• Thuộc tính
Tên đề tài 50 năm ngành tư pháp Việt nam
Nội dung tóm tắt
 
 
 

Đây là một đề tài cấp Bộ, do Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý chủ trì.

Mục tiêu chủ yếu của đề tài là nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong 50 năm, có nghiên cứu một phần về hoạt động của Bộ. Tuy nhiên, do quá trình thu thập tài liệu, gặp gỡ nhân chứng kéo dài nên các kết quả nghiên cứu đã đề cập đến những diễn biến trong 5 năm tiếp theo (đến năm 2000).

Đề tài không thực hiện nhiệm vụ làm một bộ sử về ngành tư pháp, về biên niên sử, về nhân vật, các sự kiện, những biến động quyết định chiều hướng phát triển ngành.

 

Nội dung toàn văn

Bộ Tư pháp

Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý

 

 

 

 

 

 

 

Đề tài khoa học cấp bộ

50 năm ngành tư pháp Việt nam

Mã số: 96-98-035/ĐT

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hà nội. 2002

Bộ Tư pháp

Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý

 

 

 

 

 

 

Đề tài cấp bộ

50 năm ngành tư pháp Việt nam

Mã số: 96-98-035/ĐT

Ban chủ nhiệm đề tài

Chủ nhiệm đề tài:

 

Nguyễn Văn Thảo Nguyên Viện trưởng Viện NCKH pháp lý

Phó Chủ nhiệm đề tài:

Dương Thị Thanh Mai Phó Viện trưởng Viện NCKH pháp lý

Trần Văn Quảng Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ

Thư ký đề tài:

Nguyễn Thị Thu Hương Viện NCKH pháp lý

 

 

 

 

 

 

 

Hà Nội . 2002

 

Các cộng tác viên thực hiện đề tài

1. Vũ Đình Hoè Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp

2. Nguyễn Văn Hưởng Nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp

3. Trần Đông Nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp

4. Phan Hiền Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp

5. Nguyễn Văn Thảo Nguyên Viện trưởng Viện NCKH pháp lý

6. Dương Thị Thanh Mai Phó Viện trưởng Viện NCKH pháp lý, Bộ Tư pháp

7. Vũ Văn Quý Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp

8. Trần Văn Quảng Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp

9. Ngô Văn Thâu Nguyên Trưởng bộ môn Lý luận Nhà nước và pháp luật – Trường Đại học luật Hà nội

10. Lê Kim Quế Nguyên chuyên viên Toà án nhân dân tối cao

11. Hoàng Ngọc Trung Nguyên Phó Giám đốc Sở giám đốc tư pháp khu V

12. Phạm Tống Hoằng Nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế

13. Huỳnh Ngọc Chi Nguyên Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh

 

 

Lời mở đầu

Đây là một đề tài cấp Bộ, do Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý chủ trì.

Mục tiêu chủ yếu của đề tài là nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong 50 năm, có nghiên cứu một phần về hoạt động của Bộ. Tuy nhiên, do quá trình thu thập tài liệu, gặp gỡ nhân chứng kéo dài nên các kết quả nghiên cứu đã đề cập đến những diễn biến trong 5 năm tiếp theo (đến năm 2000).

Đề tài không thực hiện nhiệm vụ làm một bộ sử về ngành tư pháp, về biên niên sử, về nhân vật, các sự kiện, những biến động quyết định chiều hướng phát triển ngành.

Nhóm đề tài gồm có đồng chí Dương Thị Thanh Mai - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, đồng chí Trần Văn Quảng - Phó Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ và tôi là một cán bộ lâu năm của ngành tư pháp đã nghỉ hưu, thư ký là đồng chí Nguyễn Thị Thu Hương- nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý.

Chúng tôi đã gặp gỡ và trao đổi nhiều lần với các đồng chí chủ chốt của ngành như đồng chí Vũ Đình Hoè, Phan Hiền, Trần Đông, những đồng chí khác vì đã đi xa không thể gặp được.

Tài liệu này, với tư cách là chủ nhiệm đề tài tôi rất trân trọng và mong các đồng chí trong ngành cho ý kiến.

 

Mục lục

 

Trang

Lời nói đầu

1

Phần thứ nhất: Tổ chức tư pháp 55 năm (1945 – 2000)

4

Phần I. Tổ chức tư pháp trong khu giải phóng Cao Bắc Lạng ……………..

4

Phần II. Ngành tư pháp của Nhà nước mới thành lập, hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp…………………………………………………

 

5

I. Ngành tư pháp trong những ngày đầu của Chính phủ lâm thời……………….

5

II. Ngành tư pháp trong Chính phủ liên hiệp - đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp (3/1946 - 11/1950)……………………………………………………………..

9

III. Ngành tư pháp trong những năm cuối của cuộc kháng chiến……………….

22

IV. Ngành tư pháp trong thời kỳ giải phóng miền Bắc…………………………….

27

Phần III. Bộ Tư pháp giải thể, thành lập Uỷ ban pháp chế (1960 -1981)…..

30

I. Giải thể Bộ Tư pháp………………………………………………………………..

30

II. Chuyển chức năng của Bộ Tư pháp cho các cơ quan…………………………

32

III. Thành lập Uỷ ban pháp chế thuộc Chính phủ…………………………………

33

IV. Thống nhất đất nước – Uỷ ban pháp chế tiếp nhận công việc của Bộ Tư pháp trong Chính phủ CMLTMNVN………………………………………………...

35

V. Thống nhất hệ thống pháp luật trong cả nước…………………………………

35

VI. Thành lập Trường đại học pháp lý thuộc Uỷ ban pháp chế………………….

36

VII. Tổ chức nội bộ Uỷ ban pháp chế……………………………………………….

37

Phần IV. Tái lập ngành tư pháp (1981 - 2000)…………………………………

43

1. Tổ chức hoạt động theo Nghị định 143/HĐBT ngày 4/7/1981………………..

44

2. Tổ chức hoạt động theo Nghị định 38/CP ngày 4/6/1993……………………..

51

Phần V. Kết luận……………………………………………………………………..

70

Phần thứ hai: Một số hoạt động của ngành tư pháp trong 55 năm (1945-2000)……………………………………………………………………………………

 

72

1. Nghiên cứu hoạt động xây dựng pháp luật 55 năm (1945- 2000)……………

73

2. Bộ Tư pháp với nhiệm vụ quản lý toà án nhân dân địa phương……………...

90

3. Lịch sử các tổ chức bổ trợ tư pháp……………………………………………….

114

4. 55 năm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý……………………………………..

