• Thuộc tính
Tên đề tài Bình luận Pháp lệnh Thi hành án dân sự
Nội dung tóm tắt

Thi hành án dân sự là hoạt động làm cho các bản án, quyết định dân sự được thực hiện trên thực tế. Về bản chất, đó chính là làm cho các quyền và nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ về tài sản hoặc các loại nghĩa vụ dân sự khác) ghi nhận trong các bản án, quyết định dân sự được hiện thực hóa.  Phán quyết của Toà án được tuyên nhân danh Nhà nước, khi được chấp hành nghiêm chỉnh có tác dụng củng cố lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Điều 136 Hiến pháp 1992 đã khẳng định “Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thi hành án dân sự đã được ban hành và hoàn thiện đảm bảo khung pháp lý về tổ chức hoạt động và việc thực thi các phán quyết dân sự của Toà án. Năm 1989, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự; 4 năm sau, cùng với quyết định của Quốc hội chuyển giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân sang Chính phủ, Pháp lệnh năm 1989 đã được thay thế bởi Pháp lệnh Thi hành án Dân sự năm 1993 nhằm kịp thời thể chế hoá cơ chế mới thi hành án dân sự, tạo bước chuyển biến trong công tác thi hành án dân sự.

Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội và việc ban hành các văn bản luật khác nhau, cơ quan thi hành án đã được giao thêm các loại việc mới có tính đặc thù. Bên cạnh đó, việc thi hành Pháp lệnh thi hành án Dân sự năm 1993 cũng gặp một số vướng mắc trong các quy định về thủ tục, tổ chức và thẩm quyền cơ quan thi hành án, tỷ lệ các vụ án tồn đọng còn khá cao[1]. Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phải kể đến tình trạng hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và chưa hoàn thiện, tổ chức và biên chế của cơ quan thi hành án còn nhiều bất cập, chấp hành viên có trình độ chưa đồng đều...

Đáp ứng những yêu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật, Pháp lệnh thi hành án năm 2004 đã được ban hành và có hiệu lực từ 1 /7/2004, Pháp lệnh đã có những quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc, tồn đọng trong công tác thi hành án.

Hoạt động thi hành án có liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức và lợi ích vật chất của nhiều đối tượng khác nhau, bởi vậy, hoạt động thi hành án có tính phức tạp ngay từ tính chất nội tại và cả từ cách hiểu, cách nhìn nhận của xã hội. Để có cách hiểu đúng và đầy đủ nội dung của pháp luật về thi hành án việc nghiên cứu, phân tích, bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 được đặt ra như một nhu cầu tất yếu  trong quá trình vận động, phát triển của xã hội. Đây cũng là công việc hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay, khi mà chúng ta đang cố gắng hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự, đang cố gắng hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự cũng như hệ thống pháp luật nội dung nhằm tháo gỡ những vướng mắc, tồn đọng trong công tác thi hành án.

Từ trước đến nay, chúng ta đã có hoạt động nghiên cứu bình luận các văn bản pháp luật quan trọng như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật tố tụng Hình sự. Nghiên cứu bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự cũng là một công việc cần thiết trong việc nghiên cứu tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam.

MỤC TIÊU NGHIÊN CƯU CỦA ĐỀ TÀI

- Việc nghiên cứu bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự nhằm mục đích phục vụ cho việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, giúp cho việc áp dụng thống nhất pháp lệnh đưa pháp lệnh đi vào cuộc sống. Kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ được biên tập thành cuốn sách "Bình luận khoa học Pháp lệnh thi hành án dân sự" góp phần hiệu quả cho các mục đích trên.

- Việc bình luận Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 nhằm phát hiện ra những còn hạn chế của Pháp lệnh chẳng hạn như những quy định chưa được hướng dẫn cụ thể, những quy định chưa phù hợp, những vấn đề chưa được điều chỉnh, những vướng mắc trong quá trình thi hành và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự mà trước mắt là phục vụ cho việc xây dựng Bộ luật Thi hành án Dân sự dự kiến trình Quốc hội cuối năm 2005, thông qua vào giữa tháng 6/2006.

NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI

Để đạt được mục tiêu trên, nhóm nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu đề tài thông qua hệ chuyên đề sau:

PHẦN THỨ NHẤT- KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ gồm có  2 Chương: Chương I Một số vấn đề lý luận chung về thi hành án dân sự; Chương II Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự

PHẤN THỨ HAI- BÌNH LUẬN PHÁP LỆNH THI HÁNH ÁN DÂN SỰ 2004

- Mỗi Chương có một bài mũ đánh giá chung về vị trí vai trò và mục đích về lý luận cũng như thực tiễn của chương đó trong tổng thể làm cơ sở cho việc đi sâu vào nghiên cứu và bình luận từng điều luật trong chương. Ngoài ra cần giới thiệu khái quát về nội dung chính của chương, những điểm mới.

- Mỗi điều luật được phân tích đánh giá trên cơ sở khoa học pháp lý đảm bảo các yêu cầu:

+ Làm rõ nội hàm của các khái niệm, giải thích thuật ngữ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, tìm hiểu.

+ Phân tích mục đích và ý nghĩa của từng quy định

+ Phân tích nội dung điều luật, dẫn chiếu đầy đủ văn bản hướng dẫn thi hành và văn bản có liên quan. Việc phân tích, bình luận từng điều luật phải đặt trong mối liên hệ tổng thể của pháp lệnh thi hành án dân sự và hệ thống pháp luật

+ Phân tích điểm mới của điều luật: sự kế thừa, phát triển hoặc sửa đổi bổ sung, lý giải vì sao phải sửa đổi bổ sung  (nếu có)

+So sánh sự tương đồng- khác biệt giữa pháp luật Việt nam và quy định pháp luật các nước về vấn đề này  (nếu có thể).

PHẦN THỨ 3- MỘT SỐ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ:

Qua việc phân tích,bình luận các Chương điều của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và tìm hiểu thực tiễn thi hành các quy định của pháp lệnh, nhóm nghiên cứu đã tìm ra những điểm hạn chế của Pháp lệnh, những khó khăn vướng mắc phát sinh và nêu những kiến nghị hoàn thiện pháp thiện pháp luật về thi hành án.



