếp đến lý lịch tư pháp. Hiện nay, các Toà án nhân dân vẫn thực hiện việc lưu trữ hồ sơ vụ án, lưu trữ bản án và quyết định của Toà án. Hồ sơ vụ án bao gồm toàn bộ các giấy tờ, tài liệu của hồ sơ vụ án như: quyết định khởi tố, các quyết định sẽ áp dụng hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, lý lịch bị can, bản cáo trạng, các biên bản lấy lời khai, tài liệu giám định, các bản án của Toà án đã xét xử vụ án. Tuy nhiên, việc lưu trữ hồ sơ và các bản án, quyết định tại Toà án nhân dân là không đầy đủ những thông tin cần thiết cho hoạt động quản lý lý lịch tư pháp. Ví dụ: hệ thống lưu trữ này không cập nhật những quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù; những quyết định giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt, quyết định về đại xá, đặc xá...

3. Công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 8/2/1999

Theo quy định tại Thông tư này, Phiếu lý lịch tư pháp là loại Phiếu do Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp cho người có yêu cầu nhằm xác nhận người đó có hoặc không có tiền án. Trong trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan công an chưa đầy đủ, rõ ràng về tình trạng tiền án của đương sự, thì Sở Tư pháp liên hệ với Toà án đã xét xử vụ án liên quan đến đương sự để tra cứu hồ sơ án lưu, nhằm làm rõ đương sự có án hay không có án.

Tại các Sở Tư pháp, công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp thường do 1 đến 3 cán bộ của Phòng tư pháp khác (hoặc Phòng Hành chính tư pháp - Bổ trợ tư pháp) đảm nhiệm. Sau hơn 7 năm thực hiện (từ tháng 02/1999 đến tháng 6/2006), các Sở Tư pháp đã phối hợp với ngành công an cấp hàng vạn Phiếu lý lịch tư pháp mỗi năm. Thống kê nói trên cho thấy nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp của người dân tăng rất nhanh qua các năm. Đại đa số đối tượng xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp đều là người không có tiền án (chiếm khoảng 99,5%); số lượng người có tiền án xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp thường rất ít (0,5%). Điều này phù hợp với thực tế là hầu hết người xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp đều có tâm lý sử dụng Phiếu này để chứng minh sự trong sáng về nhân thân tư pháp của mình. Nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp tập trung chủ yếu ở một số tỉnh, thành phố lớn và các tỉnh phía Nam có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển nhanh, các hoạt động giao lưu quốc tế được đẩy mạnh trong khi đó nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp ở hầu hết các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc rất thấp, có tỉnh một năm chỉ giải quyết vài chục trường hợp.

4. Thực tiễn áp dụng pháp luật về lý lịch tư pháp tại Việt Nam

Theo quy định của Thông tư liên tịch 07/1999/TTLT-BTP-BCA (Thông tư liên tịch số 07) thì Phiếu lý lịch tư pháp là loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh về tình trạng tiền án của một người. Đây là loại giấy tờ duy nhất được các cơ quan, tổ chức của Việt Nam cũng như các cơ quan, tổ chức nước ngoài công nhận về giá trị chứng minh một người có hay không có tiền án. Sau hơn 7 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 07, có thể nói công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp đã trở thành một hoạt động tác nghiệp thường xuyên tại các Sở Tư pháp. Thông tư liên tịch số 07 đã tạo ra một cơ chế phối hợp khá chặt chẽ và hiệu quả giữa hai ngành tư pháp và công an trong việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp, đồng thời đáp ứng được nhu cầu bức xúc của người dân và một phần yêu cầu quản lý của Nhà nước. Phiếu lý lịch tư pháp được coi là một trong những giấy tờ không thể thiếu khi xem xét cấp Giấy phép hành nghề trong một số lĩnh vực nhất định như luật sư, chứng khoán, kiểm toán... hoặc để xem xét khi bổ nhiệm, tuyển dụng trong một số lĩnh vực. Hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp trong thời quan cũng đã đáp ứng được các yêu cầu của cải cách hành chính bằng việc áp dụng cơ chế “một cửa” trong giải quyết công việc; các quy định về trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết và lệ phí được niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan Sở Tư pháp tạo thuận lợi cho người dân đến làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện Thông tư liên tịch số 07, thực tiễn công tác quản lý lý lịch tư pháp trong thời gian qua cũng cho thấy, thực chất việc thực hiện chức năng quản lý lý lịch tư pháp của ngành tư pháp hiện nay mới chỉ dừng ở việc lập và cấp Phiếu lý lịch tư pháp; trình tự, thủ tục, trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa cơ quan tư pháp và cơ quan công an trong quá trình giải quyết việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Đây mới chỉ là một phần công việc trong quản lý lý lịch tư pháp. Đến thời điểm này, chúng ta chưa có một văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp quy định đầy đủ chức năng quản lý lý lịch tư pháp như việc xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp; mô hình tổ chức, quản lý; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan với cơ quan quản lý lý lịch tư pháp trong việc cung cấp và thu nhận thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp. Mặt khác, Thông tư liên tịch số 07 là văn bản có giá trị pháp lý thấp, chủ yếu mang tính chất hướng dẫn nghiệp vụ. Mặc dù rải rác trong một số văn bản quy phạm pháp luật, chúng ta đã đưa ra những quy phạm là nội dung của công tác quản lý lý lịch tư pháp nhưng các quy định như thế còn quá ít. Điều đáng tiếc là trong quá trình xây dựng các bộ luật như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự… chúng ta chưa chú ý đưa vào các quy định về việc ghi chép các án tích như thế nào? trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc gửi các bản án và quyết định cho cơ quan quản lý lý lịch tư pháp ra sao. Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp mới được ban hành (Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006) nên cho đến nay vẫn chưa có trường hợp nào bị xử phạt.

Việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho một đối tượng cụ thể chỉ có giá trị trong một thời hạn nhất định, nhưng Thông tư liên tịch số 07 không quy định cụ thể về thời hạn có giá trị của Phiếu lý lịch tư pháp (được cấp trong thời gian bao lâu). Rất ít quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật yêu cầu phải có Phiếu lý lịch tư pháp lại có quy định về thời hạn có giá trị pháp lý của Phiếu lý lịch tư pháp được cấp. Những thiếu sót như vậy sẽ làm mất đi vai trò, tác dụng của Phiếu lý lịch tư pháp (chứng minh đương sự có tiền án hoặc không có tiền án), có đủ điều kiện để được bổ nhiệm, hoặc tham gia một công việc nào đó, hoặc tham gia thành lập và quản lý doanh nghiệp... hay không.

Từ thực trạng này, có thể nói, lý lịch tư pháp là một lĩnh vực hoạt động sớm được hình thành trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của nước ta nhưng so với nhiều lĩnh vực hoạt động tư pháp khác như quản lý toà án, quản lý hộ tịch, quản lý luật sư..., thì quản lý lý lịch tư pháp là lĩnh vực ít được quan tâm và rất chậm hình thành về mặt thể chế.

III. ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

1. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật lý lịch tư pháp

Luật Lý lịch tư pháp được xây dựng theo những quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Quán triệt và kịp thời thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về lý lịch tư pháp

2. Bảo đảm tính pháp chế, thống nhất giữa các quy định của Luật Lý lịch tư pháp với các quy định của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Quốc hội

3. Kế thừa những thành tựu đạt được trong thực tiễn về tổ chức và quản lý lý lịch tư pháp, có tham khảo pháp luật về lý lịch tư pháp và kinh nghiệm của nước ngoài

2. Đề xuất về phạm vi quản lý, đối tượng điều chỉnh và phạm vi điều chỉnh của Luật lý lịch tư pháp

2.1. Phạm vi quản lý lý lịch tư pháp

Nhóm nghiên cứu cho rằng trong giai đoạn hiện nay, lý lịch tư pháp cần ghi nhận và quản lý các thông tin sau đây:

- Các thông tin về hình sự bao gồm:

+ Thông tin về việc kết án: Các thông tin về việc kết án trước hết được rút ra từ các bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm các thông tin về: tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp.

+ Các thông tin về thi hành án:

* Thời điểm bắt đầu thi hành án;

* Thời hạn chấp hành hình phạt được giảm;

* Việc được miễn chấp hành hình phạt (toàn bộ hoặc phần còn lại);

* Thời điểm chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp;

* Thời điểm và thời hạn tạm hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt;

* Việc hủy bỏ quyết định tạm hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt;

* Việc được đặc xá hoặc đại xá.

+ Thông tin về xoá án tích: Bộ luật hình sự quy định hai trường hợp xoá án tích là đương nhiên được xoá án tích và xoá án tích theo quyết định của Toà án. Đối với những trường hợp đương nhiên được xoá án tích, nếu sau một thời gian nhất định kể từ khi chấp hành xong bản án mà người bị kết án không phạm tội mới thì án tích của họ đương nhiên được xoá (trừ trường hợp được miễn hình phạt thì án tích được xoá ngay). Giấy chứng nhận xoá án tích chỉ là sự chứng nhận về hình thức. Kể cả trường hợp đương sự không yêu cầu và do vậy không được cấp Giấy chứng nhận, án tích của đương sự vẫn đương nhiên được xoá. Do vậy, cơ quan lý lịch tư pháp không nên căn cứ vào việc có hay không có giấy chứng nhận để loại hay không loại một án tích ra khỏi phiếu lý lịch tư pháp, và vì thế không nên yêu cầu Toà án gửi giấy chứng nhận xoá án tích cho cơ quan lý lịch tư pháp. Còn đối với các trường hợp xoá án tích theo quyết định của Toà án thì quyết định xoá án tích phải được đưa vào lý lịch tư pháp.

- Các thông tin có nội dung về hạn chế, cấm, tước quyền của cá nhân, công dân trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án có thẩm quyền (ngoài hình sự):

+ Những thông tin trong quyết định của Toà án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, ghi nhận việc chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của Công ty hợp danh, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp, Chủ nhiệm, các thành viên Ban quản trị Hợp tác xã không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, không được làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn từ 1 đến 3 năm, kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản.

+ Những thông tin ghi nhận việc người giữ chức vụ Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị của công ty, tổng công ty 100% vốn nhà nước không được cử đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, kể từ ngày công ty, tổng công ty nhà nước bị tuyên bố phá sản.

+ Những thông tin về người được giao đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước...

2.2. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật Lý lịch tư pháp

2.2.1. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật Lý lịch tư pháp:     

Trên cơ sở phân tích các luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Luật Lý lịch tư pháp, có thể thấy dự án Luật cần điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội liên quan đến tổ chức và hoạt động lý lịch tư pháp. Xuất phát từ quan điểm xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp độc lập, Luật Lý lịch tư pháp có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm các quy định về khái niệm lý lịch tư pháp, nguyên tắc quản lý lý lịch tư pháp, tổ chức cơ quan quản lý, cơ quan lý lịch tư pháp, hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp, cơ chế phối hợp cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp, thủ tục, trình tự cấp Phiếu lý lịch tư pháp, giải quyết khiếu nại tố cáo về lý lịch tư pháp.

 2.2.2. Khái niệm lý lịch tư pháp:

Thuật ngữ “Phiếu lý lịch tư pháp” hiện nay đã trở nên khá quen thuộc trong đời sống pháp lý, nhưng hiện vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định rõ “lý lịch tư pháp” là gì? Trên cơ sở phân tích về lý luận và thực tiễn hoạt động lý lịch tư pháp cũng như phạm vi quản lý của lý lịch tư pháp trong giai đoạn hiện nay, nhóm nghiên cứu đưa ra khái niệm lý lịch tư pháp như sau: “Lý lịch tư pháp là hồ sơ ghi nhớ các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án có thẩm quyền có nội dung cấm hoặc hạn chế các quyền của cá nhân đó trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế và hành chính”.

2.2.3. Đối tượng quản lý của lý lịch tư pháp.

 Xuất phát từ khái niệm lý lịch tư pháp nêu trên, đối tượng quản lý của lý lịch tư pháp sẽ bao gồm:

- Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam;

- Công dân Việt Nam đang cư trú tại Việt Nam, đã có thời gian cư trú ở nước ngoài;

- Công dân Việt Nam hiện cư trú ở nước ngoài, đã có thời gian cư trú tại Việt Nam;

- Người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam.

2.3. Định hướng mô hình tổ chức, quản lý lý lịch tư pháp

Để thực hiện quản lý thống nhất về lý lịch tư pháp, Dự thảo Luật Lý lịch tư pháp dự kiến xây dựng một hệ thống cơ quan lý lịch tư pháp độc lập để quản lý một hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hệ thống hồ sơ này dự kiến được xây dựng trên cơ sở tận dụng tiềm năng sẵn có của các hệ thống dữ liệu hiện có (hệ thống hồ sơ nghiệp vụ của ngành công an, hệ thống hồ sơ án lưu của Toà án...) cũng như tiếp tục củng cố và kết nối với những cơ sở dữ liệu này nhằm xây dựng hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp để sử dụng chung cho nhiều ngành.

Trong quá trình nghiên cứu thực tiễn cũng như tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, có hai mô hình tổ chức, quản lý lý lịch tư pháp được đưa ra xem xét, lấy ý kiến như sau:

Mô hình 1: Cơ quan lý lịch tư pháp được xây dựng theo mô hình hai cấp:

- Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia trực thuộc Bộ Tư pháp;

- Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh tại Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trung ương.

Các Trung tâm này có chức năng tổ chức, quản lý các thông tin về lý lịch tư pháp và cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Theo mô hình này, hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp sẽ do Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và Trung tâm lý lịch tư pháp các tỉnh thống nhất quản lý.

Tuy nhiên, ở mô hình này cũng có hai nhóm ý kiến về vấn đề quản lý hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp và việc kết nối thông tin giữa các Trung tâm này.

Thứ nhất, hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp sẽ chỉ tập trung tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Trung tâm này sẽ lưu trữ toàn bộ các thông tin về lý lịch tư pháp trong phạm vi toàn quốc. Khi có yêu cầu tra cứu hoặc cấp Phiếu lý lịch tư pháp, các Trung tâm lý lịch tư pháp tại các tỉnh có thể tra cứu, lấy thông tin tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Như vậy, không cần thiết phải xây dựng các cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại các tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, nếu xây dựng theo mô hình này, đòi hỏi sự đầu tư ban đầu rất lớn về vật chất, kỹ thuật, nhân lực. Bên cạnh đó, để quản lý, vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia tại Bộ Tư pháp, về mặt tổ chức cũng cần thiết phải có một bộ phận chuyên môn và đội ngũ kỹ thuật viên có trình độ chuyên môn rất cao.

Thứ hai, cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp sẽ được xây dựng ở hai cấp, cấp Trung ương và cấp tỉnh. Khi có yêu cầu tra cứu thông tin, các Sở Tư pháp chỉ cần tra cứu tại cơ sở dữ liệu tại địa phương. Chỉ trong những trường hợp cần thiết (đương sự trải qua nhiều nơi cư trú hoặc thông tin còn thiếu, không đầy đủ), mới cần tra cứu tại Cơ sở dữ liệu quốc gia tại Bộ Tư pháp. Nếu áp dụng theo mô hình này, do cơ sở dữ liệu rải rác ở các tỉnh, nên không đòi hỏi hệ thống kỹ thuật cũng như đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao. Đội ngũ các bộ, kỹ thuật viên tại Trung tâm ở các tỉnh, thành phố có thể vừa đảm nhiệm công việc chuyên môn, vừa đảm bảo vận hành về mặt kỹ thuật.

Mô hình 2: Cơ quan lý lịch tư pháp được xây dựng theo từng vùng, cụ thể là bao gồm 2 cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được đặt tại 2 miền (hoặc 3 miền): miền Bắc (tại Hà Nội) và miền Nam (tại thành phố Hồ Chí Minh). Các cơ sở dữ liệu này được kết nối với nhau thông qua hệ thống mạng nội bộ. Khi có yêu cầu tra cứu thông tin, các Sở Tư pháp địa phương có thể tra cứu tại 2 cơ sở dữ liệu này. Mô hình này có ưu điểm là khắc phục được những khó khăn về cơ sở vật chất và nhân lực tại một số địa phương các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Việc thiết kế mô hình này cũng được tính toán trong quá trình cải cách tư pháp và xu hướng thành lập Toà án vùng.

Tuy nhiên, để cả hai mô hình nói trên vận hành hiệu quả và khả thi, thì việc triển khai áp dụng công nghệ thông tin vào việc xây dựng hệ thống hồ sơ dữ liệu lý lịch tư pháp, nghiên cứu quy trình kỹ thuật trong xử lý thông tin lý lịch tư pháp là đặc biệt quan trọng. Đây cũng là yếu tố quan trọng và cơ bản trong việc xây dựng Hệ thống lý lịch tư pháp thống nhất như đã đưa ra ở cả hai mô hình nói trên.

Nhóm nghiên cứu cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, mô hình thứ nhất với việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp ở hai cấp (cấp quốc gia và cấp tỉnh) là phù hợp bởi những lý do sau:

- Mô hình này phù hợp với xu hướng phân cấp trong ngành tư pháp;

- Không gây xáo trộn về mặt tổ chức, không đòi hỏi sự đầu tư quá lớn về các nguồn lực;

- Tạo điều kiện thuận tiện nhất trong việc tận dụng nguồn thông tin lý lịch tư pháp hiện đang lưu trữ tại các Sở Tư pháp;

- Thuận lợi trong việc thiết kế mô hình cung cấp, xử lý, sử dụng thông tin về lý lịch tư pháp giữa cơ quan quản lý lý lịch tư pháp với các cơ quan hữu quan (Công an, Toà án, Kiểm sát...);

Trong điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, theo nhóm nghiên cứu, ở mô hình này cần tiến hành từng bước. Tùy theo khối lượng công việc nhiều hay ít, các Sở Tư pháp có thể thành lập Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh hoặc Phòng lý lịch tư pháp để thực hiện chức năng quản lý lý lịch tư pháp. Thời kỳ đầu, việc xây dựng hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp có thể vẫn được tiến hành bằng phương pháp thủ công – nghĩa là lưu trữ bằng các phiếu, sổ sách. Sau đó, trên cơ sở công tác lý lịch tư pháp ở các địa phương đã đi vào nề nếp, chúng ta sẽ tiến hành từng bước việc tin học hoá hệ thống hồ sơ này.

2.4. Cơ chế cập nhật và cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp

2.4.1. Cơ chế cập nhật và cung cấp thông tin:

Về việc xác định cơ chế cập nhật thông tin và cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp, đã có 2 nhóm ý kiến khác nhau:

- Ý kiến thứ nhất cho rằng: nơi nhận và lưu trữ thông tin về lý lịch tư pháp của một người là Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp tỉnh, thành phố nơi sinh của người đó. Các cơ quan này sẽ lưu trữ và thực hiện cấp lý lịch tư pháp về sau. Cách này được dùng trong công tác quản lý lý lịch tư pháp của chế độ cũ. Nó có điểm thuận lợi là mỗi một người chỉ có một nơi sinh và yếu tố này không thay đổi, có thể chọn làm điểm tiếp nhận thông tin, bảo đảm tập trung thông tin lý lịch tư pháp về người đó.

 Nếu thực hiện theo cách này, khi nhận được thông tin về lý lịch tư pháp của một người hoặc khi đương sự khai nơi sinh của mình tại một tỉnh, thành phố để xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp của tỉnh hoặc thành phố đó phải kiểm tra ngay lời khai đó là thực hay giả và phải xác định lại hộ tịch của người đó nếu gặp trường hợp đương sự khai gian. Để làm được điều này, trong chế độ cũ đã có một hệ thống quản lý hộ tịch tương đối ổn định, trên nguyên tắc một người được sinh ra sẽ được lập giấy khai sinh tại nơi sinh. Như vậy, nếu đương sự khai nơi sinh của mình, muốn xác minh lời khai chỉ cần tra sổ bộ khai sinh nơi đó. Cần lưu ý là trong chế độ cũ, cơ quan quản lý và cấp lý lịch tư pháp là Toà án đồng thời cũng là nơi lưu giữ sổ bộ khai sinh, do đó, việc tra sổ bộ khai sinh được thuận lợi hơn.

 Trên cơ sở pháp luật hiện hành của nhà nước ta, việc thực hiện theo cách này có khó khăn, vì:

 + Việc đăng ký khai sinh của một người được thực hiện tại nơi cư trú của người mẹ hoặc của người cha hoặc nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế vào thời điểm đăng ký khai sinh. Như vậy, nếu chọn Sở Tư pháp, nơi sinh của một người làm nơi nhận và lưu trữ thông tin lý lịch tư pháp của người đó thì sẽ khó thực hiện việc điều tra xác minh vì nhiều trường hợp nơi sinh và nơi khai sinh của đương sự là khác nhau.

+ Trong giấy chứng minh nhân dân hiện nay đang được lưu hành không ghi rõ các mục: sinh quán, vợ, chồng, để có thể làm căn cứ kiểm tra và cấp lý lịch tư pháp.

- Ý kiến thứ hai cho rằng: Thông tin về lý lịch tư pháp của một người sẽ được gửi cho Sở Tư pháp tỉnh, thành phố, nơi người đó có hộ khẩu thường trú (hoặc nơi đăng ký tạm trú đối với trường hợp không có nơi thường trú). Thực hiện cách này sẽ gọn nhẹ cho việc kiểm tra, vì từ trước đến nay việc quản lý cá nhân thông qua hộ khẩu gia đình là phổ biến (trong chứng minh nhân dân hiện hành cũng ghi rõ nơi thường trú). Khi nhận được thông tin về lý lịch tư pháp của một người hoặc khi đương sự khai nhận nơi thường trú để xin cấp lý lịch tư pháp, chỉ cần kiểm tra hộ khẩu (hay sổ tạm trú thay hộ khẩu) và giấy chứng minh nhân dân hiện hành.

 Tuy nhiên, thực hiện theo cách này cũng có điểm hạn chế là hộ khẩu thường trú của một người là yếu tố có thể thay đổi. Khi một người đã chuyển hộ khẩu đi tỉnh hay thành phố khác từ một lần trở lên, thì thông tin về lý lịch tư pháp của người đó không còn tập trung. Vì vậy, khi một người nộp đơn xin cấp lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp nơi thường trú của mình, nếu nơi thường trú đó đã thay đổi một lần trở lên thì cần phải tra cứu thêm thông tin tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố, nơi người đó đã từng cư trú trước đây thì mới có thông tin về lý lịch tư pháp của người đó một cách đầy đủ và chính xác.

Để đáp ứng yêu cầu quản lý lý lịch tư pháp trong điều kiện hiện nay, chúng tôi nhận thấy cần phải áp dụng công nghệ thông tin hiện đại và nên tập trung lưu trữ thông tin tại Bộ Tư pháp, đưa toàn bộ thông tin, tài liệu lưu trữ vào máy vi tính và nối mạng với Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để quản lý và làm cơ sở cho việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp (mô hình 1 như đã trình bày nêu trên). Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn về kỹ thuật, nhân lực cũng như thời gian. Trong giai đoạn trước mắt, để đáp ứng được các yêu cầu của quản lý nhà nước, nên áp dụng cơ chế cung cấp thông tin lý lịch tư pháp theo nơi cư trú. Bên cạnh đó, cần thiết có cơ chế phối hợp cung cấp thông tin, củng cố và sử dụng những cơ sở dữ liệu sẵn có của các ngành hữu quan (Công an, Toà án).

2.4.2. Cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp

 Xuất phát từ phạm vi quản lý của lý lịch tư pháp như đã phân tích ở trên, các Trung tâm lý lịch tư pháp sẽ thu nhận những thông tin, tài liệu sau đây: các bản án, quyết định hình sự; các bản án, quyết định về hành chính, dân sự; các thông tin về lý lịch tư pháp của công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài. Như vậy, có thể thấy, các cơ quan phải cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp gồm có:

 a) Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án quân sự các cấp;

b) Bộ Công an;

c) Bộ ngoại giao (cơ quan lãnh sự Việt Nam tại nước ngoài) cung cấp thông tin về việc công dân Việt Nam vi phạm pháp luật ở nước ngoài;

d) Cơ quan thi hành án hình sự.

2.4.3. Cách thức cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp:

Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng việc cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp chỉ đơn giản là gửi các bản án hoặc quyết định (đã có hiệu lực thi hành) có chứa đựng các thông tin về lý lịch tư pháp cho Bộ Tư pháp.