126

Phần thứ ba: Tư liệu lịch sử và các văn bản cần tham khảo…………

143

A. Văn bản

 

1. Nghị định số 37 ngày 01/ 12/ 1945 tổ chức Bộ Tư pháp……………………..

144

2. Sắc lệnh số 13 của Chủ Tịch nước ngày 24/01/1946 tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán………………………………………………………………..

 

146

3. Thông lệnh số 12NV-CT ngày 29/12/1946 về tổ chức tư pháp trong tình thế đặc biệt…………………………………………………………………………………

 

164

4. Thông tư số 12B NV-CT ngày 29/12/1946 giải thích rõ công việc tư pháp trong một khu………………………………………………………………………….

 

166

5. Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng….

170

6. Nghị định số 256-TTg ngày 1/7/1959 quy định nhiệm vụ và tổ chức của Viện Công tố…………………………………………………………………………..

175

7. Nghị định số 381-TTg ngày 20/10/1959 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Toà án nhân dân tối cao………………………………………………………..

 

177

8. Nghị định số 01-CP ngày 11/2/1960 quy định nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp………………………………………………………………………………...

179

9. Quyết định số 06 ngày 15/03/1960 về tổ chức Bộ tư pháp……………………

180

10. Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14/7/1961……………………………

184

11. Nghị định của Hội đồng Chính phủ số 190-CP ngày 9/10/1972 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban pháp chế…………………

188

12. Nghị quyết 76/CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng chính phủ Về vấn đề hướng dẫn thi hành, và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước…………..

192

13. Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp …………………

194

14. Nghị định của Chính phủ số 38/CP ngày 4/6/1993 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp ………………………………

196

B. Tư liệu

 

1. Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của các toà án nhân dân địa phương ngày 15/7/1990………………………………………………………………………..

201

2. Cuộc tranh luận tư pháp độc lập với hành chính ………………………………

213

3. Sở giám đốc tư pháp khu ………………………………………………………..

221

4. Sở tư pháp Nam bộ ………………………………………………………………

224

5. Hồi ký những mẩu chuyện về tổ chức, công tác xây dựng và hoạt động của ngành pháp chế từ năm 1975 – 1982…………………………………………

228

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phần thứ nhất

Tổ chức ngành tư pháp 55 năm (1945 – 2000)

Phần một

Tổ chức tư pháp trong khu giải phóng Cao Bắc Lạng

Ngày 12 tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật làm đảo chính Pháp, Ban thường vụ trung ương Đảng cộng sản đã ra Chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" trong đó nêu rõ những công việc cần kíp phải làm, một trong những công việc đó là thành lập tại các làng, ấp, đường phố, trại lính, công sở, trường học, nhà máy, hầm mỏ tổ chức gọi tên là Uỷ ban dân tộc giải phóng, vừa có tính chất mặt trận, vừa có tính chất "tiền Chính phủ" của đồng bào.

Uỷ ban dân tộc giải phóng ở các cơ sở được gọi là Uỷ ban dân tộc giải phóng nền tảng. Trong 8 nhiệm vụ của Uỷ ban dân tộc giải phóng nền tảng có nhiệm vụ thứ 6 "phân xử các việc xung đột, xích mích giữa anh chị em công nhân (nếu ở nhà máy) giữa đồng bào trong làng (nếu ở nông thôn)" và nhiệm vụ thứ 8 "ngăn ngừa và tiêu diệt Việt gian".

Những công việc nói trên do một Tiểu ban tư pháp phụ trách, các quyết định của Tiểu ban phải được thường vụ Uỷ ban dân tộc giải phóng nền tảng duyệt y, việc lên án Việt gian phải do Uỷ ban dân tộc giải phóng cấp trên phê chuẩn mới được thi hành.

* *

*

Phần hai

Ngành tư pháp của Nhà nước mới thành lập, hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống pháp

(1945 - 1959)

* Ngành tư pháp trong những ngày đầu của Chính phủ lâm thời.

* Ngành tư pháp trong Chính phủ liên hiệp. Cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1950)

* Ngành tư pháp những năm cuối của cuộc kháng chiến.

* Tổ chức tư pháp sau khi miền Bắc giải phóng.

I. Ngành tư pháp trong những ngày đầu của Chính phủ lâm thời

* Công việc ban đầu

* Tổ chức Bộ Tư pháp

1. Công việc ban đầu

 

Năm 1945, Cách mạng thành công, Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà ra tuyên cáo ngày 28 tháng 8 năm 1945 thành lập Chính phủ gồm 12 Bộ, trong thành phần của Chính phủ có Bộ Tư pháp, Bộ trưởng là ông Vũ Trọng Khánh.

Công việc được chú ý ngay từ những ngày đầu là soạn thảo một Sắc lệnh trình Chủ tịch Chính phủ ký vào ngày 10 tháng 10 năm 1945 về sự bảo đảm không để đất nước một ngày không có pháp luật, Sắc lệnh đã giữ lại các quy định pháp luật của chế độ cũ trừ những luật lệ có phương hại đến nền độc lập quốc gia.

Để đưa đất nước vào trật tự, kỷ cương mới, việc thiết lập ngay các toà án quân sự, quy định thẩm quyền ranh giới của mỗi toà án, chống lại mọi mưu đồ của bọn Việt gian phản động đang hoạt động ráo riết, một loạt Sắc lệnh tổ chức toà án quân sự được ban hành vào những tháng cuối năm 1945, đầu năm 1946.

Cuối năm 1945, Bộ tư pháp đã thiết kế xong bộ máy tổ chức hoạt động của Bộ. Với quan niệm xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của dân, một Nhà nước pháp quyền, một xã hội dân chủ, Bộ Tư pháp đã đảm nhiệm những chức năng rất cơ bản về bảo đảm quyền dân chủ của con người, thông qua những quy định pháp luật về thẩm quyền trong việc bắt, điều tra, truy tố, xét xử, giam, tha phạm nhân, thẩm quyền tổ chức các toà án dân sự, thương sự, hình sự, công việc thực hiện các Hiệp định tương trợ và uỷ thác tư pháp với nước ngoài, thẩm quyền tổ chức và quản lý các chức danh tư pháp khác nhau (xem Nghị định 37 ngày 1 tháng 12 năm 1945 và các Nghị định kèm theo).

Đó cũng mới chỉ là thiết kế ra một bộ máy, còn để cho bộ máy đó được vận hành tốt, phải xây dựng một đội ngũ cán bộ, đối với ngành tư pháp, quan trọng nhất là đội ngũ thẩm phán.