[1] Theo số liệu của Cục Thi hành án Dân sự (Bộ Tư pháp) thì với 450.971 bản án kinh tế, dân sự phải thi hành có tới 173.078 bản án không có điều kiện thi hành, chiếm tỷ lệ 38,37%, trong số 61,63 % các bản án có điều kiện thi hành, năm 2003, các cơ quan thi hành án trên cả nước đã tổ chức thi hành được 89%

 

Nội dung toàn văn

PHẦN THỨ NHẤT: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Chương I Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật thi hành án dân sự. Ở chương này, đề tài đã nêu đặc trưng  của hoạt động thi hành án dân sự, các nguyên tắc thi hành án; Chính sách của Đảng và nhà nước về công tác thi hành án và  kinh nghiệm của các nước về thi hành án dân sự.

Chương II Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự. Chương  này gồm có hai mục:

Mục I- Pháp luật, tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự về thi hành án dân sự qua ba giai đoạn: Giai đoạn từ tháng 8 - 1945 đến năm 1989; Giai đoạn từ 1/1/1990 đến 30/6/1993; Giai đoạn từ 1/7/1993 đến nay.

Mục II- Quá trình xây dựng, quan điểm chỉ đạo và những điểm mới cơ bản của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004: Mục này đề cập đến sự cần thiết ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004; Quá trình chuẩn bị Dự án Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004; Các quan điểm chỉ đạo xây dựng Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004; Những điểm mới cơ bản của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.

PHẤN THỨ HAI: BÌNH LUẬN PHÁP LỆNH THI HÁNH ÁN DÂN SỰ 2004

  • Chương I Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 10)

Chương I của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 gồm 10 Điều quy định chung, có tính nguyên tắc chi phối toàn bộ các quy định khác trong Pháp lệnh thi hành án dân sự nói riêng và trong pháp luật về thi hành án dân sự nói chung.Cụ thể, Chương I Pháp lệnh thi hành án dân sự quy định phạm vi điều chỉnh; nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định dân sự; căn cứ để đưa ra thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; nguyên tắc tự nguyện thi hành án và cưỡng chế thi hành án; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân trong việc thi hành án; nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan đến việc thi hành án, đồng thời quy định nguyên tắc chung trong việc kiểm sát thi hành án.

Chương I có 4 điểm  mới cơ bản như:

  1. Quy định mở rộng phạm vi điều chỉnh (Điều 1): “Án dân sự” được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự không chỉ bao gồm những bản án, quyết định của Toà án mà còn bao gồm cả quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam, phán quyết liên quan đến tài sản trong bản án quyết định của toà hành chính, bản án, quyết định của Toà án về kinh tế (kinh doanh, thương mại) và phá sản doanh nghiệp.
  2. Ghi nhận quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành án (Điều 5);
  3. Ghi nhận nguyên tắc nhà nước khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án, các bên đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án (Điều 6)
  4. Quy định rõ quyền khiếu nại hoặc khởi kiện của người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án Điều 9)

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mới tiến bộ, Chương 1 còn một số vấn đề cần được hoàn thiện như:

1- Việc dùng thuật ngữ “bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực” tại Điều 3 là chưa chính xác, chưa bao hàm được nguyên tắc tôn trọng các bản án, quyết định dân sự tuy chưa có hiệu lực pháp luật nhưng theo quy định của pháp luật được thi hành ngay.

2- Biện pháp tự nguyện thi hành án được quy định tại Điều 6 Pháp lệnh nhưng chưa có cơ chế thật sự khuyến khích các chủ thể tự nguyện thi hành án, chẳng hạn như trình tự, thủ tục nhanh gọnkhi đương sự tự nguyện thi hành án, quy định việc tự nguyện thi hành quyết định về mặt dân sự trong bản án hình sự là một trong những căn cứ để người phạm tội được đặc xá sau một thời gian chấp hành hình phạt tù. Khoản 2 Điều 6 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định “có quyền thoả thuận với nhau...nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” là không còn phù hợp với thực tiễn giao dịch dân sự là công dân được làm những gì pháp luật không cấm.

3 - Chương này chưa có điều luật quy định về một số quyền, nghĩa vụ cơ bản của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

4 - Pháp luật về thi hành án chưa có qui định xử lý trong trường hợp án giám đốc thẩm, tái thẩm xử ngược lại với bản án có hiệu lực pháp luật đã được thi hành...

5 - Pháp luật về thi hành án hiện hành chưa có quy định riêng đối với việc thi hành án phá sản, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, thi hành án dân sự trong vụ án hình sự.

  • Chương II Cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên (từ Điều 11 đến Điều 17)

Chương II gồm có 7 điều quy định về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự (gồm có cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện, cơ quan thi hành án quân khu và tương đương); quyền hạn, trách nhiệm, tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương thứ VI (lần 2), Chương II-Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã có những qui định mới nhằm nâng cao trách nhiệm, quyền hạn của Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên; bổ sung qui định về việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ 5 năm; nâng cao tiêu chuẩn chấp hành viên đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới. Chương II cũng quy định của thể hơn về nhiệm vụ quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan thi hành án và chấp hành viên, phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền giữa Chấp hành viên và Thủ trưởng Cơ quan thi hành án (các Điều 12, 13,14,15,16)

Qua việc nghiên cứu quy định pháp luật về cơ quan thi hành án và chấp hành viên, nhóm nghiên cứu đã nêu quan điểm về một số vấn đề sau:

1- Về cơ cấu, tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện (Điều 11): Việc thành lập cơ quan thi hành án dân sự địa phương theo địa giới hành chính– lãnh thổ là chưa phù hợp về việc đầu tư cơ sở vật chất, về cường độ lao động...

2. Về việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ 5 năm (khoản 1 Điều 12):việc bổ sung quy định này nhằm chuẩn hoá đội ngũ cán bộ và phù hợp với nhiệm kỳ của các chức danh tư pháp khác. Nhóm nghiên cứu cho rằng việc quy định nhiệm kỳ bổ nhiệm đối với bất kỳ một chức danh tư pháp nào cũng sẽ trở thành rào cản đối với việc đảm bảo sự độc lập trong hoạt động của chức danh tư pháp đó, chính vì vậy, để đảm bảo sự độc lập của các Chấp hành viên trong quá trình thi hành án, cần phải tạo cho Chấp hành viên một tâm lý ổn định để thi hành nhiệm vụ. Chấp hành viên cần được bổ nhiệm suốt đời và cần tạo niềm tin rằng sẽ không có một cá nhân hay tổ chức nào có thể lợi dụng việc bình xét, tái bổ nhiệm Chấp hành viên để can thiệp vào quá trình thi hành án. Bên cạnh đó, mỗi lần bổ nhiệm chấp hành viên theo nhiệm kỳ mới cũng kéo theo hàng loạt vấn đề khác như phải thành lập Hội đồng, phải họp xét rất tốn kém về thời gian, tiền bạc cho ngân sách  nhà nước.

