PHẦN MỞ ĐẦU
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14/5/1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/1993, nhằm cụ thể hoá một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân có 5 Chương và 33 điều:
Chương I : Những quy định chung;
Chương II: Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, chế độ đối với Thẩm
phán;
Chương III: Tiêu chuẩn Thẩm phán, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán;
Chương IV: Nhiệm vụ quyền hạn của Hội thẩm nhân dân, chế độ đối với Hội thẩm, tiêu chuẩn Hội thẩm; Thủ tục bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm.
Chương V: Điều khoản thi hành.
Trong những năm qua, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân đã là căn cứ pháp lý rất quan trọng cho việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp. Lần đầu tiên ở nước ta, tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ, thời gian công tác bên cạnh các tiêu chuẩn khác về phẩm chất đạo đức của Thẩm phán được quy định bằng một văn bản pháp luật. Đồng thời, bằng pháp lệnh này chế định bổ nhiệm Thẩm phán được khôi phục với các trình tự tuyển chọn Thẩm phán được quy định tương đối rõ ràng. Do đó, sau gần 10 năm thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán theo Pháp lệnh, chất lượng Thẩm phán Toà án các cấp đã ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện Pháp lệnh đã gặp phải những khó khăn nhất định, do Pháp lệnh quy định chưa đầy đủ các nội dung cần thiết của chế định bổ nhiệm Thẩm phán hoặc một số nội dung khác của Pháp lệnh không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Do vậy phần nào đã ảnh hưởng đến việc củng cố, tăng cường về chất lượng và số lượng đội ngũ Thẩm phán Toà án các cấp. Những bất cập đó là:
- Tình trạng Thẩm phán thiếu về số lượng và yếu về chất lượng là vấn đề bức xúc cần phải được nhanh chóng giải quyết. Song vấn đề này có liên quan đến những quy định cụ thể trong Pháp lệnh như tiêu chuẩn của Thẩm phán, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, đã không đáp ứng được yêu cầu bổ sung số Thẩm phán còn thiếu ở các Toà án địa phương. Vì vậy Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cần phải được sửa đổi theo hướng Thẩm phán phải được đào tạo như đào tạo một nghề, trên cơ sở cần bao nhiêu đào tạo bấy nhiêu, và phải tổ chức thi tuyển Thẩm phán trước khi Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét trình cấp có thẩm quyền ký quyết định bổ nhiệm Thẩm phán .
- Việc tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán được quy định trong Pháp lệnh đã bộc lộ những bất hơp lý, có ảnh hưởng rất lớn đến những hoạt động của Toà án. Trước những năm 1992 Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được thực hiện theo chế định bầu cử, về tiêu chuẩn Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân có quy định nhưng không cụ thể và rõ ràng. Luật tổ chức Toà án năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 đã quy định chế định bổ nhiệm Thẩm phán thay cho chế định bầu Thẩm phán. Đây là một bước tiến trong quá trình lập pháp của Nhà nước ta đồng thời thể hiện sự đổi mới của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Vì vậy Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân khi mới được ban hành đã tạo điều kiện cho việc hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan Toà án, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán các cấp. Qua hai nhiệm kỳ thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán, nhiều địa phương đã phản ánh và kiến nghị sửa đổi những bất hợp lý khi tiến hành các thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, những bất hợp lý về thẩm quyền, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, vì những bất cập này đã tạo thành trở ngại trong tiến trình bổ nhiệm Thẩm phán, gây không ít khó khăn cho các cơ quan Toà án khi đề nghị bổ nhiệm mới hoặc tái bổ nhiệm Thẩm phán.
- Chế định về Hội thẩm Toà án nhân dân được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân đã thể hiện tính dân chủ của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó đại diện của nhân dân trực tiếp tham gia vào hoạt động xét xử của cơ quan Toà án, góp phần đảm bảo cho việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân đã có một chương quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Hội thẩm, chế độ đối với Hội thẩm, tiêu chuẩn Hội thẩm, thủ tục bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm... Trong quá trình tổ chức thực hiện Pháp lệnh thấy rằng, những quy định của Pháp lệnh về chế định Hội thẩm còn có những vướng mắc cần phải nghiên cứu khắc phục, như chế độ quản lý Hội thẩm Toà án nhân dân hiên nay, về tiêu chuẩn bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm, đặc biệt là phải sớm khắc phục tình trạng Hội thẩm tham gia xét xử chỉ là hình thức.
- Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân hiện nay đang là những vướng mắc trong quá trình điều hành, quản lý của các cơ quan có thẩm quyền. Đối với Thẩm phán, vướng mắc lớn nhất là chế độ tiền lương và chế độ, chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán được điều động, thuyên chuyển điều động từ địa phương này đến địa phương khác. Chế độ tiền lương hiện nay của Thẩm phán được xây dựng không theo sự thống nhất đối với Thẩm phán, mà phân biệt theo cấp Toà án. Toà án nhân dân Tối cao, Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện có bảng thang bậc lương riêng biệt, với những bất hợp lý rõ ràng về hệ số mức lương giữa các cấp Toà án. Cách xếp lương như vậy đã tạo thành những bất hợp lý khi bổ nhiệm và điều động Thẩm phán từ cấp trên xuống cấp dưới và ngược lại.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CẦN THIẾT PHẢI SỬA ĐỔI, BỔ SUNG PHÁP LỆNH VỂ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN
1. Công tác cán bộ có vị trí vai trò hết sức quan trọng trong các thời kỳ cách mạng, vì vậy cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh tâm huyết xây dựng một đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực, Người coi "đạo đức" là cái "gốc", là nền tảng của người cách mạng "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cán bộ Cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân[1]. Theo Bác, đạo đức gắn liền với năng lực, chính nhờ có đạo đức cách mạng mà mỗi người tự phấn đấu để hoàn thiện mình, hình thành năng lực để hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng vẻ vang. Vì vậy, đạo đức Cách mạng là nền tảng vững chắc để mỗi người hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Riêng đối với cán bộ Tư pháp, Bác dạy “các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cái gương phụng công, thủ pháp, chí công vô tư [2] cho nhân dân noi theo[3].
Xuất phát từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng đã nghiên cứu đề ra đường lối, chính sách cán bộ thích hợp trên cơ sở những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra, đặc biệt là về tiêu chuẩn cán bộ. Từ tiêu chuẩn cán bộ nói chung, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra nhiệm vụ “xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Toà án… có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh"[4][5]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định “xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ Tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể. Nâng cao chất lượng của Hội thẩm nhân dân"[6]. Vì vậy những quy định về tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, thuyên chuyển... Thẩm phán phải được sửa đổi bổ sung kịp thời, đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ đổi mới.
2. Chế định bổ nhiệm Thẩm phán thay cho chế định bầu cử Thẩm phán được quy định trong Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Toà án năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 là một thay đổi rất lớn trong việc quản lý Toà án về tổ chức ở nước ta. Trước khi chuyển sang chế định bổ nhiệm Thẩm phán, chúng ta đã có trên 30 năm thực hiện chế định bầu cử Thẩm phán ở Toà án các cấp. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được bầu theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp. Việc chuẩn bị nhân sự để trình Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu do Toà án nhân dân các cấp và cấp uỷ cùng cấp chuẩn bị. Do đó về trình tự thủ tục chuẩn bị nhân sự và bầu cử cũng đơn giản, nhanh chóng hơn đáp ứng yêu cầu xét xử của Toà án. Song trước những yêu cầu đổi mới của đất nước, trong đó có yêu cầu đổi mới về tư pháp, thì chế định bầu cử Thẩm phán đã không còn phù hợp nữa, mà phải chuyển sang chế định bổ nhiệm Thẩm phán với những quy định về tiêu chuẩn Thẩm phán, trình tự, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán hết sức chặt chẽ. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 được ban hành đã đáp ứng yêu cầu thay đổi từ chế định Thẩm phán bầu sang chế định Thẩm phán bổ nhiệm. Trên cơ sở những quy định của Luật tổ chức Toà án, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, nhiệm kỳ Thẩm phán 1994-1999 đã được tổ chức thực hiện theo chế định bổ nhiệm. Tiếp theo đó việc bổ nhiệm và tái bổ nhiệm Thẩm phán được tiến hành thường xuyên đối với các Toà án địa phương trong cả nước.
Qua theo dõi công tác bổ nhiệm Thẩm phán trong những năm qua cho thấy, về cơ bản nội dung của Pháp lệnh đã đáp ứng được yêu cầu bổ nhiệm Thẩm phán các cấp, song bên cạnh đó có một số nội dung đã bộc lộ những hạn chế, không phù hợp với yêu cầu đổi mới hiện nay. Sở dĩ như vậy vì Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được ban hành để đáp ứng yêu cầu về bổ nhiệm Thẩm phán, trong khi đó chúng ta chưa có những cơ sở thực tiễn về bổ nhiệm Thẩm phán, dẫn đến một số nội dung của Pháp lệnh sau gần 10 năm thực hiện đã không còn phù hợp, cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu hiện nay.
3. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được ban hành trên cơ sở một nền kinh tế của những năm khởi đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng và Nhà nước ta tiến hành từ cuối những năm 1980, do đó nền kinh tế đã dần dần được phục hồi và phát triển. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng ta và đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992. Điều 15 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với quy định trên đây của Hiến pháp, các văn bản pháp luật phải thể chế hoá được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng bằng các quy định của pháp luật, tạo môi trường pháp lý cho các thành phần kinh tế phát triển.
Trước khi có Hiến pháp năm 1992, mặc dù nền kinh tế được quản lý theo cơ chế tập trung, bao cấp với hai thành phần kinh tế nhà nước và tập thể, song nhiều nghị quyết và quyết định của Đảng và Nhà nước được ban hành trong thời kỳ đó như: Nghị quyết 100 tháng 1/1981 của Bộ chính trị đối với việc phát triển nông nghiệp; Nghị quyết 16 của Bộ chính trị và Quyết định 27/HĐBT ngày 9/3/1989 của Hội đồng bộ trưởng về phát triển kinh tế tư nhân; Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty được ban hành ngày 21/12/1990 đã tạo ra những môi trường pháp lý để dần dần hình thành những quan hệ sản xuất mới, trong đó thể hiện rõ nhất là thành phần kinh tế tư nhân. Từ đó tạo ra những thành phần kinh tế mới xuất hiện bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và tập thể. Với một cơ sở hạ tầng như vậy, pháp luật cũng đã được ban hành kịp thời để điều chỉnh các mối quan hệ đó. Tuy nhiên những văn bản pháp luật được ban hành từ thời điểm đó đến nay đã có nhiều nội dung không còn phù hợp cần phải được sửa đổi, bổ sung.
Qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội đều có những thay đổi đáng kể so với thời kỳ thực hiện cơ chế hành chính bao cấp. Đó là nền kinh tế ngày càng phát triển, bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã xuất hiện nhiều thành phần kinh tế khác như : kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước ... cùng tồn tại phát triển bình đẳng trước pháp luật. Cùng với sự phát triển về kinh tế, đã xuất hiện nhiều quan hệ về hành chính, kinh tế, lao động trong đời sống xã hội. Vì vậy nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành trong thời kỳ đổi mới của đất nước đó là Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp...
Những thay đổi về kinh tế, xã hội đã đòi hỏi về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức các cơ quan tư pháp cũng phải sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 Toà án chỉ xét xử những vụ án về hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình. Đến năm 1995, Luật này được sửa đổi, bổ sung thì Toà án còn phải xét xử các vụ án về kinh tế, hành chính, lao động. Như vậy, về tổ chức Toà án đã có sự thay đổi rất lớn, song Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được ban hành từ năm 1993 đến nay chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Để giải quyết vấn đề này cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cho phù hợp với sự thay đổi của tổ chức Toà án và tình hình kinh tế, xã hội nói chung.
4. Quan hệ đối ngoại của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới theo xu hướng hội nhập để cùng phát triển ngày càng được tăng cường và mở rộng. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhản dân được ban hành năm 1993, như đã phân tích ở phần trên đó là những năm đầu của thời kỳ đổi mới ở nước ta, do đó các quan hệ về kinh tế, đối ngoại ở thời điểm đó so với hiện nay đã có nhiều thay đổi. Vì vậy một số nội dung của Pháp lệnh cần phải được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Quan điểm này cũng đã được thể hiện ở những văn bản pháp luật mới được ban hành hoặc sửa đổi bổ sung trong những năm gần đây, mà trước khi ban hành đã có sự tham khảo các văn bản pháp luật nước ngoài. Một mặt chúng ta học tập kinh nghiệm lập pháp của các nước trên thế giới, mặt khác để thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường hội nhập với các nước trên thế giới thì pháp luật Việt Nam khi ban hành không thể không tính đến các thông lệ và luật pháp quốc tế.
II- THỰC TRẠNG VIỆC THI HÀNH PHÁP LỆNH VỀ THẨM PHÁN và HỘI THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG NHŨNG NĂM QUA.
1. Về tổ chức triển khai thực hiện Pháp lệnh
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân sau khi được ban hành, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã nhanh chóng ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn việc thực hiện Pháp lệnh.
- Nghị quyết số 37/UBTVQH9 ngày 14/5/1993 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép vận dụng tiêu chuẩn Thẩm phán khi xét bổ nhiệm Thẩm phán .
- Nghị quyết số 46/NQ/UBTVQH9 ngày 29/9/1993 của uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân Tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức.
- Nghị quyết số 48/NQ/UBTVQH9 ngày 30/9/1993 của uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định danh sách Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
- Thông tư số 05ATTLN ngày 15/10/1993 hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng các tiêu chuẩn Thẩm phán, thành lập các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, quy trình chuẩn bị nhân sự, hồ sơ chuẩn bị nhân sự, hồ sơ đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và thuyên chuyển Thẩm phán Toà án địa phương.
- Quy chế 91/TP-TA ngày 19/1/1994 của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao về phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý về mặt tổ chức các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh.
- Quyết định 141/QĐ-QLTA-THA ngày 21/3/1994 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy định về việc phân cấp quản lý về mặt tổ chức các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và phòng thi hành án, đội thi hành án.
- Quyết định 142/QĐ-QLTA ngày 21/3/1994 của Bộ Tư pháp ban hành Quy định về việc uỷ quyền cho Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện công tác quản lý về mặt tổ chức đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Những văn bản hướng dẫn trên đây đã từng bước cụ thể hoá những quy định của Pháp lệnh, phù hợp với tình hình cán bộ hiện có, tạo thuận lợi cho công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán ở giai đoạn đầu chuyển tiếp từ chế định bầu cử sang chế định bổ nhiệm Thẩm phán, đổng thời quy định rõ nhiệm vụ và những công việc phải làm giữa các cơ quan có liên quan đến công tác quản lý Toà án địa phương.
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân đã quy định nhiều nội dung, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước. Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 quy định: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán, được bầu hoặc cử làm Hội thẩm”. Ngoài tiêu chuẩn chung được quy định tại Điều 4, Pháp lệnh còn quy định những tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ như sau:
- Về chuyên môn, phải có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật.
- Phải có một thời gian nhất định làm công tác pháp luật mới được bổ nhiệm Thẩm phán, cụ thể: 8 năm đối với Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao; ố năm đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh; 4 năm đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện.
Những người có đủ điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán còn phải được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán tương ứng với từng cấp xem xét trước khi trình Chủ tịch nước bổ nhiệm làm Thẩm phán. Theo quy định tại điều 20 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có hai chức năng sau đây:
- Giúp Chủ tịch nước tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật để làm Thẩm phán và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.
- Giúp Chủ tịch nước xem xét những Thẩm phán vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán để trình Chủ tịch nước cách chức.
Với hai chức năng trên đây có thể coi các Hội đồng này có hai tư cách: Như là Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán và như là Hội đồng kỷ luật. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm việc theo chế độ tập thể, nghị quyết của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán phải được quá nửa số thành viên biểu quyết tán thành. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp được thành lập với mục đích tư vấn, giúp Chủ tịch nước trong phạm vi các công việc nói trên, không có quy định về thẩm quyền đề nghị Chủ tịch nước thuyên chuyển hoặc miễn nhiệm Thẩm phán. Pháp lệnh cũng không có quy định về nhiệm kỳ của Hội đồng tuyền chọn Thẩm phán các cấp. Như vậy có thể hiểu là các Hội đồng này có thời hạn không xác định. Cấp nào có quyền cử các thành viên của Hội đồng tuyển chọn thì cấp ấy có quyền bãi nhiệm, thay đổi thành viên của Hội đồng.
Cơ cấu, nhiệm vụ và quyền hạn của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán To à án các cấp được quy định tương xứng với ba cấp Toà án, đó là:
Thành phần Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương được quy định tại điều 21 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Hội đồng này gồm có: Chánh án Toà án nhân dân Tối cao làm Chủ tịch Hội đồng, đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban chấp hành Trung ương Hội luật gia Việt Nam làm uỷ viên. Danh sách cụ thể các uỷ viên của Hội đồng do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao.
Căn cứ Tờ trình của Bộ Tư pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 48/ NQ-UBTVQH9 quyết định về các thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án khu vực ( dưới đây gọi tắt là Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh), gồm có : Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Chủ tịch Hội đồng, Phó Chánh án Toà án nhân dân Tối cao; Chánh án Toà án quân sự trung ương; uỷ viên Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Uỷ viên Ban chấp hành Hội luật gia Việt Nam là thành viên của Hội đồng.
Về Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, căn cứ quy định của Pháp lệnh, theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra quyết định thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện của 61 tỉnh, thành phố do Giám đốc sở Tư pháp làm Chủ tịch Hội đồng, các thành viên gồm: Đại diện Hội đồng nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân tỉnh, uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh và Hội luật gia tỉnh. Ngay sau khi được thành lập, tất cả các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán ở trung ương và địa phương đều đi vào hoạt động, tiến trình chuẩn bị hồ sơ đúng quy định, người được tuyển chọn đảm bảo đúng tiêu chuẩn nên đã nhanh chóng được Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm Thẩm phán .
Tuy nhiên, trong khi tổ chức thực hiện Pháp lệnh, một số Thẩm phán đương nhiệm đã không đủ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ theo quy định của Pháp lệnh, mà phần lớn số Thẩm phán này là các Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi trước đó đã không có điều kiện theo học cao đẳng Toà án hoặc đại học luật. Nếu những trường hợp này không được bổ nhiệm Thẩm phán thì những nơi đó đã thiếu Thẩm phán lại càng thiếu hơn. Để giải quyết vấn đề này Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 37/UBTVQH9 cho phép vận dụng tiêu chuẩn như sau:
Đối với người hiện tại không phải là Thẩm phán thì phải đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn của Thẩm phán theo quy định, thì mới được xét tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.
Đối với Thẩm phán đương nhiệm có đủ các tiêu chuẩn khác nhưng chưa có bằng đại học luật thì vẫn được tuyển chọn bổ nhiệm lại, nhưng phải tiếp tục học tập để đạt trình độ đại học luật.
Thực hiện Nghị quyết này nhiệm kỳ 1994-1999 có 1451 Thẩm phán đương nhiệm và Trọng tài viên từ cơ quan trọng tài kinh tế chuyển sang, chưa có bằng đại học luật nhưng vẫn được bổ nhiệm Thẩm phán. Đa số các trường hợp này là cán bộ lớn tuổi, có thâm niên công tác lâu năm trong ngành, tuy chưa được đào tạo có hệ thống nhưng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm nghề nghiệp và vốn sống thực tế nên nhiệm kỳ vừa qua vẫn đảm đương được nhiệm vụ xét xử. Kết thúc nhiệm kỳ Thẩm phán thứ nhất đã có 1229 Thẩm phán đạt tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, còn lại 222 người. Từ thực tế trên đây cho thấy chủ trương cho Thẩm phán “nợ” và “trả nợ” là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thực trạng đội ngũ Thẩm phán lúc đó.
Việc chuyển từ chế định bầu Thẩm phán sang chế định bổ nhiệm Thẩm phán, với việc có các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp xem xét về tiêu chuẩn Thẩm phán trước khi trình Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm Thẩm phán, đã đảm bảo chất lượng của Thẩm phán ngày càng được nâng cao. Kết quả hai nhiệm kỳ bổ nhiệm Thẩm phán vừa qua cho thấy, hầu hết các trường họp mà Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp đồng ý trình Chủ tịch nước đều được Chủ tịch nước chấp nhận. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp khi thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán, từ đó cần phải tăng cường chất lượng và các điều kiện để cho các Hội đồng này làm việc tốt hơn.
Thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp được quy định tại các điều 20, 21, 22, 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Qua thực tiễn hoạt động thành phần này cần phải được tăng cường thêm các thành viên là Thẩm phán có chuyên môn nghiệp vụ cao. Bởi lẽ khi xem xét các tiêu chuẩn để đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán thì việc đánh giá về chất lượng chuyên môn là yếu tố rất quan trọng. Do đó những Thẩm phán lâu năm, có nhiều kinh nghiệm tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán là rất cần thiết. Ngoài ra, tuy không phải là phổ biến nhưng hiện nay đang có tình trạng cấp phúc thẩm xử huỷ án sơ thẩm, nhưng cấp giám đốc thẩm lại quyết định án sơ thẩm là đúng và án phúc thẩm là sai, hoặc có những vụ án bị huỷ hoặc bị sửa nghiêm trọng nhưng do thay đổi của pháp luật mà không có lỗi của các Thẩm phán. Trong những trường hợp như vậy Hội đồng tuyển chọn cần phải có thêm những thành viên am hiểu vấn đề đó, để giúp các thành viên khác của Hội đồng hiểu rõ vấn đề, trước khi quyết định có đồng ý đề nghị tái bổ nhiệm những trường hợp này hay không. Theo cơ cấu Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện thấy rằng, trong Hội đồng tuyển chọn.
Thẩm phán cấp tỉnh có đại diện của Toà án nhân dân Tối cao, trong Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện có đại diện Toà án nhân dân cấp tỉnh. Thông thường thì những người đại diện Toà án đều là Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án, nhưng trong một chừng mực nào đó họ vẫn là đại diện cho một tổ chức. Chính vì vậy để đảm bảo hơn nữa tính khách quan trong Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh và cấp huyện cần phải có các Thẩm phán có uy tín và có nhiều kinh nghiệm xét xử, có thâm niên công tác tham gia vào các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.
2. Các tiêu chuẩn chung của Thẩm phán và yêu cầu hoàn thiện.
Về tiêu chuẩn của Thẩm phán được quy định tại Điều 37 Luật tổ chức Toà án năm 1992, ngoài ra tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân bổ sung thêm các tiêu chuẩn chung là:
-
Liêm khiết và trung thực;
-
Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật;
-
Có sức khoẻ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật trong những năm qua và yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ hiện nay thấy rằng: Việc quy định các tiêu chuẩn nêu trên đối với Thẩm phán là cần thiết. Sau khi Pháp lệnh được ban hành Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 05/TT-LN ngày 15/10/1993 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, giúp cho các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm tốt chức năng của mình, lựa chọn những người xứng đáng làm Thẩm phán Toà án các cấp. Tuy nhiên những quy định trong Thông tư có một số điểm cần phải tiếp tục nghiên cứu nhằm đảm bảo cho việc hướng dẫn, giải thích pháp luật đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Thí dụ, theo hướng dẫn của Thông tư thì" Người nào có người thân thích ruột thịt như cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con cùng sống chung trong gia đình mà họ có những việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có hệ thống" được coi là người không đủ tiêu chuẩn để tuyển chọn làm Thẩm phán .
Một số người làm công tác thực tiễn và nghiên cứu đặt câu hỏi rằng yêu cầu nêu trên đối với Thẩm phán có cao quá không? Trong khi đó yêu cầu này không đặt ra như một tiêu chuẩn bắt buộc đối với các ngạch công chức khác cũng có tầm quan trọng bằng hoặc hơn Thẩm phán. Về vấn đề này chúng tôi cho rằng Thẩm phán là người làm nghề xét xử, bảo vệ công bằng, công lý, phải là người gương mẫu về mọi mặt. Tuy nhiên trong quá trình tuyển chọn Thẩm phán không thể buộc họ phải chịu trách nhiệm về những sai phạm của những người thân trong gia đình, khi mà không chứng minh được là họ có lỗi trong việc để cho thành viên trong gia đình họ vi phạm pháp luật. Chính vì vậy cần phải xem xét lại hướng dẫn trên để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn hiện nay.
Về tiêu chuẩn đào tạo Thẩm phán, trong Pháp lệnh không quy định nhưng Thẩm phán là một nghề do đó việc bồi dưỡng, đào tạo trước khi làm nghề rõ ràng là cần thiết và khoa học. Hiện nay ở nhiều nước trên thế giới đều có quy định, một người muốn được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì sau khi tốt nghiệp đại học luật nhất định phải qua trường đào tạo Thẩm phán với thời gian ít nhất là 2 năm. Những năm gần đây, Chính phủ đã cho phép thành lập Trường đào tạo các chức danh tư pháp thuộc Bộ Tư pháp. Đến thời điểm hiện nay đã đào tạo được 4 khoá Thẩm phán, với thời gian đào tạo là 1 năm. Những người được đào tạo qua trường Thẩm phán khi được bổ nhiệm làm Thẩm phán đã nhanh chóng làm quen với công tác xét xử. Chính vì vậy cần phải quy định trong Pháp lệnh về tiêu chuẩn bắt buộc khi bổ nhiệm Thẩm phán là phải tốt nghiệp trường đào tạo Thẩm phán .
3. Thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển, tạm đình chỉ công tác, cách chức Thẩm phán Toà án các cấp.
Khi tuyển chọn Thẩm phán, Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét hồ sơ của từng người và nhận xét của cơ quan có thẩm quyền. Thông tư số 05/TT-LN ngày 15/10/1993 của Toà án nhân dân Tối cao và Bộ Tư pháp và Công văn số 391/TP-QLTA ngày 15/3/1999 của Bộ Tư pháp đã hướng dẫn về việc làm hồ sơ đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, cụ thể như sau:
3.1. Thủ tục đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán
-
Đơn xin tình nguyện làm Thẩm phán theo mẫu của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao thống nhất quy định.
-
Sơ yếu lý lịch có dán ảnh (4 X 6) và có xác nhận của cơ quan quản lý cán bộ.
-
Giấy chứng nhận sức khoẻ do bệnh viện nơi người được giới thiệu đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán đăng ký khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế xác nhận.
-
Bản sao bằng tốt nghiệp đại học Luật hoặc Cao đẳng Toà án và các văn bằng chứng chỉ về trình độ lý luận chính trị, các chứng chỉ khác liên quan đến việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán . Các bản sao này đều phải có chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
-
Bản tự kiểm điểm của người được giới thiệu đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán với các nội dung:
a/ Đối với các trường hợp chưa phải là Thẩm phán thì kiểm điểm quá trình công tác theo các tiêu chuẩn Thẩm phán được quy định trong Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, cụ thể:
- Việc chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước của bản thân và gia đình người được đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán.
- Nêu các ưu, khuyết điểm trong công tác chuyên môn, việc chấp hành kỷ luật lao động được thể hiện bằng kết quả và chất lượng trong công việc.
- Nêu các ưu, khuyết điểm trong việc xây dựng đoàn kết nội bộ, tín nhiệm trong cơ quan, đơn vị công tác.
Bản kiểm điểm phải có nhận xét, đánh giá của Thủ trưởng cơ quan về trình độ chuyên môn, năng lực và uy tín của người đó.
b/ Đối với các trường hợp đề nghị tái bổ nhiệm Thẩm phán thì kiểm điểm quá trình công tác chuyên môn cũng như việc rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức người Thẩm phán trong nhiệm kỳ, có xác nhận và đánh giá của Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh đối với Thẩm phán cấp tỉnh, của Giám đốc Sở Tư pháp đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện.
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban thường vụ cấp uỷ cùng cấp đối với người được giới thiệu bổ nhiệm Thẩm phán theo Chỉ thị số 34/TC-TƯ ngày 18/3/1994 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về sự lãnh đạo của đảng đối với công tác tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp.
-
Biên bản và kết quả lấy phiếu tín nhiệm trong cơ quan đối với người được giới thiệu đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán .
-
Danh sách trích ngang đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán .
-
Tờ trình đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán.
Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh đề nghị; đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện đề nghị kèm với danh sách và biên bản phiên họp của Hội đồng tuyển chọn. Trường hợp có Thẩm phán đề nghị tái bổ nhiệm thì trong tờ trình cần nêu rõ số lượng Thẩm phán được đề nghị tái nhiệm.
Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao do Toà án nhân dân Tối cao chịu trách nhiệm. Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh do Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp với Toà án nhân dân Tối cao. Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện do Sở Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp với Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán phải được đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cùng cấp để xem xét quyết định có đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán hay không. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm việc theo chế độ tập thể. Nghị quyết của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Trường hợp thành viên của Hội đồng không đồng ý với ý kiến đa số của Hội đồng, có quyền bảo lưu ý kiến của mình và ý kiến bảo lưu phải được ghi rõ vào biên bản.
Đối với hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, sau khi nhận được báo cáo kết quả tuyển chọn của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trao đổi, thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân Tối cao. Nếu có trường họp nào mà Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân Tối cao thấy cần thiết yêu cầu Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện xem xét lại hoặc làm rõ, thì Hội đồng tuyển chọn có trách nhiêm thực hiện yêu cầu đó. Trong trường hợp Hội đồng tuyển chọn vẫn giữ ý kiến của mình thì nêu rõ lý do và Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân Tối cao cũng sẽ trình ý kiến của mình lên Chủ tịch nước để Chủ tịch nước xem xét quyết định.
Việc trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán được tiến hành như sau:
-
Đối với việc trình bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương thì Chánh án Toà án nhân dân Tối cao đồng thời là Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn phải có tờ trình gửi Chủ tịch nước đề nghị việc bổ nhiệm. Kèm theo tờ trình này là danh sách những người được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao tuyển chọn cùng với toàn bộ hồ sơ của những người đó và biên bản phiên họp tuyển chọn Thẩm phán của Hội đồng.
-
Danh sách những người được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh tuyển chọn, do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Kèm theo tờ trình này là hồ sơ của những người được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đề nghị và Biên bản phiên họp tuyển chọn Thẩm phán của Hội đồng.
-
Đối với những người được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện tuyển chọn do Giám đốc Sở Tư pháp - Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn báo cáo kết quả việc tuyển chọn bằng văn bản gửi cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp, sau đó Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân Tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Kèm theo báo cáo kết quả việc tuyển chọn là hồ sơ của người được tuyển chọn, biên bản phiên họp tuyển chọn Thẩm phán của Hội đồng.
Toàn bộ tài liệu và hồ sơ tuyển chọn Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp nói trên được gửi tới Chủ tịch nước qua Văn phòng Chủ tịch nước. Văn phòng Chủ tịch nước có nhiệm vụ giúp Chủ tịch nước rà soát lại lần cuối cùng toàn bộ danh sách đề nghị bổ nhiệm, thủ tục hồ sơ tuyển chọn cũng như phát hiện đơn thư khiếu nại, tố cáo Thẩm phán ; sau đó làm tờ trình và soạn thảo quyết định trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định việc bổ nhiệm. Nếu phát hiện trường hợp nào chưa đủ hồ sơ thủ tục hoặc có đơn thư khiếu nại, tố cáo thì Văn phòng Chủ tịch nước thừa lệnh Chủ tịch nước đề nghị các cơ quan hữu quan (Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp...) bổ sung hồ sơ hoặc thẩm tra nội dung đơn thư để có báo cáo trình Chủ tịch nước.
Việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án các cấp được thực hiện bằng quyết định của Chủ tịch nước có hiệu lực từ ngày ký. Trên cơ sở đề nghị của các địa phương và tờ trình của Bộ Tư pháp, Chủ tịch nước quyết định bổ nhiệm Thẩm phán cụ thể từng tỉnh, từng huyện của các địa phương. Chính quy định này đã gây khó khăn cho việc điều động Thẩm phán từ địa phương này đến địa phương khác khi cần thiết. Để giải quyết vấn đề này quyết định của Chủ tịch nước chỉ cần ghi bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh hoặc Thẩm phán cấp huyện là đủ.
Sau khi có quyết định của Chủ tịch nước, quyết định chính được gửi cho Chánh án Toà án nhân dân Tối cao, sau đó Tòa án nhân dân tối cao sao chụp quyết định để gửi cho Thẩm phán , Phó Chánh án Toà án nhân dân Tối cao. Nếu là quyết định bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án địa phương thì Bộ Tư pháp sao chụp quyết định gửi cho Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
Đánh giá về việc bổ nhiệm Thẩm phán .
Căn cứ vào báo cáo tổng kết ngành của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và các đánh giá gần đây của các cơ quan có thẩm quyền, thì nhìn chung việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán đều đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ, việc tuyển chọn về cơ bản là nghiêm túc, đảm bảo đúng tiêu chuẩn quy định của pháp luật. Tuy nhiên số lượng và chất lượng Thẩm phán Toà án các cấp nhìn chung còn thiếu và yếu so với yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra.
Trong số Thẩm phán đã được bổ nhiệm trong nhiệm kỳ vừa qua nhiều trường hợp còn thiếu tiêu chuẩn chuyên môn (đại học luật) nhưng đã vận dụng Nghị quyết số 37/UBTVQH9 ngày 14 tháng 5 năm 1993 của uỷ ban Thường vụ Quốc hội để đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán. Những trường hợp này sau khi được bổ nhiệm, phải học tập để "trả nợ” trình độ nghiệp vụ. Theo báo cáo tổng kết nhiệm kỳ Thẩm phán (1994-1999) của Bộ Tư pháp thì đa số các trường họp này là Thẩm phán đương nhiệm có thâm niên công tác lâu năm hoặc từ Trọng tài kinh tế chuyển sang. Nhiều trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, nên khó tìm được nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán. Từ thực tế trên cho thấy chủ trương cho Thẩm phán "nợ” và phải học tập "trả nợ” là chủ trương mang tính chất tình thế phù hợp với thực trạng đội ngũ cán bộ hiện nay. Tuy nhiên đây cũng là đặc điểm của "thời kỳ quá độ”, cần giải quyết dứt điểm tình trạng này trong nhiệm kỳ 1999-2004.
Qua theo dõi khảo sát thực tế cho thấy không phải việc thiếu Thẩm phán là quá trầm trọng nếu như chúng ta có kế hoạch tạo nguồn cũng như sử dụng tốt đội ngũ Thẩm phán hiện có.
Về chất lượng Thẩm phán Toà án các cấp: Nhìn chung đội ngũ Thẩm phán của nước ta trưởng thành từ công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới đất nước, với tỷ lệ 94% Thẩm phán các cấp là Đảng viên, một tỷ lệ khó có ngành nào đạt được. Kết quả này nói lên sự đảm bảo tiêu chuẩn phẩm chất chính tri, đạo đức của người Thẩm phán. Về chuyên môn, hầu hết Thẩm phán đều đã có trình độ đại học luật, có thời gian công tác tương đối dài tại Toà án các cấp, nên có năng lực xét xử, chất lượng đội ngũ Thẩm phán được nâng cao dần theo cấp Toà án từ huyện lên đến Tối cao.
Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm phán vẫn còn yếu về chất lượng, đại bộ phận được đào tạo mang tính tình thế, tỷ lệ Thẩm phán được đào tạo chính quy còn thấp (khoảng 30%). Số đông còn lại được đào tạo dưới các hình thức chuyên tu, tại chức. Xét về phẩm chất tư cách, vẫn còn Thẩm phán vi phạm pháp luật và kỷ luật lao động, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân. Bộ Tư pháp đã phối hợp với Toà án nhân dân Tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước cử nhiều đoàn kiểm tra đến các địa phương để cùng cấp uỷ địa phương kiểm tra xác minh các đơn thư khiếu nại tố cáo đối với nhiều Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán To à án các cấp; có trường hợp phải về địa phương nhiều lần mới kết luận được sự việc. Cũng có trường hợp hồ sơ mặc dù đã qua nhiều cấp thẩm tra, xét duyệt, nhưng lên đến Chủ tịch nước vẫn còn phát hiện sai sót do không đủ điều kiện, tiêu chuẩn hoặc vì những lý do về hồ sơ phải để lại để bổ sung hoặc giải trình thêm.
Xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với các trường hợp đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán.
-
Đối với Toà án nhân dân Tối cao thì việc giải quyết các đơn thư khiếu nại tố cáo về bổ nhiệm Thẩm phán do Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân Tối cao tiến hành xác minh, làm rõ nội dung đơn thư, có kết luận và báo cáo xác minh, kèm theo tài liệu có liên quan để đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán To à án nhân dân Tối cao xem xét và báo cáo trình Chủ tịch nước quyết định.
-
Đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh: Các đơn thư khiếu nại, tố cáo về việc bổ nhiệm Thẩm phán do Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân tỉnh, thành phố, nơi có đơn thư phối hợp với các Ban chức năng của Đảng với sự chỉ đạo của Ban Thường vụ tỉnh uỷ tiến hành xác minh, có kết luận kèm theo các tài liệu có liên quan gửi về Bộ Tư pháp. Riêng Chánh án và Phó Chánh án thuộc diên quản lý trực tiếp của địa phương nào thì cấp uỷ địa phương đó xác minh, kết luận và gửi về Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp. Trường hợp gặp khó khăn trong việc xác minh, kết luận đơn, thư khiếu nại, tố cáo thì Toà án hoặc cấp uỷ địa phương có thể đề nghị Bộ Tư pháp cử cán bộ có thẩm quyền cùng phối hợp giải quyết.
-
Đối với Toà án nhân dân cấp huyện: Các đơn thư khiếu nại, tố cáo về việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện do Giám đốc Sở Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và Thường vụ cấp uỷ cùng cấp, nơi có đơn, thư tiến hành xác minh làm rõ nội dung đơn thư có kết luận và báo cáo kịp thời về Bộ Tư pháp. Đối với các nội dung đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc xét xử các vụ án cụ thể thì kết luận giải quyết đơn thư phải kèm theo ý kiến bằng văn bản của Toà án cấp trên về việc giải quyết vụ án đó.
Sau khi có kết luận của các cơ quan hữu quan, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có văn bản giải trình kèm với các tài liệu có liên quan trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
Trường hợp kết luận của các cơ quan hữu quan có chỗ chưa cụ thể, chưa rõ ràng, Chủ tịch nước yêu cầu Chánh án Toà án nhân dân Tối cao hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo bổ sung hoặc uỷ quyền cho Văn phòng Chủ tịch nước (có thể phối hợp với Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp... ) để xác minh làm rõ thêm.
-
Thủ tục thuyên chuyển Thẩm phán
Theo điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân Tối cao quyết định thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án nhân dân địa phương này đến Toà án nhân dân địa phương khác cùng cấp. Thực hiện quy định nói trên có hai điểm lưu ý:
-
Chỉ được thuyên chuyển Thẩm phán từ địa phương này đến địa phương khác đối với Toà án cùng cấp. (Trường hợp thuyên chuyển Thẩm phán không cùng cấp Toà án thì phải có quyết định bổ nhiệm của Chủ tịch nước).
-
Theo công văn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999 có hai hình thức thuyên chuyển Thẩm phán là hình thức thuyên chuyển không thời hạn và hình thức thuyên chuyển có thời hạn. Việc thuyên chuyển Thẩm phán chỉ trong trường hợp cần thiết. Công văn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999 hướng dẫn như sau:
+ Việc thuyên chuyển có thời hạn đối với Thẩm phán do yêu cầu tăng cường, hỗ trợ xét xử giữa các Toà án nhân dân cùng cấp, thực hiện theo công văn số 1132/TP-QLTA ngày 6/8/1998 của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao. Việc thuyên chuyển không thời hạn đối với Thẩm phán do nguyện vọng của Thẩm phán như hợp lý hoá gia đình hoặc các lý do khác.
+ Hồ sơ đề nghị thuyên chuyển Thẩm phán gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp để ra quyết định bao gồm:
-
Đơn xin thuyên chuyển công tác của Thẩm phán (trong đơn cần nêu rõ lý do xin thuyên chuyển ) có xác nhận và đề nghị của thủ trưởng cơ quan nơi Thẩm phán công tác.
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ cấp uỷ cùng cấp của nơi chuyển đi và nơi chuyển đến về việc thuyên chuyển của Thẩm phán .
-
Tờ trình về việc đề nghị thuyên chuyển Thẩm phán .
Đối với cấp tỉnh là Tờ trình của Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh của nơi chuyển đi và nơi chuyển đến, đối với cấp huyện là Tờ trình của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Trong trường hợp thuyên chuyển Thẩm phán giữa các Toà án nhân dân cấp huyện không cùng tỉnh, thành phố thì phải có tờ trình của cả nơi đi và nơi chuyển đến.
Về việc thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương cùng cấp, hiện nay chưa có văn bản nào quy định như đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán (Điều 15 Pháp lệnh Thẩm phán). Vì thế vấn đề này đang có ý kiến khác nhau, làm cho công tác điều chuyển cán bộ lãnh đạo Toà án cùng cấp, nhất là từ tỉnh này sang tỉnh khác gặp khó khăn.
Đánh giá về việc thuyên chuyển Thẩm phán
Trong nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán , việc thuyên chuyển Thẩm phán Toà án các cấp được diễn ra dưới hai hình thức: thuyên chuyển không thời hạn và thuyên chuyển có thời hạn. Việc điều chuyển Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao từ địa phương này đến địa phương khác do Chánh án Toà án nhân dân Tối cao quyết định. Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện thì việc thuyên chuyển do Bộ Tư pháp quyết định trên cơ sở thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân Tối cao. Do việc phân định lại địa giới hành chính cấp tỉnh, cấp huyện ở một số địa phương đồng thời với sự thay đổi về tổ chức Toà án, chẳng hạn như Toà án nhân dân cấp tỉnh thành lập thêm toà kinh tế, toà hành chính, toà lao động, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Toà án nhân dân Tối cao và cấp uỷ địa phương tập trung chỉ đạo, sắp xếp lại tổ chức, bố trí cán bộ, thuyên chuyển Thẩm phán từ các đơn vị Toà án cũ sang các đơn vị Toà án mới thành lập cũng như thuyên chuyển Thẩm phán đến một số địa phương đang thiếu nguồn hoặc giải quyết án tồn đọng ở những nơi này. Nhiệm kỳ Thẩm phán 1994-1999 Bộ Tư pháp đã thống nhất với Toà án nhân dân Tối cao là quyết định thuyên chuyển 98 Thẩm phán giữa các địa phương. Đáng chú ý là đối với một số Toà án nhân dân cấp tỉnh mới chia tách có số lượng Thẩm phán chưa đủ để thành lập hai Hội đồng xét xử, khi có án bị huỷ theo luật định thì phải có Hội đồng xét xử khác để giải quyết (như tỉnh Ninh Thuận, Bình Phước...). Cuối nhiệm kỳ vừa qua, nhiều Toà án địa phương do có số Thẩm phán còn nợ tiêu chuẩn chuyên môn phải đi học nhiều, nên Bộ Tư pháp đã ra nhiều quyết định thuyên chuyển Thẩm phán có thời hạn theo đề nghị của các địa phương này, nhất là đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Việc thuyên chuyển Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp nói trên trong nhiệm kỳ vừa qua đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết án tồn đọng tại một số Toà án địa phương thiếu Thẩm phán, đồng thời tạo điều kiện cho nhiều Thẩm phán có người thay thế để có cơ hội học tập, "trả nợ” hoặc nâng cao trình độ chuyên môn. Ngoài ra việc thuyên chuyển Thẩm phán còn giúp cho việc hợp tác và trao đổi thông tin, kinh nghiệm giữa các Thẩm phán Toà án ở các địa bàn, địa phương khác nhau được tốt hơn, tạo ra sự đồng đều hơn về mặt chất lượng Thẩm phán , chất lượng xét xử giữa các vùng.
-
Thủ tục miễn nhiệm Thẩm phán
Liên quan đến vấn đề miễn nhiệm, pháp luật hiện hành chỉ quy định tại Điều 38 của Luật tổ chức Toà án nhân dân 1992 như sau: "Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án quân sự do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993 cũng không quy định về việc miễn nhiệm Thẩm phán, nhưng lại có quy định việc miễn nhiệm chức vụ Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp tại điều 24.
Việc miễn nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp do Chủ tịch nước quyết định trên cơ sở đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao, nếu là Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao hoặc trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân Tối cao, nếu là Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, huyện. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ khi nào (điều kiện nào) thì được miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án.
Qua thực tiễn công tác bổ nhiệm Thẩm phán, chúng tôi thấy việc miễn nhiệm Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án được chấp nhận từ 4 lý do sau đây:
-
Do yêu cầu quy hoạch, điều chuyển cán bộ của địa phương, Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án cần chuyển sang công tác khác giữ trọng trách cao hơn.
-
Vì tình trạng sức khỏe hoặc vì trình độ chuyên môn, năng lực xét xử không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phải chuyển sang công tác khác phù hợp hơn.
-
Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án vi phạm kỷ luật lao động, kỷ luật hành chính hoặc vi phạm phẩm chất đạo đức nhưng chưa tới mức phải xử lý bằng hình thức cách chức hoặc buộc thôi việc.
-
Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án có người thân trong gia đình vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có hệ thống .
Theo công văn hướng dẫn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999 của Bộ Tư pháp thì hồ sơ đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán bao gồm các tài liệu cần thiết như sau:
-
Đơn xin miễn nhiệm của Thẩm phán (cần nêu rõ lý do xin miễn nhiệm và có ý kiến nhận xét đề nghị của thủ trưởng cơ quan nơi Thẩm phán đó công tác ).
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ cấp uỷ cùng cấp về việc miễn nhiệm.
-
Tờ trình về việc đề nghị miễn nhiệm: đối với Toà án nhân dân Tối cao là của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao, đối với cấp tỉnh là của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, đối với cấp huyện là của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Đối với các trường hợp đề nghị miễn nhiệm để chuyển công tác khác do yêu cầu của công tác tổ chức, sắp xếp, bố trí, quy hoạch cán bộ của địa phương thì không cần đơn xin miễn nhiệm .
Đánh giá về việc miễn nhiệm Thẩm phán
Trong nhiệm kỳ 1994-1999 Chủ tịch nước đã ra quyết định miễn nhiệm 5 Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, 18 Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, 48 Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện. Hầu hết các trường hợp miễn nhiệm là do yêu cầu quy hoạch cán bộ của địa phương, trên cơ sở đề nghị của cấp uỷ Đảng, miễn nhiệm để chuyển sang công tác khác giữ chức vụ cao hơn. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp xin miễn nhiệm để chuyển công tác, hợp lý hoá gia đình họặc miễn nhiệm do trình độ chuyên môn, năng lực yếu hay sức khỏe không đảm bảo tiếp tục công tác. Cá biệt có 6 trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện vi phạm kỷ luật (vi phạm nguyên tắc làm việc hoặc vi phạm đạo đức) nhưng chưa đến mức phải xử lý bằng hình thức cách chức để chuyển sang công tác khác. Nhìn chung việc đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án đều tuân thủ các quy định của pháp luật. Đối với những trường hợp miễn nhiệm để chuyển công tác khác theo yêu cầu công tác của địa phương hoặc để hợp lý hoá gia đình, do năng lực, sức khoẻ... thì Thẩm phán phải làm đơn đề nghị xin miễn nhiệm Thẩm phán . Đối với trường hợp Thẩm phán vi phạm kỷ luật đề nghị áp dụng hình thức miễn nhiệm thì phải có thêm biên bản của Hội đồng kỷ luật đánh giá về hành vi vi phạm của Thẩm phán do Giám đốc Sở Tư pháp ký (đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện ) hoặc do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký (đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh). Việc miễn nhiệm Thẩm phán trong nhiệm kỳ vừa qua đạt kết quả tốt là do sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương (Toà án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh, Sở Tư pháp, Thường vụ Huyện uỷ, Tỉnh uỷ) với Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân Tối cao và Văn phòng Chủ tịch nước trong việc giúp Chủ tịch nước ra các quyết định miễn nhiệm.
Tuy nhiên, việc quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án còn chưa rõ ràng, nhất là qui định về điều kiện miễn nhiệm các chức danh và chức vụ nói trên, ranh giới miễn nhiệm và cách chức như thế nào? Trong thực tế nhiều khi còn có sự chưa thống nhất, ví dụ khi nào thì được xin miễn nhiệm, khi nào thì cho miễn nhiệm? Hoặc trường hợp đang còn nhiệm kỳ Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án nhưng đến tuổi nghỉ hưu, thì có cần phải có quyết định của Chủ tịch nước miễn nhiệm chức danh, chức vụ để nghỉ hưu không? Những vấn đề này cần phải được làm rõ và quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện một cách thống nhất.
-
Thủ tục cách chức Thẩm phán
Cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án là hình thức kỷ luật nặng nhất khi người giữ chức danh, chức vụ đó vi phạm kỷ luật nghiêm trọng hoặc có hệ thống, cần phải loại ra khỏi đội ngũ những người làm công tác xét xử.
Pháp luật hiện hành chưa quy định điều kiện cụ thể như thế nào thì cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án mà chỉ đưa ra một tiêu chí chung là cách chức khi "vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán"
Đối chiếu với các văn bản hiện hành về quản lý cán bộ, công chức và thực tế công tác quản lý Toà án trong thời gian qua cho thấy vấn đề cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án xẩy ra trong các trường hợp sau đây:
-
Khi Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Ví dụ hành vi cố ý vi phạm pháp luật, làm sai lệch nội dung vụ án, sử dụng sai nguyên tắc kinh phí của cơ quan... .
-
Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án vi phạm nghiêm trọng phẩm chất đạo đức, tác phong của người Thẩm phán, như : Rượu chè bê tha, ăn chơi truỵ lạc, đã giáo dục nhưng vẫn tái phạm...
Căn cứ vào công văn hướng dẫn số 391/TP-QLTA của Bộ Tư pháp thì hồ sơ đề nghị Chủ tịch nước cách chức Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án gồm các tài liệu cần thiết sau đây:
a/ Đối với việc cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao thì hồ sơ bao gồm:
-
Bản tự kiểm điểm của Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án vi phạm.
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Nội chính Trung ương, Ban bảo vệ chính trị nội bộ về việc đề nghị cách chức.
-
Biên bản phiên họp cùa Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi Thẩm phán công tác và các tài liệu vi phạm cuả Thẩm phán .
Việc chuẩn bị hồ sơ do Chánh án Toà án nhân dân Tối cao đảm nhiệm, sau đó đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương xem xét, có biên bản và Tờ trình gửi Chủ tịch nước đề nghị việc cách chức Thẩm phán . Thủ tục trình tự đề nghị cách chức Thẩm phán giống như việc bổ nhiệm.
b/ Đối với việc cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh thì hồ sơ bao gồm:
-
Bản tự kiểm điểm của Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án vi phạm.
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ về việc đề nghị cách chức.
-
Tờ trình của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh về việc đề nghị cách chức kèm theo biên bản phiên họp Hội đồng kỷ luật của cơ quan nơi Thẩm phán công tác và các tài liệu có liên quan về vi phạm của Thẩm phán.
Việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị cách chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh do Toà án cấp tỉnh đảm nhiệm, có sự phối hợp chặt chẽ với các Ban chức năng của Đảng và với sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ.
Toàn bộ hồ sơ này được gửi tới Bộ Tư pháp. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có nhiệm vụ đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xem xét, có Tờ trình kèm theo Biên bản trình Chủ tịch nước quyết định việc cách chức. Thủ tục cách chức cũng giống như thủ tục đề nghị bổ nhiệm.
c/ Đối với thủ tục cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện thì hồ sơ gồm:
-
Tờ trình của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện về việc cách chức Thẩm phán kèm theo Biên bản phiên họp của Hội đồng xét kỷ luật Thẩm phán .
-
Hồ sơ kỷ luật của cơ quan đối với Thẩm phán vi phạm, bao gồm: Bản tự kiểm điểm của Thẩm phán, Biên bản họp Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi Thẩm phán công tác, các tài liệu về việc vi phạm của Thẩm phán.
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ cấp uỷ cùng cấp về việc cách chức Thẩm phán .
Việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị cách chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện do Giám đốc Sở Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và Thường vụ cấp uỷ cùng cấp. Toàn bộ hồ sơ được gửi lên Bộ Tư pháp. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có Tờ trình kèm với hồ sơ này gửi Chủ tịch nước để xem xét quyết định.
Đánh giá về việc cách chức Thẩm phán
Việc tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán Toà án các cấp trong thời gian qua khá chặt chẽ. Các ngành các cấp đã rất chú ý đến các điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán. Tuy nhiên trong quá trình công tác, một số Thẩm phán đã thiếu ý thức phấn đấu, tu dưỡng dẫn đến vi phạm nghiêm trọng pháp luật, phẩm chất đạo đức, các nguyên tắc nghề nghiệp, tới mức phải bị xử lý bằng hình thức cách chức.
Điểm qua trong nhiệm kỳ Thẩm phán 1994-1999, ở Toà án nhân dân Tối cao có 1 trường hợp nguyên là Thẩm phán, Phó Chánh toà dân sự đã bị cách chức Thẩm phán và bị xử lý hình sự về tội "Lợi dụng ảnh hưởng của người khác để trục lợi”. Ở Toà án nhân dân cấp tỉnh có 3 Thẩm phán bị cách chức. Còn ở Toà án nhân dân cấp huyện, số Thẩm phán bị cách chức là 32, trong đó có cả Chánh án và Phó Chánh án.
Lý do bị cách chức đối với số Thẩm phán này rất đa dạng, nhưng đa số là do có hành vi cố ý vi phạm các quy định của pháp luật, vi phạm phẩm chất đạo đức của người Thẩm phán, tham ô, nhận hối lộ, rượu chè, trai gái truy lạc... thậm chí có Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện còn vận chuyển cả thuốc phiện bị bắt quả tang. Trong số 32 Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện bị cách chức thì có tới 8 Thẩm phán bị truy tố trước pháp luật vì phạm tội hình sự. Cũng trong nhiệm kỳ Thẩm phán 1994- 1999 có 18 Thẩm phán khác bị xử lý hình thức kỷ luật từ cảnh cáo đến buộc thôi việc do vi phạm các nguyên tắc quản lý kinh tế, ra quyết định không đúng pháp luật hoặc quan hệ nam nữ bất chính... Từ thực trạng các vi phạm của Thẩm phán nêu trên, đòi hỏi các cơ quan quản lý cần có những biện pháp hữu hiệu để giáo dục phòng ngừa, kiên quyết loại trừ những cá nhân thoái hoá, biến chất ra khỏi đội ngũ Thẩm phán, góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Việc xử lý Thẩm phán vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong nhiệm kỳ vừa qua rút ra cho chúng ta bài học là không chỉ chú ý đến tiêu chuẩn Thẩm phán ở "đầu vào” trong quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm, mà còn phải quan tâm thường xuyên đến việc tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu của mỗi Thẩm phán trong quá trình công tác cũng như việc tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động xét xử của Thẩm phán Toà án các cấp.
-
Thủ tục tạm đình chỉ công tác:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thẩm quyền tạm đình chỉ công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao là của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao, đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện là của Bộ trưởng Bộ Tư pháp - cơ quan quản lý về mặt tổ chức. Vấn đề này không được quy định trong Pháp lệnh nhưng tại Công văn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999 của Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể như sau:
Đối với Thẩm phán có hành vi vi phạm pháp luật đang bị điều tra thì không được phân công làm nhiệm vụ xét xử. Trước hết để tạo điều kiện cho cơ quan điều tra tiến hành xác minh, làm rõ hành vi vi phạm pháp luật, các cơ quan trực tiếp quản lý đương sự cần phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ cùng cấp tiến hành các thủ tuc đề nghị Chánh án Toà án nhân dân Tối cao hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định tạm đình chỉ công tác của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán có hành vi vi phạm pháp luật đang bị điều tra.
Thủ tục hồ sơ gồm các tài liệu cần thiết như sau:
-
Kiến nghị bằng văn bản của cơ quan điều tra về việc tạm thời đình chỉ công tác của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán để tiến hành điều tra, làm rõ và kết luận hành vi vi phạm pháp luật.
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ cấp uỷ cùng cấp về việc tạm đình chỉ công tác của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán có hành vi vi phạm pháp luật đang bị điều tra.
-
Tờ trình về việc đề nghị tạm đình chỉ công tác của Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án có hành vi vi phạm pháp luật đang bị điều tra (kèm theo các tài liệu vi phạm pháp luật và các tài liệu khác có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật của người đó ).
Tờ trình đề nghị tạm đình chỉ công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao do Chánh to à chuyên trách trực tiếp phụ trách Thẩm phán đó thực hiện, đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh thực hiện, đối với cấp huyện do Giám đốc Sở Tư pháp sau khi trao đổi với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh thực hiện.
Trong trường hợp cần phải áp dụng ngay các biện pháp đề nghị miễn nhiệm hoặc cách chức thì không áp dụng biện pháp tạm đình chỉ công tác. Tuy nhiên biện pháp tạm đình chỉ hoạt động xét xử của Thẩm phán cần phải được quy định trong Pháp lệnh không nên quy định bằng một văn bản cấp Bộ.
Thực tế những năm qua cho thấy biện pháp này là cần thiết trong việc quản lý Thẩm phán về mặt tổ chức. Mặc dù số lượng Thẩm phán bị tạm đình chỉ công tác không nhiều, nhưng biện pháp này đã thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng xem xét các hình thức kỷ luật Thẩm phán. Những trường hợp bị tạm đình chỉ công tác sau đó đều bị kỷ luật hoặc bị cách chức Thẩm phán .
-
Về sự phối hợp hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc tuyển chọn, bổ nhiệm, thuyên chuyển, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán.
Để đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả giữa các ngành, các cấp, các tổ chức có liên quan trong việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra nghị quyết số 46/NQ/UBTVQH ngày 29/9/1993 ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân Tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự quân khu và khu vực về mặt tổ chức. Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã có Chỉ thị số 34/CT ngày 18/3/1994 về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các cấp. Điều 10 của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định trách nhiệm và quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia vào Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán .
Trên cơ sở các văn bản nói trên, các ngành, các cấp, các tổ chức đã có những Quy chế phối hợp cụ thể và nhìn chung đã phối hợp có hiệu quả, làm tốt công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp còn có những vấn đề cần phải tiếp tục rút kinh nghiệm để làm tốt hơn. Đó là:
- Sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp uỷ Đảng là vấn đề còn nhiều vướng mắc nhất ở địa phương hiện nay. Sự phối hợp này có nơi chưa tốt, chưa đồng bộ thể hiện ở việc đưa ra ý kiến không thống nhất trong việc đề cử, tuyển chọn từng con người cụ thể, nhất là việc đề nghị bổ sung nguồn Thẩm phán từ Toà án nhân dân cấp huyện lên Toà án nhân dân cấp tỉnh và ngược lại. Chỉ cần một trong 3 cơ quan nói trên không đồng ý giới thiệu thì cơ quan chủ quản không thể đề nghị được, mặc dù người đó đủ các điều kiện, tiêu chuẩn để được bổ nhiệm giữ chức vụ đó. Hiện tượng địa phương chủ nghĩa, tư tưởng "khép kín” vẫn còn. Từ đó gây nên tình trạng thiếu Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án mang tính chất cục bộ ở một số địa phương.
-
Theo quy định tại Điều 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì Giám đốc Sở Tư pháp là Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Chức năng quản lý Toà án nhân dân cấp huyện của Bộ Tư pháp được thực hiện thông qua Giám đốc Sở Tư pháp. Tuy nhiên qua thực tế ở nhiều địa phương, việc quản lý, điều hành của Giám đốc Sở Tư pháp là yếu. Điều này làm hạn chế rất nhiều đến chất lượng quản lý Toà án nhân dân cấp huyên, từ đó cũng ảnh hưởng tới hoạt động xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện.
-
Sự phối hợp chưa hiệu quả giữa các ngành, các cấp ở địa phương còn thể hiện ở khâu quản lý đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện chưa chặt chẽ, ở việc lập hồ sơ, thực hiện các thủ tục miễn nhiệm, cách chức, điều động, thuyên chuyển Thẩm phán. Có trường hợp phải chờ đợi lâu chỉ vì thiếu ý kiến của cấp uỷ địa phương. Có trường hợp chưa làm thủ tục miễn nhiệm Thẩm phán thì Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh đã ra quyết định điều động và bổ nhiệm giữ chức vụ khác. Có trường hợp miễn nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh ở nơi này để làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện ở tỉnh khác, nhưng do việc kết hợp giữa hai địa phương không đồng bộ nên làm thủ tục miễn nhiệm chức vụ cũ và thủ tục bổ nhiệm chức vụ mới không cùng một lúc đã gây khó khăn trong việc sắp xếp, bố trí cán bộ. Đặc biệt là sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc xử lý kỷ luật cán bộ, Thẩm phán rất chậm. Việc thẩm tra, trao đổi ý kiến, thủ tục xử lý kỷ luật giữa các cơ quan mất khá nhiều thời gian, nên đến khi có quyết định kỷ luật thì tính thời sự của sự việc đã bị hạn chế, dư luận xã hội bất bình.
-
Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức ở trung ương có lúc chưa thực sự nhịp nhàng. Điều này thể hiện ở việc điều chuyển, bổ sung Thẩm phán từ trung ương về địa phương và từ địa phương lên trung ương. Nếu tắc ở một khâu nào đó thì công việc coi như bị trì hoãn, thậm chí là thất bại. Nhiều trường hợp hồ sơ gửi lên Chủ tịch nước bị chậm là do phải chờ đợi ý kiến của các ngành, các cấp; sự phối hợp trong việc quản lý các Toà án địa phương, quản lý Thẩm phán còn chưa chặt chẽ, rõ ràng. Có thể đưa ra vài ví dụ sau đây:
+ Thực tế đã có một số trường hợp Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao đã họp xét và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, nhưng chưa có ý kiến của Ban Nội chính Trung ương và của Ban Bảo vệ chính trị nội bộ. Đến khi các cơ quan Đảng có công văn chính thức đề nghị thẩm tra lại lý lịch hoặc một vấn đề nào đó còn chưa rõ ràng thì Hội đồng tuyển chọn phải họp lại để xem xét thêm. Vì vậy về vấn đề này cần quy định Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán chỉ họp xem xét, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán sau khi đã có đầy đủ hồ sơ, thủ tục và nhất là phải có ý kiến của cấp uỷ Đảng.
+ Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các tổ chức trong việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán có nhiều vấn đề phải bàn. Tuy đã có Luật khiếu nại, tố cáo, nhưng việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán có nhiều nét đặc thù, ví dụ như: đơn thư tố cáo đối với Thẩm phán đa số là nặc danh; có đơn thư vừa khiếu nại Thẩm phán về vụ án mà Thẩm phán trực tiếp hoặc tham gia giải quyết, vừa tố cáo đạo đức tư cách của Thẩm phán. Những loại đơn thư này không thể một ngành, một cấp xử lý được, do đó thời gian xử lý đơn thư thường bị kéo dài.
Để khắc phục những tồn tại trong việc phối hợp giữa các ngành, các cấp về tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán cần phải xác định rõ hơn phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng tổ chức, từng cá nhân cụ thể, xác định thời hạn tối đa giải quyết công việc của từng cơ quan, từng tổ chức. Nói cách khác cần phải ban hành một Quy chế phối hợp mang tính chất tổng thể giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, trong đó có cả vấn đề giám sát, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán. Có như vậy chúng ta mới quy trách nhiệm cụ thể cho từng người, mới nâng cao được tính hiệu quả của việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.
-
Quy định về Hội thẩm Toà án trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân - những vướng mắc cần được xem xét giải quyết.
Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 thì việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của các Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Tiêu chuẩn của Hội thẩm được quy định tại điều 37 Luật tổ chức Toà án nhân dân, điều 4 và điều 29 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, cụ thể: Là công dân Việt Nam; Trung thành với Tổ quốc; Có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực; Có kiến thức pháp lý; Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; Cô sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao; Có uy tín với nhân dân nơi mình cư trú, công tác. Kiên quyết đấu tranh báo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Với những quy định trên đây, khi thực hiện Pháp lênh đã gặp phải những vướng mắc trong việc xác định tiêu chuẩn Hội thẩm và việc quản lý Hội thẩm.
Về tiêu chuẩn chuyên môn và nghiệp vụ của Hội thẩm:
Một thực tế đang đòi hỏi phải giải quyết là sự chênh lệch về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giữa Thẩm phán và Hội thẩm ngày càng rõ rệt. Trong lức pháp luật đòi hỏi Thẩm phán phải có tiêu chuẩn cao về chuyên môn, nghiệp vụ thì tiêu chuẩn của Hội thẩm hầu như không có gì thay đổi qua nhiều năm, mặc dù trình độ dân trí nói chung và trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân đã được nâng cao hơn so với trước đây. Bên cạnh đó nguyên tắc xét xử độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm cũng như nguyên tắc Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nguyên tắc xét xử tập thể, quyết định theo đa số ngày càng đòi hỏi ở Hội thẩm nhiều hơn về kiến thức chuyên môn. Nhưng thực tế đội ngũ Hội thẩm hiện nay chưa đáp ứng được. Hiện nay cả nước có trên 11.000 Hội thẩm nhưng tiêu chuẩn về chuyên môn của họ rất chung chung "có kiến thức pháp lý" và "phải được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ" như vậy là khác xa với tiêu chuẩn về Thẩm phán.
Vì vậy để Hội thẩm phát huy được hết khả năng của mình trong quá trình xét xử, pháp luật cần quy định rõ ràng và cụ thể về tiêu chuẩn pháp lý của Hội thẩm. Không thể quy định quá thấp như trước đây, nhưng cũng không nên quy định quá cao để không rơi vào tình trạng "chuyên môn hoá" hay "Thẩm phán hoá” Hội thẩm, làm cho hoạt động xét xử mất dần đi tính chất xã hội rộng rãi của mình. Đồng thời với việc quy định cụ thể tiêu chuẩn pháp lý, cần kịp thời có biện pháp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho Hội thẩm.
Vấn đề quản lý Hội thẩm
Việc quản lý Hội thẩm nhân dân trong những năm qua ở các địa phương chưa được thể chế hoá cụ thể và đầy đủ dẫn đến tình trạng quản lý nửa vời. Thực tế hiện nay cho thấy ở cấp độ vĩ mô, Bộ Tư pháp đang thực hiện một số công việc về quản lý các Hội thẩm nhân dân của Toà án địa phương, vì Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan của Chính phủ, giúp Chính phủ quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức. Tuy nhiên việc quản lý đó chỉ trong phạm vi và giới hạn nhất định như: Cấp giấy chứng minh Hội thẩm; nghiên cứu, đề xuất và trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ chính sách đối với Hội thẩm; tổng hợp số lượng và tình hình công tác Hội thẩm trong cả nước, biên soạn tài liệu nghiệp vụ cho Hội thẩm, cấp kinh phí tập huấn cho Hội thẩm... còn các hoạt động khác của Hội thẩm chưa có cơ quan nào đứng ra quản lý một cách toàn diện, ở một số địa phương, Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện cũng như Chánh án Toà án nhân dân các tỉnh, huyện đã dựa trên các quy định của pháp luật thực hiện một số việc quản lý với đội ngũ Hội thẩm như ban hành quy chế của Đoàn Hội thẩm, cấp trang phục, khen thưởng đối với Hội thẩm và thực hiện một số chế độ, chính sách khác đối với họ. Như vậy, có thể nói việc quản lý toàn diện đội ngũ Hội thẩm của các Toà án nhân dân địa phương là vấn đề còn bỏ ngỏ.
III- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG PHÁP LỆNH
-
Đề nghị bổ sung vào Pháp lệnh nội dung giao cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có chức năng giám sát các hoạt động của Thẩm phán
Để tránh tình trạng việc tuyển chọn Thẩm phán chỉ mang tính chất hình thức (thuần tuý chỉ dựa trên hồ sơ) cũng như nâng cao hơn nữa vai trò của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp, chúng tôi đề nghị ngoài hai chức năng của các Hội đồng theo quy định của pháp luật hiện nay, nên bổ sung thêm chức năng giám sát các hoạt động của Thẩm phán đương nhiệm để đến hết nhiệm kỳ Thẩm phán, Hội đồng có cơ sở tiếp tục đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm hoặc không bổ nhiệm Thẩm phán. Vấn đề kiểm tra, giám sát đối với Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp về mặt pháp lý có khá nhiều cơ quan, tổ chức tham gia như : Quốc hội, uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ (Bộ Tư pháp ), Hội đồng nhân dân, Toà án cấp trên, Mặt trận Tổ quốc... Việc quy định nhiều cơ quan, tổ chức có chức năng này nhưng trách nhiệm lại rất chung chung, không có sự phân định rõ rệt về thẩm quyền dẫn đến tình trạng hoặc can thiệp quá sâu vào tác nghiệp của Thẩm phán hoặc lại buông lỏng, lơi là khâu quản lý, kiểm tra, giám sát Thẩm phán .