Qua thảo luận, chúng tôi thấy rằng việc cung cấp thông tin bằng cách gửi nguyên văn các bản án hoặc quyết định (đã có hiệu lực thi hành, có chứa đựng các thông tin về lý lịch tư pháp) cho cơ quan quản lý lý lịch tư pháp là không hợp lý, có nhiều điểm bất lợi:

- Chỉ tính tại thành phố Hồ Chí Minh hoặc thành phố Hà Nội đã có hơn 20 Toà án (Toà án tối cao, Toà án thành phố, Toà án quận, huyện và các Toà án quân sự), mỗi ngày có thể ra hàng trăm bản án hoặc quyết định thuộc phạm vi quản lý lý lịch tư pháp. Nếu theo cách cung cấp thông tin như trên thì khối lượng văn thư chuyển đi rất lớn, tốn nhiều chi phí và khó khăn cho công tác lưu trữ.

- Điểm bất lợi thứ hai là nếu các cơ quan cung cấp thông tin bằng cách gửi nguyên bản án hoặc quyết định thì cơ quan quản lý lý lịch tư pháp phải lọc ra và chép lại những thông tin cần thiết. Như vậy sẽ tốn rất nhiều người để làm việc này và bộ máy cơ quan quản lý lý lịch tư pháp sẽ cồng kềnh, không phù hợp với chủ trương tinh giảm biên chế hiện nay.

Do đó, việc cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp của các cơ quan hữu quan cần phải được lập thành văn bản theo mẫu chung thống nhất và chỉ ghi những thông tin cần thiết, được gọi là Phiếu lý lịch tư pháp số 1 (sau đây gọi là Phiếu số 1).

Phiếu số 1 được lập theo cách thức sau đây:

- Phiếu số 1 được lập riêng cho từng cá nhân.

- Khi có bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực thi hành, có chứa đựng thông tin thuộc phạm vi quản lý lý lịch tư pháp, Toà án hoặc cơ quan thẩm quyền đã ra quyết định đó phải lập Phiếu số 1 theo mẫu, gửi cho Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh, nơi đương sự cư trú.

- Tại các Toà án, việc lập Phiếu số 1 nên giao cho một chuyên viên văn phòng chuyên trách thực hiện và phải trình Chánh Toà hay Chánh án phê duyệt trước khi gửi, bởi vì việc lập Phiếu số 1 là để quản lý, ghi nhớ những thông tin về tư pháp của một người, do vậy, phải do người có thẩm quyền xét duyệt và chịu trách nhiệm.

Tương tự, nếu là Phiếu số 1 ghi nhận về quyết định xử lý hành chính hoặc quyết định khác có chứa đựng thông tin thuộc phạm vi lý lịch tư pháp, thì cần được người đã ra quyết định phê duyệt.

- Thời hạn phải lập Phiếu số 1 để gửi đến cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cần được quy định rõ và phải phù hợp, tránh tình trạng khi cơ quan quản lý lý lịch tư pháp đã cấp phiếu xác nhận lý lịch tư pháp cho một người, ngay sau đó cơ quan này lại nhận được Phiếu số 1 về người đó, trong cùng một khoảng thời gian. Theo chúng tôi, thời hạn phải lập Phiếu số 1 để gửi đi nên quy định chậm nhất là 7 ngày làm việc kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.

- Việc lập và gửi Phiếu số 1 cần phải được ghi chú bên lề bản án hoặc quyết định có chứa các thông tin đó, để tạo một trật tự chung cho công tác này tránh xảy ra việc lập và gửi đi 2 lần Phiếu số 1 hoặc chưa lập và gửi đi Phiếu số 1 mà người có trách nhiệm không chủ động kiểm soát được.

2.4.4. Lưu trữ thông tin về lý lịch tư pháp:

Như đã phân tích ở trên, một yếu tố rất quan trọng khi xây dựng Hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp thống nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý lý lịch tư pháp. Nếu áp dụng cách này, các thông tin trên Phiếu số 1 sẽ được lưu trữ tại cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và được quản lý bằng hệ thống máy tính. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là bỏ qua việc lưu trữ tài liệu bằng văn bản. Ở đây cần xác định rõ việc lưu trữ tài liệu bằng văn bản là hệ thống lưu trữ chính, phải bảo đảm điều kiện vật chất: kho bãi, tủ, kệ đựng hồ sơ, con người trực tiếp quản lý bảo quản tài liệu lưu trữ, tránh mất mát, tiêu huỷ. Lưu trữ trên máy tính chỉ là phương tiện giúp chúng ta phân tích, tổng hợp thông tin và cấp phát lý lịch tư pháp dễ dàng, nhanh chóng.

- Lưu trữ bằng văn bản :

Trên nguyên tắc bảo vệ bí mật đời tư của công dân (Điều 34 Bộ luật dân sự), trước tiên cần xác định các thông tin về lý lịch tư pháp của một người là những thông tin "mật", thể hiện quá khứ của một người có vi phạm pháp luật và bị xử lý. Do đó, các thông tin lý lịch tư pháp phải được lưu trữ, bảo vệ theo quy định của pháp luật. Chỉ những người có trách nhiệm mới được quyền khai thác, sử dụng thông tin này.

- Lưu trữ trên máy tính:

Để quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp bằng hệ thống máy vi tính, thì việc xây dựng phần mềm chuyên dụng quản lý là rất cần thiết. Việc lập trình để lưu trữ thông tin trên máy tính cũng theo nguyên tắc như lưu trữ bằng văn bản, tức là phải có các mục: họ và tên của đương sự; ngày tháng năm sinh; tên cha; mẹ, vợ hoặc chồng; số lượng phiếu thông tin lý lịch tư pháp đang lưu trữ; nội dung các phiếu đó (theo thứ tự thời gian và có thể theo loại án hình sự, dân sự, hành chính...).

- Theo nguyên tắc bảo vệ bí mật đời tư của công dân, việc mở các chương trình quản lý lý lịch tư pháp phải thông qua "mật mã".

-Trên mạng vi tính phải đặt ra chế độ riêng: Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố chỉ có thể khai thác thông tin mà không thể sửa đổi thông tin và không thể sao chép thông tin (vì ở phần trên đây, chúng tôi đã đề ra nguyên tắc phiếu thông tin lý lịch tư pháp phải được lưu trữ cẩn thận..., không được phép mang ra khỏi nơi lưu trữ).

2.4.5. Ghi chép và xử lý thông tin

2.4.5.1. Loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của người đã chết.

Việc quản lý tư pháp lý lịch của một người chỉ cần thiết khi người đó còn sống, tức là còn khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật. Đối với những người đã chết thì cần loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của người đó (nếu có) để hệ thống lưu trữ được gọn nhẹ. Về mặt lý thuyết, việc loại bỏ lý lịch tư pháp của những người đã chết có thể thực hiện như sau:

- Định kỳ hàng năm cơ quan lý lịch tư pháp căn cứ vào Sổ đăng ký khai tử được lưu trữ tại địa phương để tiến hành loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của những người đã chết.

- Việc loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của người đã chết có thể thực hiện được một cách nhanh chóng, triệt để nếu chúng ta kết hợp được công tác quản lý lý lịch tư pháp với công tác quản lý hộ tịch trên mạng vi tính.

2.4.5.2. Loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp ghi nhận một tội phạm đã được luật xoá bỏ.

Điều 7 khoản 3 Bộ luật hình sự quy định: "Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành". Do đó, trường hợp có điều quy định xoá bỏ một tội phạm thì thông tin lý lịch tư pháp ghi nhận về tội phạm đó, đang lưu trữ cũng cần loại bỏ.

2.5. Cấp phiếu lý lịch tư pháp

Như phần trên đã trình bày, lý lịch tư pháp được hiểu là hồ sơ về phương diện tư pháp của một cá nhân. Tuỳ theo cơ quan hoặc cá nhân yêu cầu cấp phiếu cũng như mục đích sử dụng của Phiếu lý lịch tư pháp, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp có thể lập ra các loại Phiếu lý lịch tư pháp khác nhau.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, Phiếu lý lịch tư pháp được cấp cho người có yêu cầu nhằm xác nhận người đó có tiền án hay không. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy các cá nhân không chỉ muốn dùng lý lịch tư pháp để chứng minh cho đạo đức trong sạch của mình mà trong nhiều trường hợp, họ còn có nhu cầu chứng minh rằng mặc dù họ đã bị kết án và đã từng bị tước hoặc hạn chế thực hiện một số quyền nhất định, nhưng thời hạn tước hoặc hạn chế những quyền đó đã hết. Điều đó hết sức có ý nghĩa đối với công dân trong những trường hợp như xin việc làm, xuất cảnh, định cư ở nước ngoài, thành lập doanh nghiệp hoặc tham gia ứng cử, bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước.

Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, việc tìm hiểu quá khứ hình sự của một cá nhân là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Tuy nhiên yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng về các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp không chỉ giới hạn ở những thông tin ít ỏi về tình trạng tiền án của đương sự mà Toà án, Viện kiểm sát phải cần biết về việc người đó đã từng bị kết án và bị áp dụng biện pháp tư pháp cũng như quá trình chấp hành biện pháp tư pháp của họ để có cơ sở đánh giá về nhân thân của những người này, từ đó quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn và chế tài thích hợp. Hay các quyết định có liên quan phản ánh quá trình chấp hành hình phạt của đương sự cũng rất có ý nghĩa trong việc xác định thái độ chấp hành hình phạt và nhân thân của họ, các quyết định kết thúc thi hành án có giá trị trong việc xem xét một người đã có đủ điều kiện để được xoá án tích hay chưa?

Hay trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, ngoài những nội dung về tình trạng tiền án của đương sự, cơ quan đăng ký kinh doanh còn cần tìm hiểu những thông tin về người đó có đủ điều kiện thành lập và quản lý doanh nghiệp không? (như người này có thuộc trường hợp không được quyền thành lập doanh nghiệp, không được làm người quản lý doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản theo quy định của Luật phá sản).

Xuất phát từ những yêu cầu và mục đích sử dụng khác nhau, trong dự thảo Luật Lý lịch tư pháp, chúng tôi xin đề xuất về hai loại Phiếu lý lịch tư pháp được cấp cho từng đối tượng như sau:

- Phiếu lý lịch tư pháp số 2: Phiếu số 2 được cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội khi có yêu cầu.

Phiếu số 2 là loại Phiếu do cơ quan lý lịch tư pháp xác lập trên cơ sở tổng hợp toàn bộ các Phiếu số 1 (Phiếu cung cấp thông tin lý lịch tư pháp do các cơ quan hữu quan gửi tới). Có thể nói, Phiếu số 2 là loại phiếu chứa đựng đầy đủ nhất các thông tin về lý lịch tư pháp của một cá nhân. Chính vì vậy, đối tượng được cấp Phiếu số 2 chỉ giới hạn ở một số cơ quan nhất định như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào mục đích yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội mà nội dung của Phiếu số 2 có thể được lược bớt.

Nội dung phiếu số 2 bao gồm: nhân thân (các yếu tố về hộ tịch) của đương sự và thông tin về tình trạng tư pháp của người đó: các bản án hình sự (đã được xoá án tích và chưa được xoá án tích); các quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, quyết định trục xuất, quản chế hành chính. Phiếu số 2 có thể được yêu cầu cung cấp bằng công văn, điện tín, fax, truyền đạt viễn thông hoặc thiết bị từ tính.

- Phiếu lý lịch tư pháp số 3: Phiếu số 3 được cấp cho các cơ quan, tổ chức khác và cá nhân khi có yêu cầu.

Phiếu số 3 là một bản trích bộ phận của thông tin lý lịch tư pháp về một người cụ thể. Trong đó loại trừ một số thông tin như:

- Các án hình sự đã được xoá án tích;

- Các quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp đã hết hạn bị tước quyền theo quyết định.

- Các quyết định xử phạt vi phạm hành chính có áp dụng các biện pháp: đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; trục xuất, quản chế hành chính đã hết 2 năm kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt.

Việc ghi án phạt vào Phiếu số 3 có thể được cơ quan xét xử loại trừ khi được ghi ngay trong bản án (với mong muốn cho đương sự tái hoà nhập vào xã hội)./.



1 Lý lịch tư pháp – NXB Chính trị Quốc gia, HN năm 1997 (tr 20)

[1] Tại Nhật Bản, hộ tịch gốc của một người căn cứ vào nơi sinh của người đó. Trong trường hợp một người chuyển nơi cư trú, thì hộ tịch cũng có thể thay đổi - chuyển đến nơi cư trú mới.

 

Nội dung toàn văn

PHẦN THỨ NHẤT

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN XÂY DỰNG

LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

 

I. KHÁI NIỆM LÝ LỊCH TƯ PHÁP

1. Khái niệm lý lịch tư pháp:

Thông thường để tìm hiểu nội dung một khái niệm, trước hết chúng ta tiếp cận ngay với nội dung ngữ nghĩa của các từ dùng để biểu đạt khái niệm đó. Sau đó, để hiểu một cách đầy đủ, cụ thể và sâu sắc hơn, người ta không chỉ dừng lại ở nội dung ngữ nghĩa mà phải tìm hiểu, nghiên cứu những nội dung thực tế, cụ thể được khát quát, phản ánh trong khái niệm.

Theo cách vừa nêu trên, trước hết chúng ta hãy tiếp cận với khái niệm “lý lịch tư pháp” bằng chính các từ ngữ biểu đạt khái niệm này. Có thể phân tích khái niệm “lý lịch tư pháp” thành các nội dung cơ bản sau đây:

- Nói đến lý lịch bao giờ cũng gắn với một đối tượng cụ thể. Đối tượng cụ thể ở đây trước hết và phổ biến là những cá nhân. Đối tượng cụ thể cũng có thể là một tổ chức. Ví dụ: một doanh nghiệp, một tổ chức chính trị xã hội... (nếu như quan niệm quản lý lý lịch tư pháp của cả các tổ chức).

- Lý lịch thường được hiểu là ghi chép lại (thường dưới dạng một hồ sơ) những sự kiện chủ yếu trong quá khứ và hiện tại của một đối tượng.

- Lý lịch tư pháp chỉ ghi chép những sự kiện quan hệ đến đối tượng mà những sự kiện đó có ý nghĩa về mặt tư pháp. Vấn đề đặt ra là hiểu thế nào về những sự kiện có ý nghĩa về mặt tư pháp? Điều này lại tùy thuộc vào mục đích, phạm vi và nội dung quản lý lý lịch tư pháp của từng quốc gia.

Để tìm hiểu khái niệm lý lịch tư pháp một cách đầy đủ và cụ thể hơn, chúng ta hãy nghiên cứu khái niệm này ở một số nước trên thế giới.

Thuật ngữ "lý lịch tư pháp" không phải được sử dụng một cách giống nhau ở các nước khác nhau. Nhưng có thể nói rằng trong các thuật ngữ khác nhau theo cách gọi của mỗi nước đều hàm chứa những nội dung tương tự. Ví dụ: trong tiếng Anh có từ "crimimal record", trong tiếng Đức có từ "strafregister", trong tiếng Tây Ban Nha có từ "registro de penados", trong tiếng Italia có từ "casellario giudiziale".

Thuật ngữ "casier judiciaire" trong tiếng Pháp (được dịch là lý lịch tư pháp) có lẽ xuất hiện ở Pháp sớm nhất cách đây chừng 150 năm. Trong tiếng Pháp từ “casier” có nghĩa là cái tủ hoặc cái giá nhiều ngăn. Bản thân từ “casier” trong tiếng Pháp là muốn diễn tả hoạt động, nội dung công việc của thiết chế lý lịch tư pháp là sắp xếp, phân bổ ra nhiều ngăn khác nhau. Thuật ngữ thứ hai “judiciaire” có nghĩa là tư pháp. Như vậy, theo cách gọi của tiếng Pháp từ "casier judiciaire" gợi cho ta hình dung về những ngăn tủ có chứa đựng những hồ sơ (những tập fiche) về tư pháp. Nói một cách hình ảnh đó là bộ nhớ về án tích của những người đã từng can án.

Việc ghi nhớ án tích của những kẻ phạm tội không phải chỉ có trong luật hình của thế giới hiện đại và chỉ lưu giữ bằng các phiếu (fiche) của lý lịch tư pháp. Ngay từ thời trung cổ, luật hình của nhiều nước đã quy định việc ghi nhớ án tích của kẻ phạm tội bằng cách thích chữ vào mặt hoặc chặt các ngón tay, ngón chân hoặc cắt tai của kẻ phạm tội, tuỳ theo từng loại tội. Hình thức thích chữ vào mặt thường được áp dụng đối với tội đại hình với hình phạt lưu đày. Trong trường hợp này việc thích chữ vào mặt có ý nghĩa để đánh dấu nhiều hơn là hình phạt. Còn hình thức chặt ngón tay, ngón chân thường được áp dụng đối với loại tội như trộm cắp. Hình phạt này vừa có ý nghĩa là hình phạt vừa có ý nghĩa là để ghi nhớ án tích của kẻ phạm tội.

Lý lịch tư pháp thành văn (được ghi và quản lý bằng văn bản) ra đời thay thế cho hình thức đánh dấu, ghi nhớ tội phạm như trên của thời trung cổ. Lý lịch tư pháp thành văn có những ưu điểm nổi bật sau:

- Lý lịch tư pháp thành văn không làm đau đớn và nhục nhã thân thể của can phạm.

- Trong lý lịch tư pháp thành văn có thể cho ta biết một cách đầy đủ, chi tiết về can phạm như: họ tên, tuổi, nơi sinh, nơi cư trú, quan hệ thân thích, tội danh, hình phạt, Toà án đã xét xử, thời gian thi hành hình phạt, can phạm đã có bao nhiêu tiền án.... Những thông tin này là hết sức cần thiết không những đối với công tác tư pháp (bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án), mà đối với cả công tác quản lý hành chính nhà nước và quản lý xã hội.

Lý lịch tư pháp thành văn phổ biến nhất lúc đầu và ngày nay vẫn còn được áp dụng ở một số nước, đó là hình thức Sổ bộ ghi chép các bản án mà Toà án đã tuyên hàng năm. Căn cứ vào sổ bộ của Toà án, người ta có thể truy tìm được án tích của một người nào đó. Tuy nhiên hình thức sổ bộ vẫn còn những điểm hạn chế cơ bản.

Thứ nhất, sổ bộ là cuốn sổ chung trong đó ghi chép án tích của nhiều người hơn nữa sổ bộ lại thay đổi theo hàng năm. Do đó, khi muốn tra cứu án tích của một người nào đó, ta phải lần tìm, tra cứu trong tất cả những quyển sổ bộ xem người đó có án tích không. Điều đó lại càng khó khăn hơn khi can phạm thay đổi chỗ ở dẫn tới việc thay đổi Toà án có thẩm quyền xét xử.

Thứ hai, thường sổ bộ chỉ ghi chép được những thông tin ban đầu (tức là những bản án, quyết định ban đầu của Toà án mà không ghi nhận được những thông tin bổ sung như: các quyết định về ân xá, xóa án, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.... Do đó, những thông tin trong sổ bộ không phản ánh được diễn biến của can phạm sau khi kết thúc trình tự tố tụng. Mặt khác những thông tin về tiền án, tiền sự không những chỉ cần đối với cơ quan toà án mà nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp cũng cần biết những thông tin này ở những mức độ khác nhau để phục vụ cho công tác quản lý, tổ chức nhân sự của cơ quan mình.

Để khắc phục những nhược điểm nói trên của hình thức sổ bộ hồ sơ, lý lịch tư pháp theo kiểu “casier judiciaire” ra đời theo sáng kiến của một vị thẩm phán người Pháp. Đặc điểm của lý lịch tư pháp theo kiểu “casier judiciaire” là việc lập ra 3 loại phiếu (số 1, số 2, số 3) về tiền án, tiền sự đối với từng cá nhân. Nội dung thông tin ghi chép trong mỗi loại phiếu được pháp luật quy định một cách cụ thể. Lý lịch tư pháp theo kiểu “casier judiciaire” là hình thức cải tiến nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng phong phú, đa đạng, tỷ mỷ, chặt chẽ của hoạt động tư pháp và hoạt động quản lý.

 Như vậy, lý lịch tư pháp được hiểu một cách chung nhất, khái quát nhất là hồ sơ về phương diện tư pháp của một đối tượng cụ thể. Định nghĩa này tuy còn rất chung chung nhưng có tác dụng định hướng, khoanh vùng giới hạn để chúng ta đi sâu tìm hiểu, xác định những nội dung cụ thể của lý lịch tư pháp để từ đó đến một định nghĩa toàn diện hơn, cụ thể hơn.

2. Phân biệt lý lịch tư pháp với hồ sơ căn cước can phạm

Lý lịch tư pháp (casier judiciaire) và căn cước can phạm (jiche de renscignement) là hai loại hồ sơ chủ yếu tạo thành hồ sơ hình sự của một cá nhân. Hai loại hồ sơ này có những nội dung trùng nhau nhưng không phải là một và không thể thay thế cho nhau. Để làm rõ sự khác nhau về nội dung và ý nghĩa của hai loại hồ sơ này, chúng tôi xin trình bày sơ bộ nội dung của căn cước can phạm.

Căn cước can phạm là một loại hồ sơ phục vụ cho công tác điều tra. Thông thường ở nhiều nước, hồ sơ này do cơ quan cảnh sát tư pháp lập và quản lý. Khi có một người nào đó bị bắt, cơ quan cảnh sát tiến hành lập căn cước của người đó. Trong căn cước gồm có: họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú; họ tên của cha, mẹ, vợ (chồng), con; nơi bị bắt, ngày tháng năm bị bắt, lý do bị bắt...(gọi là danh bản). Đồng thời, cảnh sát tiến hành lấy điểm chỉ vân tay gồm 10 ngón tay và cả hai bàn tay của đương sự (gọi là chỉ bản). Những thông tin trên đây được lưu tại cơ quan cảnh sát và lập thành hồ sơ căn cước can phạm của đối tượng. Trong hồ sơ căn cước can phạm còn ghi lại toàn bộ tiền án (kể cả những bản án đã được xoá án tích) và tiền sự của đương sự. Hồ sơ căn cước can phạm với những nội dung như trên có giá trị cung cấp thông tin về đương sự cho cơ quan điều tra. Nhưng đối với Toà án, nó chỉ có giá trị tham khảo để hiểu rõ nhân thân bị cáo. Hồ sơ này về nguyên tắc không cung cấp cho bất kỳ ai ngoài cơ quan điều tra, truy tố và xét xử.

So sánh nội dung của lý lịch tư pháp và nội dung của hồ sơ căn cước can phạm, ta thấy có những điểm khác nhau cơ bản sau đây:

- Lý lịch tư pháp ghi chép không chỉ những vấn đề thuộc phạm vi hình sự như hồ sơ căn cước can phạm;

- Trong lý lịch tư pháp (phần về hình sự) không ghi toàn bộ các tiền án và tiền sự như hồ sơ căn cước can phạm. Đối với các bản án, lý lịch tư pháp chỉ ghi những bản án đã thành nhất định (không còn bị kháng cáo, kháng nghị). Trong khi đó, hồ sơ căn cước can phạm ghi nhận tất cả án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm (nếu có).

- Trong trường hợp án đã được xoá theo quy định của luật hình sự về xoá án tích thì trong lý lịch tư pháp cấp cho đương sự không ghi án đó. Còn trong hồ sơ căn cước can phạm, án đã được xoá không làm thay đổi hồ sơ.

- Hồ sơ căn cước can phạm, như đã nói ở trên là loại hồ sơ của cơ quan điều tra, phục vụ cho công tác điều tra. Vì vậy, nó được xếp vào loại tài liệu mật, không được cung cấp cho bất kỳ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào - kể cả chính bản thân đương sự (trừ một số cơ quan chức năng được quyền biết như đã nói ở trên). Trong khi đó, lý lịch tư pháp được cấp tương đối rộng rãi cho đương sự, các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác khi họ có lý do chính đáng cần được biết về tình trạng tiền án của đương sự.