3. Về tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên (Điều 13): theo quy định người được bổ nhiệm chấp hành viên phải là người có trình độ cử nhân luật, được đào tạo nghiệp vụ thi hành án, có thời gian công tác pháp luật (ít nhất 4 năm, với Chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án cấp tỉnh thì phải có thời gian công tác pháp luật 10 năm hoặc đã làm chấp hành viên cấp huyện 5 năm), như vậy một người muốn được bổ nhiệm chấp hành viên ít nhất phải trải qua 9 năm kể từ khi bắt đầu học đại học chuyên  ngành luật. Nhóm tác giả cho rằng quy định tiêu chuẩn chấp hành viên như vậy là quá nặng nề trong bối cảnh nhiều địa phương đang thiếu chấp hành viên trầm trọng như hiện nay và cho rằng không cần đòi hỏi phải có trình độ cử nhân luật (có thể chỉ cần trình độ trung cấp) và chỉ cần quy định công tác trong lĩnh vực luật 2 -3 năm là đủ. Tham khảo kinh nghiệm của một số nước cho thấy tiêu chuẩn của chấp hành viên không quá cao như Việt nam, chẳng hạn theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, Chấp hành viên cơ quan thi hành án Bang (Sheerif) là người được tuyển chọn kỹ lưỡng, không có vấn đề về lý lịch tư pháp, có sức khoẻ tốt, có trình độ học vẫn tốt nghiệp trung học phổ thông, không giới hạn về độ tuổi, được đào tạo lần đầu là 28 tuần, hàng năm được tập huấn về những kiến thức pháp luật mới.

  • Chương III Thủ tục Thi hành án (từ Điều 18 đến Điều 36)

Chương III gồm có 19 điều, quy định những vấn đề chung về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự như trách nhiệm chuyển giao và giải thích bản án, quyết định của toà án, thời hiệu yêu cầu thi hành án,phí thi hành án, thẩm quyền ra quyết định thi hành án, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục uỷ thác, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, trả đơn yêu cầu thi hành án, thông báo về thi hành án, miễn giảm thi hành án... Có thể nói đây là phần nội dung quan trọng nhất, là chương "xương sống" của Pháp lệnh, thể hiện rõ nét những sửa đổi bổ sung các quy định về thi hành án dân sự cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, với tiến trình cải cách tư pháp và cải cách hành chính hiện nay.

Quy định về thủ tục thi hành án dân sự có 18 điểm mới cơ bản sau:

  1. Quy định rõ hơn về việc cấp bản án, quyết định của Tòa án (Điều 18)
  2. Bổ sung điều luật mới (Điều 19) quy định trách nhiệm của Toà án trong việc gửi các bản án quyết định cho cho cơ quan thi hành án, quy định trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải thích và làm sáng tỏ những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định của Toà án theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan thi hành án.
  3. Bổ sung quy định mới về phí thi hành án (Điều 20): người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án phải nộp phí thi hành án đối với khoản thi hành án có giá ngạch tính trên giá trị tài sản mà người đó thực nhận.
  4. Quy định rõ ràng và cụ thể về thẩm quyền ra quyết định thi hành án (Điều 21) của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp quân khu, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp huyện.
  5. Quy định cụ thể hơn và thu hẹp phạm vi các trường hợp cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án (Điều 22)
  6. Mở rộng phạm vi các trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu (Điều 23)
  7. Quy định chi tiết và chặt chẽ về việc ủy thác thi hành án (Điều 24) về nguyên tắc uỷ thác, về thẩm quyền ủy thác, về thủ tục uỷ thác
  8. Sửa đổi quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án không phân biệt là cá nhân hay tổ chức đều là ba năm và quy định rõ cách tình thời hiệu (Điều 25)
  9. Sửa đổi, bổ sung các trường hợp hoãn thi hành án (Điều 26) và quy định rõ ràng thời hạn thời hạn tiếp tục thi hành án.
  10. Thu hẹp phạm vi các trường hợp tạm đình chỉ thi hành án (Điều 27)
  11. Bổ sung và quy định rõ hơn về các trường hợp đình chỉ thi hành án (Điều 28) như: người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức bị giải thể không còn tài sản mà theo pháp luật thì nghĩa vụ không được chuyển giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; người phải thi hành án bị Tòa án tuyên bố phá sản hoặc có quyết định miễn thi hành án.
  12. Bổ sung quy định Thủ trưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định kết thúc việc thi hành án (Điều 30)
  13. Bổ sung quy định mới về chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án (Điều 31) phù hợp với các quy định của Bộ luật Dân sự.
  14. Bổ sung quy định về miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt (Điều 32).
  15. Bổ sung quy định mới về hỗ trợ tài chính để thi hành án đối với các cơ quan, tổ chức phải thi hành án hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp, không đủ khả năng thi hành án (Điều 32).
  16. Bổ sung quy định mới thông báo về thi hành án (Điều 34) theo hướng rộng rãi, công khai nhưng giản tiện, tiết kiệm.
  17. Bổ sung trường hợp tài sản bị tịch thu là “trang bị, phương tiện kỹ thuật quân sự” (Điều 35) cho phù hợp với thực tế xét xử của Tòa án.
  18. Bổ sung quy định mới về tiêu hủy vật chứng, tài sản (Điều 36) để đảm bảo tính pháp chế và thống nhất và là cơ sở pháp lý cho quá trình thực hiện.

Bên cạnh những điểm mới nêu trên, quy định về thủ tục thi hành án vẫn còn những điểm bất cập sau:

1. Khoản 2 Điều 19 chưa quy định rõ thời hạn "chuyển giao ngay” quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời cho cơ quan thi hành án.

2. Chưa có hướng dẫn chặt chẽ và đồng bộ về việc thu phí thi hành án dân sự (Điều 20) mà mới chỉ có hướng dẫn tạm thời của Cục Thi hành án dân sự, bên cạnh đó có những ý kiến cho rằng mức lệ phí 5% là cao và không phù hợp.

3. Điều 21 chưa quy định thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với:- Quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao;- Quyết định phạt tiền theo mức quy định trong quyết định bản án hình sự.

4. Quy định về thời hiệu thi hành án (Điều 25) là ba năm là quá ngắn trong trong một số trường hợp, nhất là với những vụ án phức tạp, có nhiều người được thi hành án hoặc tài sản phải thi hành có giá trị lớn, quy định về thời hiệu cũng không phù hợp với qui định về thời hiệu xác lập quyền sở hữu theo qui định của Bộ luật dân sự (đối với động sản là 10 năm, bất động sản là 30 năm) và không phù hợp với thông lệ quốc tế .