Ông Vũ Trọng Khánh với tư cách là Bộ trưởng đầu tiên của nước ta đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc này và Ông Vũ Đình Hoè - Bộ trưởng Tư pháp kế nhiệm tiếp tục thực hiện. Xin đọc một đoạn của hồi ký của Ông Vũ Đình Hoè:

"...công việc đầu tiên là, với sự ủng hộ hàng ngày của Hồ Chủ Tịch, tôi tiến hành việc tuyển lựa số thẩm phán đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Việc tuyển lựa được thực hiện trong số anh em trẻ đã qua trường Đại học Luật Đông dương của Pháp (12 khoá liên tiếp), trong các tham sự, lục sự, chánh án, luật sư, biên tập viên thuộc Toà sứ, toà án thời trước, thậm trí cả tri huyện, tri phủ cũ tương đối sạch sẽ, không phạm tội ác gì lớn với nhân dân. Lập danh sách, hồ sơ từng người, đem ra Hội đồng tuyển chọn xét duyệt. Đứng đầu Hội đồng là cụ Bùi Bằng Đoàn, cựu Thượng thư Bộ Hình của Nam Triều, được tiếng là liêm khiết và ông Nguyễn Huy Mẫn, trưởng đoàn luật sư do đồng sự tín nhiệm cử ra hồi Nhật thuộc. Trước đây, ông Bộ trưởng Vũ Trọng Khánh đã có bắt đầu làm việc này, tôi chỉ xúc tiến khẩn trương hơn, nhờ hoàn cảnh mới thuận lợi hơn. Cùng với việc tuyển chọn thẩm phán đệ nhị cấp (thẩm phán tỉnh trở lên) nói trên, tôi cùng với các bạn lãnh đạo Bộ, tổ chức lớp huấn luyện để đào tạo thẩm phán huyện (thẩm phán sơ cấp) cho các sinh viên chưa ra trường và những người có bằng tú tài hoặc tương đương học lực, tự nguyện nộp đơn xin vào ngành tư pháp, huấn luyện cấp tốc trong sáu tháng..." Trích hồi ký Vũ Đình Hoè - Trang 346

 

Đó là những công việc thuộc chức năng Bộ Tư pháp đã được thực hiện trong những ngày đầu của Nhà nước non trẻ Việt nam dân chủ cộng hoà.

2. Tổ chức Bộ Tư pháp

Tổ chức Bộ Tư pháp thời kỳ này có một văn phòng và 5 phòng sự vụ, Văn phòng đặt dưới quyền của Đổng lý văn phòng, các phòng sự vụ đặt dươí quyền của Đổng lý sự vụ (ngang cấp Vụ của ta hiện nay).

Bộ trưởng Bộ Tư pháp là đồng chí Vũ Trọng Khánh, Thứ trưởng là đồng chí Nguyễn Văn Hưởng, Đổng lý văn phòng là đồng chí Đinh Gia Trinh, chưa có Đổng lý sự vụ nên Đổng lý văn phòng tạm kiêm nhiệm.

Năm phòng sự vụ là:

- Phòng sự vụ nội bộ

- Phòng viên chức và kế toán

- Phòng giám đốc hộ vụ

- Phòng giám đốc hình vụ

- Phòng giám đốc quản trị các trại giam và giáo dục tù nhân.

Phòng sự vụ nội bộ chăm lo việc liên lạc với Nghị viện (Quốc hội), công bố các Đạo luật và Sắc lệnh, đăng công báo, tổ chức lưu trữ thư viện của Bộ, giữ gìn việc kiểm ấn (con dấu của Bộ).

Phòng viên chức và kế toán chăm lo công việc nhân sự và tài chính của cơ quan Bộ và tất cả các toà án.

Phòng giám đốc hộ vụ chăm lo về xây dựng pháp luật dân sự, thương sự (cả tố tụng); quản trị các toà án thương sự, dân sự, tổ chức thi hành án dân sự, thương sự, phụ trách vấn đề tương trợ tư pháp với nước ngoài, vấn đề ra vào quốc tịch, các vấn đề về Việt kiều và ngoại kiều, bồi thường chiến tranh, các vấn đề tư pháp quốc tế, quản trị các danh sách đoàn luật sư, công chứng, hỗ giá viên, thừa phát lại, đại tụng viên.

 

Phòng giám đốc hình vụ chăm lo xây dựng pháp luật hình sự và tố tụng, kiểm soát công việc truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, việc kháng tố và kháng cáo quan trọng.

Phụ trách công việc đại xá, xin ân xá, ân giảm, phóng thích, việc tương trợ tư pháp với nước ngoài về hình sự, việc thống kê tư pháp và lý lịch tư pháp.

Phòng giám đốc việc quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân

Phân chia và quản trị các loại lao ngục, lao thất, việc kế toán các nhà lao.

Phụ trách lãnh đạo các ban giám thị, các ban giáo dục tù nhân, các chế độ trong các nhà lao.

Về hệ thống tổ chức tư pháp địa phương trong thời kỳ đầu của Nhà nước ta, đáng chú ý là có hai bản thiết kế, một bản thiết kế tổ chức hệ thống Toà án thường ở nước ta theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 (không kể các Toà án quân sự và toà án đặc biệt). Bản thiết kế thứ hai dựa vào đặc điểm của tổ chức chính quyền địa phương (Sắc lệnh 63/SL ngày 22/11/1945) đã quy định dưới cấp chính quyền Trung ương có Uỷ ban hành chính Kỳ gồm Uỷ ban hành chính Bắc bộ, Uỷ ban hành chính Trung bộ và Uỷ ban hành chính Nam bộ. Uỷ ban hành chính Kỳ là cấp trên của Uỷ ban hành chính cấp tỉnh thuộc mỗi miền.

 

Do cách tổ chức đó, hệ thống tư pháp địa phương có 3 Sở Tư pháp, Sở Tư pháp Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.

Sở Tư pháp Bắc bộ do ông Trần Trung Dung làm Giám đốc

Sở Tư pháp Trung bộ lúc đó chưa có giám đốc. Bên toà Thượng thẩm Huế, Bộ Tư pháp giao cho hai ông Nguyễn Xuân Dương và Nguyễn Chánh Thành làm Chưởng lý và Chánh án đang lựa chọn danh sách.