II. PHẠM VI QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP

Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng quyết định toàn bộ nội dung, quy mô, cơ chế quản lý lý lịch tư pháp của mỗi quốc gia. Xét về mặt lịch sử thì phạm vi và nội dung của lý lịch tư pháp lúc đầu chỉ là những vấn đề mang tính chất thuần túy hình sự (tức là những án hình). Về sau này, do sự phát triển và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nên phạm vi quản lý lý lịch tư pháp cũng được mở rộng ra các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, hành chính… Việc mở rộng hay thu hẹp phạm vi này tùy thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia và xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cách làm của mỗi nước. Tuy nhiên, dù mở rộng hay thu hẹp phạm vi này thì nội dung chủ yếu của lý lịch tư pháp vẫn là những vấn đề về hình sự (chẳng hạn ở Cộng hoà Pháp hiện nay có 90% thông tin được đưa vào lý lịch tư pháp là thuộc hình sự[1]). Tuy vậy, ngay cả trong phạm vi hình sự vấn đề lại được đặt ra ở hai cấp độ tiền án và tiền sự. Ở một số nước theo hình thức sổ bộ của Toà án thì chỉ ghi nhớ các tiền án của đương sự. Ở Cộng hoà Pháp - là nước có hệ thống quản lý lý lịch tư pháp độc lập và hoàn chỉnh nên có ghi nhớ cả những tiền sự. Tuy nhiên, khái niệm tiền sự trong nhiều trường hợp rất khó định lượng. Hành vi vi phạm nào chưa đến mức bị kết án có thể coi là tiền sự? Vấn đề này phải được quy định trong văn bản pháp luật. Thông thường đó là những hành vi tuy chưa đến mức bị kết án nhưng bản thân nó có ý nghĩa để đánh giá về quá khứ nhân thân của đương sự. Ví dụ: một người đã có hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt thì hành vi đó có thể được ghi nhớ vào lý lịch tư pháp. Việc mở rộng phạm vi của lý lịch tư pháp ra các lĩnh vực ngoài hình sự thường là những vấn đề liên quan đến việc cấm một số quyền nào đó đối với đương sự. Chẳng hạn việc cấm có thời hạn hoặc vô thời hạn quyền kinh doanh của một người nào đó, hoặc việc tước quyền bầu cử hoặc ứng cử vào cơ quan công quyền, việc tước một số quyền làm cha, mẹ, lệnh trục xuất người nước ngoài… Tất cả những chế tài này cần phải được đưa vào "bộ nhớ" của lý lịch tư pháp để giám sát việc thực hiện. Thực ra việc phân loại thông tin theo lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, thương mại… cũng chỉ mang tính chất tương đối. Nó không phải là một nguyên tắc.

Để xác định rõ nội dung nào cần được ghi nhớ trong lý lịch tư pháp, thông thường pháp luật của một số nước trong khi quy định các chế tài (ngoài hình sự) đồng thời cũng chỉ rõ việc đó có được ghi vào lý lịch tư pháp hay không. Còn trong các chế định của luật hình sự, tố tụng hình sự đều quy định những tiền án, tiền sự nào được ghi vào lý lịch tư pháp. Hơn nữa, các Toà án khi đưa ra các bản án, quyết định về một vụ việc cụ thể cũng nêu rõ trong bản án hoặc quyết định đó việc được miễn hay phải ghi vào lý lịch tư pháp.

Ngoài cách phân loại thông tin theo lĩnh vực nói trên người ta còn phân loại theo thông tin ban đầu và thông tin bổ sung. Thông tin ban đầu là những bản án hay quyết định ban đầu về một vụ việc cụ thể. Chẳng hạn, mỗi người bị Toà án phạt tù về một tội nào đó thì bản án này sẽ được gửi cho cơ quan lý lịch tư pháp để ghi nhớ bản án đó. Nếu trong bản án này có cả hình phạt bổ sung như phạt tiền hoặc quản chế sau khi mãn hạn tù… thì những thông tin này cũng là loại thông tin ban đầu. Thông tin bổ sung là loại thông tin phản ánh diễn biến về sau của vụ việc. Ví dụ: trong quá trình thi hành án phạt tù, đương sự lại được hưởng ân xá thì quyết định về ân xá đối với đương sự cũng được gửi cho cơ quan lý lịch tư pháp vì vấn đề này có liên quan đến việc xoá án tích trong lý lịch tư pháp của đương sự. Việc tiếp nhận các thông tin bổ sung vào lý lịch tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng nhưng thông thường nó hay bị lãng quên hoặc cập nhật không đầy đủ.

III. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP

Lý lịch tư pháp như đã nêu ở trên, có thể được hiểu là hồ sơ về phương diện tư pháp của mỗi cá nhân (thậm chí cả tổ chức) nhưng nó có ý nghĩa không chỉ trong lĩnh vực công tác tư pháp mà cả trong nhiều lĩnh vực quản lý khác. Sau đây, chúng tôi xin đề cập đến một số khía cạnh tiêu biểu:

Thứ nhất, lý lịch tư pháp là nguồn cung cấp những tư liệu chính thức về quá khứ nhân thân của bị can, bị cáo để cơ quan điều tra, truy tố và xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với họ trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể. Xét theo góc độ này thì những tình tiết mà cơ quan lý lịch tư pháp cung cấp có giá trị chứng cứ về tái phạm hay không tái phạm. Lý lịch tư pháp được sử dụng như một công cụ hữu ích để xác định về nhân thân con người. Một người chưa có tiền án, tiền sự khi phạm tội thì khác hẳn một người đã bị kết án mà chưa được xoá án tích. Chính vì vậy, ở các nước có hệ thống quản lý lý lịch tư pháp, khi Viện công tố chuẩn bị truy tố một bị can nào đó thường phải gửi một phiếu yêu cầu đến cơ quan quản lý lý lịch tư pháp để yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp nhằm xác nhận về tình trạng tiền án của bị can và trong hồ sơ truy tố có kèm theo cả Phiếu lý lịch tư pháp đó để làm bằng chứng về tái phạm.

Có thể nói, ở Việt Nam, lý lịch tư pháp có ý nghĩa quyết định trong việc xác định bị cáo có tội hay không có tội. Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, việc xác định nhân thân của một con người có ý nghĩa rất quan trọng khi Toà án quyết định một người là có tội hay không có tội, bởi vì có nhiều điều luật của Bộ luật Hình sự quy định điều kiện bắt buộc để một hành vi cấu thành tội phạm là “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi...” hay “đã bị kết án về tội...”. Để thực hiện tốt công tác xét xử và tránh những sai sót không đáng có, thì việc kiểm tra hồ sơ giấy tờ nhằm xác định nhân thân của bị can, bị cáo có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu hồ sơ vụ án mà các giấy tờ, tài liệu được sử dụng làm chứng cứ xác định nhân thân của bị can, bị cáo không đầy đủ, thì thông thường, thẩm phán chủ tọa phiên toà thường áp dụng quy định tại Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự để ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung. Trong những trường hợp, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án có mâu thuẫn với nhau, nếu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp có kết luận chính xác về nhân thân một con người, thì Toà án có thể yêu cầu cơ quan này cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo cho Toà án để phục vụ cho công tác xét xử vụ án mà không cần ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Chính vì vậy, nếu tổ chức tốt hệ thống quản lý lý lịch tư pháp sẽ giúp rất nhiều cho các cơ quan tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

Thứ hai, lý lịch tư pháp giúp cho công tác thi hành án thực hiện một cách đầy đủ, chính xác các bản án và quyết định của Toà án. Một đặc điểm của công tác thi hành án của ta hiện nay là chưa có một cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý toàn bộ việc thi hành tất cả các bản án và quyết định của Toà án. Thẩm quyền này được giao cho các cơ quan khác nhau. Cụ thể là:

- Hình phạt trục xuất, phạt tù có thời hạn, tù chung thân do cơ quan công an đảm nhiệm;

- Việc thi hành án phạt tiền hoặc tịch thu tài sản (trong hình sự) do cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp chấp hành viên trong việc thi hành án; trong trường hợp phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thì cơ quan công an và các cơ quan hữu quan khác có nhiệm vụ phối hợp;

- Hình phạt tù cho hưởng án treo; cải tạo không giam giữ cũng như các hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm một số chức vụ hoặc cấm làm một số nghề được giao cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức, nơi người bị kết án cư trú hoặc nơi thi hành án đảm nhiệm.

- Việc thi hành quyết định và bắt buộc chữa bệnh do các cơ sở chuyên khoa y tế thi hành.

- Việc thi hành các bản án về quyết định của Toà án quân sự do các tổ chức trong quân đội đảm nhiệm, trừ hình phạt trục xuất.

- Người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc quản lý.

Việc quy định nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành án như vậy là xuất phát từ những đặc thù của từng loại án nhưng cũng có điều bất tiện là không có một cơ quan thống nhất giám sát chung. Trong trường hợp này vai trò của quản lý lý lịch tư pháp là rất cần thiết để giúp cho việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan tổ chức nói trên đối với người thụ án. Mặt khác, thông tin của lý lịch tư pháp còn giúp cho các cơ quan thi hành án biết rõ được quá khứ nhân thân của người thụ án, những đặc điểm phạm tội của họ… để có biện pháp giáo dục cải tạo họ một cách thích hợp. Chính vì lý lịch tư pháp có mối quan hệ mật thiết với công tác thi hành án như vậy nên ở một số nước quan niệm cho rằng công tác quản lý lý lịch tư pháp như là một bộ phận của công tác thi hành án.

Thứ ba, lý lịch tư pháp là nguồn thông tin chính thức để các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế … xem xét đạo đức tư cách của công dân trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể. Những thông tin trong lý lịch tư pháp của công dân tuy chưa phải là toàn bộ những gì cần thiết để đánh giá đạo đức tư cách của một công dân nhưng đó là những thông tin quan trọng, cơ bản nhất không thể thiếu được. Nếu một công dân có nhiều tiền án thể hiện trong lý lịch tư pháp thì không ai có thể đánh giá họ là công dân gương mẫu. Ngược lại, một người có lý lịch tư pháp trong sạch thì không ai có thể nhận xét người đó là công dân tồi. Chính vì vậy, ở nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây, cũng đưa ra những quy định pháp luật về việc công dân phải xuất trình Phiếu lý lịch tư pháp trong khi làm các thủ tục như:

- Xin được tuyển dụng vào làm công chức Nhà nước;

- Xin ký hợp đồng lao động với các cơ quan, doanh nghiệp;

- Xin phép thành lập doanh nghịêp;

- Xin nhận con nuôi hoặc giám hộ;

- Xin nhập cảnh, định cư…

Hoặc bản thân cơ quan nhà nước phải tự kiểm tra lý lịch tư pháp của công dân trong khi giải quyết các việc như: lập danh sách các cử tri và danh sách các ứng cử viên vào các cơ quan công quyền, gọi công dân nhập ngũ…

Thứ tư, lý lịch tư pháp là phương tiện để thực hiện xoá án tích theo quy định của pháp luật hình sự. Xoá án tích (đương nhiên được xoá án hoặc do Toà án quyết định) là một loại chế định hầu như pháp luật nước nào cũng có. Chế định này có ý nghĩa trước hết là về mặt pháp lý. Bởi vì, nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất của chế định xoá án tích là ở chỗ: người được xoá án tích được coi như chưa can án. Điều này có nghĩa là cơ quan quản lý lý lịch tư pháp trong khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp của công dân không được tính đến những án trước đây tuy công dân đã phạm nhưng đã được hưởng chế độ xoá án tích.

IV. MÔ HÌNH QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

1. Quản lý lý lịch tư pháp của Cộng hoà Pháp

Lý lịch tư pháp, theo quan niệm của Pháp trước hết là một tập phiếu lý lịch tư pháp ghi nhận về những người bị kết án. Mục đích chính của lý lịch tư pháp là chứng minh sự tồn tại hay không tồn tại các tiền án của một người.

Tại Pháp, cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thuộc Vụ pháp luật hình sự và ân xá nhưng cơ quan lý lịch tư pháp hoạt động một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Các thông tin được ghi nhận vào lý lịch tư pháp được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự bao gồm: quyết định ban đầu; các quyết định bổ sung, sửa đổi hoặc xoá bỏ chúng. Ngoài ra pháp luật Pháp còn quy định những thông tin khác cũng được ghi nhận vào lý lịch tư pháp như: bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, các quyết định của cơ quan hành chính đặc thù... Tuy nhiên, các thông tin được ghi vào lý lịch tư pháp tại Pháp vẫn chủ yếu là những thông tin về hình sự - là những bản án do Toà án hình sự tuyên (90%).

Lý lịch tư pháp được lập ra trước hết nhằm phục vụ cho cơ quan tư pháp. Ngoài ra, các cơ quan hành chính nhà nước và các cá nhân cũng có quyền yêu cầu cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào cơ quan yêu cầu mà có thể xin cấp loại Phiếu lý lịch tư pháp tương ứng. Cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia Pháp có quyền cung cấp 3 loại Phiếu lý lịch tư pháp sau:

- Phiếu số 1 chỉ được cấp cho cơ quan tư pháp, theo yêu cầu của thẩm phán xét xử hay Viện công tố. Phiếu số 1 ghi lại toàn bộ các quyết định của Toà án liên quan đến đương sự. Các cơ quan tư pháp có thể sử dụng phiếu này trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Đối với các cơ quan tư pháp, phiếu số 1 là nguồn thông tin quan trọng về nhân thân của đương sự.

- Phiếu số 2 chủ yếu được cấp cho các cơ quan hành chính nhà nước. Phiếu số 2 là bản trích lại thông tin từ phiếu số 1. Những xử phạt vi phạm hành chính, những án tích nhẹ nhất và những bản án được tuyên đối với trẻ vị thành niên thì không được ghi lại trên phiếu số 2. Phiếu số 2 giúp cho các cơ quan quản lý hành chính tìm hiểu để tuyển dụng người làm việc hoặc giải quyết các thủ tục khác như: xin phép kinh doanh, gọi nhập ngũ, lập danh sách cử tri... Nhưng không phải bất kỳ cơ quan hành chính nào cũng có thể yêu cầu cấp Phiếu số 2. Khi gửi phiếu yêu cầu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp Phiếu số 2, phải nêu rõ lý do và căn cứ điều luật nào để được quyền yêu cầu.

- Phiếu số 3 là Phiếu được cấp cho chính đương sự khi có yêu cầu. Trong Phiếu số 3 chỉ ghi lại những án tích chưa được xoá nhưng không phải bất kỳ án tích nào chưa được xoá cũng đều ghi vào. Thông thường chỉ những án nghiêm trọng hoặc tuy không nghiêm trọng những án tích đó lại trực tiếp liên quan đến mục đích của việc xin phiếu số 3 sẽ được ghi vào Phiếu. Đương sự có thể trực tiếp đến hoặc gửi thư yêu cầu qua bưu điện tới cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia để xin cấp phiếu số 3. Phiếu số 3 chỉ cấp cho chính bản thân đương sự, không cho phép cấp qua người thứ ba và được miễn phí.

2. Quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản

Tại Nhật Bản, lý lịch tư pháp là lý lịch phạm tội của từng cá nhân, ghi nhận các phán quyết xác định có tội do Toà án tuyên đối với người đó (các tiền án). Lý lịch tư pháp là tư liệu quan trọng không thể thiếu giúp cho quá trình kiểm sát và xét xử được chính xác.

Mục đích của lý lịch tư pháp được quy định rõ trong Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự và Luật Ân xá của Nhật Bản, là nhằm phục vụ cho hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án của các cơ quan tư pháp. Cá nhân không có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Trong một số trường hợp đặc biệt, luật sư cũng có quyền yêu cầu cung cấp lý lịch tư pháp nhưng chỉ được sử dụng trong quá trình tố tụng. Quy định mang tính hạn chế này xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm bí mật đời tư của công dân.

Viện Kiểm sát là cơ quan có chức năng quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản. Hệ thống Viện Kiểm sát bao gồm Viện Kiểm sát tối cao (Supreme Procuracy), Viện Kiểm sát vùng (High Procuracy), Viện Kiểm sát địa phương (tỉnh) và Viện Kiểm sát khu vực (Summary Procuracy) .

Lý lịch tư pháp của người có hộ tịch tại Nhật Bản được quản lý tại Viện kiểm sát địa phương, nơi đương sự có hộ tịch gốc[2]. Trong trường hợp đương sự chuyển hộ tịch thì nơi quản lý lý lịch tư pháp sẽ được thay đổi theo. Viện Kiểm sát thành phố Tokyo (cấp tỉnh) là nơi quản lý lý lịch tư pháp của những người không có hộ tịch gốc tại Nhật Bản hoặc có hộ tịch gốc không rõ ràng và người nước ngoài. Ngoài việc quản lý lý lịch tư pháp của cá nhân, thì Viện Kiểm sát địa phương còn quản lý cả lý lịch tư pháp của các pháp nhân có đăng ký kinh doanh.

Ngoài việc quản lý lý lịch tư pháp thuộc hệ thống Viện Kiểm sát nói trên, Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã (là đơn vị hành chính thuộc cấp tỉnh) cũng quản lý một số thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp của người phạm tội. Những thông tin này được gọi là “Danh sách người phạm tội”. Danh sách này được xây dựng trên cơ sở các thông báo liên quan đến tiền án của người phạm tội do Viện Kiểm sát gửi tới. Việc quản lý Danh sách người phạm tội tại Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã nhằm mục đích thực hiện công tác hành chính như chứng minh căn cước hoặc biên soạn danh sách cử tri, cho phép hoặc xoá bỏ đăng ký kinh doanh… Giống như quản lý lý lịch tư pháp của Viện Kiểm sát, Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã, nơi quản lý Danh sách người phạm tội cũng không cung cấp các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp cho cá nhân nhằm đảm bảo quyền giữ bí mật đời tư của công dân.

Cơ chế cung cấp và cập nhật các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp tại Nhật Bản cũng được quy định cụ thể. Sau khi Toà án tuyên án (đã có hiệu lực pháp luật), Viện kiểm sát tương ứng với Toà án đã tuyên bản án có trách nhiệm gửi thông báo bằng văn bản cho Sở Cảnh sát (đã chuyển vụ án), Viện Kiểm sát địa phương và Uỷ ban hành chính thành phố, thị xã nơi đương sự có hộ tịch gốc về kết quả xét xử của Toà án. Thông báo này bao gồm khoản mục về căn cước của đương sự như “họ tên, ngày tháng năm sinh, hộ tịch gốc” và khoản mục về phán quyết xác định có tội gồm “ngày tuyên án, ngày có hiệu lực, Toà án đã tuyên, tội danh, loại hình phạt, tình trạng thi hành án….”. Căn cứ vào những khoản mục về căn cước của đương sự trong Giấy thông báo, Viện Kiểm sát sẽ cập nhật những thông tin về tiền án mới (đối với những người đã có tiền án) hoặc tiến hành lập lý lịch tư pháp mới của đương sự (đối với những trường hợp chưa có lý lịch tư pháp).

Mục đích của quản lý lý lịch tư pháp tại Nhật Bản là nhằm phục vụ cho hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án của các cơ quan tư pháp. Do đó, lý lịch tư pháp được sử dụng để các cơ quan tư pháp “so chiếu tiền án”. Khái niệm “so chiếu tiền án” được hiểu là khi các cơ quan tư pháp (Viện Kiểm sát, Toà án) có yêu cầu tra cứu lý lịch tư pháp của một cá nhân để phục vụ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bằng việc tra cứu lý lịch tư pháp tại hệ thống Viện Kiểm sát, cơ quan tư pháp có thể biết được tình trạng tiền án của cá nhân đó. Việc so chiếu tiền án thông qua hệ thống máy tính được thực hiện rất đơn giản và nhanh chóng. Tại các máy tính ở Viện Kiểm sát địa phương, chỉ cần đưa vào máy tính các dữ liệu về thông tin cơ bản của đối tượng muốn tra cứu như “họ tên, ngày tháng năm sinh” (các dữ liệu này đã được mã hoá), chúng ta sẽ nhận được ngay thông tin về lý lịch tư pháp của người đó. Nếu có tiền án, máy tính sẽ cho kết quả là “Bản điều tra tiền án” với những thông tin cụ thể như tội danh, Toà án đã xét xử vụ án, ngày xét xử, ngày án được xác định…; nếu không có tiền án, máy tính sẽ báo kết quả là “không có tiền án”.

3. Mô hình quản lý lý lịch tư pháp của một số nước theo hệ thống pháp luật Ănglô Xắcxông

3.1. Quản lý lý lịch tư pháp tại Hoa Kỳ:

Hoa Kỳ không có một văn bản pháp lý riêng quy định về việc tổ chức hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc quản lý và cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, hệ thống dữ liệu có liên quan đến lý lịch tư pháp ở Hoa Kỳ cũng khá phong phú. Do đặc điểm của quốc gia liên bang, các dữ liệu về lý lịch tư pháp của công dân Mỹ được lưu trữ ở các cơ sở dữ liệu của liên bang cũng như các cơ sở dữ liệu của từng bang. Ngoài ra, căn cứ theo quy định của các đạo luật liên quan đến tự do thông tin của Hoa Kỳ, nhiều tổ chức tư nhân cũng đã tập hợp những thông tin công khai của chính quyền và xây dựng những cơ sở dữ liệu thông tin của riêng mình nhằm mục đích cung cấp cho những người có nhu cầu.

- Ở cấp độ liên bang: có hai hệ thống dữ liệu có liên quan đến lý lịch tư pháp, đó là Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm của Cục điều tra liên bang Mỹ FBI và Hệ cơ sở dữ liệu của Toà án.

Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm lưu trữ các thông tin về tội phạm như các lệnh truy nã, các quyết định bắt giam, thi hành hình phạt, các quyết định phóng thích nạn nhân... Hệ thống này phục vụ chủ yếu cho công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Do vậy, các thông tin trong dữ liệu cũng được lưu trữ dưới các tiêu chí nhằm phục vụ cho các cơ quan điều tra, công tố. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu vào mục đích cấp lý lịch tư pháp chỉ là mục đích thứ yếu.

Hệ cơ sở dữ liệu của Toà án lưu trữ các bản án, thống kê tội phạm. Đây cũng là một nguồn cơ sở dữ liệu lưu trữ các thông tin liên quan đến các chế tài, hình phạt và biện pháp tư pháp do Toà án tuyên và cũng có thể được sử dụng vào mục đích kiểm tra lý lịch tư pháp.

- Ở các bang:

+ Hệ thống cơ sở dữ liệu về tội phạm của bang. Hầu hết các bang tại Hoa kỳ (trừ bang Califonia) đã có hệ cơ sở dữ liệu về tội phạm trong phạm vi lãnh thổ của bang mình. Hệ thống này cập nhật các thông tin dựa trên các phán quyết đã được tuyên bởi toà án bang. Hệ thống dữ liệu này là công khai và mọi người đều có thể tiếp cận theo luật về tự do thông tin. Mục đích chính của hệ cơ sở dữ liệu này là thống kê tội phạm.

+ Hệ thống lưu trữ của Toà án. Các toà án cấp bang đều có ghi chép và lưu trữ các thông tin có liên quan đến lý lịch tư pháp, không chỉ trong lĩnh vực hình sự mà còn cả trong các lĩnh vực khác như: các chế tài xử phạt đối với các tội vi phạm giao thông, việc thay đổi họ tên, quyết định ly hôn, vấn đề phá sản... Hệ thống tài liệu này được lưu trữ dưới các hình thức như: biên bản làm việc của toà án (minute book), tài liệu ghi chép các hoạt động (registration of action), thông tin về phán quyết (judgment book) và tập các án lệ (case files)...

Ngoài hai hệ thống dữ liệu nêu trên, còn có một số cơ sở dữ liệu khác cũng lưu trữ các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp như cơ sở dữ liệu của cơ quan lưu trữ liên bang và các bang. Theo pháp luật của Hoa Kỳ, các dữ liệu công và các tài liệu khác do cơ quan nhà nước ghi lại sau một thời gian nhất định đều phải đưa vào hệ thống lưu trữ của liên bang cũng như của bang. Chính vì vậy, hệ cơ sở dữ liệu của cơ quan lưu trữ rất phát triển, lưu trữ các thông tin đa dạng từ các quyết định hành chính đến cả quyết định của các cơ quan tư pháp.

Ở Hoa Kỳ, vấn đề tiếp cận đối với các cơ sở dữ liệu liên quan lý lịch tư pháp còn đang gây tranh cãi, phải giải quyết mối quan hệ giữa quyền được tiếp cận các hệ cơ sở dữ liệu công cộng của quốc gia và quyền giữ bí mật riêng tư, cấm phân biệt đối xử đối với những người có án tích.

Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm của FBI chỉ cung cấp thông tin cho một số cơ quan (điều tra, Toà án) và cho chính những cá nhân có yêu cầu kiểm tra lý lịch tư pháp của mình. Mặt khác, một số bang cũng có những quy định riêng về một số đối tượng nhất định có thể được tiếp cận vào hệ thống thông tin này. Vì dụ: các cơ quan tuyển dụng lao động trong lĩnh vực dịch vụ công cộng, chăm sóc trẻ em và chăm sóc sức khoẻ tại nhà, làm việc tại các trường học và lái xe chuyên chở học sinh tới trường... Các tổ chức tư nhân, các công ty tuyển dụng tư nhân không được phép sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu này để kiểm tra nhân thân của cá nhân nhằm đảm bảo thực hiện quy định về cấm phân biệt đối xử. Tuy nhiên các tổ chức này có thể lấy thông tin có liên quan từ các kênh khác như: cơ sở dữ liệu tội phạm của bang, cơ sở dữ liệu của toà án, cơ sở dữ liệu của các tổ chức cung cấp dịch vụ (chủ yếu cung cấp cho các nhà tuyển dụng lao động, ngân hàng...)