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp có khả năng làm tốt được chức năng này, bởi vì thành phần của Hội đồng có sự tham gia của đại diện lãnh đạo nhiều ngành, nhiều cấp có thẩm quyền nói trên. Hơn nữa Hội đồng này không chỉ có nhiệm vụ tuyển chọn người mới để đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán, mà còn có nhiệm vụ xem xét đề nghị việc tái bổ nhiệm. Do vậy Hội đổng tuyển chọn Thẩm phán các cấp cũng rất cần phải theo dõi, giám sát các hoạt động của Thẩm phán trong cả nhiệm kỳ để có đánh giá chính xác về mọi mặt của Thẩm phán đương nhiệm.
Tuy nhiên cần nghiên cứu cách thức, biện pháp giám sát đối với Thẩm phán như thế nào để vừa tránh hình thức, đồng thời tránh tình trạng chồng chéo về thẩm quyền giữa các cơ quan, tổ chức. Do vậy trước hết cần xác định phạm vi trách nhiệm của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp, sao cho việc giám sát phải có hiệu quả, gọn nhẹ, nhưng lại không vi phạm các nguyên tắc độc lập trong xét xử của Thẩm phán. Vấn đề giám sát việc bổ nhiệm Thẩm phán và giám sát Thẩm phán đương nhiệm cũng là một trong những nội dung quan trọng cần được để cập, nghiên cứu trong khi xây dựng dự thảo Luật về giám sát của các cơ quan Nhà nước.
2. Đề nghị bổ sung vào Điều 21; 22; 23 của Pháp lệnh về thành viên của Hội đổng tuyển chọn Thẩm phán các cấp bao gồm cả những Thẩm phán có nhiều năm công tác, có trình đô chuyên môn vững, có uv tín cao trong ngành tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán
Có nhiều ý kiến cho rằng việc quy định như hiện nay về thành phần của Hội động tuyển chọn Thẩm phán các cấp còn mang tính hình thức. Đây cũng là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để đảm bảo hoạt động của Hội đồng tuyển chọn đạt kết quả cao hơn. Qua thực tiễn công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán cho thấy trình độ các thành viên trong Hội đồng rất không đồng đều. Các thành viên nhìn chung chưa thực sự nắm bắt được quá trình hoạt động, công tác của Thẩm phán. Có trường hợp Thẩm phán vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật nhưng Hội đồng không biết, vẫn tiến hành các thủ tục đề nghị tái bổ nhiệm, đến khi có quyết định bổ nhiệm của Chủ tịch nước lại phải đề nghị xoá tên trong danh sách. Hoặc Hội đồng cũng chưa nắm bắt kịp thời những diễn biến tư tưởng, những nguyện vọng của Thẩm phán. Ví dụ: Một trường hợp ở Toà án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh Thanh Hoá không thi hành quyết định bổ nhiệm Thẩm phán của Chủ tịch nước, vì lý do đương sự chỉ chấp nhận làm việc ở đơn vị được thuyên chuyển đến nếu được giữ chức vụ lãnh đạo (!)... Vì vậy chúng tôi kiến nghị cần nâng cao hơn chất lượng hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện. Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao cần có tổng kết đánh gía riêng về thực trạng hoạt động của các Hội đồng này, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị cụ thể.
3. Đề nghị bổ sung vào Chương III của Pháp lệnh vấn đề tiêu chuẩn của Thẩm phán: Phải qua lớp đào tạo Thẩm phán mới được bổ nhiệm Thẩm phán; Thẩm phán bổ nhiệm lần đầu là Thẩm phán cấp huyện; phải là Thẩm phán cấp dưới mới đươc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp trên. Bổ sung vào Pháp lệnh chế độ tiền lương của Thẩm phán.
Cùng với việc tăng cường chất lượng của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp, còn một yếu tố khác là tiêu chuẩn của Thẩm phán cũng phải được quy định rõ ràng, để cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có cơ sở cân nhắc, quyết định những ai được đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán. Điều 4, 16, 17, 18 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân đã quy định về tiêu chuẩn của Thẩm phán. Nhưng trong thực tế các quy định về thời gian làm công tác pháp luật để được bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh và Toà án nhân dân Tối cao là không có tính khả thi. Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trong quá trình làm việc cũng đã gặp phải những khó khăn khi cân nhắc quyết định giữa thực tế và tiêu chuẩn được quy định trong Pháp lệnh. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì:
- Một là, quy định về tiêu chuẩn thời gian làm công tác pháp luật để được bổ nhiệm Thẩm phán đối với cấp huyện 4 năm, cấp tỉnh 6 năm, Toà án nhân dân Tối cao 8 năm là không phù hợp với thực tế ở nước ta. Qua hai nhiệm kỳ bổ nhiệm Thẩm phán cho thấy, rất ít người được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao khi mới vừa đủ thời gian công tác quy định trong Pháp lệnh. Thực trạng cán bộ ở các cơ quan pháp luật trong những năm qua hình thành hai thế hệ cán bộ rõ rệt. Một thế hệ công tác lâu năm, đã tốt nghiệp cao đẳng Toà án hoặc đại học luật phần lớn đã được bổ nhiệm Thẩm phán, một số người không được bổ nhiệm lại là do thiếu về tiêu chuẩn chuyên môn. Thế hệ thứ hai là những cán bộ trẻ được tuyển dụng vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 - thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới đất nước - chủ yếu chỉ là để đáp ứng đủ yêu cầu biên chế của các Toà án. Thế hệ cán bộ thứ hai này được chia thành hai loại: Một loại được đào tạo cơ bản có bằng đại học luật, nhưng số người này không nhiều. Loại thứ hai gồm những người chưa học đại học luật nhưng được tuyển dụng vào Toà án do nhiều nguyên nhân khác nhau, loại này chiếm đa số nếu ở các Toà án nhân dân cấp huyện, với khoảng từ 70 đến 80%. Sau khi được tuyển dụng một thời gian, số cán bộ này mới đi học đại học tại chức luật. Đối với số cán bộ này, xét về tiêu chuẩn thời gian, về điều kiện chuyên môn theo quy định của Pháp lệnh là đủ, nhưng thực chất về năng lực, trình độ thực tế để đảm đương nhiệm vụ xét xử của Toà án thì rất yếu. Đây là một thực tế và cũng là khó khăn cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán khi xem xét quyết định những trường hợp cụ thể. Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, việc tuyển chọn có thể dễ dàng hơn, vì thực tế các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện thông thường là những vụ án nhỏ, tính chất đơn giản, số bị cáo không nhiều. Việc tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện cán bộ như hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Theo quy định của Pháp lệnh, người có trình độ đại học luật hoặc cao đẳng Toà án, có 6 năm làm công tác pháp luật có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh. Nhưng trong thực tế những người này mới chỉ được đào tạo kiến thức cơ bản về pháp luật, khi ra trường chỉ làm thư ký ở một Toà án nhân dân cấp tỉnh nào đó, chưa từng ngồi xét xử bao giờ, không được đào tạo nghề Thẩm phán. Trong tình trạng như vậy, rõ ràng việc bổ nhiệm những người này làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh là điều bất cập. Có chăng chỉ có thể bổ nhiệm họ làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện là phù hợp - Còn loại thứ hai tức là số cán bộ vào làm việc ở Toà án sau đó mới đi học đại học, 6 năm công tác của họ chủ yếu là thời gian đi học. Những trường hợp này lại càng không thể chấp nhận để đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh. Trước thực trạng như vậy, nhiều trường hợp đã đủ không chỉ 6 năm công tác, mà là 10 năm hoặc nhiều hơn nữa, nhưng vẫn không được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh xem xét, đồng ý đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, mà phải để lại, yêu cầu học qua trường đào tạo Thẩm phán, sau đó mới đề nghị bổ nhiệm, hoặc yêu cầu làm hồ sơ đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện.
- Hai là, mặc dù Pháp lệnh không quy định về tiêu chuẩn tiền lương khi tuyển chọn Thẩm phán, nhưng có một thực tế mà Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp đều phải tính đến, đó là những quy định về tiền lương giữa Thẩm phán các cấp hiện nay quá bất hợp lý. Theo quy định hiện hành, mức lương khởi điểm của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện là 2,16, của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh là 3,62 và của Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao là 5,02. Lương Thẩm phán cấp huyện được chia thành 10 bậc, cứ 3 năm lên một bậc. Sau 31 năm công tác (tính từ khi được bổ nhiệm Thẩm phán ) mức lương cao nhất của họ là 4,25. Đối với chế độ lương của Thẩm phán cấp tỉnh được chia thành 9 bậc, cứ 3 năm lên một bậc lương, sau 30 năm làm Thẩm phán mức lương cao nhất của họ là 5,70. Rõ ràng đây là bất hợp lý rất lớn trong chế độ tiền lương, liên quan trực tiếp đến việc bố trí, sắp xếp cán bộ. Nếu áp dụng thời gian công tác theo quy định của Pháp lệnh để bổ nhiệm Thẩm phán, về lý thuyết cho thấy đang tồn tại sự bất công quá lớn giữa Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp. Cụ thể là : nếu có 3 sinh viên luật cùng tốt nghiệp đại học, được phân công công tác về 3 đơn vị Toà án ở 3 cấp khác nhau, sau một thời gian công tác và phấn đấu theo quy định của Pháp lệnh, họ được bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, thì sẽ nẩy sinh sự bất hợp lỷ không thể chấp nhận được về chế độ tiền lương. Đó là sau 4 năm công tác người ở cấp huyện được bổ nhiệm Thẩm phán, hưởng mức lương 2,16. Hai năm khi chưa đủ thời gian để người này được lên bậc lương thứ 2 (3 năm một bậc), thì người ở cấp tỉnh đủ 6 năm công tác được bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, hưởng lương khởi điểm là 3,62 - vượt người Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện khoảng 7 bậc lương. Tức là phải sau 21 năm, người ở cấp huyện mới được hưởng mức lương bằng bậc lương khởi điểm của Thẩm phán cấp tỉnh. Nếu so sánh với Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao thì điều bất hợp lý này còn lớn hơn nhiều. Đây là lý do vì sao một người đã có 6 năm công tác, có đủ các tiêu chuẩn khác để được bổ nhiệm Thẩm phán, nhưng ngoài việc phải xem xét về năng lực làm việc còn phải cân đối để đảm bảo về chế độ tiền lương.
- Ba là, vấn đề liên quan đến nghề nghiệp Thẩm phán. Ngày nay, Thẩm phán có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Mọi phán quyết của Thẩm phán đều có ảnh hưởng tích cực, hoặc làm xấu đi một quan hệ pháp luật nào đó. Vì vậy Thẩm phán là nghề phức tạp, khó khăn. Trong những năm qua hầu hết Thẩm phán không được đào tạo nghề một cách cơ bản, sự tinh thông về nghiệp vụ của Thẩm phán là do thâm niên công tác trong ngành, người đi trước truyền kinh nghiệm cho người đi sau, nên kiến thức không cơ bản. Thông thường Thẩm phán được phát triển tại chỗ là chính, mà chủ yếu từ thư ký mà lên. Vì vậy đối với những người làm thư ký Toà án nhân dân các tỉnh được bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thường gặp rất nhiều khó khăn trong xét xử. Bởi vì các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp tỉnh thông thường là án phức tạp, trong khi đó họ lại chưa từng xét xử những vụ án đơn giản của cấp huyện. Nếu như được bổ nhiệm ngay làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thì sẽ dẫn đến lúng túng và có những sai sót trong khi xét xử. Đây cũng là những điều bất cập cần phải được bổ sung vào Pháp lệnh như một quy định bất buộc về tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán. Đó là:
+ Người được xem xét để được bổ nhiệm Thẩm phán nhất thiết phải tốt nghiệp Trường đào tạo Thẩm phán. Việc đào tạo Thẩm phán cần phải chú trọng hơn nữa đến chất lượng đào tạo. Để được vào học lớp Thẩm phán đều phải thi đầu vào. Thời gian đào tạo lớp Thẩm phán khoảng 3 năm. Thời gian thực tập có ý nghĩa hết sức quan trọng, do vậy pháp luật cũng cần có quy định về chế độ Thẩm phán tập sự, cho phép Thẩm phán tập sự được thực tập xét xử một số vụ án đơn giản do những Thẩm phán có kinh nghiệm hướng dẫn và chính những Thẩm phán hướng dẫn phải chịu trách nhiệm về những quyết định của bản án. Trên cơ sở những kết quả học tập và thực tập của các học viên trường Thẩm phán, Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét đề nghị cấp có thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán .
+ Người được bổ nhiệm Thẩm phán lần đầu chỉ được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Đối tượng được xét đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh nhất thiết phải là Thẩm phán cấp huyện, với thời gian làm Thẩm phán tại Toà án nhân dân cấp huyện ít nhất là một nhiệm kỳ 5 năm. Đối tượng được xét đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao nhất thiết phải qua là Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, với thời gian làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh là 10 năm.
Tóm lại, nếu pháp luật quy định những tiêu chuẩn cụ thể như đã phân tích ở trên, thì tiêu chuẩn về thời gian làm công tác pháp luật đối với người được đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án các cấp là không còn cần thiết.
- Chế độ tiền lương đối với Thẩm phán không nên chia thành 3 bảng lương tương ứng với 3 cấp Toà án, mà chỉ nên có một bảng lương duy nhất dành cho Thẩm phán nói chung, được phân chia làm nhiều bậc lương từ thấp đến cao. Quy định này, một mặt sẽ khắc phục được sự bất hợp lý về lương như đã nêu ở trên, mặt khác tạo điều kiện cho việc điều động, thuyên chuyển Thẩm phán giữa các cấp với nhau. Hiện nay, việc điều động một Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xuống làm Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện đang gặp khó khăn về việc sắp xếp lương. Theo quy định thì phải xếp mức lương của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng theo bảng lương cấp huyện thì sẽ phải hạ lương của Thẩm phán được điều động, vì mức lương cao nhất của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện chỉ là 4,25 - gần bằng bậc 4 của ngạch lương Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh. Chính vì vậy nên việc điều động Thẩm phán giữa các cấp Toà án đã gặp rất nhiều khó khăn.
4. Bổ sung vào Pháp lệnh trình tư, thủ tục tuyển chọn Thẩm phán theo hướng tâp trung thẩm quyền cho Hôi đồng tuyển chọn, bỏ bớt môt số thủ tục không cần thiết.
Qua gần 2 nhiệm kỳ thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán, cho thấy thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm còn nhiều vấn đề phức tạp, rườm rà, phải qua nhiều khâu, chờ đợi nhiều ý kiến, dẫn đến quá trình bổ nhiệm bị kéo dài, có nhiều thủ tục mang tính chất hình thức. Mục đích cải tiến thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán là làm cho việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán đảm bảo được nhanh chóng, nhưng chặt chẽ và đúng quy định của pháp luật. Chúng tôi xin có một số kiến nghị về vấn đề này như sau:
- Về thủ tục chuẩn bị hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, có nhiều ý kiến đề nghị cần có sự phân biệt trường hợp bổ nhiệm mới và trường hợp tái bổ nhiêm. Cụ thể là: Đối với những trường hợp bổ nhiệm Thẩm phán lần đầu thì hồ sơ phải đầy đủ. Nhưng đối với hồ sơ tái nhiệm thì nên theo hướng đơn giản hơn về thủ tục. Chúng tôi cho rằng đối với trường hợp tái bổ nhiệm thì không cần phải lập lại toàn bộ hồ sơ như bổ nhiệm lần đầu mà trên cơ sở hồ sơ cũ đã có, bổ sung thêm một số tài liệu bắt buộc là: Bản kiểm điểm công tác hết nhiệm kỳ Thẩm phán (trong đó đặc biệt nêu rõ số lượng án đã xét xử trong nhiệm kỳ, đánh giá về số lượng và chất lượng các vụ án án bị huỷ, bị cải sửa nghiêm trọng); Bản nhận xét của Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp (theo một mẫu quy định thống nhất) và ý kiến đề nghị của Ban Thường vụ Đảng Uỷ cùng cấp. Ngoài ra có thể bổ sung thêm văn bằng, chứng chỉ mới liên quan đến việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hoặc những thay đổi về lý lịch (nếu có).
-Việc thăm dò tín nhiệm của tập thể cơ quan bằng phiếu kín đối với việc bổ nhiệm Thẩm phán là một thủ tục cần thiết, nhưng để tránh việc lấy tín nhiệm chỉ là hình thức thì Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao cần có hướng dẫn thống nhất cách thức lấy phiếu tín nhiệm và quy định rõ ràng đối với những người ngoài cơ quan thì tổ chức lấy phiếu tín nhiệm thế nào cho khách quan nhất. Mặt khác danh sách đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cần niêm yết công khai, không chỉ để cho những người trong cơ quan, mà mọi người khác quan tâm cũng được biết để tham gia giám sát, phản ánh với các cơ quan có thẩm quyền. Các ngành, các cấp, các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán từ đó có cơ sở, vững tin hơn trong việc lập hồ sơ, tiến hành xét chọn, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán , đảm bảo đúng người, đúng tiêu chuẩn pháp luật quy định.
-Trong thời gian qua, nhiều trường hợp chuẩn bị hồ sơ thiếu chặt chẽ, thiếu một số tài liệu quan trọng như : lý lịch thiếu xác nhận của cơ quan quản lý, không thống nhất về họ, tên, ngày sinh trong các giấy tờ hồ sơ (sai sót về kỹ thuật văn bản); lý lịch khai chưa rõ về bản thân, gia đình; hồ sơ thiếu văn bằng chứng chỉ, thiếu đơn tình nguyện, thiếu ý kiến cấp uỷ, thiếu bản kiểm điểm quá trình công tác... Các giấy tờ trong hồ sơ chưa theo một mẫu thống nhất chung, kể cả nội dung trình bày và cỡ kích tờ giấy. Việc sắp xếp thứ tự các loại giấy tờ trong hồ sơ chưa khoa học, chưa theo một quy trình thống nhất. Những thiếu sót này cần được quan tâm khắc phục sớm để đảm bảo tính khoa học của công tác tổ chức, nếu không sẽ ảnh hưởng không chỉ chất lượng mà cả đến tiến độ thời gian tuyển chọn bổ nhiệm.
5. Đề nghị sửa đổi Pháp lệnh về thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán, hình thức của quyết định bổ nhiệm Thẩm phán
Trong thời gian tới, đề nghị với các cơ quan hữu quan: Văn phòng Chủ tịch nước, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao bàn bạc, phối hợp trong việc kết nối mạng vi tính, sử dụng phần mềm tin học về công tác quản lý, bổ nhiệm Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp để vừa đảm bảo tính chính xác thống nhất, vừa đảm bảo sự nhanh chóng, kịp thời của công tác này.
Tiếp tục nghiên cứu về hình thức ra quyết định bổ nhiệm Thẩm phán . Có ý kiến đề nghị mỗi Thẩm phán nên có riêng một quyết định của Chủ tịch nước để thể hiện sự tôn vinh của Nhà nước đối với người Thẩm phán . Có cần thiết phải làm như vậy không? Chúng tôi cho rằng nếu làm được như vậy là rất tốt. Tuy nhiên yêu cầu này rất khó được thực hiện, bởi vì với bộ máy tổ chức của bộ phận giúp việc Chủ tịch nước như hiện nay thì không thể đảm bảo được đòi hỏi này. Vì vậy, trước mắt mỗi quyết định của Chủ tịch nước vẫn phải kèm theo một danh sách bổ nhiệm Thẩm phán . Nhưng để tạo điều kiện cho Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân Tối cao sao gửi quyết định bổ nhiệm Thẩm phán cho các Toà án địa phương được thuận lợi thì danh sách bổ nhiệm Thẩm phán nên tách thành từng địa phương, từng Toà án (nếu có nhiều người cùng đề nghị trong một đợt) ngay từ khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc Chánh án Toà án nhân dân Tối cao lập tờ trình đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán.
6. Đề nghị bổ sung vào Điều 15, Chương II của Pháp lệnh về vấn đề thẩm quyền ra quyết định thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương cùng cấp:
Điều 15 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân mới chỉ quy định về thẩm quyền thuyên chuyển Thẩm phán, chưa có quy định về thẩm quyền quyết định thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương. Chính vì thế vấn đề này đang có nhiều ý kiến khác nhau, làm cho công tác điều chuyển cán bộ lãnh đạo Toà án từ tỉnh này sang tỉnh khác, huyện này sang huyện khác gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi có thể khắc phục một cách lâu dài bằng cách bổ sung ngay vào Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thủ tục thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án.
Tuy nhiên, để giải quyết khó khăn trước mắt về công tác điều chuyển cán bộ trong thời gian chờ bổ sung vào Pháp lệnh, có thể khắc phục bằng cách: Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án từ nơi này đến nơi khác trong cùng một cấp Toà án. Chúng tôi cho rằng Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm quản lý toàn bộ đội ngũ Thẩm phán , Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương thì cũng có thể ra quyết định thuyên chuyển không chỉ Thẩm phán, mà cả Chánh án, Phó Chánh án từ nơi này đến nơi khác trong cùng một cấp Toà án. Tuy nhiên, nếu được Chủ tịch nước uỷ quyền và để việc thuyên chuyên Chánh án, Phó Chánh án đạt hiệu quả cao, trước khi ra quyết định, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngoài việc thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân Tối cao theo quy định của pháp luật, nhất thiết phải trao đổi ý kiến và đạt được sự nhất trí với lãnh đạo các ngành có liên quan ở địa phương nơi đi và nơi đến, nhất là cấp uỷ địa phương, tránh để xẩy ra nơi quá thừa, nơi lại qua thiếu cán bộ lãnh đạo Toà án, gây khó khăn cho công tác điều hành xét xử ở địa phương.
7 - Đề nshỉ bổ sung vào Chương III của Pháp lệnh quy định về thủ tục thuyên chuyển Thẩm phán cùng cấp.
Như đã phân tích ở phần trên cho thấy vấn đề thuyên chuyển Thẩm phán chưa được Luật và Pháp lệnh quy định cụ thể. Việc thực hiện cơ chế này chưa đảm bảo sự thống nhất cũng như chưa có sự phối hợp tốt giữa các ngành, các cấp có liên quan. Vì vậy chúng tôi đề nghị:
- Bổ sung vào Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân các nguyên tắc, điều kiện thuyên chuyển Thẩm phán. Đây là những vấn đề quan trọng không thể chỉ dừng lại ở các văn bản hướng dẫn như hiện nay. Đề nghị giao thẩm quyền này cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc Chánh án Toà án nhân dân Tối cao ra quyết định thuyên chuyển Thẩm phán khi cần thiết, về thủ tục thuyên chuyển cần quy định gọn lại, quy định như hiện nay là quá phức tạp nhất là thuyên chuyển Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện từ tỉnh này sang tỉnh khác.
Theo báo cáo của Vụ quản lý Toà án địa phương, để thực hiện được thủ tục thuyên chuyển Thẩm phán, hồ sơ phải có 8 cửa với 8 con dấu: Hai con dấu của hai cấp uỷ nơi đi và nơi đến, 2 con dấu của 2 Chánh án tỉnh nơi đi và nơi đến, 2 con dấu của 2 Sở Tư pháp của nơi đi nơi đến, 1 con dấu của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao và 1 con dấu của Bộ Tư pháp. Việc chờ đợi đầy đủ tất cả các con dấu nói trên tốn kém rất nhiều thời gian, không đáp ứng được yêu cầu giải quyết các án tồn đọng ở các Toà án, nhất là ở cấp huyện. Do vậy, vấn đề này cần có sự nghiên cứu phối hợp giữa các ngành các cấp sao cho có thể giảm bớt những thủ tục không cần thiết để việc thuyên chuyển Thẩm phán được nhanh chóng, dễ dàng hơn. Ví dụ việc thuyên chuyển Thẩm phán từ tỉnh này sang tỉnh khác cần quy định thời hạn nhất định cho các cấp có thẩm quyển thực hiện. Nếu quá hạn đó mà chưa có ý kiến thì coi như là nhất trí. Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố thì cần thiết có thể phân cấp thẩm quyền cho các cơ quan bên dưới (Sở Tư pháp và Toà án nhân dân cấp tỉnh) trực tiếp giải quyết các trường hợp thuyên chuyển Thẩm phán có thời hạn trong phạm vi địa phương và sau đó báo cáo kết quả cho các cơ quan quản lý cấp trên.
8- Đề nghị bổ suns vào Chương III của Pháp lệnh thủ tục miễn nhiệm Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án Toà án địa phương:
Theo văn bản hướng dẫn hiện hành thì các trường hợp miễn nhiệm Thẩm phán đều phải có đơn tự nguyện của Thẩm phán. Thực tế thì chỉ các trường hợp miễn nhiệm vì lý do sức khỏe, năng lực yếu, xin chuyển công tác để hợp lý hoá gia đình, hoặc vi phạm kỷ luật nhưng chưa tới mức độ phải cách chức thì trong hồ sơ mới cần thiết có đơn xin miễn nhiệm. Còn trường hợp miễn nhiệm Thẩm phán để chuyển công tác khác do yêu cầu nhiệm vụ chung thì không bắt buộc phải có đơn xin miễn nhiệm. Điều này chúng tôi cho là hợp lý, bởi vì đã có nhiều trường hợp cần miễn nhiệm Thẩm phán để điều chuyển sang nhận nhiệm vụ khác, nhưng bản thân Thẩm phán đó không muốn đi, nên đã không tự nguyện làm đơn, gây khó khăn cho công tác tổ chức. Cho nên quy định này nhiều khi là hình thức, mặt khác cũng chưa phù hợp với Pháp lệnh cán bộ công chức hiện hành.
Trong thời gian qua cũng có một số trường hợp nhận quyết định bổ nhiệm Thẩm phán chưa lâu (khoảng sau vài tháng tới 1 năm ) thì đã có đơn và hồ sơ trình lên Chủ tịch nước xin miễn nhiệm để được chuyển sang công tác khác. Cho dù lý do xin miễn nhiệm có chính đáng đến đâu chăng nữa thì việc tuyển chọn Thẩm phán cũng chưa thực sự kỹ càng, gây khó khăn cho công tác tổ chức cán bộ. Vì vậy, chúng tôi đề nghị cần quy định chặt chẽ hơn về khâu quy hoạch cán bộ của các ngành các cấp, đồng thời xác định rõ trách nhiệm, kỷ luật đối với Thẩm phán trước khi viết đơn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán. Nếu có lý do cá nhân cần phải xin miễn nhiệm để chuyển công tác khác thì cũng nên quy định bắt buộc phải qua một thời gian tối thiểu kể từ ngày nhận quyết định, khoảng một nhiệm kỳ Thẩm phán .
9- Đề nghị bổ sung vào Chương III thẩm quyền và thủ tục cách chức Thẩm phán.
Về cách chức Thẩm phán, chúng tôi thấy nổi lên vấn đề là việc xử lý rất chậm chạp, chưa đảm bảo tính kịp thời, nghiêm minh của pháp luật, do vậy tính giáo dục, thuyết phục không cao. Thông thường tính từ khi xẩy ra vụ việc vi phạm của Thẩm phán cho đến khi có hồ sơ gửi lên Chủ tịch nước để có quyết định cách chức Thẩm phán phải mất 5-6 tháng. Cá biệt có trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện vi phạm pháp luật nghiêm trọng, tuy vụ việc không phức tạp, nhưng thời gian để tiến hành các thủ tục cách chức Thẩm phán phải mất tới hơn 1 năm (!). Thời gian lâu nhất là thời gian thẩm tra, kết luận và làm các thủ tục để đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét đề nghị hình thức cách chức Thẩm phán .
Chúng tôi kiến nghị về mặt pháp luật cần quy định rõ thời hạn xử lý các trường hợp cách chức Thẩm phán. Ví dụ: nếu vụ việc đơn giản, rõ ràng, thì thời hạn làm các thủ tục cho đến khi Chủ tịch nước ra quyết định cách chức Thẩm phán không qúa 4 tháng; trường hợp vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn, nhưng cũng nên tối đa không quá 1 năm. Quy định như thế đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền xử lý vụ việc phải khẩn trương hơn trong việc xác định hành vi vi phạm, mức độ lỗi của Thẩm phán , lập hồ sơ để đưa ra Hội đồng kỷ luật xem xét, đảm bảo tính nghiêm minh, kịp thời trong việc xử lý vi phạm.
10. Đề nghị bổ sung vào Pháp lệnh thủ tục xóa tên trong danh sách bổ nhiệm Thẩm phán các cấp và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án địa phương.
Pháp luật hiện hành không có quy định về việc Chủ tịch nước ra quyết định xoá tên Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp. Tuy nhiên trong thực tế đã có một số trường hợp ở Toà án địa phương, Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Toà án nhân dân Tối cao đã có tờ trình Chủ tịch nước xoá tên Thẩm phán và Chủ tịch nước đã ký một số quyết định xoá tên ra khỏi danh sách bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp.
Lý do cụ thể để đề nghị xoá tên đối với mỗi trường hợp khác nhau, nhưng nhìn chung có một số điểm giống nhau là: Trong thời gian chờ làm thủ tục và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán thì người được đề nghị bổ nhiệm có hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm phẩm chất đạo đức nghiêm trọng. Khi phát hiện sự việc vi phạm, các ngành các cấp chưa kịp xử lý hoặc đang xử lý thì quyết định bổ nhiệm của Chủ tịch nước đã về tới địa phương. Vì thế việc trao quyết định bổ nhiệm phải tạm dừng lại. Sau khi xem xét hành vi vi phạm, đã kết luận đương sự không thể đảm đương chức vụ Thẩm phán , thì nảy sinh vấn đề về thủ tục: đề nghị cách chức hay đề nghị huỷ quyết định bổ nhiệm hoặc xoá tên Thẩm phán? Nếu đề nghị cách chức thì không được, vì trên thực tế đương sự chưa thực thi nhiệm vụ quyền hạn mà Chủ tịch nước giao, cho dù quyết định bổ nhiệm có hiệu lực từ ngày ký. Nếu huỷ quyết định bổ nhiệm (huỷ toàn bộ nếu là của một người hoặc huỷ một phần nếu là của nhiều người) thì cũng không hợp lý bởi lẽ quyết định đó không sai về nội dung và hình thức thể hiện. Do vậy theo chúng tôi việc ra quyết định xoá tên khỏi danh sách bổ nhiệm là phù hợp hơn cả. Quyết định xoá tên chỉ được coi là một thủ tục hành chính, không phải là một hình thức kỷ luật đối với đương sự. Việc xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc hình sự sau đó sẽ được tiến hành tuỳ thuộc vào lỗi của đương sự.
Qua theo dõi giải quyết những vụ việc này, chúng tôi nhận thấy việc xử lý của các cơ quan quản lý ở địa phương nhiều khi lúng túng, sự chỉ đạo có phần lơi lỏng, làm cho thời gian kể từ khi phát hiện sự việc cho đến khi trình Chủ tịch nước ra quyết định xoá tên là qúa chậm (có vụ hơn 1 năm). Việc giữ quyết định bổ nhiệm không thi hành và không báo cáo Chủ tịch nước là vi phạm pháp luật. Vì vậy chúng tôi đề nghị cần sớm có quan điểm chính thức về vấn đề còn tranh luận nói trên và bổ sung vào trong các văn bản pháp luật để thống nhất áp dụng.
11. Đề nghị bổ sung vào Pháp lệnh quy định về các chế độ chính sách và những biện pháp để bảo vệ thẩm phán và gia đình họ
Trong lĩnh vực cán bộ công chức, Pháp lệnh cán bộ công chức cũng có nhiều quy định về quyền của cán bộ công chức như: Cán bộ công chức có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về việc làm của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình cho là trái pháp luật đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; cán bộ công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được pháp luật và nhân dân bảo vệ; cán bộ, công chức bị xâm hại tính mạng khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được xem xét để công nhận là liệt sĩ theo quy định của pháp luật. Cán bộ, công chức bị thương trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ thì được xem xét để áp dụng chính sách, chế độ tương tự như đối với thương binh,...[7]. Các quy định này đồng thời cũng được áp dụng đối với công chức - Thẩm phán.
Để đi đến một phán quyết đúng pháp luật, hợp tình hợp lý là một công việc không đơn giản. Tuy tính chất phức tạp của từng vụ việc cụ thể, tuỳ loại án là hình sự hay dân sự, kinh tế ... nhưng có thể khẳng định rằng lao động của Thẩm phán là một quá trình lao động đặc thù, đòi hỏi từ sự am hiểu tinh thông về luật pháp và thực tế, hiểu biết tổng hợp về các vấn đề kinh tế xã hội, đòi hỏi văn hoá cư xử và cả bản lĩnh chính trị của một người cách mạng. Trong phần lớn các trường hợp xét xử, nói chung Thẩm phán đều kết thúc thẩm quyền xét xử bằng việc ra các phán quyết quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đối tượng bị xét xử như tài sản, danh dự của các đương sự, tự do và thậm chí cả tính mạng của người có hành vi vi phạm. Chính điều này đã dẫn đến nhiều nguy cơ Thẩm phán và người thân của họ trở thành đối tượng của sự thù hằn, có nhiều nguy cơ bị đe doạ trả thù. Vậy thì, sẽ không công bằng nếu chúng ta không đặt ra vấn đề nghiên cứu các biện pháp tăng cường bảo vệ Thẩm phán - là những người do thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó mà dễ có nguy cơ bị nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Những biện pháp này chủ yếu có tính chất phòng ngừa từ xa, đảm bảo cho Thẩm phán và người thân của họ được bảo vệ an toàn. Các biện pháp này đảm bảo cho họ thực hiện tốt hơn chức trách quan trọng của mình, giúp họ yên tâm công tác, yên tâm phấn đấu, đấu tranh vì sự công bằng, giữ vững cán cân công lý.
Từ việc phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng, trong thời gian trước mắt cần nghiên cứu một số biện pháp cần thiết và khả thi, cụ thể như sau:
- Biện pháp bảo đảm về mặt an ninh;
Gọi là biện pháp an ninh bởi biện pháp này được áp dụng với mục đích bảo toàn tính mạng và sức khoẻ, tài sản cho Thẩm phán và người thân của họ. Có thể nói rằng biện pháp này là bắt buộc, để ngăn ngừa hữu hiệu các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của Thẩm phán, không để cho các hành vi này xảy ra.
Biện pháp an ninh được các cơ quan chức năng áp dụng khi có các căn cứ cụ thể chứng tỏ có sự đe doạ đối với Thẩm phán.
Các căn cứ để áp dụng biện pháp bảo đảm an ninh có thể là:
+ Khỉ có yêu cầu của Thẩm phán;
+ Khi có yêu cầu của lãnh đạo Toà án;
+ Khi các cơ quan có thẩm quyền có thông tin chính xác về nguy cơ đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán .
Khi có một trong những căn cứ trên đây, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét cụ thể những tình tiết có hay không có sự đe doạ, ảnh hưởng đến sự an toàn của Thẩm phán và người thân của họ, kịp thời quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết.
-
Biện pháp bảo đảm về mặt pháp lý;
Các quy định của chế tài hình sự hiện hành đã góp phần vào việc bảo vệ Thẩm phán có hiệu quả. Tuy nhiên, với tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, thì tính rủi ro của nghề Thẩm phán càng cao. Vì vậy, cần nghiên cứu đến việc sửa đổi các quy định trên theo hướng xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán .
Có thể sửa đổi theo hướng coi các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc quy định thêm một số điều luật mới tương ứng với các hành vi nói trên.
-
Biện pháp bảo đảm về mặt xã hội.
Nếu các biện pháp an ninh chủ yếu là mang tính phòng ngừa thì các biện pháp xã hội chủ yếu lại mang tính giải quyết hậu quả. Trong trường hợp tính mạng sức khoẻ của Thẩm phán bị xâm phạm, thì cũng cần có những cơ chế nhất định để đảm bảo cho Thẩm phán hoặc những người thân thích của Thẩm phán được bảo đảm về mặt vật chất.
Tuỳ thuộc vào đối tượng bị xâm hại và mức độ thiệt hại thực tế, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các biện pháp có tính xã hội.
Chúng tôi cho rằng, các biện pháp có tính xã hội cần nghiên cứu ở đây là những quy định về bồi thường thiệt hại cho Thẩm phán. Vì vậy, nên chăng cần có quy định về bảo hiểm sức khoẻ, tính mạng của Thẩm phán là bắt buộc. Quy định này nhằm đảm bảo trong trường hợp tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán bị xâm hại thì cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm thanh toán các khoản tiền bảo hiểm theo những nguyên tắc nhất định.
12. Đề nghị bổ sung vào Pháp lệnh quy định cụ thể cơ quan quản lý Hội thẩm Toà án nhân dân.
Với đặc thù của đội ngũ Hội thẩm và trước yêu cầu về cải cách tư pháp, nếu cứ để tình trạng không có một cơ quan quản lý thống nhất đối với Hội thẩm về mặt tổ chức thì sẽ rất khó thực hiện cơ chế trách nhiệm của đội ngũ hơn 11.000 người hiện nay. Do vậy cần phải lựa chọn mô hình quản lý tối ưu sao cho sự tham gia của Hội thẩm vào công tác xét xử các vụ án được thuận lợi, nhanh chóng, khoa học và có hiệu quả.
Về cơ quan quản lý Hội thẩm tập trung vào mấy ý kiến sau đây:
Ý kiến thứ nhất cho rằng việc quản lý theo dõi, giúp đỡ Hội thẩm nhân dân thuộc trách nhiệm của ba cơ quan: Hội đồng nhân dân địa phương, Toà án nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc. Theo ý kiến này thì dẫn đến tình trạng không có cơ quan nào có quyền và nghĩa vụ trực tiếp đối với việc quản lý Hội thẩm.
Ý kiến thứ hai cho rằng Toà án các cấp trực tiếp quản lý Hội thẩm nhân dân. Ý kiến này tuy có điểm hợp lý ở chỗ Toà án nơi Hội thẩm tham gia xét xử sẽ nắm chắc phẩm chất chính trị, đạo đức và khả năng chuyên môn, nghiệp vụ của Hội thẩm, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức cho Hội thẩm một cách thích hợp. Nhưng lại không hợp lý ở một điểm rất cơ bản: Toà án là cơ quan xét xử, không làm công tác quản lý, nhất là lại quản lý đội ngũ cán bộ nằm ngoài biên chế của mình.
Để thực hiện tốt công tác Hội thẩm, phương án hợp lý hơn cả là Hội thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện nên giao cho Hội đồng nhân dân cùng cấp nơi bầu ra họ thực hiện việc quản lý trực tiếp Hội thẩm. Bởi vì Hội đồng nhân dân có điều kiện nắm chắc hoạt động của Hội thẩm thông qua các báo cáo của Toà án nhân dân, đồng thời có thể tạo điều kiện vật chất bảo đảm cho hoạt động của Hội thẩm, góp phần thực hiện tốt các nguyên tắc xét xử mà Hội thẩm nhân dân luôn luôn phải quán triệt và chấp hành, đồng thời bảo đảm cho Hội thẩm được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử... Đối với Hội thẩm Toà án nhân dân Tối cao và Hội thẩm quân nhân thì việc quản lý họ tuỳ theo đặc điểm của mỗi cơ quan cử ra Hội thẩm./.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG PHÁP LỆNH VỀ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN
TS. Phạm Quý Tỵ
Vụ trưởng Vụ quản lý Toà án địa phương
I. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14/5/1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/1993, nhằm cụ thể hoá một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992. Trong những năm qua việc tổ chức thực hiện Pháp lệnh đã gặp phải những khó khăn nhất định, do nội dung của Pháp lệnh quy định chưa đầy đủ hoặc một số nội dung khác của Pháp lệnh không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Những nội dung đòi hỏi cần phải được nghiên cứu để sửa đổi bổ sung đó là:
1- Quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức hiện nay đang gặp khó khăn trong việc giải quyết tình trạng thiếu Thẩm phán và chất lượng Thẩm phán yếu, đây là vấn đề bức xúc cần phải được nhanh chóng giải quyết. Song vấn đề này có liên quan đến những quy định trong Pháp lệnh như tiêu chuẩn của Thẩm phán, trình tự thủ tục bổ nhiệm miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, đã không đáp ứng được yêu cầu bổ sung số Thẩm phán còn thiếu ở các Toà án địa phương. Hiện nay, số Thẩm phán Toà án cấp tỉnh và cấp huyện còn thiếu khoảng 700 người, việc bổ sung cho số Thẩm phán còn thiếu này chủ yếu lấy từ nguồn thư ký Toà án đang công tác tại chỗ. Thực trạng cán bộ thư ký ở Toà án hiện nay được đào tạo tại các trường đại học luật, chương trình đào tạo chủ yếu là trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về các ngành luật và một số môn lý luận khác. Việc đào tạo chuyên ngành rất hạn chế, do vậy khi các sinh viên ra trường về công tác ở ngành nào thì đều phải được đào tạo nghề. Nếu về công tác ở Toà án làm thư ký muốn phấn đấu để trở thành Thẩm phán, thì phải được đào tạo nghề Thẩm phán. Có như vậy mới nâng cao được chất lượng Thẩm phán và phải coi là một tiêu chuẩn trước khi được bổ nhiệm Thẩm phán. Vì thế, nếu vẫn giữ nguyên về tiêu chuẩn Thẩm phán như trong Pháp lệnh, thì dưới góc độ quản lý rất khó quy hoạch và không chủ động trong việc bổ sung đủ số lượng Thẩm phán còn thiếu. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cần phải được sửa đổi theo hướng Thẩm phán phải được đào tạo như đào tạo một nghề, trên cơ sở cần bao nhiêu đào tạo bấy nhiêu, và phải tổ chức thi tuyển Thẩm phán trước khi Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét trình Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm Thẩm phán.
-
- Về thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán được quy định trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân hiện nay đã bộc lộ những bất hợp lý, có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Toà án. Trước những năm 1992 Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được thực hiện theo chế định bầu cử, về tiêu chuẩn Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân có quy định nhưng không cụ thể và rõ ràng. Luật tổ chức Toà án năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 đã quy định chế định bổ nhiệm Thẩm phán thay cho chế định bầu Thẩm phán. Đây là một bước tiến trong quá trình lập pháp của Nhà nước ta đồng thời thể hiện sự đổi mới của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân khi mới được ban hành đã tạo điều kiện cho việc hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan Toà án, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán các cấp. Qua hai nhiệm kỳ bổ nhiệm Thẩm phán nhiều địa phương đã phản ánh, đề nghị đến các cơ quan có thẩm quyền về những bất hợp lý khi tiến hành các thủ tục tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán. Để bổ nhiệm được một Thẩm phán các cơ quan có thẩm quyền đã phải qua nhiều thủ tục dẫn đến sự chậm trễ trong quá trình bổ nhiệm Thẩm phán. Quy định như hiện nay tất cả các Thẩm phán từ Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao đến Thẩm phán cấp huyện đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm là không hợp lý, không đúng với quy định của Hiến pháp năm 1992. Điều này đã tạo thành những trở ngại trong tiến trình bổ nhiệm Thẩm phán, gây không ít khó khăn cho các cơ quan Toà án trong khi đề nghị bổ nhiệm mới hoặc tái nhiệm Thẩm phán.
-
- Chế định về Hội thẩm Toà án nhân dân được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân đã thể hiện tính dân chủ của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó đại diện của nhân đân trực tiếp tham gia vào hoạt động xét xử của cơ quan Toà án, góp phần đảm bảo cho việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân đã có một chương IV quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Hội thẩm, chế độ đối với Hội thẩm, tiêu chuẩn Hội thẩm, thủ tục bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm... Trong quá trình tổ chức thực hiện Pháp lệnh thấy rằng những quy định trong Pháp lệnh về chế định Hội thẩm có những vấn đề còn có những vướng mắc cần phải có những quy định cụ thể của pháp luật, như chế độ quản lý Hội thẩm Toà án nhân dân hiện nay; về tiêu chuẩn bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm, khắc phục tình trạng Hội thẩm tham gia xét xử chỉ là hình thức. Một vấn đề khác cũng cần phải được nghiên cứu để sửa đổi bổ sung vào pháp lệnh đó là Chánh án, Thẩm phán các Toà án phải có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội thẩm hoạt động. Trong hoạt động xét xử Thẩm phán là người am hiểu pháp luật, có nhiều kinh nghiệm trong xét xử, trong khi đó Hội thẩm nhân dân hầu hết không được trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật, mặc dù tham gia Hội đồng xét xử với thành phần đa số, nhưng rất dễ bị các Thẩm phán lấn át mà không phát huy được tính độc lập của Hội thẩm. Do đó cần phải có những quy định của pháp luật để tạo điều kiện cho Hội thẩm hoạt động.
4- Về chế độ chính sách của Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân hiện nay cũng đang là những vướng mắc trong quá trình điều hành, quản lý của các cơ quan có thẩm quyền. Đối với Thẩm phán vướng mắc lớn nhất hiện nay là chế độ tiền lương và chế độ để đảm bảo cho việc thuyên chuyển điều động Thẩm phán từ địa phương này đến địa phương khác khi cần thiết, về chế độ tiền lương của Thẩm phán hiện nay được xây dựng không theo sự thống nhất đối với tất cả các Thẩm phán mà phân biệt theo cấp Toà án . Toà án tối cao, Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp huyện đều có bảng lương riêng, được chia thành các bậc lương khác nhau. Toà án tối cao có 7 bậc lương, mức lương khởi điểm là 5,02 cao nhất là 7,10. Toà án cấp tỉnh có 9 bậc lương, mức lương khởi điểm là 3,62 cao nhất là 5,7. Toà án cấp huyện có 10 bậc lương, mức lương khởi điểm là 2,16 cao nhất là 4,25. Các bậc lương của Toà án tối cao, Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp huyện đều 3 năm lên một bậc. Với cách xếp lương như vậy kết hợp với quy định về tiêu chuẩn thời gian làm công tác pháp luật: 4 năm đối với Thẩm phán cấp huyện; 6 năm đối với Thẩm phán cấp tỉnh; 8 năm đối với Thẩm phán Tối cao đã tạo thành những bất hợp lý khi bổ nhiệm và điều động Thẩm phán từ cấp trên xuống cấp dưới và ngược lại. Vì vậy, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cần quy định lại cho phù hợp theo hướng lương của Thẩm phán các cấp chỉ theo một hệ thống ngạch bậc thống nhất, người Thẩm phán khi mới được bổ nhiệm Thẩm phán được hưởng bậc lương thấp nhất và tiến dần theo sự tiến bộ của Thẩm phán.
Đối với Hội thẩm nhân dân chế độ trang phục chưa được quy định, do đó phần nào đã ảnh hưởng đến tính uy nghiêm của cơ quan xét xử. Theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử của Toà án khi tuyên án được nhân danh nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều này thể hiện tính quyền lực tối cao của Nhà nước giao cho Toà án phán quyết những vấn đề nhằm đảm bảo trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và của công dân. Với ý nghĩa như vậy đôi khi các vị Hội thẩm và có cả các Thẩm phán đã không coi trọng thể diện của Hội đồng xét xử, quần áo, dầy dép không chỉnh tề làm giảm tính uy nghiêm của cơ quan xét xử. Nguyên nhân của vấn đề này một phần do Hội thẩm chưa thấy hết được sự cần thiết về trang phục khi tham gia xét xử, mặt khác Nhà nước cũng chưa thực sự quan tâm để có chế độ cho Hội thẩm. Trước yêu cầu đó nhiều địa phương đã mua sắm trang phục cho Hội thẩm, nhưng lại phát sinh vấn đề đó là tuỳ theo sự quan tâm của mỗi địa phương đã hỗ trợ tiền cho các Hội thẩm mua sắm trang phục, dẫn đến không có sự thống nhất trong cả nước. Bởi vậy, vấn đề này cũng cần phải được nghiên cứu để quy định trong Pháp lệnh.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân
- Chế định bổ nhiệm Thẩm phán thay cho chế định bầu cử Thẩm phán được quy định trong Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Toà án năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 là một thay đổi rất lớn trong việc quản lý Toà án về tổ chức ở nước ta. Trước khi chuyển sang chế định bổ nhiệm Thẩm phán, chúng ta đã có trên 30 năm thực hiện chế định bầu cử Thẩm phán ở Toà án các cấp. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được bầu theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp. Việc chuẩn bị nhân sự để trình Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu do Toà án nhân dân các cấp và cấp uỷ cùng cấp chuẩn bị. Do đó về trình tự thủ tục chuẩn bị nhân sự và bầu cử cũng đơn giản, nhanh chóng đáp ứng yêu cầu xét xử của Toà án. Song trước những yêu cầu đổi mới của đất nước trong đó có yêu cầu đổi mới về tư pháp, thì chế độ bầu cử Thẩm phán đã không còn phù hợp nữa, mà phải chuyển sang chế độ bổ nhiệm Thẩm phán với những quy định về tiêu chuẩn Thẩm phán, trình tự thủ tục tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán hết sức chặt chẽ. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 được ban hành đã đáp ứng yêu cầu thay đổi từ chế định Thẩm phán bầu sang chế định Thẩm phán bổ nhiệm. Trên cơ sở những quy định của luật tổ chức Toà án , Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, nhiệm kỳ Thẩm phán đầu tiên 1994-1999 đã được tổ chức thực hiện theo chế độ bổ nhiệm. Tiếp theo đó việc bổ nhiệm và tái bổ nhiệm Thẩm phán được tiến hành thường xuyên đối với các Toà án địa phương trong cả nước.
Qua theo dõi công tác bổ nhiệm Thẩm phán trong những năm qua cho thấy về cơ bản nội dung của Pháp lệnh đã đáp ứng được yêu cầu bổ nhiệm Thẩm phán các cấp, song bên cạnh đó có một số nội dung đã bộc lộ những hạn chế, không phù hợp với yêu cầu đổi mới hiện nay. Sở dĩ như vậy vì Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được ban hành để đáp ứng yêu cầu về bổ nhiệm Thẩm phán, trong khi đó chúng ta chưa có những cơ sở thực tiễn về bổ nhiệm Thẩm phán, dẫn đến một số nội dung của pháp lệnh sau gần 10 năm thực hiện đã không còn phù hợp, cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu hiện nay là không thể tránh khỏi.
- Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được ban hành trên cơ sở một nền kinh tế của những năm khởi đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng và Nhà nước ta được tiến hành từ cuối những năm 1980, do đó nền kinh tế đã dần dần được phục hồi và phát triển. Đây là một chủ trương hết sức đứng đắn của Đảng ta và đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992. Điều 15 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với quy định trên đây của Hiến pháp, các văn bản luật phải thể chế hoá được đường lối chủ trương chính sách của Đảng bằng các quy định của pháp luật, tạo môi trường pháp lý cho các thành phần kinh tế pháp triển.
Trước khi có Hiến pháp năm 1992 mặc dù nền kinh tế được quản lý theo cơ chế tập trung, bao cấp với hai thành phần kinh tế nhà nước và tập thể, song nhiều nghị quyết và quyết định của Đảng và Nhà nước được ban hành trong thời kỳ đó như Nghị quyết 100 tháng 1/1981 của Bộ chính trị đối với việc phát triển nông nghiệp; Nghị quyết 16 của Bộ chính trị và Quyết định 27/HĐBT ngày 9/3/1989 của Hội đồng bộ trưởng về pháp triển kinh tế tư nhân; Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty được ban hành ngày 21/12/1990 đã tạo ra những môi trường pháp lý để dần dần hình thành những quan hệ sản xuất mới, trong đó thể hiện rõ nhất là thành phần kinh tế tư nhân. Từ đó tạo ra những thành phần kinh tế mới xuất hiện bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và tập thể. Với một cơ sở hạ tầng như vậy thì pháp luật cũng đã được ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ đó. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật được ban hành từ thời điểm đó đến nay đã có nhiều nội dung không còn phù hợp cần phải được sửa đổi, bổ sung.
Qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội đều có những thay đổi đáng kể so với thời kỳ thực hiện cơ chế hành chính bao cấp. Đó là nền kinh tế ngày càng phát triển, bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã xuất hiện nhiều thành phần kinh tế khác như: kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước đã cùng tồn tại phát triển bình đẳng trước pháp luật. Cùng với sự phát triển về kinh tế đã xuất hiện nhiều quan hệ về hành chính, kinh tế, lao động trong đời sống xã hội. Vì vậy nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành trong thời kỳ đổi mới của đất nước đó là Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp...
Những thay đổi về kinh tế, xã hội đã đòi hỏi về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức các cơ quan tư pháp cũng phải sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, Toà án chỉ xét xử những vụ án về hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình. Đến năm 1995, Luật tổ chức Toà án được sửa đổi, bổ sung thì Toà án còn phải xét xử các vụ án về kinh tế, hành chính, lao động. Như vậy về tổ chức Toà án đã có sự thay đổi rất lớn, song Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được ban hành từ năm 1993 đến nay chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Để giải quyết vấn đề này cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cho phù hợp với sự thay đổi của tổ chức Toà án và tình hình kinh tế, xã hội nói chung.
- Quan hệ đối ngoại của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới theo xu hướng hội nhập để cùng phát triển ngày càng được tăng cường và mở rộng. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được ban hành năm 1993, như đã phân tích ở phần trên đó là những năm đầu của thời kỳ đổi mới ở nước ta, do đó các quan hệ về kinh tế, đối ngoại ở thời điểm đó so với hiện nay đã có nhiều thay đổi. Vì vậy một số nội dung của Pháp lệnh cần phải được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Quan điểm này cũng đã được thể hiện ở những văn bản pháp luật của nước ta được ban hành mới hoặc sửa đổi bổ sung trong những năm gần đây đều rất chú ý đến việc tham khảo các văn bản pháp luật nước ngoài. Một mặt chúng ta học tập kinh nghiệm lập pháp của các nước trên thế giới, mặt khác để thực hiên đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường hội nhập với các nước trên thế giới thì pháp luật Việt Nam khi ban hành không thể không tính đến các thông lệ và luật pháp quốc tế.
III. Một số vấn đề cơ bản về thực trạng thi hành Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân trong những năm qua
1. Về tổ chức triển khai thực hiện Pháp lệnh.
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân sau khi được ban hành, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã nhanh chóng ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn việc thực hiện Pháp lệnh.
- Nghị quyết số 46/NQ/UBTVQH9 ngày 29/9/1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân Tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức.
-
Nghị quyết số 48/NQ/UBTVQH9 ngày 30/9/1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định danh sách Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
-
Nghị quyết số 37/ƯBTVQH9 ngày 14/5/1993 cho phép vận dụng tiêu chuẩn Thẩm phán khi xét bổ nhiệm Thẩm phán.
-
Thông tư số 05/TTLN-TA-BTP ngày 15/10/1993 hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng các tiêu chuẩn Thẩm phán, thành lập các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, quy trình chuẩn bị nhân sự, hồ sơ chuẩn bị nhân sự, hồ sơ đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và thuyên chuyển Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương.
-
Quy chế 91/TP-TA ngày 19/1/1994 của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao quy định về việc phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý về mặt tổ chức các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
-
Quyết định 141/QĐ-QLTA-THA ngày 21/3/1994 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy định về việc phân cấp cho Giám đốc Sở Tư pháp quản lý về mặt tổ chức các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Phòng thi hành án, Đội thi hành án.
-
Quyết định 142/QĐ-QLTA ngày 21/3/1994 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy định về việc uỷ quyền cho Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện công tác quản lý về mặt tổ chức đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Những văn bản hướng dẫn trên đây đã từng bước cụ thể hoá những quy định của Pháp lệnh, phù hợp với tình hình cán bộ hiện có, tạo thuận lợi cho công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán ở giai đoạn đầu chuyển tiếp từ chế định bầu cử sang chế định bổ nhiệm Thẩm phán, đồng thời quy định rõ nhiệm vụ và những công việc phải làm giữa các cơ quan có liên quan đến công tác quản lý Toà án địa phương.
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân có 33 điều và 5 chương: Chương I : Những quy định chung; Chương II: Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, chế độ đối với Thẩm phán; Chương III: Tiêu chuẩn Thẩm phán, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán; Chương IV: Nhiệm vụ quyền hạn của Hội thẩm nhân dân, chế độ đối với Hội thẩm, tiêu chuẩn Hội thẩm; Chương V: Điều khoản thi hành. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân đã quy định nhiều những nội dung mới, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước, trong đó có sự thay đổi rất cơ bản là chuyển từ chế định bầu cử sang chế định bổ nhiệm Thẩm phán, với những tiêu chuẩn cụ thể rõ ràng. Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 quy định: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán, được bầu hoặc cử làm Hội thẩm”. Ngoài tiêu chuẩn chung được quy định tại điều 4, pháp lệnh còn quy định những tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ như sau:
-
Về chuyên môn, phải có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học luật.
-
Phải có một thời gian nhất định làm công tác pháp luật mới được bổ nhiệm Thẩm phán cụ thể: 8 năm đối với Toà án nhân dân Tối cao; 6 năm đối với Toà án cấp tỉnh; 4 năm đối với Toà án cấp huyện.
Những người có đủ điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán còn phải được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán tương ứng với từng cấp xem xét trước khi trình Chủ tịch nước bổ nhiệm làm Thẩm phán. Pháp lệnh quy định gồm có các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán sau đây:
-
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, Toà án quân sự Trung ương;
-
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực;
- Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Để chuẩn bị cho việc bổ nhiệm Thẩm phán, các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đã được thành lập. Trên cơ sở tờ trình của Bộ Tư pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 48/NQ-UBTVQH9 Quyết định về các thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm chủ tịch Hội đồng, các thành viên gồm: Phó Chánh án Toà án nhân dân Tối cao; Chánh án Toà án quân sự Trung ương; Uỷ viên Ưỷ ban mặt trận tổ quốc Việt Nam; uỷ viên ban chấp hành Hội luật gia Việt Nam.
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra quyết định thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án cấp huyện của 61 tỉnh, thành phố do Giám đốc Sở Tư pháp làm chủ tịch Hội đồng, các thành viên gồm: Đại diện Hội đồng nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân tỉnh, uỷ ban mặt trận tổ quốc tỉnh và Hội luật gia tỉnh. Ngay sau khi được thành lập, tất cả các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán ở trung ương và địa phương đều đi vào hoạt động, tiến trình chuẩn bị hồ sơ nhanh chóng, đúng quy định, người được tuyển chọn đảm bảo đúng tiêu chuẩn nên đã nhanh chóng được Chủ tịch nước bổ nhiệm làm Thẩm phán.
Tuy nhiên, trong khi tổ chức thực hiện Pháp lệnh, một số Thẩm phán đương nhiệm đã không đủ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ theo quy định của Pháp lệnh, mà phần lớn số Thẩm phán này là các Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi ít người trước đó đã không có điều kiện theo học cao đẳng Toà án hoặc đại học luật. Nếu những trường hợp này không được bổ nhiệm Thẩm phán thì những nơi đó đã thiếu Thẩm phán lại càng thiếu hơn. Để giải quyết vấn đề này uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 37/UBTVQH9 cho phép vận dụng tiêu chuẩn như sau:
-
Đối với người hiện tại không phải là Thẩm phán thì phải đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn của Thẩm phán theo quy định, thì mới được xét tuyển chọn, bổ nhiệm.
-
Đối với Thẩm phán đương nhiệm có đủ các tiêu chuẩn khác nhưng chưa có bằng đại học luật thì vẫn được tuyển chọn bổ nhiệm lại, nhưng phải tiếp tục học tập để đạt trình độ đại học luật.
Thực hiện Nghị quyết này, nhiệm kỳ 1994-1999 có 1451 Thẩm phán đương nhiệm và Trọng tài viên từ cơ quan trọng tài kinh tế chuyển sang, chưa có bằng đại học luật nhưng vẫn được bổ nhiệm Thẩm phán. Đa số các trường hơp này là cán bộ lớn tuổi, có thâm niên công tác lâu năm trong nghành, tuy chưa được đào tạo có hệ thống nhưng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiêm nghề nghiệp và vốn sống thực tế nên nhiệm kỳ vừa qua các Thẩm phán đó vẫn đảm đương được nhiệm vụ xét xử. Kết thúc nhiệm kỳ Thẩm phán thứ nhất đã có 1229 Thẩm phán đạt tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, còn lại 222 người. Từ thực tế trên đây cho thấy chủ trương cho Thẩm phán “nợ” và “trả nợ” là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thực trạng đội ngũ Thẩm phán lúc đó.
Việc chuyển từ chế định Thẩm phán bầu sang chế định bổ nhiệm Thẩm phán, với việc có các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp, xem xét về tiêu chuẩn Thẩm phán trước khi trình Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm Thẩm phán đã đảm bảo chất lượng của Thẩm phán ngày càng nâng cao. Kết quả hai nhiệm kỳ bổ nhiệm Thẩm phán vừa qua cho thấy, hầu hết các trường hợp mà Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp đồng ý trình Chủ tịch nước, thì đều được Chủ tịch nước chấp nhận. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp khi thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán, từ đó cần phải tăng cường chất lượng và các điều kiện để cho các Hội đồng làm việc, về thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán như hiện nay, được quy định tại các điều 20, 21, 22, 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, theo chúng tôi cần phải được tăng cường thêm các thành viên là Thẩm phán chuyên môn tham gia vào Hội đồng tuyển chọn. Bởi lẽ khi xem xét các tiêu chuẩn để đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, Thẩm phán thì việc đánh giá về chất lượng chuyên môn là yếu tố rất quan trọng, do đó những Thẩm phán lâu năm, có nhiều kinh nghiệm tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán là rất cần thiết. Ngoài ra, tuy không phải là phổ biến nhưng hiện nay đang có những trường hợp cấp phúc thẩm xử huỷ án sơ thẩm, nhưng đến cấp Giám đốc thẩm lại quyết định án sơ thẩm là đúng và án phúc thẩm là sai, hoặc có những vụ án bị huỷ hoặc bị sửa nghiêm trọng nhưng do thay đổi của pháp luật mà không có lỗi của các Thẩm phán. Trong những trường hợp như vậy Hội đồng tuyển chọn cần phải có thêm những thành viên am hiểu vấn đề đó, để giúp các thành viên khác của Hội đồng hiểu rõ vấn đề, trước khi quyết định có đồng ý đề nghị bổ nhiệm những trường hợp đó hay không.
Trở lại cơ cấu Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án cấp tỉnh và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án cấp huyện thấy rằng, các thành viên tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán là đại diện cho các ngành như Hội đồng nhân dân, uỷ ban mặt trận tổ quốc, Hội luật gia, Toà án nhân dân, tư pháp mà không có đại diện của các Thẩm phán. Trong Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh có đại diện của Toà án nhân dân Tối cao, trong Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện có đại diện Toà án tỉnh, thông thường thì những người đại diện Toà án đều là Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án, nhưng trong một chừng mực nào đó họ vẫn là đại diện cho một tổ chức. Chính vì vậy chúng tôi đề nghị để đảm bảo hơn nữa tính khách quan trong Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh và cấp huyện cần phải có các Thẩm phán có uy tín và có nhiều thâm niên công tác tham gia vào các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.
Cùng với việc tăng cường chất lượng cho các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, còn một yếu tố khác đó là tiêu chuẩn của Thẩm phán cũng phải được quy định cho thật rõ ràng, để cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có cơ sở để cân nhắc, quyết định những ai được đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán. Điều 4, 16, 17, 18 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân đã quy định về tiêu chuẩn của Thẩm phán, trong thực tế Điều 16, 17, 18 nhất là Điều 17 và Điều 18 quy định về thời gian làm công tác pháp luật để được bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh và Toà án nhân dân Tối cao là không có tính khả thi. Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trong quá trình làm việc cũng đã gặp phải những khó khăn khi cân nhắc quyết định giữa thực tế và tiêu chuẩn được quy định trong pháp lệnh. Sở dĩ như vậy vì:
Một là, quy định về tiêu chuẩn thời gian làm công tác pháp luật để được bổ nhiệm Thẩm phán đối với cấp huyện 4 năm, cấp tỉnh 6 năm, Toà án nhân dân Tối cao 8 năm là không phù hơp với thực tế ở nước ta. Qua hai nhiệm kỳ bổ nhiệm Thẩm phán cho thấy rất ít người có 6 năm làm pháp luật được bổ nhiệm Thẩm phán tỉnh và 8 năm được bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao. Thực trạng cán bộ ở các cơ quan pháp luật trong những năm qua hình thành hai thế hệ cán bộ rõ rệt. Một thế hệ công tác lâu năm được đào tạo cao đẳng Toà án hoặc đại học luật phần lớn đã được bổ nhiệm Thẩm phán, một số người không được bổ nhiệm lại là do thiếu về tiêu chuẩn chuyên môn. Thế hệ thứ hai là những cán bộ trẻ được tuyển dụng vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới đất nước nhằm chủ yếu là để đáp ứng đủ yêu cầu biên chế của các Toà án. Loại cán bộ thuộc thế hệ thứ hai này được chia thành hai loại: Một loại được đào tạo cơ bản có bằng đại học luật, số người này không nhiều. Loại thứ hai gồm những người chưa học đại học luật nhưng được tuyển dụng do nhiều những nguyên nhân khác nhau, loại này chiếm đa số, nếu ở cấp huyện thì chiếm khoảng từ 70 đến 80%. Sau khi được tuyển dụng một thời gian loại cán bộ này mới đi học đại học luật tại chức.
Đối với số cán bộ này xét về tiêu chuẩn thời gian, về điều kiện chuyên môn theo quy định của Pháp lệnh là đủ, nhưng thực chất về năng lực, trình độ thực tế để đảm đương nhiệm vụ xét xử của Toà án thì rất yếu. Đây là một thực tế và cũng là khó khăn cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán khi xem xét quyết định những trường hợp cụ thể. Đối với Thẩm phán Toà án cấp huyện, việc tuyển chọn có thể dễ dàng hơn, vì thực tế án cấp huyện thông thường là những vụ án nhỏ, có tính chất đơn giản, số bị cáo không nhiều. Nhưng đối với việc tuyển chọn tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh trong điều kiện cán bộ như hiện nay là rất khó khăn. Mặc dù Pháp lệnh quy định người có 6 năm làm công tác pháp luật, có trình độ đại học luật hoặc cao đẳng Toà án, nhưng trong thực tế họ là những người được đào tạo các kiến thức cơ bản về pháp luật, khi ra trường về làm thư ký ở một Toà án tỉnh nào đó, chưa từng ngồi xét xử bao giờ, không được đào tạo nghề Thẩm phán, trong những trường hợp như vậy, rõ ràng không thể bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp tỉnh. Có chăng chỉ có thể bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện là phù hợp. Còn loại thứ hai tức là số cán bộ vào làm việc ở Toà án sau đó mới đi học đại học, sau 6 năm công tác chủ yếu là thời gian đi học, trong những trường hợp như vậy lại càng không thể chấp nhận để đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán. Trước thực trạng như vậy nhiều trường hợp không phải có 6 năm công tác, mà là 10 năm hoặc nhiều hơn nữa, nhưng khi Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh xem xét vẫn không đồng ý đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, mà để lại yêu cầu đi học qua trường đào tạo Thẩm phán sau đó sẽ đề nghị sau, hoặc yêu cầu làm hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện.
Hai là, mặc dù Pháp lệnh không quy định về tiêu chuẩn tiền lương khi tuyển chọn Thẩm phán, nhưng trước một thực tế Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đều phải tính đến, đó là những quy định về tiền lương giữa Thẩm phán các cấp hiện nay quá bất hợp lý. Theo quy định hiện hành thì khởi điểm lương Thẩm phán cấp huyện là 2,16, khởi điểm lương Thẩm phán cáp tỉnh là 3,62 và khởi điểm lương Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao là 5,02. Lương Thẩm phán cấp huyện được chia thành 10 bậc, cứ 3 năm lên một bậc. Sau 31 năm công tác (tính từ khi được bổ nhiệm Thẩm phán) mức lương cao nhất là 4,25. Đối với chế độ lương của Thẩm phán cấp tỉnh được chia thành 9 bậc, cứ 3 năm lên một bậc lương, sau 30 năm làm Thẩm phán mức lương cao nhất là 5,7. Rõ ràng đây là điều bất hợp lý rất lớn trong chế độ tiền lương hiện nay liên quan đến việc bố trí, sắp xếp cán bộ. Nếu áp dụng thời gian công tác theo quy định của Pháp lệnh để bổ nhiệm Thẩm phán, về lý thuyết trên đây cho thấy, nếu có 3 sinh viên luật cùng tốt nghiệp đại học, được phân công công tác về 3 Toà án ở 3 cấp khác nhau, sau một thời gian phấn đấu, đủ tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện, Thẩm phán cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, thì sẽ nẩy sinh mâu thuẫn rất lớn không thể chấp nhận được về chế độ tiền lương. Đó là sau 4 năm công tác người ở cấp huyện được bổ nhiệm Thẩm phán hưởng mức lương 2,16. Sau 6 năm khi chưa đủ thời gian để lên bậc lương thứ 2(3 năm một bậc) thì người ở cấp tỉnh đủ 6 năm công tác được bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh hưởng lương khởi điểm là 3,62 vượt người Thẩm phán cấp huyện khoảng 7 bậc lương, tức là phải sau 21 năm sau người Thẩm phán cấp huyện mới bằng bậc lương khởi điểm của Thẩm phán cấp tỉnh. Nếu so sánh với Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao thì điều bất hợp lý này còn lớn hơn nhiều. Đây là lý do vì sao một người đã có 6 năm công tác, có đủ các tiêu chuẩn khác để được bổ nhiệm Thẩm phán nhưng ngoài việc phải xem xét về năng lực làm việc còn phải cân đối chung để đảm bảo về chế độ tiền lương.