5. Về quy định Uỷ thác thi hành án dân sự (Điều 24): cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thi hành án như việc theo dõi, đôn đốc, thông báo kết quả uỷ thác chưa được quy định rõ.

6. Quy định về việc xác minh tài sản thi hành án (Điều 29) còn thể hiện tư tưởng bao cấp của Nhà nước đối với công việc của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.

7. Về chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án (Điều 31): pháp luật chưa công nhận quyền được thi hành các bản án bằng tiền có thể được chuyển nhượng như bất kỳ quyền nào khác theo quy định tại Bộ luật dân sự, cụ thể là người được thi hành án có quyền chuyển nhượng quyền cho bên thứ ba và sau đó bên thứ ba sẽ trở thành người có quyền năng như người được thi hành án (trừ trường hợp quyền lợi liên quan trực tiếp đến nhân thân người được thi hành án).

8. Về việc lập hồ sơ đề nghị Toà án có thẩm quyền xem xét việc miễn, giảm thi hành án (khoản 2 Điều 32): Theo quy định của Pháp lệnh Cơ quan thi hành án lập hồ sơ đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét việc miễn giảm thi hành án. Tuy nhiên, quy định này có điểm mâu thuẫn với Điều 268  và Khoản 2 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (xem trang 258).

9. Quy định về thẩm quyền xem xét, quyết định việc miễn, giảm thi hành án tại Điều 32 chưa phù hợp với quy định tại Điều 269 – Bộ luật tố tụng hình sự (xem trang 259)

10. Quy định về thẩm quyền của Chỉnh phủ trong việc hướng dẫn về điều kiện xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt và việc xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt tại Khoản 4 Điều 32 của Pháp lệnh là không phù hợp với khoản 3 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự (xem trang 260).

11. Khoản 1 Điều 34 chưa có quy định về chế tài dành cho người được thông báo nhưng cố tình không nhận thông báo thi hành án.

12. Điểm b khoản 2 Điều 34 chưa quy định khoảng thời gian niêm yết công khai bản chính thông báo tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn

13. Điểm b khoản 1 Điều 36 quy định tiêu huỷ các vật chứng, tài sản mà bản án, quyết định tuyên trả cho đương sự nhưng đương sự không nhận là không phù hợp với những tài sản có giá trị hoặc còn sử dụng được mà nên quy định sử dụng những tài sản đó vào mục đích công.

14. Chưa có hướng dẫn về nguồn kinh phí để thực hiện việc tiêu huỷ vật chứng, tài sản theo bản án, quyết định của Toà án theo quy định tại Điều 36.

  • Chương IV Cưỡng chế thi hành án (từ Điều 37 đến Điều 56)

Chương IV có 20 điều (từ Điều 37 đến Điều 56) quy định về cưỡng chế thi hành án gồm những nguyên tắc chung về cưỡng chế thi hành án; các biện pháp cưỡng chế nhằm thi hành nghĩa vụ thanh toán; biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ giao vật, giao nhà, giao quyền sử dụng đất; cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc hoặc cấm thực hiện hành vi nhất định.

Chương IV có 19 điểm mới cơ bản sau:

  1. Pháp lệnh đã dành riêng một điều luật quy định về các biện pháp cưỡng chế thi hành án (Điều 37)
  2. Sửa đổi quy định về chi phí cưỡng chế thi hành án (Điều 38) theo hướng không phải mọi chi phí cưỡng chế liên quan đến cưỡng chế thi hành án đều buộc người phải thi hành án chịu. Bên cạnh đó Chấp hành viên phải dự trù trước chi phí cưỡng chế thi hành án và được tạm ứng trước.
  3. Bổ sung quy định ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước có nghĩa vụ cung cấp thông tin cần thiết của người phải thi hành án theo yêu cầu của chấp hành viên (Điều 39)
  4. Về biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án (Điều 40): quy định mức khấu trừ tối đa là 30% (thấp hơn mức 50% quy định trước đây); bổ sung quy định việc khấu trừ phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của cả những người mà người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng; quy định thời hạn thực hiện việc chuyển tiền cho người được thi hành án không quá 7 ngày làm việc.
  5. Sửa đổi, bổ sung quy định về kê biên tài sản (Điều 41): trừ một số tài sản không được kê biên chấp hành viên có quyền kê biên mọi tài sản được coi là của người phải thi hành án, kể cả quyền sử dụng đất; bổ sung quy định quy định người được thi hành án hoặc chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc xác định quyền sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự; bổ sung quy định mới về nguyên tắc kê biên tài sản
  6. Bổ sung quy định về quyền khiếu nại của đương sự trong việc định giá tài sản đã kê biên (Điều 43)
  7. Bổ sung quy định trước khi thực hiện các thủ tục để bán tài sản, các đương sự có quyền thoả thuận về việc nhận tài sản để trừ tiền thi hành án (Điều 44)
  8. Sửa đổi, bổ sung quy định bảo quản tài sản kê biên (Điều 45)
  9. Quy định rõ ràng và cụ thể về biên bản kê biên, giao bảo quản tài sản (Điều 46)
  10. Sửa đổi, bổ sung quy định bán tài sản đã kê biên (Điều 47): quy định hai phương thức bán đấu giá tài sản đã kê biên, thay vì một phương thức như trước đây, và bổ sung một hình thức mới, hình thức bán không qua thủ tục bán đấu giá do chấp hành viên tiến hành;Sửa đổi bổ sung quy định về “chuộc lại” tài sản kê biên.
  11. Sửa đổi, bổ sung quy định xử lý tài sản kê biên không bán được (Điều 48) tài sản sẽ được định giá lại theo hướng giảm giá để tiếp tục bán đấu giá, mỗi lần giảm không quá 10% giá đã định và được phép giảm giá hai lần.
  12. Sửa đổi, bổ sung quy định chuyển giao quyền sở hữu tài sản, chuyển quyền sử dụng đất (Điều 49)
  13. Bổ sung quy định mới về giải tỏa việc phong tỏa, kê biên tài sản (Điều 50)
  14. Sửa đổi quy định thứ tự thanh toán tiền thi hành án (Điều 51): xác định thứ tự ưu tiên thanh toán áp dụng chung đối với toàn bộ số tiền thu được để thi hành án.
  15. Bổ sung quy định thanh toán tiền bán tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản được kê biên để bảo đảm thi hành án (Điều 52)
  16. Sửa đổi quy định cưỡng chế thi hành nghĩa vụ giao vật (Điều 53)
  17. Bổ sung và làm rõ hơn quy định cưỡng chế thi hành nghĩa vụ giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất (Điều 54)
  18. Bổ sung quy định cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc làm công việc nhất định theo bản án, quyết định của Tòa án ( Điều 55)
  19. Bổ sung quy định cưỡng chế thi hành nghĩa vụ không được làm công việc nhất định theo bản án, quyết định của Tòa án (Điều 56)

Bên cạnh những điểm mới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án nói trên vẫn còn một số tồn tại hạn chế trong quy định về cưỡng chế thi hành án:

1. Quy định về miễn, giảm chi phí cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 38 chỉ mới mang tính nguyên tắc, chưa có quy định cụ thể về mức xét miễn, giảm để Thủ trưởng cơ quan thi hành án căn cứ áp dụng.

