• Thuộc tính
Tên đề tài Mô hinh tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay
Nội dung tóm tắt

Từ những năm cuối của thập kỷ tám mươi, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đã đạt được những thành tựu đáng kể, đời sống của nhân dân cơ bản được cải thiện. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội và phát huy dân chủ, “tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy nhân tố con người làm trang tâm. Đồng thời, Nghị quyết đại hội Đảng VIII cũng, khẳng định, mục tiêu chủ yếu của công cuộc đổi mới, tiển hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là “nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Nghị quyết cũng chỉ rõ, cần “tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức" (Báo cáo chính trị - trang 131). Trong bối cảnh đó, vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế thi hành pháp luật, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật của cộng đồng để tạo ra một môi trường pháp lý lành mạnh, nhằm ổn định chính trị và phát triển kinh tế đã và đang được Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội quan tâm.

Sau Hiến pháp 1992, Nhà nước ta đã ban hành được một số lượng lớn luật và Pháp lệnh nhằm thể chế hoá đường lối và đưa các chủ trương lớn của Đảng vào cuộc sống xã hội, góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Nhà nước đã thi hành nhiều biện pháp, đổi mới tổ chức và cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật đi vào cuộc sống, và phát huy hiệu quả.

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và thừa nhận sự thống trị của pháp luật đối với toàn xã hội (Nhà nước pháp quyền) thì việc người dân hiểu biết pháp luật là vô cùng quan trọng. Sự hiểu biết pháp luật của đông đảo quần chúng nhân dân là cơ sở tạo nên môi trưòng pháp lý lành mạnh. Một mặt, người dân sẽ chủ động có ứng xử phù hợp và đúng mực trong các quyết định của mình khi tham gia vào các quan hệ kinh tế - xã hội, mặt khác tích cực bảo vệ công bằng, công lý trước pháp luật. Đồng thời, cũng cần phải khẳng định môi trường pháp lý phù hợp với mức độ phát triển kinh tế xã hội là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị và tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về mọi phương diện.

Mặc dù vậy, nhưng thực tế đang diễn ra là pháp luật đã được ban hành nhiều nhưng đi vào cuộc sống khó khăn và chậm chạp. Người dân còn chưa có điều kiện được tiếp cận với pháp luật, chưa hiểu biết pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Vì vậy, chưa phát huy được hiệu quả của pháp luật, hay nói cách khác, chưa có khả năng vận dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình cũng như của xã hội.Trong thực tế, không ít trường hợp do thiếu hiểu biết về pháp luật nên người dân bỏ qua lợi ích chính đáng mà họ được hưởng hoặc thụ động  trước các hành vi sai trái. Vì vậy,việc thiết lập một cơ chế trợ giúp pháp lý trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết, có ý nghĩa to lớn không chỉ về mặt chính trị - pháp lý mà cả về kinh tế - xã hội.

Thực tế cho thấy, nhu cầu hiểu biết pháp luật của nhân dân trong cuộc sống hàng ngày là rất lớn đáng nhưng chưa được đáp ứng đúng mức, tình trạng pháp luật đi vào cuộc sống còn chậm. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam, mặc dù trong những năm gần đây đã được từng bước pháp điển hoá, nhưng với số lượng vẫn rất lớn, do nhiều cơ quan ban hành, mức độ cụ thể khác nhau nên rất phức tạp; người dân tiếp cận với hệ thống pháp luật để sử dụng chúng trong ứng xử hàng ngày không phải dễ dàng. Mặt khác, các tổ chức tư vấn pháp luật và giúp đỡ pháp lý ở Việt Nam, mặc dù trong những năm gần đây đã phát triển và có đóng góp nhất định, nhưng vẫn còn ít về số lượng và hạn chế về chất lượng, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân (cả nước có 61 Đoàn luật sư, 61 Hội Luật gia với gần 1000 luật sư, 24 công ty luật, 60 Trung tâm tư vấn pháp luật), đồng thời lại phân bố chủ yếu ở các trang tâm tỉnh, thành phố, chưa có các chi nhánh tại các huyện. Việc giúp đỡ pháp lý từ phía các luật sư, luật gia mặc dù có qui định miễn, giảm phí đối vói một số trường hơp nhưng còn mang tính tự phát, chưa có cơ chế bảo đảm trong thực tế hoạt động. Các đối tượng là người nghèo, đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn về kinh tế. Phần lớn đối tượng này không có điều kiện để tiếp cận với dịch vụ pháp lý có thu phí.