Ba là, các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp Thẩm phán. Ngày nay, Thẩm phấn có vị trí vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Mọi phán quyết của Thẩm phán đều có ảnh hưởng tích cực, hoặc làm xấu đi trong một vụ việc cụ thể ở một quan hệ pháp luật nào đó. Vì vậy làm nghề Thẩm phán là rất khó. Trong những năm qua hầu hết Thẩm phán không được đào tạo nghề một cách cơ bản, sự tinh thông về nghiệp vụ của Thẩm phán là do có thâm niên công tác trong ngành, người đi trước truyền lại kinh nghiệm cho người đi sau, nên kiến thức không cơ bản. Thông thường Thẩm phán dược phát triển tại chỗ là chính, mà chủ yếu từ thư ký mà lên. Vì vậy đối với những người từ thư ký Toà án tỉnh được bổ nhiệm Thẩm phán tỉnh thường gặp rất nhiều khó khăn trong xét xử. Bởi vì thông thường án cấp tỉnh là án khó, trong khi họ lại chưa từng xét xử những vụ án đơn giản của cấp huyện, nếu như được bổ nhiệm ngay làm Thẩm phán cấp tỉnh thì sẽ dẫn đến lúng túng và có sai sót trong khi xét xử. Đây cũng là những điều bất cập cần phải được Pháp lệnh quy định thành những tiêu chuẩn của Thẩm phán.
Để giải quyết vấn đề này chúng tôi đề nghị về tiêu chuẩn Thẩm phán được quy định trong Pháp lệnh cần phải sửa đổi, bổ sung theo hướng sau đây:
-
Người được xem xét để được bổ nhiệm Thẩm phán nhất thiết phải được đào tạo qua trường Thẩm phán.
-
Người được bổ nhiệm Thẩm phán lần đầu chỉ được bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện. Đối với việc bổ nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh nhất thiết phải là Thẩm phán cấp huyện, thời gian làm Thẩm phán cấp huyện ít nhất là một nhiệm kỳ 5 năm. Như vậy, khi pháp luật đã quy định rõ ràng về tiêu chuẩn Thẩm phán, phải học qua trường đào tạo Thẩm phán mới được bổ nhiệm Thẩm phán, và khi bổ nhiệm chỉ bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện, Thẩm phán tỉnh sẽ bổ nhiệm từ Thẩm phán huyện lên, thì về tiêu chuẩn Thẩm phán cần bỏ tiêu chuẩn về thời gian làm công tác pháp luật đối với người được bổ nhiệm Thẩm phán các cấp.
- Về chế độ tiền lương của Thẩm phán được phân chia thành các ngạch bậc Thẩm phán khác nhau từ thấp dêh cao, không có sự phân biệt bậc lương của Thẩm phán cấp huyện, cấp tỉnh, Toà án nhân dân Tối cao mà theo một ngạch lương Thẩm phán thống nhất có thể từ bậc 1 đến bậc bao nhiêu đó. Trong trường hợp quy định như vậy, một mặt sẽ khắc phục được sự bất hợp lý về lương như đã nêu ở trên, mặt khác tạo điều kiện cho việc điều động, thuyên chuyển Thẩm phán giữa các cấp với nhau. Hiện nay muốn điều động một Thẩm phán tỉnh xuống làm Chánh án hoặc Phó Chánh án huyện đang gặp khó khăn về việc xắp xếp lương, theo quy định thì phải xếp vào lương của Thẩm phán huyện theo quy định làm việc gì hưởng lương việc đó, như vậy sẽ hạ lương của Thẩm phán được điều động. Chính vì những điều đó đã gây ra những khó khăn trong việc điều động Thẩm phán.
2. Về thuyên chuyển Thẩm phán theo Điều 15 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân
Một thực trạng ở các Toà án địa phương hiện nay là không đồng đều về số lượng và chất lượng cán bộ, trong đó có Thẩm phán. Do tình trạng thiếu Thẩm phán dẫn đến một số Toà án địa phương cần phải được điều chuyển Thẩm phán từ địa phương khác đến để giải quyết án. Thực trạng này là do các nguyên nhân sau đây:
-
Sự thay đổi nhanh chóng trong quá trình đổi mới của đất nước từ cơ chế quản lý kinh tế hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quan lý của Nhà nước, nhưng những thay đổi của các cơ quan Tư pháp về tổ chức, cơ sở vật chất đã không theo kịp với sự thay đổi của xã hội dẫn đến thiếu Thẩm phán.
-
Năng lực một một bộ phận Thẩm phán còn yếu nhất là Thẩm phán cấp huyện. Hầu hết Thẩm phán đều được đào tạo từ thời kỳ hành chính bao cấp, nay trước yêu cầu đổi mới, đòi hỏi phải có những kiến thức mới, năng lực trình độ cao hơn thì nhiều Thẩm phán không còn phù hợp, do vậy đã không được tái bổ nhiệm.
-
Nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay chủ yếu là lấy từ thư ký, nhưng trong những năm qua sau khi Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được ban hành quy định về tiêu chuẩn Thẩm phán thì số cán bộ thư ký này lại chưa đủ năng lực, kinh nghiêm, bản lĩnh nghề nghịêp, thời gian công tác để bổ nhiệm Thẩm phán.
-
Các Toà án ở các vùng sâu, vùng xa với những điều kiện về kinh tế, xã hội hết sức khó khăn trong khi đó nhà nước lại chưa có những chính sách thoả đáng để khuyến khích cán bộ lên công tác ở những vùng đó dẫn đến tình trạng thiếu cán bộ Thẩm phán.
Từ những thực trạng đó đòi hỏi phải thực hiện việc điều động Thẩm phán từ địa phương này đến địa phương khác cùng cấp để làm nhiệm vụ xét xử khi cần thiết. Trong mấy năm qua việc điều động Thẩm phán được tiến hành ở những địa phương mới chia tách, còn thiếu Thẩm phán hoặc chưa bổ nhiệm được Thẩm phán. Hình thức điều động được chia thành 2 loại: Một loại là điều động hẳn Thẩm phán từ địa phương này sang địa phương khác. Trong trường hợp này, đồng thời với việc điều động là chuyển biên chế, chế độ chính sách từ nơi đi đến đơn vị mới. Loại thứ hai là điều động có thời hạn thông thường là 6 tháng, có trường hợp là trên 6 tháng, hoặc là dưới 6 tháng. Loại thứ hai này mọi chế độ tiền lương, biên chế vẫn thuộc về đơn vị cũ.
Do yêu cầu về công tác xét xử, năm 2000 và quý I năm 2001, Bộ Tư pháp đã điều động khoảng gần 30 Thẩm phán từ địa phương này sang địa phương khác, kể cả Thẩm phán cấp tỉnh. Tuy nhiên việc tiến hành điều động Thẩm phán đang gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay trong toàn quốc còn 13 Toà án huyện chỉ có 1 Thẩm phán. Những đơn vị này rất cần được điều động Thẩm phán từ địa phương khác đến hỗ trợ công tác xét xử, ít nhất là thêm 1 Thẩm phán nữa để đảm bảo mỗi Toà án có từ 2 Thẩm phán trở lên, nhưng các địa phương vẫn chưa điều động được. Sở dĩ như vậy vì Nhà nước chưa có chính sách đồng bộ để tạo điều kiện thuận lợi cho số Thẩm phán được điều động yên tâm công tác. Khi điều động 1 Thẩm phán từ Toà án địa phương A đến Toà án địa phương B, theo đó có nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Hiện nay hầu hết các Toà án địa phương không có nhà công vụ, lãnh đạo đơn vị không có trách nhiệm phải bố trí nhà ở cho cán bộ đến công tác. Do vậy nếu phải điều động Thẩm phán đến nơi công tác mới, mà lại yêu cầu họ phải tự túc chỗ ở, trong điều kiện đồng lương như hiện nay là không thể thực hiện được.
Việc điều động không có thời hạn đối với Thẩm phán nhưng lại không có chính sách đối với gia đình họ. Thông thường thì các Thẩm phán đều là trụ cột gia đình, phải lo cuộc sống gia đình, học tập cho con cái, khi chuyển công tác mà không hợp lý hoá gia đình cho họ, thì các Thẩm phán không thể yên tâm, cũng như không thể đồng ý chấp thuận việc điều động công tác của tổ chức.
Việc điều động Thẩm phán hiện nay cũng đang gặp phải những vướng mắc về sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan. Nếu điều động hẳn Thẩm phán từ địa phương này sang địa phương khác, thì phải có ý kiến đồng ý của cấp uỷ nơi đi và nơi đến, của Chánh án tỉnh và Giám đốc Sở Tư pháp. Chỉ cần một trong ba cơ quan này có ý kiến không tán thành việc điều động Thẩm phán, nhất là ý kiến của cấp uỷ địa phương thì chưa thể tiến hành điều động được.
Vừa qua, trước những đòi hỏi bức xúc về sự cần thiết phải điều động Thẩm phán, trong khi chưa có chính sách chung của Nhà nước về chế độ đối với những người được tăng cường cho các Toà án còn thiếu Thẩm phán, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã quyết định hỗ trợ kinh phí cho số Thẩm phán được điều động có thời hạn từ 6 tháng trở lên. Cụ thể các Thẩm phán được điều động đến địa phương có hệ số khu vực từ 0,3 trở lên, tức là khu vực được quy định mức công tác phí lưu trú 40.000 đồng/ ngày, thì được trợ cấp 20.000 đồng/ 1 ngày. Nếu Thẩm phán được điều động đến địa phương có hệ số khu vực dưới 0,3 tức là khu vực được quy định mức công tác phí lưu trú 20.000 đồng/ ngày, thì được trợ cấp 10.000 đồng một ngày trong cả thời gian được điều động.
Giải pháp trợ cấp kinh phí cho Thẩm phán khi được điều động có thời hạn chỉ là biện pháp tình thế, còn để giải quyết cơ bản những vướng mắc trong việc điều chuyển Thẩm phán khi cần thiết, thì Nhà nước phải có những chính sách cụ thể.
3. Về luân chuyển Thẩm phán, những vướng mắc và giải pháp khắc phục
Hệ thống Toà án của chúng ta hiện nay được chia thành ba cấp: Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân cấp tỉnh; Toà án nhân dân cấp huyện. Ngoài hệ thống Toà án nhân dân còn có hệ thống Toà án quân sự bao gồm Toà án quân sự trung ương; Toà án quân sự cấp quân khu; Toà án quân sự cấp khu vực. Về thuyên chuyển Thẩm phán, Điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân quy định “ Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án địa phương này đến Toà án địa phương khác cùng cấp. Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án quân sự này đến Toà án quân sự khác cùng cấp”. Quy định này đã đáp ứng được yêu cầu về thuyên chuyển Thẩm phán cùng cấp, để hỗ trợ công tác xét xử khi cần thiết, nhưng còn vấn đề thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án cấp trên xuống Toà án cấp dưới, chưa được pháp luật quy định. Thực tế việc thực hiện Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cho thấy sự cần thiết pháp luật phải quy định về việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án cấp trên xuống Toà án cấp dưới và ngược lại.
Như đã phân tích ở phần trên, biện pháp tốt nhất để tăng cường năng lực cho Thẩm phán các cấp đó là thực hiện luân chyển Thẩm phán cấp dưới lên làm Thẩm phán cấp trên. Bổ nhiệm thư ký Toà án cấp trên xuống làm Thẩm phán Toà án cấp dưới. Thực hiện quy trình này sẽ giải quyết được những vấn đề sau đây:
Giải quyết về chất lượng Thẩm phán. Hiện nay Thẩm phán Toà án các cấp có một bộ phận chất lượng không cao, chưa thật sự đáp ứng yêu cầu về tiến trình đổi mới của đất nước hiện nay. Có tình trạng này là do nhiều nguyên nhân: Nguyên nhân do các Thẩm phán không thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp; nguyên nhân do Thẩm phán không thường xuyên được đào tạo lại hoặc bồi dưỡng những kiến thức pháp luật, chính trị, xã hội...; nguyên nhân từ sự chuyển đổi nhanh chóng từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế thị trường, dẫn đến phạm vi xét xử của cơ quan Toà án rộng hơn. Từ chỗ Toà án chỉ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình thì nay đã xét xử cả các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, các quan hệ về hành chính, lao động. Do đó cần phải tăng nhanh về số lượng Thẩm phán để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội, trong khi đó đội ngũ cán bộ Toà án không được chuẩn bị từ trước dẫn đến không đáp ứng kịp thời. Nguyên nhân do Thẩm phán là một nghề nhưng lại không được đào tạo nghề mà chủ yếu là phát triển từ thư ký lên. Hiện nay các trường đại học luật chủ yếu trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về tất cả các lĩnh vực của pháp luật, sau khi ra trường các sinh viên về công tác ở lĩnh vực nào đó phải được đào tạo về nghề. Tương tự như vậy những người về công tác ở Toà án muốn trở thành Thẩm phán phải được đào tạo nghề Thẩm phán. Sau khi được đào tạo nghề Thẩm phán bắt đầu giải quyết những việc nhỏ, đơn giản ở cấp huyện để làm quen với nghề Thẩm phán. Sau một thời gian được thuyên chuyển lên Toà án cấp trên để giải quyết những vụ án khó hơn, phức tạp hơn lúc đó Thẩm phán mới có đủ kinh nghiệm, năng lực, bản lĩnh để giải quyết. Nếu cứ bổ nhiệm Thẩm phán từ thư ký như hiện nay, trong khi lại không được đào tạo nghề thì một số Thẩm phán có chất lượng kém là không thể tránh khỏi.
Do những nguyên nhân trên đây đã dẫn đến chất lượng Thẩm phán còn hạn chế. Để giải quyết vấn đề này ngoài những biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thường xuyên cho Thẩm phán, thì việc luân chuyển cán bộ, Thẩm phán từ Toà án cấp dưới lên Toà án cấp trên và ngược lại là biện pháp rất cần thiết cho việc nâng cao chất lượng Thẩm phán. Tuy nhiên, việc Thuyên chuyển Thẩm phán để nâng cao chất lượng Thẩm phán là cần thiết nhưng hiện nay trong thực tiễn thực hiện đang gặp phải những khó khăn nhất định. Đó là những bất cập về chế độ chính sách, tiền lương của Thẩm phán, dẫn đến rất khó thuyên chuyển Thẩm phán.
Chế độ tiền lương của Thẩm phán hiên nay được phân chia thành 3 bảng lương riêng biệt tương ứng với 3 cấp Toà án . Lương khởi điểm của Thẩm phán các cấp lại chênh lệch nhau quá xa. Lương khởi điểm của Thẩm phán cấp huyện là 2,16, của Thẩm phán cấp tỉnh là 3,62 và của Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao là 5,02. Sự không hợp lý trong việc xây dựng chế độ tiền lương theo từng cấp Toà án, kết hợp với khoảng cách quá xa giữa các mức lương khởi điểm ở mỗi cấp Toà án đã dẫn đến Thẩm phán cấp trên không muốn về làm Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án cấp dưới, vì như vậy họ sẽ bị xuống lương. Những thư ký Toà án cấp trên cũng không muốn về làm Thẩm phán cấp dưới mà muốn ở lại để được bổ nhiệm Thẩm phán cấp trên để được hưởng mức lương cao hơn.
Những bất hợp lý trên đây cần phải được nghiên cứu xem xét để quy định trong Luật tổ chức Toà án, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân và các văn bản dưới luật khác. Việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án cấp trên xuống cấp dưới, cũng như phải qua Thẩm phán Toà án cấp dưới mới được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án cấp trên phải được quy định thành tiêu chuẩn bắt buộc. Cùng với việc quy định về thuyên chuyển Thẩm phán chế độ lương của Thẩm phán cũng phải được thay đổi cho phù hợp với yêu cầu về quản lý Thẩm phán.
TIÊU CHUẨN THẨM PHÁN – THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG THỜI KỲ MỚI
TS. Nguyễn Văn Hiện
Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
I. MỘT SỐ VẤN ĐỂ VỂ THỰC TRẠNG TIÊU CHUẨN THẨM PHÁN
Theo quy định của các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992 thì ở nước ta Toà án là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ xét xử các loại vụ án theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở Hiến pháp, các sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước ta về việc thành lập cơ quan Toà án và Luật tổ chức Toà án năm 1959, năm 1981 và năm 1992 đều quy định Thẩm phán cùng với Hội thẩm nhân dân là những người được giao nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án. Đặc biệt, ngay tại Điều 1 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14/5/1993 đã xác định: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án”. Như vậy, có thể nói rằng: Thẩm phán là công chức Nhà nước, làm một nghề đặc biệt, đó là nghề xét xử, đồng thời khi thực hiện chức năng nghề nghiệp xét xử thì Thẩm phán nhân danh Toà án nơi mình công tác và Toà án xét xử nhân danh Nhà nước.
Do tính đặc biệt của nghề nghiệp, cho nên Tiêu chuẩn để tuyển chọn, bổ nhiệm một người làm Thẩm phán vừa phải đảm bảo thoả mãn những tiêu chuẩn chung của một công chức Nhà nước quy định tại Pháp lệnh cán bộ, công chức đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 2 năm 1998, vừa phải đảm bảo thoả mãn các yêu cầu đặc thù của nghề nghiệp quy định tại Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Trong giới hạn của bài viết này chúng tôi không đi sâu nghiên cứu, phân tích các tiêu chuẩn của công chức nói chung quy định trong Pháp lệnh cán bộ, công chức, trong Luật tổ chức Toà án, mà chủ yếu nghiên cứu những tiêu chuẩn có tính chất cơ bản, đặc thù quy định trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 26/5/1993 đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán của Toà án các cấp trong cả nước, đảm bảo cho Thẩm phán có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ xét xử của mình theo hướng ngày càng tốt hơn.
Những năm qua Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân Tối cao đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn và thực hiện tốt công tác tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, trên cơ sở những tiêu chuẩn do pháp luật quy định. Tính đến ngày 30/9/2000 đã có trên 3000 Thẩm phán được Chủ tịch nước quyết định bổ nhiệm, trong số này có 97 Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, 929 Thẩm phán Toà án cấp tỉnh và 2288 Thẩm phán Toà án cấp huyện. Nhìn chung, thông qua công tác tuyển chọn Thẩm phán thì các yêu cầu về tiêu chuẩn Thẩm phán trong thực tế ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn với yêu cầu của thực tiễn xét xử các vụ án trong cả nước. Số Thẩm phán mới được bổ nhiệm lần đầu đều đảm bảo đủ và vượt tiêu chuẩn về thâm niên công tác trong ngành, đều có bằng tốt nghiệp đại học luật, có một số Thẩm phán được bổ nhiệm sau khi đã qua các lớp đào tạo tại Trường Đào tạo các chức danh tư pháp. Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cũng kiên quyết không đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán đối với những người không đảm bảo đủ tiêu chuẩn về thâm niên công tác, về trình độ đào tạo và về tư cách, phẩm chất, đạo đức v.v...
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ Thẩm phán Toà án nói riêng trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, có đạo đức, có năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xét xử tốt, không để xảy ra những vụ việc oan sai nghiêm trọng là công việc vô cùng cấp bách và quan trọng, góp phần đẩy lùi những nguy cơ, quốc nạn đang đe doạ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, rà soát để kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những vi phạm pháp luật về tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán là hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay.
II/ CÁC TIÊU CHUẨN CHUNG CỦA THẨM PHÁN VÀ YÊU CẦU HOÀN THIỆN
Trước hết chúng ta cần có nhận thức về khái niệm “Tiêu chuẩn chung của Thẩm phán”. Tiêu chuẩn chung cùa Thẩm phán là các tiêu chuẩn do pháp luật quy định mà tất cả các Thẩm phán của Toà án các cấp đều phải có cùng với các tiêu chuẩn chung này, pháp luật hiện hành còn quy định một số tiêu chuẩn riêng, tiêu chuẩn cụ thể đặc thù cho Thẩm phán Toà án cấp quận (huyện), cấp tỉnh và cho Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, chỉ khi thoả mãn các tiêu chuẩn chung và các tiêu chuẩn cụ thể nói trên thì một người nào đó mới có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 có quy định chung nhất (tại Điều 37) về tiêu chuẩn cần có của một người Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp là: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất, đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán”. Cùng với các tiêu chuẩn quy định tại Điều 37 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân bổ sung thêm các tiêu chuẩn chung của Thẩm phán Toà án nhân dân là:
-
Liêm khiết và trung thực;
-
Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật;
-
Có sức khoẻ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật trong những năm qua và yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ hiện nay, chúng tôi thấy rằng: Việc quy định các tiêu chuẩn nêu trên đối với Thẩm phán là cần thiết. Sau khi ban hành Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp đã có Thông tư số: 05/TT-LNTA-BTP ngày 15/10/1993 hướng dẫn áp dụng một số tiêu chuẩn nêu trên, giúp cho các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, lựa chọn những người xứng đáng làm Thẩm phán để xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án các cấp. Tuy nhiên, trong thực tiễn vận dụng Thông tư hướng dẫn nói trên cũng còn có một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhằm đảm bảo cho việc hướng dẫn, giải thích pháp luật đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Thí dụ, theo hướng dẫn của Thông tư thì: “Người có người thân thích ruột thịt như cha mẹ, vợ chồng, con cùng sống chung trong gia đình mà họ có những việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có hệ thống” được coi là người không đủ tiêu chuẩn “có phẩm chất, đạo đức tốt” để tuyển chọn làm Thẩm phán.
Một số người làm công tác thực tiễn và nghiên cứu đặt câu hỏi rằng: đòi hỏi nêu trên đối vói Thẩm phán có cao quá không? Trong khi đòi hỏi này không đặt ra như một tiêu chuẩn bắt buộc đối với các ngạch công chức khác, thậm chí không đặt ra đối vói cả những người giữ các cương vị lãnh đạo cao cấp trong bộ máy Đảng và Nhà nước!
Về vấn đề này chúng tôi cho rằng: Thẩm phán là người làm nghề xét xử bảo vệ công bằng, công lý, phải là người gương mẫu về mọi mặt. Tuy nhiên, họ cũng là con người, là công dân bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật, cho nên chúng ta không thể coi họ là người có phẩm chất không tốt và buộc họ phải chịu trách nhiệm hoặc hậu quả xấu trong việc tuyển chọn, đề bạt công chức, nếu như không chứng minh được là họ có lỗi trong việc để cho các thành viên trong gia đình vi phạm pháp luật hoặc vi phạm đạo đức nghiêm trọng. Chính vì vậy, chúng tôi đồng tình với quan điểm là cần phải xem xét thận trọng lại hướng dẫn nêu trên, để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn hiện nay.
Ngoài các vấn đề, tiêu chuẩn chung của Thẩm phán đã được xác định tại Điều 27 Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1992 và Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chúng tôi xin đề cập đến một số vấn đề về tiêu chuẩn chung của Thẩm phán sau đây:
-
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam có phải tiêu chuẩn bắt buộc đối với Thẩm phán không? Đây là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan tâm, kể cả một số nhà nghiên cứu là người nước ngoài.
Theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam thì chúng ta có thể khẳng định không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định bắt buộc Thẩm phán phải là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế tuyển chọn những năm vừa qua cho thấy, hầu hết (đại đa số) Thẩm phán được tuyển chọn, bổ nhiệm là Đảng viên, nhưng cũng có một số Thẩm phán không phải là Đảng viên; đồng thời những Thẩm phán không phải Đảng viên vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử các vụ án. Mặt khác, chúng tôi cho rằng Toà án xét xử nhân danh Nhà nước về mặt tổ chức, Toà án không phải là bộ phận trong cơ cấu bộ máy tổ chức của Đảng, cho nên không có căn cứ để đồng tình với quan điểm cho rằng “Thẩm phán Toà án nhân dân phải là Đảng viên”; trong một số trường hợp cá biệt, những “Quần chúng” tốt thoả mãn các tiêu chuẩn Thẩm phán theo quy định của pháp luật vẫn có thể được tuyển chọn làm Thẩm phán, tham gia trong bộ máy Nhà nước bình đẳng như những công dân khác.
-
Đào tạo qua trường (lớp, khoá) chuyên sâu về nghiệp vụ xét xử có là tiêu chuẩn bắt buộc đối với Thẩm phán không? Như đã phân tích ở trên, Thẩm phán làm Việt Nam xét xử là một nghề chuyên sâu, do đó việc bồi dưỡng, đào tạo trước khi làm nghề rõ ràng là một điều cần thiết và khoa học. Hiện nay ở nhiều nước trên thế giới đều quy định là một người muốn được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì sau khi tốt nghiệp Đại học Luật hoặc trước khi bổ nhiệm làm Thẩm phán, họ phải qua Trường đào tạo chuyên ngành (xét xử) với thời gian ít nhất là 2 năm. Ở Việt Nam những năm gần đây cũng đã có Trường đào tạo các chức danh Tư pháp, một số Thư ký Toà án là đối tượng bồi dưỡng đào tạo Thẩm phán trong tương lai cũng đã được Trường đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về công tác xét xử. Chính vì vậy, hiện nay có một số ý kiến cho rằng: Trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần bổ sung quy định: Tiêu chuẩn bắt buộc đối với Thẩm phán là phải qua đào tạo tại Trường đào tạo các Chức danh Tư pháp.
Về nguyên tắc, cơ sở lý luận thì chúng tôi thấy quan điểm nêu trên là hoàn toàn hợp lý và khoa học, đáp ứng yêu cầu chuyên sâu nghề nghiệp của Thẩm phán. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì Trường đào tạo các chức danh Tư pháp mới được thành lập, điều kiện về tổ chức, cơ sở vật chất có thể chưa đảm bảo đào tạo đủ số lượng người để bổ nhiệm Thẩm phán theo yêu cầu của các Toà án địa phương trong thời gian hiện nay. Nếu chúng ta khắc phục được hạn chế này thì cần sớm quy định tiêu chuẩn bắt buộc đối với Thẩm phán mới được bổ nhiệm lần đầu, phải thoả mãn điều kiện qua Trường đào tạo chuyên môn như đã nêu ở trên.
-
Có nên quy định tiêu chuẩn về lý luận chính trị (sơ cấp, trung cấp, cao cấp) đối với Thẩm phán không? Hiện nay có một số ý kiến cho rằng: để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động Tư pháp nhằm xây dựng nền pháp chế xã hội chủ nghĩa thì những người làm công tác xét xử, nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần phải có tiêu chuẩn xác định về đào tạo lý luận chính trị sơ cấp, trung cấp, cao cấp tương ứng với các chức danh Thẩm phán cấp huyện, cấp tỉnh và Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao.
Đúng là trong tình hình phát triển xã hội với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan Tư pháp, đảm bảo công bằng, công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là thực sự cần thiết, vấn đề này đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Trung ương và Bộ chính trị, đặc biệt là trong Chỉ thị số 53- CT-TW ngày 21/3/2000 của Bô chính trị. Tuy nhiên, việc đào tạo lý luận chính trị do Tổ chức Đảng các cấp đảm nhiệm, nhằm trang bị cho Đảng viên những kiến thức lý luận chính trị, xã hội nhất định. Như ở phần trên, chúng ta đã trình bày, nếu Đảng viên không phải là tiêu chuẩn bắt buộc đối với Thẩm phán, thì cũng không có lý do gì tho ả đáng để xác định tiêu chuẩn đối Thẩm phán phải có trình độ lý luận chính trị sơ cấp, trung cấp hoặc cao cấp. Tất nhiên trong thực tế những năm qua và yêu cầu trong tương lai, chúng ta vẫn mong muốn là Thẩm phán Toà án các cấp cần được thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị để thực hiện được tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ xét xử các vụ án, chống hiện tượng “máy móc, pháp lý đơn thuần, vô chính trị” trong quá trình giải quyết các vụ án.
-
Trong những năm gần đây, thông qua công tác xét xử các Thẩm phán đã đóng góp một phần công sức của mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đấu tranh phòng chống tôi phạm, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính và lao động, nhưng bên cạnh đó cũng bộc lộ một số sai lầm rất nghiêm trọng, xâm hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Một trong số các nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến sai lầm, khiếu kiện kéo dài, gây mất lòng tin của nhân dân vào việc xét xử của Toà án là việc Thẩm phán chưa coi trọng thoả đáng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, chưa thực sự coi mình là công bộc của nhân dân. Để góp phần khắc phục những thiếu sót ở trên và nhấn mạnh thêm trách nhiệm của Thẩm phán trước nhân dân, chúng tôi đề nghị bổ sung thêm cụm từ “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân” vào sau cụm từ “Có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
III/ CÁC TIÊU CHUẨN CỤ THỂ CỦA THẨM PHÁN TÒA ÁN CÁC CẤP VÀ YÊU CẦU HOÀN THIỆN CÁC TIÊU CHUẨN NÀY TRONG THỜI KỲ MỚI
Các tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán Toà án các cấp nói trong phần này là các tiêu chuẩn về một số lĩnh vực cụ thể mà người Thẩm phán cần phải có, ngoài các tiêu chuẩn chung đã được quy định tại Điều 37 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của Nhà nước ta các tiêu chuẩn cụ thể này được quy định tại Chương III Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Đó là Điều 16 quy định tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, Điều 17 quy định tiêu chuẩn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Điều 18 quy định tiêu chuẩn của Thẩm phán Toà án nhân dân cấp quận, huyện và tương đương. Theo quy định của các Điều 16, 17 và 18 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì các tiêu chuẩn cụ thể này bao gồm:
- Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo;
- Tiêu chuẩn về thời gian làm công tác pháp luật;
- Tiêu chuẩn về năng lực xét xử.
* Về tiêu chuẩn đào tạo:
Theo quy định tại các điều luật nói trên của Pháp lệnh thì Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và Thẩm phán Toà án nhân dân cấp quận, huyện đều phải có trình độ đào tạo như nhau; đó là: Trình độ cao đẳng Toà án hoặc Đại học Luật.
Có quan điểm cho rằng quy định như trên là chưa hoàn toàn hợp lý và chưa có tính thuyết phục. Bởi vì, sẽ xảy ra người Thẩm phán của Toà án cấp cao hơn có trình độ đào tạo thấp hơn (thí dụ: Cao đẳng Toà án) lại có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, kiểm tra, đánh giá, cải sửa các quyết định của người Thẩm phán toà án cấp dưới (cấp sơ thẩm) có trình độ đào tạo cao hơn (thí dụ: Trình độ Đại học). Theo chúng tôi, đây là vấn đề chuyên môn nghiệp vụ, không chỉ căn cứ vào trình độ đào tạo mà còn phải căn cứ vào các tiêu chuẩn khác để đánh giá năng lực xét xử của từng Thẩm phán; tuy nhiên cũng cần nghiên cứu kỹ ý kiến nêu trên để khắc phục tình trạng này xảy ra. Trong tình hình hiện nay có thể phải quy định: Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm lần đầu phải có bằng tốt nghiệp đại học luật trở lên.
Ngoài ra, chúng tôi còn nhận thấy các Điều 16, 17 và 18 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân dùng khái niệm “có trình độ Cao đẳng Toà án” hoặc “có trình độ Đại học Luật” là không hoàn toàn chính xác, dẫn đến tranh cãi, hiểu lầm. Thực tế thì khái niệm “có trình độ Cao đẳng Toà án” không hoàn toàn đồng nghĩa với khái niệm “có bằng tốt nghiệp Cao đẳng Toà án”; Khái niệm “có trình độ Đại học Luật” không hoàn toàn đồng nghĩa với khái niệm “có bằng tốt nghiệp Đại học Luật”.
Qua nhiều năm áp dụng các tiêu chuẩn này, chúng tôi thấy cần rút ra kết luật là phải thay cụm từ “có trình độ Cao đẳng Toà án hoặc Đại học Luật” bằng cụm từ “có bằng tốt nghiệp Cao đẳng Toà án hoặc Đại học Luật” cho chuẩn xác trong khi tuyển chọn Thẩm phán.
Trong thực tiễn hiện nay có vấn đề đặt ra là: người có bằng tốt nghiệp Đại học Cảnh sát, bằng tốt nghiệp Đại học An ninh, bằng tốt nghiệp Cao đẳng Kiểm sát và có đủ các tiêu chuẩn khác cùa Thẩm phán thì có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán không? Chúng tôi cho rằng trường hợp này không thoả mãn tiêu chuẩn về đào tạo quy định tại các Điều 16, 17 và 18 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, cho nên không thể bổ nhiệm làm Thẩm phán được.
-
Về tiêu chuẩn thời gian làm công tác pháp luật:
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân quy định tiêu chuẩn thời gian làm công tác pháp luật đối với Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao là 8 năm trở lên (Điều 16), đối với Thẩm phán Toà án cấp tỉnh là 6 năm trở lên (Điều 17) và đối với Thẩm phán Toà án cấp quận, huyện là 4 năm trở lên (Điều 18).
Theo chúng tôi khái niệm “Làm công tác pháp luật” là khái niệm rất rộng, có nội dung khái quát cao, bao hàm nhiều lĩnh vực công tác pháp luật khác nhau, khó xác định chuẩn xác trong quá trình tuyển chọn và thường gây tranh cãi tuỳ tiện. Mặc dù khái niệm này đã được các cơ quan có thẩm quyền giải thích hướng dẫn vận dụng, nhưng vẫn còn nhiều nhân tố bất hợp lý, chưa có tính chuẩn xác cao.
Về nguyên tắc Thẩm phán là người làm công tác chuyên môn xét xử tại Toà án nhân dân các cấp, cho nên những đối tượng có thể được tuyển chọn làm Thẩm phán trước hết phải là những người có thời gian làm công tác tại Toà án như: Thư ký, Thẩm tra viên, Chuyên viên..., ngoài ra trong trường hợp cần thiết cũng có thể tuyển chọn làm Thẩm phán những người làm công tác pháp luật ở các cơ quan tiến hành tố tụng khác (như: Điều tra viên, Kiểm sát viên) hoặc chuyên viên pháp lý ở các cơ quan Tư pháp..., nhưng theo chúng tôi với điều kiện họ phải có thời gian công tác tại Tòa án ít nhất 1 năm trước khi bổ nhiệm Thẩm phán hoặc phải qua kỳ thi chuyển ngạch công chức sang Toà án. Song quá khứ chúng ta đã từng bổ nhiệm làm Thẩm phán những người đang làm công tác ở các cơ quan Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị xã hội. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, việc làm này rõ ràng là không còn phù hợp và thiếu căn cứ khoa học, không đảm bảo cho người được bổ nhiệm Thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử.
-
Về tiêu chuẩn năng lực xét xử:
Chúng tôi cho rằng đây là một trong số các tiêu chuẩn nghiệp vụ quan trọng nhất, đảm bảo cho người Thẩm phán xét xử đúng pháp luật, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì các cấp Toà án có thẩm quyền xét xử các loại vụ án có tính chất và mức độ phức tạp khác nhau và theo trình tự, thủ tục không hoàn toàn giống nhau. Thí dụ: Toà án cấp dưới thường xét xử sơ thẩm các vụ án ít phức tạp hơn so với những vụ án do Toà án cấp trên xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp quận, huyện chỉ xét xử các vụ án theo trình tự sơ thẩm, Toà án cấp tỉnh và Toà án nhân dân Tối cao có thể phải xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Tương ứng với thẩm quyền nêu trên của các cấp Toà án thì tiêu chuẩn về năng lực xét xử đối với Thẩm phán Toà án cấp quận, huyện là phải xét xử được các vụ án thuộc thẩm quyền theo trình tự sơ thẩm, các Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh và Toà án nhân dân Tối cao phải có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Theo quy định của Luật Tổ chức Toà án thì hiện nay Toà án có thẩm quyền xét xử các vụ án Hình sự, Dân sự, Kinh tế, Hành chính và Lao động, do đó có quan điểm cho rằng: Tiêu chuẩn về năng lực xét xử yêu cầu Thẩm phán phải xét xử được tất cả các loại vụ án nói trên. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này về mặt yêu cầu và nguyên tắc nhưng trong thực tiễn xét xử thì thông thường Thẩm phán được phân công xét xử một loại việc (Hình sự, Dân sự, ...) có tính chất chuyên trách, yêu cầu Thẩm phán phải có năng lực xét xử tốt tất cả các loại vụ án theo các chuyên ngành luật khác nhau như đã nêu ở trên là vô cùng khó khăn, chính vì vậy có ý kiến đề xuất là: tiêu chuẩn để tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán lần đầu chỉ cần “Có năng lực xét xử ít nhất một loại việc (Hình sự, Dân sự, Kinh tế, ...) thuộc thẩm quyền của Toà án nơi được bổ nhiệm”.
Ngoài ra theo quy định của pháp luật tố tụng thì nguyên tắc “Thẩm phán xét xử tập thể” không những được pháp luật nước ta ghi nhận mà hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng thừa nhận nguyên tắc này. Xuất phát từ tính tập thể của việc xét xử và đặc thù nghề nghĩệp của Thẩm phán, cho nên nhiều nước trên thế giới tuyển chọn, bổ nhiêm Thẩm phán trên cơ sở giới thiệu của Tập thể Thẩm phán nơi họ công tác. Thực tiễn ở nước ta cũng tổ chức lấy phiếu tín nhiệm trước khi bổ nhiệm Thẩm phán, nhưng chỉ để nghiên cứu tham khảo. Chúng tôi cho rằng ở nước ta cũng nên ghi nhận bổ sung thêm một điều kiện, tiêu chuẩn đối với Thẩm phán các cấp là: “Được sự đồng ý giới thiệu của ít nhất 2/3 số Thẩm phán ở đơn vị đang công tác”.
IV/KẾT LUẬN
Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Toà án nhân dân, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, trong đó có vấn đề rất quan trọng là các tiêu chuẩn để tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án các cấp đã được luật hoá bằng những quy phạm có giá tri pháp lý cao.
Qua gần 10 năm thi hành Pháp lệnh, căn cứ vào các tiêu chuẩn do Pháp lệnh quy định, chúng ta đã tuyển chọn được hàng nghìn Thẩm phán Toà án các cấp, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo về pháp luật, quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức và công dân, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và lý luận, nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về tiêu chuẩn Thẩm phán và các quy định khác trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Đây là yêu cầu tất yếu và khách quan để xây dựng cơ sở pháp lý, tuyển chọn một đội ngũ Thẩm phán có đạo đức nghề nghiệp tốt, có trình độ và năng lực chuyên môn vững vàng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xét xử trong thời gian tới.
THỦ TỤC BỔ NHIỆM, MIỄN NHIỆM,
CÁCH CHỨC THẨM PHÁN, CHÁNH ÁN, PHÓ CHÁNH ÁN
VÀ NHŨNG KIẾN NGHỊ
Ths. Đỗ Gia Thư
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Chủ tịch nước
A. SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TRÌNH TỰ THỦ TỤC BỔ NHIỆM, MIỄN NHIỆM, CÁCH CHỨC THẨM PHÁN, CHÁNH ÁN, PHÓ CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP
-
Sự cần thiết của việc quy định trình tự thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp.
Toà án nhân dân là một bộ phận của hệ thống chính trị, là một trong những công cụ chuyên chính quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng hoạt động xét xử của mình, Toà án nhân dân thể hiện thái độ quan điểm của Nhà nước đối với kẻ tội phạm và đối với các tranh chấp khác xảy ra trong xã hội. Việc tuyên án chỉ có thể căn cứ vào pháp luật. Điều 72 Hiến pháp 1992 nước ta quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Chính vì vậy, việc xét xử đòi hỏi phải chính xác, công minh và thể hiện được ý chí, nguyện vọng chung của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân. Ngoài ra, Toà án còn có nhiệm vụ giáo dục cồng dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, hướng dư luận xã hội ủng hộ cái đúng, cái tích cự, lên án, bài trừ các tiêu cực, tệ nạn xã hội, làm cho các quan hệ xã hội được lành mạnh.
Hoạt động của Toà án phải tuân theo một nguyên tắc đặc biệt: hoạt động tố tụng theo pháp luật. Trong hoạt động đó, Thẩm phán là nhân vật trung tâm, làm chủ toạ phiên toà. Thẩm phán là người được Nhà nước giao quyền xét xử, nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bản án. Thẩm phán là người chịu trách nhiệm trước Đảng, trước Nhà nước, trước nhân dân về quyết định phán quyết của mình. Các phán quyết của Thẩm phán là biểu hiện tập trung và là kết quả cuối cùng trong hệ thống mắt xích điều tra - truy tố - xét xử. Nhiệm vụ của Thẩm phán rất nặng nề, vinh quang. Tính chất hoạt động của Thẩm phán rất khó khăn, phức tạp, hoạt động xét xử của Thẩm phán độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, không chịu tác động từ bên ngoài kể cả cơ quan lãnh đạo cấp trên. Bởi vậy, người Thẩm phán phải trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tri thức tổng hợp về cuộc sống, có kiến thức pháp lý và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có năng lực xét xử, có tinh thần kiên quyết bảo vệ công lý.
Xuất phát từ tính chất đặc biệt của công việc đòi hỏi người Thẩm phán phải có những điều kiện, tiêu chuẩn rất chuẩn mực và khắt khe. Để đảm bảo việc tuyển chọn Thẩm phán được chặt chẽ, đáp ứng đúng những tiêu chuẩn như vậy thì phải xây dựng công tác tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán thành một chế độ pháp lý cụ thể. Điều này được khẳng định là hết sức cần thiết và đã được quan tâm ở tất cả các nước trên thế giới hiện nay. Ở nước ta, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 xác lập một hệ thống Toà án tư pháp trong cả nước, đặc biệt trong đó đã xác định rõ thẩm quyền và mọi trình tự, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán khá chặt chẽ. Từ đó đến nay, chế độ tuyển chọn Thẩm phán ngày càng được hoàn thiện. Hình thức pháp lý về tuyển chọn (bầu cử hoặc bổ nhiệm), thủ tục tuyển chọn từng thời kỳ có thể thay đổi, nhưng nhìn chung, việc quy định các điều kiện, tiêu chuẩn Thẩm phán và quy trình tuyển chọn Thẩm phán thì ngày càng hoàn thiện và chặt chẽ hơn.
II. Cơ sở pháp lý của việc quy định trình tự thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức Thẩm phán, Chánh án. Phó Chánh án ở nước ta hiện nay.
Về cơ sở pháp lý của việc quy định trình tự thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án ở nước ta hiện nay có thể thấy đủ các văn bản pháp luật từ cao xuống thấp, bao gồm Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho đến Thông tư, công văn hướng dẫn của liên ngành, của Bộ, của Ngành. Quy trình tuyển chọn Thẩm phán cũng còn phải căn cứ vào các Nghị quyết, Quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng về việc phân cấp quản lý cán bộ, bổ nhiệm cán bộ của Nhà nước nói chung.
Chúng ta có thể liệt kê các văn bản như sau:
-
Hiến pháp năm 1992;
-
Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 6/10/1992 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 28/12/1993;
-
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân ngày 14/3/1993;
-
Nghị quyết số 37/UBTVQH9, ngày 14/5/1993 của Ưỷ ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số điều cùa Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân;
-
Thông tư số 05/TT-LNTA-BTP ngày 15/10/1993 của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp cụ thể hoá Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân;
Ngoài ra còn có một số văn bản pháp quy khác của Bộ Tư pháp hướng dẫn về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển, cách chức Thẩm phán Toà án địa phương.
Liên quan đến công tác bổ nhiệm Thẩm phán còn phải căn cứ vào Chỉ thị số 34/CT-TW ngày 18/3/1994 của Ban Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về sự chỉ đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán; Quyết định số 49, 50, 51/QĐ-TW ngày 03/5/1999 của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ban hành các quy chế về phân cấp quản lý cán bộ, quy chế bổ nhiệm cán bộ.
Hiến pháp năm 1992 quy định Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch nước (Điều 84 khoản 7 và Điều 103 khoản 3); Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội (Điều 128). Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 108 khoản 3). Hiến pháp năm 1992 quy định chế độ bổ nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp do Luật định (Điều 128).
Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 06/10/1992 khẳng định lại chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với Toà án nhân dân các cấp (Điều 3). Một vấn đề quan trọng có liên quan trực tiếp đến việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán là Luật tổ chức Toà án quy định việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định (Điều 16). Toàn bộ Chương V của Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định về Thẩm phán và Hội thẩm. Đây là chương quan trọng nhất, mang tính pháp lý cao nhất quy định về các điều kiện, tiêu chuẩn để làm Thẩm phán, xác định nhiệm kỳ của Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân, Toà án quân sự các cấp là 5 năm. Tất cả Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Trừ Chánh án Toà án nhân dân tối cao). Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Chánh toà, Phó Chánh toà chuyên trách, Vụ trưởng, các Phó vụ trưởng và các chức vụ khác trong Toà án nhân dân tối cao trừ Phó Chánh án và Thẩm phán (Điều 25 khoản 5). Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Chánh toà, Phó Chánh toà chuyên trách và các chức vụ khác trong Toà án nhân dân cấp mình, trừ Phó Chánh án và Thẩm phán (Điều 31 khoản 1).
Đặc biệt Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân là một văn bản pháp lý cao quy định khá cụ thể và toàn diện về quy trình, thủ tục bổ nhiệm, cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp.
Sau đây là thủ tục đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp theo quy định của pháp luật hiện hành:
B. THỦ TỤC BỔ NHIỆM THẨM PHÁN, CHÁNH ÁN, PHÓ CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP
I. Chuẩn bị hồ sơ và thông qua Hội đồng tuyển chọn đối với việc đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán
1. Hồ sơ tuyển chọn và việc phân cấp chuẩn bị hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán.
Căn cứ vào Thông tư số 05TT-LN của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp ngày 15/10/1993 nói trên và Công văn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán thì hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán nói chung phải có như sau:
-
Đơn xin tình nguyện làm Thẩm phán (theo mẫu do Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao thống nhất quy định).
-
Sơ yếu lý lịch có dán ảnh (4x6) và có xác nhận của cơ quan quản lý cán bộ (theo mẫu TCTW 2b của Ban tổ chức Trung ương Đảng quy định), kèm theo 2 ảnh cỡ (3x4) để làm chứng minh thư Thẩm phán.
-
Giấy chứng nhận sức khoẻ do Bệnh viện nơi người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán đăng ký khám chữa bệnh theo Bảo hiểm Y tế chứng nhận.
-
Bản sao bằng tốt nghiệp Đại học Luật hoặc Cao đẳng Toà án và các văn bằng, chứng chỉ về trình độ lý luận chính trị, các chứng chỉ khác (nếu có) liên quan đến việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán. Các bản sao này đều phải có chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
-
Bản tự kiểm điểm của người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán:
a) Đối với các trường hợp chưa phải là Thẩm phán, yêu cầu kiểm điểm quá trình công tác theo các tiêu chuẩn Thẩm phán được quy định trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, cụ thể:
-
Việc chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước của bản thân và gia đình người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán; quá trình rèn luyện phẩm chất đạo đức và các tiêu chuẩn người Thẩm phán.
-
Nêu các ưu, khuyết điểm trong công tác chuyên môn được giao, việc chấp hành kỷ luật lao động thể hiện bằng kết quả và chất lượng trong công việc.
- Nêu các ưu, khuyết điểm trong việc xây dựng đoàn kết nội bộ, tín nhiệm của cơ quan, quần chúng đối với bản thân.
Bản kiểm điểm phải có nhận xét, đánh giá của Thủ trưởng cơ quan về trình độ chuyên môn, năng lực và uy tín của người đó.
b) Đối với các trường hợp là Thẩm phán đương nhiệm, trên cơ sở kết quả rà soát đội ngũ Thẩm phán, việc đề nghị tái bổ nhiệm Thẩm phán cần có:
Bản kiểm điểm quá trình công tác chuyên môn cũng như việc rèn luyện tu dưỡng phẩm chất đạo đức người Thẩm phán trong nhiệm kỳ theo mẫu do Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao thống nhất quy định, kèm theo xác nhận và ý kiến nhận xét đánh giá của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố đối với Thẩm phán Toà án cấp tỉnh; của Giám đốc Sở Tư pháp đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện.
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ cấp uỷ cùng cấp đối với người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện (thực hiện theo Chỉ thị số 34/CT-TW ngày 18/3/1994 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp). Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải có ý kiến đề nghị từ Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân tối cao và sự nhất trí của Ban Nội chính Trung ương, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ.
-
Biên bản và kết quả lấy phiếu tín nhiệm trong cơ quan đối với người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán (thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 04/BCS ngày 30/8/1993 và Công văn số 11/BCS ngày 12/11/1993 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp).
-
Danh sách trích ngang đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán (theo mẫu do Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao thống nhất quy định).
-
Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, trong hồ sơ phải có Tờ trình đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán gửi lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp (mục III/4, TT 05/TTLN):
-
Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân tỉnh đề nghị;
-
Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện đề nghị kèm với Danh sách và Biên bản phiên họp của HĐTC (biên bản phải có đủ chữ ký của các thành viên Hội đồng).
Trường hợp có Thẩm phán đề nghị tái bổ nhiệm thì trong Tờ trình cần nêu rõ số lượng Thẩm phán được đề nghị tái nhiệm, số không được đề nghị, lý do và Danh sách kèm theo, kể cả những trường hợp đề nghị mà chưa đù tiêu chuẩn theo quy định.
Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét là do Toà án nhân dân tối cao đảm nhận.
Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh để đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xem xét do Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp với Toà án nhân dân tối cao.
Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện để đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện xem xét do Sở Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
-
Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp, các bước tiến hành trong phiên họp Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp.
a/ Chức năng và nguyên tắc làm việc của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân và Thẩm phán Toà án quân sự các cấp.
Theo quy định của điều 20 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm của Toà án nhân dân thì Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân và Thẩm phán Toà án quân sự các cấp có 2 chức năng sau đây:
-
Giúp Chủ tịch nước tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật để làm Thẩm phán và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.
-
Giúp Chủ tịch nước xem xét những Thẩm phán vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán để trình Chủ tịch nước cách chức.
Với hai chức năng trên có thể coi các Hội đồng này có hai tư cách: tư cách như là một Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán và tư cách như là một Hội đồng kỷ luật.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm việc theo chế độ tập thể. Nghị quyết của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Trong các phiên họp, Hội đồng phải lập biên bản, ghi các ý kiến nhận xét của các thành viên về người được đề nghị bổ nhiệm. Các ý kiến đó có quyền được bảo lưu.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp được thành lập với mục đích tư vấn, giúp việc cho Chủ tịch nước trong phạm vi các công việc nói trên, không thấy quy định có thẩm quyền đề nghị Chủ tịch nước thuyên chuyển hoặc miễn nhiệm làm Thẩm phán.
b/ Cơ cấu, nhiệm vụ và quyền hạn của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp:
Tương xứng với ba cấp Toà án, pháp luật quy định ba loại Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, đó là:
-
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương;
-
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
-
Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
* Về Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương:
Theo quy định của Điều 21 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương gồm có các thành phần: Chánh án Toà án nhân dân làm Chủ tịch Hội đồng; các đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban chấp hành trung ương Hội Luật gia Việt Nam là uỷ viên.
Danh sách cụ thể các uỷ viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương do uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Pháp luật không quy định cụ thể các uỷ viên của Hội đồng phải là người ở cương vị nào, nhưng tinh thần chung thì người đại diện phải là một trong những người lãnh đạo của các cơ quan, tổ chức nói trên, bởi vì như vậy thì mới có đầy đủ thẩm quyền đại diện cho cơ quan, tổ chức của mình. Thực tế, Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao gồm có các đồng chí sau đây: Chánh án Toà án nhân dân tối cao (làm Chủ tịch Hội đồng), Chánh án Toà án quân sự Trung ương, thứ trưởng Bộ Tư pháp, Phó Chủ tịch uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Phó Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Hội Luật gia Việt Nam.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
-
Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn để làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm;
-
Xem xét những trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước cách chức (Điều 21 Pháp lệnh Thẩm phán).
-
Có ý kiến trước khi đề nghị Chủ tịch nước cách chức các chức vụ Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự Trung ương (Điều 24 khoản 4 Pháp lệnh Thẩm phán).
* Về Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh)
Theo quy định của Điều 22 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh bao gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm chủ tịch Hội đồng; các đại diện của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban chấp hành trung ương Hội Luật gia Việt Nam là uỷ viên. Các uỷ viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh do Ủy ban Thưòng vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Căn cứ vào quy định trên, danh sách cụ thể của Hội đồng hiện nay như sau: Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Chủ tịch Hội đồng, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án quân sự trung ương, Ưỷ viên thường trực uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ viên thường trực Ban chấp hành trung ương Hội Luật gia Việt Nam là uỷ viên.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh được quy định như sau:
-
Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn để làm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và khu vực theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm;
-
Xem xét những trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và trình Chủ tịch nước cách chức;
-
Có ý kiến về việc đề nghị cách chức các chức vụ Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh; Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực.
* Về Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện).
Điều 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân quy định về thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện gồm: Giám đốc Sở Tư pháp làm chủ tịch; đại diện của Hội đồng nhân dân, Toà án nhân dân, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc, Ban chấp hành Hội Luật gia Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là uỷ viên.
Danh sách các uỷ viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Theo Thông tư 05 TT-LN ngày 15/10/1993 của liên ngành Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thì những người đại diện trong các cơ quan, tổ chức nói trên phải là:
-
Giám đốc Sở Tư pháp (làm Chủ tịch Hội đồng);
-
Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
-
Thường trực Uỷ ban Mặt trận tổ quốc tỉnh, thành phố;
-
Thường vụ Ban chấp hành Hội Luật gia tỉnh, thành phố là uỷ viên.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
-
Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn để làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp và đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp để Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.
-
Xem xét những trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp và đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp để Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước cách chức;
- Có ý kiến về việc đề nghị cách chức các chức vụ Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện.
Pháp luật hiên hành không quy định về nhiệm kỳ của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán nói trên. Như vậy có thể hiểu là các Hội đồng này có thời hạn không xác định. Cấp nào có quyền cử các thành viên của Hội đồng tuyển chọn thì cấp ấy có quyền bãi nhiệm, thay đổi thành viên của Hội đồng.
Trình tự tiến hành việc xem xét hồ sơ trong phiên họp của các Hội đồng như sau:
Trước khi tiến hành phiên họp Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, cơ quan có trách nhiệm quản lý phải gửi hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cho các thành viên của Hội đồng sao cho có đủ thời gian để nghiên cứu trước.
Trong phiên họp, việc tuyển chọn được tiến hành đối với từng người một và theo trình tự: ông Chủ tịch Hội đồng (hoặc người được uỷ quyền) trình bày vắn tắt nội dung và các tài liệu có trong hồ sơ, nhận xét về quá trình công tác, rèn luyện phẩm chất, đạo đức của người được đề nghị làm Thẩm phán. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và ý kiến của ông Chủ tịch Hội đồng, các thành viên của Hội đồng tuyển chọn phát biểu ý kiến của mình về việc đánh giá tiêu chuẩn của người được đề nghị. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán biểu quyết công khai bằng cách giơ tay; Nghị quyết của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng biểu quyết tán thành.
Trường hợp thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán không đồng ý với ý kiến đa số của Hội đồng, có quyền bảo lưu ý kiến của mình và ý kiến bảo lưu phải được ghi rõ vào biên bản.
Đối với hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và huyện thì phải được làm thành hai bộ và gửi về Bộ Tư pháp (Vụ quản lý Toà án địa phương). Đối với hồ sơ đề nghị tái bổ nhiệm phải gửi trước khi hết nhiệm kỳ 4 tháng (Công văn số 391/TP-PLTA). Giám đốc Sở Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiến hành triển khai thực hiên việc chuẩn bị, hoàn chỉnh các thủ tục, hồ sơ và chịu trách nhiệm về các sai sót, chậm trễ của hồ sơ. Các tài liệu có trong hồ sơ phải là bản chính (riêng bằng tốt nghiệp Đại học Luật hoặc cao đẳng Toà án và các văn bằng chứng chỉ về trình độ lý luận chính trị, ngoại ngữ... là bản sao, nhưng phải có chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền).
Sau khi nhận được báo cáo kết quả việc tuyển chọn từ Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trao đổi ý kiến thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Nếu có trường hợp nào mà Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao thấy cần thiết yêu cầu Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện xem xét lại hoặc làm rõ, thì Hội đồng tuyển chọn có trách nhiệm thực hiện yêu cầu đó. Trong trường họp Hội đồng tuyển chọn vẫn giữ ý kiến như cũ thì nêu rõ lý do và Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao cũng sẽ trình ý kiến của mình lên Chủ tịch nước để Chủ tịch nước quyết định.
II. Chuẩn bị hồ sơ và phân cấp thẩm quyền đề nghị bổ nhiệm chức vụ Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân các cấp
Điều 24 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân quy định: Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm trong số Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện do Chủ tịch nước bổ nhiệm trong số Thẩm phán Toà án nhân dân cùng cấp theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất vói Chánh án Toà án nhân dân tối cao... Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự cũng là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Về thủ tục, hồ sơ đề nghị bổ nhiệm chức vụ Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp được quy định như sau:
-
Tờ trình đề nghị bổ nhiệm đối với Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao là của Chánh án Toà án nhân dân tối cao trên cơ sở nhất trí của Thường vụ Bộ Chính trị theo QĐ 51/QĐ-TW ngày 03/5/1999 của Bộ Chính trị.
-
Tờ trình đề nghị bổ nhiệm đối với các chức vụ Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương là của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi có sự thống nhất của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của:
+ Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân cấp tỉnh (nếu ở Toà cấp tỉnh), hoặc sự đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh (nếu ở Toà án cấp huyện);
+ Ý kiến của Ban Thường vụ Đảng uỷ cùng cấp về việc bổ nhiệm chức vụ Chánh án, Phó Chánh án;
+ Biên bản và kết quả lấy phiếu tín nhiệm trong cơ quan đối với người được đề nghị bổ nhiệm chức vụ Chánh án, Phó Chánh án (do cấp uỷ cùng tiến hành);
+ Danh sách trích ngang đề nghị bổ nhiệm chức vụ Chánh án, Phó Chánh án (theo mẫu do Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao thống nhất quy định).
(Công văn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999).
Theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp cũng tại Công văn số 391/TP-QLTA nói trên, thì đối với các trường hợp có nhiệm kỳ Chánh án, Phó Chánh án trùng với nhiệm kỳ Thẩm phán, khi làm hồ sơ đề nghị tái bổ nhiệm Thẩm phán nhiệm kỳ mới, nếu đủ điều kiện thì đồng thời làm thủ tục đề nghị bổ nhiệm lại chức vụ Chánh án, Phó Chánh án. Đối với các trường hợp có nhiệm kỳ Chánh án, Phó Chánh án không trùng với nhiệm kỳ Thẩm phán, làm hồ sơ đề nghị tái bổ nhiệm Thẩm phán bình thường, nếu vẫn được tái bổ nhiệm Thẩm phán thì khi nào hết nhiệm kỳ Chánh án, Phó Chánh án, nếu đủ điều kiện thì tiếp tục làm hồ sơ đề nghị bổ nhiệm lại chức vụ Chánh án, Phó Chánh án. Các trường hợp hết nhiệm kỳ Thẩm phán, trong thời gian chờ Chủ tịch nước ra quyết định tái bổ nhiệm Thẩm phán mà nhiệm kỳ Chánh án, Phó Chánh án vẫn còn thì không được tham gia hoạt động tố tụng, chỉ làm nhiệm vụ quản lý, điều hành hành chính đối với các Toà án địa phương. Trường hợp không được bổ nhiệm lại làm Thẩm phán thì đương nhiên không còn là Chánh án, Phó Chánh án.
III. Thủ tục trình Chủ tịch nước ra Quyết định bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án
Việc trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán được tiến hành như sau:
-
Đối với việc trình bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương phải có Tờ trình gửi Chủ tịch nước đề nghị việc bổ nhiệm. Kèm với Tờ trình này là danh sách những người được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương tuyển chọn cùng với toàn bộ hồ sơ của những người đó và Biên bản phiên họp tuyển chọn Thẩm phán của Hội đồng (Biên bản phiên họp phải có đầy đủ chữ ký của các thành viên của Hội đồng).
-
Danh sách những người được hdtvc Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực tuyển chọn, do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Kèm theo Tờ trình này là hồ sơ của những người được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đề nghị và Biên bản phiên họp tuyển chọn Thẩm phán của Hội đồng.
- Đối với những người được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh tuyển chọn làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện thì Giám đốc Sở Tư pháp - Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn báo cáo kết quả việc tuyển chọn bằng văn bản gửi cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp để Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Kèm theo báo cáo kết quả việc tuyển chọn là hồ sơ của người được tuyển chọn, Biên bản phiên họp tuyển chọn Thẩm phán của Hội đồng.
Toàn bộ tài liệu và hồ sơ tuyển chọn Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp nói trên được gửi tới Chủ tịch nước qua Văn phòng Chủ tịch nước. Văn phòng Chủ tịch nước có nhiệm vụ giúp Chủ tịch nước rà soát lại lần cuối cùng toàn bộ danh sách đề nghị bổ nhiệm, thủ tục hồ sơ tuyển chọn cũng như phát hiện đơn thư khiếu nại, tố cáo Thẩm phán; sau đó làm Tờ trình và soạn thảo Quyết định, trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định việc bổ nhiệm. Nếu phát hiện trường hợp nào chưa đủ hồ sơ thủ tục hoặc có đơn thư khiếu nại, tố cáo thì Văn phòng Chủ tịch nước, thừa lệnh Chù tịch nước đề nghị các cơ quan hữu quan (Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp...) bổ sung hồ sơ hoặc thẩm tra nội dung đơn thư để có báo cáo trình Chủ tịch nước.
Việc bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp được thực hiện bằng Quyết định của Chủ tịch nước, có hiệu lực từ ngàỵ ký. Quyết định chính được gửi cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao (nếu là Quyết định bổ nhiệm Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao) hoặc gửi cho cả Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao (nếu là Quyết định bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án địa phương). Toà án nhân dân tối cao sao chụp quyết định để gửi cho Thẩm phán, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Bộ Tư pháp sao chụp quyết định gửi cho Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
IV. Xử lý đơn, thư khiếu nai, tố cáo đối với các trường hợp đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp.
-
Đối với Toà án nhân dân tối cao thì việc giải quyết các đơn, thư khiếu nại, tố cáo bổ nhiệm Thẩm phán do Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân tối cao tiến hành xác minh, làm rõ nội dung đơn thư, có kết luận và báo cáo xác minh, kèm theo tài liệu có liên quan để đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét và báo cáo trình Chủ tịch nước quyết định.
-
Đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh: Các đơn, thư khiếu nại, tố cáo về việc bổ nhiệm Thẩm phán do Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân tỉnh, thành phố nơi có đơn thư, phối hợp với các Ban chức năng của Đảng với sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tiến hành xác minh, có kết luận kèm với các tài liệu có liên quan gửi về Bộ Tư pháp. Riêng Chánh án, Phó Chánh án thuộc diện quản lý trực tiếp của cấp uỷ địa phương thì đơn, thư khiếu nại, tố cáo do cấp uỷ địa phương xác minh, kết luận và gửi về Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp. Trường hợp gặp khó khăn trong việc xác minh, kết luận đơn, thư khiếu nại, tố cáo thì Toà án hoặc cấp uỷ địa phương có thể đề nghị Bộ Tư pháp cử cán bộ có thẩm quyền cùng phối hợp giải quyết.
-
Đối với Toà án nhân dân cấp huyện: Các đơn, thư khiếu nại, tố cáo về việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện do Giám đốc Sở Tư pháp đảm nhiệm, có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và Thường vụ cấp uỷ cùng cấp, nơi có đơn, thư tiến hành xác minh làm rõ nội dung đơn, thư, có kết luận và báo cáo kịp thời về Bộ Tư pháp. Đối với các nội dung đơn, thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc xét xử các vụ án cụ thể thì kết luận giải quyết đơn, thư phải kèm theo ý kiến bằng văn bản của Toà án cấp trên về việc giải quyết vụ án.
Sau khi có kết luận cùa các cơ quan hữu quan, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có văn bản giải trình kèm với các tài liệu có liên quan trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
Trường hợp các kết luận của các cơ quan hữu quan có chỗ chưa cụ thể, rõ ràng, Chủ tịch nước yêu cầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Bộ trưởng Bộ Tư pháp báo cáo bổ sung hoặc uỷ quyền cho Văn phòng Chủ tịch nước (có thể phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp...) để xác minh làm rõ thêm.
C. THỦ TỤC THUYÊN CHUYỂN, MIỄN NHIỆM, CÁCH CHỨC VÀ TẠM ĐÌNH CHỈ CÔNG TÁC ĐỐI VỚI THẨM PHÁN
I. Thủ tục thuyên chuyển Thẩm phán.
Theo điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định, thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án nhân dân địa phương đến Toà án nhân dân địa phương khác cùng cấp. Thực hiện quy định nói trên có hai điểm cần lưu ý:
-
Chỉ được thuyên chuyển Thẩm phán từ địa phương này sang địa phương khác trong phạm vi Toà án cùng cấp. (Trường hợp thuyên chuyển từ Toà án cấp này lên hoặc xuống Toà án cấp khác thì phải có Quyết định bổ nhiệm của Chủ tịch nước).
-
Theo Công văn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999 có hai hình thức thuyên chuyển Thẩm phán là hình thức thuyên chuyển không thời hạn và hình thức thuyên chuyển có thời hạn. Việc thuyên chuyển Thẩm phán chỉ trong trường hợp cần thiết. Công văn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999 hướng dẫn như sau:
Việc thuyên chuyển có thời hạn đối với Thẩm phán do yêu cầu tăng cường hỗ trợ xét xử giữa các Toà án nhân dân cùng cấp, thực hiện theo Công văn số 1132/TP-QLTA ngày 06/8/1998 của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao. Việc thuyên chuyển không thời hạn đối với Thẩm phán do nguyên vọng của Thẩm phán như họp lý hoá gia đình hoặc các lý do khác.
Hồ sơ đề nghị thuyên chuyển Thẩm phán gửi lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp để ra Quyết định gồm:
-
Đơn xin thuyên chuyển công tác của Thẩm phán (trong đơn cần nêu rõ lý do xin thuyên chuyển có xác nhận và đề nghị của thủ trưởng cơ quan nơi Thẩm phán công tác);
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban thường vụ cấp uỷ cùng cấp của nơi đi và nơi chuyển đến về việc thuyên chuyển của Thẩm phán;
-
Tờ trình về việc đề nghị thuyên chuyển Thẩm phán;
Đối với cấp tỉnh là Tờ trình của Toà án nhân dân cấp tỉnh của nơi đi và nơi chuyển đến; đối với cấp huyện là Tờ trình của Giám đốc sở Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Trong trường hợp thuyên chuyển Thẩm phán giữa các Toà án nhân dân cấp huyện không cùng tỉnh, thành phố thì phải có Tờ trình của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất với Toà án nhân dân cấp tỉnh của cả nơi đi và nơi chuyển đến.
Về việc thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương cùng cấp, hiện nay chưa thấy văn bản nào quy định như đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán (Điều 15 Pháp lệnh Thẩm phán). Vì thế vấn đề này đang có ý kiến khác nhau, làm cho công tác điều chuyển cán bô lãnh đạo Toà án cùng cấp, nhất là từ tỉnh này sang tỉnh khác gặp khó khăn.
II. Thủ tục miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án.
Liên quan đến vấn đề miễn nhiệm, pháp luật hiện hành chỉ thấy quy định tại Điều 38 Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1992 như sau: “Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án quân sự do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 1993 cũng không quy định về việc miễn nhiệm Thẩm phán, nhưng lại có quy định việc miễn nhiệm chức vụ Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp tại Điều 24.
Theo quy định của pháp luật thì thẩm quyền và quy trình trình miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp như sau:
Việc miễn nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp do Chủ tịch nước quyết định trên cơ sở đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, nếu là Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hoặc trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, nếu là Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, huyện. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ khi nào (điều kiện nào) thì được miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án.
Qua thực tế giúp Chủ tịch nước trong công việc bổ nhiệm Thẩm phán, chúng tôi thấy việc miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án được chấp nhận từ 4 lý do sau đây:
-
Do yêu cầu quy hoạch điều chuyển cán bộ của địa phuơng, Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án cần chuyển sang công tác khác giữ trọng trách cao hơn.
-
Vì tình trạng sức khoẻ hoặc vì trình độ chuyên môn, năng lực xét xử không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phải chuyển sang công tác khác thích hợp hơn.
-
Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án vi phạm kỷ luật lao động, kỷ luật hành chính hoặc vi phạm chẩm chất đạo đức nhưng chưa tới mức phải xử lý hình thức cách chức hoặc buộc thôi việc.
-
Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án có người thân trong gia đình vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có hệ thống (Thông tư số 05/TTLN).
Theo Công văn hướng dẫn số 391/TP-QLTA ngày 25/3/1999 của Bộ Tư pháp gửi các Sở Tư pháp và Toà án nhân dân địa phương thì hồ sơ đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán bao gồm các tài liệu cần thiết như sau:
1. Đơn xin miễn nhiệm của Thẩm phán (cần nêu rõ lý do xin miễn nhiệm và có ý kiến nhận xét, đề nghị của thủ trưởng cơ quan nơi Thẩm phán đó công tác);
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ cấp uỷ cùng cấp về việc miễn nhiệm;
-
Tờ trình về việc đề nghị miễn nhiệm: đối với Toà án nhân dân tối cao là của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; đối với cấp tỉnh là của Toà án nhân dân tỉnh; đối với cấp huyện là của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Đối với các trường hợp đề nghị miễn nhiệm để chuyển công tác khác do yêu cầu của công tác tổ chức, sắp xếp, bố trí, quy hoạch cán bộ của địa phương thì không cần đơn xin miễn nhiệm.