Sở tư pháp Nam bộ do ông Trương Tấn Phát làm giám đốc

Về cơ quan toà án thường, trong thời kỳ đầu, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946, những năm sau này mới tổ chức thực hiện dần từng bước ở địa phương theo nguyên tắc mà Sắc lệnh đã ghi là: ở địa phương nào chuẩn bị đủ cán bộ mới thành lập toà án, những nơi nào chưa chuẩn bị xong thì toà án địa phương bên cạnh đảm nhận công việc xét xử của điạ phương chưa tổ chức được toà án.

II. Ngành tư pháp trong Chính phủ liên hiệp - đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp ( 3/ 1946 - 11/1950)

* Thay Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

* Chọn đội ngũ thẩm phán đầu tiên ở Bắc Bộ.

* Cơ quan Bộ Tư pháp trong kháng chiến

* Sở giám đốc Tư pháp Liên khu

* Cơ quan Toà án trong ngành tư pháp

* Cơ quan công tố

* Cơ quan tư pháp công an

* Cuộc tranh luận tư pháp độc lập với hành chính.

1. Thay Bộ trưởng Tư pháp

 

Sau cuộc bầu cử vào Nghị viện (Quốc hội) đầu tiên của nước ta vào tháng 1 năm 1946, phiên họp đầu tiên của Nghị viện đã bầu ra Chính phủ liên hiệp thay cho Chính phủ lâm thời.

Đầu tháng 3/1946, Nghị viện họp bầu ra một Chính phủ bao gồm các thành phần thể hiện đặc sắc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của dân.

Trước thời kỳ bầu cử, ở Bộ Tư pháp đã chọn được một số nhân viên làm việc ở Toà Thượng thẩm Hà nội, một số người có trình độ cử nhân luật đang làm ở cơ quan khác đến làm việc tại Bộ Tư pháp. Trong số đó có Nguyễn Tường Long, em của Nguyễn Tường Tam, làm ở Toà thượng thẩm Hà nội đang ra sức vận động ghế Bộ trưởng Tư pháp vào tay Việt Nam quốc dân Đảng, ý định gạt bỏ ông Vũ Trọng Khánh là người không đảng phái khỏi chức Bộ trưởng.

Trong điều kiện Việt nam quốc dân đảng với Đảng Việt Nam cách mạng đồng minh hội nhân danh các đảng hải ngoại mới trở về, đòi ghế trong Chính phủ, cấu kết nhau, chiếm lĩnh các tỉnh phía Bắc (Lao cai, Phú thọ, Lạng sơn, Móng cái, Hòn gai...) quấy rối lớn ở các thành phố nhất là Hà nội, Hải phòng...Phía Nam thì quân Pháp núp sau quân Anh đã gây hấn sắp thôn tính hết Nam bộ, nên vấn đề tập hợp lực lượng trong Nghị viện, thiết lập Chính phủ liên hiệp là vấn đề đặc biệt quan trọng.

Sau ngày mít tinh mừng thắng lợi bầu cử Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông Vũ Đình Hoè lúc đó đang làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục trong chính phủ lâm thời, ngỏ ý muốn ông sang làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp vì ông Hoè là người có tiếng tăm, đại diện Đảng dân chủ. Ông Vũ Đình Hoè biết tình hình ở bên Bộ Tư pháp, có phân vân nhưng sau nhận lãnh trách nhiệm này trước Chủ tịch.

Trước ngày Quốc hội họp (2/3/1946) đã có Hội nghị liên tịch các đảng phái thoả thuận để cho các đảng hải ngoại mới trở về được đưa 70 đại biểu của mình vào Quốc hội, không phải thông qua thủ tục bầu cử.

Quốc hội họp êm ả, chỉ họp không đầy một ngày mà thành lập xong Chính phủ liên hiệp chính thức, thành lập Ban thường trực Quốc hội, bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước, cố vấn của Chính phủ, bàn về Quốc kỳ, Quốc ca.

Phải họp nhanh như vậy vì tình hình rất khẩn trương, quân Pháp đang chuẩn bị đưa quân ra miền Bắc.

Trong Chính phủ liên hiệp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp mới là ông Vũ Đình Hoè, đại diện Đảng dân chủ, không gặp một sự phản ứng nào, mặc dù trước đây Quốc dân đảng vận động ráo riết, nay họ đã giữ được nhiều ghế khác trong Chính phủ cùng với Việt nam cách mạng đồng minh hội.

2. Chọn đội ngũ thẩm phán đầu tiên ở Bắc bộ

Ông Vũ Đình Hoè bắt tay ngay vào nối tiếp công việc của Ông Vũ Trọng Khánh, lựa chọn đội ngũ thẩm phán cho Bộ Tư pháp và Toà thượng thẩm Hà nội, tiếp tục chỉ đạo ông Chánh án và Chưởng lý Toà thượng thẩm Huế lựa chọn đội ngũ thẩm phán miền Trung, còn ở Nam bộ vì quân Pháp chiếm đóng gần hết, việc liên lạc để tổ chức bộ máy chính quyền gặp nhiều khó khăn nên chưa thực hiện được.

Kết quả việc lựa chọn 40 thẩm phán cấp cao ở miền Bắc, như phần trên đã trình bày, diễn ra hết sức tốt đẹp. Đoạn trích trong Hồi ký Vũ Đình Hoè trang 349 thể hiện kết quả của sự lựa chọn đó:

" ...Buổi lễ tuyên thệ được long trọng tổ chức cho lớp thẩm phán đầu tiên của Nhà nước ta, tôi mời được Cụ Hồ đến dự. Vinh hạnh quá chừng. Tôi còn rất phấn khởi cảm thấy sự tin cậy mà Cụ đặt ở nơi tôi.

Buổi lễ diễn ra tại Phòng xử án đồ sộ của Toà Thượng thẩm (xưa người ta gọi là Toà áo đỏ, vì các quan toà đội mũ miện màu đỏ khi xử đại hình). Hai toán tự vệ của thanh niên cơ quan Bộ, đồng phục kaki, mũ ca lô, quân hiệu vuông, làm hàng rào danh dự trước tiền sảnh. Trước giờ khai mạc, tôi đi củ soát một vòng. Quốc kỳ rực rỡ, khẩu hiệu ngay ngắn treo đúng chỗ.

"Chết rồi" Tôi giật mình khi vào phòng họp nhìn thấy một ghế bành gụ trùm chiếc da hổ. Ông quản lý văn phòng tôi không biết đã xoay ở đâu cái của lạ ấy, đặt ngay chính giữa phòng nhìn lên cái bàn dài rộng của các quan toà, bàn ngự trên một bậc tam cấp mênh mông. ý chừng ông muốn dành chiếc ghế bành cho Cụ Chủ tịch Chính phủ. Tôi ra hiệu cho ông cất ngay đi lập tức vào một chỗ nào thật kín. Ông còn ngây mặt ra không hiểu thì tôi ghé vào tai ông "thét" lên nho nhỏ: "Cụ không thích thế đâu".