2. Về biện pháp trừ vào tài khoản, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền (Điều 39): chưa có quy định về việc trừ vào doanh thu hàng ngày của người phải thi hành án và nghĩa vụ của trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán trong việc thực thi quyết định của cơ quan thi hành án.

3. Quy định về nguyên tắc kê biên tài sản của người phải thi hành án (Điều 41) còn bất hợp lý và chưa đề cập đến quyền thoả thuận của đương sự về tài sản được kê biên để đảm bảo thi hành án.

4. Về việc giải quyết trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản kê biên (khoản 5 Điều 41): pháp luật về tố tụng dân sự chưa có quy định thủ tục rút gọn để nhanh chóng xác định phần quyền sở hữu đối với tài sản kê biên, việc kháng cáo phán quyết của toà cũng cần phải được thực hiện theo thủ tục rút gọn.

5. Việc định giá qua Hội đồng (Điều 43) cũng có điểm hạn chế do có nhiều người tham gia vào việc định giá nhưng chỉ một mình Chấp hành viên là người chịu trách nhiệm. Điều 43  cũng chưa đề cập đến tránh nhiệm của Hội đồng định giá trong việc sai sót dẫn đến phải định giá lại.

6. Mức giảm giá 10% đối với tài sản kê biên không bán được để bán đấu giá lại (Điều 48) là quá thấp; chưa lường trước trường hợp chấp hành viên trả lại tài sản cho người phải thi hành án nhưng người phải thi hành án không chịu nhận lại tài sản.

7. Chưa có những quy định đặc thù về kê biên tài sản thuộc sở hữu doanh nghiệp

8. Điều 49 chưa quy định thời hạn cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua người nhận tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật..

9. Điểm c khoản 1 Điều 51 chưa quy định ưu tiên thanh toán đối với khoản bồi thường tổn thất về tinh thần.

10. Về quy định việc xử lý hậu quả trong trường hợp vật phải trả lại không còn (Điều 53): bước đầu áp dụng trên thực tế cho thấy, quy định mới chỉ mang tính nguyên tắc, để thực hiện được biện pháp này cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn.

11. Về việc cưỡng chế thi hành nghĩa vụ chuyển quyền sử dụng đất (Điều 54): Điều 29 Nghị định 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án lại mới chỉ có quy định về cưỡng chế giao quyền sử dụng đất cho người trúng đấu giá hoặc người nhận quyền sử dụng đất đã kê biên, đấu giá để thi hành nghĩa vụ thanh toán mà không có quy định cụ thể về thủ tục cưỡng chế giao quyền sử dụng đất (trả đất) mà bản án, quyết định của Toà án tuyên buộc người phải thi hành án thực hiện. Điều 54 cũng chưa giải quyết hết những vấn đề phát sinh trong thực tế thi hành án trả nhà, chuyển quyền sử dụng đất như cưỡng chế giao nhà nhưng nhà đã được đương sự cải tạo, sửa chữa, cưỡng chế chuyển quyền sử dụng đất nhưng trên đất có tài sản, có nhà ở…

  • Chương V Quản lý Nhà nước về thi hành án Dân sự (từ Điều 57 đến Điều 58)

Chương V Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự là Chương mới của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, gồm có 2 điều với những quy định phân định rõ ràng, cụ thể hơn nội dung, trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp và Uỷ ban nhân dân các cấp, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức, bộ máy của cơ quan thi hành án dân sự, giảm bớt khâu trung gian trong quản lý, xác định rõ mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án với cơ quan thi hành án để đảm bảo tính khoa học, chặt chẽ trong quản lý.

Điều 57 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã khẳng định rõ Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước và Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Điều 58 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lý thi hành án ở địa phương.

Trong quá trình thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành án dân sự cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân do mô hình quản lý chưa phù hợp, đây là vấn đề lớn đã được đặt ra trong nhiều đề tài nghiên cứu và trong quá trình xây dựng Bộ luật thi hành án.

  • Chương VI Khiếu nại, tố cáo và kháng nghị về thi hành án dân sự (từ Điều 59 đến điều 66)

Chương VI Pháp lệnh đã quy định cơ chế kiểm tra, giám sát đối với hoạt động thi hành án dân sự thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và thực hiện quyền kháng nghị của Viện kiểm sát đối với các quyết định, hành vi của Thủ trưởng, Chấp hành viên Cơ quan thi hành án dân sự. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nói chung và các đương sự trong quá trình thi hành án nói riêng kịp thời phát hiện những quyết định, hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng, Chấp hành viên Cơ quan thi hành án và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình; nâng cao trách nhiệm của Cơ quan thi hành án trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, trả lời kháng nghị và góp phần đảm bảo thực thi có hiệu quả Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.

  So với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, quy định về khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án tại Điều 59 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 có 6 điểm mới cơ bản sau:

  1. Điều 59 đã xác định rõ phạm vi chủ thể có quyền khiếu nại  không chỉ là người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan mà cả người có nghĩa vụ liên quan; bổ sung đối tượng bị khiếu nại là quyết định của chấp hành viên khi có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; bổ sung quy định về thời hạn khiếu nại.
  2. Điều 60 bổ sung quy định về thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong trường hợp cần thiết được xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp tỉnh và Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp; tăng thời hạn giải quyết khiếu nại lần thứ hai trong trường hợp vụ việc phức tạp; bổ sung quy định người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tạm ngừng thi hành án trong thời gian giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy việc thi hành án ảnh hưởng đến việc giải quyết khiếu nại.
  3. Điều 61 sửa đổi quy định về thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại về thi hành án trong quân đội.
  4. Điều 62 bổ sung quy định hình thức giải quyết và trả lời khiếu nại phải được thể hiện dưới hình thức văn bản là Quyết định giải quyết khiếu nại.
  5. Điều 64 bổ sung quy định về thời hiệu kháng nghị các quyết định về thi hành án.
  6. Điều 65 quy định rõ hơn về trường hợp cơ quan thi hành án có quyết định bị kháng nghị nhưng không nhất trí với kháng nghị của Viện kiểm sát. Việc kết luận về các quyết định hoặc hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên là thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp trên.