 

 

3.2. Quản lý lý lịch tư pháp tại Vương quốc Anh

Bộ Ngoại giao là cơ quan được giao quản lý và cấp lý lịch tư pháp tại Anh. Giúp việc cho Bộ Ngoại giao có hai cơ quan trung ương quản lý:

- Văn phòng về lý lịch tư pháp của Scotland. Văn phòng này được thành lập năm 1960 với nhiệm vụ quản lý và cung cấp các thông tin về lý lịch tư pháp cho cảnh sát Scotland và cộng đồng nhằm trợ giúp cho hoạt động ngăn ngừa và phát hiện tội phạm, nâng cao an toàn công cộng. Văn phòng này hiện đang quản lý hệ thống tàng thư căn cước của Scotland và cấp lý lịch tư pháp cho công dân của Scotland. Văn phòng này là đầu mối cho Hệ thống liên kết thông tin tội phạm của Scotland (the Integration Of Scottish Criminal Justice Information Systems).

- Cục lý lịch tư pháp (The Criminal Record Bereau) được thành lập trên cơ sở của Luật Cảnh sát 1997. Cục cung cấp thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp của các cá nhân cư trú tại Vương quốc Anh, trừ Scotland.

Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Anh được lưu trữ tại Hệ thống máy tính của cảnh sát quốc gia (The Police National Computer). Hệ thống này chỉ lưu trữ các thông tin về hình sự. Về nguyên tắc, các tội danh được lưu trữ trong hệ thống cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong thời hạn 10 năm nếu người phạm tội không phạm tội mới trong thời gian đó. Hết thời hạn trên, các án tích sẽ được xoá khỏi hệ thống máy tính cảnh sát quốc gia trừ một số trường hợp cụ thể.

Theo pháp luật của Anh, các cá nhân được tiếp cận và đề nghị Cục lý lịch tư pháp hoặc Văn phòng lý lịch tư pháp Scotland cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Các tổ chức cũng có thể tiếp cận và đề nghị cấp các Phiếu lý lịch tư pháp nếu được đương sự cho phép.

Ở Anh, có 3 loại Phiếu lý lịch tư pháp với 3 cấp độ khác nhau:

+ Loại Phiếu số 1 (gọi là phiếu cơ bản – Basic Disclosures): là phiếu về các tội hình sự đã bị kết án (Criminal Conviction Certificate), trong đó ghi nhận các tội hình sự của đương sự đã bị kết án. Phiếu này không ghi các tội đã được xoá án tích. Loại phiếu này được cấp cho bất cứ cá nhân nào có yêu cầu.

+ Loại Phiếu số 2 (gọi là phiếu nền – Standard Disclosures): là phiếu ghi nhận bất cứ tội hình sự nào của đương sự, kể cả các tội đã được xoá án tích cũng như hình phạt cảnh cáo. Loại phiếu này cũng được cấp cho các cá nhân có yêu cầu. Tuy nhiên, điểm khác biệt với yêu cầu cấp phiếu số 1 là đương sự phải nộp kèm theo bản tuyên bố của tổ chức, người đã yêu cầu đương sự xuất trình Phiếu số 2 để sử dụng vào một số mục đích cụ thể theo quy định của pháp luật (ví dụ: để xin giấy phép tiếp tục hành một số nghề nhất định).

+ Loại Phiếu số 3 (gọi là phiếu nâng cao – Enhanced Disclosures): là loại phiếu ghi nhận các thông tin về án tích và hình phạt cảnh cáo; các thông tin có liên quan đến mục đích của việc cấp phiếu, ý kiến của cơ quan lý lịch tư pháp về sự phù hợp giữa nhân thân của người được cấp phiếu và vị trí người đó dự định xin việc làm (trong trường hợp tuyển dụng lao động). Người có yêu cầu cấp Phiếu số 3 phải đảm bảo đủ một số điều kiện nhất định và phải nộp kèm văn bản của cơ quan, tổ chức đã yêu cầu người đó xuất trình Phiếu số 3.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN THỨ HAI

THỰC TIỄN QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI VIỆT NAM

 

  1. LỊCH SỬ VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI VIỆT NAM

1. Lịch sử công tác quản lý lý lịch tư pháp tại Việt Nam

Mặc dù đến nay chế độ lý lịch tư pháp ở nước ta chưa được tổ chức một cách đầy đủ, hệ thống nhưng trên thực tế, vấn đề này đã có một quá trình phát triển tương đối lâu (từ thời Pháp thuộc đến nay). Xem xét quá trình này, chúng ta có thể phân chia nó theo từng thời kỳ như sau:

1.1. Quản lý lý lịch tư pháp thời kỳ Pháp thuộc và miền Nam Việt Nam trước năm 1975

Có thể nói, thời kỳ Pháp thuộc, chế độ lý lịch tư pháp ở nước ta được tổ chức khá chặt chẽ và có hệ thống nhằm phục vụ cho bộ máy tư pháp của chế độ thực dân. Thời kỳ này ở mỗi cấp Toà án đều có phòng lục sự (greffier)với chức năng lập, lưu giữ và cấp lý lịch tư pháp. Lý lịch tư pháp được lập theo án đã có hiệu lực pháp luật, trong đó ghi các nội dung như: họ, tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, trú quán, tên của bố, mẹ, vợ, con, toà án nào xét xử, ngày tháng năm xét xử, tội danh, hình phạt...

Một bản án được tuyên thì gửi trích lục án cho Phòng lục sự, nơi Toà án đã tuyên án đó. Chánh lục sự có trách nhiệm sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật (hết thời hạn kháng cáo mà không kháng cáo) phải thông báo cho nơi sinh và nơi cư trú của kẻ phạm tội biết.

Một bản án phúc thẩm được tuyên thì Chánh lục sự Toà thượng thẩm có trách nhiệm thông báo cho Chánh lục sự nơi Toà án đã xử sơ thẩm vụ án đó để ghi án cuối cùng vào lý lịch tư pháp. Lý lịch tư pháp thực sự có giá trị pháp lý để Tòa án xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo. Lý lịch tư pháp được cấp cho ông biện lý, đương sự và cơ quan nhà nước khi cần thiết theo quy định của pháp luật. Mỗi người muốn xin việc làm ở một cơ quan nào đó phải xuất trình Phiếu lý lịch tư pháp xin từ ông Chánh lục sự, nơi sinh quán của mình (và phải nộp một khoản lệ phí) để cơ quan tiếp nhận biết được quá khứ nhân thân của người này. Bản thân người chánh lục sự khi nhận chức phải tuyên thệ về sự trung thành, vô tư của mình. nếu vi phạm (cung cấp lý lịch tư pháp sai đối tượng, gian lận...) có thể bị phạt tù.

Mô hình tổ chức và các nguyên tắc quản lý lý lịch tư pháp trên đây về sau này được tiếp tục áp dụng ở miền Nam Việt Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hoà. Ngày 01/09/1951 Vua Bảo đại đã ban hành Dụ số 14 quy định chi tiết “về lý lịch tư pháp và phục quyền”. Dụ số 14 nói trên đã thiết lập tổ chức lý lịch tư pháp tương đối hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương có Phòng Văn quỹ lý lịch tư pháp đặt tại Bộ Tư pháp và ở địa phương có Văn quỹ lý lịch tư pháp hàng tỉnh đặt tại mỗi Toà sơ thẩm và Toà hoà giải rộng quyền.

Theo Dụ nói trên, có 3 loại Phiếu lý lịch tư pháp, đó là Phiếu số 1, số 2 và số 3. Phiếu số 1 (còn gọi là danh bản hay chính phiếu) là phiếu ghi tất cả các án đã có hiệu lực pháp luật, các việc như ân xá, ân giảm, phóng thích có điều kiện, khôi phục quyền... Phiếu số 1 được lập thành 3 bản: 1 bản gửi về cho Văn quỹ lý lịch tư pháp trung ương, một bản gửi cho phòng lục sự của Toà án, nơi sinh của đương sự và một bản lưu trữ tại Phòng lục sự Toà án nguyên thẩm. Phiếu số 2 (còn gọi là quan phiếu) là phiếu được lập cho cá nhân đã có phiếu số 1 trước đó. Phiếu số 2 được cấp cho Toà án, Phòng công tố, cảnh sát để phục vụ điều tra, xét xử, cho các Toà thương mại để đính vào các hồ sơ tuyên bố phá sản, thanh toán tư pháp. Phiếu số 2 cũng được cấp cho các công sở quốc gia mỗi khi tiếp nhận các đơn xin việc làm... Phiếu lý lịch tư pháp số 3 (hay còn gọi là thân phiếu) là phiếu được cấp cho công dân. Phiếu số 3 là bản trích lục của Phiếu số 1, trong đó có loại trừ một số nội dung (án đã được xoá bỏ do sự phục quyền...).

1.2. Quản lý lý lịch tư pháp từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1955

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chế độ lý lịch tư pháp vẫn được duy trì ở nước ta và do Toà án đảm nhiệm. Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946 về tổ chức Toà án và các ngạch thẩm phán ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quy định các chức danh về lục sự và các việc lục sự, trong đó có việc lập và quản lý lý lịch tư pháp. Theo Sắc lệnh này, ở mỗi Ban tư pháp xã có một thư ký giữ công việc lục sự, ở mỗi Toà án sơ cấp có một lục sự, Tòa đệ nhị cấp có một chánh lục sự và các thư ký giúp việc, ở Toà thượng thẩm có một chánh lục sự và các lục sự. Trong thời kỳ này, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ cũng đã ra Thông tư liên ngành (ngày 2/9/1950) quy định một số nguyên tắc về theo dõi lý lịch tư pháp và căn cước của bị can và những người bị tình nghi (văn bản này không được công bố nhằm đảm bảo bí mật). Do điều kiện của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, hoạt động của các Toà án gặp nhiều khó khăn nên nói chung công tác quản lý lý lịch tư pháp thời kỳ này không được chú ý nhiều.

1.3. Quản lý lý lịch tư pháp từ 1956 đến 1993

Ngày 2/11/1956, Bộ Tư pháp và Bộ Công an ban hành Thông tư liên bộ số 1909-VHC về việc theo dõi lý lịch tư pháp và căn cước của bị can và những người bị tình nghi. Có thể nói, đây là một văn bản quy định khá tỷ mỷ, chi tiết về công tác lý lịch tư pháp và căn cước can phạm. Trong văn bản này đã nhấn mạnh ý nghĩa, mục đích của lý lịch tư pháp và căn cước can phạm là giúp cho Công an và Toà án hiểu biết được quá khứ lý lịch của bọn chúng (tức bị can và những người bị tình nghi), điều tra có kết quả các vụ phạm pháp hoặc có kế hoạch ngăn ngừa đề phòng chúng phá hoại trật tự, an ninh xã hội hoặc trà trộn chui vào nội bộ ta. Đối với việc xét xử, nó giúp cho Toà án tuyên án đúng mức, thi hành đúng chính sách trừng trị. Khi bị can đã bị xử tù, vì nắm được căn cước lý lịch của chúng, chúng ta có thể có kế hoạch giáo dục thích hợp với từng loại phạm nhân, nếu chúng trốn, chúng ta có thể truy tìm dễ dàng hơn. Điểm đáng lưu ý trong Thông tư liên bộ số 1909-VHC là tại văn bản này, nhiệm vụ quản lý lý lịch tư pháp được chuyển giao từ Tòa án sang ngành công an. Lý do của việc chuyển giao này là để thống nhất vào một mối hai loại công tác: lý lịch tư pháp và căn cước can phạm (trước đó lý lịch tư pháp do Toà án quản lý và căn cước can phạm do Công an quản lý) để bảo đảm thông tin đầy đủ và tập trung. Trong Thông tư liên bộ nói trên cũng quy định khá cụ thể cơ chế phối hợp giữa các cơ quan công an, Tòa án và Uỷ ban hành chính các cấp trong cung cấp thông tin tài liệu để lập nên lý lịch tư pháp và căn cước can phạm.

Theo tinh thần Thông tư liên bộ số 1909-VHC, các Toà án tỉnh đã chuyển giao những hồ sơ, tài liệu về lý lịch tư pháp đã lập trước đây cho các Ty công an (cấp tỉnh) quản lý. Kể từ đó, công tác lý lịch tư pháp (mà chủ yếu là quản lý tiền án, tiền sự) và hồ sơ căn cước can phạm được tập trung vào một hệ thống cơ quan thuộc Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an). Trong hệ thống này, công tác quản lý lý lịch tư pháp chỉ là một phần trong công tác hồ sơ tàng thư và do đó không được quản lý theo những nguyên tắc riêng biệt của lý lịch tư pháp.

1.4. Giai đoạn từ 1993 đến nay

Ở Trung ương, ngày 4/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định số 38-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp, trong đó có đề cập đến chức năng, nhiệm vụ về thống nhất quản lý lý lịch tư pháp. Nội dung này tiếp tục được khẳng định tại khoản 7 Điều 2 Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Tổ chức giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước là Vụ quản lý công chứng, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp (gọi chung là Vụ Hành chính tư pháp) (điểm 5 khoản a Điều 3 Nghị định số 62/2003/NĐ-CP).

Ở địa phương, để hướng dẫn thực hiện Nghị định số 38-CP, ngày 26/7/1993 Bộ Tư pháp, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ đã ban hành Thông tư liên bộ số 12/TTLB hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan tư pháp địa phương quy định Sở Tư pháp có nhiệm vụ “Quản lý các hoạt động công chứng, giám định tư pháp theo quy định của Bộ Tư pháp; chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra thực hiện công tác hộ tịch, lý lịch tư pháp, thống kê tư pháp theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp; giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện một số công tác hộ tịch thuộc thẩm quyền” (điểm 5 mục I). Đây là quy định rất chung chung, không quy định cụ thể để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trung ương thực hiện nhiệm vụ gì.

Sau khi Nghị định số 62/2003/NĐ-CP được ban hành thay thế Nghị định số 38-CP, ngày 5/5/2005, Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2005/ TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương (thay thế Thông tư liên bộ số 12/TTLB) quy định, Sở Tư pháp có nhiệm vụ “cấp Phiếu lý lịch tư pháp và chịu trách nhiệm về việc cập nhật nội dung Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định của pháp luật” (điểm c khoản 2.9 mục I).

So với nhiều lĩnh vực hoạt động tư pháp khác thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp như công chứng, luật sư, giám định, hộ tịch, thì quản lý lý lịch tư pháp là một lĩnh vực còn rất mới. Đối với lĩnh vực công chứng, hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp trước đây được thực hiện theo Nghị định số 45/CP ngày 27/2/1991 của chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức hoạt động công chứng nhà nước, Nghị định 75/CP ngày 8/12/2000 về công chứng, chứng thực và sắp tới đây là Luật Công chứng đây ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Đối với lĩnh vực giám định tư pháp, hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp trước đây được thực hiện theo Nghị định số 117/HĐBT ngày 21/7/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về giám định tư pháp, và cho đến nay là Pháp lệnh Giám định tư pháp ngày 29/9/2004 và Nghị định số 67/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp. Đối với lĩnh vực hộ tịch, hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp trước đây được thực hiện theo Nghị định số 219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển giao công tác đăng ký hộ tịch từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp và Uỷ ban nhân dân các cấp, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch, cho đến nay Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Các quy định pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch nêu trên được quy định rất cụ thể. Nhưng đối với hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực lý lịch tư pháp vẫn chỉ dừng lại ở các quy định chung.

2. Thực tiễn công tác quản lý lý lịch tư pháp hiện nay:

2.1. Một số lĩnh vực liên quan đến công tác lý lịch tư pháp

Có thể nói hiện nay ở Việt Nam chưa có một hệ thống (thiết chế) về quản lý lý lịch tư pháp. Trên thực tế công tác này đang bị phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau và còn bỏ sót nhiều nội dung quan trọng. Sau đây xin đề cập đến hai cơ quan chủ yếu trực tiếp liên quan đến công tác lý lịch tư pháp.

  1. Hệ thống tàng thư nghiệp vụ cảnh sát của ngành công an

Hệ thống tàng thư nghiệp vụ cảnh sát bao gồm các hệ thống hồ sơ sau:

- Tàng thư căn cước can phạm và một số người vi phạm pháp luật khác.

- Tàng thư căn cước công dân;

- Tàng thư căn cước thu được của địch.

- Tàng thư hồ sơ hộ khẩu;

Tàng thư căn cước can phạm tập trung lưu trữ danh bản, chỉ bản, phim, quản lý thông tin cơ bản về căn cước, lai lịch, tiền án, tiền sự, thông tin diễn biến của những đối tượng bị khởi tố, bị bắt trong trường hợp phạm pháp quả tang, bắt theo lệnh truy nã, bắt khẩn cấp, quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, công dân Việt Nam đang ở nước ngoài vi phạm pháp luật bị nước ngoài trả về Việt Nam. Tài liệu thông tin diễn biến về can phạm được tổ chức, quản lý nhằm phục vụ các yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm và công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự của lực lượng công an nhân dân, cũng như các yêu cầu chính đáng của các cơ quan, tổ chức và cá nhân theo quy định của pháp luật và của Bộ Công an.

- Tàng thư căn cước can phạm có nhiệm vụ:

+ Quản lý, lưu giữ các thông tin cơ bản về đối tượng phạm tội phục vụ các yêu cầu nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, quản lý Nhà nước về trật tự xã hội và yêu cầu chính đáng của các cơ quan, tổ chức và công dân theo quy định của pháp luật.

+ Khai thác, cung cấp thông tin về nhân thân người phạm tội và một số người vi phạm pháp luật khác phục vụ công tác điều tra, xét xử đảm bảo chính xác, đúng người, đúng pháp luật.

+ Khai thác, cung cấp ảnh, đặc điểm nhận dạng, lai lịch và các mối quan hệ khác của đối tượng phục vụ công tác phát lệnh truy nã, tổ chức truy bắt và phát hiện đối tượng truy nã bắt lại về hành vi phạm tội khác.

+ Phục vụ công tác quản lý phạm nhân, xác định căn cước đối tượng thi hành án tử hình và công tác giám định vân tay trong các vụ án đối tượng để lại dấu vết vân tay tại hiện trường.

+ Xác định địa chỉ, lai lịch và các thông tin về người chết chưa rõ tung tích, người mất tích; xác minh lý lịch của công dân phục vụ công tác quản lý xuất nhập cảnh; bảo vệ chính trị nội bộ...

+ Cung cấp những thông tin, tình hình có liên quan đến dân số phục vụ nghiên cứu, hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; thống kê tình hình diễn biến tội phạm phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ huy trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, tham gia công tác nghiên cứu tội phạm học...

- Tàng thư căn cước can phạm được tổ chức quản lý ở 2 cấp; cấp Bộ do Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (C27) quản lý; cấp tỉnh, thành phố do Phòng Hồ sơ nghiệp vụ (PC27) quản lý.

Tàng thư căn cước công dân, là nơi tập trung lưu trữ tờ khai, chỉ bản, phim quản lý thông tin cơ bản và diễn biến về căn cước của công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên được cấp chứng minh nhân dân. Tàng thư căn cước công dân có nhiệm vụ: quản lý, khai thác tờ khai, chỉ bản của những người đã được cấp chứng minh nhân dân phục vụ công tác nghiệp vụ của ngành công an, công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự và đáp ứng yêu cầu chính đáng của công dân... Tàng thư căn cước công dân do Phòng Hồ sơ nghiệp vụ công an cấp tỉnh quản lý, khai thác.

Tàng thư căn cước thu được của địch quản lý thông tin cơ bản về căn cước, lý lịch, vân tay, ảnh, phim của tất cả những người sinh từ năm 1960 trở về trước thuộc các tỉnh từ Quảng Trị trở vào do chế độ ngụy cấp căn cước và các đối tượng như: những người làm trong các ngành, nghề đặc biệt, việt kiều, ngoại kiều xin cư trú tại miền Nam Việt Nam, ngụy quân, ngụy quyền; người vi phạm pháp luật hình sự, pháp luật hành chính, đối tượng chính trị và tệ nạn xã hội; bộ đội, cán bộ của ta bị địch bắt hoặc ra đầu thú làm việc cho địch (đầu hàng, chiêu hồi, hồi chánh, hoàn lương…). Tàng thư căn cước thu được của địch do Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (bộ phận phía Nam) trực tiếp quản lý, khai thác...

Tàng thư hồ sơ hộ khẩu là nơi tập trung lưu trữ hồ sơ hộ khẩu, quản lý các tài liệu về nhân khẩu trong một hộ và quá trình đăng ký, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu đối với hộ đó. Tàng thư hồ sơ hộ khẩu được xây dựng ở quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh đã đáp ứng kịp thời, chính xác việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, của Nhà nước, yêu cầu chính đáng của công dân và yêu cầu nghiệp vụ của ngành công an.

Với những nội dung trong hệ thống hồ sơ trên đây, chúng ta thấy rằng lý lịch tư pháp trong hệ thống quản lý của ngành công an đã được đồng nhất hoá với hồ sơ căn cước can phạm nhằm phục vụ chủ yếu cho hoạt động điều tra của ngành công an. Trong hồ sơ này có cả “tiền sự” chứ không chỉ có tiền án. Hơn nữa vấn đề xoá án tích không được phản ánh trong hệ thống hồ sơ này.

2.1.2. Công tác hồ sơ và trích lục án của các Toà án nhân dân

Mặc dù theo Thông tư liên bộ số 1909 – VHC, các Toà án nhân dân không còn nhiệm vụ lập và quản lý lý lịch tư pháp nữa, nhưng trên thực tế do chúng ta chưa có một hệ thống quản lý đầy đủ về lý lịch tư pháp cho nên để phục vụ cho công tác xét xử của mình Toà án nhân dân đã phải tự tổ chức công tác hồ sơ mà nội dung thực chất là liên quan trực tiếp đến lý lịch tư pháp. Hiện nay, các Toà án nhân dân vẫn thực hiện việc lưu trữ hồ sơ vụ án, lưu trữ bản án và quyết định của Toà án. Hồ sơ đó bao gồm:

- Hồ sơ đầy đủ của vụ án;

- Lưu án văn và trích lục phiên toà;

- Sổ thụ lý vụ án và kết quả phiên toà;

- Các sổ tra cứu theo vần A, B, C…

Hồ sơ vụ án bao gồm toàn bộ các giấy tờ, tài liệu của hồ sơ vụ án như: quyết định khởi tố, các quyết định sẽ áp dụng hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, lý lịch bị can, bản cáo trạng, các biên bản lấy lời khai, tài liệu giám định, các bản án của Toà án đã xét xử vụ án.

Hồ sơ vụ án được lưu trữ, sắp xếp theo cấp xét xử, theo địa giới hành chính (tại Toà án nhân dân tối cao) và theo thứ tự thời gian.

Tại Toà án cấp tỉnh, cấp huyện, các hồ sơ này được xếp theo thứ tự: số ngày, tháng, năm thụ lý và được lưu trữ thủ công tại các Toà án. Ngoài ra chưa có phương pháp khoa học nào khác để thuận tiện cho việc tra cứu án tích.

Tuy nhiên, việc lưu trữ hồ sơ và các bản án, quyết định tại Toà án nhân dân là không đầy đủ những thông tin cần thiết cho hoạt động quản lý lý lịch tư pháp. Ví dụ: hệ thống lưu trữ này không cập nhật những quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù; những quyết định giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt, quyết định về đại xá, đặc xá...

2.2. Công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 8/2/1999

Ngày 8/2/1999, trước nhu cầu bức xúc của thực tiễn, để tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp ngày càng gia tăng của công dân, Bộ Tư pháp và Bộ Công an đã ban hành Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA quy định việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Theo quy định tại Thông tư này, Phiếu lý lịch tư pháp là loại Phiếu do Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp cho người có yêu cầu nhằm xác nhận người đó có hoặc không có tiền án. Căn cứ vào quy định của Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tiến hành cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho các cá nhân có yêu cầu trên cơ sở kết quả tra cứu, xác minh của cơ quan công an. Trong trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan công an chưa đầy đủ, rõ ràng về tình trạng tiền án của đương sự, thì Sở Tư pháp liên hệ với Toà án đã xét xử vụ án liên quan đến đương sự để tra cứu hồ sơ án lưu, nhằm làm rõ đương sự có án hay không có án.