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo “cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lóp nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày... Cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”, (Thông báo số 485/CV- VPTW ngày 31-5-1995 của Văn phòng TW Đảng về ý kiến chỉ đạo của Ban bí thư). Nghị quyết hội nghị lần thứ in BCHTW Đảng (Khoá VIII) lại khẳng định vấn đề này: “Tổ chức hình thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí”.

Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 6/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 734/TTg về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý đã tạo lập một cơ chế bảo đảm công bằng trong tiếp cận với pháp luật của các tầng lớp nhân dân trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường; nó là hình thức đưa chủ trương, chính sách xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của Đảng đi vào cuộc sống, đáp ứng yêu cầu khách quan hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, đồng thời thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; góp phần tăng cường pháp chế XHCN, hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao trách nhiệm công vụ, đồng thời thiết thực góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí, góp phần làm lành mạnh hoá quan hệ xã hội và xây dựng nếp sống văn minh; củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước, pháp luật, góp phần ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế, hoà nhập xu thế phát triển của thời đại.

Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn xây dựng tổ chức và triển khai hoạt động trong năm 1988, đã cho thấy trợ giúp pháp lý là một hoạt động còn mới mẻ, cần phải có thời gian thử nghiêm, tích luỹ và từng bước hoàn thiện. Hiện nay, đã có 54/61 tỉnh, thành phố trực thuộc TW thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý, một số Trung tâm trợ giúp pháp lý đã đi vào hoạt động, nhưng còn nhiều vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn cần phải được nghiên cứu và giải đáp. Đó là những vấn đề thuộc cơ sở lý luận như: khái niệm, mô hình tổ chức, đối tượng, phạm vi và phương thức hoạt động chưa được làm sáng tỏ một cách khoa học; vấn đề chức danh, tiêu chuẩn cán bộ trợ giúp và kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp chưa xác định cụ thể; vấn đề cơ chế quản lý và phương thức thực hiện chế độ chính sách... chưa được thể chế hoá. Tất cả các vấn đề này đều rất mới mẻ và đang đặt ra nhu cầu cần được nghiên cứu để có những quy định phù hợp trong pháp luật thực định và giải quyết những vướng mắc trong quá trình triển khai hoạt động trợ giúp. Vì vậy, việc nghiên cứu về "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay" là hết sức cần thiết nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý, đưa hoạt động này vào nề nếp, theo trật tự và được bảo đảm bằng pháp luật, tránh những yếu tố tự do, ngẫu nhiên, tự phát và thiếu kỷ cương.

Trước những yêu cầu đổi mới kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện dân chủ XHCN, xây dựng xã hội công bằng, văn minh, đề tài nghiên cứu có mục đích làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trong điều kiện đổi mới.

Trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, thực trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam (của Nhà nước và các tổ chức xã hội nghề nghiệp), xuất phát từ quan điểm đổi mới và phát huy dân chủ XHCN của Đảng, xu thế phát triển của đất nước, đề tài có mục đích xác định những nội dung cơ bản về cơ sở lý luận, pháp lý, thực tiễn tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, đồng thời kiến nghị những phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về trợ giúp pháp lý; xác định mô hình và những biện pháp bảo đảm cho việc kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong tương lai.

Thực hiện mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ cụ thể sau: 

- Nghiên cứu những quan điểm chung của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về trợ giúp pháp lý nói chung và trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách nói riêng làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu. Trên cơ sở đó, đề xuất xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, làm cơ sở cho việc xác định mô hình tổ chức và phương thức hoạt động trợ giúp pháp lý có hiệu quả;

- Nghiên cứu cơ sở lý luận: khái niệm, những đặc trưng cơ bản của tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý; xác định vị trí, vai trò của các tổ chức này trong thực hiện quyền lực Nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích của Nhà nước và của công dân;

- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, phân tích những nhu cầu, đòi hỏi khách quan phải thể chế hoá về trợ giúp pháp lý trong một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao;

- Nghiên cứu những nội dung cơ bản cần quy định trong pháp luật về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý theo quan điểm và định hướng đổi mới của Đảng;

- Xây dựng hệ quan điểm, phương hướng và các giải pháp bảo đảm hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý nhằm củng cố tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này.