Bên cạnh những điểm mới nói trên, Chương VI còn một số điểm hạn chế:

1. Điều 59 quy định phạm vi, đối tượng bị khiếu nại là Thủ trưởng, Chấp hành viên nhưng cơ quan thi hành án còn có các cán bộ, công chức khác (như thẩm tra viên, chuyên viên, kế toán) và khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, những cán bộ, công chức này cũng có thể có hành vi trái pháp luật nhưng lại chưa được pháp lệnh quy định là đối tượng bị khiếu nại..

2. Về thời hạn giải quyết khiếu nại về thi hành án (Điều 60) là quá ngắn.

3. Quyết định giải quyết khiếu nại (Điều 62) chưa thể hiện chế tài trách nhiệm cá nhân của Thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc Chấp hành viên đối với những trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên ra quyết định hoặc có hành vi sai trái.

4. Về việc gửi quyết định thi hành án cho cơ quan kiểm sát (khoản 4 Điều 34 và Điều 64) theo qui định của Điều 34 thì Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện chỉ phải gửi các quyết định về thi hành án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, trong khi đó, theo Điều 64 thì để Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh xem xét và thực hiện được quyền kháng nghị của mình, Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện còn phải gửi các quyết định về thi hành án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Như vậy quy định giữa hai điều này còn có sự "chênh" nhau.

  • Chương VII Khen thưởng và xử lý vi phạm (từ Điều 66 đến Điều 67): Việc quy định khen thưởng và xử lý vi phạm thể hiện sự minh bạch, công khai, dân chủ, công bằng của chính sách, pháp luật trong việc khuyến khích, bảo vệ, tôn vinh, đãi ngộ đối với những người tuân thủ pháp luật, có nhiều thành tích và phê phán, lên án, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự; thể hiện sự thưởng, phạt nghiêm minh; góp phần tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng, Chấp hành viên, cán bộ, công chức Cơ quan thi hành án và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
  • Chương VII: điều khoản thi hành (Điều 68 đến Điều 70): Chương này gồm có ba điều quy định về thời điểm có hiệu lực, phạm vi hiệu lực của Pháp lệnh và quy định thẩm quyền của Chính phủ trong việc hướng dẫn thi hành pháp lệnh.

PHẦN THỨ 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Qua việc phân tích bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự, tìm hiểu những điểm hạn chế của pháp luật, vướng mắc trong công tác thi hành, ngoài những vấn đề phát hiện được đã được tiếp thu trong Bộ luật thi hành án, nhóm nghiên cứu xin nêu những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự (gồm 11 vấn đề lớn trong đó có 49 kiến nghị) như sau:

Thứ nhất, pháp luật về thi hành án dân sự cần thể hiện rõ quan điểm về vai trò của nhà nước trong công tác thi hành án dân sự (nhà nước đóng vai trò là người có trách nhiệm bảo hộ tới cùng quyền lợi của công dân, tổ chức hay là người thực hiện dịch vụ công): Dự thảo 10 Bộ luật thi hành án đã dành một điều trong phần những quy định chung và một chương riêng quy định về xã hội hoá hoạt động thi hành án. Tuy nhiên, để thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động thi hành án đòi hỏi phải có cơ chế đồng bộ như có những biện pháp khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ trong thời gian đầu đối với cá nhân, tổ chức thực hiện công việc nhận giữ tài sản tài sản thi hành án, tư vấn thi hành án, dịch vụ cung cấp thông tin xác minh tài sản thi hành án. Đối với quy định về nhận giữ tài sản thi hành án cần đề cao nguyên tắc tự thoả thuận của người giao và nhận giữ tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, chẳng hạn việc khai thác hoa lợi, khai thác công dụng tài sản có thể do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của Bộ luật dân sự...Bên cạnh đó, một số quy định của Dự thảo Bộ luật thi hành án cần được cân nhắc tính phù hợp chẳng hạn như quy định về trách nhiệm Chấp hành viên trong việc “xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án”, Chấp hành viên phải chuyển giao thông báo về thi hành án tới tận tay đương sự, xác minh đương sự không có tài sản để thi hành án... vẫn còn mang tư duy bao cấp của nhà nước. Mặt khác cần hạn chế sự can thiệp quá sâu của Chính quyền vào hoạt động thi hành án dân sự, nhất là những vụ án liên quan đến kê biên tài sản của doanh nghiệp nhà nước.

Thứ hai, pháp luật về thi hành án dân sự cần tạo cơ chế thực sự hiệu quả để cơ quan thi hành án thực hiện tốt nhiệm vụ thi hành án: pháp luật cần tạo vị trí độc lập của cơ quan thi hành án trong hệ thống tổ chức chính quyền; quy định về việc bổ nhiệm chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án các cấp cũng phải sửa đổi để tạo tính độc lập cho các chức danh này; thẩm quyền của Chấp hành viên trong tác nghiệp cần được bổ sung để đảm bảo cho hiệu quả của công việc. Để giải quyết những vấn đề trên pháp luật về thi hành án cần được hoàn thiện theo hướng:

- Tập trung trách nhiệm về thi hành án dân sự thuộc về một cơ quan là cơ quan thi hành án dân sự.

- Trao thêm một số quyền năng để đảm bảo cho Chấp hành viên thực thi tốt nhiệm vụ như: thẩm quyền tạm giữ người cản trở hoặc định cản trở việc thi hành án và quyền khởi tố đối với hành vi chống lại việc thi hành án; quyền sử dụng những công cụ hỗ trợ thi hành án; quyền ra vào nhà ở hoặc bất động sản cần thiết để thi hành án; thẩm quyền xử lý tài sản kê biên trong những trường hợp nhất định (như không thể tổ chức bán đấu giá tài sản, tài sản dễ hư hỏng...) cùng với quyền chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua; quyền yêu cầu cho cá nhân, tổ chức (ngân hàng, cơ quan nhà nước..) thực hiện hoặc không thực hiện một số công việc cần thiết để thi hành án.

- Phân bổ nguồn nhân lực và tài chính cho công tác thi hành án một cách hợp lý, tỷ lệ thuận với số vụ việc phải thi hành.