III. Thủ tục cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án.
Cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án là hình thức kỷ luật nặng nhất khi người giữ chức danh, chức vụ đó vi phạm kỷ luật nghiêm trọng hoặc có hệ thống, cần phải loại ra khỏi đội ngũ những người làm công tác xét xử.
Pháp luật hiện hành chưa quy định điều kiện như thế nào cụ thể thì cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án mà chỉ đưa ra một tiêu chí chung là cách chức khi “vi phạm kỷ luật không còn đủ tuyển chọn làm Thẩm phán” (Thông tư số 05-TTLN đã nêu trên).
Đối chiếu với các văn bản hiện hành về quản lý cán bộ, công chức và qua thực tế giúp việc cho Chủ tịch nước, chúng tôi thấy vấn đề cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án xảy ra trong các trường hợp sau đây:
-
Khi Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Ví dụ hành vi cố ý vi phạm pháp luật, làm sai lệch nội dung vụ án, sử dụng sai nguyên tắc kinh phí của cơ quan v.v... nhằm mục đích vụ lợi.
-
Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án vi phạm nghiêm trọng phẩm chất đạo đức, tác phong của người Thẩm phán, chẳng hạn như: Rượu chè bê tha, ăn chơi truy lạc, đã giáo dục nhưng vẫn tái phạm...
Căn cứ vào Công văn hướng dẫn số 391/TP-QLTA của Bộ Tư pháp nói trên thì hồ sơ đề nghị Chủ tịch nước cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án gồm các tài liệu cần thiết sau đây:
a/ Đối với việc cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì hồ sơ bao gồm:
-
Bản tự kiểm điểm của Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án vi phạm;
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Nội chính trung ương, Ban bảo vệ chính trị nội bộ về việc đề nghị cách chức;
-
Biên bản phiên họp của Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi Thẩm phán công tác và các tài liệu vi phạm của Thẩm phán.
Việc chuẩn bị hồ sơ do Chánh án Toà án nhân dân tối cao đảm nhiệm, sau đó đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương xem xét, có biên bản và Tờ trình gửi Chủ tịch nước đề nghị việc cách chức Thẩm phán. Thủ tục trình tự đề nghị cách chức Thẩm phán giống như việc bổ nhiệm.
b/ Đối với việc cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh thì hồ sơ bao gồm:
-
Bản tự kiểm điểm của Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án vi phạm;
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ về việc đề nghị cách chức;
-
Tờ trình của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh về việc cách chức kèm theo Biên bản phiên họp của Hội đồng kỷ luật của cơ quan nơi Thẩm phán công tác và các tài liệu có liên quan về vi phạm của Thẩm phán.
Việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị cách chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh do Toà án cấp đó đảm nhiệm, có sự phối hợp chặt chẽ với các Ban chức năng của Đảng và với sự chỉ đạo của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ.
Toàn bộ hồ sơ này được gửi tới Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có nhiệm vụ đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xem xét, có Tờ trình kèm với Biên bản trình Chủ tịch nước quyết định việc cách chức. Thủ tục cách chức cũng giống như thủ tục đề nghị bổ nhiệm.
c/ Đối với thủ tục cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện thì hồ sơ gồm:
-
Tờ trình của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện về việc cách chức Thẩm phán cùng với Biên bản phiên họp của Hội đồng xét kỷ luật Thẩm phán;
-
Hồ sơ kỷ luật của cơ quan đối với Thẩm phán vi phạm (bao gồm: Bản tự kiểm điểm của Thẩm phán; Biên bản họp Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi Thẩm phán công tác; các tài liệu về vi phạm của Thẩm phán);
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban Thường vụ cấp uỷ cùng cấp về việc cách chức Thẩm phán.
Việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị cách chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện do Sở Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và Thường vụ cấp uỷ cùng cấp. Toàn bộ hồ sơ được gửi lên Bộ Tư pháp. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có Tờ trình kèm với hồ sơ này gửi Chủ tịch nước để xem xét quyết định.
IV. Thủ tục tạm đình chỉ công tác.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thẩm quyền tạm đình chỉ công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và huyện là của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (cơ quan quản lý về mặt tổ chức).
Công văn số 391/TP-QLTA của Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể như sau: Đối với Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán có hành vi vi phạm pháp luật đang bị điều tra thì không được phân công làm nhiệm vụ xét xử. Trước hết, để tạo điều kiện cho cơ quan điều tra tiến hành xác minh, làm rõ hành vi vi phạm pháp luật, các cơ quan trực tiếp quản lý đương sự cần phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ cùng cấp, tiến hành các thủ tục đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định tạm thời đình chỉ công tác của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán có hành vi vi phạm pháp luật, đang bị điều tra.
Thủ tục, hồ sơ gồm các tài liệu cần thiết như sau:
-
Kiến nghị bằng văn bản của cơ quan điều tra về việc tạm thời đình chỉ công tác của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán để tiến hành điều tra, làm rõ và kết luận hành vi vi phạm pháp luật.
-
Ý kiến bằng văn bản của Ban thường vụ cấp uỷ cùng cấp về việc tạm thời đình chỉ công tác của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán có hành vi vi phạm pháp luật, đang bị điều tra.
-
Tờ trình về việc đề nghị tạm thời đình chỉ công tác của Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án có hành vi vi phạm pháp luật đang bị điều tra (kèm theo các tài liệu vi phạm pháp luật và các tài liệu khác có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật của người đó).
Tờ trình đề nghị tạm đình chỉ công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là do Chánh toà Toà chuyên trách trực tiếp phụ trách Thẩm phán đó soạn thảo; đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh là do Lãnh đạo Toà án nhân dân cấp tỉnh và đối với cấp huyện là do Giám đốc Sở Tư pháp sau khi trao đổi với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh soạn thảo, đề nghị.
Trong trường hợp cần phải áp dụng ngay các biện pháp đề nghị miễn nhiệm hoặc cách chức thì không áp dụng biện pháp tạm đình chỉ công tác.
D. ĐÁNH GIÁ QUY TRÌNH THỦ TỤC BỔ NHIỆM, MIỄN NHIỆM, CÁCH CHỨC THẨM PHÁN, CHÁNH ÁN, PHÓ CHÁNH ÁN TỪ KHI CÓ PHÁP LỆNH VỀ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 1993 ĐẾN NAY.
Việc chuyển đổi từ chế độ bầu cử sang chế độ bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta thực chất là một cuộc cải cách về công tác tuyển chọn cán bộ, về đổi mới hoạt động của Toà án thông qua việc nâng cao chất lượng Thẩm phán, góp phần quan trọng vào công cuộc cải cách Tư pháp. Tuy mới chỉ thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được hơn một nhiệm kỳ, nhưng phải nói rằng chưa thấy bao giờ nhiều cơ quan Nhà nước trung ương và địa phương, các tổ chức Đảng, đoàn thể, Mặt trận tổ quốc, các công dân và nhất là bản thân từng Thẩm phán lại quan tâm đến công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán như hiện nay; và cũng chưa bao giờ, chất lượng Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án chỉ trong một thời gian ngắn lại được nâng cao đến như vậy.
1. Xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán.
Các ngành các cấp có liên quan ngay từ đầu đã nhận thức được tính chất quan trọng của công tác bổ nhiệm Thẩm phán, coi đó là một bước tiến mới trong quá trình cải cách đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, đảm bảo kiện toàn đội ngũ Thẩm phán ở nước ta có những tiêu chuẩn cần thiết của người làm công tác xét xử, bảo vệ pháp luật, hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao. Do vậy các ngành các cấp đã từng bước có những hướng dẫn cụ thể để nghiêm túc thực hiện thống nhất chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo pháp luật. Sau khi có Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1992, uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X đã ban hành Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993. Các văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất này đã tạo ra một hành lang pháp luật thống nhất trong cả nước để thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán.
Căn cứ vào Điều 16 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã đưa ra Nghị quyết số 46/NQ-UBTVQH9 ngày 29/9/1993 ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức. Toà án nhân dân tối cao đã thống nhất với Bộ Tư pháp trình uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về số lượng Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp.
Để hướng dẫn các Toà án địa phương thực hiện thống nhất các quy định của pháp luật, Bộ Tư pháp phối hợp với Toà án nhân dân tối cao ra Thông tư số 05/TT-LN ngày 15/10/1993 hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các tiêu chuẩn Thẩm phán, hướng dẫn thành lập các Hội đổng tuyển chọn Thẩm phán, quy trình chuẩn bị nhân sự, hồ sơ đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và thuyên chuyển Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyển chọn Thẩm phán, Ban chấp hành trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 34/CT-TƯ ngày 19/3/1993 về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án các cấp. Tiếp đó, Ban cán sự Đảng và lãnh đạo Bộ Tư pháp đã phối hợp với Ban cán sự Đảng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao có công văn gửi các Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương nhằm phối hợp với nhau về việc chuẩn bị nhân sự đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương.
Đối với Toà án nhân dân và Sở Tư pháp các tỉnh, Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện thống nhất các bước của quy trình tuyển chọn Thẩm phán. Các bước đó là: rà soát lại đội ngũ cán bộ Toà án, kiểm điểm phân loại Thẩm phán đương nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm, lập hồ sơ đề nghị bổ nhiệm và tái bổ nhiệm Thẩm phán, kiểm tra, xác minh đơn thư tố cáo, khiếu nại, hướng dẫn tổ chức lễ công bố Quyết định của Chủ tịch nước về bổ nhiêm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án, v.v...
Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX (tháng 4 năm 1997), Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có báo cáo trước Quốc hội về hoạt động công tác của Chủ tịch nước nhiệm kỳ 1992-1997, trong đó có đánh giá về việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Toà án quân sự các cấp.
Năm 1999, Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức các Hội nghị tổng kết công tác bổ nhiệm Thẩm phán nhiệm kỳ thứ nhất (1994- 1999). Các báo cáo tổng kết đều khẳng định việc thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán là hoàn toàn phù hợp trong giai đoạn hiện nay, đánh giá những mặt được và những tồn tại cần tiếp tục khắc phục trong nhiệm kỳ Thẩm phán 1999- 2003. Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp đã có công văn gửi các Toà án và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố yêu cầu về việc rà soát phân loại Thẩm phán, chuẩn bị hồ sơ và tiến hành các thủ tục tuyển chọn tái bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp.
Việc hình thành một hê thống các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và việc tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn nói trên đã từng bước cụ thể hoá những quy định của pháp luật phù hợp với tình hình cán bộ hiện có, đảm bảo tính thống nhất và tính khả thi của công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán. Các văn bản này quy định rõ nhiệm vụ và những công việc phải làm đối với từng cơ quan có liên quan, nhất là đối với cơ quan quản lý trực tiếp Thẩm phán, đồng thời đề ra cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan. Cơ chế phối hợp này là một cơ chế đặc thù, bởi vì sự phối hợp không chỉ giữa các cơ quan Nhà nước từ trung ương tới địa phương, mà bao gồm cả tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị xã hội và công dân trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát Thẩm phán.
2. Đánh giá tình hình thực hiện công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp.
Căn cứ vào Báo cáo tổng kết ngành của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và các đánh giá gần đây của các cơ quan có thẩm quyền, thì nhìn chung việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán đều đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác tổ chức cán bô; việc tuyển chọn về cơ bản là nghiêm túc, đảm bảo đúng tiêu chuẩn quy định của pháp luật. Tuy nhiên số lượng và chất lượng Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp nhìn chung còn thiếu và yếu so với yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra.
Trong số Thẩm phán đã được bổ nhiệm trong nhiệm kỳ vừa qua là nhiều trường hợp thiếu tiêu chuẩn chuyên môn (Đại học Luật) nhưng đã vận dụng Nghị quyết số 37 - uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 14/5/1993 để đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán. Những trường hợp này sau khi được bổ nhiệm, phải học tập để “trả nợ”.
Theo báo cáo tổng kết nhiệm kỳ Thẩm phán (1994-1999) của Bộ Tư pháp thì đa số các trường hợp này là Thẩm phán đương nhiệm có thâm niên công tác lâu năm hoặc từ Trọng tài kinh tế chuyển sang. Nhiều trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, nên khó tìm được nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán. Từ thực tế trên cho thấy chủ trương cho Thẩm phán “nợ” và phải học tập “trả nợ” là chủ trương mang tính chất tình thế phù hợp với thực trạng đội ngũ cán bộ hiện nay. Tuy nhiên đây cũng là đặc điểm của “thời kỳ quá độ”, cần giải quyết dứt điểm tình trạng này trong nhiệm kỳ 1999-2003.
Qua theo dõi khảo sát thực tế cho thấy không phải việc thiếu Thẩm phán là quá trầm trọng nếu như chúng ta có kế hoạch tạo nguồn cũng như sử dụng tốt đội ngũ Thẩm phán hiện có.
Về chất lượng Thẩm phán Toà án các cấp: Nhìn chung đội ngũ Thẩm phán của nước ta trưởng thành từ công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới đất nước, với tỷ lệ 94% Thẩm phán các cấp là Đảng viên, một tỷ lệ khó có ngành nào đạt được. Kết quả này nói lên sự đảm bảo về tiêu chuẩn phẩm chất chính trị, đạo đức của người Thẩm phán. Về chuyên môn, hầu hết Thẩm phán đều đã có trình độ Đại học Luật trở lên, có thời gian công tác tương đối dài tại các Toà án các cấp, nên có năng lực xét xử, chất lượng đội ngũ Thẩm phán được nâng cao dần theo cấp Toà án từ huyên lên đến tối cao.
Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm phán vẫn còn yếu về chất lượng, đại bộ phận được đào tạo mang tính tình thế, tỷ lệ Thẩm phán được đào tạo chính quy còn thấp (khoảng 30%). Số đông còn lại được đào tạo dưới hình thức chuyên tu, tại chức. Xét về phẩm chất tư cách, vẫn còn Thẩm phán vi phạm, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân. Bộ Tư pháp đã phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước và các cơ quan Đảng cử nhiều Đoàn kiểm tra đến các địa phương để cùng cấp uỷ địa phương kiểm tra xác minh các đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với nhiều Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án các cấp; có trường hợp phải về địa phương nhiều lần mới kết luận được sự việc. Cũng có trường hợp hồ sơ mặc dù đã qua nhiều cấp thẩm tra, xét duyệt, nhưng lên đến Chủ tịch nước vẫn còn phát hiện ra sai sót do không đủ điều kiện, tiêu chuẩn hoặc vì những lý do về hồ sơ phải để lại để bổ sung hoặc giải trình thêm.
3. Về việc miễn nhiệm Thẩm phán
Trong nhiệm kỳ 1994-1999, Chủ tịch nước đã ra quyết định miễn nhiệm 5 Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 18 Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, 48 Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện. Hầu hết các trường hợp miễn nhiệm là do yêu cầu quy hoạch cán bộ của địa phương, trên cơ sở đề nghị của cấp uỷ Đảng, miễn nhiệm để chuyển sang công tác khác giữ chức vụ cao hơn. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp xin miễn nhiệm để chuyển công tác hợp lý hoá gia đình hoặc miễn nhiệm do trình độ chuyên môn, năng lực yếu hay sức khoẻ không đảm bảo tiếp tục công tác. Cá biệt có 06 trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện vi phạm kỷ luật (vi phạm nguyên tắc làm việc hoặc vi phạm đạo đức) nhưng chưa đến mức phải xử lý bằng hình thức cách chức để chuyển sang công tác khác. Nhìn chung việc đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án đều tuân thủ các quy định của pháp luật. Đối với những trường hợp miễn nhiệm để chuyển công tác khác theo yêu cầu công tác địa phương hoặc để hợp lý hoá gia đình, do năng lực, sức khoẻ, ... thì Thẩm phán phải làm đơn đề nghị xin miễn nhiệm Thẩm phán. Đối với trường hợp Thẩm phán vi phạm kỷ luật đề nghị áp dụng hình thức miễn nhiệm thì phải có thêm Biên bản của Hội đồng kỷ luật đánh giá về hành vi vi phạm của Thẩm phán do Giám đốc Sở Tư pháp ký (đối với Thẩm phán Toà án cấp huyện) hoặc do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký (đối với Thẩm phán Toà án cấp tỉnh). Việc miễn nhiệm Thẩm phán nhiệm kỳ vừa qua đạt kết quả tốt còn là do sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương (Toà án cấp huyện, cấp tỉnh - Sở Tư pháp - Thường vụ Huyện uỷ, Tỉnh uỷ) với Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao và Văn phòng Chủ tịch nước trong việc giúp Chủ tịch nước ra các quyết định miễn nhiệm.
Tuy nhiên, việc quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án còn chưa rõ ràng, nhất là quy định về điều kiện miễn nhiệm các chức danh và chức vụ nói trên, ranh giới giữa miễn nhiệm và cách chức như thế nào? Trong thực tế nhiều khi còn có sự chưa thống nhất, ví dụ khi nào thì được xin miễn nhiệm, khi nào thì cho miễn nhiệm? Hoặc trường hợp đang còn nhiệm kỳ Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án nhưng đến tuổi nghỉ hưu, thì có cần phải có Quyết định của Chủ tịch nước miễn nhiệm chức danh, chức vụ để nghỉ hưu hay không? Những vấn đề này cần phải được làm rõ và quy định vào trong các văn bản pháp luật để thực hiện một cách thống nhất.
4. Về việc thuyên chuyển Thẩm phán
Trong nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, việc thuyên chuyển Thẩm phán ở các Toà án các cấp được diễn ra dưới hai hình thức: thuyên chuyển không thời hạn và thuyên chuyển có thời hạn. Việc điều chuyển Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao từ địa phương này đến địa phương khác do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định. Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện thì việc thuyên chuyển do Bộ Tư pháp quyết định trên cơ sở thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Do việc phân định lại địa giới hành chính cấp tỉnh, cấp huyện ở một số địa phương đồng thời với sự thay đổi về tổ chức Toà án, chẳng hạn Toà án nhân dân cấp tỉnh thành lập thêm Toà kinh tế, Toà hành chính, Toà lao động, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Toà án nhân dân tối cao và cấp uỷ địa phương tập trung chỉ đạo, sắp xếp lại tổ chức, bố trí cán bộ, thuyên chuyển Thẩm phán từ các đơn vị Toà án cũ sang các đơn vị Toà án mới thành lập cũng như thuyên chuyển Thẩm phán đến một số địa phương đang thiếu nguồn hoặc giải quyết án tồn đọng ở những nơi này. Nhiệm kỳ Thẩm phán 1993-1999, Bộ Tư pháp đã thống nhất với Toà án nhân dân tối cao ra quyết định thuyên chuyển 98 Thẩm phán giữa các địa phương. Đáng chú ý là đối với một số Toà án nhân dân cấp tỉnh mới chia tách có số lượng Thẩm phán chưa đủ để thành lập hai Hội đồng xét xử, khi có án bị huỷ theo luật định thì phải có Hội đồng xét xử khác, Bộ Tư pháp đã có biện pháp thuyên chuyển Thẩm phán từ tỉnh này sang tỉnh khác để giải quyết tình trạng trên (như đối với tỉnh Ninh Thuận, Bình Phước...). Cuối nhiệm kỳ vừa qua, nhiều Toà án địa phương, do số Thẩm phán còn nợ tiêu chuẩn chuyên môn phải đi học nhiều, nên theo đề nghị của các địa phương này, Bộ Tư pháp đã ra nhiều quyết định thuyên chuyển có thời hạn, nhất là đối với Thẩm phán Toà án cấp huyện. Việc thuyên chuyển Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp nói trên trong nhiệm kỳ vừa qua đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết án tồn đọng tại một số Toà án địa phương thiếu Thẩm phán, đồng thời tạo điều kiện cho nhiều Thẩm phán có người thay thế để có cơ hội học tập “trả nợ” hoặc nâng cao trình độ chuyên môn. Ngoài ra việc thuyên chuyển Thẩm phán còn giúp cho việc hợp tác và trao đổi thông tin, kinh nghiệm giữa các Thẩm phán Toà án ở các địa bàn địa phương khác nhau được tốt hơn, tạo ra sự đồng đều hơn về mặt chất lượng Thẩm phán, chất lượng xét xử giữa các vùng.
5. Về việc cách chức Thẩm phán.
Việc tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán Toà án các cấp trong thời gian qua khá chặt chẽ. Các ngành các cấp đã rất chú ý đến các điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán. Tuy nhiên trong quá trình công tác, một số Thẩm phán đã thiếu ý thức phấn đấu, tu dưỡng dẫn đến vi phạm nghiêm trọng về pháp luật, về phẩm chất đạo đức, về các nguyên tắc nghề nghiệp, tới mức phải bị xử lý hình thức cách chức.
Điểm qua trong nhiệm kỳ Thẩm phán 1994-1999, ở Toà án nhân dân tối cao có 01 trường hợp nguyên là Thẩm phán, Phó Chánh toà dân sự đã bị cách chức và truy tố hình sự về tội “Lợi dụng ảnh hưởng của người khác để trục lợi”. Ở Toà án nhân dân cấp tỉnh có 3 Thẩm phán bị cách chức. Còn ở Toà án nhân dân cấp huyện, số Thẩm phán bị cách chức lên tới con số 32, trong đó có cả Chánh án và Phó Chánh án.
Lý do bị cách chức đối với số Thẩm phán này rất đa dạng, nhưng đa số là có hành vi cố ý vi phạm các quy định của pháp luật, vi phạm phẩm chất đạo đức của người Thẩm phán, tham ô, nhận hối lộ, rượu chè, trai gái truy lạc v.v..., thậm chí có Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện còn vận chuyển cả thuốc phiện bị bắt quả tang.
Qua thống kê theo dõi trong số 32 Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện bị cách chức thì có tới 8 Thẩm phán bị truy tố trước pháp luật vì phạm tội hình sự. Cũng trong 5 năm qua có 18 Thẩm phán khác bị xử lý hình thức kỷ luật từ cảnh cáo đến buộc thôi việc do vi phạm các nguyên tắc quản lý kinh tế, quyết định không pháp luật hoặc quan hệ nam nữ bất chính, v.v... Từ thực trạng các vi phạm cùa Thẩm phán nêu trên cũng như những dư luận về biểu hiện bất bình thường trong sinh hoạt và thu nhập của một số Thẩm phán đòi hỏi các cơ quan quản lý cần có những biện pháp hữu hiệu để giáo dục phòng ngừa, kiên quyết loại trừ những cá nhân thoái hoá, biến chất ra khỏi đội ngũ Thẩm phán, góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Việc xử lý nhiều Thẩm phán vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức trong nhiệm kỳ vừa qua cho chúng ta bài học không chỉ chú ý đến tiêu chuẩn Thẩm phán ở “đầu vào” trong quá trình tiêu chuẩn, bổ nhiệm, mà còn phải quan tâm thường xuyên đến việc tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu của mỗi Thẩm phán trong quá trình công tác cũng như việc tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động xét xử của Thẩm phán Toà án các cấp.
E. KIẾN NGHỊ
1. Tăng cường thẩm quyền của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp.
Để tránh cho việc tuyển chọn Thẩm phán mang tính chất hình thức (thuần tuý chỉ dựa trên hồ sơ) cũng như nâng cao hơn nữa vai trò cuả các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, chúng tôi đề nghị ngoài hai chức năng của các Hội đồng theo quy định của pháp luật hiện nay, nên bổ sung thêm chức năng giám sát các hoạt động của Thẩm phán đương nhiệm để đến hết nhiệm kỳ Thẩm phán, Hội đồng có cơ sở tiếp tục đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm hoặc không bổ nhiệm. Vấn đề kiểm tra, giám sát Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp về mặt pháp lý có khá nhiều cơ quan, thuyên chuyển tham gia như: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ (Bộ Tư pháp), Hội đồng nhân dân, Toà án cấp trên, Mặt trận tổ quốc v.v... Việc quy định nhiều cơ quan, tổ chức có chức năng này nhưng trách nhiệm lại rất chung chung, không có sự phân định rõ nét về thẩm quyền dẫn đến tình trạng hoặc can thiệp quá sau vào tác nghiệp của Thẩm phán hoặc lại buông lỏng, lơi là khâu quản lý, kiểm tra, giám sát Thẩm phán.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp có khả năng làm tốt được chức năng này, bởi vì thành phần của Hội đồng có sự tham gia của đại diện lãnh đạo nhiều ngành, nhiều cấp có thẩm quyền nói trên. Hơn nữa, Hội đồng này không chỉ có nhiệm vụ tuyển chọn người mới để đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán, mà còn có nhiệm vụ xem xét đề nghị việc tái bổ nhiệm. Do vậy Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán các cấp cũng rất cần phải theo dõi, giám sát các hoạt động của Thẩm phán trong cả nhiệm kỳ để có đánh giá chính xác về mọi mặt của Thẩm phán đương nhiệm.
Tuy nhiên, cần nghiên cứu cách thức, biện pháp giám sát Thẩm phán của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán như thế nào để vừa tránh hình thức, đồng thời tránh tình trạng chồng chéo nhau về thẩm quyền giữa các cơ quan, tổ chức. Do vậy trước hết cần xác định phạm vi trách nhiệm của Hội đồng tuyển chọn các cấp, sao cho việc giám sát phải có hiệu quả, gọn nhẹ, nhưng lại không vi phạm các nguyên tắc độc lập trong xét xử của Thẩm phán. Vấn đề giám sát việc bổ nhiệm Thẩm phán và giám sát Thẩm phán đương nhiệm cũng là một trong nội dung quan trọng cần được đề cập, nghiên cứu trong khi xây dựng dự thảo Luật về giám sát của các cơ quan Nhà nước.
Về thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện, có ý kiến cho rằng quy định như hiện nay là quá cồng kềnh và hình thức. Đây cũng là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để đảm bảo hoạt động của Hội đồng tuyển chọn đạt kết quả cao hơn. Qua thực tế theo dõi cho thấy trình độ các thành viên trong Hội đồng rất không đồng đều. Vì thế việc họp Hội đồng nhiều khi mang tính chất hình thức (dựa trên hồ sơ để xem xét đề nghị hoặc vì nể nang mà đề nghị người chưa đủ tiêu chuẩn...). Các thành viên trong Hội đồng nhìn chung chưa thực sự nắm bắt được quá trình hoạt động công tác của Thẩm phán. Có trường hợp Thẩm phán vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật nhưng Hội đồng không biết, vẫn tiến hành các thủ tục đề nghị tái bổ nhiệm, đến khi có quyết định bổ nhiệm của Chủ tịch nước lại phải đề nghị xoá tên trong danh sách. Hoặc Hội đồng cũng chưa nắm bắt kịp thời những diễn biến tư tưởng, những nguyện vọng của Thẩm phán. Ví dụ có trường hợp (ở Toà án cấp huyện tỉnh Thanh Hóa), sau khi có quyết định bổ nhiệm Thẩm phán của Chủ tịch nước thì Quyết định lại không được đương sự thi hành vì lý do đương sự chỉ nhận làm Thẩm phán ở Toà án huyện khác khi được giữ chức vụ lãnh đạo (!) v.v... Vì vậy chúng tôi kiến nghị cần nâng cao hơn chất lượng hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện. Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao cần có những tổng kết đánh giá riêng về thực trạng hoạt động của các Hội đồng này, trên cơ sở đó để có những kiến nghị cụ thể.
2. Cải tiến thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.
Qua một nhiệm kỳ thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán cho thấy các thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm còn nhiều vấn đề phức tạp, rườm rà, phải qua nhiều khâu, chờ đợi nhiều ý kiến, dẫn đến việc bổ nhiệm bị kéo dài, có thủ tục mang tính chất hình thức. Mục đích cải tiến thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán là làm sao cho việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán đảm bảo được nhanh chóng, nhưng chặt chẽ và đúng theo quy định của pháp luật. Chúng tôi xin có một số kiến nghị về vấn đề này như sau:
-
Về thủ tục chuẩn bị hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, nhìn chung nhiều ý kiến đề nghị có sự phân biệt trường hợp bổ nhiệm mới và trường hợp tái bổ nhiệm. Cụ thể là: Đối với những trường hợp bổ nhiệm Thẩm phán lần đầu thì hồ sơ phải đầy đủ. Nhưng đối với hồ sơ tái nhiệm thì nên theo hướng đơn giản hơn về thủ tục. Tuy nhiên, việc bỏ thủ tục gì, rút gọn cái gì, hiện nay đang còn những ý kiến khác nhau và thực tế chưa thấy rút gọn được gì cả. Chúng tôi cho rằng đối với trường hợp tái bổ nhiệm thì không cần phải lập lại toàn bộ hồ sơ như bổ nhiệm lần đầu mà trên cơ sở hồ sơ cũ đã có, bổ sung thêm một số tài liệu bắt buộc là: Bản kiểm điểm công tác hết nhiệm kỳ Thẩm phán (trong đó đặc biệt nêu rõ số lượng án xét xử, đánh giá về số và chất lượng án huỷ, cải sửa nghiêm trọng); Bản nhận xét của Ban cán sự Đảng Toà án cấp tỉnh và Sở Tư pháp (theo 1 mẫu quy định thống nhất) và ý kiến đề nghị của Ban Thường vụ Đảng uỷ cùng cấp. Ngoài ra có thể bổ sung thêm văn bằng, chứng chỉ mới liên quan đến việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hoặc những thay đổi về lý lịch (nếu có).
-
Việc thăm dò sự tín nhiệm của tập thể cơ quan bằng phiếu kín đối với việc bổ nhiệm Thẩm phán là một thủ tục cần thiết, nhưng để tránh việc lấy tín nhiệm chỉ là hình thức thì Bô Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn thống nhất cách thức lấy phiếu tín nhiệm, tránh những trường hợp như ở một số nơi đưa ra qui ước không đồng ý thì gạch bỏ, đồng ý thì để nguyên, như vậy ai cầm bút để gạch tên, ai không cầm bút thì mọi người đều biết, không có ý nghĩa của phiếu kín nữa. Danh sách đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cần niêm yết công khai, không chỉ để cho những người trong cơ quan, mà mọi người khác quan tâm cũng được biết để tham gia giám sát, phản ánh với các cơ quan có thẩm quyền. Các ngành, các cấp, các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán từ đó có cơ sở, vững tin hơn trong việc lập hồ sơ, tiến hành xét chọn, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, đảm bảo đúng người, đúng tiêu chuẩn pháp luật quy định.
-
Trong thời gian qua, nhiều trường hợp chuẩn bị hồ sơ thiếu chặt chẽ, thiếu một số tài liệu quan trọng như lý lịch thiếu xác nhận của cơ quan quản lý, nhầm lẫn họ, tên, ngày sinh trong các giấy tờ hồ sơ (sai sót về kỹ thuật văn bản); lý lịch khai chưa rõ về bản thân, gia đình; hồ sơ thiếu văn bằng chứng chỉ, thiếu đơn tình nguyện, thiếu ý kiến cấp uỷ, thiếu bản kiểm điểm quá trình công tác v.v... Các giấy tờ trong hồ sơ chưa theo một mẫu thống nhất chung, kể cả nội dung trình bày và kích cỡ giấy tờ. Việc sắp xếp thứ tự các loại giấy tờ trong hồ sơ chưa khoa học, chưa theo một quy trình thống nhất. Những thiếu sót này cũng nên quan tâm khắc phục sớm để đảm bảo tính khoa học của công tác tổ chức, nếu không nó cũng sẽ ảnh hưởng không chỉ chất lượng mà cả đến tiến độ thời gian tuyển chọn bổ nhiệm.
Trong thời gian tới, đề nghị với các cơ quan hữu quan: Văn phòng Chủ tịch nước, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao bàn bạc, phối hợp trong việc kết nối mạng vi tính, sử dụng phần mềm tin học về công tác quản lý, bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp để vừa đảm bảo tính chính xác thống nhất, vừa đảm bảo sự nhanh chóng, kịp thời của công tác này.
- Tiếp tục nghiên cứu về hình thức ra Quyết định bổ nhiệm Thẩm phán. Có ý kiến đề nghị mỗi Thẩm phán nên có riêng một Quyết định của Chủ tịch nước để thể hiện sự tôn vinh của Nhà nước đối với người Thẩm phán. Có cần thiết phải làm như vậy không? Chúng tôi cho rằng nếu làm được như vậy là rất tốt. Tuy nhiên, yêu cầu này rất khó được thực hiện, bởi lẽ, tổ chức của bộ phận hành chính phục vụ Chủ tịch nước như hiện nay thì không thể đảm bảo được đòi hỏi này. Vì vậy, trước mắt mỗi Quyết định của Chủ tịch nước vẫn phải kèm theo một danh sách bổ nhiệm Thẩm phán. Nhưng để tạo điều kiện cho Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao sao gửi Quyết định bổ nhiệm Thẩm phán về các Toà án địa phương được thuận lợi thì danh sách bổ nhiệm Thẩm phán của từng địa phương, từng Toà án (nếu có nhiều người cùng đề nghị trong một đợt) nên tách thành từng tờ riêng ngay từ khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp lập Tờ trình đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm để đến Văn phòng Chủ tịch nước cũng sẽ có số lượng danh sách bổ nhiệm tương ứng kèm theo với Quyết định của Chủ tịch nước để từ đó Bộ Tư pháp sao gửi, công bố Quyết định dễ dàng.
3. Hoàn thiện cơ chế thuyên chuyển, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán.
Như đã phân tích ở phần trên cho thấy vấn đề thuyên chuyển, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán chưa được Luật và Pháp lệnh quy định cụ thể.
Việc thực hiện cơ chế này chưa đảm bảo sự thống nhất cũng như chưa có sự phối hợp tốt giữa các ngành, các cấp có liên quan. Vì vậy chúng tôi đề nghị:
a) Bổ sung vào Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân về các nguyên tắc, điều kiện thuyên chuyển, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán. Đây là những vấn đề quan trọng không thể chỉ dừng lại ở các văn bản hướng dẫn như hiện nay.
b) Về thủ tục thuyên chuyển, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán theo quy định tại các văn bản hướng dẫn như hiện nay vừa chưa đủ, lại rườm rà, chồng chéo lên nhau dẫn đến tình trạng xử lý công việc bị chậm trễ. Việc xử lý kỷ luật không kịp thời thì tính giáo dục, thuyết phục sẽ kém hiệu quả. Sau đây là một số kiến nghị cụ thể giải quyết vấn đề này:
- Về việc thuyên chuyển Thẩm phán, nhất là thuyên chuyển Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện từ tỉnh này sang tỉnh khác, theo Vụ quản lý Toà án địa phương cho biết là rất phức tạp. Để thực hiện được thủ tục này, hồ sơ phải có 8 cửa với 8 con dấu: Hai con dấu của hai cấp uỷ, 2 con dấu của hai Chánh án tỉnh, 2 con dấu của hai Sở Tư pháp của nơi đi và nơi đến, 1 con dấu của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và 1 con dấu của Bộ Tư pháp. Việc chờ đợi đầy đủ tất cả các con dấu nói trên tốn kém rất nhiều thời gian, không đáp ứng việc giải quyết các án tồn đọng ở các Toà án, nhất là cấp huyện. Do vậy vấn đề này cần có sự nghiên cứu phối hợp giữa các ngành các cấp sao cho có thể giảm bớt những thủ tục không cần thiết để việc thuyên chuyển Thẩm phán được nhanh chóng, dễ dàng hơn. Ví dụ việc thuyên chuyển Thẩm phán từ tỉnh này sang tỉnh khác cần quy định thời hạn nhất định cho các cấp có thẩm quyền. Nếu quá hạn đó mà chưa có ý kiến thì coi như nhất trí. Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố thì cần thiết có thể phân cấp thẩm quyền cho các cơ quan bên dưới (Sở Tư pháp và Toà án nhân dân cấp tỉnh) trực tiếp giải quyết các trường hợp thuyên chuyển Thẩm phán có thời hạn trong phạm vi địa phương và sau đó báo cáo lại cho các cơ quan quản lý cấp trên.
- Về vấn đề thẩm quyền ra Quyết định thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương cùng cấp:
Pháp luật hiện hành chưa thấy quy định rõ về thẩm quyền quyết định thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương cùng cấp như đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán quy định tại Điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Chính vì thế vấn đề này đang có ý kiến khác nhau, thực tế chưa giải quyết được, làm cho công tác điều chuyển cán bộ lãnh đạo Toà án từ tỉnh này sang tỉnh khác đang gặp khó khăn.
Để giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi có thể khắc phục một cách lâu dài bằng cách kiến nghị uỷ ban Thường vụ Quốc hội bổ sung ngay vào Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân.
Tuy nhiên, để giải quyết khó khăn trước mắt về công tác điều chuyển cán bộ trong thời gian chờ bổ sung vào Pháp lệnh, có thể khắc phục bằng cách: Bộ trưởng Bộ Tư pháp có Tờ trình báo cáo lên Chủ tịch nước để Chủ tịch nước uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra Quyết định thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án từ nơi này đến nơi khác trong cùng một cấp Toà án. Chúng tôi cho rằng Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm quản lý toàn bộ đội ngũ Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương thì cũng có thể ra Quyết định thuyên chuyển không chỉ Thẩm phán, mà cả Chánh án, Phó Chánh án từ nơi này đến nơi khác trong cùng một cấp Toà án. Tuy nhiên, nếu được Chủ tịch nước uỷ quyền và để việc thuyên chuyển Chánh án, Phó Chánh án đạt hiệu quả cao, trước khi ra quyết định, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngoài việc thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo quy định của pháp luật, nhất thiết phải trao đổi ý kiến và đạt được sự nhất trí với Lãnh đạo các ngành có liên quan ở địa phương nơi đi và nơi đến, nhất là cấp uỷ địa phương; tránh để xảy ra nơi quá thừa, nơi lại quá thiếu cán bộ Lãnh đạo Toà án, gây khó khăn cho công tác điều hành xét xử ở địa phương.
- Về vấn đề miễn nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án:
Theo văn bản hướng dẫn hiện hành thì các trường hợp miễn nhiệm Thẩm phán đều phải có đơn tự nguyện của Thẩm phán. Thực tế thì chỉ các trường hợp miễn nhiệm vì lý do sức khoẻ, năng lực yếu, xin chuyển công tác để hợp lý hoá gia đình hoặc vi phạm kỷ luật nhưng chưa tới mức độ phải cách chức thì trong hồ sơ mới thấy cần thiết có đơn xin miễn nhiệm. Còn trường hợp miễn nhiệm Thẩm phán để chuyển công tác khác do yêu cầu nhiệm vụ chung thì không bắt buộc phải có đơn xin miễn nhiệm. Điều này chúng tôi cho là hợp lý, bởi vì có nhiều trường hợp cần miễn nhiệm Thẩm phán để điều chuyển sang nhận nhiệm vụ khác, nhưng bản thân Thẩm phán đó không muốn đi, nên đã không tự nguyện làm đơn, gây khó khăn cho công tác tổ chức. Cho nên quy định này nhiều khi là hình thức, mặt khác nó cũng chưa phù hợp với Pháp lệnh cán bộ công chức hiện hành. Vì vậy, chúng tôi đề nghị văn bản hướng dẫn cần sửa lại cho rõ theo hướng như trên.
Trong thời gian qua cũng có một số trường hợp nhận Quyết định bổ nhiệm Thẩm phán chưa lâu (khoảng sau vài tháng tới 1 năm) thì đã thấy có đơn và hồ sơ trình lên Chủ tịch nước xin miễn nhiệm để được chuyển sang công tác khác. Cho dù lý do xin miễn nhiệm có chính đáng đến đâu chăng nữa thì việc tuyển chọn Thẩm phán cũng chưa thực sự kỹ càng, gây khó khăn cho công tác tổ chức cán bộ. Vì vậy chúng tôi đề nghị cần quy định chặt chẽ hơn về khâu quy hoạch cán bộ của các ngành, các cấp, đồng thời xác định rõ trách nhiệm, kỷ luật đối với Thẩm phán trước khi viết đơn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán. Nếu có lý do cá nhân cần phải xin miễn nhiệm để chuyển công tác khác thì cũng nên quy định bắt buộc phải qua một thời gian tối thiểu kể từ ngày nhận Quyết định.
- Về cách chức Thẩm phán, chúng tôi thấy nổi lên vấn đề là việc xử lý rất chậm chạp, chưa đảm bảo tính kịp thời, nghiêm minh của pháp luật, do vậy tính giáo dục, thuyết phục không cao. Thông thường, tính từ khi xảy ra vụ việc vi phạm của Thẩm phán cho đến khi có hồ sơ gửi lên Chủ tịch nước để có quyết định cách chức Thẩm phán phải mất 5-6 tháng. Cá biệt có trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện vi phạm pháp luật nghiêm trọng, tuy vụ việc không phức tạp, nhưng thời gian để tiến hành các thủ tục cách chức Thẩm phán phải mất tới hai năm (!). Thời gian lâu nhất là thời gian thẩm tra, kết luận và làm các thủ tục để đưa ra Hội đồng kỷ luật (Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán), xem xét đề nghị hình thức xử lý.
Chúng tôi kiến nghị về mặt pháp luật cần quy định rõ thời hạn xử lý các trường hơp cách chức Thẩm phán. Ví dụ: nếu vụ việc đơn giản, rõ ràng thì thời hạn làm các thủ tục cho đến khi Chủ tịch nước ra quyết định cách chức Thẩm phán không quá 4 tháng; trường hợp vụ việc phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng cũng nên tối đa không quá 1 năm. Quy định như thế đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền xử lý vụ việc phải khẩn trương hơn trong việc xác định hành vi vi phạm, mức độ lỗi của Thẩm phán, lập hồ sơ để đưa ra Hội đồng kỷ luật xem xét, đảm bảo tính nghiêm minh, kịp thời trong việc xử lý vi phạm.
- Vấn đề xoá tên trong Danh sách bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án:
Pháp luật hiện hành không thấy quy định việc Chủ tịch nước ra Quyết định xoá tên Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp. Tuy nhiên, trong thực tế đã có một số trường hợp ở Toà án địa phương, Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Toà án nhân dân tối cao đã có Tờ trình Chủ tịch nước xoá tên và Chủ tịch nước đã ký một số quyết định xóa ra khỏi danh sách bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân các cấp. Vấn đề này đang có nhiều ý kiến khác nhau.
Lý do cụ thể để đề nghị xoá tên đối với mỗi trường hợp khác nhau, nhưng nhìn chung thấy có một số điểm giống nhau là: trong thời gian chờ làm thủ tục và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán thì người được đề nghị bổ nhiệm có hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm phẩm chất đạo đức nghiêm trọng. Khi phát hiện sự việc vi phạm, các ngành các cấp chưa kịp xử lý hoặc đang xử lý thì Quyết định bổ nhiệm của Chủ tịch nước đã về tới địa phương. Vì thế, việc trao Quyết định bổ nhiệm phải tạm dừng lại. Sau khi xem xét hành vi vi phạm đã rõ ràng thấy đương sự không có thể đảm đương chức vụ Thẩm phán thì nảy sinh vấn đề về thủ tục: đề nghị cách chức hay đề nghị huỷ Quyết định bổ nhiệm hoặc xoá tên Thẩm phán? Nếu đề nghị cách chức thì không được, vì trên thực tế đương sự chưa thực thi nhiệm vụ, quyền hạn mà Chủ tịch nước giao, cho dù Quyết định bổ nhiệm có hiệu lực từ ngày ký. Nếu huỷ Quyết định bổ nhiệm (huỷ toàn bô nếu là của 1 người hoặc huỷ một phần nếu là của nhiều người) thì cũng không hợp lý bởi lẽ Quyết định đó không sai về nội dung và hình thức thể hiện. Do vậy theo chúng tôi việc ra Quyết định xoá tên khỏi danh sách bổ nhiệm là phù hợp hơn cả. Quyết định xoá tên chỉ được coi là một thủ tục hành chính, không phải là một hình thức kỷ luật đối với đương sự. Việc xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc hình sự sau đó sẽ được tiến hành tuỳ thuộc vào lỗi của đương sự.
Qua theo dõi giải quyết những vụ việc này, chúng tôi nhận thấy việc xử lý của các cơ quan quản lý ở địa phương nhiều khi lúng túng, sự chỉ đạo lại có phần lơi lỏng, làm cho thời gian kể từ khi phát hiện sự việc cho đến khi trình Chủ tịch nước ra Quyết định xoá tên là quá chậm (có vụ hơn 1 năm). Việc giữ Quyết định bổ nhiệm không thi hành và không cáo cáo Chủ tịch nước là vi phạm pháp luật. Vì vậy, chúng tôi đề nghị cần sớm có quan điểm chính thức về vấn đề còn tranh luận nói trên và bổ sung vào trong các văn bản pháp luật.
4/ Về sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc thuyên chuyển, bổ nhiệm Thẩm phán.
Để đảm bảo sự phối hợp một cách nhịp nhàng và hiệu quả giữa các ngành, các cấp, các tổ chức có liên quan trong việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/NQ/ƯBTVQH ngày 29/9/1993 ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự quân khu và khu vực về mặt tổ chức. Ban bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã có Chỉ thị số 34/CT ngày 18/3/1994 về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thuyên chuyển, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các cấp. Điều 10 của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định trách nhiệm và quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia vào Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán v.v...
Trên cơ sở các văn bản nói trên, các ngành, các cấp, các tổ chức đã có những quy chế phối hợp cụ thể và nhìn chung cũng đã phối hợp có hiệu quả làm tốt công tác thuyên chuyển, bổ nhiệm Thẩm phán. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp còn có những vấn đề cần phải tiếp tục rút kinh nghiệm để làm tốt hơn. Theo chúng tôi đó là:
- Về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp uỷ Đảng. Đây là vấn đề còn nhiều vướng mắc nhất ở địa phương hiện nay. Sự phối hơp này có nơi chưa tốt, chưa đồng bộ thể hiện ở việc đưa ra ý kiến không thống nhất với nhau trong việc đề cử, thuyên chuyển từng con người cụ thể, nhất là việc thuyên chuyển đề nghị bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương và việc đề nghị bổ sung nguồn Thẩm phán từ Toà án nhân dân cấp huyện lên Toà án nhân dân cấp tỉnh và ngược lại. Chỉ cần một trong 3 cơ quan nói trên không đồng ý giới thiệu thì cơ quan chủ quản không thể đề nghị được, mặc dù người đó đủ các điều kiện, tiêu chuẩn để được bổ nhiệm giữ chức vụ đó. Hiện tượng địa phương chủ nghĩa, tư tưởng “khép kín” vẫn còn. Từ đó gây nên tình trạng thiếu Thẩm phán, thiếu Chánh, Phó án mang tính chất cục bộ.
Theo quy định tại Điều 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì Giám đốc sở Tư pháp là Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Chức năng quản lý Toà án cấp huyện của Bộ Tư pháp nói chung đều thông qua Giám đốc Sở Tư pháp. Tuy nhiên qua thực tế ở nhiều địa phương, việc quản lý, điều hành của Giám đốc Sở Tư pháp là yếu. Điều này làm hạn chế rất nhiều đến chất lượng quản lý Toà án nhân dân cấp huyện, từ đó cũng ảnh hưởng tới hoạt động xét xử của Toà án cấp huyện. Do vậy, chúng tôi đề nghị Bộ Tư pháp (có thể phối hợp thêm với Toà án nhân dân tối cao) nghiên cứu giải quyết sớm vấn đề này.
Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa tốt còn thể hiện ở khâu quản lý đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện chưa chặt chẽ, ở việc lập hồ sơ, thực hiện các thủ tục miễn nhiệm, cách chức, điều động thuyên chuyển Thẩm phán. Có trường hợp phải chờ đợi lâu chỉ vì thiếu ý kiến cấp uỷ địa phương. Có trường hợp chưa làm thủ tục miễn nhiệm Thẩm phán thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ra quyết định điều động và bổ nhiệm giữ chức vụ khác. Có trường hợp miễn nhiệm Thẩm phán cấp tỉnh ở nơi này để làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện ở tỉnh khác, nhưng do việc kết hợp giữa hai địa phương không đồng bộ nên làm thủ tục miễn nhiệm chức vụ cũ và thủ tục bổ nhiệm chức vụ mới không cùng một lúc đã gây khó khăn trong việc sắp xếp bô' trí cán bộ. Đặc biệt là sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc xử lý kỷ luật những cán bộ, Thẩm phán là rất chậm. Việc thẩm tra, trao đổi ý kiến, thủ tục xử lý kỷ luật giữa các cơ quan mất khá nhiều thời gian, nên đến khi có Quyết định kỷ luật thì ý nghĩa thời sự của việc giáo dục bị hạn chế, dư luận xã hội bất bình (ví dụ gần đây nhất là việc xử lý kỷ luật ông Vũ Ngọc Tuyên, nguyên Chánh án Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có liên quan đến vụ án Dương Thị Nga).
- Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương cũng như giữa các cơ quan, tổ chức ở trung ương với nhau có lúc cũng chưa thực sự nhịp nhàng. Điều này thể hiện ở việc điều chuyển, bổ sung Thẩm phán từ trung ương về địa phương và từ địa phương lên trung ương. Nếu tắc ở một khâu nào đó thì công việc coi như bị trì hoãn, thậm chí là thất bại. Nhiều trường hợp hồ sơ gửi lên Chủ tịch nước bị chậm là do phải chờ đợi ý kiến của các ngành, các cấp; sự phối hợp trong việc quản lý các Toà án địa phương, quản lý Thẩm phán còn chưa thật chặt chẽ, rõ ràng. Có thể đưa ra vài ví dụ sau đây:
+ Thực tế đã có một số trường hợp Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã họp xét và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, nhưng chưa có ý kiến của Ban Nội chính Trung ương và của Ban Bảo vệ chính trị nội bộ. Đến khi các cơ quan Đảng có công văn chính thức đề nghị thẩm tra lại lý lịch hoặc một vấn đề nào đó còn chưa rõ ràng thì Hội đồng tuyển chọn phải họp lại để xem xét thêm. Vì vậy, vấn đề này chúng tôi đề nghị: Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán chỉ họp xem xét bổ nhiệm Thẩm phán sau khi đã có đầy đủ hồ sơ, thủ tục, và nhất là phải có ý kiến của cấp uỷ Đảng.
+ Vấn đề bồi dưỡng Thẩm phán đương nhiệm của Toà án các cấp thì Toà án nhân dân tối cao hay Bộ Tư pháp, ai là người chịu trách nhiệm chính? Điều này còn chưa rõ ràng.
+ Toà án nhân dân tối cao hiện nay rất khó nắm được một cách đầy đủ về tình hình xét xử ở các Toà án cấp huyện, cho nên việc hướng dẫn công tác xét xử gặp nhiều hạn chế.
+ Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các tổ chức trong việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo Thẩm phán cũng có vấn đề phải bàn. Tuy đã có Luật khiếu nại, tố cáo, nhưng việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo Thẩm phán có nhiều nét đặc thù, ví dụ như đơn thư tố cáo Thẩm phán đa số là nặc danh; có đơn thư vừa khiếu nại Thẩm phán về vụ án Thẩm phán vừa xét xử, vừa tố cáo đạo đức tư cách của Thẩm phán. Những loại đơn thư này không thể một ngành, một cấp mà xử lý được. Do vậy thời gian xử lý đơn thư bị kéo dài.
Để khắc phục những tồn tại trong việc phối hợp giữa các ngành, các cấp về tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, chúng tôi kiến nghị:
-
Cần phải xác định rõ hơn phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng tổ chức, từng cá nhân cụ thể, xác định thời hạn tối đa giải quyết công việc của từng cơ quan, tổ chức. Nói cách khác, cần phải ban hành một quy chế phối hợp mang tính chất tổng thể giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, trong đó có cả vấn đề giám sát, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo Thẩm phán. Có như vậy chúng ta mới quy trách nhiệm cụ thể cho từng người, mới nâng cao được tính hiệu quả của việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán.
-
Về vấn đề quản lý Nhà nước đối với Toà án nhân dân địa phương theo Điều 16 của Luật Tổ chức Toà án hiện hành quy định, chúng tôi thấy là qua một thời gian thực hiện cần có sự tổng kết và rút kinh nhgiệm vấn đề này để nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý.
5/ Về vấn đề giao Quyền Chánh án.
Việc giao quyền lãnh đạo tạm thời cho một cấp Phó trong khi chưa có điều kiện bổ nhiệm chính thức cấp Trưởng nói chung cũng như việc giao quyền Chánh án cho một Phó Chánh án nói riêng chưa thấy văn bản pháp luật nào quy định cụ thể. Thực tế, ở các cơ quan Nhà nước ta lâu nay vẫn theo một nguyên tắc pháp lý là cấp nào có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm chính thức thì cấp đó có quyền giao quyền quản lý, lãnh đạo tạm thời.
Theo quy định hiện hành thì việc bổ nhiệm Chánh án là thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Vì vậy, việc giao Quyền Chánh án theo logic trên thì đương nhiên cũng thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Tuy nhiên, việc Chủ tịch nước trực tiếp ra quyết định giao Quyền Chánh án là khó thực hiện, bởi vì chưa có quy định cụ thể phân biệt giữa thủ tục bổ nhiệm Chánh án với thủ tục giao Quyền Chánh án tạm thời, mà nếu cứ làm theo như thủ tục bổ nhiệm hiện hành thì phải qua nhiều cấp, thời gian chờ đợi kéo dài. Thực tế trong nhiệm kỳ Thẩm phán vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra một số Quyết định giao Quyền Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và Quyền Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện (ví dụ ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai, Long An, Đà Nẵng v.v...) nhằm giải quyết mang tính cấp bách việc thiếu cán bộ lãnh đạo Toà án ở một số địa phương.
Để có cơ sở pháp lý ra Quyết định giữ Quyền Chánh án, đề nghị về mặt pháp lý UBTVQH cần bổ sung vào trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm To à án nhân dân vấn đề này. Tuy nhiên, khi bàn về sự uỷ quyền ra Quyết định giao Quyền Chánh án thì cần lưu ý một số vấn đề sau: Phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của người được giao Quyền Chánh án có bị hạn chế hơn so với quyền hạn, nhiệm vụ của Chánh án không? Việc giao Quyền Chánh án là mang tính chất tạm thời trong thời gian chưa tìm được người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để đề nghị bổ nhiệm chính thức. Vì vậy việc giao Quyền Chánh án phải có quy định rõ một thời hạn nhất định không? Nếu quá thời hạn đó không tìm được người khác thay thế thì nên chăng phải đề nghị bổ nhiệm người đang giữ Quyền Chánh án đó?
NHIỆM VỤ QUYỂN HẠN CỦA THẨM PHÁN VÀ
CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI THẨM PHÁN
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
Nguyễn Thị Hồng Tươi - Phó Vụ Trưởng Vụ Quản lý Toà án địa phương, Bộ Tư pháp
Trong Bộ máy Nhà nước, Toà án nhân dân có một vị trí đặc biệt. Điều 127 Hiến pháp 1992 đã quy định: “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo quy định này thì chỉ Toà án mới có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân dân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
Bằng hoạt động của mình Toà án bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ XHCN và quyền dân chù của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, nhân phẩm của công dân. Đồng thời thông qua hoạt động xét xử, Toà án góp phần giáo dục công dân ý thức Pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, tham gia cuộc đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm và các vi phạm.
Trong hoạt động xét xử của Toà án, Thẩm phán là nhân tố hạt nhân. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về các phán quyết của mình. Các phán quyết (bản án, quyết định) của Thẩm phán nhân danh Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, ảnh hưởng trựctiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức. Cho nên hoạt động xét xử của Toà án có tính tổ chức rất chặt chẽ, Thẩm phán khi xét xử một vụ án cụ thể phải tuân theo trình tự, thủ tục, luật định một cách nghiêm ngặt, đó là các vấn đề chuẩn bị xét xử, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các thủ tục tại phiên toà, thủ tục kháng cáo, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm ... Việc quy định như vậy tránh sự tuỳ tiện lạm quyền của Thẩm phán và của cơ quan tố tụng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Do những đặc thù hoạt động nghề nghiệp cũng như về vị trí đặc biệt của Thẩm phán, vậy nên các vấn đề liên quan đến Thẩm phán, đến quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán được quy định ở rất nhiều văn bản khác nhau.
Khái niệm quyền và nghĩa vụ có tính độc lập tương đối và thường tồn tại song hành với nhau. Khó có thể phân tách rạch ròi một cách tuyệt đối. Mặt quy định về quyền đồng thời cũng hàm chứa nghĩa vụ của Thẩm phán được quy định trong Pháp luật hiện hành cũng cần được xem xét trong mối quan hệ biện chứng đó.
Để có một cách nhìn toàn diện và có thể so sánh quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán qua các giai đoạn lịch sử, chúng tôi khái quát những nét lớn bằng các sơ đồ dưới đây làm cơ sở nghiên cứu quyền và nghĩa vụ Thẩm phán theo quy định hiện hành:
SƠ ĐỒ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM PHÁN 1946 (1)
NGẠCH
HẠNG
|
TUYỂN BỔ
|
QUYỀN
HẠN
|
NGHĨA VỤ
|
BẤT NĂNG
KIÊM
NHIỆM
|
KỶ LUẬT
|
Y
PHỤC
|
Ngạch
|
Tiêu chuẩn :
|
Độc lập
|
Không được
|
Họ hàng
|
Toà án cấp
|
Thẩm
|
Thẩm phán
|
Quốc tịch Việt
|
xét xử.
|
từ chối xét xử
|
thân thích
|
trên giám sát
|
phán
|
đệ nhị cấp:
|
Nam. Hạnh kiểm
|
Chỉ Bộ
|
(trừ trường
|
không
|
và thi hành kỷ
|
đệ nhị
|
Hạng nhất
|
tốt. Chưa can án.
|
trưởng Tư
|
hợp cáo tị và
|
cùng làm
|
luật cán bộ
|
cấp:
|
Hạng nhì
|
21 tuổi, tú tài
|
pháp mới
|
hồi tị). Phải
|
một Toà
|
Toà án cấp
|
áo dài
|
Hạng ba
|
(đối với Thẩm
|
có quyền
|
xét xử theo
|
án. Không
|
dưới. Bộ
|
đen
|
Hạng tư
|
phán sơ cấp); 24
|
ra lệnh
|
Pháp luật.
|
kiêm
|
trưởng Tư
|
tay
|
Hạng năm
|
tuổi, cử nhân
|
bắt và
|
Thanh liêm.
|
nhiệm
|
pháp giám sát
|
rộng,
|
Hạng sáu
|
luật đối với
|
truy tố.
|
Làm tròn mọi
|
(ngoài
|
và thi hành kỷ
|
giải
|
Hạng bảy
|
Thẩm phán đệ
|
Chế độ
|
bổn phận. Cư
|
chức vụ
|
luật Thẩm
|
trắng
|
|
nhị cấp). Đã qua
|
lương
|
xử đúng mức
|
giảng dạy).
|
phán tất cả
|
có
|
Ngạch Thẩm phán sơ cấp:
Ngoại hạng
Hạng nhất
Hạng nhì
Hạng ba
Hạng tư
Hạng năm
|
kỳ thi tuyển
Cách thức:
Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán đệ nhị cấp.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp
|
bổng do Bộ trưởng Tư pháp ấn định. Được thăng chức hàng năm nếu xứng đáng
|
và tự trọng. Tôn trọng Chính phủ và trung thành với chính thể Dân chủ Cộng hòa. Tuyên thệ khi nhận chức
|
Không được làm ở UBHC. Thẩm phán xử án có thể xin sang giữ chức Thẩm phán buộc tội và ngược lại
|
các ngạch (trừ
Chánh nhất và Chưởng lý). Biện pháp kỷ luật: Khiển trách, chuyển đổi, trừ lương, tạm huyền chức, cách chức
|
nếp
trước ngực, giải đen lông trắng quàng vai trái
|
SƠ ĐỒ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM PHÁN 1960 (2)
NGẠCH
HẠNG
|
TUYỂN BỔ .
|
QUYỀN HẠN
|
NGHĨA VỤ
|
BẤT NĂNG KIÊM NHIỆM
|
KỶ
LUẬT
|
Y
PHỤC
|
Không có quy định
|
Tiêu chuẩn: Trung thành với Tổ quốc. 23 tuổi trở lên
Cách thức: Thẩm phán TAND Tối cao do uỷ ban Thường vụ Quốc hôi bổ nhiêm, nhiêm kỳ 5 năm. Thẩm phán Toà án địa phương do HĐND cấp tương đương bầu
|
Độc lập xét xử và chỉ tuân theo Pháp luật
|
Không có quy định cụ thể
|
Không có quy định cụ thể
|
TAND
cấp
trên thi
hành
|
Không có
quy
định
|
NGẠCH
HẠNG
|
TUYỂN BỔ .
|
QUYỀN HẠN
|
NGHĨA VỤ
|
BẤT NĂNG KIÊM NHIỆM
|
KỶ
LUẬT
|
Y
PHỤC
|
Không
|
Tiêu chuẩn: Trung thành. Lý lịch rõ ràng, đạo đức tôt,
trong sạch. Trình độ Pháp lý trung cấp (đối với Thẩm phán huyện) hay đại học (đối với Thẩm phán tỉnh) Cách thức: HĐND cùng cấp bầu nhiệm kỳ 5 năm.
|
Độc lập xét
|
|
Không có
|
Cấp uỷ
|
Được
|
có quy
|
|
xử và chỉ
|
|
quy định
|
thi hành
|
cấp vải
|
định
|
|
tuân theo
Pháp luật
|
|
ngoài chế độ cáo tị, hồi tị
|
thông
qua
HĐND
|
may âu phục để xét
xử
|
SƠ ĐỒ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM PHÁN 1981 (2)
SƠ ĐỒ QUY ĐỊNH VỂ THẨM PHÁN HIỆN HÀNH (1993 ĐẾN NAY)
NGẠCH
HẠNG
|
TUYỂN BỔ
|
QUYỀN HẠN
|
NGHĨA VỤ
|
BẤT NĂNG KIÊM NHIỆM
|
KỶ LUẬT
|
Y PHỤC
|
|
Tiêu chuẩn: Công dân Viêt
|
- Độc lập xét
|
- Xét xử
|
- Chế độ
|
Hội
|
Được
|
-Thẩm
|
Nam trung thành với tổ quốc;
|
xử và tuân
|
theo sự
|
hồi ti, cáo
|
đồng
|
cấp
|
phán
|
phẩm chất đạo đực tốt, liêm
|
theo Pháp luật
|
phân công
|
tị
|
tuyển
|
trang
|
TATC
|
khiết, trung thực, nghiêm chỉnh
|
- Yêu cầu các
|
của Chánh
|
- Không
|
chọn
|
phục
|
|
chấp hành pháp luật, kiên
|
tổ chức, cá
|
án
|
được tiến
|
Thẩm
|
theo
|
- Thẩm
|
quyết bảo vệ pháp chế XHCN;
|
nhân thi hành
|
- Giữ bí
|
hành các
|
phán
|
niên
|
phán
|
sức khoẻ tốt.
|
những quyết
|
mật trong
|
hoạt động
|
xem xét
|
hạn
|
TA cấp
|
|
định có Hên
|
công tác
|
kinh
|
trinh
|
|
tỉnh
|
Trình độ chuyên môn:
|
quan đến vụ
|
- Nếu có
|
doanh,
|
Chủ
|
|
|
- Cao đẳng Toà án, Đại học
|
án
|
hành vi vi
|
dịch vụ
|
tịch
|
|
- Thẩm
|
luật.
|
- Được hưởng
|
phạm thì
|
|
nước
|
|
phán
|
- Phải có thâm niên công tác
|
lương theo
|
bị kỷ luật
|
|
cách
|
|
TA cấp
|
ngành Pháp luật:
|
bảng lương
|
hoặc bị
|
|
chức
|
|
huyên
|
+ TPTATC: 8 năm
|
riêng, được
|
truy cứu
|
|
Thẩm
|
|
|
+ TPTATỈnh: 6 năm
|
hưởng chế độ
|
trách
|
|
phán.
|
|
|
+ TP cấp huyện: 4 năm
|
bồi dưỡng
|
nhiêm
|
|
|
|
|
|
phiên toà.
|
hình sự.
|
|
|
|
|
Cách thức: Hôi đồng tuyển
|
- Được cấp
|
|
|
|
|
|
chọn Thẩm phán xem xét và
|
chứng minh
|
|
|
|
|
|
trình Chủ tịch nước quyết định
|
thư Thẩm
|
|
|
|
|
|
bổ nhiệm Thẩm phán các cấp.
|
phán
|
|
|
|
|
Sau đây dưới góc độ tổ chức chúng tôi xin đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, chế độ đối với Thẩm phán theo quy định tại chương II (từ điều 9 đến điều 15) của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân).
I. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán (đ 9,10,11,12,15)
1. Thẩm phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án (đ9):
Nói đến Thẩm phán là nói đến hoạt động xét xử các vụ án nhưng Thẩm phán không được xét xử tuỳ tiện mà Thẩm phán chỉ đựoc xét xử theo sự phân công của Chánh án.
Trong nội bộ một cơ quan Toà án thì giữa Chánh án và Thẩm phán tồn tại hai mối quan hệ.
Mối quan hệ thứ nhất là mối quan hệ hành chính giữa thủ trưởng (Chánh án) và công chức cấp dưới(Thẩm phán).
Mối quan hệ thứ hai là mối quan hệ tố tụng giữa Thẩm phán và Thẩm phán(vì Chánh án tất nhiên cũng là Thẩm phán).
Trong 2 mối quan hệ trên thì ở mối quan hệ thứ nhất, Thẩm phán phải phục tùng và tuân theo sự phân công, điều hành của Chánh án, còn trong mối quan hê thứ hai, quan hệ tố tụng “khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo Pháp luật”. Phán quyết của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án chỉ căn cứ trên cơ sở chứng cứ có trong hồ sơ và được xem xét tại phiên toà, Thẩm phán không phụ thuộc và tuân theo sự chỉ đạo của Chánh án.
Khi xét xử Thẩm phán độc lập không có nghĩa là Thẩm phán được xét xử tuỳ tiện, chủ quan, xử thế nào cũng được mà “độc lập trong khuôn khổ Pháp luật”. Quy định này tại Hiến pháp năm 1992 (đ.130); luật tổ chức TAND (đ.5) và Pháp lênh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (đ.3). Đây là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của Thẩm phán. Có thể nói, đây là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất đảm bảo cho người Thẩm phán xem xét khách quan, toàn diện các vấn đề liên quan đến vụ án và áp dụng Pháp luật vào từng vụ việc cụ thể để có phán quyết đúng đắn. Trong tình hình hiện nay, cũng có ý kiến cho rằng Thẩm phán độc lập thì trong quá trình xét xử Thẩm phán không được trao đổi bàn bạc với đồng nghiệp, lãnh đạo ... Theo chúng tôi thì vấn đề này không ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán, điều cốt yếu là thông qua sự trao đổi bàn bạc nhất là đối với các vụ án phức tạp, người Thẩm phán phải có khả năng tự phân tích đánh giá tổng hợp. Trên cơ sở ý kiến của người khác vận dụng, đối chiếu với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ và thực tế diễn biến tại phiên toà để có những quyết định mang tính độc lập trên cơ sở quy định của Pháp luật.
Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo Pháp luật buộc người Thẩm phán có nghĩa vụ và chịu trách nhiệm cá nhân về tính đúng đắn hợp pháp đối với các phán quyết, Thẩm phán không thể viện lý do là phải chấp hành ý kiến chỉ đạo của địa phương, của cấp trên thông qua “duyệt án”, “thỉnh thụ án” để biện minh cho việc xét xử không đúng của mình khi có sự cải, sửa, hu ỷ của Toà cấp Phúc thẩm, Giám đốc thẩm.
Tất nhiên Thẩm phán muốn độc lập thì phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, dũng cảm bảo vệ chân lý... đồng thời Nhà nước cũng cần tạo ra các cơ chế để Thẩm phán được độc lập.
2. Cùng với quy định tai điều 9 thì tại điều 12 của pháp lệnh ghi rõ: “ Thẩm phán phải từ chối nhiệm vụ hoăc bị thay đổi nếu thấy có thể không vô tư khi làm nhiêm vu đó”: Như trên đã phân tích, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng dù không bị ai can thiệp nhưng cái tâm của người Thẩm phán không trong sáng, trong suy nghĩ bị chi phối bởi những quan hệ cá nhân thì trong phán quyết của mình Thẩm phán cũng khó có thể đảm bảo được sự khách quan, vô tư. Bởi thế, nhiệm vụ của người Thẩm phán không chỉ là nhận nhiệm vụ một cách thụ động theo sự phân công của Chánh án mà Thẩm phán còn có trách nhiệm đề xuất với Chánh án về việc không nhận giải quyết các vụ án nếu thấy mình khó giữ được sự vô tư, khách quan. Chẳng hạn có quan hệ thân thiện; tình cảm thân thiết hoặc có quan hê tài chính với bị cáo đương sự, có định kiến trước với những người tham gia tố tụng... khi đề xuất từ chối trong những trường hợp trên thì không coi Thẩm phán thoái thác trốn tránh nhiệm vụ theo quy định tại điều 9 của Pháp lệnh.