Đề tài lựa chọn là một vấn đề rất mới, rộng lớn và phức tạp. Đối tượng nghiên cứu là mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện tại. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam còn rất mới mẻ, còn có nhiều quan niệm khác nhau, có mối quan hệ phức tạp, đa chiều ở cả hai kênh: Nhà nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp. Cơ sở pháp lý, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý đang trong quá trình hình thành, thử nghiệm, chưa có thời gian đúc rút thành lý luận từ thực tiễn, ở các vùng, miền, khu vực do điều kiện phát triển kinh tế chênh lệch, trình độ cán bộ, trình độ dân trí không đồng đều v.v... nên có những vận dụng trong thực tiễn không giống nhau. Nhận thức của các ngành, các cấp về vấn đề này cũng chưa thống nhất, nên xác định mô hình tổ chức, đối tượng, phạm vi và phương thức trợ giúp cũng rất đa dạng, thậm chí khác nhau.

Tuy trợ giúp pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa miễn phí trong các vụ việc cụ thể) là hoạt động mang tính chất nghề nghiệp, nhưng lại là hoạt động liên quan trực tiếp đến cả cơ quan Nhà nước và công dân nên việc qui định về vị trí pháp lý của các tổ chức này, quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý Nhà nước ... phải rất cụ thể.

Vì đây là vấn đề mới, nên phạm vi nghiên cứu của đề tài đề cập đến tất cả các nội dung có liên quan đến tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý. Cụ thể, đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn; mục đích ý nghĩa trợ giúp pháp lý, cũng như các vấn đề cụ thể mà pháp luật cần điều chỉnh: các đối tượng thuộc diện trợ giúp, thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, so sánh với một số mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của nước ngoài. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng, nội dung để hoàn thiện pháp luật trợ giúp pháp lý và cơ chế bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên, đề tài không đi quá sâu vào các vấn đề có tính chất kỹ thuật như kỹ năng trợ giúp trong các lĩnh vực tư vấn, đại diện, bào chữa cũng như các hoạt động hành chính có liên quan.

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về bảo đảm trợ giúp pháp lý cho nhân dân nói chung và trợ giúp pháp lý cho các đối tượng đặc biệt nói riêng.

Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp năm 1992, các văn bản pháp luật của Việt Nam và của nước ngoài, các báo cáo hoạt động trong và ngoài nước được sử dụng rộng rãi làm cơ sở chính trị - pháp lý - thực tiễn cho các vấn đề có liên quan đến nội dung của đề tài. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước cũng được tham khảo và kế thừa có chọn lọc.

Đề tài gồm Báo cáo phúc trình, 10 chuyên đề nghiên cứu và Phụ lục tham khảo. Cơ cấu của Báo cáo phúc trình ngoài Lời nói đầu và Kết luận, được phân thành 3 Chương và 7 mục sau đây:

Chương I: Cơ sở lý luận, mục đích và ý nghĩa của hoạt động trợ giúp pháp lý trong đời sống xã hội.

Mục I. Một số quan niệm chung về trợ giúp pháp lý.

Mục II. Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn của việc thành lập các tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Một số đặc trưng cơ bản của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.

1. Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn của việc thành lập các tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.

2. Khái niệm và một số đặc trưng cơ bản của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.

3. Mục đích, ý nghĩa của việc thành lập trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam.

Mục III. Một số mô hình và đặc điểm chung của trợ giúp pháp lý trên thế giới.

1. Một số mô hình và phương thức trợ giúp pháp lý trên thế giới.

2. Một số đặc điểm chung của trợ giúp pháp lý trên thế giới.

Chương II: Thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.

Mục I. Khái quát một số nét về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trước năm 1998.