- Cục trưởng Cục thi hành án dân sự và thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Thứ ba, về vai trò của Toà án trong hoạt động thi hành án dân sự cần có sự gắn kết, hỗ trợ. Pháp luật về thi hành án cần phải quy định về trách nhiệm và quyền hạn của Toà án theo hướng:

- Toà án có trách nhiệm trong việc hỗ trợ cơ quan thi hành án, người được thi hành án trong việc yêu cầu người phải thi hành án, người có nghĩa vụ về tài sản đối với của người phải thi hành án  kê khai đúng về giá trị tài sản, địa điểm có tài sản, toà có thẩm quyền buộc trả lời và chế tài thích đáng cho hành vi không thực hiện yêu cầu này.Việc kiểm tra có thể thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào thẩm phán thấy cần thiết (trong thời gian giải quyết vụ việc, trước hoặc sau khi ra phán quyết)

- Các quy định về tội danh “không thực hiện bản án” trong Bộ luật Hình sự cần được thực thi nghiêm để đảm bảo pháp chế và tác dụng răn đe đối với xã hội. Toà án có thẩm quyền xử lý nghiêm hành vi không chấp hành bản án, hành vi này được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm cả trước, trong khi và sau khi toà án ra phán quyết, việc cố ý tẩu tán tài sản ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình xét xử, thi hành án đều phải bị áp dụng chế tài thích đáng.

- Toà đã ra bản án, quyết định có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung bản án, quyết định trong trường hợp có sai sót về kỹ thuật soạn thảo.

- Trước khi ra phán quyết, Toà án có thẩm quyền ra quyết định cần thiết nhằm bảo quản tài sản của bị đơn có nguy cơ bị tẩu tán để đảm bảo tính khả thi cho công tác thi hành án sau khi ra phán quyết (chẳng hạn Toà có thể ra quyết định kê biên tài sản doanh nghiệp giao cho người khác quản lý trước khi có bản án cuối cùng; quyết định thu tài sản của đương sự chuyển cho bên thứ ba quản lý trong thời gian giải quyết; quyết định cấm tiết lộ thông tin bí mật; quyết định cấm sử dụng nhãn hiệu hàng hoá...)

Thứ tư, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 cần có cơ chế khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án theo hướng cần có một chương riêng quy định trình tự, thủ tục nhanh gọn tạo điều kiện cho đương sự tự nguyện thi hành án;  quy định việc hoà giải, khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án là trách nhiệm của Chấp hành viên trong suốt quá trình thi hành án; quy định ở văn bản luật việc tự nguyện thi hành quyết định về mặt dân sự trong bản án hình sự là một trong những căn cứ để người phạm tội được đặc xá sau một thời gian chấp hành hình phạt tù...

Thứ năm, xây dựng hệ thống pháp luật nội dung đầy đủ, hoàn chỉnh để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án: trong thời gian tới hệ thống văn bản pháp luật về đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ chế kiểm soát tình trạng vốn, tài sản, thu nhập doanh nghiệp, cá nhân có đăng ký kinh doanh, chế độ kế toán thống kê...cần được xây dựng và hoàn thiện.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 cho phù hợp với thực tế:

- Về nhiệm kỳ của Chấp hành viên (khoản 1 Điều 12): cho rằng cần xem xét bỏ quy định về nhiệm kỳ Chấp hành viên là 5 năm nhằm đảm bảo sự độc lập trong hoạt động của Chấp hành viên theo định hướng của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 49-NQ/TW "tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn";

- Về tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên (điều 13): sửa đổi yêu cầu chấp hành viên phải có trình độ cử nhân luật thành có trình độ trung cấp pháp lý hoặc cử nhân luật và chỉ cần quy định công tác trong lĩnh vực luật 2 -3 năm là đủ[1].

- Về phí thi hành án (điều 20): xem xét hướng dẫn cụ thể về việc thu phí thi hành án, quy định lại mức thu phí thi hành án theo hướng những vụ có giá trị lớn thì mức thu có thể giảm thấp hơn mức 5%, người được thi hành án tạm nộp phí thi hành án nhưng người phải thi hành án là người chịu khoản này.

- Quy định việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án (Điều 31)được chuyển nhượng như bất kỳ quyền nào khác theo quy định tại Bộ luật dân sự.

- Về thẩm quyền xem xét, quyết định việc miễn, giảm thi hành án (Điều 32): Nên giao cho Cơ quan thi hành án chủ động quyết định việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp trong những trường hợp: đối với những việc thi hành án có khoản tiền phải thi hành án về án phí và tiền phạt có giá ngạch dưới 100.000 đồng hoặc không có giá ngạch.

- Quy định về việc tiêu huỷ vật chứng, tài sản mà bản án, quyết định tuyên trả cho đương sự nhưng đương sự không nhận (điểm b khoản 1 Điều 36) cần được sửa đổi theo hướng nếu những tài sản còn giá trị hoặc còn sử dụng được thì không tiêu huỷ mà sử dụng vào mục đích công.

-Về nguyên tắc kê biên tài sản của người phải thi hành án (Điều 41): Đề nghị bổ sung quy định "Trong trường hợp tài sản riêng là bất động sản, tài sản chung là động sản mà phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung đó sau khi phân chia đủ để thi hành án thì vẫn có thể kê biên tài sản chung trước" và "người phải thi hành án có quyền thoả thuận với người được thi hành án về tài sản được kê biên để đảm bảo thi hành án"[2].

- Về việc định giá tài sản đã kê biên qua Hội đồng định giá (Điều 43): nghiên cứu việc thuê hay uỷ quyền cho tổ chức có chức năng, có chuyên môn tiến hành định giá tài sản mà không cần lập Hội đồng cũng như không cần sự tham gia của Chấp hành viên.

-Về thời hạn giải quyết khiếu nại về thi hành án (Điều 60): cần quy định thời hạn giải quyết khiếu nại theo hướng tăng thêm tương ứng đối với từng trường hợp là 15 đến 30 ngày để đảm bảo hiệu quả giải quyết khiếu nại về thi hành án.

- Về việc gửi các quyết định về thi hành án cho Viện Kiểm sát nhân dân (khoản 4 Điều 34): cần sửa đổi theo hướng các quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên.