3. Xét xử là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp công dân và nhân dân lao động. Hoạt động xét xử của Toà án là phương pháp cơ bản đảm bảo cho Pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế XHCN được giữ vững. Hoạt động xét xử nhằm bảo vệ chế độ XHCN, chế độ kinh tế - chính tri xã hội, bảo vệ Pháp luật XHCN, quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân.
Điều 10: “Thẩm phán có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định Pháp luât tố tung”. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán nhân danh Nhà nước chứ không phải với danh nghĩa cá nhân để giải quyết, trong quá trình giải quyết vụ án, phán quyết của Thẩm phán phải được các tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh thi hành (các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản, lệnh bắt giam, tha...). Đối với các bản án, quyết định có hiệu lực Pháp luật phải được đưa ra thi hành và phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.
Bởi tính hiệu lực cao của bản án, quyết định của Toà án như vậy cho nên Pháp luật tố tụng quy định việc sửa đổi huỷ bỏ các văn bản đó (các phán quyết của Thẩm phán) phải thông qua trình tự tố tụng nghiêm ngặt bằng thủ tục kháng cáo hoặc kháng nghị.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay cũng còn không ít những trường hợp yêu cầu của Thẩm phán không được thực hiện hoặc thực hiện không thực hiện đầy đủ gây khó khăn cho Thẩm phán trong khi thực thi nhiệm vụ, làm vụ án bị kéo dài, pháp luật hiện hành chưa có quy định biện pháp xử lý và chế tài nghiêm khắc. Chúng tôi cho rằng để đảm bảo cho Thẩm phán thực hiện có hiệu quả quy định tại đ.10 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, chúng ta cần xây dựng đồng bộ các chế tài, biện pháp xử lý hành chính hình sự những trường hợp cố ý không thực hiện các yêu cầu hoặc quyết định của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của Pháp luật.
4. Điều 11 Pháp lệnh quy định: “Thẩm phán không được tiến hành các hoạt động kinh doanh hoăc các dịch vụ khác theo quy định của Pháp luật”.
Việc quy định như vậy là cần thiết vì khi thực hiện các hoạt động kinh doanh thì dù muốn hay không Thẩm phán cũng phải quan hệ và ràng buộc với nhiều chủ thể khác, điều dễ dẫn đến tính không khách quan vô tư trong công tác của mình. Mặt khác Thẩm phán là công chức Nhà nước nên theo điều 17 Pháp lệnh cán bộ, công chức thì có thể hiểu Thẩm phán không đượclàm một số việc sau: không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư. Không được làm tư vấn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, dịch vụ và các tổ chức cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về các công việc có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và các công việc khác mà việc tư vấn đó có khả năng gây phương hại đến lợi ích Quốc gia”.
5. Điều 15 của Pháp lênh quy định: “Trong trường hơp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án TAND Tối cao quyết định thuyên chuyển Thẩm phán từ TAND địa phương này đến TAND địa phương khác cùng cấp”.
Theo quy định này, thì "khi cần thiết" có thể là do nguyện vọng của cá nhân xin chuyển công tác, hợp lý hoá gia đình hoặc do yêu cầu của tổ chức cần tăng cường Thẩm phán cho những nơi thiếu Thẩm phán, những nơi có số lượng án nhiều gây tồn đọng án thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định thuyên chuyển Thẩm phán cùng cấp.
Trong trường hợp do yêu cầu của tổ chức thì Thẩm phán có nhiệm vụ phải thực thi sự điều động đó. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay để thực hiện được việc này không phải dễ dàng, Thẩm phán được điều động từ thành phố hoặc những nơi có điều kiện kinh tế xã hội phát triển đến tăng cường hỗ trợ cho các địa phương mới chia tách, vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, Thẩm phán bị điều động phải xa gia đình phải chia sẻ tiền lương nhưng không có chế độ ưu đãi nào khác để động viên khuyến khích họ. Do vậy thời gian tới cần có chế độ, chính sách hợp lý để động viên Thẩm phán được điều động đến những nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa, những địa phương mới chia tách (ở phần II chúng tôi sẽ đề cập rõ hơn vấn đề này).
II. Về chế độ chính sách đối với Thẩm phán: (đl3&14)
Lao động của Thẩm phán là lao động có tính đặc thù nghề nghiệp cao, do vậy ngoài chế độ đối với công chức Nhà nước nói chung thì Thẩm phán còn được hưởng một số chế độ chính sách riêng như được cấp trang phục xét xử, được hưởng chế độ phụ cấp phiên toà... nhưng các chế độ này không giải quyết được căn bản đời sống khó khăn của Thẩm phán cũng như đặc thù nghề nghiệp xét xử. Thang bảng lương Thẩm phán có cao hơn một số ngạch hành chính tương đương nhưng điều này cũng chỉ đúng với Thẩm phán Tối cao, Thẩm phán cấp tỉnh còn đối với Thẩm phán cấp huyện thì hệ số lương còn quá thấp thậm chí còn thấp hơn cả ngạch chuyên viên (vì nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện là thư ký, chuyên viên có thâm niên công tác pháp luật là 4 năm mà hệ số khởi điểm chỉ là 2,16). Đồng lương trên thực tế không đủ nuôi Thẩm phán và gia đình Thẩm phán lại bị cấm không được làm kinh doanh, dịch vụ, điều này dễ làm phát sinh tiêu cực đối với những người không vững vàng. Hiện tượng Thẩm phán xin thôi việc do hoàn cảnh kinh tế khó khăn không còn là cá biệt. Phân tích như vậy, không phải là không đặt Thẩm phán trong hoàn cảnh chung của đất nước mà từ thực trạng đó, đề nghị Đảng và Nhà nước quan tâm hơn nữa, từng bước giải quyết và ban hành chế độ chính sách phù hợp với đặc thù nghề nghiệp Toà án:
1. Tiếp tục nghiên cứu và thiết kế bảng lương riêng đối với ngạch Thẩm phán, đặc biệt là đối với ngạch Thẩm phán cấp huyện. Rút ngắn khoảng cách giữa hệ số mức lương tối thiểu của Thẩm phán cấp huyện và Thẩm phán tỉnh. Lương cần được đảm bảo đúng ý nghĩa để đủ nuôi sống bản thân Thẩm phán và gia đình. Đây cũng là một trong những giải pháp góp phần ngăn ngừa tệ sách nhiễu, tham nhũng trong cơ quan Toà án (nhất là đối với Thẩm phán). Khi đồng lương đã đủ sống, nếu ai vi phạm sẽ có hình thức xử lý nghiêm khắc.
2. Nên quy định phụ cấp vượt khung đối với những trường hợp đã hưởng hệ số lương tối đa. Sau 3 năm được hưởng phụ cấp 5% và tiếp theo cứ một năm được cộng thêm 1% để tránh thiệt thòi cho những người có thâm niên công tác và có cống hiến lâu năm trong nghề Thẩm phán.
3. Cần có chế độ chính sách ưu đãi để thu hút động viên những người đến công tác ở miền núi vùng sâu, vùng xa. Cụ thể là những người ở nơi khác đến nhận công tác ở vùng có hệ số phụ vực từ 0,3% trở lên được trợ cấp lần đầu bằng 3 tháng lương tối thiểu, được nâng lương sớm hơn quy định là 1/3 thời gian. Đối với những trường hợp Thẩm phán được tăng cường có thời hạn từ 3 đến 6 tháng lương thì nên cho hưởng chế độ lưu trú trong thời hạn được điều động. Đối với trường hợp điều động không thời hạn thì được hưởng trợ cấp lần đầu như nói ở trên.
4. Về chế độ dưỡng liêm: thực hiện chỉ thị 53/CT TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị. Bộ Tư pháp đã phối hợp với các ngành liên quan xây dựng xong chế độ bồi dưỡng đối với 1 số chức danh Tư pháp như điều tra viên, kiểm sát viên, thư ký phiên toà. Đề án đã trình thủ tướng chính phủ xem xét quyết định. Theo đề án này thì hàng tháng các chức danh trên sẽ được bồi dưỡng một mức tiền nhất định 150000đ/ng/tháng đối với TP, ĐTV, KSV; 100.000đ/ng/tháng đối với thư ký Toà án. Chế độ này được ban hành sẽ có tác dụng động viên cán bộ trong các cơ quan tố tụng nói trên.
Tuy số tiền bồi dưỡng không lớn, nhưng là sự đãi ngộ đặc biệt của Nhà nước đối với lao động nghề nghiệp có tính đặc thù cao của một số chức danh Tư pháp, trong đó có Thẩm phán, từ đó yêu cầu Thẩm phán càng phải phấn đấu nâng cao trách nhiệm, lương tâm và đạo đức nghề nghiệp. Nhận thức được điều đó, người Thẩm phán càng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm “chí công vô tư” để chất lượng xét xử ngày càng tốt hơn.
5. Theo Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì Thẩm phán và Hội thẩm được cấp chứng minh thư để làm nhiệm vụ, nhưng trên thực tế cho thấy chứng minh thư Thẩm phán và Hội thẩm ít được sử dụng và không có ý nghĩa thiết thực tạo điều kiện thuận lợi cho Thẩm phán thực thi nhiệm vụ, bởi vậy chúng tôi đề nghị trong chứng minh thư Thẩm phán và Hội thẩm cần được ghi rõ: “Khi thi hành nhiệm vụ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được ưu tiên qua lại cầu phà trên các tuyến giao thông công cộng. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.
6. Trong điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, dân chủ được mở rộng, kinh tế thị trường một mặt thúc đẩy kinh tê xã hội phát triển, mặt khác cũng làm tăng thêm tội phạm, đã xuất hiện các hành vi bạo lực, xâm phạm đến thân thể tính mạng danh dự của Thẩm phán và gia đình họ nhưng các hành vi đó chỉ bị xử lý như các vi phạm nội quy phiên toà hoặc cá biệt có vụ bị truy tố trước pháp luật nếu gây thương tích năng hoặc gây rối trật tự nơi công cộng mà thôi. Thực trạng này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu để có quy định về bảo vệ Thẩm phán cho phù hợp.
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán là một trong những nội dung của quá trình nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Hy vọng rằng những ý kiến của chúng tôi trong bài viết này sẽ góp thêm tiếng nói để các nhà khoa học cũng như những người hoạt động thực tiễn, các cấp có thẩm quyền xem xét, tham khảo.
HỘI THẨM NHÂN DÂN
TIÊU CHUẨN, THỦ TỤC BẦU CỬ VÀ QUẢN LÝ
ĐỘI NGŨ HỘI THẨM NHÂN DÂN
TS. Nguyễn Tất Viễn - Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp
I. CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM Ở NƯỚC TA
Ở nước ta, chế định Hội thẩm xuất hiện cùng với sự ra đời của các toà án quân sự và toà án nhân dân. Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, việc tham gia của người dân vào hoạt động xét xử tại toà án đã được quy định tại nhiều văn bản pháp luật. Mặc dù tên gọi, số lượng và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm ở mỗi thời kỳ có khác nhau, nhưng việc tham gia xét xử của Hội thẩm là không thể thiếu vắng. Điều này đã được ghi nhận tại các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,1992. Hơn nửa thế kỷ qua, chế định Hội thẩm - với bản chất thể hiện quyền dân chủ trong hoạt động xét xử đã ngày càng hoàn thiện, điều đó khẳng định vai trò quan trọng của việc nhân dân thông qua Hội thẩm tham gia xét xử và giám sát việc xét xử của các toà án. Cùng với Thẩm phán (những công chức Nhà nước chuyên môn làm công tác xét xử), Hội thẩm (là đại diện cho các tầng lớp, các giới... làm công tác xét xử không chuyên) cùng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các phán quyết của mình. Để thực hiện điều này, pháp luật đã quy định sự bảo đảm thực hiện các nguyên tắc: Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
Nếu coi nguyên tắc xét xử công khai lừ sự kiểm tra có tính chất tổng thể, chung nhất của xã hội đối với hoạt động xét xử của Toà án, thì nguyên tắc Hội thẩm tham gia xét xử là sự kiểm tra trực tiếp, cụ thể và từ bên trong của hoạt động này.
Hội thẩm tham gia xét xử sẽ góp phần đảm bảo tính toàn diện, đầy đủ và khách quan của các quyết định của Toà án. Việc kết hợp giữa sự tinh thông của Thẩm phán, những thao tác nhà nghề, kiến thức chuyên môn của họ với sự từng trải, kinh nghiệm xã hội của Hội thẩm mà với tiếng nói và hơi thở cuộc sống, sẽ tạo ra những yếu tố loại trừ những hạn chế của Thẩm phán chuyên nghiệp như: nặng về hướng kết tội hoặc muốn phán quyết giống như vụ án đã xét xử trước đây. Hội thẩm tham gia xét xử sẽ mang vào phiên toà một bầu không khí "đời thường", một kiểu đánh giá và tiếp nhận các sự kiện và tình tiết của vụ án theo một cách khác, cách của những người không có nếp quen ngồi toà nhiều. Họ mang đến phiên toà những ý niệm, quan niệm đạo đức chung của xã hội, những sự nhận xét, đánh giá chung của các tầng lớp nhân dân về hành vi phạm tội, về tính chất của các tranh chấp dân sự, kinh tế... với những ý niệm công bằng, nghiêm minh, thiện ác... Dĩ nhiên, nói như vậy không có nghĩa là Thẩm phán chuyên nghiệp thiếu những đặc điểm trên. Uy tín của Toà án không phải chỉ do các Thẩm phán chuyên nghiệp tạo nên, mà còn có sự đóng góp lớn lao của Hội thẩm. Vấn đề là ở chỗ, Hội thẩm tham gia xét xử sẽ làm tăng thêm niềm tin nội tâm của Thẩm phán, làm cho họ quyết đáp "có lý" và "có tình", và đến mức "thấu tình", "đạt lý".
Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà chế định Hội thẩm đã được hình thành ngay từ những năm đầu của chế độ dân chủ nhân dân, thể hiện đậm nét tính chất nhân dân của nền tư pháp nhân dân.
Như vậy, tư tưởng "lấy dân làm gốc" trong hoạt động của Toà án đã được pháp luật hoá một cách khá đầy đủ. Đó là một yêu cầu có tính khách quan của một nền tư pháp mới. Có thể nói bản chất nhân dân, tính chất dân chủ của Toà án ở chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ thể hiện ở việc các công chức tư pháp tận tuy, hết lòng với nhân dân mà còn thể hiện ở việc Nhà nước huy động ngày càng đông đảo quần chúng nhân dân tham gia và kiểm tra, giám sát công tác xét xử. Hội thẩm, vì vậy cũng chính là một chế định phù hợp với tư tưởng của V.I Lê Nin "Bản thân chúng ta phải tự mình xét xử, toàn thể công dân không trừ một ai đều phải tham gia vào việc xét xử và quản lý đất nước" [8]. Tức là nhằm làm cho tất cả những người lao động, một khi đã làm xong tám tiếng đồng hồ trong "nhiệm vụ" sản xuất rồi, thì còn đảm nhiệm "không công" những chức vụ Nhà nước[9]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ "Nhà nước phải phát huy quyền dân chủ, phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc của Nhà nước10. Chính vì vậy, các cuộc cải cách lớn của Nhà nước ta trên lĩnh vực tư pháp cũng đều nhằm mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử của Toà án và để nhân dân ngày càng có điều kiện kiểm tra, giám sát, hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Và do vậy có thể nói chế định Hội thẩm còn là sự thể hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" mà Đảng ta đã đề ra và đang được thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Vừa qua, Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lựa chọn, bầu cử, bổi dưỡng, quản lý Hội thẩm nhân dân nhằm đề cao trách nhiệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử. Đây là một nhiệm vụ khó khăn nhưng không thể không làm. Trước mắt, cần thể chế hoá vấn đề này trong Luật Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi) và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân (sửa đổi).
Vậy pháp luật hiện hành quy định về Hội thẩm như thế nào?
-
Tiêu chuẩn của Hội thẩm.
Theo Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993 thì việc xét xử của các Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của các Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia.
Theo Điều 37 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Điều 4 và Điều 29 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì Hội thẩm phải có các tiêu chuẩn sau:
- Là công dân Việt Nam;
- Trung thành với Tổ quốc.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực;
- Có kiến thức pháp lý;
- Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;
- Có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao;
- Có uy tín với nhân dân nơi mình cư trú, công tác. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ngoài các tiêu chuẩn trên, nếu là Hội thẩm quân nhân còn phải là quân nhân hoặc là công nhân, nhân viên quốc phòng đang phục vụ trong quân đội.
Theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp tại Công văn 1973/QLTA ngày 10-11- 1994 hướng dẫn bầu cử Hội thẩm nhân dân của các TAND địa phương thì khi xem xét các tiêu chuẩn đối với Hội thẩm, cần chú ý trước hết tiêu chuẩn về chính trị và phẩm chất đạo đức: trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, có uy tín với nhân dân nơi cư trú, công tác; không đưa những người thoái hoá, biến chất hoặc có người trong gia đình (cha mẹ, vợ hoặc chồng, con) bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội nghiêm trọng như tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo, trộm cắp, giết người, cướp của... làm Hội thẩm nhân dân.
Đối với tiêu chuẩn "có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao" thì ngoài sức khoẻ và thể lực cần thiết, còn bao gồm yếu tố ngoài hình, đó là không có dị tật, dị hình ảnh hưởng trực tiếp đến tư thế hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của người Hội thẩm.
Riêng các tiêu chuẩn về "kiến thức pháp lý", nghiệp vụ xét xử, trình độ văn hoá đối với Hội thẩm nhân dân thì vận dụng phù họp với từng vùng khác nhau, nhưng phải bảo đảm hoàn thành được nhiệm vụ xét xử. cần chú ý lựa chọn những người đã có trình độ pháp lý hoặc đã qua công tác pháp luật làm Hội thẩm.
Còn trong Công vãn 1677/TP-QLTA ngày 22/9/1999 của Bộ Tư pháp gửi Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc bầu Hội thẩm nhân dân nhiệm kỳ 1999-2004 thì quy định tiêu chuẩn về kiến thức pháp luật của Hội thẩm như sau:
Đối với tiêu chuẩn về kiến thức pháp luật như Điều 4 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân đã nêu "đó là những người có kiến thức pháp lý" vì vậy khi đưa vào danh sách, cần hết sức coi trọng đến sự hiểu biết về kiến thức pháp lý của người được bầu. Đó là những người công tác trong các ngành pháp luật nay đã nghỉ chế độ, nhưng vẫn còn sức khoẻ, có tinh thần nhiệt tình công tác, có đủ điều kiện làm Hội thẩm; hay những cán bộ đương nhiệm, đang làm pháp chế trong các cơ quan Nhà nước... Mặt khác, lại phải lưu ý là: không giới thiệu những người hiện đang công tác tại ở các cơ quan, tổ chức thi hành pháp luật, bảo vệ pháp luật, luật sư tư vấn làm Hội thẩm Toà án nhân dân. Có như vậy mới tạo điều kiện để thực hiện các nguyên tắc "Khi xét xử Hội thẩm, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" và "Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán".
2. Thủ tục bầu, cử Hội thẩm.
Theo Điều 39 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Điều 30 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, thì Hội thẩm Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bầu ra theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố đó. Còn Hội thẩm Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh bầu ra theo sự giới thiệu của uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân Tối cao do Ủy ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhiệm kỳ là 5 năm.
Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội cử, theo sự giới thiệu của Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương.
Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.
Cơ chế bầu và cử Hội thẩm như trên trong tình hình hiện nay là tương đối thích hợp.
3. Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm.
Trường hợp miễn nhiệm là trường hợp Hội thẩm vì lý do sức khoẻ hay các lý do khác mà không thể tham gia xét xử tiếp được.
Hội thẩm có thể bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất, đạo đức, có hành vi vi phạm pháp luật, không còn xứng đáng làm Hội thẩm.
Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với Hội thẩm ở Toà án mỗi cấp như sau:
- Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao do Ủy ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương do Ủy ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao sau khi thống nhất với Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu hoặc cấp tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án quân sự quân khu và tương đương sau khi thống nhất vơí cơ quan chính trị quân khu hoặc cấp tương đương. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án quân sự khu vực sau khi thống nhất với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.
4. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội thẩm.
Hội thẩm làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Chánh án có nhiệm vụ giữ mối quan hệ với Hội thẩm (Điều 25 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân), bồi dưỡng chuyên môn (Điều 7) và đề nghị Hội đồng nhân dân miễn nhiệm, bãi nhiệm HTND (Điều 30).
Về thành phần Hội đồng xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia được luật pháp về tố tụng quy định khác nhau trong từng loại án:
a/ Các vụ án dân sự, hình sự và hành chính thì Hội đồng xét xử sơ thẩm đều có 1 Thẩm phán và 2 Hội thẩm.
Riêng án hình sự: nghiêm trọng phức tạp và những vụ có thể xử mức án tử hình, Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm.
b/ Đối với vụ án kinh tế và lao động thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm 2 Thẩm phán và 1 Hội thẩm.
Riêng Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định cụ thể về thành phần Hội đồng xét xử các vụ án đặc biệt có bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn TNCSHCM.
Để đảm bảo nguyên tắc "độc lập xét xử", Bộ luật TTHS quy định rõ: khi nghị án Thẩm phán và Hội thẩm biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến bằng văn bản, để lưu vào hồ sơ vụ án.
Theo các quy định của pháp luật về tố tụng hiện hành thì sau khi thụ lý, nghiên cứu một vụ án nào đó trong thời hạn quy định (ít nhất là 30 ngày đối với tranh chấp lao động và 4 tháng đối với vụ án dân sự), Thẩm phán có quyền ra các quyết định về việc giải quyết vụ án (đưa vụ án ra xét xử, đình chỉ việc giải quyết vụ án...). Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi họ tên Hội thẩm nhân dân (trong Hội đồng xét xử vụ án đó). Sau khi Thẩm phán ra Quyết định nói trên, phiên toà sẽ được tiến hành trong các thời hạn như sau: đối với án kinh tế từ 10 đến 20 ngày; đối với tranh chấp lao động từ 10 ngày - 15 ngày; đối với vụ án hình sự từ 15 đến 30 ngày; đối với vụ án hành chính từ 20 đến 30 ngày; đối với vụ án dân sự thì từ 30 ngày đến 2 tháng. Như vậy trong khoảng thời gian đó, người Hội thẩm đã nhận được giấy mời phiên toà và thu xếp thời gian để nghiên cứu hồ sơ.
- Ngoài nhiệm vụ tham gia xét xử, Hội thẩm còn có nhiệm vụ khá quan trọng là tham gia hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật, trong và ngoài phiên toà, ở nơi cư trú...
II. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TƯ PHÁP HIỆN NAY.
Kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành thì vấn đề cải cách bộ máy Nhà nước, trong đó có cải cách tư pháp được đặt ra và đã thực hiện từng bước có kết quả.
Trong cải cách tư pháp thì đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân là một nội dung rất quan trọng bởi vì Toà án là một cơ quan giữ vị trí "trung tâm" trong hệ thống các cơ quan tư pháp, nơi thể hiện kết quả hoạt động cuối cùng của hệ thống tư pháp. Còn hệ thống tư pháp thì được xem như là một bộ phận hợp thành của hệ thống kiểm tra xã hội để duy trì trật tự và kỷ cương xã hội. Bởi lẽ xã hội không thể củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức và trật tự của mình nếu không buộc mọi hoạt động của các thành viên trong xã hội tuân thủ các quy tắc và các yêu cầu nhất định. Như vậy, hê thống tư pháp vừa là hệ thống kiểm tra xã hội, vừa là một bộ phận quản lý Nhà nước nằm trong khâu tạo thành hệ thống kiểm tra xã hội thông qua Nhà nước. To à án, với tư cách là cơ quan giữ vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp lại càng thể hiện rõ đặc điểm này. Để hoạt động có hiệu quả, Toà án phải tổ chức một cách hợp lý nhất sao cho xã hội có điều kiện giám sát hoạt động này một cách thường xuyện và có hiệu quả. Đó là một trong những lý do cần có đại diện nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Toà án.
Trên quan điểm khẳng định chế định Hội thẩm vẫn tiến tục phải tồn tại trong hoạt động xét xử của Toà án, nhưng phải có những đổi mới nhất định nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của chính bản thân Hội thẩm, phục vụ tốt hơn cho việc xét xử. Cần phải đặt vấn đề bổ sung những tiêu chuẩn cụ thể của Hội thẩm trên cơ sở giữ nguyên và phát triển những quy định hiện hành, đồng thời giải quyết những vướng mắc, tồn tại phát sinh trong thực tiễn về tổ chức, quản lý và chế độ chính sách đối với Hội thẩm để chế định Hội thẩm thực sự phát huy tác dụng của mình.
a. Trước hết nói về tiêu chuẩn của Hội thẩm: Hội thẩm cần bảo đảm ba loại tiêu chuẩn: Chính trị, chuyên môn và các tiêu chuẩn khác. Riêng tiêu chuẩn chính trị cần giữ như quy định hiện hành. Dưới đây sẽ nói về 2 tiêu chuẩn còn lại.
+ Tiêu chuẩn chuyên môn và nghiệp vụ.
Một thực tế đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết là sự chênh lệch về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giữa Thẩm phán chuyên nghiệp và Hội thẩm ngày càng rõ. Trong lúc pháp luật đòi hỏi Thẩm phán phải có những tiêu chuẩn cao về chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề thì tiêu chuẩn của Hội thẩm hầu như không có sự thay đổi lớn qua nhiều năm, mặc dù trình độ dân trí nói chung và trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân đã được nâng lên hơn so với trước đây. Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử độc lập cùa Thẩm phán và Hội thẩm cũng như nguyên tắc Hội thẩm ngang quyền Thẩm phán, nguyên tắc xét xử tập thể, quyết định theo đa số ngày một đòi hỏi ở Hội thẩm nhiều hơn về kiến thức chuyên môn (ngoài những kiến thức và kinh nghiêm xã hội cần có). Nhưng thực tế đội ngũ Hội thẩm hiện nay chưa đáp ứng được. Hiện nay, cả nước có trên 11.000 Hội thẩm nhưng tiêu chuẩn về chuyên môn của họ lại rất chung chung "có kiến thức pháp lý" và "phải được bồi dưỡng về nghiệp vụ" (Điều 4 và Điều 26 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND) và rõ ràng là khác rất xa tiêu chuẩn chuyên môn của Thẩm phán (Tốt nghiệp Đại học Luật, có thời gian làm công tác pháp luật nhất định (4 năm đối với Thẩm phán TAND cấp huyện, 6 năm đối với Thẩm phán TAND cấp tỉnh và 8 năm đối với Thẩm phán TAND Tối cao).
Vì vậy, đề Hội thẩm phát huy được hết khả năng của mình trong xét xử, pháp luật cần quy định rõ ràng và cụ thể tiêu chuẩn pháp lý (chuyên môn) của Hội thẩm. Cụ thể là: Hội thẩm phải có kiến thức pháp lý ở mức "sơ cấp" (như trước đây thường nói) tức là có kiến thức cơ bản nhất về pháp luật. Lượng kiến thức cơ bản này phải tương ứng với chương trình pháp luật đại cương trong trường phổ thông trung học (đối với Hội thẩm ở vùng sâu, vùng xa) hoặc tương ứng với Chương trình pháp luật trong các trường Đại học và Cao đẳng không chuyên luật (đối với các vùng khác). Ngoài ra Hội thẩm cần được tập huấn về những vấn đề pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử (pháp luật hình sự, dân sự, pháp luật về tố tụng...). Vì lợi ích chung của nền tư pháp, cho dù khó khăn đến mấy Nhà nước cũng phải cố gắng thực hiện các biện pháp đào tạo và bồi dưỡng cho Hội thẩm vì nếu không thì Toà án không thể xét xử đúng và chính xác được. Cách làm có thể là chọn một số Hội thẩm TAND cấp tỉnh có kinh nghiệm, có kiến thức pháp lý ở trình độ cao, đã từng làm ở cơ quan pháp luật, có khả năng sư phạm, cử đi học một lớp ngắn hạn do Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (Bộ Tư pháp) mở về kỹ năng xét xử của Hội thẩm, (mỗi tỉnh từ 1 - 2 người), sau đó sẽ sử dụng họ như là những giảng viên, kết hợp với giảng viên của TAND tỉnh, mở lớp tập huấn cho Hội thẩm TAND ở tỉnh (kể cả Hội thẩm TAND tỉnh và các huyện, thị). Ngoài ra, cần phải tạo cho Hội thẩm khả năng tự bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho mình thông qua các tài liêụ, sách báo nghiệp vụ của chính Toà án nơi họ tham gia xét xử. Ngoài ra, Hội thẩm cũng có thể sử dụng các tài liệu, sách báo trong Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn để ngoài việc phục vụ cho xét xử, còn tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân ở địa bàn nơi mình sinh sống.
Như vậy, tiêu chuẩn pháp lý của Hội thẩm trong điều kiện của Việt Nam hiện nay không thể quy định quá thấp như trước đây nhưng cũng không nên quy định quá cao để không rơi vào tình trạng "chuyên môn hoá" hay "thẩm phán hoá" Hội thẩm, làm cho hoạt động xét xử mất dần đi tính chất xã hội rộng rãi của mình. Đồng thời với việc quy định cụ thể tiêu chuẩn pháp lý, cần có biện pháp kịp thời bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho Hội thẩm. Hết sức tránh quan niệm cho rằng: việc bồi dưỡng, tập huấn kiến thức và kỹ năng pháp luật cho Hội thẩm là "lãng phí" vì có Hội thẩm cả nhiệm kỳ không xét xử vụ nào, hoặc nhiều Hội thẩm trong nhiệm kỳ chỉ tham gia xét xử một hoặc hai vụ án và có những Hội thẩm chỉ được bầu có một nhiêm kỳ, không tái cử ở nhiệm kỳ sau nữa. Quan niệm như vậy là phiến diện và không thấy hết hiệu quả đầu tư "chiều sâu" cho công tác Hội thẩm như đã phân tích ở trên.
+ Các tiêu chuẩn khác của Hội thẩm.
Trong quá trình nghiên cứu sửa đổi Pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần chú ý những điểm sau:
-
Cần nhấn mạnh hơn về tiêu chuẩn đạo đức, lối sống, tính quần chúng, gần dân, có ảnh hưởng tốt về mặt đạo đức, tư cách trong cộng đồng dân cư. Không vi phạm pháp luật, sống gương mẫu, không tham nhũng, không thuộc loại người thoái hoá, biến chất.
-
Cần quy định rõ độ tuổi làm Hội thẩm (ví dụ từ 23 đến 70 tuổi).
-
Cần quy định rõ những tiêu chuẩn về ngoại hình của Hội thẩm như không có dị tật, dị hình...
b. Về bầu, cử Hội thẩm.
Theo quy định của Điều 30 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc là cơ quan duy nhất được giới thiệu người làm Hội thẩm nhân dân. Tuy nhiên trong việc hướng dẫn áp dụng quy định này vẫn có những vướng mắc xảy ra. Ví dụ trong Công văn số 1973/QLTA ngày 10/11/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn bầu cử Hội thẩm nhân dân các TAND địa phương có hướng dẫn: "Căn cứ vào nhu cầu của công tác xét xử, Chánh án TAND trao đổi ý kiến để Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc, Thường trực HĐND cùng cấp đề nghị có quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng tại địa phương giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có nguyện vọng làm Hội thẩm nhân dân...". Còn tại Công văn 1677/TP-QLTA ngày 22/9/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn bầu cử Hội thẩm nhân dân TAND địa phương nhiệm kỳ 1999 - 2004 thì có khác hơn: "Chánh án TAND địa phương căn cứ vào nhu cầu xét xử của đơn vị, trao đổi ý kiến với Ban Thường trực, Uỷ ban Mặt trân Tổ quốc (ƯBMTTQ), Thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND) cùng cấp để chuẩn bị nhân sự cho việc bầu Hội thẩm TAND. Nếu theo tinh thần hai công văn nói trên thì vai trò "giới thiệu" của UBMTTQ địa phương đối với nhân sự Hội thẩm chưa thật rõ nét và chưa hoàn toàn thống nhất với Thông tư số 05/TT-MTTW của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn quy trình giới thiệu Hội thẩm nhân dân của TAND địa phương, trong đó vai trò "giới thiệu" thuộc về UBMTTQ. Tuy nhiên, trong thực tế bầu Hội thẩm hai nhiệm kỳ gần đây, rất ít có trường hợp phải đưa ra để hiệp thương. Có lẽ một trong những nguyên nhân là MTTQ đã thực hiện tốt việc lấy ý kiến của nhân dân nơi ngươi được giới thiệu cư trú.
Như vậy, trong việc bầu Hội thẩm nhân dân ở các TAND địa phương, cần làm rõ hơn vai trò giới thiệu của Uỷ ban MTTQ cấp tỉnh và cấp huyện để theo sát tinh thần của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND.
Đối với Hội thẩm quân nhân, chúng tôi cho rằng cơ chế cử như hiện nay là phù hợp (trước đây là bầu). Tuy nhiên, trong khi lựa chọn nhân sự không nên quá nghiêng về chức vụ hành chính - quân sự của các ứng cử viên. Đội ngũ Hội thẩm nên bao gồm cả cán bộ quản lý và cán bộ là trợ lý các cơ quan, trong đó cần chú ý đến những quân nhân đã được bồi dưỡng kiến thức pháp luật ngắn hạn hay dài hạn.
c. Vấn đề quản lý Hội thẩm nhân dân các TAND địa phương.
Việc quản lý đội ngũ Hội thẩm của các TAND địa phương chưa được thể chế hoá đầy đủ trong nhiều năm qua, dẫn đến tình trạng quản lý nửa vời.
Thực tế hiện nay cho thấy ở cấp độ vĩ mô, Bộ Tư pháp đang thực hiện một số công việc về quản lý các HTND của TAND địa phương, vì Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan của Chính phủ, giúp cho Chính phủ quản lý các TAND địa phương về tổ chức (theo Điều 16 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và Nghị định 30/CP ngày 4/6/1993 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp). Tuy nhiên việc quản lý đó chỉ trong phạm vi và giới hạn nhất định như: Cấp giấy chứng minh Hội thẩm; nghiên cứu, đề xuất và trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách đối với Hội thẩm; tổng hợp số lượng và tình hình công tác Hội thẩm trong cả nước, biên soạn tài liệu nghiệp vụ cho Hội thẩm, cấp kinh phí tập huấn cho Hội thẩm...
Còn các hoạt động khác của Hội thẩm thì chưa có một cơ quan nào đứng ra quản lý một cách toàn diện, ở một số địa phương HĐND cấp tỉnh, cấp huyện cũng như Chánh án TAND tỉnh, huyện dựa trên những quy định chung của pháp luật đã thực hiện một số việc quản lý với đội ngũ Hội thẩm như ban hành Quy chế hoạt động của Đoàn Hội thẩm tỉnh, cấp trang phục, khen thưởng đối với đội ngũ Hội thẩm và thực hiện một số chế độ, chính sách khác đối với họ. Như vậy, có thể nói việc quản lý toàn diện đội ngũ Hội thẩm của các Toà án nhân dân địa phương là vấn đề còn bỏ ngỏ.
Với đặc thù của đội ngũ Hội thẩm và trước yêu cầu cải cách tư pháp nếu cứ để tiếp tục tình trạng không có một cơ quan quản lý thống nhất Hội thẩm nhân dân các Toà án nhân dân địa phương về tổ chức sẽ rất khó thực hiện cơ chế trách nhiệm của đội ngũ hơn 11.000.000 người hiện nay. Do vậy, cần phải tìm ra và lựa chọn mô hình quản lý tối ưu sao cho sự tham gia của Hội thẩm vào công tác xét xử hình sự cũng như các loại án khác được tiện lợi, nhanh chóng, khoa học và có hiệu quả. về cơ quan quản lý Hội thẩm, có ý kiến cho rằng việc quản lý theo dõi, giúp đỡ Hội thẩm nhân dân các Toà án nhân dân địa phương hoạt động thuộc trách nhiệm của cả ba cơ quan: Hội đồng nhân dân địa phương, Toà án nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc. Chúng tôi không đồng tình với ý kiến này vì nếu như thế sẽ không có cơ quan nào có quyền và nghĩa vụ trực tiếp đối với việc quản lý Hội thẩm. Ngoài ra, cũng rất khó đồng tình với ý kiến thứ hai cho rằng "Toà án nào có Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử thì Toà án đó quản lý Hội thẩm nhân dân". Ý kiên này tuy có điểm hợp lý ở chỗ Toà án nơi Hội thẩm tham gia xét xử sẽ nắm vững được phẩm chất chính trị, đạo đức và khả năng chuyên môn, nghiệp vụ của Hội thẩm, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức cho Hội thẩm một cách thích hợp, nhưng lại không hợp lý ở một điểm rất cơ bản: Toà án là cơ quan xét xử, không làm công tác quản lý, nhất là lại quản lý đội ngũ cán bộ nằm ngoài biên chế của mình. Còn việc Chánh án Toà án nhân dân quản lý đội ngũ cán bộ, công chức thuộc cơ quan mình là theo sự uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo tinh thần Điều 16 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, bản thân Toà án là cơ quan xét xử (tài phán) chứ không phải là cơ quan quản lý.
Ý kiến thứ ba cho rằng cần giao cho các cơ quan tư pháp quản lý đội ngũ Hội thẩm nhân dân từ khâu chuẩn bị nhân sự để Mặt trận Tổ quốc hiệp thương giới thiệu, Hội đồng nhân dân bầu Hội thẩm đến công tác bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và thực hiện chế độ chính sách đối với Hội thẩm, ý kiến này cũng có yếu tố hợp lý ở chỗ cơ quan tư pháp quản lý các Toà án nhân dân địa phương về tổ chức thì quản lý luôn cả đội ngũ Hội thẩm là phù hợp. Nhưng lại có vướng mắc ở chỗ không thể để Phòng Tư pháp quản lý Hội thẩm Toà án nhân dân huyện và Sở Tư pháp quản lý Hội thẩm Toà án nhân dân tỉnh được vì thứ nhất, cơ quan tư pháp không thể quản lý cán bộ của Toà án nhân dân cùng cấp; thứ hai, Hội thẩm không phải là công chức của Toà án nên cơ quan quản lý cấp trên như Sở Tư pháp, Bộ Tư pháp mặc dù thực hiện nhiệm vụ quản lý các Toà án nhân dân địa phương nhưng rất khó quản lý trực tiếp và toàn diện đội ngũ Hội thẩm nhân dân.
Theo chúng tôi, phương án hợp lý hơn cả là: đối với Hội thẩm nhân dân các Toà án cấp huyện, cấp tỉnh thì nên để cho Hội đồng nhân dân cùng cấp - nơi bầu ra họ - thực hiện việc quản lý trực tiếp (nếu sau này pháp luật sửa đổi theo hướng không có HĐND cấp huyện thì HĐND cấp tỉnh sẽ bầu và quản lý luôn Hội thẩm của các TAND cấp huyện trong tỉnh). Bởi vì, Hội đồng nhân dân có điều kiện nắm chắc hoạt động của họ, nhất là thông qua báo cáo của các Toà án nhân dân trước kỳ họp Hội đồng nhân dân địa phương; đồng thời có thể tạo những điều kiện vật chất bảo đảm cho hoạt động của Hội thẩm, góp phần thực hiện tốt các nguyên tắc xét xử mà Hội thẩm nhân dân luôn luôn phải quán triệt và chấp hành, đồng thời bảo đảm cho Hội thẩm được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử... Đối với Hội thẩm quân nhân các Toà án quân sự và Hội thẩm nhân dân, Toà án nhân dân Tối cao thì việc quản lý họ sẽ tuỳ theo đặc điểm của mỗi cơ quan cử ra Hội thẩm...
Nhưng để các Hội thẩm hoạt động tốt hơn, có thể áp dụng kinh nghiệm của Bà Rịa - Vũng Tàu và chừng nào là Bắc Giang khi ở Toà án nhân dân tỉnh lập Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội thẩm là một tổ chức của các Hội thẩm nhân dân đặt dưới sự giám sát quan lý của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và được Hội đồng nhân dân tỉnh giúp đỡ về kinh phí hoạt động. Thông qua hoạt động của Đoàn Hôi thẩm mà công tác quản lý Hội thẩm nhân dân ngày càng đi vào nền nếp, mối quan hệ giữa Toà án nhân dân và Hội thẩm nhân dân chặt chẽ hơn. Việc mời Hội thẩm tham gia phiên toà cũng như việc trao đổi rút kinh nghiệm về vụ án được thực hiện một cách nhanh chóng. Thông qua sự đóng góp ý kiến của Đoàn Hội thẩm, lãnh đạo Toà án có thể nắm rõ thêm về Thẩm phán và cán bộ do mình quản lý. Theo chúng tôi, các cơ quan có thẩm quyền nên sớm tổng kết mô hình Đoàn Hội thẩm để góp phần ổn định về tổ chức và hoạt động của họ, phục vụ tốt hơn cho công tác xét xử.
Như vậy, so với tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu của cải cách tư pháp, chế định Hội thẩm cần phải tiếp tục được nghiên cứu đổi mới. Trước mắt, những vấn đề cụ thể về tiêu chuẩn của Hội thẩm, thủ tục bầu cử Hội thẩm và việc quản lý Hội thẩm và các bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm cần được quy định chặt chẽ và đầy đủ hơn nữa để sự tham gia của Hội thẩm vào công tác xét xử ngày càng có hiệu quả hơn./.
CHẾ ĐỊNH THẨM PHÁN VÀ HỘI THAM
Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Nguyễn Đình Quý - Chuyên viên chính Vụ Quản lý Toà án địa phương , Bộ Tư pháp
Để xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngang tầm với nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đòi hỏi trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong việc tổ chức Toà án, tổ chức Thẩm phán và Hội thẩm là một điều hết sức cần thiết.
Giao lưu và hội nhập về mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là tất yếu và ảnh hưởng của nó tác động trực tiếp đến hệ thống pháp luật nói chung, đến Thẩm phán nói riêng ở mỗi nước, về phần mình, các Thẩm phán đóng vai trò rất quan trọng và tích cực đối với việc giao lưu và hội nhập.
Việc khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng đặt ra cho các Thẩm phán nhiều nhiệm vụ nặng nề hơn, đòi hỏi họ phải có tổ chức khoa học hơn, có chuyên môn, nghiệp vụ cao hơn. Chính vì thế, các quốc gia rất chú trọng việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ Thẩm phán của mình.
Việt Nam đang trong quá trình cải cách Tư pháp gắn liền với việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán nên việc nghiên cứu tổ chức Toà án, tổ chức Thẩm phán và Hội thẩm ở một số nước khác là điều bổ ích. Chúng ta không ngần ngại tham khảo kinh nghiệm của các nước đó trong lĩnh vực này để có thể vận dụng có chọn lọc một cách sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội ở Việt Nam, kết hợp hài hoà truyền thống của dân tộc với thành tựu khoa học của các quốc gia tiên tiến khác trong lĩnh vực Tư pháp.
Việc nghiên cứu tổ chức Toà án, tổ chức Thẩm phán và Hội thẩm của nước ngoài giúp chúng ta có tầm nhìn khái quát và nhận thức đầy đủ về vị trí, về sự tương đồng và khác biệt của tổ chức Toà án, tổ chức Thẩm phán và Hội thẩm ở một số nước. Điều này đặc biệt quan trọng đối với công việc nghiên cứu, xây dựng chế định Thẩm phán và Hội thẩm Toà án trong thời gian tới.
PHẦN 1
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM Ở MỘT SỐ NƯỚC
1/ TOÀ ÁN VÀ TƯ PHÁP THÁI LAN
Theo Luật tổ chức Toà án 1934, Toà án ở Thái Lan có 3 cấp: Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm và Toà án tối cao. Tất cả có 135 Toà án cấp sơ thẩm khắp cả nước.
Ở thủ đô Băng cốc, Toà án sơ thẩm bao gồm Toà Dân sự, to à Hình sự, Toà vị thành niên trung tâm, Toà án Lao động trung tâm và Toà xét xử về thuế, kể cả các Toà có tên là Kwaeng có thẩm quyền chuyên xét xử các vụ án nhỏ.
Ở cấp tỉnh có các Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp tỉnh về vị thành niên và các Toà án Kwaeng.
Toà án phúc thẩm bao gồm: 1 Toà phúc thẩm Băng Cốc và 3 Toà phúc thẩm khu vực.
Cả nước chỉ có một Toà tối cao có thẩm quyền xem xét lại và xét xử các vụ án xem và các quyết định. Bản án của Toà này là quyết định bản án cuối cùng. Tuy nhiên, người bị kết án hình sự có thể cầu xin nhà Vua khoan hồng.
Ngoài ra còn có các Toà án quân sự xét xử các vụ án hình sự do vi phạm quân pháp.
Để đảm bảo tính công bằng và độc lập, các Toà án Thái Lan chỉ tuân theo pháp luật và nhân danh Đức vua. Các Thẩm phán được bảo vệ khỏi bất kỳ sự can thiệp nào về chính trị. Họ được bổ nhiệm và thăng chức bởi một uỷ ban Tư pháp độc lập.
Về cơ bản, không được lập bất kỳ Toà án mới nào để xét xử một vụ án cá biệt.
Theo Luật Tố tụng hình sự của Thái Lan, người bị hại có thể tự mình hoặc gửi đơn qua cơ quan có thẩm quyền nhờ giải quyết qua Toà án. Nếu người bị hại đệ đơn kiện thì cảnh sát sẽ yêu cầu các nhân viên Tư pháp tiến hành điều tra, thu thập đầy đủ chứng cứ để trình lên cho công tố viên.
Sau khi xem xét hồ sơ điều tra, công tố viên phát lệnh truy tố hoặc miễn tố tuỳ theo chứng cứ.
Thủ tục tố tụng Dân sự ở Thái Lan chủ yếu được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 1934.
Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, xu hướng chung trong xã hội Thái Lan là giải quyết bằng con đường trọng tài. Chính vì vậy Thái Lan đã thông qua Luật Trọng tài năm 1987 (The Acbitration 1987).
SƠ ĐỒ BỘ TƯ PHÁP THÁI LAN
Phòng công tác Toà án
(Office of the Pudicial Affairs
|
Toà án Tối cao
(The Supreme Court)
|
Toà án| phúc thẩm
(The Court of Appeals)
|
Toà án Dân sự
(The Civil Court)
|
Toà án Hình sự
(The Criminal Court)
|
Toà án trung tâm vị thành niên
(The Central luvenile Court)
|
Tòa án trung tâm giải quyết tranh chấp lao động
(The Central Labour Court)
|
2/ HỆ THỐNG TOÀ ÁN CỦA NHẬT BẢN
Hiến pháp Nhật Bản được thông qua ngày 13 tháng 11 năm 1946 và có hiệu lực ngày 03 tháng 5 năm 1947 đã đặt nền tảng dân chủ cho việc phân chia quyền lực và quyền xét xử được trao cho Toà án tối cao và các Toà án cấp dưới. Toà án là cơ quan cuối cùng xét xử các tranh chấp về mặt pháp luật, kể cả tranh chấp phát sinh giữa công dân với Nhà nước từ hoạt động hành chính.
Toà án tối cao
Cả nước Nhật có một Toà án tối cao tại Tokyo, với chức năng xét xử phúc thẩm. Bao gồm 1 Chánh án và 14 Thẩm phán. Chánh án Toà án tối cao do Hoàng đế bổ nhiệm theo giới thiệu của Nội các và là người đứng đầu quyền lực xét xử trong cả nước, về đẳng cấp Chánh án Toà án tối cao ngang hàng với Thủ tướng, các Thẩm phán khác ngang hàng với các Bộ trưởng - ít nhất 10 trong số họ được lựa chọn từ những người nổi bật trong các quan toà, công tố viên, giáo sư hoặc trợ lý giáo sư luật học ở các trường đại học luật, số còn lại không cần thiết phải là nhà luật học. Tuổi về hưu của Thẩm phán Toà án tối cao là 70 (các Thẩm phán Toà sơ lược cũng là 70, các Thẩm phán khác là 65).
Toà án này có thẩm quyền xem xét lại:
-
Các bản án của Toà án cấp cao.
-
Các bản án của Toà án cấp quận (huyện) hay Toà chuyên về Hôn nhân gia đình đưa vượt cấp hay trực tiếp lên Toà án tối cao.
-
Các bản án hình sự do Toà án cấp thấp nhất trong hệ thống Toà án gọi là Toà giản lược - toà này xét xử các tội hình sự nhỏ, theo thủ tục đơn giản, không có sự tham gia của Hội thẩm.
-
Bản án có kháng án đặc biệt của Tổng công tố viên đối với vụ án hình sự.
Căn cứ chủ yếu để Toà án tối cao đưa vụ việc ra xét xử là khi có sự vi phạm Hiến pháp, luật hay án lệ, tức là xem xét về mặt áp dụng pháp luật chứ không xem xét về chứng từ.
Toà án cấp cao
Cả nước Nhật có 8 Toà án cấp cao được phân bố ở 8 thành phố lớn của Nhật, mỗi toà có thẩm quyền với 1/8 lãnh thổ Nhật Bản. Tám toà này còn có 6 chi nhánh ở khắp nước Nhật. Mỗi Toà cấp cao bao gồm 1 Chánh án và các Thẩm phán, Chánh án được Nội các bổ nhiệm và Hoàng Đế phê chuẩn.
Toà án cấp cao có thẩm quyền xem xét các bản án có kháng án do Toà án cấp quận hoặc Toà chuyên về hôn nhân gia đình tuyên, hoặc các bản án có kháng án vượt cấp của Toà án giản lược.
Toà án cấp cao xét xử các vụ án hành chính liên quan đến bầu cử, nổi loạn. Toà án cấp cao ở Tokyo còn có thẩm quyền đặc biệt xem xét lại các quyết định của các cơ quan được coi gần như là cơ quan xét xử: uỷ ban thương mại và văn phòng phát minh sáng chế.
Thông thường phiên toà ở Toà án cấp cao gồm 3 Thẩm phán. Việc xem xét lại quyết định của Uỷ ban thương mại do phiên to à gồm 5 Thẩm phán.
Toà án cấp quận
Có 50 Toà án cấp quận, chủ yếu được thành lập theo lãnh thổ cấp quận, riêng quận Hôkkaiđô có 4 Toà án cấp quận.
Thẩm quyền của Toà án này rất rộng: Xem xét mọi loại án, loại trừ những án mà luật giao thuộc thẩm quyền của Toà án khác, có chức năng xét xử những bản án dân sự có kháng cáo của Toà án giản lược tuyên.
Đa số phiên to à ở Toà án cấp quận chỉ gồm 1 Thẩm phán xét xử. Luật quy định những phiên toà sau phải có 3 Thẩm phán:
- Các vụ án mà luật quy định phải có tập thể Thẩm phán xét xử và ra bản - Các vụ án có mức án tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn không dưới 1 năm
- Đối với phiên toà xét xử phúc thẩm.
Toà án về Hôn nhân và gia đình
Nước Nhật có 50 Toà án Hôn nhân và gia đình, được thành lập cùng vị trí với các Toà án cấp quận, ngoài ra nó còn có văn phòng chi nhánh ở những nơi cần thiết trong quận.
Toà này được thành lập từ 01/01/1949, chuyên xét xử các vụ án hôn nhân gia đình, vị thành niên phạm tội, toà có chức năng quyết định và hoà giải. Các tranh chấp giữa vợ với chồng, giữa các thành viên trong gia đình, việc cấp dưỡng, phân chia tài sản ly hôn... đều thông qua thủ tục hoà giải.
Ở Nhật cũng phân biệt ly hôn ra toà và thuận tình ly hôn. Việc ly hôn ra toà được giải quyết ở Toà án cấp quận, nhưng trước đó phải qua thủ tục hoà giải ở toà án hôn nhân và gia đình, nếu không hoà giải thành thì mới được đệ đơn lên Toà án cấp quận.
Toà này có thẩm quyền đối với vị thành niên phạm tội tuổi từ 14 đến 19, hoặc các vị thành niên dưới 14 tuổi có khuynh hướng phạm tội. Toà này cũng có thẩm quyền xét xử những người đã thành niên bị buộc tội xâm hại tới sự chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
Phiên to à chỉ gồm 1 Thẩm phán xét xử với việc sử dụng các báo cáo của các nhân viên chuyên trách của toà và chuyên gia tâm thần học.
Toà án sơ lược
Nước Nhật có 448 toà sơ lược nằm trải khắp các thành phố, thị trấn, làng mạc. Toà này là Toà án cấp thấp nhất trong hệ thống Toà án. Toà án này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự có giá trị không quá 900.000 Yên và các vụ án hình sự có mức phạt tiền hoặc hình phạt nhẹ, các vụ ăn cắp nhỏ, biển thủ nhỏ. Đặc biệt ở toà này hàng ngày có các phiên hoà giải tranh chấp giữa các công dân. Các phiên toà sơ lược đều chỉ có 1 Thẩm phán.
3/ THẨM PHÁN VÀ TOÀ ÁN Ở PHÁP
Nước Pháp hiện có hơn 6.500 Thẩm phán chuyên nghiệp, hoạt động nghề nghiệp theo một quy chế riêng khác với các công chức khác.
Theo quy chế Thẩm phán ở Pháp thì đội ngũ Thẩm phán được phân biệt làm 2 loại: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán công tố. Thẩm phán xét xử được độc lập và theo quy định của Hiến pháp họ được hưởng quyền bất thuyên chuyển. Theo cấp bậc các Thẩm phán công tố trực thuộc Quan Chưởng ấn Bộ trưởng Tư pháp người là thành viên Chính phủ. Các Thẩm phán công tố không được hưởng chế độ bất thuyên chuyển. Tuy vậy, cả hai loại Thẩm phán đều thuộc chung một đội ngũ Thẩm phán và cũng chung một bản quy chế do luật tổ chức quy định.
Việc tuyển chọn Thẩm phán:
Cả hai loại Thẩm phán kể trên đều được lựa chọn cùng một phương thức thi tuyển nhưng đối tượng có khác:
a/ Cách chọn chủ yếu là tổ chức kỳ thi vào trường Quốc gia Thẩm phán đối với người có bằng đại học luật. Học viên trải qua lý thuyết ở trường và thực tập ở các cơ quan tư pháp. Khi khoá học kết thúc họ phải trải qua kỳ thi xếp hạng và sau đó thì họ chọn làm Thẩm phán xét xử hay Thẩm phán công tố.
b/ Cách chọn bổ sung: Các Thẩm phán được chọn bổ sung từ các luật sư, công chức, giáo sư, giảng viên đại học luật. Những người này phải có một thâm niên nhất định. Sau khi được chọn, họ cũng phải trải qua thi tuyển vào trường, nhưng với khoá học ngắn hơn so với những học viên chính khoá của trường Quốc gia Thẩm phán.
Bất thuyên chuyển: Nguyên tắc này có nghĩa là Thẩm phán xét xử không bị chuyển khỏi vị trí họ đang nắm giữ kể cả lên Toà án cấp cao hơn mà không được sự đồng ý của chính họ, trừ trường hợp bị thuyên chuyển theo thủ tục kỷ luật. Nguyên tắc bất thuyên chuyển này được áp dụng cụ thể tuỳ theo chức năng được phân công của Thẩm phán. Các Thẩm phán chuyên trách như Thẩm phán điều tra, Thẩm phán chuyên về vị thành niên, Thẩm phán ở toà thẩm quyền hẹp không thể bị điều khỏi hoạt động chuyên trách. Trái lại, các Thẩm phán ở toà thẩm quyền mở rộng, không được phân công chuyên trách rõ trong quyết định bổ nhiệm sẽ được phân công một số công việc trong toà, theo quyết định của Chánh án. Và như vậy, Chánh án có thể thay đổi hay rút các quyết định đó.
Độc lập của Thẩm phán: Các Thẩm phán xét xử (Thẩm phán ngồi) được hoàn toàn độc lập. Điều này có nghĩa là họ không thể nhận bất kỳ thỉnh thị , bất kỳ mệnh lệnh nào trong việc thực hiện chức năng xét xử của mình.
Vai trò của Hội đồng Thẩm phán tối cao:
Theo Hiến pháp, một cơ quan được thành lập để đưa ra các quyết định liên quan đến nghề nghiệp và bảo đảm độc lập cho Thẩm phán xét xử. Đó là Hội đồng Thẩm phán tối cao do Tổng thống nước Cộng hoà làm Chủ tịch. Phó Chù tịch là Bộ trưởng Tư pháp. Ngoài ra Hội đồng này còn 9 thành viên khác do Tổng thống bổ nhiệm, trong đó có 6 thành viên được chọn từ danh sách 18 người do Toà phá án đưa ra, 1 thành viên từ Hội đồng Nhà nước và 2 ngưòi ngoài ngạch Thẩm phán.
Chỉ có Hội đồng này mới có thẩm quyền ra quyết định kỷ luật Thẩm phán xét xử.
Bộ trưởng Tư pháp có thẩm quyền ra quyết định kỷ luật đối với Thẩm phán công tố sau khi tham khảo ý kiến của Hội đồng công tố về kỷ luật. Hội đồng này do Tổng công tố của Toà phá án đứng đầu, các thành viên khác do Bô trưởng Tư pháp bổ nhiệm trên cơ sở danh sách của tập thể Thẩm phán giới thiệu.
Ngoài Thẩm phán chuyên nghiệp, ở Pháp còn có Thẩm phán không chuyên. Đây là tên gọi hay danh hiệu giành cho Hội thẩm rút thăm ở toà đại hình, các Hội thẩm được chỉ định ở Toà án xét xử vị thành niên, các Thẩm phán không chuyên được các đồng nghiệp bầu ra làm uỷ viên trong Hội đồng hoà giải lao động, các Thẩm phán của Toà thương mại do các thương gia bầu ra trong số họ.
Tổ chức Toà án ở Pháp:
Ở Pháp có một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức Toà án. Toà án Tư pháp cách biệt với Toà án hành chính. Nguyên tắc này phát sinh từ thời cách mạng tư sản và được duy trì cho đến tận ngày nay.
Thẩm quyền xét xử tối cao nhất của Toà án hành chính thuộc Hội đồng Nhà nước (Tối cao pháp viện), về nguyên tắc, các tranh chấp hành chính được các Toà hành chính cấp sơ thẩm xét xử, nhưng đối với một số vụ việc thì có các phiên toà hành chính đặc biệt.
Đối với toà tư pháp, các toà này có thẩm quyền đối với các tranh chấp giữa các cá nhân cũng như tranh chấp giữa cá nhân với cơ quan hành chính khi cơ quan này bị kiện hoặc đi kiện với tư cách cá nhân. Tuy vậy, có những vụ việc gây tranh cãi về thẩm quyền, không rõ thuộc thẩm quyền của Toà án tư pháp hay Toà án hành chính. Trong trường hợp đó sẽ có một Toà án phân định thẩm quyền được thành lập theo thể thức: một nửa số thành viên là các thành viên của Hội đồng Nhà nước, nửa còn lại là các thành viên của Toà phá án.
Nguyên tác hai cấp xét xử:
Trừ một số ngoại lệ, một bản án được tuyên ở Toà án cấp sơ thẩm có thể được đưa lên Toà án cấp phúc thẩm. Như vậy vụ việc được xét xử hai lần, kể cả về mặt nội dung lẫn áp dụng pháp luật.
Vai trò của Toà phá án:
Toà phá án là toà cao nhất, đóng tại Paris, có thẩm quyền đối với toàn lãnh thổ. Toà phá án không xử lại vụ việc về nội dung, do đó không thể gọi đây là cấp thứ ba xét xử. Toà này không xem xét lại nội dung vụ việc, mà chỉ chú trọng xem các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm có áp dụng đúng pháp luật hay không.
Trong khi đó, Toà án cấp cao nhất của Toà hành chính là Hội đồng Nhà nước (Tham chính viện). Toà này có thẩm quyền xem xét lại các vụ việc đã được Toà án hành chính phúc thẩm xét xử. Toà án cũng có thể xét xử trực tiếp về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản hành chính.
Toà án cấp phúc thẩm:
Cả nước Pháp có 35 Toà phúc thẩm tư pháp. Khi một hay nhiều người không thoả mãn với bản án sơ thẩm thì toà phúc thẩm này xem xét lại các vụ án, trừ trường hợp các trọng tội do Toà đại hình xét xử thì được kháng trực tiếp lên Toà phá án.
Toà án hành chính cấp phúc thẩm có thẩm quyền xét lại vụ việc đã được toà hành chính cấp sơ thẩm xét xử nếu một trong 2 đương sự không thoả mãn với bản án đó. Cả nước Pháp có 5 Toà hành chính cấp phúc thẩm.
Để hình dung đầy đủ các Toà án cấp sơ thẩm, chúng ta sẽ xem xét cụ thể các loại toà và những nét chính của các toà đó.
A. Các Toà chuyên trách:
A.1. Toà án xét xử vị thành niên phạm tội:
Khi có vị thành niên phạm tội thì phiên toà gồm 1 Thẩm phán chuyên nghiệp làm chủ toạ và hai Thẩm phán không chuyên được chỉ định (hay còn gọi là Hội thẩm). Toà tuyên những chế tài và đề ra các biện pháp giáo dục. Đối với các vị thành niên trên 16 tuổi phạm trọng tội thì toà đại hình xử vị thành niên xét xử.
A.2. Hội đồng hoà giải lao động:
Đây là một toà chuyên trách nhưng không chuyên nghiệp. Toà này giải quyết các tranh chấp giữa các người làm công, thợ học việc và các chủ thuê người làm có liên quan đến việc tuân thủ các hợp đồng lao động, hợp đồng học việc hay đào tạo nghề. Các Thẩm phán (không chuyên) là những đại biểu do 2 bên bầu ra theo nguyên tắc ngang bằng, một nửa do người làm công bầu ra, một nửa khác do các chủ bầu ra.
Cả nước Pháp có tất cả 271 Hội đồng hoà giải lao động.
A.3. Toà án thương mại:
Nhằm tiết kiệm thời gian, tiền bạc và tìm được người am tường công việc kinh doanh để giải quyết tranh chấp thương mại nhanh chóng, hiệu quả, ở Pháp các thương gia tự bầu ra cho mình các Thẩm phán là thương gia. Điều đáng lưu ý là các Thẩm phán không chuyên này không hưởng lương của Nhà nước. Thẩm quyền của họ là giải quyết các tranh chấp giữa các thương gia hoặc các hội buôn.
Tất cả có 229 Toà án thương mại
A.4. Toà án về an toàn xã hội:
Toà này do một Thẩm phán của Toà án thẩm quyền mở rộng làm chủ toạ, với hai Thẩm phán không chuyên, một đại diện cho người làm công và một đại diện cho cơ quan an toàn xã hội. Thẩm quyền của toà này là xét xử các tranh chấp giữa cơ quan an toàn xã hội và người lệ thuộc.
Cả nước Pháp có tất cả 110 Toà án về an toàn xã hội.
A.5. Toà án chuyên về hợp đồng thuê mướn nhà cửa, đất nông nghiệp ở nông thôn.
Toà án do một chủ toạ là Thẩm phán của toà thẩm quyền hẹp. Các Thẩm phán còn lại do 2 bên bầu ra theo số lượng ngang bằng: một nửa từ chủ sở hữu nhà, đất, một nửa từ người thuê. Thẩm quyền của Toà này là giải quyết các tranh chấp phát sinh trong việc thuê mướn nhà, đất nông nghiệp.
B. Các Toà án sơ thẩm dân sự:
Các Toà án sơ thẩm dân sự ở Pháp được chia làm 2 loại căn cứ thẩm quyền xét xử.
B.1. Toà án thẩm quyền hẹp:
Có tất cả 473 Toà án thẩm quyền hẹp ở Pháp.
Toà này có thẩm quyền xét xử các tranh chấp với số tiền dưới 30.000 phrăng Pháp và mọi tranh chấp không hạn chế số tiền trong một số trường hợp cụ thể như cho vay để chi dùng, tiền thuê nhà ở, bảo vệ những người không có năng lực hành vi.
B.2. Toà án thẩm quyền rộng:
Có tất cả 181 Toà án thẩm quyền rộng ở Pháp.
Thẩm quyền của Toà này là xét xử các tranh chấp với số tiền trên 30.000 phrăng Pháp và mọi tranh chấp không hạn chế số tiền mà không thuộc thẩm quyền xét xử của một Toà án nào khác. Những việc chỉ tòa này có quyền xét xử là: ly hôn, tử hệ, bất động sản.
C. Các toà hình sự sơ thẩm:
Các Toà án này bao gồm Toà án cảnh sát, Toà án tiểu hình, Toà đại hình.
Thẩm quyền của toà này là xét xử các vi phạm nhỏ (lỗi vi cảnh). Toà này không đưa ra hình thức phạt tù mà chỉ tuyên phạt tiền hoặc các hình phạt khác (thường là tạm thu bằng lái xe). Toà án chỉ có một Thẩm phán duy nhất xét xử.
4/ CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM Ở mỹ
1. Sự cần thiết:
Việc đặt ra chế định Hội thẩm ở Mỹ xuất phát từ ý tưởng đưa ra những người không chuyên vào tham gia hoạt động xét xử. Họ là những người được gọi là Hội thẩm và lập thành đoàn gồm 12 người để cùng Thẩm phán xét xử tội phạm nghiêm trọng (Điều 3 Hiến pháp Mỹ quy định việc xét xử các tội ác có sự tham gia của đoàn Hội thẩm). Nhưng tại sao đoàn Hội thẩm này chỉ có tới 12 người mà không hơn thì cho đến nay các luật gia cũng không rõ căn cứ vào đâu mà người ta ấn định con số 12 đó.
Lý lẽ để phiên toà xét xử có sự tham gia của Hội thẩm đoàn là:
- Nhiều người cùng xét xử sẽ tốt hơn để cho một người xét xử;
- Với chế định này thì các công dân khác, ngoài Thẩm phán được tham gia vào công việc xét xử, tránh sự khép kín chuyên quyền của Toà án, giảm được định kiến nghề nghiệp và tạo cơ hôi bảo vệ bị cáo trước cơ quan quyền lực;
- Việc tham gia của Hội thẩm đoàn làm tăng niềm tin của công chúng vào cơ quan pháp luật. Như là một sự tự bảo vệ, trong một số trường hợp chính, Thẩm phán xét xử yêu cầu Hội thẩm đoàn tham gia, vì như vậy quyết định, bản án đưa ra dễ được công chúng chấp nhận. Người ta nhận thấy khi có Hội thẩm đoàn tham gia thì công chúng ít phê bình, chỉ trách các bản án do Toà đưa ra.
-
Việc tham gia của Hội thẩm đoàn giúp Thẩm phán giảm sự ức chế và định kiến nghề nghiệp, tránh được lối mòn trong tư duy, giảm sự căng thẳng về tâm lý để đưa ra một bản án đúng đắn.
Việc tham gia của Hội thẩm đoàn góp phần giảm nhẹ lao động xét xử của Thẩm phán. Theo nghiên cứu tâm lý xét xử thì đứng trước một vụ án nghiêm trọng, Thẩm phán không muốn một mình tự quyết định số phận của bị cáo, mà cần có sự tham gia của người khác đó là Hội thẩm đoàn.
2. Số lượng thành viên và đa số biểu quyết:
Đối với phiên toà xét xử trọng tội thì nguyên tắc chung là đoàn Hội thẩm phải gồm 12 người tham gia xét xử phiên toà và quyết định chỉ được thông qua khi tất cả 12 người Hội thẩm này cùng nhất trí. Đối với các tội phạm khác nhẹ hơn trọng tội hoặc các tội không có mức án tử hình thì đoàn Hội thẩm có thể rút xuống còn 10, 8, 6 hoặc 5, thậm chí chỉ còn 4. Đồng thời với việc cho phép rút bói như vậy, thì khi có 12 Hội thẩm tham gia xét xử tội phạm nhẹ hơn trọng tội, để thông qua quyết định, không nhất thiết đòi hỏi hoàn toàn nhất trí, mà tuỳ theo tội phạm và tuỳ ở cấp toà án mà chỉ cần đa số để thông qua bản án là 3/4 hoặc 4/5 hay 5/6.
Trong trường hợp khi nghị án mà các Hội thẩm không đạt được sự nhất trí hoàn toàn hay đa số nhất trí cần thiết thì Toà án sẽ giải tán họ và thành lập đoàn Hội thẩm khác.
Việc xét xử các tội phạm nhỏ được gọi là petty olíence thì phiên toà không có sự tham gia của Hội thẩm đoàn. Theo Bộ luật Hình sự của Liên bang Mỹ thì tội phạm nhỏ là những tội phạm có mức phạt không quá 6 tháng hoặc phạt tiền không quá 500 USD hoặc cả hai. Ví dụ như các tội: say rượu; gây rối trật tự công cộng; mại dâm; đánh bạc nhỏ ...
3. Điều kiện để làm được Hội thẩm:
Các Hội thẩm được lựa chọn từ các thành viên tiêu biểu của cộng đồng nơi có Toà án đóng. Đối với những người rõ ràng là có hoặc không có đủ năng lực để làm Hội thẩm thì không cần thiết phải kiểm tra, họ đương nhiên được chọn hay bị loại bỏ. Còn đối với những người khác, để được làm Hội thẩm, họ phải qua trắc nghiệm hoặc trả lời các câu hỏi và người nào không đạt sẽ bị loại.