Tại các Sở Tư pháp, công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp thường do 1 đến 3 cán bộ của Phòng tư pháp khác (hoặc Phòng Hành chính tư pháp - Bổ trợ tư pháp) đảm nhiệm. Sau hơn 7 năm thực hiện (từ tháng 02/1999 đến tháng 6/2006), các Sở Tư pháp đã phối hợp với ngành công an cấp hàng vạn Phiếu lý lịch tư pháp mỗi năm. Tình hình giải quyết cụ thể như sau:

Năm 1999: giải quyết 14.918 trường hợp

Năm 2000: giải quyết 30.433 trường hợp

Năm 2001: giải quyết 31.845 trường hợp

Năm 2002: giải quyết 36.871trường hợp

Năm 2003: giải quyết 65.255 trường hợp

Năm 2004: giải quyết 67.000 trường hợp

Năm 2005: giải quyết 67.237 trường hợp

6 tháng đầu năm 2006: giải quyết 37.062 trường hợp[3]

Thống kê nói trên cho thấy nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp của người dân tăng rất nhanh qua các năm. Cụ thể: số lượng công việc giải quyết trong năm 2005 gấp đôi số lượng công việc đã giải quyết năm 2001 và gấp hơn bốn lần số lượng công việc đã giải quyết năm 1999. Phân tích tình hình giải quyết cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo các tiêu chí phân bổ khác nhau cho phép đi đến một số nhận định sau:

- Đại đa số đối tượng xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp đều là người không có tiền án (chiếm khoảng 99,5%); số lượng người có tiền án xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp thường rất ít (0,5%). Điều này phù hợp với thực tế là hầu hết người xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp đều có tâm lý sử dụng Phiếu này để chứng minh sự trong sáng về nhân thân tư pháp của mình.

- Nhu cầu sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp của người dân tăng nhanh trong những năm qua là do người dân cần sử dụng loại giấy tờ này để bổ túc hồ sơ xuất khẩu lao động, đi du học, du lịch ở nước ngoài, xin việc làm trong nước hoặc thành lập doanh nghiệp... Điều đó cho thấy giá trị sử dụng của Phiếu lý lịch tư pháp ngày càng phổ biến trong đời sống xã hội.

- Nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp tập trung chủ yếu ở một số tỉnh, thành phố lớn và các tỉnh phía Nam có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển nhanh, các hoạt động giao lưu quốc tế được đẩy mạnh: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ... trong khi đó nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp ở hầu hết các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc rất thấp, có tỉnh một năm chỉ giải quyết vài chục trường hợp như Cao Bằng, Lai Châu, Bắc Kạn[4].

II. HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về lý lịch tư pháp.

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về lý lịch tư pháp. bao gồm hai phần chủ yếu sau:

- Các văn bản pháp luật về tổ chức và quản lý lý lịch tư pháp;

- Quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan đến yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

1.1. Các văn bản pháp luật về tổ chức và quản lý lý lịch tư pháp

Trong hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta chỉ có một số văn bản điều chỉnh về vấn đề quản lý lý lịch tư pháp, đó là Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT/BTP-BNV ngày 5/5/2005 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương, Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 8/2/1999 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an quy định việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp và Quyết định số 94/2004/QĐ-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp phiếu lý lịch tư pháp, Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp.

Trong số các văn bản quy định về quản lý lý lịch tư pháp đã nói ở trên thì Nghị định 62/2003/NĐ-CP và Thông tư liên tịch 04/2005/TTLT-BTP-BCA là những văn bản có quy định về thẩm quyền của ngành Tư pháp trong quản lý lý lịch tư pháp (đã được trình bày tại điểm 1.4 mục I Phần thứ hai), Quyết định số 94/2004/QĐ-BTC quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp phiếu lý lịch tư pháp, chỉ riêng có Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA là văn bản duy nhất điều chỉnh một số vấn đề về phạm vi quản lý lý lịch tư pháp, trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp...

Sau hàng chục năm không có sự điều chỉnh của pháp luật nên có thể coi việc ban hành Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA là “điểm mốc” đánh dấu sự vận hành của pháp luật về quản lý lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, nếu xét từ mục đích, yêu cầu của hoạt động quản lý nhà nước cũng như thực tiễn công tác lý lịch tư pháp thì có thể thấy văn bản hiện được coi là “chủ đạo” này chỉ mang tính chất là giải pháp tình thế, tạm thời. Thông tư này được ban hành vào thời điểm nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp của nhân dân tăng nhanh, do đó, nó nhằm tới hai mục đích cụ thể:

 - Thứ nhất, thống nhất trình tự, thủ tục giải quyết việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu bức xúc của công dân;

- Thứ hai, trong điều kiện ngành tư pháp chưa có hệ thống quản lý lý lịch tư pháp độc lập, Thông tư này tạo cơ sở pháp lý cho sự phối hợp giữa hai ngành tư pháp – công an trong việc tra cứu, xác minh lý lịch tư pháp thông qua hệ thống tàng thư căn cước can phạm của ngành Công an.

Thông tư số 07/1999/TTLT-BTP-BCA quy định việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp thuộc thẩm quyền của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho người có yêu cầu nhằm xác nhận người đó có hoặc không có tiền án.

Người có quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp bao gồm:

- Công dân Việt Nam;

- Người nước ngoài. Phiếu lý lịch tư pháp, xác nhận người nước ngoài có hoặc không có tiền án trong thời gian cư trú tại Việt Nam.

Người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Sở Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Công an cấp tỉnh) và trong trường hợp cần thiết với Toà án, để xác minh lý lịch tư pháp của đương sự.

Người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp phải nộp 02 bộ hồ sơ tại cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu lýlịch tư pháp. Hồ sơ bao gồm:

+ Đơn yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp (theo mẫu số 02/TP- LLTP).

+ Bản chụp Giấy chứng minh nhân dân và bản chụp Sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ hợp lệ chứng minh nơi thường trú của đương sự; đối với người nước ngoài thì nộp bản chụp Hộ chiếu và bản chụp Giấy chứng nhận thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam.

+ Trong trường hợp uỷ quyền làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì còn phải cú văn bản uỷ quyền được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người uỷ quyền hoặc người được uỷ quyền chứng nhận; người uỷ quyền là công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài, văn bản uỷ quyền phải có chứng nhận của Cơ quan đại diện Ngoại giao, Cơ quan Lãnh sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; nếu người uỷ quyền là người nước ngoài đó rời Việt Nam thì văn bản uỷ quyền phải có chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân hoặc thường trú và phải được hợp pháp hoá lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Cơ quan cấp Phiếu lý lịch tư pháp tiếp nhận hồ sơ là:

+ Nếu người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp là công dân Việt Nam cư trú ở trong nước thì nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp nơi thường trú; nếu cư trú ở nước ngoài thì nộp tại Sở Tư pháp nơi thường trú cuối cùng trước khi xuất cảnh.

+ Nếu người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam thì hồ sơ nộp tại Sở Tư pháp nơi cư trú; nếu người đó đã rời Việt Nam, thì nộp tại Sở Tư pháp nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh.

Khi tiếp nhận hồ sơ, Sở Tư pháp kiểm tra các nội dung khai trong đơn và sự hợp lệ của các giấy tờ kèm theo; nếu có điểm nào còn thiếu hoặc chưa rõ thì đề nghị người nộp đơn bổ sung hoặc làm rõ.

Nếu xét thấy hồ sơ đó hợp lệ, Sở Tư pháp tiếp nhận, thu lệ phí và cấp cho người nộp đơn Phiếu hẹn ngày trả kết quả. Việc tiếp nhận hồ sơ phải được ghi vào Sổ cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Trong trường hợp xét thấy vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, Sở Tư pháp hướng dẫn ngay cho đương sự nộp hồ sơ theo đúng địa chỉ.

Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp gửi Phiếu xác minh lý lịch tư pháp và 01 bộ hồ sơ cho Công an cấp tỉnh để tra cứu.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được Phiếu xác minh lý lịch tư pháp. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện việc tra cứu, xác minh lý lịch tư pháp của đương sự và gửi cho Sở Tư pháp Thông báo kết quả xác minh lý lịch tư pháp (mặt sau của Phiếu xác minh lý lịch tư pháp). Đối với trường hợp phức tạp cần phải tra cứu hồ sơ của Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát thuộc Bộ Công an thì thời hạn này được kéo dài thêm không quá 10 ngày; việc liên hệ với Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát do Công an cấp tỉnh chịu trách nhiệm.

Trong trường hợp qua kết quả tra cứu hồ sơ của cơ quan công an thấy có tình tiết nghi ngờ đương sự có án, nhưng chưa đủ căn cứ để kết luận hoặc phần ghi về tình trạng tiền án của đương sự có điểm chưa rõ ràng, đầy đủ thì Sở Tư pháp liên hệ với toà án đã xét xử vụ án liên quan đến đương sự để tra cứu hồ sơ án lưu, nhằm làm rõ đương sự có án hay không có án.

Việc tra cứu hồ sơ của Toà án (nếu có) phải được tiến hành ngay sau ngày nhận được thông báo kết quả xác minh lý lịch tư pháp của Công an cấp tỉnh; thời hạn tra cứu hồ sơ án lưu tại Toà án không quá 7 ngày.

Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày có kết quả tra cứu hồ sơ của cơ quan công an và Toà án (nếu có), Sở Tư pháp lập và cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho đương sự.

Đương sự không có tiền án (chưa can án hoặc có án nhưng đó được xoá án tích) thì Phiếu lý lịch tư phápghi rõ là “Không có tiền án” vào dòng “Tình trạng tiền án”. Nếu đương sự có tiền án thì cơ quan cấp Phiếu lý lịch tư pháp ghi rõ tội danh, điều luật được áp dụng, hình phạt chính, hỡnh phạt bổ sung (nếu có) và ngày, tháng, năm tuyên bản án đó có hiệu lực pháp luật. Nếu có nhiều tiền án thì ghi thứ tự các tiền án theo thời gian.

Trong trường hợp đương sự có án, nhưng đủ điều kiện để được đương nhiên xoá án tích hoặc được xoá án tích có điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự, thì Sở Tư pháp hướng dẫn cho đương sự làm thủ tục yêu cầu Toà án nhân dân có thẩm quyền xoá án tích theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Phiếu lý lịch tư pháp chỉ có một loại bản chính, không được phép sao. Tuỳ theo mục đích yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp của đương sự, Sở Tư pháp cấp cho đương sự số lượng Phiếu cần thiết.

Sở Tư pháp phải thực hiện lưu trữ hồ sơ lý lịch tư pháp. Hồ sơ lý lịch tư pháp bao gồm đơn yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp, các giấy tờ kèm theo của đương sự và Phiếu xác minh lý lịch tư pháp có ghi kết quả tra cứu hồ sơ của cơ quan công an, kết quả tra cứu hồ sơ của toà án (nếu có).

Hành vi vi phạm các quy định về cấp phiếu lý lịch tư pháp sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 76/2006/NĐ-CP. Theo đó: hành vi tự ý sửa chữa hoặc tẩy xoá làm sai lệch nội dung giấy tờ để yêu cầu làm thủ tục cấp phiếu lý lịch tư pháp sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng. Hành vi sử dụng giấy tờ giả mạo để yêu cầu làm thủ tục cấp phiếu lý lịch tư pháp sẽ bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng. Ngoài ra còn bị tịch thu giấy tờ đã bị sửa chữa hoặc tẩy xoá làm sai lệch nội dung, hoặc giấy tờ giả mạo để được cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Người phát hiện có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ phiếu lý lịch tư pháp đã cấp.

1.2. Quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan đến yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Bên cạnh các văn bản quy định trực tiếp về tổ chức và quản lý lý lịch tư pháp nêu trên, thì quy định các trong văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp tương đối rộng, bao gồm các lĩnh vực hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành nghề kinh doanh, bầu cử, bổ nhiệm, tuyển dụng...

- Theo quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, việc tìm hiểu quá khứ hình sự của một người là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đối với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định về nguyên tắc xử lý hành vi phạm tội “nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, tái phạm nguy hiểm...”. Hoặc đối với “người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục”. Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định chi tiết những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; tái phạm, tái phạm nguy hiểm, việc xoá án tích... Có thể nói, một số chế định pháp luật hình sự coi lý lịch tư pháp là những thông tin rất quan trọng đối với các cơ quan tư pháp như Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân trong công tác điều tra, truy tố, xét xử.

- Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cũng quy định rất rõ nguyên tắc áp dụng từng hình thức xử lý vi phạm hành chính, theo đó, cảnh cáo được áp dụng với những vi phạm nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ. Một trong những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính được quy định là một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần, việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, nhân thân người vi phạm và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp.

- Trong các lĩnh vực khác như dân sự, hôn nhân - gia đình, kinh doanh, hành nghề, bầu cử, bổ nhiệm, tuyển dụng, có thể thấy rất nhiều văn bản pháp luật của nước ta ban hành trong thời gian gần đây cũng đã quy định việc sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp. Có thể đơn cử một số quy định cụ thể sau đây:

Quy định yêu cầu trực tiếp phải có Phiếu lý lịch tư pháp trong các hồ sơ cấp chứng chỉ hành nghề, hoặc điều kiện thực hiện các công việc nào đó. Ví dục:

- Khoản 2 Điều 13 Nghị định 21/2001/ NĐ-CP ngày 28/5/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cư­ trú của ngư­ời nư­ớc ngoài tại Việt Nam quy định: người nước ngoài xin thường trú tại Việt Nam phải có lý lịch tư pháp có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân;

- Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 03/2002/ NĐ-CP ngày 07/01/2002 của Chính phủ về bảo vệ an ninh, an toàn dầu khí quy định: người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong hồ sơ tuyển dụng vào làm việc tại Tổng công ty Dầu khí Việt Nam phải có Phiếu lý lịch tư pháp;

- Khoản 1 Điều 42 Nghị dịnh số 05/2005/ NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá tài sản quy định hồ sơ xin cấp thẻ đấu giá viên phải có, đơn, sơ yếu lý lịch, Phiếu lý lịch tư pháp, bản sa giấy tốt nghiệp đại học, giấy xác nhận thời gian công tác.

- Tại các điều 17, 20, 82 của Luật Luật sư ngày 29/6/2006 quy định về hồ sơ cấp chứng chỉ hành nghề, gia nhập Đoàn luật sư và cấp hoặc gia hạn Giấy phép hành nghề tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài thì phải có Phiếu lý lịch tư pháp;

Khoản 10 Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nư­ớc ngoài quy định hồ sơ của người xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó thường trú cấp chưa quá 12 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ;

- Tại Điều 5 Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 17/9/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam đã quy định hồ sơ xin làm việc của người lao động nước ngoài gồm: (a) Đơn xin làm việc; (b) Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người lao động cư trú cấp. Trường hợp, người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam từ 06 (sáu) tháng trở lên thì ngoài phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp còn phải có phiếu lý lịch tư pháp do Sở Tư pháp của Việt Nam nơi người nước ngoài đang cư trú cấp.

- Khoản 2 Điều 16 Nghị định số 79/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 quy định chi tiết một số điều của Luật Dược, hồ sơ cấp chứng chỉ hành nghề dược đối với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngoài những giấy tờ phải nộp như đối với công dân Việt Nam, còn phải có: Phiếu lý lịch tư pháp, giấy phép lao động hoặc giấy xác nhận là thành viên của hội đồng quản trị hoặc ban giám đốc của cơ sở kinh doanh thuốc, bản sao hộ chiếu có công chứng.

- Điều 9 Quy chế quản lý Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số: 09/2006/QĐ-BTP ngày 30/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp), hồ sơ xin phép lập Văn phòng con nuôi nước ngoài phải có Phiếu lý lịch tư pháp của người dự kiến đứng đầu Văn phòng con nuôi nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân cấp. Nếu người đó là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam hoặc là người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam từ 06 tháng trở lên, thì Phiếu lý lịch tư pháp do Sở Tư pháp, nơi người đó cư trú cấp..

 Ngoài các quy định trực tiếp yêu cầu có Phiếu lý lịch tư pháp tong các hồ sơ tuyển dụng, hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề, hồ sơ xuất, nhập cảnh, xin nhận nuôi con nuoi như đã nêu ở trên, trong nhiêu văn bản quy phạm pháp luật quy định về điều kiện kinh doanh, hoặc điều kiện được bổ nhiệm vào một chức vụ nào đó phải đáp ứng yêu cầu: không phải là người đang chấp hành hình phạt hoặc có tiền án[5], hoặc có lý lịch tư pháp rõ ràng. Ví dụ:

- Tại Điều 5 Quyết định số 139/2000/QĐ-TTg ngày 04/12/2000 của Thủ tư­ớng Chính phủ ban hành Quy chế về lãnh sự danh dự của nư­ớc ngoài tại Việt Nam[6];

- Điều 8 Pháp lệnh Giám định tư pháp ngày 11/10/2004 quy định về điều kiện để được bổ nhiệm giám định viên tư pháp;

- Điều kiện để được bán hàng đa cấp tại điểm a khoản 2 Điều 4 Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;

- Khoản 2 Điều 13 Luật doanh nghiệp ngày 29/11/2005 quy định người không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp;

- Điều kiện của giám định viên công nghệ quy định tại điểm 2d mục I Thông tư số 14/2006/TT-BKHCN ngày 08/8/2006 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn việc giám định công nghệ các dự án đầu tư và chuyển giao công nghệ.

- Khoản 1 Điều 19 Luật Công chứng ngày 29/11/2006 quy định về những người không được bổ nhiệm làm công chứng viên .

- Khoản 4 Điều 17 Luật Luật sư ngày 29/6/2006 quy định về những người không được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư.

- Khoản 3 Điều 20 Luật Trợ giúp pháp ký ngày 29/11/2006 quy định những người không được tham gia trợ giúp pháp lý:...

Với các quy định pháp luật như đã nêu trên là cơ sở để cơ quan tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công dân phải xuất trình Phiếu lý lịch tư pháp khi tham gia vào một số quan hệ xã hội nhất định như tuyển dụng, bổ nhiệm, kinh doanh hoặc một số lĩnh vực khác...

2. Đánh giá việc áp dụng pháp luật về lý lịch tư pháp trong thời gian qua

Sự ra đời của Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 8/2/1999 quy định việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp là nhằm đáp ứng nhu cầu bức xúc của thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp ngày càng gia tăng. Có thể nói, công tác giải quyết cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người dân bắt đầu được thực hiện đại trà trên toàn quốc từ năm 1999 trên cơ sở quy trình phối hợp giữa hai ngành tư pháp và công an được quy định tại Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA.

Theo quy định của Thông tư liên tịch 07/1999/TTLT-BTP-BCA thì Phiếu lý lịch tư pháp là loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh về tình trạng tiền án của một người. Đây là loại giấy tờ duy nhất được các cơ quan, tổ chức của Việt Nam cũng như các cơ quan, tổ chức nước ngoài công nhận về giá trị chứng minh một người có hay không có tiền án. Chính bởi giá trị pháp lý như vậy nên trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường, số lượng công dân Việt Nam cũng như người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam có nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp để chứng minh sự trong sáng về nhân thân của mình khi tham gia vào một số quan hệ nhất định ngày càng tăng nhanh. Sau hơn 7 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA, có thể nói công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp đã trở thành một hoạt động tác nghiệp thường xuyên tại các Sở Tư pháp. Thông tư số 07/1999/TTLT-BTP-BCA đã tạo ra một cơ chế phối hợp khá chặt chẽ và hiệu quả giữa hai ngành tư pháp và công an trong việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp, đồng thời đáp ứng được nhu cầu bức xúc của người dân và một phần yêu cầu quản lý của Nhà nước. Phiếu lý lịch tư pháp được coi là một trong những giấy tờ không thể thiếu khi xem xét cấp Giấy phép hành nghề trong một số lĩnh vực nhất định như luật sư, chứng khoán, kiểm toán... hoặc để xem xét khi bổ nhiệm, tuyển dụng trong một số lĩnh vực. Hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp trong thời quan cũng đã đáp ứng được các yêu cầu của cải cách hành chính bằng việc áp dụng cơ chế “một cửa” trong giải quyết công việc; các quy định về trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết và lệ phí được niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan Sở Tư pháp tạo thuận lợi cho người dân đến làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA nêu trên, thực tiễn công tác quản lý lý lịch tư pháp trong thời gian qua cũng cho thấy, thực chất việc thực hiện chức năng quản lý lý lịch tư pháp của ngành tư pháp hiện nay mới chỉ dừng ở việc lập và cấp Phiếu lý lịch tư pháp; trình tự, thủ tục, trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa cơ quan tư pháp và cơ quan công an trong quá trình giải quyết việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Đây mới chỉ là một phần công việc trong quản lý lý lịch tư pháp. Cho đến nay, chúng ta chưa có một văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp quy định đầy đủ chức năng quản lý lý lịch tư pháp như việc xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp; mô hình tổ chức, quản lý; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan với cơ quan quản lý lý lịch tư pháp trong việc cung cấp và thu nhận thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp. Mặt khác, Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA là văn bản có giá trị pháp lý thấp, chủ yếu mang tính chất hướng dẫn nghiệp vụ. Mặc dù rải rác trong một số văn bản quy phạm pháp luật (như Nghị định 62/2003/NĐ-CP và Thông tư liên tịch 04/2005/TTLT-BTP-BCA), chúng ta đã đưa ra những quy phạm là nội dung của công tác quản lý lý lịch tư pháp nhưng các quy định như thế còn quá ít. Điều đáng tiếc là trong quá trình xây dựng các bộ luật như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự… chúng ta chưa chú ý đưa vào các quy định về việc ghi chép các án tích như thế nào? trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc gửi các bản án và quyết định cho cơ quan quản lý lý lịch tư pháp ra sao. Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp mới được ban hành (Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006) nên cho đến nay vẫn chưa có trường hợp nào bị xử phạt.

Việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho một đối tượng cụ thể chỉ có giá trị trong một thời hạn nhất định, nhưng Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA không quy định cụ thể về thời hạn có giá trị của Phiếu lý lịch tư pháp (được cấp trong thời gian bao lâu). Rất ít quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật yêu cầu phải có Phiếu lý lịch tư pháp lại có quy định về thời hạn có giá trị pháp lý của Phiếu lý lịch tư pháp được cấp. Những thiếu sót như vậy sẽ làm mất đi vai trò, tác dụng của Phiếu lý lịch tư pháp (chứng minh đương sự có tiền án hoặc không có tiền án), có đủ điều kiện để được bổ nhiệm, hoặc tham gia một công việc nào đó, hoặc tham gia thành lập và quản lý doanh nghiệp... hay không.

Từ thực trạng này, có thể nói, lý lịch tư pháp là một lĩnh vực hoạt động sớm được hình thành trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của nước ta nhưng so với nhiều lĩnh vực hoạt động tư pháp khác như quản lý toà án, quản lý hộ tịch, quản lý luật sư..., thì quản lý lý lịch tư pháp là lĩnh vực ít được quan tâm và rất chậm hình thành về mặt thể chế. Qua hơn 60 năm xây dựng và phát triển, nền tư pháp nói chung và các hoạt động hành chính tư pháp cũng như các thiết chế bổ trợ tư pháp nói riêng đã có những bước phát triển, đổi mới không ngừng, nhiều luật, pháp lệnh, nghị định được ban hành làm cơ sở pháp lý thúc đẩy sự hoàn thiện, phát triển của các lĩnh vực công tác đó nhưng riêng lĩnh vực quản lý lý lịch tư pháp hầu như chưa có những thay đổi đáng kể. Sự thiếu vắng các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý lý lịch tư pháp (đặc biệt là văn bản quy phạm có giá trị pháp lý cao) trong khi số lượng văn bản có quy định về việc sử dụng Phiếu lý lịch tư pháp ngày càng nhiều lên đã và đang đưa lại những hệ quả không nhỏ xét từ nhiều phương diện khác nhau.

III. NHỮNG YÊU CẦU KHÁCH QUAN XÂY DỰNG LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

Từ thực trạng công tác quản lý lý lịch tư pháp hiện nay như đã phân tích trên đây, có thể nói hoạt động quản lý này đã và đang bộc lộ nhiều điểm bất cập, hạn chế. Bất cập cơ bản của công tác quản lý lý lịch tư pháp cũng là nguyên nhân đưa đến sự bị động của ngành tư pháp trong lĩnh vực công tác này là hiện nay, ngành Tư pháp chưa có hệ thống quản lý lý lịch tư pháp theo những tiêu chuẩn, yêu cầu đặc thù và mục đích của công tác này. Hệ quả của vấn đề này là:

- Thứ nhất, việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp của các Sở Tư pháp hiện nay chủ yếu dựa vào hệ thống tàng thư nghiệp vụ của ngành công an, thông tin của hệ thống này có nhiều điểm chưa phù hợp với mục đích của công tác quản lý lý lịch tư pháp.