Thứ bảy, bổ sung thêm những quy định mới nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về thi hành án và làm căn cứ pháp lý giải quyết những vấn đề phát sinh trên thực tế:

- Các điều luật quy định về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan[3];

- Qui định xử lý trong trường hợp án giám đốc thẩm, tái thẩm xử ngược lại với bản án có hiệu lực pháp luật đã được thi hành...;

- Quy định riêng đối với việc thi hành án phá sản, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, thi hành án dân sự trong vụ án hình sự[4];

- Quy định các phương thức xử lý linh hoạt đối với việc kê biên tài sản doanh nghiệp;

- Về thứ tự thanh toán tiền thi hành án: bổ sung khoản tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần[5];

- Quy định thủ tục rút gọn trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản kê biên (khoản 5 Điều 41)

- Bổ sung đối tượng bị khiếu nại về thi hành án (Điều 59) là hành vi trái pháp luật của những cán bộ, công chức khác của cơ quan thi hành án (ví dụ: hành vi không lập chứng từ thu chi tiền thi hành án của kế toán cơ quan thi hành án…);

- Về nội dung của Quyết định giải quyết khiếu nại về thi hành án (Điều 62) và chế tài trách nhiệm cá nhân của Thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc Chấp hành viên.

Thứ tám, cụ thể hoá các quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 hoặc có văn bản hướng dẫn rõ ràng các vấn đề sau:

- Quy định rõ ràng khoảng thời gian "chuyển giao ngay” quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời cho cơ quan thi hành án (khoản 2 Điều 19)[6];

- Về quy định hoãn thi hành án dân sự (Điều 26): cần quy định rõ trong trường hợp Viện kiểm sát hoặc Toà án yêu cầu hoãn thi hành án để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, khi đã hết thời hạn 90 ngày có kháng nghị tiếp hay không phải có văn bản gửi đến cơ quan thi hành án dân sự, nếu không hậu quả sau đó sẽ do cơ quan yêu cầu hoãn thi hành án chịu trách nhiệm giải quyết.

-  Quy định chi tiết về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thi hành án như việc theo dõi, đôn đốc, thông báo kết quả uỷ thác một cách hợp lý để đảm bảo hiệu quả của công tác thi hành án (Điều 24);

- Trách nhiệm phối hợp của chính quyền địa phương trong quá trình xác minh tài sản của người phải thi hành án (thông qua các cơ quan tư pháp xã, phường và có kinh phí hỗ trợ) nhằm giúp cho hoạt động thi hành án được tiến hành một cách thuận lợi hơn (Điều 32);

- Về chế tài trách nhiệm của người được thông báo nhưng cố tình không nhận thông báo thi hành án  (khoản 1 Điều 34);

- Về thời gian niêm yết thông báo về thi hành án tại trụ sở uỷ ban nhân dân xã phường thị trấn (điểm b khoản 2 Điều 34);

- Về thời hạn gửi thông báo về thi hành án (Điều 34);

- Về nguồn kinh phí để thực hiện việc tiêu huỷ vật chứng, tài sản theo bản án, quyết định của Toà án (Điều 36);

- Về mức xét miễn, giảm chi phí cưỡng chế thi hành án (Điều 38);

- Về tránh nhiệm của Hội đồng định giá trong việc sai sót dẫn đến phải định giá lại (Điều 43);

- Về trách nhiệm thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, chuyển quyền sử dụng đất (Điều 49);

- Về quy định việc xử lý hậu quả trong trường hợp vật phải trả lại không còn (Điều 53)

Thứ chín, xem xét tính phù hợp, đồng bộ của một số quy định trong Pháp lệnh  thi hành án dân sự với các văn bản pháp luật khác:

- Quy định về thời hiệu thi hành án là 3 năm (Điều 25 Pháp lệnh) với qui định về thời hiệu xác lập quyền sở hữu theo qui định của Bộ luật dân sự (đối với động sản là 10 năm, bất động sản là 30 năm) và thông lệ quốc tế [7];

-  Về việc lập hồ sơ đề nghị Toà án có thẩm quyền xem xét việc miễn, giảm thi hành án (khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh) với quy định tại Điều 268, Điều 269– Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật hình sự;

- Về thẩm quyền xem xét, quyết định việc miễn, giảm thi hành án (Điều 32 Pháp lệnh) với quy định tại Điều 269 – Bộ luật tố tụng hình sự;

- Quy định "đối tượng, điều kiện xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt và việc xét miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt đó do Chính phủ quy định"  (Khoản 4 Điều 32 Pháp lệnh) với khoản 3 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự vì về thủ tục miễn hoặc giảm hình phạt, trong đó có hình phạt tiền.

Thứ mười, sửa đổi một số thuật ngữ cho chính xác như sửa quy định “bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực” (Điều 3) thành "bản án quyết định dân sự có hiệu lực thi hành"

Thứ mười một, một số hướng dẫn áp dụng pháp luật cần được thể hiện ở văn bản có giá trị pháp lý cao: những công văn của hướng dẫn nghiệp vụ của Cục thi hành án dân sự- Bộ Tư pháp (Công văn số 135/TP-THA, Công văn số 404/TP-THA) có chứa đựng các quy phạm pháp luật cần được thể hiện ở hình thức pháp lý cao hơn cho phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

------------------------------------------------------------------------

 

 



[1] Điều 150 Dự thảo Bộ luật thi hành án (dự thảo 10) vẫn giữ nguyên quy định về tiêu chuẩn của chấp hành viên nhưng nhóm nghiên cứu cho rằng quy định về tiêu chuẩn chấp hành viên là chưa phù hợp với thực tế

[2] Dự thảo Bộ luật thi hành án (Dự thảo 10) đã bổ sung quy định về nguyên tắc kê biên tài sản tại Khoản 2 Điều 80

[3] Dự thảo Bộ luật thi hành án (Dự thảo 10) đã bổ sung các điều về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại các Điều 44, 45, 46

[4] Dự thảo Bộ luật thi hành án (Dự thảo 10) đã bổ sung quy định việc thi hành án phá sản, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, thi hành án dân sự trong vụ án hình sự tại các điều từ Điều 57 đến 71

[5] Điều 98 Dự thảo Bộ luật thi hành án (Dự thảo 10) đã bổ sung quy định ưu tiên thanh toán tiền bồi thường tổn thất về tinh thân ngang bằng với thứ tự bồi thường thiệt hại về tính mạng sức khoẻ

[6] Điều 35 Dự thảo Bộ luật thi hành án (Dự thảo 10) đã bổ sung quy định này theo hướng "chuyển giao ngay trong thời gian 72 tiếng"

[7] Khoản 1 Điều 25 của Dự thảo Bộ luật thi hành án (Dự thảo 10) đã sửa đổi quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án theo hướng phù hợp với Bô luật dân sự

 

File đính kèm downloadTải về