Người bị loại có thể vì lý do:
a. Không biết đọc, viết và nói tiếng Anh thông thạo;
b. Thiểu năng về thể chất hay tinh thần;
c. Không đáp ứng được yêu cầu về quy chế công dân, chỗ ở, độ tuổi (chưa đủ 21 tuổi trở lên và chưa có ít nhất một năm sinh sống ở trong hạt);
d. Là người có tiền án, tiền sự, đạo đức kém.
Luật về tuyển chọn và công tác của Hội thẩm năm 1968 cũng cấm việc loại bỏ một cách tuỳ tiện một người có đủ điều kiện để làm Hội thẩm trên cơ sở chủng tộc, mầu da, tôn giáo, giới tính, nguồn gốc dân tộc hay tình trạng kinh tế.
Người được làm Hội thẩm phải là người có năng lực hiểu biết, đánh giá chính xác chứng cứ và xử lý thông minh để đi đến quyết định độc lập.
4. Những người được miễn làm Hội thẩm:
Những người được chọn làm Hội thẩm nhưng được miễn công tác Hội thẩm nếu là người đang phục vụ trong quân đội, đang làm việc trong các cơ quan hành pháp, tư pháp và xét xử.
Toà án cũng có thể miễn cho Hội thẩm nào đó vì lý do quá bất tiện, vất vả, tốn kém nếu phải tham gia phiên toà.
5. Hội thẩm dự khuyết và thay thế:
Để đề phòng trường hợp một Hội thẩm nào đó vắng mặt vào lúc bắt đầu phiên toà, hoặc khi đã khai mạc phiên toà và nhất là đối với những phiên toà kéo dài nhiều ngày, có thể có Hội thẩm vì có lý do phải dừng việc tham gia phiên toà thì phải có Hội thẩm thay thế người vắng mặt đó. Theo luật thì những người thay thế này được tính đến khi quyết định thành lập danh sách đoàn Hội thẩm và có đầy đủ quyền như các Hội thẩm chính danh.
6. Việc hướng dẫn nghiệp vụ cho Hội thẩm:
Thẩm phán có nhiệm vụ hướng dẫn thủ tục tố tụng cho Hội thẩm nhưng không được gợi ý hình phạt và mức hình phạt. Vấn đề này phải để cho từng Hội thẩm cùng cả đoàn Hội thẩm tự ý quyết định.
Với việc không đòi hỏi Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật thì nhiệm vụ chủ yếu và quan trọng nhất của Hội thẩm là xác định chứng cứ. Hội thẩm có thể trao đổi với Hội thẩm khác nhưng phải độc lập trong quyết định của mình. Hội thẩm có thể mang ghi chép riêng của mình tại phiên toà vào phòng nghị án và tài liệu này mang tính chất riêng tư. Khi kết thúc phiên toà, Thẩm phán cảm ơn các Hội thẩm nhưng trong lời cảm ơn không được nói đến sự khen ngợi hay phê bình liên quan đến bản án mà Hội thẩm đã đưa ra.
7. Thù lao cho Hội thẩm:
Có tình trạng là một số Hội thẩm đã không tham gia xét xử vì họ đã không được trả thù lao thoả đáng mặc dù các quy định pháp luật có bảo đảm cho họ những chi phí cần thiết. Các Hội thẩm được trả một khoản chi phí hàng ngày trong những ngày tham dự phiên toà, tiền trọ qua đêm, tiền thù lao theo giá trị ngày công của Hội thẩm đó, tiền tàu xe khứ hồi. Mức thù lao cho Hội thẩm cũng khác nhau ở từng bang và từng cấp to à.
Vấn đề khó khăn là đối với những Hội thẩm ở xa nơi xét xử và khi phiên toà kéo dài nhiều ngày làm ảnh hưởng tới công việc chính của Hội thẩm, nhất là khi Hội thẩm đang phải làm việc cho các Công ty hay các hãng, vì vậy trong thực tế, đa số Hội thẩm là những người đã về hưu và Thẩm phán thường ngại mời những Hội thẩm ở xa Toà án đến tham gia xét xử.
5/ HỘI THẨM Ở CANADA
Ở Canada người ta quan niệm rằng công tác tư pháp không chỉ riêng của Cảnh sát, Luật sư, Thẩm phán và nhà làm luật - cho nên từng cá nhân công dân có nghĩa vụ đóng góp cho tư pháp.
Chế định bồi thẩm là một trong những chế định lâu đời nhất của luật hình sự Canada. Người bị buộc tội hình sự được xét xử có sự tham gia của một nhóm công dân khác. Đoàn bồi thẩm này gồm 12 người được chọn từ các công dân trong tỉnh hay vùng lãnh thổ có Toà án đóng. Các tỉnh khác nhau có luật khác nhau quy định chính xác việc tuyển chọn bồi thẩm, nhưng chung quy có 2 yêu cầu chính: là công dân Canada và là thanh niên.
Tuy đa số vụ việc xét xử không có bồi thẩm tham gia nhưng luật quy định là bất kỳ người nào bị buộc tội có thể bị tù từ 5 năm trở lên hoặc hơn thì có quyền được xét xử với sự tham gia của Hội thẩm. Trong một số trường hợp khác, người bị buộc tội có thể bị tù dưới 5 năm cũng được quyền chọn phiên toà có bồi thẩm. Một số phiên to à dân sự có thể được Thẩm phán xét xử có Hội thẩm tham gia. Công tố viên hay bên đi kiện có thể yêu cầu Hội thẩm nào đó không được dự phiên toà nếu có lý do theo luật định.
Hội thẩm không chịu bất kỳ ảnh hưởng nào ngoài chứng cứ. Hội thẩm luôn phải lưu ý tới tính xác thực đúng đắn của chứng cứ và Thẩm phán xét xử có nhiệm vụ giải thích luật liên quan vụ kiện cho họ. Trước khi nghị án, Hội thẩm họp trong một phòng riêng để khẳng định chắc chắn là bị cáo có phạm tội không.
Các Hội thẩm phải nhất trí với nhau đối với quyết định của họ - Nếu họ không nhất trí thì Thẩm phán giải tán họ và mời đoàn bồi thẩm khác.
Sau phiên toà họ không được phép nói với bất kỳ ai về những tranh luận, trao đổi trong phòng Hội thẩm.
6/ TOÀ ÁN, THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM Ở ĐAN MẠCH
Đan Mạch: Dân số hơn 5 triệu người.
Chia làm 4 tỉnh - Vua đứng đầu.
Cơ quan lập pháp cao nhất là Quốc hội gồm 1 viện.
Ở Đan Mạch chỉ có một hệ thống Toà án tư pháp thông thường, cấp cao nhất là Toà án tối cao; không có Toà án Hiến pháp.
Ở Đan Mạch cũng không có Toà chuyên để phán xét các vụ việc liên quan luật hành chính công - Tuy nhiên, trong thực tế có một số phiên toà hành chính (Administrative Tribunal) để giải quyết các tranh chấp giữa Nhà nước và cá nhân. Thông thường phải có được 1 quyết định của phiên Toà hành chính này trước khi đưa vụ án ra Toà án.
Các Toà án ở Đan Mạch:
Ở Đan Mạch có 83 Toà cấp huyện (Country Courts), Toà Hàng hải và Toà Thương mại Co pen-hagen (The Maritime and Commercial Court of Copenhagen), hai Toà án cao cấp (High Court) và một số Toà án tối cao.
Có một toà chuyên trách vấn đề buộc tội và thẩm tra lại (The Special Court of Indictment and Revision) xem xét các hình thức kỷ luật đối với Thẩm phán và mở lại phiên toà đối với các vụ án hình sự đã có bản án cuối cùng.
Toà chuyên trách (The Court of Impeachment) xem xét các vụ mà các Bộ trưởng bị buộc tội là vi phạm nghĩa vụ cùa mình.
Toà án cao cấp xem xét kháng nghị, kháng cáo đối với các quyết định bản án cùa Toà án cấp huyện.
Các quyết định bản án của Toà Hàng hải và Thương mại được kháng nghị, kháng án lên Toà án tối cao.
Các quyết định bản án của Toà án cấp cao ở cấp sơ thẩm được kháng nghị, kháng án lên Toà án tối cao.
Theo quy định chung, các vụ việc chỉ được kháng nghị, kháng án lên phúc thẩm chỉ 1 lần và thực tế chỉ những vụ việc rất nhỏ không được xét phúc thẩm mà thôi.
Toà án cấp quận huyện (Country Courts)
Toà án cấp huyện ở thủ đô Copenhagen (1 toà) gồm 1 Chánh án và 41 Thẩm phán.
4 thành phố lớn có Toà án cấp quận như sau:
Aarhus 1 Chánh án và 15 Thẩm phán.
Odense 1 Chánh án và 10 Thẩm phán.
Aalborg 1 Chánh án và 10 Thẩm phán.
Roskide 1 Chánh án và 7 Thẩm phán.
Trong số này, 9 Thẩm phán có thể được phân công giúp đỡ các Toà án cấp huyện khác trong vùng.
ở 29 khu vực xét xử, Toà án cấp huyện có từ 2 đến 4 Thẩm phán.
ở 48 khu vực xét xử, Toà án cấp huyện chỉ có 1 Thẩm phán.
Đối với vụ án dân sự, chỉ có một Thẩm phán duy nhất ở giai đoạn chuẩn bị cũng như ở phiên toà. Cũng vậy, chỉ có một Thẩm phán xét xử vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra; cũng chỉ có 1 Thẩm phán xét xử vụ án hình sự khi người phạm tội đã thừa nhận phạm tội; hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự không cao hơn hình thức phạt tiền.
Khi có Thẩm phán không chuyên tham gia phiên toà thì quyết định được thông qua theo đa số đơn giản.
Toà án Hàng hải và Thương mại Copenhagen
Toà án này được thành lập năm 1861, bao gồm 1 Chánh toà, 2 Phó Chánh toà và 2 Thẩm phán. Tất cả đều là Thẩm phán chuyên nghiệp. Ngoài ra còn một số Thẩm phán không chuyên, các chuyên gia Hàng hải và Thương mại. Trong Toà này còn có một phân toà chuyên về phá sản và giúp vực dậy xí nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Toà án cấp cao:
Toà án cấp cao Miền đông (Eastern Division) bao gồm 1 Chánh án và 53 Thẩm phán.
Toà án cấp cao Miền tây (Western Division) bao gồm 1 Chánh án và 35 Thẩm phán.
Phiên toà cấp cao gồm có 3 Thẩm phán. Đối với phần lớn vụ án hình sự có kháng cáo thì có thêm sự tham gia của 3 Thẩm phán không chuyên. Quyết định được thông qua theo đa số thông thường.
Đối với phiên toà xét xử vụ án hình sự nghiêm trọng thì thành phần là 3 Thẩm phán của Toà án cấp cao và 12 Hội thẩm (lurors).
Toà án tối cao :
Toà án tối cao được thành lập năm 1661 là Toà án cao nhất của Vương quốc Đan Mạch, bao gồm 1 Chánh án và 18 Thẩm phán. Toà này chia làm 1 phân Toà - Mỗi phân Toà xét xử tất cả mọi loại án. Mỗi phiên toà có ít nhất 5 Thẩm phán của Toà án tối cao tham gia, nếu cần thì có đến 7 hoặc hơn Thẩm phán tham gia.
Toà này xem xét những quyết định không phải là cuối cùng của Toà án cấp cao.
PHẦN II
CÁC ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA CHẾ ĐỊNH
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ CỦA
VIỆT NAM – ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
Qua tổng hợp và phân tích chế định Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm ở một số nước trên thế giới, cụ thể là của Mỹ, Canada, Pháp, Đan Mạch, Thái Lan, Nhật Bản, chúng ta có thể rút ra các điểm giống và khác nhau cơ bản trong tổ chức Toà án, tổ chức Thẩm phán và Hội thẩm ở các nước đó và Việt Nam.
I. VỂ TỔ CHỨC BỘ MÁY TOÀ ÁN
1. Các cấp Toà án:
Cũng như ở Việt Nam, Toà án của các nước kể trên đều được tổ chức theo cơ chế bảo đảm 2 cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm.
Riêng ở Nhật Bản có Toà án cấp quận chủ yếu là có quản hạt xét xử trùng với quản hạt hành chính. Tuy vậy ở quận Hokaido lại có tới 4 Toà án cấp quận. Tất cả các nước nêu trên, kể cả Nhật Bản, nơi có Toà án cấp quận (huyện) thì đều không có Toà án cấp tỉnh, trùng với địa hạt hành chính cấp tỉnh, mà là theo vùng hay khu vực. Phía trên Toà án cấp huyện ở Nhật không phải là Toà án cấp tỉnh mà Toà án khu vực, được gọi là Toà án cấp cao. Cả lãnh thổ Nhật Bản được chia làm 8 khu vực và mỗi Toà này lại phụ trách xét xử trong 1/8 lãnh thổ nước Nhật.
Khác với Nhật Bản, cũng giống Việt Nam, Thái Lan có tổ chức Toà án cấp tỉnh, tức là địa hạt xét xử trùng với địa hạt hành chính của tỉnh, nhưng khác Việt Nam ở chỗ Toà án cấp tỉnh chỉ là Toà án cấp sơ thẩm về mặt tố tụng. Cả nước Thái Lan chỉ có 4 Toà phúc thẩm bao gồm 1 toà ở Băng Cốc và 3 toà còn lại ở các địa phương. Đan Mạch có Toà án tối cao, 82 Toà án cấp quận (huyện) và chỉ có 2 Toà án khu vực trong toàn quốc được gọi là Toà án cấp cao thực hiện chức năng phúc thẩm, không có Toà án cấp tỉnh.
Nước Pháp cũng chỉ có 35 Toà phúc thẩm trong cả nước và địa hạt xét xử của Toà án phúc thẩm hoàn toàn khác với địa hạt hành chính. Nước Pháp không tổ chức Toà án theo cấp quận (huyện), tỉnh mà căn cứ thẩm quyền tố tụng mà đặt ra hệ thống Toà án khá đặc biêt so với các nước khác: Toà sơ thẩm, Toà phúc thẩm và Toà phá án. Cả nước Pháp có tới 181 Toà án sơ thẩm có thẩm quyền rông và 473 Toà sơ thẩm có thẩm quyền hẹp. Hai loại Toà án này về quy mô và thẩm quyền sơ thẩm gần giống như Toà án cấp tỉnh và huyện của Việt Nam.
Một số nước như Việt Nam, Thái Lan đều có Toà án quân sự để xét xử các quân nhân phạm tội, trong khi đó thì ở Pháp không có Toà án quân sự. Lý lẽ của họ là mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bất kỳ ai phạm tội đều được xét xử tại một Toà án tư pháp.
Ở Việt Nam và ở Pháp có Toà hành chính nhưng các nước như Thái Lan, Đan Mạch không có Toà hành chính, chỉ có phiên toà hành chính.
Qua so sánh, chúng ta thấy ở các nước nêu trên và ở Việt Nam đều có điểm chung là có Toà án tối cao (Thái Lan, Đan Mạch, Nhật Bản), riêng ở Pháp Toà án tối cao có tên gọi là Toà phá án. Trừ Việt Nam và Thái Lan, các nước được nêu trên không có Toà án cấp tỉnh. Ngay cả địa hạt xét xử của Toà án cấp quận (huyện) cũng không hoàn toàn trùng với địa hạt quản lý hành chính của cấp quận (huyện).
2. Việc phân bổ nhân lực của các Toà:
Qua nghiên cứu chúng ta thấy việc phân bổ nhân sự cho các Toà có sự không dàn đều, mà theo mức độ quan trọng của địa phương. Ở các thành phố lớn, đặc biệt là thủ đô, Toà án có biên chế đông hơn. Trong các thành phố thì có sự phân chia thành phố lớn và thành phố nhỏ để bố trí hợp lý nguồn nhân lực. Điều này thể hiện rõ như Toà án sơ thẩm của thủ đô Băng cốc. Toà sơ thẩm của thủ đô Băng cốc bao gồm Toà dân sự, Toà hình sự và một số Toà mà ngoài Băng cốc ra không nơi nào có như: Trung tâm xét xử vị thành niên, Toà án lao động trung tâm, Toà chuyên xét xử các vi phạm luật thuế. Điều ưu tiên này cũng thể hiện đối với Toà án ở thủ đô Côpenhagen của Đan Mạch, thủ đô Pari của Pháp, thủ đô Tokyo của Nhật Bản. Đối với Toà án cấp thấp nhất trong hệ thống xét xử, có nơi gọi là Toà án sơ thẩm, có nơi gọi là Toà án cấp huyện thị việc bố trí số lượng Thẩm phán cũng rất khác nhau. Trừ việc xét thấy cần phải có Hội đồng xét xử (từ 3 Thẩm phán trở lên) còn lại các tranh chấp nhỏ do 1 Thẩm phán mở phiên toà và giải quyết nhanh gọn. Điều này vừa tiết kiệm thời gian, nhân lực, tài chính mà lại hiệu quả. Theo mô hình Toà án khu vực, các nước tập trung được nhân lực, vật lực xây dựng các Toà án khu vực (xét về địa hạt xét xử) và các Toà án khu vực chủ yếu thực hiện chức năng xét xử phúc thẩm.
Toà án tối cao ở các nước kể trên (ở Pháp toà là Toà phá án) chủ yếu thực hiện chức năng giám sát việc tuân thủ pháp luật của các Toà án cấp dưới thông qua các quyết định, bản án mà các Toà án cấp dưới đưa ra.
II. VỂ CHẾ ĐỊNH HỘI THẨM Ở CÁC NƯỚC
1. Chế định Hội thẩm:
Khác với Việt Nam, ở các nước như Pháp, Mỹ, Canada, Hội thẩm chỉ tham gia xét xử ở phiên toà hình sự, mà chủ yếu là ở toà đại hình. Ở những phiên toà khác thì những người dân tham gia phiên toà cùng xét xử với Thẩm phán gọi là các Thẩm phán không chuyên (Ví dụ phiên toà xét xử vị thành niên phạm tội thường, phiên toà xét xử tranh chấp lao động...).
Tất cả các nước có Hội thẩm tham gia xét xử đều xuất phát từ nguyên tắc dân chủ là công dân được tham gia công việc của Toà án, tránh tình trạng hoạt động khép kín của cơ quan tư pháp.
Tuỳ ở mỗi nước mà việc lựa chọn Hội thẩm rất đa dạng. Ở Mỹ có luật về tuyển chọn và công tác của Hội thẩm. Luật này nêu các tiêu chuẩn để một công dân được chọn làm Hội thẩm và ngăn cấm việc tuỳ tiện tước quyền làm Hội thẩm của một người có đủ tiêu chuẩn. Các nước khác nhau có tiêu chuẩn khác nhau đối với Hội thẩm và con số Hội thẩm tham gia phiên toà đại hình thường là 9 hoặc 12 người. Khi chuẩn bị xét xử trọng tội thì một số đông Hội thẩm được mời đến và chỉ 9 hay 12 người bốc thăm trúng số được tham gia xét xử mà thôi. Ngoài số Hội thẩm chính thức người ta còn bốc thăm để chọn ra 2 Hội thẩm dự khuyết.
Do ý nghĩa của việc để các công dân tham dự công tác xét xử nhằm tăng cường dân chủ, khách quan mà các nước kể trên không yêu cầu người được chọn làm Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và tránh khuynh hướng chuyên môn hoá Hội thẩm. Vì vậy Hội thẩm không có trang phục riêng và không có tổ chức chặt chẽ. Ví dụ như ở Pháp, danh sách Hội thẩm được dân cư trong vùng chọn khá đông, niêm yết công khai ở tiền sảnh của Toà án, khi có việc xét xử đại hình Toà án mới mời họ đến bốc thăm. Người nào từ chối không có lý do thì sau đó sẽ không được mời làm Hội thẩm nữa.
Một việc đáng lưu ý đối với Hội thẩm là họ có thể bị luật sư của phía bên kia hay quan toà yêu cầu rút khỏi xét xử khi có lý do sẽ không có sự công bằng cho bị cáo hay bị hại.
2. Về vấn đề thù lao cho Hội thẩm:
Hầu hết ở các nước, Hội thẩm được trả những “chi phí cần thiết”, đó là các khoản tiền lưu trú, đi lại, tiền ngày công bị mất do phải tham gia phiên toà và một khoản thù lao khoán theo số ngày xét xử. Tuy nhiên, người ta cũng thấy khó mà “thù lao thoả đáng” cho các Hội thẩm. Ngay cả ở Mỹ, việc tham gia xét xử của Hội thẩm cũng được coi là “nghĩa vụ đối với Tổ quốc”, nghĩa là khó mà thù lao đầy đủ cho Hội thẩm, vì thế có nhiều Hội thẩm từ chối tham gia phiên toà.
Điều chúng ta nên lưu ý là ở các nước khác, người ta có xu hướng chọn những người “tiêu biểu của cộng đồng” nhưng không ở quá xa nơi toà đóng và không quá tốn kém, vất vả khi họ thực hiện chức năng Hội thẩm.
Việc nghiên cứu cẩn thận các mô hình về tổ chức Toà án, tổ chức Thẩm phán và Hội thẩm ở nước ngoài giúp Toà án nhân dân địa phương tìm ra lời giải cho chính mình trong công cuộc cải cách tư pháp nhằm xây dựng được một hệ thống Toà án khoa học, một đội ngũ Thẩm phán được bố trí hợp lý, tối ưu và một chế định Hội thẩm thật dân chủ và hiệu quả.
CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ
VẤN ĐỀ XÂY DỤNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN
Vũ Văn Lý - Phó Chánh Văn phòng Bộ Tư pháp
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHŨNG YÊU CẦU CỦA VIỆC XÂY DỤNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN TRONG THỜI KỲ MỚI
Là một học trò xuất sắc, kiệt xuất của những người sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức cán bộ có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của Cách mạng. Hồ Chủ Tịch đã tổng kết " Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc[10]". “ Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém"[11].
Vì hiểu rõ vị trí và tầm quan trọng của cán bộ nên người yêu cầu phải vì công việc mà đặt người, dứt khoát không vì người mà đặt việc. Bác nói "Cân nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hãng hái. Như thế công việc nhất định chạy. Nếu vì long ghen ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng, có tội với đồng bào”[12]
Chính vì nhận thức vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta từ ngày thành lập đến nay luôn luôn đặt vấn đề xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ đủ sức hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng vô vàn khó khăn phức tạp, đầy hy sinh. Cả cuộc đời của Chủ Tịch Hồ Chí Minh tâm huyết xây dựng một đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực, Người coi "đạo đức " là cái "gốc' là nền tảng của người cách mạng " Cũng như sông thỉ có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cán bộ Cách mạng phải có đạo đức, không cố đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [13]. Theo Bác, thì đạo đức gắn liền với năng lực, chính nhờ có đạo đức cách mạng mà mỗi người tự phấn đấu để tự hoàn thiện mình, hình thành năng lực để hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng vẻ vang. Vì vậy, đạo đức Cách mạng là nền tảng vững chắc để mỗi người hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Riêng đối với cán bộ Tư pháp, Bác dạy “ các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cái gương phụng công, thủ pháp, chí công vô tư[14]cho nhân dân noi theo" [15].
Xuất phát từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng đã nghiên cứu đề ra đường lối, chính sách cán bộ thích hợp trên cơ sở những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra, đặc biệt là về tiêu chuẩn cán bộ. Báo cáo Chính trị tại Đại hội IV của Đảng khẳng định: Chất lượng người cán bộ là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác, thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Không thể tách rời và đối lập yêu cầu về phẩm chất chính trị với yêu cầu về năng lực công tác, vì thiếu một mặt nào cũng là không đủ tiêu chuẩn người cán bộ của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá VI, Báo cáo chính trị tại Đại hội VII đã xác định tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo. Từ tiêu chuẩn cơ bản đó, Đảng ta nhấn mạnh phải khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại, từng chức danh cán bộ ở các cấp, các ngành và căn cứ vào đó để đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ, chấm dứt tình trạng bố trí cán bộ theo kiểu thân quen, cảm tính chủ quan. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định cải cách nền hành chính Nhà nước, trong đó chú trọng "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thừa hành công vụ”[16].
Khi đất nước chuyển sang thời kỳ đổi mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xuất hiện những vận hội, thời cơ lớn cần ra sức tận dụng, đi liền với những khó khăn, thử thách mà chúng ta nhất định sẽ vượt qua, nhất là trong điều kiện cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế.Tình hình đó đòi hỏi đôi ngũ cán bộ của chúng ta có đầy đủ phẩm chất chính trị và kiến thức, phải hết sức kiên định vững vàng, đồng thời rất thông minh, sáng tạo. Tiêu chuẩn chung của người cán bộ trong giai đoạn hiện nay là:
“- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; Có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu được giao
Các tiêu chuẩn đó có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc" [17].
Từ tiêu chuẩn cán bộ nói chung, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Đã đề ra uxây dựng đội ngũ Thẩm phán, thư ký Toà án. . .có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh" [18]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã khẳng định uxây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp trong sạch , vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ Tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể. Nâng cao chất lượng của Hội thẩm nhân dân"[19].
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án. Lao động của người Thẩm phán mang tính đặc thù: Thực hiện công việc xét xử, quyết định liên quan đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; Thẩm phán là người nhân danh Nhà nước thực hiện việc xét xử các vụ án với trách nhiệm cao và phải chịu giám sát chặt chẽ của Nhà nước và của công dân; khi xét xử, Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật. . .Vì vậy, Điều 37 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, Điều 6 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm năm 1993 đã quy định tiêu chuẩn Thẩm phán là: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý cần thiết, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Như vậy, cũng như tiêu chuẩn cán bộ nói chung, yêu cầu tiêu chuẩn cơ bản của Thẩm phán gồm: Có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chính trị - xã hội nhất định và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi.
Do nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp Toà án khác nhau, do đó trên cơ sở tiêu chuẩn chung của Thẩm phán, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đã quy định tiêu chuẩn của Thẩm phán từng cấp, cụ thể là:
a - Tiêu chuẩn của Thẩm phán Toà án tối cao:
Ngoài tiêu chuẩn chung, có trình độ đại học Luật hoặc cao đẳng Toà án, có thời gian làm công tác pháp luật từ 8 năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đủ tiêu chuẩn quy định nêu trên đây thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự trung ương.
b - Tiêu chuẩn Thẩm phán của Toà án cấp tỉnh:
Ngoài tiêu chuẩn chung, có trình độ đại học Luật hoặc cao đẳng Toà án, có thời gian làm công tác pháp luật từ 6 năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh, Toà án quân sự quân khu và tương đương thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án cấp tỉnh; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đù tiêu chuẩn quy định nêu trên đây thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương.
c - Tiêu chuẩn Thẩm phán của Toà ấn cấp huyện:
Ngoài tiêu chuẩn chung, có trình độ đại học Luật hoặc cao đẳng Toà án, có thời gian công tác pháp luật từ 4 năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện, Toà án quân sự khu vực thì có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án cấp huyện; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ và có đủ tiêu chuẩn nêu trên đây thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
Căn cứ vào cơ sở lý luận nêu trên, hơn nửa thế kỷ qua Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng những tư tưởng của Chủ tịch Hồ chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dưng đội ngũ cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán . Có thể khảng định đội ngũ Thẩm phán đã phát triển không ngừng, bảo đảm về số lượng và chất lượng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2 - THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN CÁC CẤP VÀ VẤN ĐỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRONG CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ VÀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA CƠ QUAN TÒA ÁN
Từ năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 13 tổ chức ra toà án sơ cấp ở cấp huyện, Toà án đệ nhị cấp ở tỉnh, Toà án thượng thẩm cấp kỳ (Bắc, Trung, Nam kỳ). Thẩm phán ở Toà án thượng thẩm và Toà án đệ nhị cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm, còn Thẩm phán ở Toà án sơ cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Số lượng Thẩm phán trong cả nước còn ít, nhiều người đã tốt nghiệp trường luật hoặc đang học dở dang trường luật do Pháp đào tạo. Năm 1961, do điều kiện cụ thể, Bộ Tư pháp giải thể, công việc quản lý Toà án nhân dân địa phương đã chuyển giao cho Toà án nhân dân tối cao, nhưng đến năm 1981 Bộ Tư pháp được lập lại và được giao nhiệm vụ quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Vào những năm cuối của thập kỷ 80 hầu hết các Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương được bầu đảm bảo đúng tiêu chuẩn, mở đầu thời kỳ tiêu chuẩn hoá cán bộ, một bước ngoặt mới thúc đẩy các cán bộ phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nếu năm 1981 tổng số cán bộ Toà án nhân dân tỉnh, huyện là 2524 cán bô, trong đó cán bộ có trình độ đại học chỉ chiếm có 3%. Đến năm 1991 tổng số cán bộ là 6050, trong đó số cán bộ có trình độ đại học chiếm 50%,riêng Thẩm phán cấp tỉnh 92% và Thẩm phán cấp huyện 41% có trình độ đại học.
Có thể nói đội ngũ Thẩm phán đã từng bước nâng cao trình độ, trách nhiệm, bản lĩnh của Thẩm phán góp phần đảm bảo thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy vậy, do những nguyên nhân khác nhau, đầu những năm 90 số lượng Thẩm phán chưa tốt nghiệp đại học luật (hoặc tương đương) còn nhiều. Theo thống kê đến tháng 2-1994 thì đội ngũ Thẩm phán cần được đào tạo còn khá lớn. Trong số 516 Thẩm phán cấp tỉnh có 353 người tốt nghiệp đại học luật và cao đẳng, 40 người tốt ngiệp trung học luật, 100 người qua các lớp luân huấn, 17 người có bằng đại học khác và 6 người chưa qua lớp đào tạo nào. Trong số 1920 Thẩm phán huyện có 824 người đã tốt nghiệp đại học luật, 117 người tốt nghiệp cao đẳng, 465 người tốt nghiệp trung cấp, 282 người đã qua 1 hoặc 2 lớp luân huấn, 70 người qua lớp sơ cấp và 162 người chưa qua hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ .Thực trạng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán đã đặt ra việc thực hiên tiêu chuẩn hoá cán bộ gặp rất nhiều khó khăn.
Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 đã quy định chế định bổ nhiệm Thẩm phán thay cho chế định bầu cử trước đây, được Quốc hội và Chính phủ giao cho, Bộ Tư pháp đã thực hiện công tác tuyển chọn, trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương . Qua công tác bổ nhiệm Thẩm phán nhiệm kỳ thứ nhất (1994 - 1999), so sánh số lượng Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương theo chế định bổ nhiệm với đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương theo chế độ bầu trước đây thì đội ngũ Thẩm phán hiện nay không những tăng thêm về số lượng mà còn nâng cao về trình độ chuyên môn.
Cụ thể là: Trước năm 1993 theo chế độ bầu, tổng số Thẩm phán Toà án cấp huyện có 1373, trong đó 250 Thẩm phán có trình độ đại học luật, 604 Thẩm phán có trình độ trung cấp luật, còn lại học luân huấn hoặc sơ cấp. Tổng số Thẩm phán Toà án cấp tỉnh có 619, trong đó 438 Thẩm phán có trình độ đại học luật, 53 Thẩm phán có trình độ trung cấp luật, còn lại học luân huấn hoặc sơ cấp. Từ năm 1994 đến tháng 9 năm 1998, tổng số Thẩm phán Toà án cấp huyện có 2199, trong đó 1282 Thẩm phán có trình độ đại học, 452 Thẩm phán có trình độ trung cấp luật, còn lại học luân huấn hoặc sơ cấp. Tổng số Thẩm phán Toà án cấp tỉnh có 908, trong đó 11 Thẩm phán có trình độ cao học luật, 804 Thẩm phán có trình độ đại học luật, 20 Thẩm phán có trình độ trung cấp luật, còn lại học luân huấn hoặc sơ cấp.
a - Về thực hiện tiêu chuẩn Thẩm phán:
Theo quy định của Pháp lệnh và Hội thẩm nhân dân thì công dân Việt Nam có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực thì phải có đủ tiêu chuẩn của Thẩm phán cấp đó. Tuy nhiên, do đội ngũ Thẩm phán hình thành từ nhiều nguồn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ không đồng đều. Vì vậy trong quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án địa phương, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao cho vận dụng tiêu chuẩn: Đối với những người chưa là Thẩm phán thì khi được tuyển chọn, bổ nhiệm phải bảo đảm đủ các tiêu chuẩn. Đối với Thẩm phán đương nhiệm nếu có đủ các tiêu chuẩn, nhưng chưa có bằng đại học luật thì vẫn được tuyển chọn, bổ nhiệm lại với điều kiện là phải trả “nợ” để đạt được trình độ đại học luật. Thực hiện chủ trương đó, trong nhiệm kỳ Thẩm phán 1994 - 1999 có 1451 Thẩm phán đương nhiệm và Trọng tài viên chuyển từ Trọng tài kinh tế Nhà nước sang được bổ nhiệm, nhưng còn thiếu bằng đại học luật. Đến đầu năm 1999 đã có 1229 Thẩm phán trả được “nợ”.
b - Về số lượng:
So với chỉ tiêu biên chế được Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao, đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hiện nay có 97 người, còn thiếu 23 Thẩm phán; Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương còn thiếu nhiều, nhất là thiếu ở một số tỉnh phía nam, ở những huyện mới chia tách, ở vùng sâu, vùng xa. Có Toà án huyện chỉ có 2 Thẩm phán, cá biệt có nơi Thẩm phán đồng thời là Chánh án hoặc Phó chánh án. ở những nơi thiếu Thẩm phán, hoạt động xét xử rất khó khăn, bình quân xét xử của Thẩm phán chưa cao (đa số bình quân án xét xử của Thẩm phán cấp huyện từ 3-4 vụ việc).
c - Về chất lượng:
Đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nhìn chung được quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng tương đối cơ bản. Đến nay trong số 97 Thẩm phán Toà án nhân dân tối cáo có 4 Thẩm phán là Tiến sỹ Luật, 15 Thẩm phán là Thạc sỹ và còn lại là cử nhân Luật; có 26 Thẩm phán có trình độ tiếng Anh, tiếng Nga ở mức độ giao dịch được.
Qua thống kê nhiệm kỳ 1994 - 1999, tổng số Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương có 3205, trong đó có 2839 Thẩm phán có trình độ đại học và cao đẳng(chiếm 88,5%). Số còn lại đang học đại học luật tại chức hoặc luân huấn. Hầu hết Thẩm phán có trình độ cao cấp hoặc trung cấp chính trị...Qua công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán nhiệm kỳ mới, đến cuối năm 2000 số Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao có 97 người; số Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương có 3334 người, bao gồm: 3217 Thẩm phán Toà án địa phương và 117 Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực.
Có thể đánh giá ưu điểm và khuyết điểm trong việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán như sau :
+ Về ưu điểm:
- Hầu hết Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao các cấp giữ vững được phẩm chất đạo đức, bản thân và gia đình sống trong sạch, gương mẫu được quần chúng nhân dân tin cậy. Mặc dù so với mức sống chung thì mức sống của Thẩm phán còn khó khăn; trong hoàn cảnh chịu tác động của các hiện tượng tiêu cực xã hôi nhưng phần lớn các Thẩm phán vẫn vững vàng không bị sa ngã.
- Những năm gần đây do tình hình phạm tội và vi phạm pháp luật gia tăng, khối lượng công việc của Toà án các cấp rất lớn, trong khi đó biên chế của nhiều Toà án không đủ, nhưng nhìn chung Toà án các cấp đã bảo đảm được yêu cầu và chất lượng xét xử trong tình hình hiện nay.
+ Về khuyết điểm:
- Có một số Thẩm phán vì chưa được đào tạo cơ bản, do đó trình độ nghiệp vụ còn yếu thể hiện ở việc vận dụng pháp luật, vận dụng đường lối xét xử ...
- Trong nhiệm kỳ 1994-1999: Có 1 Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị truy tố, xét xử với hình phạt 2 năm tù, 4 Thẩm phán bị cảnh cáo và 3 Thẩm phán bị khiển trách; có 107 cán bộ Toà án nhân dân địa phương phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo đến cách chức, buộc thôi việc, truy tố trước pháp luật. Các vi phạm thường là nhận hối lộ, ra bản án, quyết định trái pháp luật, vi phạm các nguyên tắc quản lý kinh tế tài chính, quan hệ không lành mạnh...
- Trình độ lý luận chính trị, kinh tế, quản lý Nhà nước, trình độ ngoại ngữ và hiểu biết về tin học của đội ngũ Thẩm phán các cấp còn thấp. Đặc biệt trình độ của các Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương còn thấp hơn đã ảnh hưởng rất nhiều đến năng lực của Thẩm phán trong công tác xét xử.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính, đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng, kiện toàn bộ máy Nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ quan liêu tham nhũng, luôn luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của một Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nghị quyết cũng đề ra chủ trương, nhiệm vụ trong thời gian tới, trong đó yêu cầu phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân: Trên cơ sở kiện toàn tổ chức và cán bộ, nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân quận, huyên theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các Toà án địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật. Hạn chế việc xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Nghiên cứu tiếp tục thành lập các toà chuyên môn.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục khẳng định cải cách tổ chức và hoạt đông Tư pháp” củng cố, kiện toàn bộ máy cấc cơ quan Tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án nhân dân cấp huyện...”[20]
Tiếp tục các Nghị quyết trước, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khoá VIII) đã đề ra chủ trương cải cách Tư pháp hoàn chỉnh hơn, cụ thể là Toà án nhân dân:
“- Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự trung ương. Nghiên cứu áp dụng thử tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng.
- Toà án nhân dân tối cao tập trung vào công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn các Toà án ấp dụng pháp luật thống nhất và làm tốt chức năng giám đốc xét xử. Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm việc xét xử vừa đúng đắn vừa nhanh chóng.
- Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện; đồng thời căn cứ vào tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay mà điều chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọn cho phù hợp để kịp thời bổ xung đủ Thẩm phán cho Toà án cấp huyện và Toà án cấp tỉnh”[21]
Như vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân các cấp là một trong những nội dung quan trọng của cải cách Tư pháp. Vì vậy, để cải cách Tư pháp đạt được kết quả, theo chúng tôi yêu cầu đặt ra phải kiện toàn tổ chức Toà án các cấp bảo đảm có hiệu lực, hiệu quả công việc, thực hiện được chức năng, nhiệm vụ được giao. Xây dựng tổ chức Toà án các cấp càng lên cao càng tinh gọn, như tổ chức Toà án cấp huyện phải được sắp xếp để đủ sức xét xử sơ thẩm, To à án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm và Toà án tối cao tập trung tổng kết xét xử, hướng dẫn các Toà án địa phương áp dụng pháp luật và làm tốt chức năng giám đốc thẩm...Đồng thời phải khẩn trương xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng với việc vận dung tiêu chuẩn Thẩm phán phù hợp với điều kiện cụ thể ở Toà án mỗi cấp.
3- NHỮNG KIẾN NGHỊ VỀ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN ĐỦ VỀ SỐ LƯỢNG, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRONG THỜI GIAN TỚI.
Trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân các cấp vấn đề xây dựng đội ngũ Thẩm phán cần thực hiện những biện pháp sau:
3.1. Xây dựng quy hoạch đội ngũ Thẩm phán.
Nhìn chung, trong những năm qua đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp đã được quan tâm tăng cường về số lượng và chất lượng. Đặc biệt là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán sau nhiệm kỳ thứ nhất được nâng cao so với đội ngũ Thẩm phán trước đây. Tuy nhiên,với cách tổ chức Toà án theo Luật hiên nay số lượng Thẩm phán vẫn còn thiếu và chưa cao. Có tình trạng này là do đội ngũ Thẩm phán được lựa chọn từ nhiều nguồn khác nhau với trình độ không đồng đều (cán bộ chuyển từ quân đội và các cơ quan khác sang, Trường đại học pháp lý năm 1979 mới được thành lập...); đại bộ phận được đào tạo mang tính chắp vá để đáp ứng yêu cầu công việc trước mắt, số Thẩm phán được đào tạo chính quy chỉ khoảng 30%.
Trong Báo cáo tổng kết công tác bổ nhiệm Thẩm phán nhiệm kỳ 1994 - 1999 đã đánh giá “số lượng Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương hiện nay còn thiếu so với chỉ tiêu được Ưỷ ban thương vụ Quốc hội giao, số Thẩm phán chủ yếu tập trung ở một số tỉnh phía Nam, một số tỉnh huyện mới chia tách và các địa phương vùng sâu, vùng xa, miền núi. Hiện nay Toà án cấp tỉnh có ít Thẩm phán nhất là Toà án tỉnh Bình Phước 4 Thẩm phán;Toà án tỉnh Bắc Kạn, Bạc Liêu: 6 Thẩm phán.Có Toà án cấp huyện chỉ có 2 Thẩm phán, còn một số ít đơn vị Toà án nhân dân cấp huyện có 1 Thẩm phán đồng thời là Chánh án hoặc Phó chánh án”.
Vì vậy, quy hoạch đội ngũ Thẩm phán là thiết kế, xây dựng một đội ngũ Thẩm phán có đủ tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xét xử trước mắt và lâu dài. Để làm tốt việc quy hoạch này phải căn cứ vào nhiệm vụ xét xử của Toà án mỗi cấp; đánh giá đúng thực trạng cán bộ hiện có từ đó dự báo một cách khoa học những yêu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ Thẩm phán; đề ra phương hướng, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ.
Về yêu cầu trước mắt, khẩn trương xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ số lượng và bảo đảm chất lượng, trước hết Toà án nhân dân các cấp phải thực hiện sắp xếp tổ chức, tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7(khoá VIII) căn cứ vào nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án mỗi cấp; căn cứ vào lãnh thổ, dân số, tình hình vi phạm pháp luật, trình độ cán bộ hiện có, phương tiện giao thông liên lạc...
Về lâu dài, căn cứ vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án các cấp theo yêu cầu cải cách Tư pháp cần từng bước xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngang tầm nhiệm vụ. Trên cơ sở lập phương án quy hoạch cán bộ của Toà án các cấp cần xây dựng quy hoạch Thẩm phán nhiệm kỳ 1999 - 2004 và đến năm 2010.
3.2. Xây dựng đội ngũ Thẩm phán với bước đi thích hợp.
Chúng ta mong muốn sớm xây dựng một đội ngũ Thẩm phán được đào tạo một cách chính quy theo tiêu chuẩn, nhưng không thể thực hiện mong muốn đó trong một nhiệm kỳ. Bằng những con đường khác nhau đi vào cơ quan Toà án, đội ngũ Thẩm phán hiện nay có trình độ chuyên môn nghiệp vụ rất khác nhau. Một thời gian dài sau chiến tranh việc tuyển chọn cán bộ Toà án chỉ dựa vào lý lịch, hồ sơ, tuổi đời và kinh nghiệm mà chưa coi trọng tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ. Đến nay trình độ dân trí cao hơn đòi hỏi Thẩm phán khi xét xử phán quyết phải hiểu pháp luật đầy đủ, chính xác. Vì vậy, người Thẩm phán phải được đào tạo chính quy, có hệ thống. Trên cơ sở quy hoạch Thẩm phán, theo chúng tôi đến nhiệm kỳ thứ 3 yêu cầu đội ngũ Thẩm phán phải có trình độ đại học Luật, trong đó có 30% Thẩm phán được đào tạo chính quy tại Trường đào tạo Thẩm phán và các chức danh tư pháp. Đối với những người được tuyển chọn vào học các lớp đào tạo Thẩm phán chính quy phải là những người tốt nghiệp đại học luật đang công tác trong các cơ quan Tư pháp hoặc ngoài cơ quan Tư pháp.
Đối với 70% Thẩm phán trong nhiệm kỳ thứ 3 tuy đã học chương trình đại học luật hệ chính quy, hê tại chức, chuyên tu hoặc qua các lớp luân huấn, nhưng họ chưa được đào tạo ở Trường đào tạo Thẩm phán cần phải được đào tạo từng phần của chương trình đào tạo Thẩm phán. Đây là loại hình đào tạo rất khó đối với các Thẩm phán đang thực hiện công việc xét xử và thực chất đây vẫn là biện pháp tình thế.
Ngoài ra, yêu cầu người được lựa chọn trước khi đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xét phải qua một kỳ thi về năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Trong mỗi nhiệm kỳ Thẩm phán phải được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật theo một chương trình sát với thực tiễn để họ làm tốt chức năng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
3.3. Xây dựng đội ngũ Thẩm phán không những có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên mồn nghiệp vụ cao, mà còn từng bước biết ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào trong công việc.
Phẩm chất đạo đức có thể coi là tiêu chuẩn đầu tiên và là gốc của người Thẩm phán. Bởi vì phẩm chất đạo đức của Thẩm phán gắn liền với hoạt động xét xử. Người Thẩm phán trước hết phải là người gương mẫu trong cuộc sống, phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, tư tưởng thực dụng, tham vọng cá nhân, lối sống vị kỷ, sa đoạ. Cùng với việc khẩn trương củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án nhân dân các cấp; khắc phục tình trạng Thẩm phán vừa thiếu, vừa yếu chúng ta phải sớm hoàn thành việc soạn thảo các quy chế: Danh hiệu vinh dự của Thẩm phán, Quy chế đạo đức Thẩm phán, quy chế làm việc của các cơ quan Toà án địa phương...
Trên cơ sở quy hoạch Thẩm phán và khả năng đào tạo, bồi dưỡng của các trường mà tiến hành xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán của các Toà án. Theo chúng tôi, cơ quan quản lý đội ngũ Thẩm phán phải phối hợp với Trường đào tạo Thẩm phán và các chức danh tư pháp, Trường bồi dưỡng Thẩm phán của Toà án nhân dân tối cao căn cứ vào tiêu chuẩn của Thẩm phán từng cấp mà yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
Tuy nhiên, để Thẩm phán thực hiện xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, theo chúng tôi, người Thẩm phán còn phải được trang bị kiến thức tổng hợp như: trình độ lý luận cao cấp, trung cấp chính trị, trình độ quản lý kinh tế và hành chính. Đây là yêu cầu rất khó thực hiện, vì còn phụ thuộc vào khả năng đào tạo, bồi dưỡng của các trường Đảng, Học viện Hành chính Quốc gia... Nhưng đã đến lúc khi lập quy hoạch cán bộ phải tính đến yêu cầu này và dự tính nguồn kinh phí để thực hiện.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới và trong khu vực đã có một đội ngũ Thẩm phán giỏi về chuyên môn, sử dụng thành thạo ngoại ngữ và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với việc mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam thì Thẩm phán của các Toà án cần phải biết ngoại ngữ để có thể tham khảo tài liệu và học tập kinh nghiệm của nước ngoài, sử dụng máy vi tính thành thạo để có điều kiện hoà nhập vào trình độ của đội ngũ cán bộ pháp lý nói chung của nước ta trong những năm tới.
THỰC TRẠNG TỘI PHẠM
VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ THẨM PHÁN
TS. Phạm Văn Lợi
Phó Viện trưởng Viện NCKH pháp lý
1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BẢO VỆ
Pháp luật nước ta đã có khá nhiều quy định có liên quan đến vấn đề bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự của cá nhân cũng như các cơ quan, tổ chức Nhà nước, trong đó đặc biệt là các quy định của Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định một chương riêng đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XII Bộ luật hình sự); một chương quy định các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính như điều 257 - tội chống người thi hành công vụ, tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.... Luật khiếu nại tố cáo cũng có quy định riêng đối với những trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại tố cáo để tố cáo sai sự thật, vu khống cho người khác.
Trong lĩnh vực cán bộ công chức, Pháp lệnh cán bộ công chức cũng có nhiều quy định về quyền của cán bộ công chức như: cán bộ công chức có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về việc làm của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình cho là trái pháp luật đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, cán bộ công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được pháp luật và nhân dân bảo vệ; cán bộ, công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được xem xét để công nhận là liệt sĩ theo quy định của pháp luật. Cán bộ, công chức bị thương trong khi thi hành nhiêm vụ, công vụ thì được xem xét để áp dụng chính sách, chế độ tương tự như đối với thương binh,...[22]. Các quy định này đồng thời cũng được áp dụng đối với công chức - Thẩm phán.
Ngoài ra, trong lĩnh vực hoạt động tố tụng, cũng có nhiều quy định trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động tố tụng và bảo vệ phiên toà như Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “... cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ phiên toà và thi hành lệnh của Chủ toạ phiên Toà về buộc rời khỏi
Phòng xử án hoặc bắt giữ người gây rối trật tự phiên toà”; Pháp lệnh về lực lượng cảnh sát nhân dân Việt nam ngày 28 tháng 01 năm 1989, tại Điều 7 quy định: “Lực lượng cảnh sát nhân dân đảm bảo thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam do Hội đồng Bộ trưởng quy định đối với những người đã có quyết định tạm giữ, tạm giam... Lực lượng cảnh sát nhân dân áp giải bị cáo, bảo vệ phiên Toà hình sự khi có yêu cầu của Toà án nhân dân, bảo vệ các phiên toà dân sự, hỗ trợ Chấp hành viên của Toà án trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án.”; Nghị định số 37/1998/NĐ-CP ngày 9 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Công an, tại Điều 2 Khoản 12 quy định:”... thực hiện công tác quản lý Nhà nước về thi hành án hình sự, quản lý các trại giam, Trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục, Trại tạm giam, Nhà tạm giữ, quản chế hành chính; phối hợp với các Bộ ngành, Ưỷ ban nhân dân các cấp trong việc cưỡng chế thi hành án và cưỡng chế xử lý hành chính, tổ chức dẫn giải can phạm, bảo vệ các phiên Toà theo quy định của pháp luật”; Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 12.4.1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn việc bảo vệ phiên toà. Mục I của Thông tư Liên ngành số 03/TTLN đã quy định cụ thể thủ tục, trình tự, nhiệm vụ của lực lượng Công an nhân dân trong việc bảo vệ phiên toà (hình sự và dân sự); Riêng Bộ Công an đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn như: Quyết định số 333/QĐ-BNV (X13) quy định chức năng, nhiêm vụ của Cục cảnh sát bảo vệ (trong Quyết định này, đã quy định việc thành lập Phòng cảnh sát bảo vệ phiên toà và thi hành án),... Ngoài ra tại các Điều 45 Luật tổ chức Toà án, Điều 54 Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự, Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự,... theo đó “những người gây rối tu ỳ trường hợp sẽ bị toà cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bị bắt giữ. Cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ phiên toà và thi hành lệnh của chủ toạ về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người gây rối”.
Tại Chỉ thị số 19 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) ngày 25/11/1993 quy định: “Tất cả các phiên to à hình sự, dân sự,... mà Toà án có yêu cầu bảo vệ, Thủ trưởng cơ quan công an phải cử ít nhất 2 người làm nhiệm vụ. Những người này có trách nhiệm giữ gìn trật tự phiên toà và làm theo lệnh của Chủ toạ”.
Như vậy có thể thấy đã có khá nhiều các văn bản pháp luật quy định có liên quan đến việc bảo vệ những người thi hành công vụ, bảo vệ trật tự xét xử tại phiên toà. Tuy nhiên, trên thực tế hiện tượng gây rối trật tự phiên toà (nhất là phiên toà dân sự, lao động) diễn ra khá nhiều và hết sức phức tạp. Điều hết sức nghiêm trọng - vấn đề đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, tài sản của Thẩm phán và thân nhân của họ diễn ra ngày một nhiều hơn, đa dạng hơn, nhưng lại chưa có văn bản quy định riêng đối với việc bảo vệ Thẩm phán và gia đình họ trước những phần tử phạm tội. Vì vậy, tính mạng, tài sản của Thẩm phán và gia đình họ vẫn còn bị đe doạ mà không biết có thể xảy ra lúc nào.
2. THỰC TRẠNG TỘI PHẠM VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ THẨM PHÁN
2.1. Thực trạng tội phạm.
Trong những năm qua, tình hình kinh tế nước ta đã giữ được tốc độ tăng trưởng, tình hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Mặc dù vậy, tình hình tội phạm hình sự vẫn diễn ra phức tạp, chưa có chiều hướng giảm bớt đáng kể, gây hậu quả xấu đến sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội và đó là nỗi lo lắng, ám ảnh đối với cuộc sống bình yên của nhân dân.
Một số loại tội phạm nghiêm trọng như giết người, cướp tài sản, hiếp dâm trẻ em, tệ nạn ma tuý, mãi dâm,... không giảm bớt mà có chiều hướng tăng nhanh và có nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Các tội phạm về kinh tế như buôn lậu qua biên giới, lưu hành tiền giả, xâm phạm tài nguyên rừng, chống người thi hành công vụ, các vụ buôn lậu,... vẫn không có chiều hướng giảm bớt.
Theo Báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tối cao, trong năm 2000, chỉ riêng về hình sự, các cấp Toà án trong cả nước phải giải quyết theo trình tự sơ thẩm 49.195 vụ với 72.904 bị cáo. Các tội phạm có tính chất đặc biệt nguy hiểm như án về ma tuý đã thực sự trở thành một hiểm hoạ đối với đời sống xã hội hiện nay. Chỉ riêng năm 2000, các Toà án địa phương đã đưa ra xét xử 6.518 vụ với 9.179 bị cáo phạm tội về ma tuý. Trong số các bị cáo đã xét xử, các Toà án đã tuyên phạt tử hình 87 bị cáo, phạt tù chung thân đối với 94 bị cáo[23]. Điều đáng lo ngại nhất là đối với các vụ án có liên quan đến ma tuý là tính chất có tổ chức rất cao của bọn tội phạm. Vì vậy, vấn đề đặt ra không chỉ ở việc các tội phạm này gây ra những nguy hiểm rất lớn cho xã hội như về tệ nạn xã hội, làm tổn hại giống nòi,... mà còn nguy hiểm ngay cả đối với những Thẩm phán hoặc thân nhân của Thẩm phán trực tiếp tham gia xét xử những loại vụ án này vì có thể sẽ gặp phải sự trả thù của đồng bọn hoặc thân nhân người phạm tội diễn ra trong bất kỳ lúc nào và ở bất cứ nơi đâu. Trong khi đó, lâu nay chúng ta lại chủ yếu chỉ quan tâm đến việc bảo vệ phiên toà mà ít ai nghĩ tới việc bảo vệ cho Thẩm phán trước và sau vụ án.
Bên cạnh đó, đối với một số tội phạm khác cũng đang không kém phần nghiêm trọng. Trong đó các tội phạm về kinh tế vẫn diễn ra phức tạp và chưa có chiều hướng giảm bớt. Nhiều vụ án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng với các thủ đoạn xảo quyệt, hành vi phạm tội dã man, tàn bạo vẫn tiếp tục xảy ra làm xôn xao dư luận và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống bình yên của nhân dân. Nhiều băng đảng “xã hội đen” hoạt động trắng trợn, sử dụng vũ khí chống lại lực lượng cảnh sát, hải quan, kiểm lâm, quản lý thị trường,... Nhiều cán bộ, chiến sỹ đã phải đổ máu, hy sinh tính mạng trong cuộc chiến đấu chống tội phạm. Điển hình như tên Nguyễn Văn Duy đã đặt mìn tại gia đình đồng chí Hoàng Đình Ký - Phó Chủ tịch kiêm Trưởng công an xã Kỳ Hoà, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh để giết hại đồng chí Ký và một cháu gái 6 tuổi con đồng chí Ký, 3 người khác trong gia đình bị thương nặng. Một số cán bộ Thẩm phán ngành Toà án cũng bị bọn tội phạm đe doạ hành hung, thậm chí còn đặt bộc phá tại nhà riêng[24]. Cách đây không lâu, Thẩm phán Phạm Đức Oánh ngồi ghế chủ toạ xét xử một vụ giết người và đã tuyên án từ hình bị cáo. Trên đường về nhà, Thẩm phán Oánh phát hiện người nhà bị cáo âm thầm bám theo mình. Nhanh trí, ông vội vàng chạy đến một đơn vị có người bạn làm công an nhờ can thiệp. Bởi vì trước đó đã có một lời tuyên bố: “Tao đã lạy nó tha cho con tao mà nó không tha, tao phải trả thù” . Chẳng kể gì Thẩm phán mà ngay cả luật sư VTT (Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh), trong một vụ xử giết người, luật sư xin hoãn phiên toà vì xuất hiện nhiều tình tiết mới bổ sung.
Khi biết điều này, gia đình bị cáo nổi giận đi tìm luật sư thanh toán. Chẳng may cho luật sư T, gia đình bị cáo tưởng nhầm là luật sư bào chữa nên vẫn đánh. Chưa kịp đính chính, luật sư T đã lãnh đủ một trận đòn ngay tại toà[25].
Điều đó có thể thấy tính chất nguy hiểm đặt ra đối với những người tham gia chống tội phạm, trong đó đặc biệt là đối với Thẩm phán ngày càng trở nên bức xúc hơn bao giờ hết. Gần đây nhất, tại phòng xét xử hình sự Toà án nhân dân Cà Mau, vào lúc lh30 ngày 19/3/2001, khi đang xét xử sơ thẩm vụ án hiếp dâm, cướp của giết người do Lâm Hoà thực hiện, Thẩm phán chủ toạ phiên toà Võ Hồng Kiếm cùng các thành viên Hội đồng xét xử đã bị hàng trăm người gồm thân nhân người bị hại và người dân theo dõi phiên xử rượt đuổi đánh, đồng thời đập phá phòng xét xử. Trong lúc chạy, Chủ toạ Võ Hồng Kiếm nhảy qua một hàng rào đã bị cọc rào đâm bị thương,...[26]
Bên cạnh tính nghiêm trọng của các vụ án hình sự thì do sự tác động của nền kinh tế thị trường, các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, các tranh chấp kinh tế, tranh chấp lao động, tranh chấp hành chính cũng diễn biến phức tạp hơn, gay gắt hơn. Bởi vì đây là những mối quan hệ trực tiếp ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế và đời sống nhân dân. Nhìn chung, các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình,... ngày càng phức tạp, đặc biệt là các vụ tranh chấp về quyền sử dụng tài sản, hợp đồng chuyển nhượng, thừa kế nhà đất,... Các loại việc này thường xảy ra tranh chấp gay gắt, khiếu kiện kéo dài. Rất nhiều vụ việc đã xảy ra sự xung đột hết sức nghiêm trọng tại phiên toà. Những xung đột đó có nhiều trường hợp không chỉ đe doạ với tính mạng sức khoẻ của các bên đương sự mà còn đe doạ ngay cả đối với luật sư, hội đồng xét xử. Sự cố phiên toà ngày 29/6/2000 tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh được xem là đặc biệt nghiêm trọng do đương sự đã chuẩn bị sẩn hung khí (dao và tuốc-nơ-vít), khi bị thua kiện đã đâm ngay chính người vợ cũ của mình, ngay cả luật sư và bảo vệ Toà án cũng không tránh khỏi bị đương sự hành hung. Hậu quả là cả 3 người phải vào bệnh viện cấp cứu, làm mất tính trang nghiêm cùa phiên toà. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên xảy ra sự việc nghiêm trọng mà trước đó không lâu, trong một vụ xử tranh chấp tài sản, đương sự đã rượt đuổi Thẩm phán khiến vị này phải chạy vào văn phòng để thoát thân. Vào ngày 12/3/1998, tại Toà án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, trong lúc thẩm vấn, đương sự bỗng la ó và chụp tấm bảng luật sư ném thẳng vào Hội đồng xét xử làm gãy đôi tấm bảng, may mắn là vị chủ toạ né kịp. Chưa hết, đương sự còn vác cả ghế tiếp tục đòi hành hung. Cuộc náo loạn chỉ kết thúc khi toà gọi điện thoại cho cảnh sát khu vực đến bắt kẻ gây rối[27].
Ngoài ra, trong các vụ xét xử dân sự thì hiện tượng xúc phạm Hội đồng xét xử diễn ra tương đối phổ biến. Ví dụ như sáng ngày 8/5/2000, Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đang làm thủ tục xét xử vụ án dân sự “đòi nợ” thì bỗng nhiên ông Johnk - quốc tịch Mỹ, bị đơn cùng với bà vợ gốc Việt hua chân múa tay la hét ầm ĩ như lên đồng rồi thản nhiên bỏ ra về. Lý do mà ông ta đưa ra là vì không đồng ý với người phiên dịch do Toà cử. Hình ảnh trên không phải là hiếm trong những phiên toà xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình,... vì vấn đề bảo vệ chưa được chú trọng nên khi bị thua kiện hoặc muốn kéo dài vụ án, các đương sự đã cố tình gây rối tại toà. Ngay cả chuyên đương sự vu khống như “ăn hối lộ, xử ép, xử oan,...” - nhiều Thẩm phán thừa nhận phải thường xuyên lãnh đủ “lâu ngày thành quen”. Có cả trường hợp đương sự xưng hô mày tao với hội đồng xét xử, nhất là đối với những phiên toà ở cấp huyện, nếu đương sự bị thua kiện thì sẽ bất chấp việc gì,...
2.2. Những đòi hỏi khách quan của việc nghiên cứu các biện pháp bảo vệ Thẩm phán
Để đi đến một phán quyết đúng pháp luật, hợp tình hợp lý là một công việc không đơn giản. Tuỳ tính chất phức tạp của từng vụ việc cụ thể, tuỳ loại án là hình sự hay dân sự, kinh tế... nhưng có thể khẳng định rằng lao động của Thẩm phán là một quá trình lao động gian khổ, đòi hỏi từ sự am hiểu tinh thông về luật pháp và thực tế, hiểu biết tổng hợp về các vấn đề kinh tế xã hội, đòi hỏi văn hoá cư xử và cả bản lĩnh chính trị của một người cách mạng. Trong phần lớn các trường hợp xét xử, nói chung Thẩm phán đều kết thúc thẩm quyền xét xử bằng việc ra các phán quyết quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đối tượng bị xét xử như tài sản, danh dự của các đương sự, sự tự do và thậm chí cả tính mạng của người có hành vi vi phạm. Chính điều này đã dẫn đến nhiều nguy cơ Thẩm phán trở thành đối tượng của sự thù hằn, có nhiều nguy cơ bị đe doạ trả thù.
Cũng do vai trò quan trọng của việc xét xử, mà trong nhiều trường hợp, trong quá trình xét xử, các đối tượng có hành vi vi phạm thường lợi dụng kẽ hở của pháp luật, bằng mọi thủ đoạn, kể cả các hành vi xấu xa để gây ảnh hưởng, cản trở hoạt động xét xử bình thường, ép buộc Thẩm phán thay đổi tính chất vụ án, ra các bản án có lợi cho họ, vô hiệu hoá bản án , quyết định của Thẩm phán.
Thẩm phán cũng luôn nằm trong các mối quan hệ mà nếu thoát khỏi ảnh hưởng của chúng nhằm để xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Thẩm phán không tránh khỏi những nguy cơ bị đe doạ về nhiều mặt. Thẩm phán có thể có nguy cơ đối mặt với những hành vi nhằm ép buộc Thẩm phán xét xử có lợi cho họ, hoặc nhằm trả thù Thẩm phán do đã xét xử bất lợi cho họ.
Nếu xem xét dưới góc độ Thẩm phán như những công dân bình thường khác, chúng ta thấy rằng pháp luật đã có những biện pháp bảo vệ Thẩm phán bằng các chế tài về hình sự, dân sự, hành chính... đối với những hành vi vi phạm, người vi phạm nhằm đảm bảo tính mạng sức khoẻ, danh dự của Thẩm phán. Mặt khác, để bảo vệ Thẩm phán cũng như những người nắm giữ công quyền khác, pháp luật cũng đã có những quy định tương đối cơ bản, xét xử nghiêm khắc bằng chế 'tài hình sự như quy định về tội chống người thi hành công vụ, một sô' tội trong lĩnh vực xâm phạm hoạt động tư pháp...Những quy định trên đây trong thực tế đã góp phần bảo đảm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán, giúp Thẩm phán phần nào yên tâm khi thực hiện nhiệm vụ được nhà nước giao phó. Tuy nhiên, trước thực tế diễn biến của tội phạm ngày càng phức tạp, tính chất của tội phạm ngày càng nghiêm trọng, đã xuất hiện những những hành vi phạm tội mà số người phạm tội lên đến hàng chục, liên quan đến nhiều đối tượng, diễn ra trong phạm vi rộng... Điển hình là những vụ liên quan đến các đường dây buôn bán ma tuý mà vì các món tiền siêu lợi nhuận thu được mà kẻ phạm tội trở nên rất liều lĩnh.
Trong bối cảnh đó, việc đảm bảo an toàn cho Thẩm phán về tính mạng, sức khoẻ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang đặt ra vấn đề xây dựng quy chế đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán, quy chế Thẩm phán. Hiểu về một khía cạnh nào đó, là chúng ta đang đặt ra thêm những yêu cầu, những đòi hỏi cao đối với Thẩm phán của chúng ta về đạo đức, tư cách, lối sống, trình độ, học tập ...
Vậy thì, sẽ không công bằng nếu chúng ta không đặt ra vấn đề nghiên cứu các biện pháp tăng cường bảo vệ Thẩm phán, là những người do thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho mà dễ có nguy cơ bị nguy hiểm đến tính mạng, nguy cơ rủi ro cao.
Những biện pháp này chủ yếu là những biện pháp có tính phòng ngừa từ xa, đảm bảo cho Thẩm phán được bảo vệ an toàn. Các biện pháp này đảm bảo cho họ thực hiện tốt hơn chức trách quan trọng của mình, giúp họ yên tâm công tác, yên tâm phấn đấu, đấu tranh vì sự công bằng, giữ vững cán cân công lý.
Như vậy, việc bảo vệ Thẩm phán xuất phát từ những yêu cầu sau đây:
- Do yêu cầu khách quan của việc thực hiện chức năng xét xử, do tính chất của nghề nghiệp Thẩm phán.
- Nhằm tạo điều kiện cần thiết để Thẩm phán yên tâm thực thi nhiệm vụ.
- Nhằm trực tiếp và gián tiếp tăng cường cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
3. PHẠM VI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ THẨM PHÁN
Việc nghiên cứu các biện pháp bảo vệ Thẩm phán trong điều kiện kinh tế xã hội của chúng ta hiện nay cũng cần phải cân nhắc, nhằm đảm bảo tính thực thi và đồng bộ. Rõ ràng rằng, chúng ta chưa thể tính đến việc áp dụng những biện pháp bảo vệ quá tốn kém khi Ngân sách còn hạn hẹp hoặc cũng chưa thể mở rộng phạm vi áp dụng. Điều đó có nghĩa là, trước mắt, không phải mọi Thẩm phán có thể được áp dụng biện pháp bảo vệ, không phải tất cả những người thực hiện công quyền, cũng như không phải tất cả những người có nghề nghiệp do Nhà nước giao mà có tính rủi ro cao là đương nhiên được áp dụng biện pháp bảo vệ.
Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, trước mắt, cần tính đến những biện pháp bảo vệ thực sự cấp bách, có hiệu quả, có tác dụng bảo vệ Thẩm phán hữu hiệu và trước mắt, để việc thực hiện có tính khả thi, chỉ nên nghiên cứu áp dụng trong một phạm vi tương đối hẹp. Khi có đủ điều kiện thì mở rộng đối tượng áp dụng cũng như quy mô áp dụng.
Khi nghiên cứu phạm vi áp dụng cắn lưu ý mốt số điểm như sau:
- Thứ nhất, trong thực tế của hoạt động bảo vệ pháp luật nói theo nghĩa rộng còn có nhiều chức danh khác thực hiện chức năng công quyền cũng chịu rủi ro không ít. Đó là cán bộ hải quan cửa khẩu, cơ quan thuế, cơ quan kiểm lâm, là điều tra viên, kiểm sát viên, thanh tra viên, nhân viên an ninh, Chấp hành viên các cơ quan thi hành án ... Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tế của điều kiện kinh tế xã hội cũng như đòi hỏi khách quan của nghề Thẩm phán và quá trình xây dựng quy chế Thẩm phán hiện nay, trước mắt việc bảo vệ chỉ đặt ra đối với Thẩm phán mà chưa đặt ra đối với những chức danh khác.
- Thứ hai, các biện pháp bảo vệ Thẩm phán có thể chưa áp dụng hoặc không áp dụng đối với mọi Thẩm phán, mà chỉ áp dụng đối với những Thẩm phán sau đây như Thẩm phán có chức vụ (chánh án, phó chánh án); Thẩm phán toà hình sự; Thẩm phán được phân công phụ trách hồ sơ những vụ án nghiêm trọng có khung hình phạt cao như chung thân, tử hình, Thẩm phán xét xử các vụ án về ma tuý, các loại tội phạm có tổ chức, tái phạm và các trường hợp đặc biệt khác...
- Thứ ba, mục đích của các biện pháp bảo đảm là nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ và tài sản của Thẩm phán trách khỏi những rủi ro do tính chất nghề nghiệp mang lại.
- Thứ tư, các biện pháp bảo vệ có tính chất khác nhau do đối tượng bảo vệ khác nhau.
- Thứ năm, tuỳ thuộc vào từng đối tượng của việc bảo vệ, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền áp dụng những biện pháp bảo vệ cho phù hợp.