Hệ thống tàng thư căn cước can phạm của ngành công an được xây dựng nhằm phục vụ chủ yếu cho công tác điều tra tội phạm, do đó, hệ thống này chỉ lưu trữ đầy đủ thông tin về giai đoạn điều tra của các vụ án hình sự (các hành vi vi phạm pháp luật, có bị khởi tố hay không...). Trong nhiều trường hợp, hệ thống hồ sơ này không cập nhật đầy đủ những thông tin về kết quả của quá trình tố tụng tiếp sau đó (bị cáo có bị kết án hay không? mức án như thế nào? việc thi hành án?...). Trong khi đó, hiện nay những thông tin mà công tác quản lý lý lịch tư pháp quan tâm đều liên quan đến bản án đã có hiệu lực pháp luật để qua đó có căn cứ khẳng định một người có tiền án hay không, mức án họ bị tuyên phạt, người bị án đã được xoá án hay chưa? Những thông tin này đòi hỏi độ chính xác cao vì Phiếu lý lịch tư pháp là sự khẳng định chính thức của cơ quan nhà nước một người có hay không tiền án. Trong trường hợp Phiếu lý lịch tư pháp được cấp dựa trên thông tin không chính xác thì sự chứng nhận này có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người được cấp Phiếu. Chính bởi vậy nên theo quy định tại Thông tư 07/1999/TTLT-BTP-BCA, thông tin về tình trạng tiền án của công dân mà cơ quan công an cung cấp chỉ là nguồn thông tin chủ yếu, ngoài ra để việc cấp Phiếu được chính xác, đối với những trường hợp có nghi vấn, cơ quan tư pháp phải tăng cường tính chủ động trong việc tra cứu thông tin tại Toà án. Trên thực tế, cơ quan tư pháp còn thực hiện việc xác minh lý lịch tư pháp của đối tượng tại nơi cư trú để có cơ sở khẳng định chắc chắn về tình trạng tiền án của đương sự.

- Thứ hai, việc không có hệ thống thông tin lý lịch tư pháp độc lập cũng là nguyên nhân cơ bản của tình trạng kéo dài thời gian giải quyết việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân. Theo quy trình phối hợp quy định tại Thông tư 07/1999/TTLT-BTP-BCA thì phần lớn thời hạn việc giải quyết cấp Phiếu lý lịch tư pháp được giành cho hoạt động tra cứu của cơ quan công an (2/3 tổng số thời gian), việc cấp Phiếu có đúng thời hạn hay không phụ thuộc vào việc cơ quan công an thực hiện việc tra cứu hồ sơ và thông báo kết quả. Chỉ sau khi nhận được thông báo của cơ quan công an thì Sở Tư pháp mới lập và cấp Phiếu hoặc tổ chức xác minh bổ sung bằng cách liên hệ, tra cứu án lưu tại Toà án có liên quan hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đương sự cư trú. Đối với các trường hợp phức tạp cần phải tra cứu hồ sơ của Cục hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát thuộc Bộ Công an, thời gian thường kéo dài (từ 35 đến 40 ngày) không bảo đảm thời hạn quy định. Trong khi đó, Thông tư 07/1999/TTLT-BTP-BCA chưa dự liệu và quy định về việc nếu hết thời hạn tra cứu theo quy định mà cơ quan công an không có thông báo kết quả xác minh tiền án thì Sở Tư pháp có thể chủ động xác minh bổ sung, lập, cấp Phiếu cho đương sự và chịu trách nhiệm về việc cấp Phiếu đó.

- Thứ ba, kinh nghiệm của một số nước có hệ thống quản lý lý lịch tư pháp ổn định như Pháp, Nhật Bản... cho thấy công tác quản lý lý lịch tư pháp là một hoạt động bổ trợ vô cùng cần thiết đối với hoạt động tố tụng, đặc biệt là với công tác xét xử. Phiếu lý lịch tư pháp của bị cáo là căn cứ quan trọng và không thể thiếu được để Toà án xem xét nhân thân của bị cáo, nắm được đầy đủ, chính xác tình trạng vi phạm pháp luật hình sự của bị cáo, trên cơ sở đó cân nhắc các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ khi quyết định hình phạt. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý lý lịch tư pháp ở các nước này còn phát huy tác dụng trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước như: cấp phép hành nghề đối với một số ngành nghề, tuyển dụng công chức nhà nước... Ở nước ta, do chưa có hệ thống quản lý lý lịch tư pháp nên công tác quản lý lý lịch tư pháp hiện nay mới chỉ nhằm đáp ứng một cách bị động nhu cầu của người dân, chưa đảm bảo được mục đích cơ bản và chủ yếu là hỗ trợ cho hoạt động tố tụng và quản lý nhà nước.

- Thứ tư, lý lịch tư pháp là phương tiện để thực hiện xoá án tích theo quy định của pháp luật. Xóa án tích là một chính sách thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của Nhà nước ta. Tuy nhiên, hiện nay, việc thực hiện chính sách này chưa thực sự được coi trọng. Hạn chế này xuất phát từ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như về phía người dân. Theo quy định của Bộ luật hình sự, người được xoá án tích coi như chưa bị kết án và được Toà án cấp Giấy chứng nhận. Nhưng trên thực tế, người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc xoá án. Về phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xoá án tích cũng chưa thực sự chủ động trong việc triển khai công việc này. Vì vậy, đã có không ít trường hợp, kết quả xác minh lý lịch tư pháp của Công an chuyển sang Sở Tư pháp trả lời là có tiền án, nhưng trên thực tế, đương sự đã đủ thời hạn được xoá án. Do đó, việc xây dựng một tổ chức tập trung thống nhất quản lý lý lịch tư pháp nhằm theo dõi và thực hiện việc xoá án tích là rất cần thiết. Trong định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền và xu thế cải cách tư pháp hiện nay, cần đề cao quan điểm coi việc xoá án tích và chứng nhận về lý lịch tư pháp cho người phạm tội là trách nhiệm của cơ quan nhà nước và cơ quan này phải thực hiện nhiệm vụ này một cách chủ động, linh hoạt, phục vụ tốt nhất cho việc hoà nhập xã hội của người phạm tội. Như trên đã đề cập, lý lịch tư pháp được hiểu là hồ sơ về phương diện tư pháp của một người, trong đó có ghi nhớ các án tích về hình sự. Tuy nhiên, không phải mọi tiền án đều được ghi vào Phiếu lý lịch tư pháp. Đây là vấn đề thể hiện tính chất nhân đạo của pháp luật, nhằm tạo điều kiện cho người đã từng can án tái hoà nhập xã hội. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới thường quy định những trường hợp được miễn ghi vào Phiếu lý lịch tư pháp để cấp cho công dân. Thông thường, Phiếu lý lịch tư pháp chỉ ghi lại một số án tích chưa được xoá, đó là những án tích liên quan trực tiếp đến mục đích của việc xin cấp Phiếu. Trong những trường hợp này, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp có quyền “che dấu” án tích cho đương sự. Đây là những quy định rất quan trọng trong quản lý lý lịch tư pháp mà trong thời gian tới, chúng ta cần nghiên cứu và đề xuất thành các quy định pháp luật.

Bên cạnh những hạn chế, bất cập nêu trên, có thể nói, công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp hiện nay cũng đang gặp một số vướng mắc, khó khăn cơ bản. Nếu tính từ thời điểm bắt đầu tổ chức triển khai cấp Phiếu lý lịch tư pháp đến nay (từ năm 1999), ước tính đã có khoảng hơn 300.000 trường hợp được giải quyết. Điều đó cũng có nghĩa là hiện nay các Sở Tư pháp trên cả nước đang lưu trữ thông tin về tình trạng tiền án của khoảng hơn 300.000 cá nhân. Đây là một khối lượng thông tin không nhỏ. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng của những thông tin này tại cơ quan tư pháp hiện đang là vấn đề hết sức bất cập. Trên thực tế, các kết quả xác minh lý lịch tư pháp qua hệ thống hồ sơ của cơ quan công an chỉ có giá trị để cơ quan tư pháp lập và cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho cá nhân có yêu cầu vào một thời điểm nhất định. Sau khi đã cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho đương sự, các thông tin này được đưa vào lưu trữ nhưng chỉ sau một thời gian không dài (khoảng 1 năm), nếu không được cập nhật liên tục các thông tin về tình trạng tiền án của cá nhân đó thì giá trị sử dụng của những thông tin này trong việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp những lần tiếp theo (nếu cá nhân đó lại có yêu cầu) sẽ rất hạn chế. Bên cạnh đó việc xử lý các thông tin lưu trữ này cũng chưa có quy định thống nhất.

Bên cạnh đó, nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp của người dân đang ngày càng gia tăng và có xu hướng trở nên “quá tải” đối với một số tỉnh, thành phố. Phân tích tình hình giải quyết cấp Phiếu lý lịch tư pháp trong năm 2005 cho thấy, có khoảng 14 tỉnh, thành phố trên cả nước có số lượng giải quyết trên 1.200 trường hợp (trung bình khoảng 100 trường hợp/tháng). Các tỉnh, thành phố có số lượng cấp Phiếu lý lịch tư pháp lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng... (Đặc biệt, tại thành phố Hồ Chí Minh, Sở Tư pháp trung bình một ngày tiếp nhận từ 150 đến 200 yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp)

Về mặt tổ chức, tại các Sở Tư pháp trên cả nước thì công tác lý lịch tư pháp vẫn chỉ do một vài cán bộ (từ 1 đến 3 cán bộ) thuộc Phòng quản lý tư pháp khác (vốn có chức năng quản lý rất nhiều hoạt động nghiệp vụ: hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, giám định tư pháp, luật sư) đảm nhiệm. Nếu đặt tình hình tổ chức nhân sự này bên cạnh khối lượng nhu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp của 14 tỉnh nói trên thì có thể thấy sự quá tải về khả năng đáp ứng nhu cầu của người dân đang tạo ra sức ép không nhỏ đối với một số Sở Tư pháp.

Những khó khăn, bất cập nêu trên chỉ có thể giải quyết khi xây dựng được hệ thống quản lý lý lịch tư pháp độc lập với tính chất là hệ thống chuyên môn lưu trữ, xử lý và cập nhật đầy đủ thông tin về lý lịch tư pháp đáp ứng những tiêu chuẩn, yêu cầu đặc thù của công tác này. Để xây dựng được hệ thống lý lịch tư pháp như vậy, việc ban hành văn bản pháp lý có giá trị cao như Luật, Pháp lệnh là hết sức cần thiết. Nghị quyết số 35/2004/QH11 ngày 25/11/2004 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005 đã đưa Pháp lệnh Lý lịch tư pháp vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005 (chương trình chính thức. Tuy nhiên, trong định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một trong những yêu cầu cơ bản là tăng cường điều chỉnh bằng luật những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Chính vì vậy, Nghị quyết số 49/2005/QH11 ngày 19/11/2005 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2006 đã đưa Luật Lý lịch tư pháp vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2006 (chương trình chuẩn bị). Trong bối cảnh đó, việc xây dựng Luật Lý lịch tư pháp trong công cuộc cải cách bộ máy nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thực sự rất cần thiết.

 

 

 

PHẦN THỨ BA

ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

 

I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

Luật Lý lịch tư pháp được xây dựng theo những quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Quán triệt và kịp thời thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về lý lịch tư pháp

Công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Việc triển khai thực hiện chủ trương này được đánh dấu bằng Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết trung ương 3 và Nghị quyết trung ương 7 khoá VIII, Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX và đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW này 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật đã được đặc biệt chú trọng.

Luật Lý lịch tư pháp được xây dựng trong bối cảnh thực hiện cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trên tinh thần quán triệt và thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng..

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp, trong đó có nhiệm vụ hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Nhà nước pháp quyền là một nhà nước dân chủ, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong nhà nước pháp quyền, mọi công dân đều phải được bình đẳng trước pháp luật, các quyền con người được tôn trọng và bảo đảm thực thi. Do vậy, việc xây dựng Luật Lý lịch tư pháp cũng đứng trước yêu cầu phải bảo đảm cho các chế định pháp luật thể hiện đầy đủ bản chất và những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Với bản chất của Nhà nước pháp quyền là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên Nhà nước pháp quyền luôn đề cao các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Do đặc điểm của hoạt động quản lý lý lịch tư pháp là trực tiếp liên quan đến các thông tin quan trọng về cá nhân mỗi con người, vì vậy cần phải quy định rõ ràng và chặt chẽ các nguyên tắc quản lý lý lịch tư pháp nhằm bảo đảm các quyền nhân thân của cá nhân, tính nhân đạo, dân chủ và công bằng của pháp luật. Quán triệt tư tưởng này, Luật Lý lịch tư pháp phải thể hiện được các nguyên tắc cũng như các cơ chế đảm bảo thực thi như quản lý lý lịch tư pháp phải bảo đảm tôn trọng quyền bí mật đời tư của cá nhân và trên nguyên tắc tạo điều kiện cho cá nhân tái hoà nhập cộng đồng. Việc cung cấp, tiếp nhận, xử lý các thông tin về lý lịch tư pháp của cá nhân phải đảm bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải phải sử dụng thông tin lý lịch tư pháp đúng mục đích theo quy định của pháp luật.

Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân.

Luật Lý lịch tư pháp dự kiến xây dựng hệ thống cơ quan lý lịch tư pháp độc lập nhằm quản lý hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp thống nhất. Để xây dựng có hiệu quả hệ thống này, một trong những vấn đề cơ bản, có tính then chốt là thiết lập được cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp giữa cơ quan quản lý lý lịch tư pháp với các cơ quan hữu quan như Toà án, Viện kiểm sát, Công an. Do đó nhiệm vụ tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính cũng sẽ có liên quan mật thiết đến việc thiết kế mô hình tổ chức cơ quan quản lý lý lịch tư pháp.

2. Bảo đảm tính pháp chế, thống nhất giữa các quy định của Luật Lý lịch tư pháp với các quy định của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Quốc hội

Các chế định, quy phạm pháp luật của Luật Lý lịch tư pháp phải mang tính đồng bộ, thống nhất, không trùng lặp, mâu thuẫn chồng chéo với các quy định của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Quốc hội cũng như các chế định, quy phạm pháp luật của các lĩnh vực pháp luật có liên quan. Các chế định, quy phạm pháp luật đó phải phù hợp với thực tiễn khách quan, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế, xã hội và phù hợp với các quy phạm khác.

3. Kế thừa những thành tựu đạt được trong thực tiễn về tổ chức và quản lý lý lịch tư pháp, có tham khảo pháp luật về lý lịch tư pháp và kinh nghiệm của nước ngoài     

Có thể nói, tuy chúng ta chưa có hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp thống nhất nhưng hiện nay các hệ thống hồ sơ có liên quan đến công tác lý lịch tư pháp đã được xây dựng và vận hành hiệu quả. Có thể kể đến ở đây là hệ thống hồ sơ của cơ quan Công an. Tuy hệ thống hồ sơ này được xây dựng nhằm mục đích phục vụ chủ yếu cho công tác điều tra, phá án và quản lý của ngành công an nhưng hệ thống hồ sơ này cũng chứa đựng rất nhiều thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp. Ví dụ: những thông tin về tiền án của những người can án... Chính vì vậy, việc triển khai hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp của ngành tư pháp và hệ thống hồ sơ của ngành công an cần có sự hợp tác chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau. Những vấn đề này cũng cần được thể chế thành các chế định trong Luật Lý lịch tư pháp.

Hiệu quả của việc thực hiện Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an quy định việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp trong thời gian qua cũng cho thấy cơ chế phối hợp cung cấp thông tin cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho cá nhân đã đáp ứng được một phần nhu cầu chính đáng và bức xúc của người dân. Tuy việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA hiện nay chỉ là một phần công việc của quản lý lý lịch tư pháp nhưng trên thực tế, Phiếu lý lịch tư pháp cũng đã khẳng định được giá trị pháp lý trong khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật trên nhiều lĩnh vực. Do vậy, trên cơ sở tổng kết thực tiễn tổ chức và hoạt động lý lịch tư pháp trong những năm qua, cần tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu, từ đó phát huy những ưu điểm, tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế để đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về lý lịch tư pháp.

Xây dựng Luật Lý lịch tư pháp phải gắn liền với việc nghiên cứu, tham khảo pháp luật về lý lịch tư pháp của một số nước trên thế giới có hệ thống pháp luật về lý lịch tư pháp phát triển và ổn định. Tuy nhiên, việc tham khảo kinh nghiệm nước ngoài phải trên cơ sở lựa chọn những quy định và mô hình phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. Có như vậy, pháp luật về lý lịch tư pháp ở nước ta mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.

II. ĐỀ XUẤT VỀ PHẠM VI QUẢN LÝ, ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH VÀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

1. Phạm vi quản lý lý lịch tư pháp:

Theo quy định của Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 8/2/1999 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an quy định việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp, thì Phiếu lý lịch tư pháp là Phiếu xác nhận một người có hoặc không có tiền án. Như vậy trong giai đoạn hiện nay, có thể hiểu Phiếu lý lịch tư pháp được cấp cho cá nhân với mục đích là xác nhận cá nhân đó có tiền án hay không, nếu có thì phạm tội gì, hình phạt nào và bị tuyên án từ bao giờ. Tuy nhiên, khi nghiên cứu hệ thống quản lý lý lịch tư pháp một số nước có hệ thống quản lý lý lịch tư pháp ổn định như Cộng hoà Pháp hoặc Nhật Bản, có thể thấy phạm vi và mục đích quản lý lý lịch tư pháp ở mỗi quốc gia này có sự khác nhau.

Theo mô hình của Cộng hoà Pháp, phạm vi quản lý lý lịch tư pháp bao gồm án tích hình sự, các nghĩa vụ dân sự, vi phạm hành chính, việc tuyên bố phá sản... Hệ thống quản lý lý lịch tư pháp không chỉ phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và hoạt động của các cơ quan tố tụng mà còn phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước và đáp ứng yêu cầu của công dân[7]. Ngược lại, phạm vi quản lý lý lịch tư pháp của Nhật Bản lại giới hạn trong các nội dung về hình sự và chỉ phục vụ hạn chế cho hoạt động tố tụng.

Nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến lý lịch tư pháp của Việt Nam, có thể thấy phạm vi các vấn đề có liên quan đến lý lịch tư pháp tương đối rộng, bao gồm các lĩnh vực hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh hành nghề[8]… Tuy nhiên, trong điều kiện khả năng và kinh nghiệm của nước ta hiện nay, chúng tôi cho rằng không nên mở rộng thái quá phạm vi quản lý của lý lịch tư pháp nhưng cũng không nên bó hẹp trong phạm vi các án hình sự. Chúng ta nên lựa chọn những nội dung quan trọng, cần thiết để đưa vào nội dung quản lý của lý lịch tư pháp nhằm phục vụ cho những yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của hoạt động quản lý nhà nước. Xét trên quan điểm này, để xác định những nội dung nào cần được ghi nhận trong lý lịch tư pháp, cần phải xuất phát từ mục đích của hoạt động quản lý này cũng như xem xét đến tính khả thi của việc thu thập và quản lý thông tin.

Có thể nói, mục đích cơ bản và chủ yếu của lý lịch tư pháp là nhằm hỗ trợ cho hoạt động tố tụng và quản lý nhà nước. Đây được coi là mục tiêu cơ bản, quan trọng hàng đầu của hoạt động quản lý lý lịch tư pháp. Lý lịch tư pháp được coi là nguồn cung cấp những cứ liệu chính thức về quá khứ nhân thân của bị can, bị cáo để cơ quan điều tra, truy tố, xét xử xem xét, giải quyết vụ án. Xét theo góc độ này, những tình tiết mà lý lịch tư pháp cung cấp sẽ có giá trị chứng cứ về tái phạm hay không tái phạm cũng như những thông tin về nhân thân của người phạm tội. Mặt khác, lý lịch tư pháp cũng có ý nghĩa quan trọng đối với công tác thi hành án, giúp cho các cơ quan thi hành án thực hiện một cách đầy đủ, chính xác các bản án và quyết định của Tòa án. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định một số loại hình phạt hạn chế hoặc tước một số quyền công dân nhưng chưa có cơ chế thi hành hữu hiệu (như biện pháp tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định) hoặc những hình phạt mà người phạm tội không bị giam giữ nhưng cần được theo dõi, quản lý chặt chẽ (cải tạo không giam giữ, quản chế...) nhưng hiện nay chúng ta cũng chưa có cơ chế chặt chẽ nhằm quản lý, theo dõi các đối tượng này. Bên cạnh đó, lý lịch tư pháp còn là phương tiện để thực hiện xóa án tích. Chế định xoá án tích và chính sách tạo điều kiện cho người phạm tội dễ dàng hoà nhập cộng đồng, không bị mặc cảm xã hội sau khi chấp hành án là những chính sách thể hiện sâu sắc tính nhân đạo của Nhà nước ta. Theo quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, người được xoá án tích sẽ được Toà án cấp giấy chứng nhận xoá án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy người đã được xoá án tích chỉ có thể dễ dàng tham gia vào các quan hệ xã hội như xin việc làm, xin cấp giấy phép làm một số nghề, xuất khẩu lao động... khi có Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận nội dung: “Không có tiền án”.

Bên cạnh mục tiêu cơ bản nói trên, lý lịch tư pháp cũng có vai trò rất quan trọng phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước. Lý lịch tư pháp được coi là nguồn thông tin chính thức để các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế... xem xét tư cách đạo đức của công dân khi tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự. Hiện nay, có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định yêu cầu công dân phải xuất trình Phiếu lý lịch tư pháp khi tham gia vào các quan hệ xã hội như xin giấy phép hành nghề hoặc ứng cử, bổ nhiệm, tuyển dụng vào một số cơ quan, tổ chức. Trong lĩnh vực cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, lý lịch tư pháp cũng được coi là một trong những căn cứ để xem xét điều kiện thành lập và quản lý doanh nghiệp của một cá nhân. Tuy nhiên, Phiếu lý lịch tư pháp được cấp theo quy định hiện hành cũng chỉ với mục đích duy nhất là xác nhận cá nhân đó có hay không có tiền án. Trong khi đó, kể từ khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 được ban hành, đã có gần 200.000 doanh nghiệp được thành lập[9] nhưng hiện nay chúng ta cũng chưa có cơ chế quản lý hữu hiệu các thông tin về điều kiện thành lập và quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin về tình trạng phá sản của các doanh nghiệp trước đó. Chính vì vậy, những nội dung liên quan đến quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp cũng cần được ghi nhận trong lý lịch tư pháp.

Trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, theo chúng tôi, các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác như giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục... cũng cần được ghi nhận trong lý lịch tư pháp. Đây là những biện pháp xử lý hành chính gắn với nhân thân người vi phạm, có dấu hiệu “vi phạm nhiều lần, có tính chất thường xuyên”, do đó mức độ nguy hiểm cao nên cần được ghi nhớ trong lý lịch tư pháp. Cũng có ý kiến cho rằng, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định “đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm” là một trong những dấu hiệu cấu thành tội phạm của nhiều loại tội danh, đặc biệt là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về môi trường, do đó lý lịch tư pháp cũng cần phải ghi nhận các thông tin này. Tuy nhiên, xét về khách quan, quy định này cũng khó đảm bảo tính khả thi bởi thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được phân định cho nhiều cơ quan khác nhau (UBND các cấp, công an, thanh tra, quản lý thị trường, hải quan, bộ đội biên phòng, cơ quan thuế...) nên sẽ rất khó khăn trong việc thu thập và cập nhật đầy đủ các thông tin này. Bên cạnh nội dung về hình sự, kinh tế, hành chính nói trên, các quyết định khác như quyết định của Tòa án tuyên một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự; quyết định kỷ luật của các cơ quan hành chính nhà nước kỷ luật công chức, viên chức (có áp dụng biện pháp hạn chế một số quyền của người vi phạm – VD: cấm đảm nhiệm một chức vụ hoặc một vị trí công tác trong một thời gian xác định…) và quyết định trục xuất người nước ngoài cũng cần được xem xét, nghiên cứu để ghi nhớ trong lý lịch tư pháp.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, lý lịch tư pháp cần ghi nhận và quản lý các thông tin sau đây:

- Các thông tin về hình sự bao gồm:

+ Thông tin về việc kết án: Các thông tin về việc kết án trước hết được rút ra từ các bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm các thông tin về: tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp.

+ Các thông tin về thi hành án:

  • Thời điểm bắt đầu thi hành án;
  • Thời hạn chấp hành hình phạt được giảm;
  • Việc được miễn chấp hành hình phạt (toàn bộ hoặc phần còn lại);
  • Thời điểm chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp;
  • Thời điểm và thời hạn tạm hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt;
  • Việc hủy bỏ quyết định tạm hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt;
  • Việc được đặc xá hoặc đại xá.