Trong diễn văn khai mạc, tôi phân tích đặc điểm của chế độ "Tư pháp nhân dân", nói rõ nhiệm vụ và nghĩa vụ của người Thẩm phán nhân dân là phải bảo vệ nền độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tôi nhắc anh em nhớ lại cách đây mấy tháng, Hồ Chủ Tịch đã ký " Sắc lệnh bảo đảm tự do cá nhân". Cụ Hồ quay người lại, đối diện với anh em, thân mật dặn dò: "Các ông là thẩm phán của dân, xử án vì dân. Hãy luôn luôn làm đúng những khẩu hiệu mà tự mình đã viết kia (Cụ chỉ lên tường): "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư"...

Viên chưởng toà hô: " Tuyên thệ bắt đầu!"

Tôi bước lên bục, ngồi vào ghế dành cho Chánh án. Bốn mươi thẩm phán tương lai đứng cả dậy, nghiêm trang. Ông Thứ trưởng bước vào chỗ dành cho Công tố viên, bên phải bục Chánh án: Ông tuyên đọc Sắc lệnh do Chủ tịch Chính phủ ký cử Chánh nhất và Chưởng lý Toà Thượng thẩm nước Việt nam dân chủ cộng hoà.

Viên Chưởng toà mời hai vị này từ hàng ngũ thẩm phán tương lai bước ra. Chánh lục sự Toà thượng thẩm (chỗ ngồi ở bên trái bục Chánh án) đọc sơ yếu lý lịch của hai ông. Tôi nói hai ông tuyên thệ. Ông Chánh án nhất, rồi ông Chưởng lý trịnh trọng, dõng dạc đọc to lời thề đã ghi trên miếng giấy cầm tay, nâng lên trước ngực.

Tôi đứng dậy, cúi chào Chủ tịch nước rồi tuyên bố nhận lời thề của hai ông Chánh án nhất Nguyễn Huy Mẫn và ông Chưởng lý Vũ Trọng Khánh, và truyền cho Chánh lục sự ghi sổ. Hai ông cắp cặp tiến lên bục, trong khi tôi và viên Chánh lục sự rời chỗ bước xuống..

Sau đó, ông Chánh nhất và Chưởng lý toà Thượng thẩm chủ toạ phiên toà, nhận lời thề của 38 viên thẩm phán vừa được phong, thay mặt anh em, cảm ơn Hội nghị. Tôi tiễn Hồ Chủ Tịch ra xe, giữa hai hàng thanh niên tự vệ lập nghiêm, chào và trong tiếng hát "Diệt phát xít" tự phát vang lên trong phòng họp."...

3. Cơ quan Bộ Tư pháp trong kháng chiến

Khi thay Bộ trưởng, cơ cấu của Bộ theo Nghị định 37 ngày 1 tháng 12 năm 1945 gồm 1 văn phòng, 5 Phòng sự vụ vẫn giữ nguyên.

Tháng 3 năm 1946, Bộ trưởng mới ra Nghị định thành lập thêm một cơ quan trong Bộ nhằm nâng cao chất lượng công tác tư pháp, được gọi là Hội đồng cố vấn pháp luật.

Bên cạnh việc lựa chọn thẩm phán cấp cao, Bộ tập trung mở các lớp đào tạo thẩm phán ngắn hạn cho huyện để xây dựng các toà án sơ cấp (huyện).

Theo chỉ thị của Chính phủ, các Bộ phải gấp rút chuẩn bị cho bộ máy thích ứng với cuộc kháng chiến chống Pháp có khả năng sẽ nổ ra. Một kế hoạch cụ thể của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ đã vạch ra cho các Bộ rút về những vùng nào, liên lạc với Chính phủ như thế nào. Đúng như dự kiến của ta, tháng 11 năm 1946 quân Pháp gây hấn, tiến đánh và sau không đầy một tuần chiếm xong thành phố Hải phòng.

ở Hà nội, công việc càng khẩn trương hơn, các kế hoạch tổ chức đưa cơ quan Trung ương rút khỏi Hà nội để lãnh đạo cuộc kháng chiến, công việc chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ đối với các Uỷ ban hành chính như thế nào trong điều kiện chiến tranh bị chia cắt đều được vạch ra cụ thể.

Tối 19 tháng 12 năm 1946 giặc Pháp tấn công Hà nội, Bộ Tư pháp rút về Chương Mỹ - Hà Đông tạm đóng trụ sở ở một nơi đã định trước. Đêm 30 Tết (1947) âm lịch, họp Chính phủ tại thôn Sài Sơn - Quốc Oai, nửa đêm chuyển cuộc họp về Phùng nghe Bộ Tổng chỉ huy báo cáo tình hình. Chính phủ quyết định cấp tốc rời các Bộ lên Châu tự do Tuyên Quang (nay là huyện Sơn Dương) rất gọn nhẹ, mau lẹ. Các Bộ tổ chức lại cách làm việc, cử người về giúp cho các Uỷ ban kháng chiến hành chính Khu hoặc Liên khu thay cho Uỷ ban hành chính Kỳ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ) đã tổ chức khi mới thành lập chính quyền.

Bộ Tư pháp đã thực hiện nhiệm vụ của mình trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp:

1. Tổ chức thật gọn cơ quan Bộ, chỉ gồm 12 người, đưa phần lớn cán bộ có năng lực xuống giúp cho Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu hoặc Khu về công tác tư pháp, thành lập Sở giám đốc Tư pháp Liên khu hoặc Khu.

2. Thành lập Sở giám đốc tư pháp ở các Liên khu thay mặt Bộ Tư pháp bên cạnh các Uỷ ban kháng chiến hành chính - Theo Thông lệnh kháng chiến của Chính phủ, Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu hoặc Khu có thẩm quyền rất lớn theo sự phân quyền của Chính phủ, cả quyền tư pháp (xét xử).

3. Tiếp tục đào tạo, huấn luyện đội ngũ thẩm phán toà án địa phương để triển khai công việc tổ chức, củng cố, kiện toàn các toà án đệ nhị cấp, sơ cấp trên toàn quốc.