- Thứ sáu* trong những trường hợp cần thiết, các biện pháp này cũng có thể được áp dụng đối với thân nhân của Thẩm phán, và những người có ảnh hưởng quyết định đến Thẩm phán.
- Thứ bảy, các quyết định về áp dụng biện pháp bảo vệ Thẩm phán do các cơ quan có thẩm quyền ban hành phải có hiệu lực bắt buộc đối với các tổ chức, cơ quan có liên quan .
4. MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO VỆ THẨM PHÁN
Từ việc phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng trước mắt cần nghiên cứu một số biện pháp cần thiết và có khả năng thực hiện như sau:
- Biện pháp bảo đảm về mặt an ninh;
- Biện pháp bảo đảm về mặt pháp lý;
- Biện pháp bảo đảm về mặt xã hội.
Phân biệt các biện pháp bảo vệ thành các loại như trên là căn cứ vào sự khác nhau về đối tượng, tính chất của biện pháp bảo đảm .
4.1. Biện pháp an ninh
Gọi là biện pháp an ninh bởi biện pháp này được áp dụng với mục đích bảo toàn tính mạng và sức khoẻ, tài sản cho Thẩm phán. Có thể nói rằng biện pháp này là không thể thiếu, các biện pháp này ngăn ngừa hữu hiệu các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ Thẩm phán, không để cho các hành vi này xảy ra.
Biện pháp an ninh được các cơ quan chức năng áp dụng khi có các căn cứ cụ thể chứng tỏ có sự đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán.
Các căn cứ để áp dụng biện pháp bảo đảm an ninh có thể là:
- Khi có yêu cầu của thẩm phán;
- Khi có yêu cầu của lãnh đạo Toà án;
- Khi cơ quan có thẩm quyền nhận được thông tin và có căn cứ chính xác về việc đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán.
Khi có những căn cứ trên đây, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét cụ thể những tình tiết có hay không có thực tế về sự đe doạ, ảnh hưởng đến sự an toàn của Thẩm phán và có trách nhiệm kịp thời áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết. Vấn đề thời gian tiếp nhận và quyết định áp dụng biện phá bảo vệ là cực kỳ cần thiết, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực sự bảo vệ Thẩm phán. Nên chăng, quy định trong thời hạn 3 ngày, các cơ quan chức năng phải quyết định cụ thể về việc có áp dụng hay không biện pháp bảo vệ, quyết định áp dụng biện pháp nào và trong thời gian bao lâu. Trong những trường hợp không thể chậm trễ, thì phải áp dụng ngay các biện pháp cần thiết. Tuy nhiên, cũng cần tính đến quyền quyết định, sự tự do lựa chọn của Thẩm phán. Vì vậy, nên chăng quy định những trường hợp còn lại, mà việc áp dụng biện pháp an ninh không phải do yêu cầu của Thẩm phán thì trước khi áp dụng biện pháp bảo vệ, cơ quan áp dụng biện pháp an ninh phải hỏi ý kiến Thẩm phán.
Các biện pháp này có thể được áp dụng riêng rẽ, có thể kết hợp áp dụng nhiều biện pháp cùng một lúc, tuỳ thuộc vào từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Một vấn đề khác cần lưu ý ở đây, là việc áp dụng các biện phápan ninh phải không được gây thiệt hại đến các quyền lợi khác của Thẩm phán. Ví dụ, trong trường hợp cần thay đổi số xe, tên họ thì các cơ quan chức năng không được gây phiền hà cho Thẩm phán. Ngược lại, phải tạo mọi điều kiện và tích cực chủ động tiến hành các thủ tục cần thiết.
Khi áp dụng các biện pháp an ninh, Thẩm phán có quyền được biết, được yêu cầu áp dụng biện pháp an ninh, được yêu cầu thay đổi, huỷ bỏ biện pháp an ninh và được khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. Thẩm phán có nghĩa vụ thông báo cho các cơ quan an ninh biết những thông tin liên quan đến việc áp dụng biện pháp an ninh, thực hiện sự chỉ dẫn của cơ quan áp dụng, giữ gìn tài sản được giao, và không tiết lộ thông tin liên quan đến việc áp dụng các biện pháp an ninh.
Do mục đích của việc áp dụng biện pháp bảo vệ Thẩm phán là nhằm bảo vệ Thẩm phán khỏi những đe doạ về tính mạng, sức khoẻ, tài sản các biện pháp an ninh chỉ nên giới hạn việc áp dụng cho đến khi sự đe doạ đến tính mạng sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán không còn nữa.
Tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, biện pháp an ninh có thể áp dụng bằng nhiều hình thức. Sau đây là một số kiến nghị về các biện pháp an ninh cụ thể để các cơ quan chức năng nghiên cứu, tham khảo:
1. Tạm thời chuyển đến nơi an toàn.
Trong trường hợp những Thẩm phán được phân công xét xử vụ án nghiêm trọng... thì nếu có yêu cầu, trong thời gian phụ trách hồ sơ, những Thẩm phán này có thể được bố trí ở tại địa điểm mới an toàn. Ngoài ra, để bảo vệ sự an toàn của vợ, chồng, con cái, cha, mẹ của Thẩm phán, nếu Thẩm phán có yêu cầu, trong thời gian Thẩm phán xét xử vụ án, cũng có thể cần được áp dụng biện pháp bảo vệ bằng cách chuyển đến nơi ở an toàn.
Các cơ quan áp dụng biện pháp bảo vệ có trách nhiệm bảo vệ lúc Thẩm phán có mặt ở khu nhà, đưa đón đến nơi làm việc để được bảo vệ an toàn tính mạng. Thực hiện biện pháp này thì không tiện lợi cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ, tốn kém về con người, thời gian, phương tiện và kinh phí.
2. Trang bị các phương tiện bảo vệ tính mạng và tài sản của Thẩm phán tại tư gia:
Các cơ quan an ninh áp dụng các biện pháp cụ thể, ví dụ như phân công người bảo vệ cá nhân Thẩm phán, bảo vệ nhà ở hoặc bảo vệ tài sản của Thẩm phán.
Trong những trường hợp này, nơi ở của Thẩm phán cũng có thể được trang bị các phương tiện bảo đảm an ninh như các phương tiện phòng chống cháy nổ, lắp đặt hệ thống còi báo động... Đây là một biện pháp tương đối dễ thực hiện, ít tốn kém hơn so với phương án xây dựng nhà ở hoặc chuyển đến nơi ở mới nói trên.
3. Thay đổi một số đăng ký như số điện thoại, số xe máy, xe ô tô:
Số điện thoại, số xe máy, xe ô tô:., mà Thẩm phán sử dụng hoặc sở hữu cũng có thể được thay đổi.
Trong trường hợp này, các cơ quan chức năng như cơ quan bưu điện, cơ quan công an ... có trách nhiệm làm các thủ tục thay đổi số các phương tiện liên quan cho Thẩm phán.
4. Trang bị vũ khí tự vệ:
Trong trường hợp nghiêm trọng, trong thời gian phụ trách hồ sơ xét xử, Thẩm phán có thể được trang bị vũ khí để tự vệ, như súng ngắn, các phương tiện báo động hoặc tự vệ khác.
Việc cấp phát, chế độ sử dụng các loại vũ khí này phải tuân theo quy định chung của pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng hay không biện pháp này phải được cân nhắc và chỉ nên áp dụng trong trường hợp đặc biệt, tuỳ thuộc vào mức độ nguy hiểm .
5. Cấm tiết lộ các thông tin về sơ yếu lý lịch của Thẩm phán.
Ngay từ khi Thẩm phán được bổ nhiệm vào chức vụ Thẩm phán, hoặc trong quá trình xét xử, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan chức năng không cung cấp hoặc nghiêm cấm tiết lộ các thông tin về sơ yếu lý lịch của Thẩm phán. Điều này thuộc về trách nhiệm của các cơ quan quản lý. Ví dụ, cơ quan quản lý hộ chiếu, cơ quan đăng ký mô tô xe máy, cơ quan bưu điện có trách nhiệm không tiết lộ thông tin về cá nhân Thẩm phán như họ tên, địa chỉ, quê quán...
6. Một biện pháp khác có thể áp dụng là việc thay đổi nơi làm việc, thay đổi nơi ở của Thẩm phán.
Thẩm phán có thể được chuyển đến nơi công tác khác, chuyển vị trí công tác khác hoặc chuyển đến nơi ở mới lâu dài, ổn định.
-
Thay đổi giấy tờ tuỳ thân của Thẩm phán.
Thẩm phán cũng có thể được cấp giấy tờ tuỳ thân hoặc có thể có những thay đổi cơ bản các thông số liên quan đến cá nhân Thẩm phán.
Hai biện pháp này chỉ nên áp dụng trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp an ninh khác hoặc xét thấy việc áp dụng các biện pháp khác không có hiệu quả.
Những biện pháp an ninh trên đây có thể giao cho bộ phận chuyên trách thuộc cơ quan công an đảm nhiệm.
4.2. Biện pháp pháp lý.
Các quy định của chế tài hình sự hiện hành đã góp phần vào việc bảo vệ Thẩm phán có hiệu quả. Tuy nhiên, với tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, thì tính rủi ro của nghề Thẩm phán càng cao. Vì vậy, cần nghiên cứu đến việc sửa đổi các quy định trên theo hướng xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán.
Có thể sửa đổi theo hướng coi các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc quy định thêm một số điều luật mới tương ứng với các hành vi nói trên.
4.3. Biện pháp về mặt xã hội
Nếu các biện pháp an ninh chủ yếu là mang tính phòng ngừa thì các biện pháp xã hội chủ yếu lại mang tính giải quyết hậu quả. Trong trường hợp tính mạng sức khoẻ của Thẩm phán bị xâm phạm, thì cũng cần có những cơ chế nhất định để đảm bảo cho Thẩm phán hoặc những người thân thích của Thẩm phán được bảo đảm về mặt vật chất..
Tuỳ thuộc vào đối tượng bị xâm hại và mức độ thiệt hại thực tế, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các biện pháp có tính xã hội.
Chúng tôi cho rằng, các biện pháp có tính xã hội cần nghiên cứu ở đây là những quy định về bồi thường thiệt hại cho Thẩm phán. Vì vậy, nên chăng cần quy định bảo hiểm sức khoẻ, tính mạng của Thẩm phán là bắt buộc. Quy định này nhằm đảm bảo trong trương hợp tính mạng, sức khoẻ của thẩm phán bị xâm hại thì cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm thanh toán các khoản tiền bảo hiểm theo những nguyên tắc nhất định.
Những trường hợp Thẩm phán được bồi thường vật chất bao gồm:
- Thẩm phán bị thương tích.
- Thẩm phán bị chết.
- Tài sản của Thẩm phán bị hư hỏng.
Trong trường hợp sức khoẻ của Thẩm phán bị tổn hại, ví dụ bị gây thương tích thì cần phân biệt mức độ mất khả năng lao động để bồi thường cho Thẩm phán.
Đối với những Thẩm phán bị thương tích do thực hiện chức năng của Thẩm phán nhưng vẫn có khả năng hoặc không còn khả năng tiếp tục công việc của thẩm phán, thì Thẩm phán, và trong trường hợp Thẩm phán bị chết, thì những người thừa kế, có quyền được hưởng một khoản tiền nhất định bằng một số lần lương tháng của Thẩm phán. Số lần luơng tháng phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ của Thẩm phán, ví dụ: nếu Thẩm phán chết, thì số lần phải cao hơn và cao nhất ; nếu Thẩm phán bị thương tích nhưng không còn khả năng hành nghề Thẩm phán thì phải thấp hơn so với trường hợp Thẩm phán tuy bị thương tích nhưng vẫn còn khả năng tiếp tục nghề Thẩm phán, thì mức độ bồi thường phụ thuộc vào những chi phí thực tế đã bỏ ra để chạy chữa, thuốc men, công chăm sóc...
Đối với những Thẩm phán bị thương tích dẫn đến mất khả năng hành nghề Thẩm phán thì phải được trả tiền trợ cấp mất sức lao động.
Đối với những Thẩm phán bị chết do thực hiện chức năng Thẩm phán thì những ngưòi thừa kế phải được bồi thường toàn bộ chi phí về chữa chạy, công chăm sóc, mai táng....
Ngoài ra, những người sống phụ thuộc vào Thẩm phán, hàng tháng cũng cần được hưởng một khoản tiền, ví dụ ở mức tương đương với khoản tiền mà mỗi người được hưởng khi Thẩm phán còn sống căn cứ vào mức lương của Thẩm phán chia cho số người sống phụ thuộc vào mức lương đó.Quy định này nhằm đảm bảo cho những người thân thích của Thẩm phán sống phụ thuộc vào thẩm phán, không có thu nhập lao động có thể có được một cuộc sống bình thường.
Như vậy, biện pháp này là thực tế và cần thiết. Trong trường họp tài sản của Thẩm phán bị hư hỏng, hoặc bị huỷ hoại do việc thực thi nhiệm vụ thì tài sản của Thẩm phán phải được bồi thương đầy đủ theo thiệt hại thực tế.
Tương tự, trong trường hợp tài sản của Thẩm phán bị phá hoại,làm hư hỏng, bị phá huỷ... thì giá trị tài sản đó cần phải được bồi thường đầy đủ.
Tuy nhiên cũng cần có những nguyên tắc nhất định khi áp dụng các biện páhp này. Theo chúng tôi, các nguyên tắc cần lưu ý ở đây là:
- Phải có sự thiệt hại thực tế;
- Sự thiệt hại phải do thực hiện chức năng nghề nghiệp của Thẩm phán;
- Sự thiệt hại phải được bồi thường trên nguyên tắc bồi thường đầy đủ.
5. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để việc bảo vệ Thẩm phán thực sự được áp dụng có hiệu quả, cần có kinh phí để thực hiện các biện pháp đã nêu trên. Thiết nghĩ rằng, kinh phí thực hiện các biện pháp bảo vệ Thẩm phán phải được lấy từ Ngân sách Nhà nước. Bởi lẽ, Thẩm phán là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Thẩm phán thực hiện chức năng do nhà nước giao phó, phục vụ lợi ích quốc gia. Vì vậy, không thể buộc Thẩm phán chịu các chi phí liên quan đến việc áp dụng biện pháp bảo đảm an ninh. Nguyên tắc này cần được áp dụng kể cả trong trường hợp Thẩm phán tự mình hoặc theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan toà án yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ cho Thẩm phán. Hơn nữa, việc áp dụng biện pháp bảo vệ Thẩm phán càng có ý nghĩa và việc Ngân sách chịu chi phí càng đặc biệt cần thiết trong trường hợp Thẩm phán bị mất sức lao động hoặc bị chết do thực hiện chức năng Thẩm phán của mình.
Để thực hiện các biện pháp an ninh, cần có bộ phận chuyên trách trực thuộc cơ quan công an để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Thẩm phán. Các lực lượng này phải được trang bị đầy đủ các phương tiện cần thiết cho việc thực hiện chức năng bảo vệ, áp dụng các biện pháp bảo vệ.
Như vậy, bước đầu chúng tôi có một số đề xuất như trên. Tất nhiên, đây là một vấn đề còn rất mới mẻ, cần được tiếp tục nghiên cứu./.
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM TOÀ ÁN QUÂN SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH VỀ
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN
ThS. Nguyễn Mai Bộ
Trợ lý tổng hợp Toà án quân sự Trung ương
1. THẨM PHÁN TOÀ ÁN QUÂN SỰ
1.1. Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án.
Các Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, được tổ chức trong quân đội. Các Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị báo là: quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; Và những người không thuộc các đối tượng nêu trên nhưng phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Như vậy, Thẩm phán Toà án quân sự là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự. Điểm khác nhau cơ bản giữa Thẩm phán Toà án quân sự với Thẩm phán Toà án nhân dân là Toà án nơi Thẩm phán Toà án quân sự công tác là Toà án quân sự - cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, được tổ chức trong quân đội, mặt khác Toà án quân sự còn là một cơ quan quân sự thuộc cơ cấu tổ chức của quân đội. Cho nên, Thẩm phán Toà án quân sự vừa phải làm nhiệm vụ như một Thẩm phán Toà án nhân dân, vừa phải thực thi nhiệm vụ của một quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Căn cứ vào cấp tổ chức Toà án quân sự nơi Thẩm phán được biên chế có thể chia Thẩm phán Toà án quân sự thành ba cấp: Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, quân chủng; Và Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
Căn cứ vào chức vụ công tác, có thể chia Thẩm phán Toà án quân sự thành hai loại: Thẩm phán giữ chức vụ lãnh đạo bao gồm Thẩm phán là các Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự và Thẩm phán là các Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương; Và còn lại là các Thẩm phán khác không được bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo nêu trên.
Việc chia Thẩm phán thành các loại, theo cấp chức như trên có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu, quy định tiêu chuẩn Thẩm phán.
1.2. Tiêu chuẩn Thẩm phán Toà án quân sự được quy định tại các Điều 4, 16, 17 và 18 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân (sau đây viết tắt là Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân) bao gồm tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể đối với từng cấp Thẩm phán.
Tiêu chuẩn chung đối với Thẩm phán được quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân là: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ Pháp chế Xã hội chủ nghĩa, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đây là điều kiện cần có đối với mỗi công dân để được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán. Còn tiêu chuẩn cụ thể đối với từng cấp Thẩm phán Toà án quân sự được quy định tại các Điều 16, 17 và 18 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân như sau:
Theo quy định tại Điều 16 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, thì tiêu chuẩn Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương là sỹ quan quân đội tại ngũ có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học Luật, có thời gian công tác pháp luật từ tám năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự Trung ương.
Theo quy định tại Điều 17 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, thì tiêu chuẩn Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu là sỹ quan quân đội tại ngũ có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học Luật, có thời gian công tác pháp luật từ sáu năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự quân khu và Trung ương.
Và theo quy định tại Điều 18 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, thì tiêu chuẩn Thẩm phán Toà án quân sự khu vực là sỹ quan quân đội tại ngũ, có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học Luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Thẩm phán Toà án quân sự Quân khu.
Nghiên cứu nội dung các điều luật nêu trên, chúng tôi thấy: Ngoài các tiêu chuẩn chung quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự còn có các tiêu chuẩn chung là sỹ quan quân đội tại ngũ, có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học Luật. Điểm khác nhau cơ bản là thâm niên công tác và năng lực xét xử. Quy định như trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân là chưa rõ ràng, thiếu cụ thể đối với từng cấp Thẩm phán. Bởi vì, luật mới chỉ quy định là sỹ quan quân đội tại ngũ, có thời gian công tác pháp luật từ bốn năm (sáu năm và tám năm) trở lên là có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực (Toà án quân sự Quân khu, Toà án quân sự Trung ương). Mà chưa có quy định sỹ quan từ cấp nào trở lên thì có thể làm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực (Toà án quân sự Quân khu, Toà án quân sự Trung ương); Và cũng chưa quy định là trước khi được tuyển chọn công tác ở cơ quan nào? Chính sự quy định như vậy sẽ dẫn tới sự ngộ nhận là ai cũng làm được Thẩm phán Toà án quân sự miễn là sỹ quan quân đội tại chức và từng công tác pháp luật ở Toà án quân sự, Viện Kiểm sát quân sự, Điều tra hình sự quân đội, Phòng Pháp chế...
Theo chúng tôi, xét xử là nghề của Thẩm phán, cho nên phải xây dựng tiêu chuẩn Thẩm phán nói chung và Thẩm phán Toà án quân sự nói riêng cho phù hợp với nghề nghiệp của Thẩm phán. Nội dung nghề nghiệp của Thẩm phán Toà án quân sự là nhân danh Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định: Người bị Viện Kiểm sát truy tố có phạm tôi hay không có tội; nếu phạm tội thì người đó phạm tội gì; áp dụng loại hình phạt nào cho tương ứng với tính chất của hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm do họ thực hiện. Hoạt động của Thẩm phán Toà án quân sự là hoạt động áp dụng pháp luật, có các đặc điểm: Là hoạt động mang tính chất tổ chức - quyền lực nhân danh Nhà nước; Là hoạt động có hình thức và thủ tục do pháp luật quy định; Là hoạt động áp dụng pháp luật, điều chỉnh có luật đối với các quan hệ xã hội; Và là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo và kinh nghiệm nghề nghiệp.
Những đặc điểm nêu trên đòi hỏi tiêu chuẩn của Thẩm phán Toà án quân sự phải có những nội dung:
Một là, tiêu chuẩn chính trị của người Thẩm phán. Nội dung tiêu chuẩn này đòi hỏi người Thẩm phán Toà án quân sự phải là công dân Việt Nam được Nhà nước phong quân hàm sỹ quan đang phục vụ tại ngũ trong quân đội, trung thành với Tổ quốc, với Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Hai là, tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức. Nội dung tiêu chuẩn này đã được quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân và Điều 12 Luật Sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam. Theo quy định của các điều luật nêu trên, thì Thẩm phán Toà án quân sự phải có phẩm chất, đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Và có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ của Thẩm phán. Tiêu chuẩn về trình độ của Thẩm phán Toà án quân sự được quy định chung cho Thẩm phán Toà án quân sự các cấp là “cao đẳng Toà án hoặc đại học Luật”. Với quy định như vậy, thì chưa có sự phân biệt về trình độ Thẩm phán Toà án quân sự các cấp. Nếu chỉ áp dụng đối với Thẩm phán Toà án quân sự thì tiêu chí “cao đẳng Toà án” là không cần thiết. Bởi vì số Thẩm phán Toà án quân sự có trình độ cao đẳng Toà án hiện nay còn đang có số lượng rất thấp (toàn ngành Toà án quân sự còn không tới 10 Thẩm phán chưa có bằng đại học Luật). Số Thẩm phán này, theo tuổi phục vụ của sỹ quan thì cũng chỉ công tác tới năm 2005 là cùng. Do vậy, khi sửa đổi Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cần bỏ tiêu chí “cao đẳng Toà án”.
Về năng lực của Thẩm phán Toà án quân sự cần quy định theo hướng năng lực xét xử của Thẩm phán Toà án cấp trên phải hơn năng lực xét xử của Toà án cấp dưới. Bởi vì, những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Thẩm phán Toà án quân sự cấp trên là những vụ án nghiêm trọng hơn, phức tạp hơn những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Thẩm phán Toà án quân sự cấp dưới. Mặt khác, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thì Toà án quân sự cấp trên phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm các bản án của Toà án quân sự cấp dưới. Do vậy để bảo đảm nội dung tiêu chí này cần quy định nguồn Thẩm phán Toà án quân sự cấp trên là những người đã làm tốt ở cương vị Thẩm phán Toà án quân sự cấp dưới. Vậy nguồn Thẩm phán Toà án quân sự cấp dưới và đặc biệt là nguồn Thẩm phán Toà án quân sự khu vực lấy ở đâu? Theo chúng tôi, thì nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu là Thư ký, cán bộ nghiên cứu Toà án quân sự Trung ương và Thẩm phán Toà án quân sự khu vực. Còn nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực là Thư ký Toà án quân sự quân khu và Thư ký Toà án quân sự khu vực. Và một đòi hỏi đối với Thư ký Toà án quân sự các cấp là phải được đào tạo nguồn Thẩm phán. Làm được như vậy sẽ là dịp tốt để thực hiện việc quy hoạch cán bộ, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán Toà án quân sự. Nhưng khi thực hiện việc luân chuyển cán bộ Toà án quân sự cần có chính sách bảo đảm cho Thẩm phán chuyển từ nơi này tới nơi khác mà không gây xáo trộn tới cuộc sống của bản thân và gia đình họ.
Bốn là, tiêu chuẩn về sức khoẻ. Nội dung tiêu chuẩn này đòi hỏi Thẩm phán Toà án quân sự phải có đủ sức khoẻ phù hợp với cấp bậc, chức vụ được giao và không có dị tật, dị hình làm ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ của Thẩm phán.
1.3. Tiêu chuẩn Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự các cấp và Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương.
Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự các cấp, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương là những người được bổ nhiệm trong số các Thẩm phán Toà án quân sự cùng cấp. Họ vừa có nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp mình, vừa có nhiệm vụ quản lý và chỉ huy hoạt động của Toà mình. Chính những đặc điểm đó, đòi hỏi tiêu chuẩn Chánh án, Phó Chánh án, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương phải có thêm các tiêu chuẩn khác so với Thẩm phán Toà án quân sự cùng cấp. Quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, thì ngoài các tiêu chuẩn của Thẩm phán, người lãnh đạo Toà án quân sự các cấp còn phải: Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với Chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách pháp luật, thuyết phục và tổ chức thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Gương mẫu về đạo đức lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập họp quần chúng, đoàn kết cán bộ. Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý. Đã học tập có hệ thống ở các trường của Đảng, Nhà nước và trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả1.
Cụ thể cần quy định thêm tiêu chuẩn của các chức danh nêu trên như sau:
-
Tiêu chuẩn Chánh án Toà án quân sự Trung ương là tốt nghiệp Học viện Quân sự Chính trị hoặc Học viện Quốc phòng, đã qua và làm tốt một trong các chức vụ Phó Chánh án Toà án quân sự Trung ương, Trưởng phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương hoặc Chánh án Toà án quân sự quân khu.
-
Tiêu chuẩn Phó Chánh án Toà án quân sự Trung ương là tốt nghiệp Học viện Chính trị Quân sự hoặc Học viện Quốc phòng, đã qua và làm tốt chức vụ Trưởng phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương hoặc Chánh án Toà án quân sự quân khu.
-
Tiêu chuẩn Trưởng phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương là tốt nghiệp Học viện Chính trị Quân sự, đã qua và làm tốt chức vụ Phó phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương hoặc Chánh án Toà án quân sự quân khu.
- Tiêu chuẩn Phó phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương là tốt nghiệp Học viện Chính trị Quân sự, đã qua và làm tốt chức vụ Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương hoặc Phó Chánh án Toà án quân sự quân khu.
- Tiêu chuẩn Chánh án Toà án quân sự quân khu là tốt nghiệp Học viện Quân sự Chính trị, đã qua và làm tốt chức vụ Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng nghiệp vụ Toà án quân sự Trung ương, Phó Chánh án Toà án quân sự quân khu.
- Tiêu chuẩn Phó Chánh án Toà án quân sự quân khu là tốt nghiệp Học viện Quân sự Chính trị, đã qua và làm tốt chức vụ Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự khu vực, Phó phòng nghiệp vụ hoặc Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương.
- Tiêu chuẩn Chánh án Toà án quân sự khu vực là tốt nghiệp Học viện Quân sự Chính trị, đã qua và làm tốt cương vị Phó Chánh án Toà án quân sự khu vực hoặc Thẩm phán Toà án quân sự quân khu.
- Tiêu chuẩn Phó Chánh án Toà án quân sự khu vực là tốt nghiệp trung cấp chính trị (tiêu chuẩn này đã có ở mỗi sỹ quan khi tốt nghiệp trường đào tạo sỹ quan), đã qua và làm tốt chức vụ Thẩm phán Toà án quân sự quân khu hoặc đã làm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực được hai năm.
Theo cách đề cập trên về tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo Toà án quân sự thì sẽ xảy ra khả năng một số Thẩm phán Toà án quân sự cấp trên được bổ nhiệm làm Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự cấp dưới. Họ đang làm Thẩm phán Toà án quân sự cấp trên và đương nhiên là họ đủ tiêu chuẩn Thẩm phán Toà án quân sự cấp dưới. Vậy thủ tục bổ nhiệm đối với họ có cần phải qua các bước tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự cấp dưới sau đó mới bổ nhiệm vào chức vụ lãnh đạo hay không? Theo chúng tôi thì cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu và nếu được thì chỉ cần bổ nhiệm thẳng chức vụ lãnh đạo mà không cần phải làm hai bước. Muốn vậy, thì phải sửa đổi các văn bản pháp luật khác, chẳng hạn ở các văn bản luật tố tụng cũng nên quy định Chánh án, Phó Chánh án án Toà án là người tiến hành tố tụng.
Với những lý do trên, chúng tôi tiếp tục đề nghị sửa đổi các Điều 4, 16, 17 và 18 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân như sau11:
“Điều 4. Công dân Việt nam trung thành với Tổ quốc, Hiến pháp và Pháp luật nước Cộng ho à Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính , gương mẫu chấp hành pháp luật, có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ và có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán, được cử hoặc bầu làm Hội thẩm“.
“Điều 16. Công dân Việt nam có đủ tiêu chuẩn qui định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ đại học luật, có thời gian công tác pháp luật từ tám năm trở lên, đã qua và làm tốt chức vụ Thẩm phán toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, quân chủng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, nếu là sỹ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương“
“Điều 17. Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn qui định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ đại học luật, có thời gian công tác pháp luật từ sáu năm trỏ lên, đã qua và làm tốt chức vụ Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, Thẩm phán, Thư ký, Chuyên viên Toà án nhân dân tối cao hoặc Thẩm phán Toà án quân sự khu vực, Thẩm phán, Thư ký, Trợ lý nghiên cứu Toà án quân sự Trung ương, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nếu là sỹ quan quân đội tại ngũ, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương”.
“Điều 18. Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có trình độ đại học luật, có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, đã qua và làm tốt chức vụ Thư ký Toà án nhân dân cấp huyện, Thẩm phán, Thư ký Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Thư ký Toà án quân sự khu vực, Thẩm phán, Thư ký Toà án quân sự cấp quân khu, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Nếu là sỹ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.”
Trong các điều luật đề nghị sửa đổi nêu trên có một điểm chung đối với Thẩm phán Toà án quân sự các cấp là “Nếu là sỹ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương (Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực).” Vậy, có cần phân biệt cấp bậc quân hàm của Thẩm phán Toà án quân sự các cấp hay không? Theo chúng tôi, thì cần thiết phải phân biệt cấp bậc quân hàm của Thẩm phán Toà án quân sự các cấp. Bởi vì, ngoài các quy định về thẩm quyết xét xử của Toà án các cấp theo tội và địa điểm xảy ra vụ án theo Điều 145-146 Bộ luật tố tụng hình sự, thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự các cấp còn được quy định theo dấu hiệu “cấp bậc, chức vụ” của bị cáo khi phạm tội hoặc khí bị khởi tố bị can, cụ thể như sau: “Toà án quân sự khu vực có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự mà bị cáo khi phạm tội hoặc khi bị khởi tố có quân hàm từ cấp thiếu tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ Phó Chỉ huy trưởng Trung đoàn hoặc tương đương trở xuống.
Toà án quân sự quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án mà người phạm tội là quân nhân có quân hàm từ trung tá đến đại tá hoặc có chức vụ từ Chỉ huy trưởng Trung đoàn và tương đương đến Phó chỉ huy trưởng Sư đoàn, Phó Cục trưởng và tương đương.
Và Toà án quân sự Trung ương có thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án mà người phạm tội là quân nhân có quân hàm cấp tướng hoặc là người có chức vụ Chỉ huy trưởng Sư đoàn, Cục trưởng hoặc cấp tương đương trở lên”. Nhưng theo quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua ngày 9 tháng 6 năm 2000, thì thù tục xét xử sở chung thẩm không còn. Do vậy, có thể nói là Toà án quân sự quân khu sẽ xét xử cả những đối tượng phạm tội là quân nhân có quân hàm cấp tướng, người có chức vụ là Sư đoàn trưởng, Cục trưởng hoặc cấp tương đương trở lên.
Hơn nữa, trong xét xử Toà án cũng phải đấu tranh với tội phạm. Cho nên, cần phải bố trí người Thẩm phán có trình độ, năng lực, kinh nghiệm sống và cấp bậc quằn hàm tương xứng và nếu được thì phải cao hơn người phạm tối mới bảo đảm cho việc đấu tranh với tội phạm có kết quả cao. Đồng thời như đã phân tích ở trên về tiêu chuẩn Thẩm phán, thì Thẩm phán Toà án quân sự cấp trên là người đã từng là Thẩm phán Toà án quân sự cấp dưới. Do đó, đương nhiên khi được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự cấp trên, thì họ sẽ có điều kiện để thăng quân hàm lên cấp cao hơn. Vấn đề còn lại là việc quy định về cấp bậc quân hàm của Thẩm phán Toà án quân sự nên ghi nhận ở văn bản nào? Trong Pháp lệnh hay ở văn bản của Bộ Quốc phòng? Theo chúng tôi thì nên quy định ở văn bản của Bộ Quốc phòng theo quy định của Luật sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam. Bởi vì, nếu đề cập trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì sẽ rất dài. Thẩm phán Toà án quân sự là một loại Thẩm phán tương đương với Thẩm phán Toà án nhân dân được bổ nhiệm để xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự. Và vì họ là sỹ quan quân đội nên việc tuyển chọn, sử dụng theo Luật sỹ quan nên cần được quy định về việc bố trí cấp bậc quân hàm phù hợp với từng cấp Thẩm phán Toà án quân sự dưới dạng văn bản hướng dẫn áp dụng Luật sỹ quan quân đội là chính xác.
1.4. Nhiệm kỳ của Thẩm phán Toà án quân sự các cấp cũng như nhiệm kỳ của Thẩm phán Toà án nhân dân là năm năm tính từ ngày bổ nhiệm. Nếu cứ năm năm lại một lần làm hồ sơ tái nhiệm Thẩm phán, thì từ khi được bổ nhiệm lần đầu đến khi nghỉ hưu mỗi Thẩm phán Toà án quân sự phải có 5-6 nhiệm kỳ (tương đương với 5-6 bộ hồ sơ). Trong khi chúng ta đang tiến hành cải cách thủ tục hành chính thì việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự nói riêng và Thẩm phán Toà án nhân dân nói chung một lần là cần thiết. Bởi vì: Thứ nhất, là không phải tuyển chọn nhiều lần đối với một người đang làm tốt nhiệm vụ của mình và do vậy sẽ làm cho họ yên tâm cồng tác mà khỏi lo không được tái nhiệm. Thứ hai, là khắc phục dược tình trạng ngồi chờ tái nhiệm mà án thì nhiều tạo sự quá tải đối với các Thẩm phán khác. Trong khi đòi hỏi chất lượng xét xử án càng phải được nâng cao và thời gian chuẩn bị xét xử lại rất khắt khe, thì việc để Thẩm phán hết nhiệm kỳ “ngồi chờ tái nhiệm” và Thẩm phán đương nhiệm làm việc quá sức thì không nên! Và thứ ba, là việc bổ nhiêm Thẩm phán một lần suốt đời sẽ là một cơ chế hữu hiệu để bảo đảm cho “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo phá p luật”. Điều này rất có nghĩa đối với những Thẩm phán Toà án Hành chính khi họ đã từng ra quyết định huỷ bỏ quyết định hành chính của cán bộ cơ quan hành chính. Nay hồ sơ tái nhiệm họ lại phải thông qua Đảng uỷ nơi có Đảng uỷ viên, Thường vụ... đã từng bị Thẩm phán bác quyết định. Đồng thời cũng tạo cho Thẩm phán độc lập mà không sợ khi không làm theo ý kiến chỉ đạo “không lành mạnh” của Chánh án Toà án...
Riêng đối với Thẩm phán Toà án quân sự thì việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án theo nhiệm kỳ không có nghĩa là hết nhiệm kỳ thì Thẩm phán mới nghỉ. Việc nghỉ hưu, nghỉ chính sách của Thẩm phán Toà án quân sự được điều chỉnh bởi Luật sỹ quan quân đội. Nếu đến tuổi nghỉ hưu, thì đang còn nhiệm kỳ cũng nghỉ. Do vậy, vấn đề bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự theo nhiệm kỳ năm năm chỉ có ý nghĩa là sau năm năm nhìn lại, kiểm điểm xem xét xem họ còn xứng đáng là Thẩm phán Toà án quân sự (theo các tiêu chuẩn do Pháp luật quy định), thì làm hồ sơ tái nhiệm. Nếu chỉ như vậy thì không cần thiết, bởi vì theo Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, thì Thẩm phán Toà án quân sự sẽ bị miễn nhiệm, cách chức bất cứ lúc nào nếu có vi phạm tiêu chuẩn Thẩm phán hoặc tiêu chuẩn sỹ quan.
2. BỔ NHIỆM, NHẬN CHỨC, THUYÊN CHUYỂN THẨM PHÁN TOÀ ÁN QUÂN SỰ
2.1. Bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự.
Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự, người được bổ nhiệm phải trải qua các bước tuyển chọn và bổ nhiệm. Việc tuyển chọn Thẩm phán Toà án quân sự được thực hiện bởi các Hội đồng tuyển chọn sau: Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương do Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm chủ tịch. Các thành viên khác của Hội đồng là đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ưỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Hội Luật gia. Thực tiễn hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương đã hoàn thành tốt nhiệm vụ và đã tuyển chọn, đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm hàng trăm lượt Thẩm phán Toà án nhân dân và Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương đảm bảo đúng quy trình và chất lượng. Và góp phần làm cho Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự Trung ương hoàn thành nhiệm vụ theo chức năng.
Tuy nhiên, với tổng số là 5 người, Hội đồng lại làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Cho nên, nếu vắng hai thành viên là Hội đồng không thể nhóm họp được, lý do là các thành viên là đại diện của các Bộ, Ngành bận nhiều công việc, khó bố trí thời gian. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, theo chúng tôi nên tăng số thành viên của Hội đồng lên thành bảy người. Nghĩa là bổ sung thêm hai thành viên nữa. Trong đó có: Một là Chánh án Toà án quân sự Trung ương và một là Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao. Sỏ dĩ chúng tôi đề cập hai người cụ thể trên là vì, họ là những người quản lý trực tiếp hoạt động xét xử của các Toà án nhân dân và Toà án quân sự nên có thể giúp Hội đồng tuyển chọn người làm Thẩm phán sát đúng với trình độ năng lực và phẩm chất của người được chọn.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực do bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Chủ tịch. Các thành viên khác là đại diện Toà án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Chấp hành Trung ương Hội Luật gia Việt Nam. Cũng như Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh... do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm chủ tịch gồm 5 thành viên. Do vậy, cũng cần nghiên cứu bổ sung hai thành viên nữa: Một là Chánh án (hoặc Phó Chánh án) Toà án quân sự Trung ương và một là Vụ trưởng Vụ Quản lý Toà án địa phương Bộ Tư pháp hoặc Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Toà án nhân dân Tối cao nếu Luật Tổ chức Toà án nhân dân được sửa đổi thao hướng Toà án nhân dân Tối cao quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức.
Về đối tượng tuyển chọn, Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán do Bô trưởng Bộ Tư pháp làm Chủ tịch có nhiệm vụ tuyển chọn và đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực. Như vậy, Hội đồng tuyển chọn này có quyền tuyển chọn hai cấp Thẩm phán là Thẩm phán Toà án cấp tỉnh và Thẩm phán Toà án cấp huyện. Thực tiễn Hội đồng này đã làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Do vậy, theo chúng tôi thì đồng thời với việc bổ nhiệm Thẩm phán một lần (không có nhiệm kỳ) cần giao luôn cho Hội đồng này tuyển chọn luôn cả Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Làm được như vậy sẽ bỏ được 61 Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đang tồn tại ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với tổng số là 305 người (bằng 61 Hội đồng x5 người). Đồng thời khắc phục được một số hạn chế cùa việc tổ chức các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là: không đảm bảo sự thống nhất nhận thức về các tiêu chuẩn Thẩm phán giữa các Hội đồng tuyển chọn ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương dẫn tới trường hợp hai người có cùng điều kiện như nhau nhưng ở Hội đồng này thì cho là đủ tiêu chuẩn và Hội đồng khác thì ngược lại; Do số lượng đề nghị bổ nhiệm nhiều, các địa phương đề nghị vào các thời điểm khác nhau và để tránh rơi vào tình trạng “lắt nhắt” nên phải tập hợp lại để trình Chù tịch nước bổ nhiệm theo từng đợt, dẫn đến việc bổ nhiệm Thẩm phán chậm làm ảnh hưởng tới tiến độ giải quyết án ở các Toà án; Nhiều uỷ viên Hội đồng tuyển chọn (không phải là cán bộ Toà án, Sở Tư pháp) nên không am hiểu về đội ngũ Thẩm phán do đó chưa phát huy được tác dụng. Việc tham gia Hội đồng tuyển chọn của họ nặng về tính hình thức và để cho có cơ cấu.
2.2. Thủ tục tuyển chọn và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự cũng như Thẩm phán Toà án nhân dân được quy định tại Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 10/5/1993 của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Thủ tục tuyển chọn và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự bao gồm các bước:
Bước 1, chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự. Hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự gồm các giấy tờ: Một bản sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan quản lý hồ sơ, lý lịch gốc cùa người đó; Một đơn xin được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán; Các bản sao văn bằng, chứng chỉ về trình độ chuyên môn pháp luật, trình độ lý luận chính trị, ngoại ngữ; Phiếu khám sức khoẻ và các tài liệu khác liên quan đến việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán; Và văn bản nhận xét của cơ quan nơi người đó công tác theo các tiêu chuẩn Thẩm phán.
Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự do Bộ Quốc phòng đảm nhiệm. Cụ thể: Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu chuẩn bị hồ sơ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, Toà án quân sự khu vực đối với những người đang là cán bộ (Thẩm phán, Thư ký) Toà án quân sự quân khu và Toà án quân sự khu vực; Chánh án Toà án quân sự Trung ương chuẩn bị hồ sơ bó nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương và hồ sơ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu đối với những người đang là cán bộ Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương. Đối với những hồ sơ này phải được thông qua và lấy ý kiến của Đảng uỷ Tổng cục Chính trị. Còn các hồ sơ do Chánh án Toà án quân sự quân khu chuẩn bị phải được thông qua và lấy ý kiến của Đảng uỷ Quân khu trước khi gửi về Toà án quân sự Trung ương. Toà án quân sự Trung ương phải tổng hợp và báo cáo Bộ Quốc phòng thông qua Cục Cán bộ về hồ sơ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự trước khi gửi các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.
Với quy trình chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị tuyển trọn nêu trên, thì việc tuyển chọn Thẩm phán Toà án quân sự luôn bảo đảm chặt chẽ về thủ tục và chất lượng người được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự. Do vậy, chưa có Thẩm phán Toà án quân sự nào bị miễn nhiệm vì lý do sức khoẻ hoặc hoàn cảnh cá nhân, bị cách chức do vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán.
Bước hai, tuyển chọn người để bổ nhiệm làm Thẩm phán. Việc tuyển chọn người để bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự cũng giống như tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân và được tiến hành đối với từng người một, theo trình tự: Một thành viên Hội đồng trình bày các tài liệu có trong hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn; Các thành viên Hội đồng phát biểu ý kiến; Hội đồng tuyển chọn biểu quyết công khai bằng cách giơ tay; Thành viên của Hội đồng tuyển chọn nếu không đồng ý tuyển chọn người được đề nghị, thì có quyền bảo lưu ý kiến của mình và ý kiến đó phải được ghi vào biên bản cùng lý do cùa việc bảo lưu đó.
Bước ba, trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự. Việc trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự được thực hiện chung với Thẩm phán Toà án nhân dân tuỳ theo từng đợt trình Chủ tịch nước. Nghĩa là không có việc trình Chủ tịch nước thành đợt riêng với danh sách bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự. Chánh án Toà án nhân dân tối cao - Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước danh sách những người được tuyển chọn làm Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương. Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Chủ tịch nước danh sách những người được tuyển chọn làm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, Toà án quân sự khu vực.
Bước bốn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự. Việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự được thực hiện bởi “Quyết định của Chủ tịch nước về việc bổ nhiêm Thẩm phán Toà án nhân dân”. Đó là quyết định chung đối với những người được bổ nhiệm làm Thẩm phán. Do vậy, trong quyết định chỉ nêu được bao nhiêu “ông bà có tên trong danh sách kèm theo giữ chức vụ Thẩm phán Toà án” nhân dân tỉnh, huyện (cụ thể) hoặc Toà án quân sự cụ thể nào. Ví dụ: Tại Điều 1 Quyết định số 182/QĐ-CNT ngày 14/12/1999 của Chủ tịch nước về việc bổ nhiệm chức vụ Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ghi:
“Bổ nhiệm:
1. 73 ông, bà có tên trong danh sách kèm theo giữ chức vụ Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc các tỉnh Bắc Giang, Hà Nam, Lâm Đồng, Bình Thuận, Đồng Nai, Khánh Hoà, Phú Yên, Cà Mau, Đồng Tháp, Yên Bái, Bắc Ninh, Hải Dương và thành phố Hải Phòng;
2. 13 ông có tên trong danh sách kèm theo giữ chức vụ Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và khu vực thuộc Quân khu 2, Quân khu 3, Quân khu Thủ đô”.
Ở đây có một số vấn đề cần bàn về hình thức và nội dung của Quyết định bổ nhiệm Thẩm phán. Chúng tôi sẽ trình bày cụ thể ở phần sau khi nói về việc nhậm chức và thuyên chuyển Thẩm phán Toà án quân sự.
Như đã trình bày ở các phần trên, theo pháp luật hiện hành thì chỉ có Chủ tịch nước có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm Thẩm phán. Thời gian từ khi lập hồ sơ tuyển chọn đến khi có quyết định bổ nhiệm thường kéo dài trên 6 tháng, ảnh hưởng tới hoạt động xét xử của các Toà án. Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi nên phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng: Chủ tịch nước chỉ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao và Thẩm phán Toà án Quân sự Trung ương; các Thẩm phán còn lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc Chánh án Toà án nhân dân Tối cao (phụ thuộc và việc sửa đổi Luật Tổ chức Toà án nhân dân) bổ nhiệm. Cả nước chỉ cần tổ chức 2 Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán là: Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao do Chánh án Toà án nhân dân Tối cao làm Chủ tịch Hội đồng và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương. Thành phần Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương có thể mở rộng hơn và có thể mời dự thính một số Chánh án Toà án nhân dân dị phương để tham khảo ý kiến khi cần thiết.
2.3. Nhậm chức và thuyên chuyên Thẩm phán Toà án quân sự.
Thủ tục nhậm chức Thẩm phán Toà án quân sự chưa được quy định cụ thể bằng văn bản. Hình thức nhậm chức Thẩm phán Toà án quân sự là việc nhận quyết định bổ nhiệm Thẩm phán của Chủ tịch nưốc. Nhưng ai là người trao quyết định, có tổ chức thành nghi thức buổi lễ trao quyết định hay không? Những nội dung này chưa được quy định cụ thể, cho nên có Quân khu tổ chức lễ trao quyết định rất trịnh trọng và Tư lệnh Quân khu trao cho Thẩm phán quyết định bổ nhiệm Thẩm phán. Ngược lại có nơi lại không tổ chức hội nghị hoặc lễ trao quyết đình mà việc trao quyết định diễn ra rất úi xùi, chỉ như việc giao nhận công văn, tài liệu. Quyết định được trao ở đây là bản sao quyết định chứ không phải là bản gốc kèm theo bản danh sách tên Thẩm phán được bổ nhiệm. Do quyết định bổ nhiệm Thẩm phán là quyết định tập thể, cho nên Thẩm phán nhận được bản sao quyết định bổ nhiệm và bản trích sao danh sách bổ nhiệm Thẩm phán phần có tên Thẩm phán được bổ nhiệm. Xem về hình thức thì Quyết định bổ nhiệm Thẩm phán xấu hơn rất nhiều “Thiếp Chúc mừng năm mới” của Chủ tịch nước. Theo chúng tôi, cấp có thẩm quyền cần nghiên cứu để quyết định bổ nhiệm Thẩm phán được giao cho Thẩm phán làm bằng bìa cứng mầu đỏ, mặt ngoài in hình Quốc huy, mặt trong ghi nội dung quyết định bổ nhiệm Thẩm phán, giống như bằng Tiến sĩ hiện nay. Nhưng để tiết kiệm, thì cần thực hiện đồng thời với việc bổ nhiệm Thẩm phán một lần.
Về nghi thức trao quyết định, theo chúng tôi thì buổi lễ công bố và trao quyết định bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn có ý nghĩa động viên, khích lệ danh dự của Thẩm phán và những người chưa được bổ nhiệm. Qua đó làm cho người Thẩm phán Toà án quân sự tự xác định trách nhiệm của mình. Đồng thời cũng làm cho bộ đội và những người khác nhận thức được ý nghĩa “Nhân danh Nhà nước” của Thẩm phán. Cho nên, cần tổ chức lễ công bố và trao quyết định bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự một cách long trọng. Lễ công bố và trao quyết định bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, Toà án quân sự khu vực nên tổ chức ở Hội trường Bộ Tư lệnh quân khu trước sự chứng kiến của cán bộ, sỹ quan công tác tại Quân khu Bộ. Tham dự và trao quyết định bổ nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự nào có đại diện Bộ Tư lệnh quân khu và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán hoặc lãnh đạo Toà án quân sự Trung ương.
Việc thuyên chuyển Thẩm phán Toà án quân sự được quy định tại Điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân như sau: “Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án quân sự này đến Toà án quân sự khác cùng cấp”. Nghiên cứu nội dung Quyết định bổ nhiệm Thẩm phán thấy khi được bổ nhiệm chức vụ Thẩm phán, thì họ là Thẩm phán của một Toà án cụ thể ví dụ Thẩm phán Toà án quân sự Quân khu 2. Vậy, khi được chuyển sang một Toà án quân sự khác cùng cấp họ có phải là Thẩm phán Toà án quân sự nơi họ được chuyển đến không? Nếu không là Thẩm phán Toà án quân sự nơi Thẩm phán Toà án quân sự chuyển đến, thì việc chuyển đó không có ý nghĩa. Bởi vì, thuyên chuyển Thẩm phán ở đây có thể là chuyển hẳn từ biên chế của Toà án này sang Toà án khác hoặc là cử đi công tác ở một Toà án khác cùng cấp để tham gia giải quyết một số vụ án. Như vậy, ở đây có sự mâu thuẫn giữa quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân với Luật Tổ chức Toà án nhân dân. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và để giải quyết mâu thuẫn trên thì phải sửa đổi Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cho phù hợp với Luật Tổ chức Toà án nhân dân. Nội dung sửa đổi theo chúng tôi là không quyết định bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cụ thể như hiện nay mà bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, Thẩm phán Toà án quân sự cấp khu vực. Nếu làm được như vậy, thì việc thuyên chuyển Thẩm phán Toà án quân sự từ Toà án này sang Toà án quân sự khác cùng cấp sẽ đơn giản và cơ động để bảo đảm giải quyết án của những Tòa án có nhiều án.
3. MIỄN NHIỆM, CÁCH CHỨC THẨM PHÁN TOÀ ÁN QUÂN SỰ
3.1. Miễn nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự. Vấn đề miễn nhiệm được đề cập tại Điều 24 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, nhưng đối tượng bị miễn nhiệm ở đây là Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự các cấp. Vậy, có đặt ra vấn đề miễn nhiệm Thẩm phán nói chung và Thẩm phán Toà án quân sự nói riêng hay không? Điều kiện và thủ tục miễn nhiệm Thẩm phán là như thế nào?
Miễn nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự là việc Chủ tịch nước quyết định một Thẩm phán đương nhiệm không tiếp tục làm công việc của Thẩm phán. Việc miễn nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự phải được đặt ra khi: Thẩm phán Toà án quân sự được điều động đến đơn vị khác theo yêu cầu nhiệm vụ; Khi được nghỉ hưu theo chế độ bảo hiểm xã hội; Vì lý do sức khoẻ không bảo đảm thực hiện nhiệm vụ hoặc vì lý do hoàn cảnh cá nhân mà Thẩm phán có đơn đề nghị.
Thủ tục miễn nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự cũng cần được quy định trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán là cơ quan có nhiệm vụ xem xét đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự. Và Chánh án Toà án nhân dân tối cao có quyền đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, Toà án quân sự khu vực. Nhưng các nội dung này chưa được quy định trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Chúng tôi đề nghị quy định thêm nhiệm vụ của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trong việc đề nghị miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán bằng cách như sau:
Sửa đổi lại khoản 1 Điều 20 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân như sau: ‘T. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán có nhiệm vụ tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm; Xem xét những trường hợp Thẩm phán được điều động công tác, được nghỉ chế độ, vì lý do sức khoẻ, hoàn cảnh cá nhân hoặc Thẩm phán vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán và trình Chủ tịch nước miễn nhiệm, cách chức”.
Sửa đổi khoản 2 các Điều 21, 22 và 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân bằng cách thêm vào một nội dung mới đặt sau điểu a như sau:
“Điều 21
1.
2. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a -
b - Xem xét những trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương được điều động đến làm việc tại các cơ quan, tổ chức khác theo yêu cầu nhiệm vụ, công vụ; được nghỉ hưu theo chế độ bảo hiểm xã hội; hoặc vì lý do sức khoẻ, hoàn cảnh cá nhân theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước miễn nhiệm.
c- (Là nội dung điểm b hiện nay).
Điều 22.
1.
2. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực vó nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a-
b- Xem xét những trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực được điều động đến làm việc tại các cơ quan, tổ chức khác theo yêu cầu nhiệm vụ, công vụ; được nghỉ hưu theo chế độ bảo hiểm xã hội; hoặc vì lý do sức khoẻ, hoàn cảnh cá nhân theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và trình Chủ tịch nước miễn nhiệm.
c- (Là nội dung điểm b hiện hành).
Điều 23.
1.
2. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a-
b- Xem xét những trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được điều động đến làm việc tại các cơ quan, tổ chức khác theo yêu cầu nhiệm vụ, công vụ; được nghỉ hưu theo chế độ bảo hiểm xã hội; hoặc vì lý do sức khoẻ, hoàn cảnh cá nhân theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và trình Chủ tịch nước miễn nhiệm.
c- (Là nội dung điểm b hiện hành)”.
3.2. Cách chức Thẩm phán Toà án quân sự
Cách chức Thẩm phán là một hình thức kỷ luật đối với Thẩm phán. Theo quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, thì Thẩm phán bị cách chức khi vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán. Người không còn đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, đạo đức để tiếp tục làm Thẩm phán là: “Người đã bị kết án về tội cố ý không phụ thuộc vào việc đã được xoá án hay chưa; Người bị kết án về tội vô ý nhưng chưa được xoá án; Người vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức gây ảnh hưởng xấu hoặc mất uy tín trong nhân dân; Người có người thân thích ruột thịt như cha, mẹ, vợ, chồng, con cùng sống trong gia đình mà họ có những việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có hệ thống”iv.
Trong bốn lý do cách chức Thẩm phán có ba lý do thuộc về lỗi trực tiếp của cá nhân Thẩm phán và một lý do không thuộc về lỗi trực tiếp của cá nhân Thẩm phán là trường hợp họ có người thân thích cùng sống trong một gia đình vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có hệ thống. Theo chúng tôi, thì việc quy định lý do này là lý do để cách chức Thẩm phán là không ổn. Bởi vì: Một là, theo nguyên tắc ai làm - nấy chịu, thì không thể bắt Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về hành vi mà người khác thực hiện khi họ là người có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Hai là, quy định như vậy có nghĩa là đòi hỏi đối với một Thẩm phán phải cao hơn đòi hỏi đối với ông Chủ tịch tỉnh, ông Bộ trưởng hoặc Uỷ viên Trung ương Đảng. Điều này là không công bằng vì vợ, con những người có chức vụ nêu trên phạm tội thì họ đâu bị miễn nhiệm! Chúng tôi chưa thấy điều lệ Đảng hoặc Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hôi đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân quy định. Cho nên, chúng tôi đề nghị không coi trường hợp này là lý do cách chức Thẩm phán. Có chăng, thì coi đó là lý do hoàn cảnh cá nhân ảnh hưởng tới uy tín của Thẩm phán nên cần phải miễn nhiệm Thẩm phán.
Việc quy định tại các Điều 21, 22, và 23 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân lý do cách chức là: “... vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán...”, theo chúng tôi thì chưa chính xác. Cần thay bằng cụm từ “vi phạm pháp luật không còn đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán”. Có như vậy, thì nội dung giải thích lý do cách chức Thẩm phán tại Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 15/10/1993 cuả Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân mới lôgích.
Cũng cần phân biệt trường hợp Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự các cấp bị cách chức Chánh án, Phó Chánh án thì họ vẫn còn là Thẩm phán. Bởi vì quyết định bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án là quyết định độc lập so với quyết định bổ nhiệm Thẩm phán. Và một hành vi vi phạm không thể bị xử lý kỷ luật bằng hai hình thức cùng một lúc.
4. HỘI THẨM QUÂN NHÂN TOÀ ÁN QUÂN SỰ
4.1. Hội thẩm quân nhân là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án.
Căn cứ vào tính chất “tổ chức”, có thể chia Toà án (các cơ quan xét xử cùa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) thành hai loại: Toà án nhân dân và Toà án quân sự. Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, được tổ chức trong quân đội. Hội thẩm làm nhiệm vụ những vụ án thuộc thẩm quyền của Thẩm phán Toà án quân sự. Như vậy, Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự là người được cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự.
Căn cứ vào cấp tổ chức Toà án quân sự, có thể chia Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự thành ba loại: Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương; Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu, quân chủng; Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm quân nhân, chế độ đối với Hội thẩm quân nhân, tiêu chuẩn Hội thẩm quân nhân, thủ tục bầu, cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm quân nhân được quy định tại Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, và Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự.
Nhiệm vụ của Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự là tham gia xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự, theo sự phân công của Chánh án.
Hội thẩm quân nhân tham gia xét xử các vụ án nhằm mục đích: Bảo đảm tính dân chủ của hoạt động xét xử, thu hút đông đảo quần chúng tham gia vào công tác xét xử của Toà án; Giúp cho việc xét xử của Toà án quân sự được chính xác, sát với thực tế, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự là cán bộ kiêm nhiệm. Họ là cán bộ các đơn vị được cử làm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự. Do vậy, qua xét xử, Hội thẩm quân nhân là người có vai trò tích cực trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở đơn vị mình. Mặt khác, cũng qua xét xử Hội thẩm quân nhân thấy được nguyên nhân, điều kiện xảy ra vụ án mà họ đã xét xử. Từ đó tìm ra những biện pháp để loại trừ nguyên nhân, điều kiện có thể xảy ra tôi phạm ở đơn vị mình.
Hội thẩm quân nhân có quyền: Được tham gia xét xử các vụ án, theo sự phân công của Chánh án; Khi xét xử, Hội thẩm quân nhân ngang quyền với Thẩm phán, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Được bồi dưỡng về nghiệp vụ và tham gia hội nghị tổng kết công tác xét xử của Toà án quân sự.
Tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Toà án quân sự là quyền của Hội thẩm quân nhân. Bởi vì, theo quy định tại Điều 160 Bộ luật tố tụng hình sự, thì: “Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp vụ án có tính chất ngiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm quân nhân”. Như vậy, để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Chánh án Toà án quân sự các cấp phải thành lập Hội đồng xét xử với thành phần như quy định tại Điều 160 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuỳ tính chất vụ án mà số Hội thẩm quân nhân là hai hoặc ba người. Còn con người cụ thể đó là ai? thì còn phụ thuộc vào cách tổ chức và việc người Hội thẩm quân nhân đó có tham gia xét xử được hay không. Hiện nay có trường hợp Toà án phải đi thương lượng với Thủ trưởng đơn vị quản lý Hội thẩm và bản thân Hội thẩm. Có trường hợp để tiện liên hệ nghiên cứu hồ sơ, đi xét xử, Toà án quân sự chỉ mời những Hội thẩm ở các đơn vị đóng quân gần trụ sở Toà án quân sự. Và cũng có trưòng hợp, án xảy ra ờ đơn vị nào hoặc gây thiệt hại cho đơn vị nào, thì Toà án quân sự mời ngay Hội thẩm quân nhân ở đơn vị đó tham gia xét xử vụ án... Tất cả những trường hợp nêu trên đều dẫn tới hệ quả là: Hội thẩm mới được cử thì ngại nên hay viện các lý do để từ chối việc tham gia xét xử; Có Hội thẩm tham gia xét xử nhiều, có Hội thẩm rất ít tham gia xét xử thậm chí là không tham gia xét xử vụ án nào trong cả nhiệm kỳ (mà lý do không phải là do không có án).
Để đảm bảo công bằng và khách quan, chúng tôi đề nghị lần lượt bố trí các Hội thẩm quân nhân tham gia xét xử các vụ án của Toà án quân sự. Chỉ chấp nhận việc không tham gia xét xử với các lý do trùng với các lý do phải thay đổi người tiến hành tố tụng như quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự hoặc lý do sức khoẻ, lý do đặc biệt khác. Muốn làm được như vậy, thì phải thiết lập cơ chế quan hệ giữa Toà án quân sự với Thủ trưởng các đơn vị nơi Hội thẩm quân nhân công tác theo hướng Thủ trưởng đơn vị phải bảo đảm vô điều kiện để Hội thẩm tham gia xét xử (vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau).
Hiện nay có Toà án nhân dân đã phân công Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử bằng cách lập danh sách các Hội thẩm trên một hình tròn, dùng mũi tên (như kim đồng hồ) cho quay và dừng lại chỉ vào tên Hội thẩm nào, thì Hội thẩm đó phải tham gia xét xử. Nếu vì lý do công tác ở cơ quan, đơn vị thì Thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải ký tên đóng dấu vào văn bản đề nghị Toà án hoãn cho Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử lần này. Và như vậy, thì rất hãn hữu xảy ra lần thứ hai Hội thẩm từ chối tham gia xét xử hoặc Thủ trưởng cơ quan đơn vị không bố trí thời gian cho Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử. Nếu chăng, các Toà án quân sự cũng cần nghiên cứu và áp dụng hình thức phân công Hội thẩm quân nhân tham gia xét xử như một số Toà án nhân dân đang làm.
Khi xét xử, Hội thẩm quân nhân ngang quyền với Thẩm phán Toà án quân sự, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không những là quyền của Hội thẩm quân nhân. Mà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nó còn là một nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự. Nguyên tắc này được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Theo chúng tôi, thì chỉ cần ghi nhận nguyên tắc này cùng với một số nguyên tắc khác về hoạt động của Toà án ở ba văn bản đó là: Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Toà án nhân dân. Đối với Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân, thì ghi ở một văn bản nữa là Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự. Do vậy, việc nghiên cứu để đưa nội dung Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân là điều cần đặt ra xem xét. Nhưng theo chúng tôi thì nên đưa nội dung Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân vào Luật tổ chức Toà án nhân dân. Làm được như vậy sẽ bớt đi một lượng văn bản, điều luật trùng nhau và tạo thành một vãn bản pháp luật hoàn chỉnh về tổ chức Toà án nhân dân.
Được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết công tác xét xử của Toà án là quyền của Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự. Để thực hiện quyền này của Hội thẩm quân nhân, Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự quy định: Chánh án Toà án quân sự Trung ương có nhiệm vụ tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân và cán bộ Toà án của các Toà án quân sự; Và Chánh án Toà án quân sự quân khu và tương đương có nhiệm vụ tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân và cán bộ Toà án quân sự cấp mình và Toà án quân sự cấp dướiv. Thực tiễn hoạt động, các Toà án quân sự đã làm tốt công tác bồi dưỡng Hội thẩm quân nhân. Hình thức bồi dưỡng Hội thẩm quân nhân thường được các Toà án quân sự thực hiện là bồi dưỡng tập trung và bồi dưỡng tại chức. Hình thức bồi dưỡng tập trung là trực tiếp đến Toà án để tổ chức lớp bồi dưỡng hoặc mời Hội thẩm tham gia các buổi hội thảo nghiệp vụ, học tập văn bản mới. Toà án quân sự Trung ương đã ban hành cuốn “Tài liệu bồi dưỡng Hội thẩm quân nhân” năm 1991 và 1998 tái bản lần thứ nhất. Tài liệu này được in trên 2000 cuốn và cấp cho từng Hội thẩm quân nhân. Các Toà án quân sự căn cứ vào tài liệu nêu trên để mở lớp bồi dưỡng Hội thẩm tập trung, thời gian từ 3-5 ngày. Với nội dung là các bài: “Hội thẩm quân nhân các Toà án quân sự; Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự; Tội phạm và cấu thành tội phạm; Hình phạt; Các biện pháp tịch thu và bồi thường trong xét xử của các Toà án quân sự; Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự; Công tác nghiên cứu hồ sơ lập kế hoạch xét hỏi và xét hỏi tại phiên toà; Thủ tục tố tụng tại phiên toà sơ thẩm”. Tài liệu bồi dưỡng Hội thẩm quân nhân thực sự có giá trị hướng dẫn nghiệp vụ cho Hội thẩm quân nhân, đặc biệt là Hội thẩm quân nhân lần đầu được cử. Như vậy, là thiếu một tài liệu thống nhất bồi dưỡng chuyên sâu cho các Hội thẩm sau khi đã bồi dưỡng tài liệu phát hành năm 1998! Theo chúng tôi, tài liệu bồi dưỡng chuyên sâu nên có các nội dung: Các tội phạm cụ thể thường xảy ra trong quân đội; Chương V - Phần thứ ba Bô luật dân sự về “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”; Những biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự; Chuẩn bị xét xử... Với nội dung như vậy thì chỉ cần mở 2 lớp bồi dưỡng tập trung thường xuyên đối với một Hội thẩm trong mỗi nhiệm kỳ. Lớp thứ nhất được tổ chức vào đầu nhiệm kỳ và lớp thứ hai tổ chức sau lớp thứ nhất hai năm. Chứ không nhất thiết năm nào cũng phải mở lớp bồi dưỡng Hội thẩm quân nhân. Còn việc mời dự hội thảo nghiệp vụ, rút kinh nghiệm chuyên môn thì cần làm thường xuyên.
Việc bồi dưỡng Hội thẩm tại chức được các Toà án quân sự thực hiện thường xuyên, bằng cách gửi cho Hội thẩm quân nhân đầy đủ các văn bản liên quan như: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư Liên tịch hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự, luật tố tụng hình sự...
Chế độ đối với Hội thẩm quân nhân được quy định tại các Điều 26 - 27 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, cụ thể là: Hội thẩm được cấp giấy chứng minh Hội thẩm, được hưởng phụ cấp khi làm nhiệm vụ theo quy định của Nhà nước; Đối với Hội thẩm là quân nhân, công nhân, nhân viên quốc phòng thì thời gian làm nhiệm vụ Hội thẩm được tính vào thời gian làm việc ở cơ quan, đơn vị.
4.2. Tiêu chuẩn Hội thẩm quân nhân.
Tiêu chuẩn Hội thẩm quân nhân được quy định tại Điều 29 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân như sau: Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có uy tín với nhân dân nơi mình cơ trú, công tác, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thì có thể được cử làm Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao hoặc được bầu làm Hội thẩm Toà án nhân dân địa phương; nếu là quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng đang phục vụ trong quân đội và có đủ tiêu chuẩn quy định tại điều này thì có thể được cử làm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự. Nghiên cứu nội dung Điều 29 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, chúng tôi thấy: Tiêu chuẩn Hội thẩm quân nhân bao gồm tiêu chuẩn chung được quy định tại Điều 4 Pháp lênh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân và tiêu chuẩn riêng đối với Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự. Tiêu chuẩn chung được quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân là tiêu chuẩn chung đối với cả Thẩm phán và Hội thẩm Toà án. Tiêu chuẩn đó là: “Công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”. Tiêu chuẩn riêng đối với Hội thẩm quân nhân được quy định tại Điều 29 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân là: “Có uy tín với nhân dân nơi mình cư trú, công tác, kiên quyết bảo vệ lợi ích cùa Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là quân nhân, công nhân, nhân viên quốc phòng đang phục vụ trong quân đội”.
-
Quân nhân, công nhân, nhân viên quốc phòng đang phục vụ trong quân đội là đối tượng có thể tuyển chọn và cử làm Hội thẩm quân nhân. Với quy định là “quân nhân... đang phục vụ trong quân đội”, thì về lý thuyết, cả sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp và hạ sỹ quan, chiến sỹ (lính nghĩa vụ) đều có thể được cử làm Hội thẩm quân nhân. Nếu như cử hạ sỹ quan, chiến sĩ làm Hội thẩm quân nhân, thì đương nhiên là nhiệm kỳ của họ chỉ là một năm rưỡi hoặc hai năm là cùng. Bởi vì, không phải họ nhập ngũ vào quân đội là được cử ngay mà phải huấn luyện tân binh, bố trí về các đơn vị... cũng phải mất sáu tháng mới ổn định công tác. Và nếu sau đó được cử làm Hội thẩm quân nhân thì họ chỉ còn công tác một năm rưỡi nữa là hết nghĩa vụ quân sự (hai năm). Và như vậy là lại phải làm thủ tục cử Hội thẩm mới.
Nhưng trong lịch sử Toà án quân sự tính từ ngày có Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự (ngày 03/01/1986) đến nay chưa có hạ sỹ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng nào được cử làm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế quân đội và bảo đảm chất lượng Hội thẩm quân nhân. Do vậy, chúng tôi đề nghị chỉ nên quy định đối tượng tuyển cử làm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự là sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam đang phục vụ tại ngũ trong quân đội.