Mục II. Thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ năm 1998 đến nay.

1. Mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trợ giúp pháp lý.

2. Tình hình tổ chức, đội ngũ cán bộ trợ giúp phảp lý và cơ sở vật chất của các tổ chức trợ giúp pháp lý.

3. Về xây dựng đội ngũ cộng tác viên trợ giúp pháp lý.

4. Thực trạng về đối tượng, phạm vi và phương thức trợ giúp pháp lý.

5. Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách; tham gia phổ biến, giáo dục pháp lluật cho các đối tượng này.

6. Vấn đề quản lý Nhà nước về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý.

Chương III. Phương hướng hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong điều kiện hiện nay và một sô kiến nghị.

Mục I. Những quan điểm chỉ đạo hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong điều kiện hiện nay.

1. Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trên cơ sở thực hiện những quan điểm, chủ trương xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nựớc ta.

2. Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân... Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội; Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.

3. Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách hành chính nhà nước nói chung và đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói riêng.

4. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tổ chức trợ giúp pháp lý dựa trên cơ sở kế thừa và dựa trên quan điểm xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý của Đảng, góp phần thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" của Đảng và Nhà nước đề ra.

5. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý phải có bước đi thích hợp, phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hoá xã hội và truyền thống dân tộc vì mục đích bảo vệ công lý, công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích của công dân.

Mục II. Phương hướng hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.

1. Hoàn thiện mô hình tổ chức trợ giúp pháp lý.

2. Hoàn thiện về thể chế, tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý.

3. Mở rộng đối tượng trợ giúp pháp lý.

4. Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý ở tất cả các tổ chức trợ giúp pháp lý từ Trung ương đến địa phương, mở rộng phạm vi và phương thức trợ giúp pháp lý phù hợp với từng loại đối tượng, nhằm đáp ứng yêu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng tăng và đa dạng của nhân dân.

5. Tiếp tục xây dựng, kiện toàn tổ chức, tăng cường đội ngũ cán bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của các Trung tâm trợ giúp pháp lý ở địa phương.

6. Tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng, đào tạo và nâng cao trình độ quản lý; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng trợ giúp cho cán bộ trợ giúp, cộng tác viên thuộc các tổ chức trợ giúp pháp lý bằng nhiều hình thức linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

7. Thực hiện xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý.

8. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và kinh phí hoạt động trợ giúp pháp lý.

9. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý.

10. Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đề tài có ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn, chỉ rõ tổ chức trợ giúp pháp lý ra đời xuất phát từ những đòi hỏi khách quan, cấp bách của việc thực hiện chủ trương, chính sách xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và bảo đảm công bằng xã hội của Đảng, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật và đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của nhân dân nói chung và của người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.

Đề tài cũng đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở nước ta, phát hiện những nguyên nhân, khó khăn và tồn tại trong tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý. Trên cơ sở đó đã đưa ra hệ quan điểm chỉ đạo và phương hướng đổi mới, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý, trong đó có những kiến nghị về đổi mới thể chế, hoàn thiện mô hình tổ chức, cơ chế quản lý và hoạt động trợ giúp pháp lý phù hợp với chủ trương cải cách hành chính, cải cách tư pháp, góp phần hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam - Nhà nước của dân, do dân và vì dân và thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh".

Đây có lẽ là tài liệu đầu tiên tổng kết tương đối toàn diện, đầy đủ về quá trình hình thành và phát triển của hoạt động trợ giúp pháp lý từ đầu cho đến nay. Nó có thể dùng làm tài liệu tham khảo cần thiết cho những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực luật học, quản lý nhà nước, xã hội học..., trong việc đề ra chủ trương, xây dựng pháp luật và những biện pháp hoàn thiện và thúc đẩy phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.

Đề tài là tài liệu tham khảo rất cần thiết cho việc giảng dạy của giáo viên và việc học tập của sinh viên chuyên ngành luật tương ứng; đồng thời cần thiết cho việc giảng dạy và học tập nâng cao kiến thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ cho đông đảo đội ngũ chuyên viên trợ giúp pháp lý và cộng tác viên trợ giúp pháp lý.

 

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về