4. Tiếp tục tổ chức, củng cố, kiện toàn hệ thống các toà án quân sự.

5. Tham gia Đặc khu đoàn của Chính phủ tiến hành kiểm tra công cuộc kháng chiến tại chỗ.

Cơ quan Bộ được tổ chức rất đơn giản, công việc chủ yếu là soạn thảo các văn bản pháp luật của Chủ tịch Chính phủ giao cho, giữ mối liên lạc với các Sở Giám đốc tư pháp liên khu, Khu, nắm tình hình chung, thực hiện những việc do Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao.

Với một lực lượng 12 người, kể cả Bộ trưởng, từ khi bước vào cuộc kháng chiến đến khi cuộc kháng chiến thắng lợi (1947 - 1954), tính riêng về việc soạn thảo văn bản của Chính phủ và Bộ đã ban hành được 84 văn bản gồm:

32 Sắc lệnh;

25 Nghị định;

23 Thông tư;

4 Thông lệnh.

trên các lĩnh vực:

- Tổ chức cơ quan tư pháp liên khu, tư pháp xã;

- Tổ chức toà án đệ nhị cấp, sơ cấp;

- Tổ chức toà án quân sự, công an quân pháp;

- Tổ chức các cơ quan thi hành án, hỗ giá viên, công an tư pháp, luật sư, tư pháp bảo trợ, trại giam;

- Tổ chức các trường, lớp đào tạo cán bộ;

- Chế độ Hội thẩm nhân dân;

- Quy chế thẩm phán;

- Thiết lập Toà án nhân dân đặc biệt trong cải cách ruộng đất.

- Cải cách tư pháp.

4. Sở giám đốc tư pháp Liên khu hoặc Khu.

Sở giám đốc tư pháp ở các Liên khu hoặc Khu là cơ quan thay mặt Bộ Tư pháp bên cạnh Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu hoặc Khu được tổ chức thay thế cho các Uỷ ban hành chính Kỳ.

Nhiệm vụ chính là thay mặt Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc quản lý các Toà án đệ nhị cấp, sơ cấp, xúc tiến thành lập thêm các Toà án cấp đó ở các địa phương chưa có, thực hiện và chỉ đạo công tác công tố trong khu (ra lệnh bắt, điều tra, truy tố ra toà), thay cho toà thượng thẩm Hà nội, Huế, Sài gòn không còn điều kiện hoạt động, làm cố vấn về pháp luật cho Uỷ ban Kháng chiến hành chính liên khu hoặc khu, chỉ đạo xây dựng Ban tư pháp xã Các Sở giám đốc tư pháp đã được thành lập:

- Sở giám đốc tư pháp khu 10 (vùng Tây bắc cũ) do ông Vũ Trọng Khánh làm giám đốc.

- Sở giám đốc tư pháp khu 14 do ông Lã Văn Lô làm giám đốc, sau nhập với khu 10 thành Liên khu 10+14 (vùng Tây bắc, Phú thọ, hữu ngạn sông Hồng) và do ông Vũ Trọng Khánh làm giám đốc.

- Sở giám đốc tư pháp Liên khu 2 và 11 do ông Nguyễn Văn Hưởng, Thứ trưởng của Bộ về làm giám đốc

- Sở giám đốc tư pháp Liên khu 3 do ông Vũ Văn Huyền làm giám đốc.

- Sở giám đốc Liên khu 1 (Hà nội và các vùng phụ cận) do ông Nguyễn Huy Đẩu làm giám đốc.

- Sở giám đốc tư pháp liên khu 4 (Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình, Trị, Thiên) do ông Trân Kiêm Lý làm giám đốc.

- Sở giám đốc Miền Nam Trung bộ do ông Nguyễn Duy Đính làm giám đốc.

- Sở giám đốc tư pháp Nam bộ do ông Trương Tấn Phát làm giám đốc.

5. Cơ quan Toà án trong ngành tư pháp

Trước ngày toàn quốc kháng chiến, cơ quan toà án các cấp đã được thành lập ở một số địa phương theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946.

ở Bắc Bộ đã thành lập toà thượng thẩm gồm một chánh án, một chưởng lý, 38 thẩm phán, 22 toà án đệ nhị cấp (trừ 5 tỉnh ở vùng Tây bắc và Đông bắc chưa lập được) và 120 toà sơ cấp ở huyện.

ở Trung bộ đã thành lập toà thượng thẩm gồm một chánh án, một chưởng lý, 10 thẩm phán, 19 toà án đệ nhị cấp, 80 toà án sơ cấp ở huyện.

ở Nam Bộ do tình hình chiến sự, quân Pháp đánh chiếm nhiều nơi nên chưa tổ chức được. Khi cuộc kháng chiến vào giai đoạn khốc liệt, các toà thượng thẩm không hoạt động đựơc đã thành lập Hội đồng phúc án ở các liên khu có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các án của toà đệ nhị cấp, phối hợp với Sở giám đốc tư pháp trong việc giúp Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu về các vấn đề xét xử.

Các toà án ở nước ta ngay từ thời kỳ đầu mới thành lập, đã dựa trên những nguyên tắc rất cơ bản của nền tư pháp hiện đại, dân chủ đó là:

- Độc lập với cơ quan hành chính trong khi xét xử, thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật;

- Xử các việc hình có phụ thẩm tham gia;

- Thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm;

- Các phiên toà đều công khai, trừ trường hợp đặc biệt;

- Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo;

Những nguyên tắc cơ bản và quan trọng này được quán triệt và giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong bốn bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992), cũng như những văn bản pháp luật của Nhà nước ta được ban hành sau này về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, toà án. Đây là những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ có tính phổ biến, được vận dụng một cách sáng tạo vào tổ chức bộ máy tư pháp nước ta. Theo Hiến pháp năm 1946 và các sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân thì toà án giữ một vị trí đặc biệt trong bộ máy Nhà nước, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Toà án có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chế độ Nhà nước, chế độ xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ công lý và công bằng xã hội.

Theo Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 13 và Sắc lệnh số 51 năm 1946, các Toà án được tổ chức theo nguyên tắc hai cấp xét xử : đệ nhị cấp và thượng thẩm. Đây là những nguyên tắc khoa học, phù hợp với đặc thù hoạt động của toà án. Suốt một thời gian dài từ năm 1946 đến năm 1960 các Toà án nước ta được tổ chức ở mỗi quận, phủ, huyện, châu. ở mỗi tỉnh và các thành phố Hà nội, Hải phòng và Sài gòn - Chợ lớn có một toà án đệ nhị cấp; Toà án sơ cấp và đệ nhị cấp làm nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, sơ chung thẩm các vụ án hình sự và dân sự, thương sự. ở mỗi kỳ có một toà án thượng thẩm có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án bị kháng cáo. Quản hạt của toà án sơ cấp là địa bàn quận, phủ, huyện, châu; của toà án đệ nhị cấp theo giới hạn của địa hạt tỉnh hay thành phố.