- Có uy tín với nhân dân nơi mình công tác, cư trú là tiêu chuẩn về phẩm chất của Hội thẩm Toà án nhân dân. Do vậy, để xác định một người được đề cừ là Hội thẩm Toà án nhân dân, cơ quan có thẩm quyền phải lấy ý kiến của nhân dân nơi họ cư trú và ý kiến của nhân dân (cán bộ, công nhân, nhân viên) cơ quan, tổ chức nơi họ công tác, làm việc. Và như thế thì thiếu một trong hai loại ý kiến trên thì không được chọn để cử làm Hội thẩm Toà án nhân dân. Nếu vậy, thì có lẽ chỉ có người nào đang làm việc ở cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang mới có thể được cử làm Hội thẩm Toà án. Điều này không hợp lý! Và đối với Hội thẩm quân nhân thì lại càng khó thực hiện vì chỉ lấy được ý kiến của cán bộ, chiến sĩ đơn vị nơi công tác chứ không lấy được ý kiến nơi cư trú của họ. Mặc dù nơi cư trú của quân nhân theo Điều 52 Bộ luật dân sự là nơi đơn vị cùa quân nhân đó đóng quân. Do vậy, chúng tôi đề nghị sửa lại nội dung Điều 29 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân theo hướng: nếu là sỹ quan quân đội tại ngũ, có uy tín với đơn vị nơi mình công tác... thì có thể được cử làm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự.
- Kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng là tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị - pháp lý của Hội thẩm quân nhân. Theo chúng tôi, thì dù khác nhau về câu chữ nhưng về nội dung thì tiêu chuẩn này chính là tiêu chuẩn được quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân là “có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Mặt khác, ngoài quy định tại Điều 29 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân không còn quy định nào phân biệt tiêu chuẩn Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự các cấp. Vậy có cần phân biệt tiêu chuẩn Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự không? Nếu cần thì căn cứ vào tiêu chí nào? Theo chúng tôi, thì việc phân biệt tiêu chuẩn Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự các cấp là cần thiết. Mục đích của sự phân cấp tiêu chuẩn Hội thẩm quân nhân là bảo đảm chất lượng của Hội thẩm và để người được cử làm Hội thẩm quân nhân làm tốt nhiệm vụ của mình theo thẩm quyền của Toà án quân sự. Bởi vì, thẩm quyền xét xử về người của các Toà án quân sự có sự phân biệt rõ ràng: Toà án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự mà bị cáo khi phạm tội hoặc khi bị khởi tố có quân hàm từ thiếu tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ Phó Chỉ huy trưởng Trung đoàn trở xuống; Và Toà án quân sự quân khu xét xử tất cả các cấp còn lại từ trung tá trở lên đến cấp tướng. Cho nên, việc bố trí một Hội đồng xét xử có quân hàm tương xứng là cần thiết. Và người có quân hàm tương xứng cũng có nghĩa là có trình độ, kinh nghiệm sống đủ để đấu tranh với bị cáo...
Tiêu chí để phân biệt Hội thẩm quân nhân, theo chúng tôi là cấp bậc quân hàm, chức vụ công tác. Tiêu chí này cũng cần nghiên cứu để quy định trong văn bản “Thông tư của Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự”.
4.3. Nhiệm kỳ của Hội thẩm quân nhân là năm năm, kể từ ngày được cử.
Việc quy định nhiệm kỳ của Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự là cần thiết và bảo đảm ý nghĩa của việc Hội thẩm quân nhân tham gia xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự. Theo quy luật phát triển của cán bộ quân đội, thì sỹ quan không như công nhân, viên chức các cơ quan dân sự. Họ có thể được điều động ở đơn vị này sang đơn vị khác, được bổ nhiệm làm cán bộ cấp cao hơn... Do vậy, để kịp thời bổ sung Hội thẩm quân nhân cho các Toà án quân sự trong trường hợp có Hội thẩm được điều động đi các đơn vị thuộc các quân khu khác thì việc quy định nhiệm kỳ là cần thiết. Và để ít phải xảy ra sự xáo trộn, thì nên tuyển chọn trong số sỹ quan còn thời gian công tác ổn định ở các đơn vị trong quân khu từ năm năm trở lên để cử làm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự.
5. THỦ TỤC CỬ, MIỄN NHIỆM, BÃI NHIỆM HỘI THẨM QUÂN NHÂN
5.1. Thủ tục cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự được quy định tại Điều 30 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân.
- Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và do uỷ ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Do luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm, nghĩa là Toà án quân sự Trung ương sẽ không còn hội thẩm. Cho nên chúng tôi không phân tích thủ tục cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương.
- Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu do Chủ nhiệm Tổng cục Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan Chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục. Căn cứ vào hướng dẫn của Toà án quân sự Trung ương thì thủ tục cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu gồm các bướcvi:
Bước 1. Chánh án Toà án quân sự quân khu căn cứ vào số lượng Hội thẩm quân nhân được cử, xác định cơ cấu phù hợp với thực tế các đơn vị thuộc quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục đóng quân trên địa bàn quản hạt của Toà án quân sự quân khu. Báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Chủ nhiệm Chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục về dự kiến của Toà án quân sự quân khu và triển khai cho các đơn vị cấp dưới của cấp quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục phát hiện và lập danh sách tuyển cừ Hội thẩm quân nhân.
Bước 2. Căn cứ vào đề nghị của các đơn vị, Chánh án Toà án quân sự quân khu cùng Trưởng phòng cán bộ quân khu, quân chủng, quân đoàn, tổng cục tổng hợp danh sách, hoàn tất hồ sơ và lập tờ trình của Chủ nhiệm Chính trị quân khu, quân chủng, quân đoàn, tổng cục đề nghị Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cử sỹ quan đơn vị mình làm Hội thẩm Toà án quân sự quân khu. Vì một quân đoàn, quân chủng, tổng cục có người được cử làm Hội thẩm Toà án quân khu này, có người được cử làm Hội thẩm Toà án quân khu khác, cho nên trong tờ trình phải ghi cụ thể họ tên và đề nghị cử làm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu nào.
Bước 3. Căn cứ vào hồ sơ cử Hội thẩm quân nhân do Chánh án Toà án quân sự quân khu cùng Cục Chính trị các quân khu, quân đoàn, quân chùng, tổng cục lập, Chánh án Toà án quân sự Trung ương thống nhất với Cục Cán bộ danh sách. Và lập tờ trình đề nghị Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ra quyết định cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự từng quân khu.
Bước 4. Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ra quyết định cử Hội thẩm quân nhân. Quyết định cử Hội thẩm quân nhân được giao cho Toà án quân sự quân khu nơi có Hội thẩm quân nhân được cử. Chánh án Toà án quân sự quân khu có trách nhiệm sao gửi cho Cục Chính trị đã đề nghị cử Hội thẩm quân nhân, đơn vị (cơ quan cán bộ) nơi Hội thẩm quân nhân công tác. Đơn vị có trách nhiệm trao quyết định cử Hội thẩm quân nhân cho người được cử.
- Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm Chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương. Cũng theo hướng dẫn của Toà án quân sự Trung ương, thì thủ tục cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự bao gồm các bướcvii:
Bưới 1. Chánh án Toà án quân sự khu vực căn cứ vào số lượng Hội thẩm quân nhân được cừ xác định cơ cấu Hội thẩm cho các đầu mối đơn vị cấp sư đoàn đóng quân trong địa bàn quản hạt. Cùng cơ quan chính trị cấp sư đoàn hướng dẫn cấc đơn vị lập danh sách và hoàn tất hồ sơ người được được tuyển cử.
Bước 2. Căn cứ vào đề nghị của cơ quan chính trị sư đoàn, Chánh án Toà án quân sự quân khu cùng Trưởng phòng cán bộ quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục tổng hợp danh sách. Và lập từ trình đề nghị Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục ra quyết định cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực.
Bước 3. Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục ra quyết định cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực. Quyết định cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực được giao cho Toà án quân sự khu vực, người được cử làm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực và đơn vị nơi Hội thẩm công tác.
Với các bước tuyển cử như trên các Toà án quân sự đã tuyển chọn và đề nghị cấp có thẩm quyền cử được một đôi ngũ Hội thẩm quân nhân đủ về số lượng và có chất lượng cao. Những đồng chí Hội thẩm Toà án quân sự các cấp đã góp phần cùng các Toà án quân sự hoàn thành tốt nhiệm vụ.
5.2. Miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự.
Miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân là việc cấp có thẩm quyền quyết định một Hội thẩm quân nhân đương nhiệm không tiếp tục làm nhiệm vụ của Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự. Khi hết nhiệm kỳ, thì Hội thẩm quân nhân đương nhiên không còn là Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự nếu không được tái nhiệm. Lý do của việc miễn nhiệm là: lý do sức khoẻ hoặc lý do khác không đảm bảo cho Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ. Thủ tục miễn nhiệm không được luật quy định chi tiết. Nhưng theo chúng tôi, thì vì thẩm quyền miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân được quy định là ai có quyền cử thì người đó có quyền miễn nhiệm, cụ thể là: uỷ ban Thường vụ Quốc hôi miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương; Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu; Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng và cấp tương đương miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực. Cho nên, những người có thẩm quyền đề nghị cử Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự cấp nào thì có nhiệm vụ đề nghị miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự cấp đó. Cụ thể là: chánh án Toà án nhân dân tối cao sau khi thống nhất ý kiến với Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương. Chánh án Toà án quân sự quân khu sau khi thống nhất ý kiến với cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục có quyền đề nghị Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị miễn nhiệm Hội thẩm Toà án quân sự quân khu. Chánh án Toà án quân sự khu vực sau khi thống nhất ý kiến với cơ quan chính trị sư đoàn có quyền đề nghị Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực.
Bãi nhiệm Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự là trường hợp người có thẩm quyền bãi miễn chức vụ Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khi họ không còn xứng đáng làm Hội thẩm. Theo Điều 28 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, thì Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất, đạo đức, hành vi vi phạm pháp luật không còn xứng đáng làm Hội thẩm. Thẩm quyền và thủ tục bãi nhiệm Hội thẩm quân nhân được quy định tại Điều 30 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân cũng giống như thẩm quyền và thủ tục miễn nhiệm Hội thẩm Toà án quân sự.
5.3. Trách nhiệm quản lý và sử dụng Hội thẩm quân nhân thuộc về Chánh án Toà án quân sự nơi Hội thẩm quân nhân làm nhiệm vụ và thủ trưởng đơn vị nơi Hội thẩm công tác thường xuyên.
Theo Điều 31 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự, thì “các đơn vị có người được cử làm Hội thẩm quân nhân có trách nhiệm tạo điều kiện cho Hội thẩm quân nhân làm nhiệm vụ xét xử”. Như vậy, thủ trưởng đơn vị nơi có người được cử làm Hội thẩm quân nhân có trách nhiệm quản lý quân số (quản lý con người) đối với Hội thẩm quân nhân. Cho nên, khi Hội thẩm quân nhân của đơn vị mình chuyển đơn vị công tác, nghỉ chế độ, đi học... mà không còn có thể tiếp tục làm nhiệm vụ của Hội thẩm quân nhân, thì phải báo cho cơ quan chính trị cấp trên và Toà án quân sự biết. Nếu có hướng dẫn của Toà án thì làm hồ sơ miễn nhiệm Hội thẩm quân nhân hoặc đề cử Hội thẩm quân nhân khác bổ sung. Đồng thời khi có yêu cầu của Toà án quân sự, thì thủ trưởng đơn vị phải tạo điều kiện cho Hội thẩm quân nhân tham gia xét xử, dự tập huấn hoặc dự tổng kết công tác xét xử của Toà án.
Chánh án Toà án quân sự nơi Hội thẩm quân nhân được cử phải kết hợp chặt chẽ với cơ quan chính trị và thủ trưởng đơn vị quản lý Hội thẩm quân nhân. Kịp thời cùng các cơ quan đơn vị làm thủ tục miễn nhiệm Hội thẩm đã nghỉ chế độ, chuyển công tác khác và đề nghị cử bổ sung Hội thẩm mới. Hàng năm phải có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự. Căn cứ vào những vụ án đã thụ lý, tổ chức Hội đồng xét xử và triệu tập Hội thẩm quân nhân đến nghiên cứu hồ sơ vụ án và tham gia xét xử vụ án.
QUY CHẾ THẨM PHÁN
TRONG PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TS. Dương Thanh Mai
Phó Viện trưởng Viện NCKH pháp lý
Đại hội Đảng lần thứ IX và Hiến pháp 1992 (sửa đổi) khẳng định đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Trong Nhà nước pháp quyền đó, một trong những đặc trưng quan trọng nhất là có một nền tư pháp của dân, do dân, vì dân độc lập, trong sạch. Chính vì vậy, cùng với việc cải cách tổ chức hệ thống toà án và các luật tố tụng làm cơ sở cho hoạt động xét xử, một trọng tâm của cải cách tư pháp chính là việc đổi mới, hoàn thiện quy chế Thẩm phán và nâng cao năng lực, chất lượng của đội ngũ Thẩm phán - những người “cầm cân, nảy mực”, bảo vệ công lý trong xã hội. Trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh thế giới và Việt Nam đang chủ động hội nhập quốc tế, khu vực, việc tham khảo kinh nghiệm về quy chế Thẩm phán ở các nước là điều rất cần thiết và hữu ích.
Do hạn chế về tư liệu tham khảo nên chuyên đề chỉ lựa chọn và giới thiệu về quy chế Thẩm phán của 3 nước có những mối quan hệ hợp tác quan trọng với nước ta và đại diện cho hai truyền thống pháp luật lớn trên thế giới, cụ thể là Hoa Kỳ - đại diện cho truyền thống thông luật (Common Law) và Trung Quốc, Nhật Bản đại diện cho các nước thuộc khu vực Châu Á theo truyền thống luật dân sự (Civil Law), trong đó Nhật bản là nước có tiếp thu và kết hợp nhiều yếu tố luật tố tụng của Common Law.
Các nội dung được nghiên cứu gồm: tiêu chuẩn và phương thức bổ nhiệm, bầu Thẩm phán; các chế độ đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và kỷ luật đối với Thẩm phán; các yêu cầu và quy tắc đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán.
THẨM PHÁN CỦA NHẬT BẢN
Điều 76 Hiến pháp của Nhật Bản quy định: “Tất cả các Thẩm phán độc lập trong việc thể hiện lương tâm của mình và chỉ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”.
1. Hệ thống Toà án của Nhật Bản gồm: Toà án tối cao, các Toà án cấp cao, các Toà án quận, huyện và các Toà án rút gọn, các Toà án hôn nhân và gia đình.
Toà án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất, gồm Chánh án và 14 Thẩm phán[28], mỗi năm Toà án tối cao xét xử trung bình khoảng 4000 vụ.
Chánh án Toà án tối cao do Hoàng đế bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Nội các và không theo nhiệm kỳ. Để đảm bảo uy tín của Chánh án, cứ 10 năm Nhật Bản tổ chức trưng cầu dân ý (bỏ phiếu tín nhiệm) đối với Chánh án. Nếu trên 50% ý kiến thể hiện sự bất tín nhiệm thì buộc Chánh án phải từ chức.
Các Thẩm phán Toà án tối cao do Nội các bổ nhiệm và Hoàng đế phê chuẩn. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án tối cao là: kiến thức pháp lý sâu rộng, có tầm nhìn chiến lược, ở độ tuổi từ 40 trở lên, 10/14 Thẩm phán Toà án tối cao phải có ít nhất 10 năm từng là Chánh án, Thẩm phán Toà án cấp cao hoặc là thứ trưởng, thư ký hay nghiên cứu viên cao cấp của Bộ Tư pháp; nếu không thì phải có 20 năm trở lên đã từng là Thẩm phán Toà án rút gọn, là công tố viên hoặc luật sư. Tuổi về hưu của Thẩm phán Toà án tối cao là 70.
Toà án cấp cao (hay còn gọi là Toà án phúc thẩm khu vực) đóng tại 8 thành phố lớn và có thẩm quyền xét xử trên lãnh thổ của mình. Một số Toà án cấp cao có các phân tòa. Mỗi Toà án cấp cao có Chánh án và Thẩm phán. Trên toàn quốc có khoảng 280 Thẩm phán Toà án cấp cao. Chánh án và Thẩm phán Toà án cấp cao đều do Nội các bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị cùa Chánh án Toà án tối cao. Nhiệm kỳ của Thẩm phán Toà án cấp cao là 10 năm và có thể được tái bổ nhiệm. Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm Chánh án Toà án cấp cao phải do Hoàng đê phê chuẩn. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm làm Chánh án và Thẩm phán Toà án cấp cao là: kiến thức pháp lý sâu, rộng; đã có ít nhất 10 năm từng là Thẩm phán Toà án rút gọn, công tố viên, luật sư, các cán bộ nghiên cứu của Toà án, giáo viên của Học viện nghiên cứu và đào tạo luật hoặc Học viện nghiên cứu và đào tạo cán bộ Toà án, các giáo sư, phó giáo sư luật học ở các trường đại học hay là thư ký, cán bộ nghiên cứu của Bộ Tư pháp.
Toà án quận, huyện được thành lập ở 50 quận, huyện với 203 phân toà trên toàn quốc. Tổng cộng có khoảng 910 Thẩm phán và 530 Thẩm phán trợ lý. Việc xét xử tại Toà án quận, huyện do một Thẩm phán hay Hội đồng xét xử gồm 3 Thẩm phán thực hiện (trong Hội đồng chỉ được phép có một Thẩm phán trợ lý). Các Thẩm phán trợ lý không được chủ to ạ phiên toà, không được độc lập một mình ra các quyết định, bản án.
Toà án hôn nhân và gia đình được thành lập ở tất cả các quận, huyện với 200 Thẩm phán và 150 Thẩm phán trợ lý. Toà án hôn nhân và gia đình xét xử và ho à giải các vụ án liên quan đến hôn nhân và gia đình; các vụ liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em theo quy định của pháp luật và các vụ phạm tội của người chưa thành niên. Việc xét xử chủ yếu do một Thẩm phán đảm nhiệm trừ một số trường hợp do Hội đồng xét xử gồm 3 người thực hiện.
Toà án rút gọn rất phổ biến ở Nhật Bản với 810 Thẩm phán, có thẩm quyền xét xử các vụ kiện dân sự có giá trị dưới 300.000 yên; các vụ án hình sự với hình phạt tiền, hình phạt lựa chọn hoặc phạt tù dưới 3 năm kèm theo hình phạt cải tạo lao động.
2. Chế độ tuyển chọn và đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán:
Để đảm bảo chất lượng của đội ngũ Thẩm phán, công tố viên và luật sư- những người bảo vệ công lý, việc tuyển chọn và đào tạo ba chức danh này được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, cả về chuyên môn lẫn đạo đức, danh dự nghề nghiệp.
Trước tiên, tất cả những người đã có bằng cử nhân luật muốn trở thành Thẩm phán, công tố viên hay luật sư đều phải trải qua ba kỳ thi quốc gia do Bộ Tư pháp tổ chức với ba vòng thi:
- Vòng 1: Các thí sinh phải trả lời 60 câu hỏi trắc nghiệm về Hiến pháp, Luật hình sự, Luật dân sự. Trung bình mỗi năm có khoảng 25-30 nghìn người tham gia vòng thi này; Vòng 2: Các thí sinh đã đỗ ở vòng 1 sẽ tiếp tục thi viết 3 môn trên và thêm môn Luật thương mại, kỳ thi kéo dài 3 ngày;
- Vòng 3 - vòng chung kết dành cho những người đã đỗ ở vòng 2. Thí sinh phải qua kỳ thi vấn đáp 6 môn trong 6 ngày. Thường thì còn khoảng trên dưới 1000 người vào được đến vòng này và chỉ còn 500 người vượt qua được kỳ chung khảo này để vào học tại Trường đào tạo các chức danh tư pháp.
Thời gian học trong trường là 2 năm. Một điều đặc biệt, khác với một số nước là cả ba chức danh này đều được đào tạo nghề theo một chương trình giống nhau. Trong quá trình học, năng khiếu của mỗi cá nhân sẽ bộc lộ rõ hơn. Dựa trên kết quả học tập và nguyện vọng của mỗi cá nhân, nhu cầu của các cơ quan tư pháp, Chính phủ sẽ quyết định việc phân công những người tốt nghiệp kho á học về các Toà án, Viện công tố hay ra làm luật sư.
3. Chế độ đãi ngộ và chế độ kỷ luật:
Các Thẩm phán ở Nhật Bản được hưởng chế độ đãi ngộ thoả đáng. Mức lương khởi điểm của Thẩm phán là 300.000 yên. Đây là mức lương cao hơn nhiều so với mức lương của các cán bộ công chức Nhà nước khác (hệ số 1,7). Ngay cả sau khi về hưu thì Thẩm phán vẫn được hưởng lương như khi còn tại chức, điều đó giúp họ không phải lo toan về tương lai mà luôn tận tâm đảm bảo sự công bằng, liêm khiết trong khi thi hành công vụ.
Đội ngũ Thẩm phán, công tố viên và luật sư của Nhật Bản rất trong sạch, được nhân dân tôn kính và được xã hội coi là những người “không thể mua chuộc được”. Họ được đào tạo và rèn luyện theo tinh thần của võ sĩ đạo, sống và hành động vì nghĩa cả là chính.
Luật tố cáo Thẩm phán quy định chặt chẽ các căn cứ tố cáo hành vi phạm pháp của Thẩm phán và trình tự xem xét, xử lý tố cáo. Các căn cứ đó là “có hành vi trì trệ, buông lỏng, làm sai việc thi hành chức vụ của mình và làm mất thanh danh của người Thẩm phán một cách rõ ràng, nghiêm trọng”. Một uỷ ban riêng được thành lập để xem xét các đơn tố cáo đối với Thẩm phán; việc xem xét, truy tố Thẩm phán được thực hiện công khai theo pháp luật tố tụng hình sự; Thẩm phán bị truy cứu trách nhiệm có quyền mời luật sư biện hộ, được tranh luận công khai bằng lời nói.
THẨM PHÁN Ở CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA
1. Toà án nhân dân ở Trung Quốc được tổ chức theo 4 cấp Toà án và 2 cấp xét xử. Hệ thống Toà án gồm Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân địa phương (Toà án nhân dân cấp cao, Toà án nhân dân trung cấp và Toà án nhân dân sơ cấp) và các Toà án quân sự.
2. Về chế độ bổ nhiệm và bầu Thẩm phán .
Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu ra và chịu trách nhiệm báo cáo trước Đại hội ĐBND toàn quốc. Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là 5 năm và được bầu lại không quá hai nhiệm kỳ. Uỷ ban thường vụ Đại hội ĐBND toàn quốc bổ nhiệm các Phó Chánh án; Chánh và Phó Chánh toà; Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Chánh án Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân các cấp bầu ra và chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân. Ủy ban thường vụ Hội đồng nhân dân địa phương bổ nhiệm và miễn nhiệm các Phó Chánh án, Chánh toà và Phó Chánh toà, các Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương.
Các tố chất nghề nghiệp của Thẩm phán:
1. Trung thành với Tổ quốc, với nhân dân;
2. Biết và hiểu pháp luật, luôn tôn thời pháp luật theo tinh thần, khí phách của một “vệ đạo sĩ” và “tuẫn đạo sĩ”;
3. Lòng luôn chính nghĩa, công bằng và liêm khiết;
4. Có năng lực phân tích, phán đoán tốt và phương thức tư duy chính xác.
Nói tóm lại thì tố chất của người Thẩm phán là “Niên trưởng, kinh nghiệm, tinh anh”.
Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm làm Thẩm phán được quy định tại chương IV Luật Thẩm phán công bố năm 1995. Các tiêu chuẩn đó là:
1. Có quốc tịch nước CHND Trung Hoa;
2. Đủ 23 tuổi;
3. Ủng hộ Hiến pháp nước CHND Trung Hoa;
4. Có tố chất chính trị, nghiệp vụ cao, có phẩm hạnh tốt;
5. Có sức khoẻ tốt;
6. Tốt nghiệp cao đẳng luật hoặc các trường cao đẳng chuyên nghiệp khác nhưng có kiến thức về pháp luật, đã ra công tác đủ hai năm; nếu có học vị cử nhân luật thì đã công tác đủ một năm; có học vị thạc sĩ hay tiến sĩ luật thì có thể miễn quy định năm công tác.
Nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ Thẩm phán, Luật Thẩm phán quy định chế độ thi cử và sát hạch công khai đối với Thẩm phán. Việc thi cử công khai, nghiêm ngặt dựa vào tiêu chuẩn tài và đức nhằm lựa chọn trong số những người ưu tú có đủ điều kiện để làm Thẩm phán. Việc thi cử công khai thống nhất trong toàn quốc do uỷ ban bình chọn Thẩm phán thuộc Toà án nhân dân tối cao tiến hành. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, theo luật định, Thẩm phán phải qua các kỳ sát hạch thường xuyên và sát hạch hàng năm do Toà án nhân dân sở tại tổ chức. Nội dung sát hạch khá toàn diện: kết quả hoạt động xét xử, phẩm chất tư tưởng, trình độ lý luận và nghiệp vụ, thái độ công tác và tác phong Thẩm phán. Hình thức sát hạch khá phong phú và không giống nhau ở các Toà án, từ các cuộc thi vấn đáp đến các buổi điều khiển phiên toà, kiểm tra bản án đã tuyên...
Về số lượng, Trung Quốc có hơn 25 vạn Thẩm phán thuộc hơn 3000 Toà án, trung bình 4,8 vạn người dân có 1 Thẩm phán, trung bình mỗi Thẩm phán xử 21 vụ/năm (so với 300-400 vụ/1 Thẩm phán/năm ở Mỹ). Như vậy, số lượng Thẩm phán của Trung Quốc thuộc loại lớn nhưng chất lượng nghiệp vụ chưa cao, do đó, một hướng cải cách tư pháp hiện nay là nâng cao trình độ chuyên môn hoá và hiệu suất xét xử đảm bảo “ít mà tinh”. Để đáp ứng yêu cầu tập trung thời gian cho Thẩm phán làm công tác này, theo các nhà nghiên cứu thì cần có sự phân công rạch ròi, theo hướng tách Thẩm phán ra khỏi nhân viên hành chính hoặc nhân viên công tác tại phiên toà; thực hiện chuyên nghiệp hoá đội ngũ thư kỷ Toà án và xây dựng chế độ trợ lý Thẩm phán.
-
Các chế độ bảo đảm cho Thẩm phán:
Để thực thi tính độc lập và công bằng của tư pháp cần có những chế độ bảo đảm cho Thẩm phán về các mặt: địa vị, chức vụ, kinh tế... Cụ thể là:
-
Chế độ bảo đảm địa vị của Thẩm phán: Trung Quốc hiện nay vẫn áp dụng chế độ bầu và bổ nhiệm theo nhiệm kỳ. Việc miễn nhiệm Thẩm phán dựa trên nhưng lý do khá rộng như: không có quốc tịch CHND Trung Hoa; bị điều động ra khỏi Toà án đang làm; có sự thay đổi chức vụ và không cần giữ chức vụ cũ; qua sát hạch xác định là không xứng đáng chức vụ đang giữ; do lý do sức khoẻ không thể đảm nhận nhiệm vụ Thẩm phán; đủ tuổi về hưu; do vi phạm kỷ luật; phạm pháp, phạm tội không thể tiếp tục giữ chức vụ đó. Luật Thẩm phán quy định “chế độ nghỉ hưu của Thẩm phán căn cứ vào đặc điểm của công tác xét xử do Nhà nước quy định riêng”.
- Thẩm phán bị sa thải trong các trường hợp sau: qua sát hạch hàng năm mà liên tục 2 năm không đạt yêu cầu; không đủ năng lực đảm nhận công việc hiện tại nhưng lại không chịu nhận sự sắp xếp khác; bỏ việc hoặc nghỉ phép quá thời hạn liên tục trên 15 ngày hoặc quá 30 ngày/năm.
Như vậy có thể thấy rằng Trung Quốc vẫn chưa có được chế độ pháp lý bảo đảm địa vị cho Thẩm phán như ở nhiều nước (chế độ Thẩm phán suốt đời hoặc đến khi về hưu...).
-
Chế độ đảm bảo kinh tế cho Thẩm phán bao gồm: chế độ lương bổng cao (ở Mỹ, Thẩm phán Toà án tối cao liên bang thu nhập 177.500 đô la; ở Anh - Thẩm phán TATC có thu nhập tới 136.906 bảng Anh, cao hơn cả Thủ tướng); không giảm thu nhập bằng lương trong thời gian giữ nhiệm kỳ; chế độ hưu trí hậu hĩnh. Chương “Phúc lợi bảo hiểm lương” của Trung Quốc ghi nhận: thực hiện chê độ tăng lương niên hạn cho Thẩm phán, nếu có cống hiến đặc biệt có thể tăng lương trước niên hạn theo quy định, được hưởng các loại phụ cấp. Quan điểm của Chính phủ là phải triệt để thực hiện Luật Thẩm phán, quan tâm đời sống vật chất và tinh thần của gia đình và bản thân Thẩm phán nhằm tạo thành một cục diện mới - "không thể tham, không muốn tham và không dám tham”.
4. Chế độ tố cáo và xử phạt đối với Thẩm phán.
Luật Thẩm phán quy định ở một chương riêng về chế độ xử phạt đối với Thẩm phán khi họ phạm phải một trong những hành vi phạm pháp được liệt kê trong luật. Các hình thức xử phạt có thể là cảnh cáo, ghi lý lịch, giáng cấp, bãi miễn chức vụ, khai trừ, nếu hành vi cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan có trách nhiệm xem xét các đơn tố cáo Thẩm phán là Ủy ban thường vụ Đại hội ĐBND các cấp. Việc xử phạt hành vi vi phạm pháp luật của Thẩm phán vẫn do chính Toà án nơi Thẩm phán đó công tác phụ trách. Chính vì chưa có một cơ quan phụ trách riêng việc xử phạt với sự tham gia của các thành viên ngoài Toà án nên tính chất nội bộ, khép kín đã làm cho việc xử lý sai phạm của Thẩm phán chưa hiệu quả, còn mang tính hình thức, ví dụ hầu như các Toà án chưa xử lý việc Thẩm phán gặp riêng đương sự ngoài trụ sở Toà án. Trình tự xử phạt cũng như quyền kháng án của người vi phạm chưa được quy định cụ thể. Một vấn đề vẫn đang gây tranh luận là chế độ truy cứu trách nhiệm về án sai vì trong thực tiễn hoạt động của Toà án ở Trung Quốc vẫn chưa có được chế độ trách nhiệm cá nhân. Đối với những vụ án lớn, trước khi mở phiên toà, Thẩm phán được giao xét xử phải qua rất nhiều bước xin ý kiến phê duyệt án (Chánh toà, Chánh án, uỷ ban Thẩm phán và thậm chí cả Toà án cấp trên) dẫn đến tình trạng “người xử án không phán quyết án còn người phán quyết án lại không xử án”. Trong điều kiện đó, việc truy cứu trách nhiệm cá nhân Thẩm phán đối với án sai là việc làm rất khó khăn và khó đảm bảo sự công bằng.
THẨM PHÁN HOA KỲ
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một Nhà nước liên bang, do vậy, hệ thống Toà án khá phức tạp bao gồm các tiểu hệ thống: Toà án liên bang, Toà án của 50 bang, Toà án Columbia và Toà án của mỗi vùng lãnh thổ. Giữa các tiểu Quận hệ thống này có những điểm tương tự nhau đồng thời có những điểm khác biệt mà chính các luật gia của Hoa Kỳ có thể cũng không biết được hết. Chế định Thẩm phán cũng trong tình trạng như vậy.
1. Các phương pháp lựa chọn Thẩm phán:
Một trong những điểm tương đối khác biệt giữa Toà án các bang chính là phương pháp lựa chọn Thẩm phán và nhiệm kỳ của Thẩm phán. Có thể khái quát 3 phương pháp lựa chọn chính, tương đối phổ biến ở các bang mặc dù vẫn có những khác biệt nhỏ.
1.1. Phương pháp thứ nhất: bổ nhiệm Thẩm phán.
+ Tại Toà án Liên bang:
- Tất cả Thẩm phán của Toà án tối cao, Toà án Phúc thẩm và Toà án quận đều do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng nghị viện phê chuẩn. Các Thẩm phán này có nhiệm kỳ suốt đời (nghĩa là cho đến tận khi nào họ còn có thể làm việc được), trừ khi họ vi phạm pháp luật nghiêm trọng (điều III Hiến pháp); được bảo đảm không bị cắt giảm lương trong quá trình làm việc cũng như khi về hưu (theo Luật hưu trí, 1973).
- Các Thẩm phán ở các Toà chuyên trách (như Toà án thuế, Toà án giải quyết khiếu kiện) hoặc Thẩm phán được phân công các loại việc đặc biệt, việc phá sản...) cũng do Tổng thống bổ nhiệm nhưng không phải suốt đời mà theo các nhiệm kỳ có thời hạn tương đối dài (10-15 năm).
+ Tại Toà án bang:
- Một số bang cũng sử dụng phương pháp bổ nhiệm đối với một số hoặc tất cả Thẩm phán nhưng hầu như không có một bang nào lại áp dụng chế độ nhiệm kỳ suốt đời như ở Toà án liên bang. Thời hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán các bang có thể dài, ngắn khác nhau nhưng thường là kéo dài đến độ tuổi về hưu bắt buộc (thường là 70 tuổi).
- Về cách thức bổ nhiệm: Thông thường, các Thẩm phán, đặc biệt là Thẩm phán ở các Toà cấp cao của bang do Thống đốc bang bổ nhiệm; Thẩm phán các Toà án cấp thấp hơn thì có thể do người đứng đầu địa phương đó bổ nhiệm; ví dụ như Thị trưởng thành phố. Tại một số bang lại theo phương thức thành lập một Hội đồng gồm các luật sư hàng đầu của bang với nhiệm vụ đưa ra Danh sách các ứng cử viên để bổ nhiệm Thẩm phán theo nguyên tắc ít nhất có 3 ứng cử viên cho một chỗ trống. Thống đốc bang sẽ lựa chọn và bổ nhiệm trên cơ sở danh sách này. người ta cho rằng phương pháp này sẽ nâng cao được chất lượng của Thẩm phán và loại trừ được các phần tử cơ hội chính trị ra khỏi đội ngũ Thẩm phán.
1.2. Phương pháp thứ hai: Bầu Thẩm phán
Các Thẩm phán cũng được bầu giống như các công chức khác (Thị trưởng, Tổng công tố viên, các nghị sĩ...). Tại một số bang vừa có Thẩm phán bầu, vừa có Thẩm phán bổ nhiệm, một số bang khác lại chỉ có Thẩm phán bầu. Nhiệm kỳ của Thẩm phán bầu có thể chỉ 4 năm nhưng cũng có thể dài đến 15 năm, nhưng thường là Thẩm phán ở Toà án cấp cao thì nhiệm kỳ dài hơn.
Về cách thức bầu: trong số các bang theo chế độ bầu Thẩm phán thường có hai cách: thứ nhất, các ứng cử viên cho chức Thẩm phán được coi là không đảng phái, không có đảng chính trị nào đề cử và vận động cho ứng cử viên của mình; thứ hai, các ứng cử viên là do các đảng chính trị giới thiệu và ủng hộ.
1.3. Phương pháp thứ ba: Tổng hợp cả hai phương pháp trên.
Trước tiên, các Thẩm phán được bổ nhiệm sau đó một số năm, họ được đưa ra để “bầu tái tín nhiệm”: mặc dù không có ứng cử viên nào tranh cử nhưng cử tri có cơ hội và có quyền “bất tín nhiệm” đối với Thẩm phán đương nhiệm mà họ không thích.
2. Việc phân công xét xử của Thẩm phán.
Trong hệ thống Toà án liên bang, trừ các Thẩm phán hành chính mà người ta thường không tính là Thẩm phán vì họ là một bộ phận của hệ thống hành pháp, còn phần lớn Thẩm phán đều có thẩm quyền xét xử chung, họ có thể được giao xử bất cứ loại án nào đưa đến Toà án liên bang. Có tất cả 630 Thẩm phán liên bang tại 90 quận, mỗi bang có ít nhất một Toà án quận, một vài bang có tới 4 toà. Để xét xử phúc thẩm các bản án của Toà án quận có khoảng 170 Thẩm phán tại 12 Toà án phúc thẩm. Riêng các Thẩm phán tại các toà chuyên trách thì chỉ được xét xử các loại việc thuộc phạm vi thẩm quyền của Toà án mà họ được bổ nhiệm.
Trong hệ thống Toà án bang, xu hướng phân chia thẩm quyền rõ rệt hơn. Đối với các bang có Toà án thẩm quyền hạn chế thường phân chia thành Thẩm
phán chuyên xét xử hình sự và Thẩm phán chuyên xét xử dân sự. Cũng khá phổ biến ở các bang là có Toà án gia đình với thẩm quyền riêng xét xử các vụ ly hôn, nuôi con nuôi, nhận cha, mẹ cho con; ở một vài bang khác thêm cả các việc giám hộ, bảo lãnh. Tại một số bang tòa án gia đình xét xử luôn cả các vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên trong khi ở một số bang khác lại có Toà án người chưa thành niên riêng.
Cũng còn có những cách phân công xét xử khác tại các bang. Mỗi bang đều có Toà án khiếu kiện nhỏ với thủ tục đơn giản, nhanh đối với các vụ việc có giá trị trần từ $1000 đến $5000 (riêng bang Tennessee lên đến $15000) nếu khu vực thuộc thẩm quyền có dân số trên 700.000 người. Một số bang có Toà án xử các vụ vi phạm luật giao thông và hình sự ít nghiêm trọng. Thường thường, các bang đều thành lập Toà án xem xét các khiếu kiện đối với chính phủ, người kiện có quyền kháng cáo lên Toà án cấp cao hơn. Nhiều bang có hơn một cấp phúc thẩm, việc xem xét phúc thẩm ở cấp cao hơn chỉ được thực hiện khi chính toà này cho phép, thủ tục này được gọi certiorari.
Do tồn tại song song hai hệ thống xét xử - liên bang và bang - nên trong một số trường hợp, đương sự cần và có thể lựa chọn toà xét xử, ví dụ: phần lớn các vụ của Toà án liên bang, trừ các việc liên quan đến chính phủ liên bang, đều có thể để lại xử tại Toà án bang nếu các đương sự lựa chọn Toà án bang ngay từ khi bắt đầu vụ kiện. Nếu một bên đương sự không đồng ý thì họ có thể đề nghị chuyển ngay lại cho Toà án liên bang và yêu cầu này phải được thực hiện trong một thời gian ngắn. Một khi vụ việc đã đưa đến một Toà án liên bang thì nó có thể được chuyển đến một Toà án liên bang khác cho thuận tiện đối với các đương sự hoặc nhân chứng; cách thức “di án” này cũng được thực hiện trong nội bộ một bang nhưng không được giữa các bang hoặc giữa bang với liên bang. Trên thực tế, rất ít vụ án của các bang được xem xét tại Toà án liên bang, trừ các việc liên quan đến pháp luật liên bang và Hiến pháp liên bang.
Số lượng án hàng năm của các Toà án như sau[29]:
- Toà án liên bang: Khoảng 280.000 vụ dân sự và hình sự, khoảng 858.000 vụ phá sản (nhưng phần lớn đều được giải quyết không cần có sự can thiệp của Toà án).
- Toà án các bang: 27,5 triệu vụ dân sự và hình sự; 4,5 triệu vụ án gia đình; 1,7 triệu vụ án người chưa thành niên và hơn 55 triệu vụ án giao thông.
- Mặc dù số lượng của Toà liên bang ít hơn nhiều nhưng do tính chất phức tạp của phần lớn các vụ án đưa đến Toà liên bang nên cũng không thể kết luận ngay rằng gánh nặng xét xử của Toà án bang lớn hơn, chỉ biết rằng phần lớn các vụ án được xét xử tại các Toà án bang.
3. Các quy tắc mẫu về ứng xử của Thẩm phán:
Năm 1924, Hiệp hội luật sư Hoa kỳ đã thông qua Các chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán. Vào những năm 1960, Hội nghị Thẩm phán liên bang phát triển tiếp các chuẩn mực cho Thẩm phán liên bang. Ngay sau khi thông qua Bộ luật mẫu về trách nhiệm nghề nghiệp luật, Hiệp hội luật sư đã chỉ định một uỷ ban để xem xét lại các quy tắc về ứng xử cùa Thẩm phán. Đến năm 1990, Hiệp hội luật sư đã thay thế Các chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán bằng Các quy tắc mẫu về ứng xử của Thẩm phán. Đến nay đã có nhiều Toà án tối cao của các bang thông qua các chuẩn mực ứng xử mới của Thẩm phán dựa trên toàn bộ hay một phần của Các quy tắc mẫu năm 19,90. Lời nói đầu của Các quy tắc mẫu về ứng xử của Thẩm phán khẳng định Toà án giữ vai trò trung tâm trong khái niệm tư pháp và pháp quyền. Các Thẩm phán, từng cá nhân và tập thể Thẩm phán phải tôn trọng, tăng cường và duy trì niềm tin của xã hội đối với hệ thống tư pháp. Các quy tắc mẫu về ứng xử của Thẩm phán nhằm xác lập các chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán. Các chuẩn mực này phải được áp dụng một cách thống nhất với các quy định của hiến pháp, các đạo luật và các quyết định, bản án của Toà án trong từng trường hợp. Các chuẩn mực này tạo ra công cụ để điều chỉnh ứng xử của Thẩm phán thông qua các Uỷ ban kỷ luật đối với Thẩm phán.
Các thuật ngữ.
5 quy tắc:
1. Thẩm phán phải giữ gìn danh dự và tính độc lập của tư pháp.
2. Thẩm phán phải tránh mọi sự khiếm nhã và các biểu hiện khiếm nhã trong mọi hoạt động của mình.
3. Thẩm phán phải thực thi các bổn phận nghề nghiệp một cách khách quan, kiên trì, chuyên cần.
4. Thẩm phán phải hành xử trong các hoạt động ngoài giờ làm việc sao cho có thể hạn chế tối đa khả năng xung đột với các bổn phận nghề nghiệp.
5. Thẩm phán và các ứng cử viên Thẩm phán phải tránh mọi hoạt động chính trị không thích hợp.
Một số nội dung cụ thể:
Lời nói đầu khẳng định Toà án giữ vai trò trung tâm trong khái niệm tư pháp và pháp quyền. Các Thẩm phán, từng cá nhân và tập thể Thẩm phán phải tôn trọng, tăng cường và duy trì niềm tin của xã hội đối với hệ thống tư pháp. Các quy tắc mẫu về ứng xử cùa Thẩm phán nhằm xác lập các chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán. Các chuẩn mực này phải được áp dụng một cách thống nhất với các quy định của hiến pháp, các đạo luật và các quyết định, bản án của Toà án trong từng trường hợp. Các chuẩn mực này tạo ra công cụ để điều chỉnh ứng xử của Thẩm phán thông qua các Uỷ ban kỷ luật đối với Thẩm phán.
Quy tắc 1: Thẩm phán phải giữ gìn danh dự và tính độc lập của tư pháp.
Quy tắc 2: Thẩm phán phải tránh mọi sự khiếm nhã và các biểu hiện khiếm nhã trong hoạt động của mình.
A. Thẩm phán phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật, phải hành động ở mọi nơi, mọi lúc sao cho tăng thêm lòng tin của xã hội vào sự chính trực và sự khách quan của Toà án.
B. Thẩm phán phải không để cho các quan hệ gia đình, xã hội, chính trị và các quan hệ khác ảnh hưởng đến cách ứng xử của mình và đến bản án. Thẩm phán không được lạm dụng uy tín của nhiệm sở để mưu cầu lợi ích của cá nhân Thẩm phán hoặc của những người khác; không được truyền đạt hoặc để cho người khác truyền đạt ấn tượng rằng họ có vị trí đặc biệt có thể ảnh hưởng đến Thẩm phán.
C. Thẩm phán không được là thành viên của bất cứ tổ chức nào liên quan đến sự phân biệt, đối xử trên cơ sỏ sắc tộc, giới, tôn giáo hay nguồn gốc dân tộc.
Quy tắc 3: Thẩm phán phải thực thi các nghĩa vụ nghề nghiệp một cách khách quan, kiên trì và chuyên cần.
A. Các nghĩa vụ tư pháp chung: Các nghĩa vụ tư pháp là ưu tiên hàng đầu trong mọi hoạt động của Thẩm phán. Các nghĩa vụ này bao gồm mọi nghĩa vụ của cơ quan Toà án do luật định. Trong khi thực thi các nghĩa vụ này Thẩm phán cần phải tuân theo các chuẩn mực ứng xử.
B. Các trách nhiệm khi xét xử:
(1) Thẩm phán phải xem xét và giải quyết những việc được giao trừ những trường hợp không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao.
(2) Thẩm phán phải trung thành với luật pháp và hành động đúng thẩm quyền được trao, không bị lung lạc bởi các lợi ích của người cùng phe phái, bởi dư luận xã hội hay do sợ bị chỉ trích.
(3) Thẩm phán phải yêu cầu trật tự và ngăn nắp trong các quá trình tố tụng tại toà.
(4) Thẩm phán phải kiên nhẫn, tôn trọng và lịch sự đối với các đương sự, bồi thẩm viên, nhân chứng, luật sư trong các quá trình tố tụng do mình thực hiện trong khả năng nghề nghiệp đồng thời phải yêu cầu cách cư xử tương tự từ phía luật sư, các nhân viên của to à và mọi người khác có liên quan dưới sự điều hành và kiểm soát của Thẩm phán.
(5) Thẩm phán phải thực thi các nghĩa vụ xét xử của mình một cách khách quan, không định kiến. Thẩm phán không được bằng lời nói hay hành động trong quá trình thực thi nghĩa vụ để thể hiện thái độ thành kiến trên cơ sở mầu da, giới tính, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc, khiếm khuyết, tàn tật, tuổi tác, xu hướng tình dục, vị thế kinh tế - xã hội hay những lý do khác đồng thời không được cho phép nhân viên Toà án hoặc những người khác dưới quyền điều hành, kiểm soát của Thẩm phán được cư xử như vậy.
(6) Thẩm phán phải yêu cầu luật sư trong quá trình tố tụng trước to à không được bằng lời nói hay hành động thể hiện thái độ thành kiến trên cơ sở mầu da, giới tính, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc, khiếm khuyết, tàn tật, tuổi tác, xu hướng tình dục, vị thế kinh tế - xã hội hay những lý do khác đối với các đương sự, nhân chứng, luật sư đối tụng hoặc những người tham gia tố tụng khác. Điều 3B (6) này không cản trở tính hợp pháp của việc bào chữa trong những trường hợp mà màu da, giới tính, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc, khiếm khuyết, tàn tật, tuổi tác, xu hướng tình dục, vị thế kinh tế - xã hội hay những lý do khác là nội dung của vụ án.
(7) Thẩm phán phải thông báo cho mọi cá nhân có quyền lợi hợp pháp trong vụ án và cho luật sư của họ về quyền được tham dự và trình bày tại toà. Thẩm phán không được tự mình, cho phép hay cân nhắc những sự liên hệ, thông tin nào bên ngoài sự hiện diện của các bên có liên quan đến vụ án đang được xét xử trừ một số trường hợp (ví dụ như sự liên hệ đó là khẩn cấp, không liên quan trực tiếp đến nội dung vụ án và Thẩm phán tin rằng không có bên đương sự nào có thể thu lợi về tố tụng từ sự liên hệ đó...)
(8) Thẩm phán phải xem xét mọi vấn đề một cách nhanh chóng, hiệu quả và công bằng.
(9) Trong quá trình xét xử vụ án, Thẩm phán không được đưa ra bất cứ lời bình luận nào có thể ảnh hưởng đến kết quả của vụ án hoặc ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng hoặc những lời bình luận không chính thức có thể can thiệp rõ ràng đến sự công bằng của vụ án. Thẩm phán phải yêu cầu các nhân viên của Toà án dưới quyền điều hành và kiểm soát của mình hành xử tương tự như vậy. Điều này không cấm Thẩm phán đưa ra những tuyên bố trong khi thực thi các nghĩa vụ xét xử hoặc không cấm Thẩm phán giải thích cho công chúng biết về các thông tin thuộc tố tụng tại toà. Điều nay cũng không áp dụng đối với các quá trình tố tụng mà bản thân Thẩm phán là đương sự.
(10) Thẩm phán không được bình luận hay phê phán các bồi thẩm viên về lời kết tội của họ khác với quan điểm thể hiện tại phiên toà nhưng Thẩm phán có thể thể hiện sự đánh giá đối với các bồi thẩm viên vì sự đóng góp của họ đối với nền tư pháp và cộng đồng.
(11) Thẩm phán không được tiết lộ hay sử dụng vì bất cứ mục đích nào những thông tin không công khai mà mình có được trong thẩm quyền xét xử.
C. Các trách nhiệm hành chính:
(12) Thẩm phán phải hoàn thành một cách chuyên cần, khách quan các trách nhiệm hành chính và duy trì các thẩm quyền nghề nghiệp trong hành chính tư pháp; phải phối hợp với các Thẩm phán khác và các nhân viên Toà án trong các công việc hành chính của toà.
(13) Thẩm phán phải yêu cầu các nhân viên toà án và những người khác thuộc quyền điều hành và kiểm soát của Thẩm phán tuân thủ các tiêu chuẩn về trung thành và chuyên cần như đối với Thẩm phán và tránh thể hiện sự định kiến trong việc thực hiện các nghĩa vụ hành chính.
(14) Thẩm phán có quyền giám sát việc thực hiện xét xử của các Thẩm phán khác; phải áp dụng các biện pháp thích hợp để đảm bảo phân bổ nhanh chóng công việc và thực hiện đúng đắn các trách nhiệm xét xử của mình.
(15) Thẩm phán không được tạo ra những sự bổ nhiệm không cần thiết. Thẩm phán phải thực hiện quyền bổ nhiệm một cách khách quan trên cơ sở đánh giá đúng giá trị của công chức. Thẩm phán phải tránh chủ nghĩa gia đình và ưu đãi. Thẩm phán không được cho phép người được bổ nhiệm hưởng những ưu đãi nhiều hơn giá trị tương xứng với vị trí và công việc của người đó.
D. Trách nhiệm kỷ luật:
(1) Thẩm phán nào nhận được thông tin đáng tin cậy về việc Thẩm phán khác đã có hành vi vi phạm Các quy tắc mẫu này cần phải báo cáo với người có thẩm quyền.
(2) Thẩm phán nào nhận được các thông tin đáng tin cậy về việc luật sư đã có hành vi vi phạm Các quy tắc đạo đức luật sư như không trung thực, không đáng tin cậy thì cần phải báo cáo với người có thẩm quyền.
(3) Khi Thẩm phán hành động để thi hành các trách nhiệm kỷ luật theo yêu cầu hoặc được phép như quy định tại điều 3D (1) và 3D (2) với tính chất là một bộ phận của nghĩa vụ xét xử thì Thẩm phán đó được hoàn toàn miễn trừ trách nhiệm và không ai có thể khởi kiện Thẩm phán vì những hành động đó.
E. Từ chối xét xử:
(1) Thẩm phán sẽ từ chối tham gia các quá trình tố tụng mà Thẩm phán có thể bị nghi ngờ là không khách quan, đặc biệt trong các trường hợp sau:
(a) Thẩm phán có định kiến cá nhân với một bên đương sự hoặc luật sư của người đó; hoặc Thẩm phán đã có những hiểu biết về các chứng cứ gây tranh chấp liên quan đến vụ án đang xem xét.
(b) Thẩm phán đã từng là luật sư trong vụ việc đang gây tranh chấp hoặc đã từng là luật sư trong cùng một vụ kiện với luật sư của một bên đương sự của vụ án đang được xem xét hoặc Thẩm phán là nhân chứng liên quan đến vụ án.
(c) Thẩm phán biết rằng bản thân mình, vợ/chồng mình, cha mẹ hoặc các con mình dù đang sống ở bất kỳ đâu, hoặc là các thành viên khác của gia đình Thẩm phán đang sống tại nhà của Thẩm phán mà có những lợi ích kinh tế liên quan đến vấn đề tranh chấp của vụ kiện.
(d) Thẩm phán hay vợ/chồng của Thẩm phán hay người có họ trong vòng ba đời với Thẩm phán hoặc vợ/chồng của Thẩm phán là một bên trong vụ tranh chấp đang xét xử hoặc đã từng là luật sư trong vụ này hoặc là có những lợi ích có thể bị ảnh hưởng một cách đáng kể bởi vụ án này.
Điều 2 Hiến pháp Hoa kỳ quy định “Tổng thống, Phó Tổng thống và các quan chức trong liên bang nếu bị tố cáo về tội phản quốc, tội tham nhũng hoặc các tội nặng, nhẹ khác đều bị bãi miễn chức vụ”. Việc tố cáo đối với Thẩm phán chỉ hạn chế ở hành vi phạm tội của Thẩm phán mà không bao hàm hành vi thiếu trách nhiệm của họ. Trình tự xem xét chỉ trích, tố cáo đối với Thẩm phán được tiến hành một cách rất chặt chẽ, nghiêm ngặt, phải được đa số thượng nghị sỹ nhất trí. Trong hơn 200 năm thành lập Toà án liên bang chỉ có 11 người bị tố cáo trong đó có 4 người bị định tội (chỉ có 1 Thẩm phán Toà án tối cao liên bang).
TỔNG HỢP PHẾU ĐIỀU TRA
Tổng số phiếu lấy ý kiến:
|
69
|
Trong đó:
|
|
- Thẩm phán cấp tỉnh:
|
39
|
- Thẩm phán cấp huyện:
|
20
|
- Chuyên viên:
|
10
|
Kết quả trả lời như sau :
I. Về tiêu chuẩn Thẩm phán
1- Ông ( bà ) cho biết Tiêu chuẩn chung đối với người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán được quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán, được bầu hoặc cử làm Hội thẩm “có phù hợp không :
a - Trả lời phù hợp: có 48 ý kiến
b - Trả lời cần sửa đổi, bổ sung (thêm , bớt tiêu chuẩn nào)
có 21 ý kiến
Các ý kiến này đều tập trung vào những vấn đề sau đây:
- Cần nói rõ "có kiến thức pháp lý" cụ thể là trình độ Đại học Luật hay Trung cấp pháp lý....;
- Cần thêm tiêu chuẩn có ngoại hình không có khuyết tật;
- Bỏ cụm từ "nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật" vì các tiêu chuẩn khác đã bao hàm ý này rồi.
2. Theo ông (bà) Tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn đối với người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán nên quy định như thế nào:
a- Trả lời như hiện nay ( Đại học luật, Cao đẳng Toà án ) có 17 ý kiến.
b- Trả lời Đại học Luật có 47 ý kiến.
c- Trả lời Ngoài các quy định tại điểm a hoặc b, cần phải qua lớp đào tạo Thẩm phán 12 tháng có 50 ý kiến.
d- Ý kiến khác có 5 ý kiến.
Các ý kiến này tập trung vào những nội dung sau:
- điểm C chỉ nên áp dụng cho những Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu,
- Những người được bổ nhiệm lần đầu phải có bằng Đại học Luật chính quy.
3 - Theo ông (bà) người được giới thiêu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cần phải có trình độ lý luận chính trị không :
a- Cần thiết :
- Cử nhân chính trị
- Cao cấp lý luận chính trị
- Trung cấp lý luận chính trị
- Sơ cấp lý luận chính trị
b- ý kiến khác: Có 8 ý kiến
Các ý kiến này tập trung vào những nội dung sau:
- Không cần phải có trình độ lý luận chính trị,
- Thẩm phán TAND tối cao có trình độ cao cấp chính trị, Thẩm phán TAND cấp tỉnh có trình độ trung cấp lý luận chính trị, Thẩm phán TAND cấp huyện có trình độ sơ cấp lý luận chính trị.
4- Theo ông (bà) tiêu chuẩn về thời gian làm công tác pháp luật đối với người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán (Thẩm phán cấp huyện: 4 năm trở lên, Thẩm phán cấp tỉnh: 6 năm trở lên, Thẩm phán TAND Tối cao: 8 năm trở lên) có phù hợp không:
a- Trả lời phù hợp
b- Trả lời cần sửa đổi, bổ sung :
Các ý kiến này tập trung vào những nội dung sau:
- Nên quy định chung thời gian là 5 năm,
- Thẩm phán cấp tỉnh và tối cao là 8 năm,
- Thẩm phán cấp huyện là 3 năm, cấp tỉnh 4 năm, tối cao 6 năm.
- Người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán TAND Tối cao còn phải là Thẩm phán Toà án cấp tỉnh; Người được giới thiệu, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp tỉnh còn phải là Thẩm phán TAND cấp huyện: có 57 ý kiến.
- ý kiến khác: có 7 ý kiến.
Các ý kiến này tập trung vào những nội dung sau:
- Bổ nhiệm Thẩm phán chung không phân biệt các cấp,
- Người được bổ nhiệm làm Thẩm phán phải tốt nghiệp Đại học Luật và trực tiếp làm công tác pháp luật từ 5 năm trở lên đồng thời phải qua lớp đào tạo nghề làm Thẩm phán.
5 - Theo ông ( bà ) Thời gian làm công tác pháp luật cần được tính như thế nào là hợp lý:
a- Tính từ khi được tuyển dụng vào cơ quan pháp luật có 2 ý kiến.
( kể cả nhân viên kế toán, văn thư....)
b- Tính từ khi trực tiếp làm công tác pháp luật có 56 ý kiến.
( các chức danh Thư ký, Chuyên viên pháp lý ...)
C- Tính từ khi tốt nghiệp Đại học luật có 11 ý kiến.
II. Thủ tuc, hổ sơ tuyển chon, bổ nhiêm, miễn nhiêm, cách chức và thuyên chuyển Thẩm phán
1. Theo Ông ( bà ) Tổ chức và hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TAND cấp tỉnh được quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh: “ Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quan sự khu vực gồm có Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Chủ tịch, đại diện TAND tối cao, Bộ Quốc phòng, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành trung ương Hội luật gia Việt Nam là uỷ viên “có phù hợp không”?:
a- Trả lời phù hợp: có 28 ý kiến.
b- Cần sửa đổi, bổ sung (thêm, bớt thành viên nào) có 41 ý kiến.
Các ý kiến này tập trung vào những nội dung sau:
- Tập trung vào 1 Hội đồng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm chủ tịch,
- Cần thêm thành phần là những Thẩm phán có kinh nghiệm, có trình độ., và đồng thời bỏ thành phần Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt nam, BCH Trung ương Hội luật gia.
2. Theo Ông (bà) Tổ chức và hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TAND cấp huyện được quy định tại Điều 23 của Pháp lệnh: “Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc gồm có Giám đốc Sở Tư pháp làm Chủ tịch, đại diện Toà án nhân dân, Hội đồng nhân dân, uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Ban chấp hành Hội luật gia tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là uỷ viên“có phù hợp không?:
a- Trả lời phù hợp có 28 ý kiến.
b- Cần sửa đổi, bổ sung (thêm, bớt thành viên nào) có 41 ý kiến.
Các ý kiến này tập trung vào những nội dung sau:
Tập trung vào 1 hội đồng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm chủ tịch,
Cần thêm thành phần là những Thẩm phán có kinh nghiêm, có trình độ., và đồng thời bỏ thành phần Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc , BCH Hội luật gia tỉnh.
3. Theo Ông (Bà) Quyết định bổ nhiệm Thẩm phán của Chủ tịch nước ghi rõ đơn vị công tác như hiện nay có phù hợp không:
a- Phù hợp có 10 ý kiến.
b- Chỉ cần ghi chung là: “Bổ nhiệm làm Thẩm phán TA cấp tỉnh hoặc cấp huyện” có 41 ý kiến.
c- Theo ý kiến ông ( bà) có 6 ý kiến.
Các ý kiến này tập trung vào những nội dung sau đây: Trong quyết định bổ nhiệm chỉ ghi bổ nhiệm thẩm phán chung không ghi cụ thể tên tỉnh, huyện và bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp hoặc trung cấp như Viện kiểm sát.
4 - Theo Ông (Bà) Thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán TAND các cấp quy định như Pháp lệnh có phù hợp không :
-
Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán TAND cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm Thẩm phán cấp huyện: có 39 ý kiến.
- Theo ý kiến ông (bà) có 2 ý kiến
Các ý kiến này tập trung vào những nội dung sau đây:
- Chủ tịch nước bổ nhiêm Thẩm phán tối cao, còn Thẩm phán địa phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm,
- Chủ tịch nước bổ nhiệm lần đầu còn tái nhiệm do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.
5. Theo Ông (Bà) Nhiệm kỳ của Thẩm phán cần quy định như thế nào:
a- Giữ nguyên (Nhiệm kỳ 5 năm) có 30 ý kiến.
b- Cần sửa đổi, bổ sung :
- Không nên quy định nhiệm kỳ đối với Thẩm phán có 38 ý kiến.
- Theo ý kiến ông (bà) có 1 ý kiến.
Ý kiến này cho rằng nên quy định nhiệm kỳ là 4 năm.
6. Theo Ông (Bà) Nhiệm kỳ của chức vụ Chánh án, Phó Chánh án nên quy định như thế nào:
a- Giữ nguyên (Nhiệm kỳ 5 năm) có 33 ý kiến.
b- Cần sửa đổi, bổ sung:
- Không nên quy định nhiệm kỳ đối với Thẩm phán có 35 ý kiến.
- Theo ý kiến ông (bà) có 1 ý kiến.
Ý kiến này cho rằng không nên quy định nhiệm kỳ của Chánh án, phó chánh án.
7. Theo Ông (Bà) Thẩm quyền thuyên chuyển đối với Thẩm phán TAND địa phương như hiện nay có phù hợp không :
a- Phù hợp (Bộ trưởng Bộ Tư pháp) có 34 ý kiến.
b- Cần sửa đổi, bổ sung: Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền thuyên chuyển Thẩm phán cấp tỉnh và Thẩm phán cấp huyện khác tỉnh, Uỷ quyền Giám đốc Sở Tư pháp quyết định thuyên chuyển đối với Thẩm phán TAND cấp huyện cùng tỉnh: có 35 ý kiến.
III. Vấn đề chế độ chính sách và chế độ thi đua khen thưởng, kỷ luật đối với Thẩm phán
1. Theo Ông (Bà) Chế độ tiền lương hiện nay đối với Thẩm phán TAND các cấp đã hợp lý chưa:
a- Hợp lý có 7 ý kiến,
b- Chưa hợp lý (cần sửa đổi, bổ sung)
- Nâng mức khởi điểm của Thẩm phán TAND cấp huyện (ghi rõ ý kiến của ông, bà - nâng lên bao nhiêu ): có 60 ý kiến.
Các ý kiến nêu ra nhiều mức lương khởi điểm của Thẩm phán huyện như: 3.62; 2.62; 3.08; 3.22.
- Điều chỉnh, rút ngắn khoảng cách giữa các ngạch lương khởi điểm của Thẩm phán các cấp: có 51 ý kiến.
- Ý kiến khác: có 2 ý kiến.
Ý kiến này cho rằng nên quy định chung 1 ngạch lương Thẩm phán, nếu bổ nhiệm Thẩm phán cấp nào thì cộng thêm phục cấp thẩm phán của cấp đó.
2. Theo Ông ( Bà ) có cần thiết phải quy định các danh hiệu cao quý như Thẩm phán nhân dân, Thẩm phán ưu tú ... đối với Thẩm phán hay không:
a- Cần thiết: có 42 ý kiến.
b- Không cần thiết: có 27 ý kiến
3. Theo Ông ( Bà ) Quyết định cách chức Thẩm phán của Chủ tịch nước có phải là hình thức kỷ luật hành chính không :
a- Không phải là hình thức kỷ luật hành chính ( Người bị cách chức Thẩm phán vẫn có thể bị xử lý kỷ luật hành chính theo các quy định tại Khoản 1, Điều 39 của Pháp lệnh cán bộ, công chức): có 25 ý kiến.
b- Cách chức Thẩm phán là hình thức kỷ luật hành chính ( Sau khi có quyết định cách chức, người bị cách chức không bị xử lý kỷ luật thêm hình thức khác) có 44 ý kiến.
4. Theo Ông (Bà) việc cấp Chứng minh thư cho Thẩm phán và Hội thẩm như hiện nay có phù hợp không :
a- Phù hợp có 67 ý kiến.
b- Cần sửa đổi, bổ sung: có 2 ý kiến.
Ý kiến này cho rằng nên giao cho địa phương làm thẻ.
- Cần quy định bổ sung trong Chứng minh thư về quyền ưu tiên của Thẩm phán và Hội thẩm khi thi hành công vụ: có 67 ý kiến.
5. Theo Ông ( Bà ) Pháp lệnh có cần thiết phải có các quy định về việc bảo về Thẩm phán trước các hành vi xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm hay không :
a- Cần thiết: có 43 ý kiến.
b- Không cần thiết: có 26 ý kiến.
IV. Về Hội thẩm nhân dân
1- Theo Ông (Bà) Tiêu chuẩn đối với Hội thẩm Toà án nhân dân được quy định tại Điều 29 của Pháp lệnh: “Công dân Việt Nam có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này, có uy tín với nhân dân nơi mình cư trú, công tác, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thì có thể được cử làm Hội thẩm Toà án nhân dân tối cao hoặc được bầu làm Hội thẩm Toà án nhân dân địa phương; “có phù hợp không”
a- Phù hợp có 55 ý kiến.
b- Sửa đổi, bổ sung (ghi rõ ý kiến ) có 14 ý kiến
Các ý kiến này cho rằng cần phải quy định Hội thẩm toà án nhân dân phải tốt nghiệp Đại học chuyên nghành và có kiến thức pháp lý nhất định.
2. Theo Ông (Bà) Yêu cầu về trình độ đối với Hội thẩm Toà án nhân dân trong tình hình hiện nay như thế nào:
a- Giữ nguyên: có 32 ý kiến.
b- Ý kiến của ông (bà) có 37 ý kiến.
Các ý kiến này đều tập trung vào những nội dung sau: Hội Thẩm Toà án nhân dân phải có trình độ trung cấp pháp lý trở lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ từ 3 đến 6 tháng.
-
Về vấn đề quản lý đối với Hội thẩm Toà án nhân dân:
a- Như hiện nay: có 33 ý kiến.
b- Theo ý kiến ông (bà) có 36 ý kiến.
Các ý kiến này đếu tập trung vào những nội dung sau: Hiện nay chưa có quy định cụ thể cơ quan nào quản lý Hội thẩm toà án nhân dân do đó cần phải nghiên cứu nên giao cho 1 cơ quan cụ thể quản lý như: Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, TAND địa phương, Hội đồng nhân dân...
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia - HàNội - 1995, tr. 252 – 253
[2] Phụng công, thủ pháp: Chăm lo việc công, giữ gìn pháp luật (BT )
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia - HàNôi - 1995, tr. 382.
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính tri Quốc gia, HàNội - 1996, tr. 132 - 133
[5] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII NXB Chính trị Quốc gia, HàNội - 1996, tr. 132 - 133
[6] Văn kiên Hội nghị Íần thứ 3, BCH Trung ương khoá VIII, NXB Chính tri Quốc gia, Hà Nội - 1997, tr. 58-59.
18
[7] Xem các Điều 12,13,14 Pháp lênh Công chức.
[8] “VI Lê Nin Toàn tập; Tập 36; NXB Tiến Bộ; Matxcơva 1977; tr.67, 68 (tiếng Việt)
[9] (10) Nguyễn Đình Lộc - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân, NXB Chính ưị Quốc gia, Hà Nôi 1998, Tr.i 50,151.
[10] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB Chính tri Quốc gia - HàNôi- 1995, tr. 269.
[12] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB Chính tri Quốc gia - HàNôi - 1995, tr. 281
[13] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB Chính tri Quốc gia - HàNôi - 1995, tr. 252 - 253
[14] Phụng công, thủ pháp: Chàm lo việc công, giữ gìn pháp luật ( BT)
[15] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia - HàNội - 1995, ư. 382.
[16] Văn kiện Đại Hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1996, tr. 132.
[17] Văn kiện Hôi nghị lần thứ 3 BCH Trung ương khoá VIII, NXB Chính tri Quốc gia, Hà Nội -1997, tr. 80.
[18] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính tri Quốc gia, Hà Nội - 1996, tr. 132 -133
[19] Văn kiện Hội nghị lẩn thứ 3, BCH Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1997, tr. 58-59.
[20] Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nôi-1996, tr.132.
[21] Văn kiện Hôi nghị lần thứ 3BCH trương ương khoá VIII, NXB Chính tri Quốc gia, Hà Nội 1997, tr. 57
[22] Xem các Điều 12,13,14 Pháp lệnh Công chức.
[23] Xem Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2000 số 26/BC/VP ngày 09/02/2001 củaToà án nhân dân tối cao
[24] Xem Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2000 số 26/BC/VP ngày 09/02/2001 củaToà án nhân dân tối cao
[25] Xem Báo Pháp luật số 19/7/2000.
[26] Xem Thông tin Báo tuổi trẻ số tháng 3 gần đây.
[27] Xem thông tin Báo Pháp luật số Thứ 4 ngày 19/7/2000.
[28] Theo sô'liệu trong Báo cáo của đoàn nghiên cứu khảo sát tại Nhật Bàn do Bộ trưởng Tư pháp Việt Nam dẫn đđu (711999).
[29] Theo Luật pháp Hoa kỳ, Nxb Oxford Universừy, 1999.