+ Thông tin về xoá án tích: Bộ luật hình sự quy định hai trường hợp xoá án tích là đương nhiên được xoá án tích và xoá án tích theo quyết định của Toà án. Đối với những trường hợp đương nhiên được xoá án tích, nếu sau một thời gian nhất định kể từ khi chấp hành xong bản án mà người bị kết án không phạm tội mới thì án tích của họ đương nhiên được xoá (trừ trường hợp được miễn hình phạt thì án tích được xoá ngay). Giấy chứng nhận xoá án tích chỉ là sự chứng nhận về hình thức. Kể cả trường hợp đương sự không yêu cầu và do vậy không được cấp Giấy chứng nhận, án tích của đương sự vẫn đương nhiên được xoá. Do vậy, cơ quan lý lịch tư pháp không nên căn cứ vào việc có hay không có giấy chứng nhận để loại hay không loại một án tích ra khỏi phiếu lý lịch tư pháp, và vì thế không nên yêu cầu Toà án gửi giấy chứng nhận xoá án tích cho cơ quan lý lịch tư pháp. Còn đối với các trường hợp xoá án tích theo quyết định của Toà án thì quyết định xoá án tích phải được đưa vào lý lịch tư pháp.

- Các thông tin có nội dung về hạn chế, cấm, tước quyền của cá nhân, công dân trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án có thẩm quyền (ngoài hình sự):

+ Những thông tin trong Quyết định của Toà án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, ghi nhận việc chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của Công ty hợp danh, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp, Chủ nhiệm, các thành viên Ban quản trị Hợp tác xã không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, không được làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn từ 1 đến 3 năm, kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản.

+ Những thông tin ghi nhận việc người giữ chức vụ Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị của công ty, tổng công ty 100% vốn nhà nước không được cử đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, kể từ ngày công ty, tổng công ty nhà nước bị tuyên bố phá sản.

+ Những thông tin về người được giao đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước...

2. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật Lý lịch tư pháp

2.1. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật Lý lịch tư pháp:          

Trên cơ sở phân tích các luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Luật Lý lịch tư pháp, có thể thấy dự án Luật cần điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội liên quan đến tổ chức và hoạt động lý lịch tư pháp.

Xuất phát từ quan điểm xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp độc lập, Luật Lý lịch tư pháp có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm các quy định về khái niệm lý lịch tư pháp, nguyên tắc quản lý lý lịch tư pháp, tổ chức cơ quan quản lý, cơ quan lý lịch tư pháp, hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp, cơ chế phối hợp cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp, thủ tục, trình tự cấp Phiếu lý lịch tư pháp, giải quyết khiếu nại tố cáo về lý lịch tư pháp.       

2.2. Khái niệm lý lịch tư pháp: Để làm rõ bản chất của hoạt động quản lý lý lịch tư pháp, trên cơ sở đó, xác định đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật, cần phải xác định được khái niệm lý lịch tư pháp vì đây là khái niệm cơ bản, nền tảng, quyết định các quan hệ xã hội nào thuộc phạm vi điều chỉnh của nó.

Thuật ngữ “Phiếu lý lịch tư pháp” hiện nay đã trở nên khá quen thuộc trong đời sống pháp lý, nhưng hiện vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định rõ “lý lịch tư pháp” là gì? Trên cơ sở phân tích về lý luận và thực tiễn hoạt động lý lịch tư pháp cũng như phạm vi quản lý của lý lịch tư pháp trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi xin đưa ra khái niệm lý lịch tư pháp như sau: “Lý lịch tư pháp là hồ sơ ghi nhớ các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án có thẩm quyền có nội dung cấm hoặc hạn chế các quyền của cá nhân đó trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế và hành chính”.

2.3. Đối tượng quản lý của lý lịch tư pháp:

 Xuất phát từ khái niệm lý lịch tư pháp nêu trên, đối tượng quản lý của lý lịch tư pháp sẽ bao gồm:

  • Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam;
  • Công dân Việt Nam đang cư trú tại Việt Nam, đã có thời gian cư trú ở nước ngoài;
  • Công dân Việt Nam hiện cư trú ở nước ngoài, đã có thời gian cư trú tại Việt Nam;
  • Người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam.

Cũng có một số ý kiến cho rằng nên đặt ra cả vấn đề quản lý lý lịch tư pháp của các pháp nhân. Tuy nhiên, theo ý kiến chúng tôi, trong giai đoạn hiện nay, xuất phát từ mục đích và yêu cầu của quản lý nhà nước cũng như bảo vệ các quyền của công dân, Luật Lý lịch tư pháp chỉ nên quản lý lý lịch tư pháp của các cá nhân.

3. Định hướng mô hình tổ chức, quản lý lý lịch tư pháp

Nghị định số 62/2003NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp, trong đó giao cho Bộ Tư pháp quản lý thống nhất về lý lịch tư pháp. Đồng thời tại Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan tư pháp địa phương, tại điểm 5 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp đã giao cho cho Sở Tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp và chịu trách nhiệm về việc cập nhật nội dung Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định của pháp luật. Để thực hiện quản lý thống nhất về lý lịch tư pháp, Dự thảo Luật Lý lịch tư pháp dự kiến xây dựng một hệ thống cơ quan lý lịch tư pháp độc lập để quản lý một hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp riêng. Tuy nhiên, trong bối cảnh thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hệ thống hồ sơ này dự kiến được xây dựng trên cơ sở tận dụng tiềm năng sẵn có của các hệ thống dữ liệu hiện có (hệ thống hồ sơ nghiệp vụ của ngành công an, hệ thống hồ sơ án lưu của Toà án...) cũng như tiếp tục củng cố và kết nối với những cơ sở dữ liệu này nhằm xây dựng hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp để sử dụng chung cho nhiều ngành.

Trong quá trình nghiên cứu thực tiễn cũng như tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, có hai mô hình tổ chức, quản lý lý lịch tư pháp được đưa ra xem xét, lấy ý kiến như sau:

Mô hình 1: Cơ quan lý lịch tư pháp được xây dựng theo mô hình hai cấp:

  • Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia trực thuộc Bộ Tư pháp;
  • Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh tại Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trung ương.

Các Trung tâm này có chức năng tổ chức, quản lý các thông tin về lý lịch tư pháp và cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Theo mô hình này, hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp sẽ do Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và Trung tâm lý lịch tư pháp các tỉnh thống nhất quản lý.

Tuy nhiên, ở mô hình này cũng có hai nhóm ý kiến đưa ra thảo luận về vấn đề quản lý hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp và việc kết nối thông tin giữa các Trung tâm này.

Thứ nhất, hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp sẽ chỉ tập trung tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Trung tâm này sẽ lưu trữ toàn bộ các thông tin về lý lịch tư pháp trong phạm vi toàn quốc. Khi có yêu cầu tra cứu hoặc cấp Phiếu lý lịch tư pháp, các Trung tâm lý lịch tư pháp tại các tỉnh có thể tra cứu, lấy thông tin tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Như vậy, không cần thiết phải xây dựng các cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại các tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, nếu xây dựng theo mô hình này, đòi hỏi sự đầu tư ban đầu rất lớn về vật chất, kỹ thuật, nhân lực. Bên cạnh đó, để quản lý, vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia tại Bộ Tư pháp, về mặt tổ chức cũng cần thiết phải có một bộ phận chuyên môn và đội ngũ kỹ thuật viên có trình độ chuyên môn rất cao.

Thứ hai, cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp sẽ được xây dựng ở hai cấp, cấp Trung ương và cấp tỉnh. Khi có yêu cầu tra cứu thông tin, các Sở Tư pháp chỉ cần tra cứu tại cơ sở dữ liệu tại địa phương. Chỉ trong những trường hợp cần thiết (đương sự trải qua nhiều nơi cư trú hoặc thông tin còn thiếu, không đầy đủ), mới cần tra cứu tại Cơ sở dữ liệu quốc gia tại Bộ Tư pháp. Nếu áp dụng theo mô hình này, do cơ sở dữ liệu rải rác ở các tỉnh, nên không đòi hỏi hệ thống kỹ thuật cũng như đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao. Đội ngũ các bộ, kỹ thuật viên tại Trung tâm ở các tỉnh, thành phố có thể vừa đảm nhiệm công việc chuyên môn, vừa đảm bảo vận hành về mặt kỹ thuật.

Mô hình 2: Cơ quan lý lịch tư pháp được xây dựng theo từng vùng, cụ thể là bao gồm 2 cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được đặt tại 2 miền (hoặc 3 miền): miền Bắc (tại Hà Nội) và miền Nam (tại thành phố Hồ Chí Minh). Các cơ sở dữ liệu này được kết nối với nhau thông qua hệ thống mạng nội bộ. Khi có yêu cầu tra cứu thông tin, các Sở Tư pháp địa phương có thể tra cứu tại 2 cơ sở dữ liệu này. Mô hình này có ưu điểm là khắc phục được những khó khăn về cơ sở vật chất và nhân lực tại một số địa phương các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Việc thiết kế mô hình này cũng được tính toán trong quá trình cải cách tư pháp và xu hướng thành lập Toà án vùng.

Tuy nhiên, để cả hai mô hình nói trên vận hành hiệu quả và khả thi, thì việc triển khai áp dụng công nghệ thông tin vào việc xây dựng hệ thống hồ sơ dữ liệu lý lịch tư pháp, nghiên cứu quy trình kỹ thuật trong xử lý thông tin lý lịch tư pháp là đặc biệt quan trọng. Đây cũng là yếu tố quan trọng và cơ bản trong việc xây dựng Hệ thống lý lịch tư pháp thống nhất như đã đưa ra ở cả hai mô hình nói trên.

Chúng tôi cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, mô hình thứ nhất với việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp ở hai cấp (cấp quốc gia và cấp tỉnh) là phù hợp bởi những lý do sau:

- Mô hình này phù hợp với xu hướng phân cấp trong ngành tư pháp;

- Không gây xáo trộn về mặt tổ chức, không đòi hỏi sự đầu tư quá lớn về các nguồn lực;

- Tạo điều kiện thuận tiện nhất trong việc tận dụng nguồn thông tin lý lịch tư pháp hiện đang lưu trữ tại các Sở Tư pháp;

- Thuận lợi trong việc thiết kế mô hình cung cấp, xử lý, sử dụng thông tin về lý lịch tư pháp giữa cơ quan quản lý lý lịch tư pháp với các cơ quan hữu quan (Công an, Toà án, Kiểm sát...);

Trong điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, theo ý kiến chúng tôi, ở mô hình này chúng ta cũng cần tiến hành từng bước. Tùy theo khối lượng công việc nhiều hay ít, các Sở Tư pháp có thể thành lập Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh hoặc Phòng lý lịch tư pháp để thực hiện chức năng quản lý lý lịch tư pháp. Thời kỳ đầu, việc xây dựng hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp có thể vẫn được tiến hành bằng phương pháp thủ công – nghĩa là lưu trữ bằng các phiếu, sổ sách. Sau đó, trên cơ sở công tác lý lịch tư pháp ở các địa phương đã đi vào nền nếp, chúng ta sẽ tiến hành từng bước việc tin học hoá hệ thống hồ sơ này.

4. Cơ chế cập nhật và cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp

4.1. Cơ chế cập nhật và cung cấp thông tin:

Về việc xác định cơ chế cập nhật thông tin và cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp, đã có 2 nhóm ý kiến khác nhau:

- Ý kiến thứ nhất cho rằng: Nơi nhận và lưu trữ thông tin về lý lịch tư pháp của một người là Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp tỉnh, thành phố nơi sinh của người đó. Các cơ quan này sẽ lưu trữ và thực hiện cấp lý lịch tư pháp về sau. Cách này được dùng trong công tác quản lý lý lịch tư pháp của chế độ cũ. Nó có điểm thuận lợi là mỗi một người chỉ có một nơi sinh và yếu tố này không thay đổi, có thể chọn làm điểm tiếp nhận thông tin, bảo đảm tập trung thông tin lý lịch tư pháp về người đó.

 Nếu thực hiện theo cách này, khi nhận được thông tin về lý lịch tư pháp của một người hoặc khi đương sự khai nơi sinh của mình tại một tỉnh, thành phố để xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp của tỉnh hoặc thành phố đó phải kiểm tra ngay lời khai đó là thực hay giả và phải xác định lại hộ tịch của người đó nếu gặp trường hợp đương sự khai gian. Để làm được điều này, trong chế độ cũ đã có một hệ thống quản lý hộ tịch tương đối ổn định, trên nguyên tắc một người được sinh ra sẽ được lập giấy khai sinh tại nơi sinh. Như vậy, nếu đương sự khai nơi sinh của mình, muốn xác minh lời khai chỉ cần tra sổ bộ khai sinh nơi đó. Cần lưu ý là trong chế độ cũ, cơ quan quản lý và cấp lý lịch tư pháp là Toà án đồng thời cũng là nơi lưu giữ sổ bộ khai sinh, do đó, việc tra sổ bộ khai sinh được thuận lợi hơn.

 Trên cơ sở pháp luật hiện hành của nhà nước ta, việc thực hiện theo cách này có khó khăn, vì:

 + Việc đăng ký khai sinh của một người được thực hiện tại nơi cư trú của người mẹ hoặc của người cha hoặc nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế vào thời điểm đăng ký khai sinh. Như vậy, nếu chọn Sở Tư pháp, nơi sinh của một người làm nơi nhận và lưu trữ thông tin lý lịch tư pháp của người đó thì sẽ khó thực hiện việc điều tra xác minh vì nhiều trường hợp nơi sinh và nơi khai sinh của đương sự là khác nhau.

 + Trong giấy chứng minh nhân dân hiện nay đang được lưu hành không ghi rõ các mục: sinh quán, vợ, chồng, để có thể làm căn cứ kiểm tra và cấp lý lịch tư pháp.

- Ý kiến thứ hai cho rằng: Thông tin về lý lịch tư pháp của một người sẽ được gửi cho Sở Tư pháp tỉnh, thành phố, nơi người đó có hộ khẩu thường trú (hoặc nơi đăng ký tạm trú đối với trường hợp không có nơi thường trú). Thực hiện cách này sẽ gọn nhẹ cho việc kiểm tra, vì từ trước đến nay việc quản lý cá nhân thông qua hộ khẩu gia đình là phổ biến (trong chứng minh nhân dân hiện hành cũng ghi rõ nơi thường trú). Khi nhận được thông tin về lý lịch tư pháp của một người hoặc khi đương sự khai nhận nơi thường trú để xin cấp lý lịch tư pháp, chỉ cần kiểm tra hộ khẩu (hay sổ tạm trú thay hộ khẩu) và giấy chứng minh nhân dân hiện hành.

 Tuy nhiên, thực hiện theo cách này cũng có điểm hạn chế là hộ khẩu thường trú của một người là yếu tố có thể thay đổi. Khi một người đã chuyển hộ khẩu đi tỉnh hay thành phố khác từ một lần trở lên, thì thông tin về lý lịch tư pháp của người đó không còn tập trung. Vì vậy, khi một người nộp đơn xin cấp lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp nơi thường trú của mình, nếu nơi thường trú đó đã thay đổi một lần trở lên thì cần phải tra cứu thêm thông tin tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố, nơi người đó đã từng cư trú trước đây thì mới có thông tin về lý lịch tư pháp của người đó một cách đầy đủ và chính xác.

Để đáp ứng yêu cầu quản lý lý lịch tư pháp trong điều kiện hiện nay, chúng tôi nhận thấy cần phải áp dụng công nghệ thông tin hiện đại và nên tập trung lưu trữ thông tin tại Bộ Tư pháp, đưa toàn bộ thông tin, tài liệu lưu trữ vào máy vi tính và nối mạng với Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để quản lý và làm cơ sở cho việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp (mô hình 1 như đã trình bày nêu trên). Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn về kỹ thuật, nhân lực cũng như thời gian. Trong giai đoạn trước mắt, để đáp ứng được các yêu cầu của quản lý nhà nước, nên áp dụng cơ chế cung cấp thông tin lý lịch tư pháp theo nơi cư trú. Bên cạnh đó, cần thiết có cơ chế phối hợp cung cấp thông tin, củng cố và sử dụng những cơ sở dữ liệu sẵn có của các ngành hữu quan (Công an, Toà án).

4.2. Cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp

 Xuất phát từ phạm vi quản lý của lý lịch tư pháp như đã phân tích ở trên, các Trung tâm lý lịch tư pháp sẽ thu nhận những thông tin, tài liệu sau đây:

b1. Các bản án, quyết định hình sự:

- Bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp;

- Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc Hội đồng tái thẩm huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án hoặc huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại;

- Quyết định thi hành án;

- Quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt (đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù);

- Quyết định miễn chấp hành hình phạt (toàn bộ hoặc phần còn lại);

- Quyết định tạm hoãn tạm đình chỉ chấp hành hình phạt;

- Quyết định chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp;

- Quyết định huỷ bỏ quyết định tạm hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt

- Quyết định xóa án tích;

- Quyết định đặc xá hoặc đại xá;

- Quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo;

- Quyết định kết thúc thi hành án (đối với việc thi hành hình phạt tiền và tịch thu tài sản)

- Quyết định của cơ quan thi hành án phạt tù cho ra trại sau khi đã chấp hành xong hình phạt tù và các hình phạt khác;

b2. Các bản án, quyết định về hành chính, dân sự:

- Quyết định trục xuất người nước ngoài;

- Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản;

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính quy định biện pháp xử lý hành chính là trục xuất hoặc quản chế hành chính;

b3. Các thông tin về lý lịch tư pháp của công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài.

Như vậy, chúng ta có thể thấy, các cơ quan phải cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp gồm có:

 a) Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án quân sự các cấp;

b) Bộ Công an;

c) Bộ ngoại giao (cơ quan lãnh sự Việt Nam tại nước ngoài) cung cấp thông tin về việc công dân Việt Nam vi phạm pháp luật ở nước ngoài;

d) Cơ quan thi hành án hình sự.

4.3. Cách thức cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp:

Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng việc cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp chỉ đơn giản là gửi các bản án hoặc quyết định (đã có hiệu lực thi hành) có chứa đựng các thông tin về lý lịch tư pháp cho Bộ Tư pháp.

Qua thảo luận, chúng tôi thấy rằng việc cung cấp thông tin bằng cách gửi nguyên văn các bản án hoặc quyết định (đã có hiệu lực thi hành, có chứa đựng các thông tin về lý lịch tư pháp) cho cơ quan quản lý lý lịch tư pháp là không hợp lý, có nhiều điểm bất lợi:

- Chỉ tính tại thành phố Hồ Chí Minh hoặc thành phố Hà Nội đã có hơn 20 Toà án (Toà án tối cao, Toà án thành phố, Toà án quận, huyện và các Toà án quân sự), mỗi ngày có thể ra hàng trăm bản án hoặc quyết định thuộc phạm vi quản lý lý lịch tư pháp. Nếu theo cách cung cấp thông tin như trên thì khối lượng văn thư chuyển đi rất lớn, tốn nhiều chi phí và khó khăn cho công tác lưu trữ.

- Điểm bất lợi thứ hai là nếu các cơ quan cung cấp thông tin bằng cách gửi nguyên bản án hoặc quyết định thì cơ quan quản lý lý lịch tư pháp phải lọc ra và chép lại những thông tin cần thiết. Như vậy sẽ tốn rất nhiều người để làm việc này và bộ máy cơ quan quản lý lý lịch tư pháp sẽ cồng kềnh, không phù hợp với chủ trương tinh giảm biên chế hiện nay.

Do đó, việc cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp của các cơ quan hữu quan cần phải được lập thành văn bản theo mẫu chung thống nhất và chỉ ghi những thông tin cần thiết, được gọi là Phiếu lý lịch tư pháp số 1 (sau đây gọi là Phiếu số 1).

Phiếu số 1 được lập theo cách thức sau đây:

- Phiếu số 1 được lập riêng cho từng cá nhân.

- Khi có bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực thi hành, có chứa đựng thông tin thuộc phạm vi quản lý lý lịch tư pháp, Toà án hoặc cơ quan thẩm quyền đã ra quyết định đó phải lập Phiếu số 1 theo mẫu, gửi cho Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh, nơi đương sự cư trú.

- Tại các Toà án, việc lập Phiếu số 1 nên giao cho một chuyên viên văn phòng chuyên trách thực hiện và phải trình Chánh Toà hay Chánh án phê duyệt trước khi gửi, bởi vì việc lập Phiếu số 1 là để quản lý, ghi nhớ những thông tin về tư pháp của một người, do vậy, phải do người có thẩm quyền xét duyệt và chịu trách nhiệm.

Tương tự, nếu là Phiếu số 1 ghi nhận về quyết định xử lý hành chính hoặc quyết định khác có chứa đựng thông tin thuộc phạm vi lý lịch tư pháp, thì cần được người đã ra quyết định phê duyệt.

- Thời hạn phải lập Phiếu số 1 để gửi đến cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cần được quy định rõ và phải phù hợp, tránh tình trạng khi cơ quan quản lý lý lịch tư pháp đã cấp phiếu xác nhận lý lịch tư pháp cho một người, ngay sau đó cơ quan này lại nhận được Phiếu số 1 về người đó, trong cùng một khoảng thời gian. Theo chúng tôi, thời hạn phải lập Phiếu số 1 để gửi đi nên quy định chậm nhất là 7 ngày làm việc kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.

- Việc lập và gửi Phiếu số 1 cần phải được ghi chú bên lề bản án hoặc quyết định có chứa các thông tin đó, để tạo một trật tự chung cho công tác này tránh xảy ra việc lập và gửi đi 2 lần Phiếu số 1 hoặc chưa lập và gửi đi Phiếu số 1 mà người có trách nhiệm không chủ động kiểm soát được.

4.4. Lưu trữ thông tin về lý lịch tư pháp:

Như đã phân tích ở trên, một yếu tố rất quan trọng khi xây dựng Hệ thống hồ sơ lý lịch tư pháp thống nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý lý lịch tư pháp. Nếu áp dụng cách này, các thông tin trên Phiếu số 1 sẽ được lưu trữ tại cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và được quản lý bằng hệ thống máy tính. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là bỏ qua việc lưu trữ tài liệu bằng văn bản. Ở đây cần xác định rõ việc lưu trữ tài liệu bằng văn bản là hệ thống lưu trữ chính, phải bảo đảm điều kiện vật chất: kho bãi, tủ, kệ đựng hồ sơ, con người trực tiếp quản lý bảo quản tài liệu lưu trữ, tránh mất mát, tiêu huỷ. Lưu trữ trên máy tính chỉ là phương tiện giúp chúng ta phân tích, tổng hợp thông tin và cấp phát lý lịch tư pháp dễ dàng, nhanh chóng.

- Lưu trữ bằng văn bản :

Trên nguyên tắc bảo vệ bí mật đời tư của công dân (điều 34 Bộ luật dân sự), trước tiên cần xác định các thông tin về lý lịch tư pháp của một người là những thông tin "mật", thể hiện quá khứ của một người có vi phạm pháp luật và bị xử lý. Do đó, các thông tin lý lịch tư pháp phải được lưu trữ, bảo vệ theo quy định của pháp luật. Chỉ những người có trách nhiệm mới được quyền khai thác, sử dụng thông tin này.

- Lưu trữ trên máy tính:

Để quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp bằng hệ thống máy vi tính, thì việc xây dựng phần mềm chuyên dụng quản lý là rất cần thiết. Việc lập trình để lưu trữ thông tin trên máy tính cũng theo nguyên tắc như lưu trữ bằng văn bản, tức là phải có các mục: họ và tên của đương sự; ngày tháng năm sinh đương sự; tên cha; mẹ, vợ hoặc chồng; số lượng phiếu thông tin lý lịch tư pháp đang lưu trữ; nội dung các phiếu đó (theo thứ tự thời gian và có thể theo loại án hình sự, dân sự, hành chính...).

- Theo nguyên tắc bảo vệ bí mật đời tư của công dân, việc mở các chương trình quản lý lý lịch tư pháp phải thông qua "mật mã".

-Trên mạng vi tính phải đặt ra chế độ riêng: Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố chỉ có thể khai thác thông tin mà không thể sửa đổi thông tin và không thể sao chép thông tin (vì ở phần trên đây, chúng tôi đã đề ra nguyên tắc phiếu thông tin lý lịch tư pháp phải được lưu trữ cẩn thận..., không được phép mang ra khỏi nơi lưu trữ).

 

4.5. Ghi chép và xử lý thông tin

4.5.1. Loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của người đã chết.

Việc quản lý tư pháp lý lịch của một người chỉ cần thiết khi người đó còn sống, tức là còn khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật. Đối với những người đã chết thì cần loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của người đó (nếu có) để hệ thống lưu trữ được gọn nhẹ. Về mặt lý thuyết, việc loại bỏ lý lịch tư pháp của những người đã chết có thể thực hiện như sau:

- Định kỳ hàng năm cơ quan lý lịch tư pháp căn cứ vào Sổ đăng ký khai tử được lưu trữ tại địa phương để tiến hành loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của những người đã chết.