Có thể nói rằng cách tổ chức toà án như vậy có nhiều ưu điểm, đảm bảo được các yêu cầu thuận tiện cho nhân dân, tiết kiệm cho Nhà nước, bảo đảm tính độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân.

Bộ máy tư pháp luôn luôn quán triệt một nguyên tắc tổ chức hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần này được thể hiện qua tổ chức các toà án, biên chế của toà án. Sắc lệnh số 13 quy định rõ biên chế của toà án sơ thẩm gồm có: một thẩm phán, một lục sự và một hay nhiều thư ký giúp việc (Điều 9). Tuỳ nơi nhiều việc hay ít việc có thể tăng thêm số thẩm phán và lục sự hay để một thẩm phán kiêm nhiều chức vụ (Điều 15).

Tuy biên chế rất gọn nhưng sắc lệnh cũng quy định rõ trách nhiệm xét xử của thẩm phán. Đối với toà án sơ cấp, toà án đệ nhị cấp mỗi tuần lễ ít ra phải có hai phiên toà công khai; một phiên hộ, một phiên hình. Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện dù là ngày lễ hay ngày chủ nhật (Điều 10 và Điều 16).

Để đảm bảo kịp thời nhu cầu chính trị của địa phương, phát huy vai trò giáo dục của toà án, đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, đảm bảo thuận lợi cho nhân dân, Chính phủ quy định trách nhiệm của cán bộ toà án "nếu cần, phải mở phiên toà ngoài trụ sở của toà án, ở các nơi xa cách toà". Những quy định giản dị và thực tế đó đã được các toà án của ta vận dụng một cách rộng rãi và phổ biến trong nhiều năm qua, đã làm cho toà án gần dân hơn, nhân dân quan tâm đến toà án, hiểu được toà án hơn, chính vì vậy mà các phán quyết của toà án được nhân dân đồng tình ủng hộ và có tác dụng giáo dục sâu sắc.

Phương châm đối với công tác xét xử của toà án là: "Xét xử đúng là tốt nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn". Trong hoạt động xét xử, công tác hoà giải giữ một vai trò rất quan trọng, có tác dụng giải quyết những mâu thuẫn, các tranh chấp trong nội bộ nhân dân bằng cách phân tích, lý giải, thuyết phục...một cách nhanh chóng, kịp thời, phù hợp với đạo lý truyền thống của người Việt nam. Chính vì vậy mà Ban tư pháp xã bấy giờ gồm có: Chủ tịch, phó Chủ tịch và thư ký được giao thẩm quyền hoà giải tất cả các việc dân sự và thương sự, phạt các việc vi cảnh, thi hành những mệnh lệnh của toà án cấp trên.

Đó là cách tổ chức toà án thường. Về toà án quân sự theo Sắc lệnh số 33 ngày 13 tháng 9 năm 1945 của Chính phủ lâm thời, các toà án quân sự đã được thành lập với thẩm quyền xét xử đồng thời là chung thẩm tất cả những người phạm một việc gì có phương hại cho nền độc lập của nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Những bản án của toà án quân sự được thi hành ngay không có chống án trừ trường hợp bản án tuyên tử hình thì tội nhân có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Bản án được chấp hành sau khi có quyết định bác đơn xin ân giảm của Chủ tịch Chính phủ.

Để giữ vững kỷ luật trong quân đội nhân dân, toà án binh đã được tổ chức có thẩm quyền xét xử những quân nhân phạm pháp hay những người làm việc tại cơ quan chuyên môn của quân đội hoặc những kẻ phạm pháp làm thiệt hại đến quân đội (Sắc lệnh số 163 ngày 23 tháng 8 năm 1946).

Như vậy, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, sau khi cách mạng thành công, một hệ thống toà án thống nhất trong cả nước đã được thiết lập. Hệ thống toà án này căn cứ vào 3 nguyên tắc đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 và Sắc lệnh 13 ngày 24/1/1946.

Toà án thực hiện quyền xét xử theo nguyên tắc độc lập, mỗi thẩm phán chỉ tôn trọng pháp luật và công lý, các cơ quan khác không được can thiệp. Khi xét xử thẩm phán chỉ theo pháp luật và lương tâm của mình, không một quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào việc xử án.

Để giữ được tính độc lập, các thẩm phán đều do Chính phủ trung ương bổ nhiệm làm việc suốt đời. Chế độ phụ thẩm nhân dân tham gia xét xử và chế độ luật sư có quyền biện hộ trước tất cả các toà án, trừ toà án sơ cấp (việc nhỏ không cần đến luật sư) là những chế định bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động xét xử.

Cách tổ chức toà án với những nguyên tắc trên: độc lập khi xét xử - thẩm phán được Chính phủ bổ nhiệm - sự tham gia của phụ thẩm nhân dân - luật sư biện hộ đã đáp ứng lòng mong mỏi của dân về một nền công lý sáng suốt, nhân dân cảm nhận thấy mình được pháp luật bảo vệ và che chở.

Trong cách tổ chức toà án, nét rất đặc sắc là chú trọng tới thẩm quyền của toà án sơ cấp (cơ sở) nhằm giải quyết triệt để mọi sự tranh chấp trong nhân dân một cách nhanh chóng, đơn giản thủ tục mà hình ảnh của nó như là một tổ chức làm nhiệm vụ hoà giải mâu thuẫn trong nhân dân với sự tham gia của Nhà nước. Cách tổ chức: sơ cấp, đệ nhị cấp, thượng thẩm, toà án tối cao thể hiện một trình độ hiện đại về tổ chức tư pháp.

Đối với thẩm phán đệ nhị cấp ngoài tiêu chuẩn về quốc tịch còn phải có ít nhất 24 tuổi, có bằng luật khoa cử nhân và trúng tuyển một kỳ thi.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán toà án sơ cấp. Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán toà án đệ nhị cấp.

Các thẩm phán chia làm hai loại: Thẩm phán xét xử, thẩm phán công tố. Công tác công tố đặt trong toà án, thẩm phán công tố có thẩm quyền độc lập, đứng đầu là Chưởng lý.