- Việc loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của người đã chết có thể thực hiện được một cách nhanh chóng, triệt để nếu chúng ta kết hợp được công tác quản lý lý lịch tư pháp với công tác quản lý hộ tịch trên mạng vi tính.

4.5.2. Loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp ghi nhận một tội phạm đã được luật xoá bỏ.

Điều 7 khoản 3 Bộ luật hình sự quy định: "Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành". Do đó, trường hợp có điều quy định xoá bỏ một tội phạm thì thông tin lý lịch tư pháp ghi nhận về tội phạm đó, đang lưu trữ cũng cần loại bỏ.

5. Cấp Phiếu lý lịch tư pháp

Như phần trên đã trình bày, lý lịch tư pháp được hiểu là hồ sơ về phương diện tư pháp của một cá nhân. Tuỳ theo cơ quan hoặc cá nhân yêu cầu cấp Phiếu cũng như mục đích sử dụng của Phiếu lý lịch tư pháp, cơ quan quản lý lý lịch tư pháp có thể lập ra các loại Phiếu lý lịch tư pháp khác nhau.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, Phiếu lý lịch tư pháp được cấp cho người có yêu cầu nhằm xác nhận người đó có tiền án hay không. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy các cá nhân không chỉ muốn dùng lý lịch tư pháp để chứng minh cho đạo đức trong sạch của mình mà trong nhiều trường hợp, họ còn có nhu cầu chứng minh rằng mặc dù họ đã bị kết án và đã từng bị tước hoặc hạn chế thực hiện một số quyền nhất định, nhưng thời hạn tước hoặc hạn chế những quyền đó đã hết. Điều đó hết sức có ý nghĩa đối với công dân trong những trường hợp như xin việc làm, xuất cảnh, định cư ở nước ngoài, thành lập doanh nghiệp hoặc tham gia ứng cử, bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước.

Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, việc tìm hiểu quá khứ hình sự của một cá nhân là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Tuy nhiên yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng về các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp không chỉ giới hạn ở những thông tin ít ỏi về tình trạng tiền án của đương sự mà Toà án, Viện kiểm sát phải cần biết về việc người đó đã từng bị kết án và bị áp dụng biện pháp tư pháp cũng như quá trình chấp hành biện pháp tư pháp của họ để có cơ sở đánh giá về nhân thân của những người này, từ đó quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn và chế tài thích hợp. Hay các quyết định có liên quan phản ánh quá trình chấp hành hình phạt của đương sự cũng rất có ý nghĩa trong việc xác định thái độ chấp hành hình phạt và nhân thân của họ, các quyết định kết thúc thi hành án có giá trị trong việc xem xét một người đã có đủ điều kiện để được xoá án tích hay chưa?

Hay trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, ngoài những nội dung về tình trạng tiền án của đương sự, cơ quan đăng ký kinh doanh còn cần tìm hiểu những thông tin về người đó có đủ điều kiện thành lập và quản lý doanh nghiệp không? (như người này có thuộc trường hợp không được quyền thành lập doanh nghiệp, không được làm người quản lý doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản theo quy định của Luật phá sản).

Xuất phát từ những yêu cầu và mục đích sử dụng khác nhau, trong dự thảo Luật Lý lịch tư pháp, chúng tôi xin đề xuất về hai loại Phiếu lý lịch tư pháp được cấp cho từng đối tượng như sau:

- Phiếu lý lịch tư pháp số 2: (sau đây gọi là Phiếu số 2) được cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội khi có yêu cầu.

Phiếu số 2 là loại Phiếu do cơ quan lý lịch tư pháp xác lập trên cơ sở tổng hợp toàn bộ các Phiếu số 1 (Phiếu cung cấp thông tin lý lịch tư pháp do các cơ quan hữu quan gửi tới). Có thể nói, Phiếu số 2 là loại phiếu chứa đựng đầy đủ nhất các thông tin về lý lịch tư pháp của một cá nhân. Chính vì vậy, đối tượng được cấp Phiếu số 2 chỉ giới hạn ở một số cơ quan nhất định như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào mục đích yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội mà nội dung của Phiếu số 2 có thể được lược bớt.

Nội dung phiếu số 2 bao gồm: nhân thân (các yếu tố về hộ tịch) của đương sự và thông tin về tình trạng tư pháp của người đó: các bản án hình sự (đã được xoá án tích và chưa được xoá án tích); các quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, quyết định trục xuất, quản chế hành chính. Phiếu số 2 có thể được yêu cầu cung cấp bằng công văn, điện tín, fax, truyền đạt viễn thông hoặc thiết bị từ tính.

- Phiếu lý lịch tư pháp số 3: (sau đây gọi là Phiếu số 3):

Phiếu số 3 được cấp cho các cơ quan, tổ chức khác và cá nhân khi có yêu cầu.

Phiếu số 3 là một bản trích bộ phận của thông tin lý lịch tư pháp về một người cụ thể. Trong đó loại trừ một số thông tin như:

- Các án hình sự đã được xoá án tích;

- Các quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp đã hết hạn bị tước quyền theo quyết định.

          - Các quyết định xử phạt vi phạm hành chính có áp dụng các biện pháp: đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; trục xuất, quản chế hành chính đã hết 2 năm kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt.

Việc ghi án phạt vào phiếu số 3 có thể được cơ quan xét xử loại trừ khi được ghi ngay trong bản án (với mong muốn cho đương sự tái hoà nhập vào xã hội)./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐỀ XUẤT NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO

LUẬT LÝ LỊCH TƯ PHÁP

 

          Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;

          Luật này quy định về tổ chức, hoạt động lý lịch tư pháp.

 

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

 

          Điều 1. Lý lịch tư pháp

          Lý lịch tư pháp là lý lịch[10] (hồ sơ[11]) ghi nhớ những thông tin cơ bản trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án có thẩm quyền có nội dung hạn chế, cấm, tước quyền của cá nhân.

          Điều 2. Phạm vi điều chỉnh

      Luật lý lịch tư pháp quy định về nguyên tắc quản lý lý lịch tư pháp, tổ chức cơ quan quản lý lý lịch tư pháp, hồ sơ lý lịch tư pháp, cơ chế phối hợp cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp, thủ tục, trình tự cấp Phiếu lý lịch tư pháp và giải quyết khiếu nại tố cáo về lý lịch tư pháp. 

          Điều 3. Đối tượng quản lý của lý lịch tư pháp

1. Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam;

2. Công dân Việt Nam đang cư trú tại Việt Nam, đã có thời gian cư trú ở nước ngoài;

          3. Công dân Việt Nam hiện cư trú ở nước ngoài, đã có thời gian cư trú tại Việt Nam;

          4. Người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam.

          Điều 4.  Mục đích quản lý lý lịch tư pháp

Quản lý lý lịch tư pháp là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm hỗ trợ hoạt động tố tụng và quản lý nhà nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Điều 5. Nguyên tắc quản lý lý lịch tư pháp

          1. Việc cung cấp, tiếp nhận, xử lý các thông tin về lý lịch tư pháp của cá nhân phải đảm bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời.

2. Thông tin lý lịch tư pháp phải được lưu giữ, bảo vệ theo quy định của pháp luật.

3. Việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp phải bảo đảm chính xác, trung thực. Cơ quan quản lý lý lịch tư pháp chịu trách nhiệm về thông tin lý lịch tư pháp do mình cung cấp.

          4. Việc quản lý, sử dụng lý lịch tư pháp phải bảo đảm tôn trọng quyền bí mật đời tư của cá nhân và trên nguyên tắc tạo điều kiện cho cá nhân tái hoà nhập cộng đồng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải sử dụng thông tin lý lịch tư pháp đúng mục đích theo quy định của pháp luật.

Điều 6. Trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp

          Các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan nhà nước hữu quan có trách nhiệm phối hợp và cung cấp cho cơ quan quản lý lý lịch tư pháp các thông tin về lý lịch tư pháp thuộc lĩnh vực ngành mình quản lý.

          Điều  7. Quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp

          1. Cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội có quyền yêu cầu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp để phục vụ quá trình điều tra, truy tố, xét xử và phục vụ cho quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức mình.

2. Cơ quan, tổ chức khác có quyền yêu cầu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp nhằm phục vụ cho công tác nhân sự.

3. Cá nhân theo quy định tại Điều 3 Luật này có quyền yêu cầu cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp để sử dụng vào các mục đích theo quy định của pháp luật.

          Điều  8. Bảo vệ thông tin lý lịch tư pháp 

Những người có trách nhiệm theo quy định tại Luật này mới được quyền quản lý, cập nhật và khai thác thông tin lý lịch tư pháp.

          Điều 9. Nội dung quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp

          1. Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách về lý lịch tư pháp

2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về lý lịch tư pháp;

          3. Cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan đến  Phiếu lý lịch tư pháp;

4. Tổ chức, quản lý Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia; hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về lý lịch tư pháp;

          5. Thống kê về lý lịch tư pháp;

          6. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về lý lịch tư pháp.

7. Ban hành, và quản lý thống nhất các mẫu giấy tờ, sổ sách về lý lịch tư pháp;

8. Thống kê lý lịch tư pháp, tổng hợp và báo cáo Chính phủ về công tác lý lịch tư pháp trong phạm vi cả nước;  

9. Triển khai việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý lý lịch tư pháp;

10. Hợp tác quốc tế về lý lịch tư pháp.

          Điều 10. Trách nhiệm quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp

          1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp

2. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao thực hiện quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp. Cụ thể:

          3. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp.

          4.  Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp ở địa phương theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

5. Chính phủ, Toà án nhân dân Tối cao có trách nhiệm quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ công an, Bộ Ngoại giao và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Điều 11. Lệ phí lý lịch tư pháp

Việc quản lý và chế độ sử dụng lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp do Chính phủ quy định.

          Điều 12. Áp dụng điều ước quốc tế

          1. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

2. Trong trường hợp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt động lý lịch tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại, nhưng không trái pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.

 

Chương II

 CƠ QUAN LÝ LỊCH TƯ PHÁP

 

          Điều 13. Cơ quan lý lịch tư pháp

          Cơ quan lý lịch tư pháp bao gồm:

  1. Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.
  2. Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh.

          Điều 14. Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia

          1. Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tư pháp, có con dấu riêng, tài khoản riêng.

          2. Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

          a) Tiếp nhận, xử lý và lưu giữ thông tin về lý lịch tư pháp do Trung tâm lý lịch tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan hữu quan chuyển đến;

b) Tổ chức, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia;

c) Cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp cho Trung tâm lý lịch tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo quy định tại Luật này;

d) Cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Luật này.

đ) Thu lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp.                         

          Điều 15. Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh

1. Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh là đơn vị trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, tài khoản riêng.

2. Trung tâm lý lịch tư pháp cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

a) Tiếp nhận, xử lý và lưu giữ thông tin về lý lịch tư pháp trong phạm vi địa phương;

b) Cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia theo quy định tại Luật này;

c) Tổ chức và quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp tỉnh;

  1. Cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Luật này.

e) Thu lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

 

Chương III

TỔ CHỨC HỒ SƠ LÝ LỊCH TƯ PHÁP

 

          Điều 16. Hồ sơ lý lịch tư pháp

1. Hồ sơ lý lịch tư pháp được xác lập trên cơ sở thông tin tại các bản án, quyết định sau đây:

a) Bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp;

b) Quyết định hình sự giám đốc thẩm;

c) Quyết định hình sự tái thẩm;

d) Quyết định thi hành hình phạt tù;

đ) Quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù;

e) Quyết định miễn chấp hành hình phạt tù;

g) Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù;

h) Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù;

i) Quyết định xóa án tích;

k) Quyết định đặc xá, đại xá của Chủ tịch nước;

l) Quyết định của cơ quan thi hành án phạt tù cho ra trại sau khi đã chấp hành xong hình phạt tù và các hình phạt khác;

m) Quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự;

n) Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản;

o) Bản án, quyết định của Toà án có thẩm quyền của nước ngoài liên quan đến công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài.

          2. Hồ sơ lý lịch tư pháp được tổ chức và quản lý thống nhất tại Bộ Tư pháp và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Điều 17. Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp

1. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày bản án hoặc quyết định quy định tại điểm a đến điểm o Khoản 1 của Điều 13 của Luật này có hiệu lực pháp luật, các cơ quan ra bản án hoặc quyết định đó có trách nhiệm gửi bản án, quyết định đó cho Sở Tư pháp tỉnh, thành phố nơi đương sự đăng ký hộ khẩu thường trú. Trong trường hợp đương sự không có hoặc chưa có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nhưng có đăng ký hộ khẩu tạm trú có thời hạn theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ khẩu, thì các bản án, quyết định đó được gửi cho Sở Tư pháp tỉnh, thành phố, nơi đương sự đăng ký hộ khẩu tạm trú có thời hạn. 

2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông tin về lý lịch tư pháp của công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài, Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài lập Phiếu số 1 của đương sự gửi cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia - Bộ Tư pháp.

3. Chính phủ hướng dẫn thủ tục, trình tự cung cấp, tiếp nhận, xử lý thông tin lý lịch tư pháp.

          Điều 18. Tiếp nhận và xử lý thông tin lý lịch tư pháp

          1. Ngay sau khi nhận được các bản án, quyết định do các cơ quan chuyển đến theo quy định tại Điều 14 của Luật này, Sở Tư pháp có trách nhiệm lập Hồ sơ lý lịch tư pháp của đương sự trên cơ sở các bản án, quyết định nhận được.

Trường hợp một người đã có Hồ sơ lý lịch tư pháp trước đó, Sở Tư pháp phải tiến hành cập nhật thêm những bản án, quyết định mới. Nếu có nhiều bản án, quyết định về cùng một người, Sở Tư pháp phải ghi lần lượt các thông tin về lý lịch tư pháp của đương sự vào Hồ sơ lý lịch tư pháp theo thứ tự thời gian nhận được các bản án, quyết định đó.

2. Hồ sơ lý lịch tư pháp của cá nhân được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp quy định, ghi các nội dung sau:

a) Nhân thân của đương sự bao gồm các mục: Họ và tên; giới tính; ngày, tháng, năm sinh; nơi sinh; quốc tịch, dân tộc, nơi cư trú; số Giấy chứng minh nhân dân.

b) Tình trạng pháp lý của đương sự bao gồm các mục:

b1) Đối với bản án, quyết định hình sự: bao gồm tội danh, điều luật được áp dụng; hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp (nếu có), ngày tháng, năm tuyên án, Toà án đã tuyên bản án, tình hình thi hành án, việc xoá án tích (nếu đã được xoá án tích).

b2) Đối với các quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, bao gồm số, ngày, tháng năm, họ tên, chức vụ người ra quyết định, nội dung chính của quyết định, việc thi hành quyết định đó.                                                                               

3. Hồ sơ lý lịch tư pháp của cá nhân được lập thành hai bản, một bản gửi cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia - Bộ Tư pháp, một bản được sắp xếp, lưu trữ tại Sở Tư pháp theo quy định tại khoản 2 Điều 16.

4. Việc tiếp nhận và xử lý thông tin lý lịch tư pháp của công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều này.

          Điều 19. Bảo đảm tính pháp lý của các bản án, quyết định được gửi cho cơ quan lý lịch tư pháp

          Bản án, quyết định được gửi cho cơ quan lý lịch tư pháp phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật về hình thức văn bản (bản chính hoặc bản sao).

Đối với bản sao hoặc trích lục bản án, quyết định phải được người có thẩm quyền của cơ quan đơn vị ký xác nhận và đóng dấu của cơ quan đó.

Điều 20. Sắp xếp Hồ sơ lý lịch tư pháp

          1. Hồ sơ lý lịch tư pháp được quản lý, sắp xếp tại Bộ Tư pháp theo nguyên tắc và có hệ thống;

          2. Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết việc quản lý thông tin lý lịch tư pháp.

          Điều 21. Loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp

1. Loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của người đã chết:

          Hàng năm Trung tâm lý lịch tư pháp căn cứ vào Sổ đăng ký khai tử được lưu trữ tại địa phương để tiến hành loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp của những người đã chết.

2. Loại bỏ thông tin lý lịch tư pháp ghi nhận một tội phạm đã được luật xoá bỏ:

Các nội dung về hình sự trong Phiếu lý lịch tư pháp được loại bỏ khi một tội phạm được xoá bỏ theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự.

Điều 22. Cung cấp và trao đổi thông tin giữa cơ quan lý lịch tư pháp và cơ quan Công an

1. Cơ quan Công an có trách nhiệm cung cấp cho Cơ quan lý lịch tư pháp các thông tin sau đây:

a)Trích lục tiền án;

b)Kết quả xác minh nhân thân của cá nhân.

2. Cơ quan lý lịch tư pháp có trách nhiệm cung cấp các thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp cho cơ quan công an khi có yêu cầu.

 

Chương IV

CẤP PHIẾU LÝ LỊCH TƯ PHÁP

 

Mục I. Phiếu lý lịch tư pháp

 

          Điều 23. Phiếu lý lịch tư pháp

          1. Phiếu lý lịch tư pháp là loại Phiếu do Cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân theo quy định tại Điều 16 Luật này nhằm chứng minh về nhân thân tư pháp của cá nhân.

2. Phiếu lý lịch tư pháp bao gồm hai loại: Phiếu lý lịch tư pháp số 1 (sau đây gọi là Phiếu số 1) và Phiếu lý lịch tư pháp số 2 (sau đây gọi là Phiếu số 2)

Điều 24. Phiếu số 1

1. Phiếu số 1 là Phiếu do Cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp cho các cơ quan, tổ chức theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật này.

2. Phiếu số 1 là bản ghi toàn bộ các nội dung trong hồ sơ lý lịch tư pháp của cá nhân. Phiếu số 1 được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp quy định.

          Điều 25. Phiếu số 2

1. Phiếu số 2 là Phiếu do Cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 6 Luật này.

2. Phiếu số 2 là bản ghi những nội dung của Phiếu số 1, trừ những bản án, quyết định sau đây:

a) Án hình sự đã được xóa án tích;

b) Các quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản mà đương sự đã hết thời hạn bị cấm hoặc hạn chế quyền theo các quyết định này;

          3. Phiếu số 2 được lập theo mẫu do Bộ Tư pháp quy định.

 

Mục 1.  Cấp Phiếu số 1

          Điều 26. Yêu cầu cấp Phiếu số 1    

          Các cơ quan, tổ chức có yêu cầu cấp Phiếu số 1 phải chuyển yêu cầu bằng văn bản theo mẫu do Bộ Tư pháp quy định đến, Cơ quan quản lý lý lịch tư pháp, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của đối tượng cần xác minh lý lịch tư pháp. 

          Điều 27. Thời hạn cấp Phiếu số 1

          Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu cấp Phiếu số 1, Cơ quan quản lý lý lịch tư pháp phải tiến hành tra cứu, lập và chuyển Phiếu số 1 cho cơ quan có yêu cầu.

          Đối với trường hợp phức tạp cần phải tra cứu bổ sung tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia (Bộ Tư pháp) thì thời hạn này được kéo dài thêm không quá 7 ngày.

          Điều 28. Người ký và cấp Phiếu số 1

          Giám đốc Sở Tư pháp có thể uỷ quyền cho Trưởng phòng lý lịch tư pháp ký và cấp Phiếu số 1 cho cơ quan có yêu cầu.

 

 

 

 

 

Mục 2. Cấp Phiếu số 2

 

          Điều 29. Nộp đơn yêu cầu cấp Phiếu số 2

          1. Người yêu cầu cấp Phiếu số 2 là công dân Việt Nam cư trú ở trong nước thì nộp đơn yêu cầu tại Sở Tư pháp nơi đăng ký hộ khẩu thường trú; nếu đang cư trú ở nước ngoài thì nộp đơn yêu cầu tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.

          2. Người yêu cầu cấp Phiếu số 2 là người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam thì nộp đơn yêu cầu tại Sở Tư pháp, nơi đang cư trú; nếu đã rời Việt Nam thì nộp đơn yêu cầu tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.

          Điều 30. Yêu cầu cấp Phiếu số 2 qua uỷ quyền hoặc qua đường bưu điện

1. Người yêu cầu cấp Phiếu số 2 có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu số 2.

          2. Trong trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu số 2 không thể trực tiếp đến làm thủ tục hoặc không thể uỷ quyền cho người khác yêu cầu cấp Phiếu số 2 thì có thể yêu cầu Cơ quan quản lý lý lịch tư pháp cấp Phiếu số 2 qua đường bưu điện.

          Điều 31. Thủ tục yêu cầu cấp Phiếu số 2

          1. Người yêu cầu cấp Phiếu số 2 phải làm đơn theo mẫu do Bộ Tư pháp quy định. Kèm theo đơn yêu cầu phải có bản chụp Giấy chứng minh nhân dân và bản chụp Sổ hộ khẩu; đối với người nước ngoài thì nộp bản chụp Hộ chiếu và bản chụp Giấy chứng nhận thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam.

          Trong trường hợp không có đủ các giấy tờ nêu trên, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế.

          2. Trong trường hợp yêu cầu cấp Phiếu số 2 qua đường bưu điện thì người có yêu cầu phải gửi đơn và các giấy tờ nói tại khoản 1 Điều này tới Trung tâm lý lịch tư pháp để yêu cầu cấp Phiếu số 3.

          Điều 32. Thời hạn cấp Phiếu số 2

          Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu cấp Phiếu số 2 và các giấy tờ hợp lệ, Trung tâm lý lịch tư pháp phải tiến hành tra cứu, lập và cấp Phiếu số 2 cho đương sự.

          Điều 33. Người ký và cấp Phiếu số 2

          Giám đốc Trung tâm lý lịch tư pháp ký và cấp Phiếu số 2 cho đương sự.

 

Chương V

KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM

 

          Điều 34. Khiếu nại, tố cáo

          1. Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc từ chối cấp hoặc cấp Phiếu lý lịch tư pháp trái pháp luật.

          2. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thủ tục quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

          Điều 35. Xử lý vi phạm đối với người có thẩm quyền trong việc quản lý và cấp Phiếu lý lịch tư pháp

          Người có thẩm quyền trong việc quản lý lý lịch tư pháp do thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm trái các quy định của Pháp lệnh này trong việc khai thác và cấp các thông tin lý lịch tư pháp, thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

          Điều 36. Xử lý đối với cá nhân vi phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý lý lịch tư pháp

          Người nào lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc mạo danh người khác yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp trái với quy định của Pháp lệnh này, thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

 

Chương VI

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

         

Điều 37. Hiệu lực thi hành

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày      tháng     năm 200  .

Điều 38. Quy định chi tiết và h­ướng dẫn thi hành

Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết và h­ướng dẫn thi hành Luật này.



[1] Lý lịch tư pháp – NXB Chính trị Quốc gia, HN năm 1997 (tr 20)

[2] Tại Nhật Bản, hộ tịch gốc của một người căn cứ vào nơi sinh của người đó. Trong trường hợp một người chuyển nơi cư trú, thì hộ tịch cũng có thể thay đổi – chuyển đến nơi cư trú mới.

[3] Theo Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT của Bộ Tư pháp (năm 2006)

[4] Theo các Báo cáo về công tác quản lý và cấp lý lịch tư pháp của các tỉnh..

[5] Không có tiền án nói chung đối với trường hợp bổ nhiệm, hoặc không có tiền án về về tội sản xuất, buôn bán hàng giả, quảng cáo gian dối, kinh doanh trái phép đối với trường hợp là điều kiện kinh doanh, quản lý doanh nghiệp.

[6] Người được đề nghị chấp thuận làm Lãnh sự danh dự phải có chỗ ở hoặc nơi làm việc trong khu vực lãnh sự của cơ quan lãnh sự mà người đó dự kiến đứng đầu, đã cư trú hoặc làm việc ít nhất 01 năm trong khu vực lãnh sự, có lý lịch tư pháp rõ ràng, có khả năng về tài chính, không phải là Lãnh sự danh dự cho một nước ngoài khác tại Việt Nam

[7] Cơ quan Quốc gia LLTP của Cộng hòa Pháp, trung bình mỗi ngày cấp ra khoảng 20.000 thông tin cho các cơ quan và công dân (trong đó 35% được cấp cho Tòa án, cơ quan tư pháp 45% cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và 20% cấp cho người dân).

[8] Theo thống kê chưa đầy đủ, có khoảng gần 50 văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có nội dung liên quan đến yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

[9] Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2000-2005, có 160.672 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh - gấp 3,3 lần so với tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập giai đoạn 1991-1999

[10] Lý lịch: lai lịch và nói chung những điều cần biết về quá khứ của một người hay vật nào đó.

[11] Hồ sơ: những điều cần biết được liệt kê về quá khứ của người hay vật. Tài liệu có liên quan đến một người, một vật được tập hợp lại một cách hệ thống - Từ điển tiếng Việt

 

File đính kèm downloadTải về