Do những thẩm phán lúc đó hầu hết được đào tạo trong chế độ cũ nên Chính phủ đã coi cán bộ tư pháp là "bậc trí thức" có "trách nhiệm nặng nề và vẻ vang", là phải "làm gương cho dân trong mọi việc". Cán bộ Tư pháp là "viên chức của Chính phủ dân chủ cộng hoà" do đó "phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ", "là những người phụ trách thi hành pháp luật, lẽ tất nhiên phải nêu cao cái gương "phụng công thủ pháp", "chí công vô tư" cho nhân dân noi theo".

"Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ", "phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân" (trích thư Hồ Chủ Tịch gửi cán bộ Tư pháp).

Năm 1958, thành lập Toà án tối cao thuộc Chính phủ, Bộ Tư pháp chỉ còn quản lý Toà án địa phương và sau đó đã giải thể chuyển một phần nhiệm vụ cho Toà án nhân dân tối cao và một phần cho Vụ pháp chế Phủ Thủ tướng.

6. Cơ quan Công tố

 

Ngày 13/9/1945, khi thành lập nước Việt nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước ta đã ra Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự Cách mạng, trong đó quy định chức năng buộc tội tại các Toà án này là các Uỷ viên quân sự. Sau đó, theo các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946, hệ thống các viên chức và cơ quan công tố nằm trong hệ thống Toà án các cấp. ở Toà sơ cấp (cấp quận, huyện) thẩm phán làm cả việc xét xử và công tố...ở Toà án đệ nhị cấp (Tỉnh và thành phố) thẩm phán được chia làm hai loại: Thẩm phán xử án và thẩm phán buộc tội của công tố viên. ở Toà án thượng thẩm (Toà án tổ chức ở ba khu vực Bắc - Trung - Nam) có Công tố viên do Chưởng lý đứng đầu và các cán bộ làm công tác công tố chuyên trách với các chức danh như biện lý, phó biện lý... họ được quyền làm các nhiệm vụ tư pháp cảnh sát, thực hiện việc buộc tội trước toà, thực hiện giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát và "có quyền yêu cầu Toà án thi hành mọi phương sách cần thiết để làm sáng tỏ sự thật".

Đến năm 1950, Nhà nước ta thực hiện cải cách bộ máy tư pháp với việc ban hành Sắc lệnh số 85 ngày 25/5/1950; Thông tư số 21/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 7/6/1950; Thông tư liên bộ số 18 ngày 8/6/1950...Việc cải cách cơ quan công tố có hai điểm quan trọng:

- Một là: Về mặt tổ chức, Uỷ ban hành chính kháng chiến các cấp điều khiển công tố viện trong địa hạt của mình; Uỷ ban hành chính kháng chiến có thể ra mệnh lệnh cho công tố viên về đường lối công tố cũng như những mệnh lệnh về các vụ việc cụ thể.

- Hai là: Nhà nước ta mở rộng thẩm quyền cho Công tố viện được quyền kháng cáo những vụ án dân sự như tờ trình Sắc lệnh số 85 đã khẳng định là một sự thay đổi quan niệm xưa cho rằng những việc hộ (dân sự) chỉ là việc của tư nhân, xã hội không can thiệp, nay công tố viện thực hiện công tố có quyền thực hành can thiệp đó.

Năm 1958, cơ quan công tố lại được cải cách và đổi mới trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội nước Việt nam dân chủ cộng hoà khoá I kỳ họp thứ 8 ngày 29/4/1958 và các Nghị định số 256 ngày 1/7/1959, Nghị định số 321 ngày 27/8/1959, theo đó bộ máy Viện Công tố được hình thành thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập, được tổ chức từ Trung ương đến huyện, Viện Công tố Trung ương trực thuộc Chính phủ. Kể từ năm 1958, cơ quan Công tố không thuộc Bộ Tư pháp.

7. Cơ quan tư pháp công an

 

Từ ngày 19/8/1945, trong vòng nửa tháng. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công trong cả nước, sau khi chiếm lĩnh và đập tan các cơ quan đàn áp (mật thám, hiến binh, cảnh sát) của địch, các cơ quan đầu tiên của công an ra đời.

ở Bắc bộ thành lập các Sở cảnh sát, Sở Liêm phóng Bắc bộ và các tỉnh, ở Trung bộ thành lập Sở trinh sát Trung bộ và các tỉnh ở Nam bộ thành lập Quốc gia tự vệ Nam bộ và các tỉnh.

Tổ chức Sở Liêm phóng Bắc bộ gồm có các đơn vị Phòng chính trị, Ban trinh sát chính trị, Phòng Tư pháp, trại giam, phòng hành chính ngoại vụ (phòng hoặc ban căn cước).

Sở trinh sát Trung bộ: gồm có các đơn vị văn phòng, Phòng chính trị, Phòng tư pháp hành chính, Phòng hồ sơ, Ban giao thông vận tải, Ban căn cước. Tổ chức Sở liêm phóng và Sở trinh sát các tỉnh tương ứng như Sở liêm phóng Bắc bộ và Sở trinh sát Trung bộ.

Phòng chính trị vừa làm nhiệm vụ trinh sát các vụ án chính trị (các loại tội phạm phản cách mạng) vừa làm nhiệm vụ hỏi cung, lập hồ sơ truy tố các bọn phạm tội phản cách mạng. Phòng Tư pháp làm nhiệm vụ điều tra, hỏi cung các kẻ phạm tội"về tư pháp" (lưu manh, trộm cắp, cướp của, giết người...).

Các Sở cảnh sát chủ yếu làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự công cộng và phối hợp với Sở liêm phóng đấu tranh chống bọn phản cách mạng bằng biện pháp vũ trang.

Ngày 21/2/1946 Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23 "Hợp nhất các Sở liêm phóng và Sở cảnh sát toàn quốc thành một cơ quan được đặt tên là Việt nam công an vụ".

Ngày 18 tháng 4 năm 1946, Bộ trưởng Nội vụ chiểu theo Sắc lệnh số 23 ngày 21/2/1946 ra Nghị định số 121, quy định cụ thể Tổ chức Việt nam công an vụ có ba cấp:

- Nha công an Việt nam;

- Sở công an Kỳ;

- Ty công an tỉnh

Ngày 20/7/1946, Chủ tịch Chính phủ Việt nam dân chủ cộng hoà ra Sắc lệnh 131 thành lập tổ chức "Tư pháp công an". Sắc lệnh quy định "Tư pháp công an có nhiệm vụ truy tìm tất cả các sự phạm pháp (đại hình, tiểu hình và vi cảnh). Sưu tập các tang chứng, bắt giam người phạm pháp cho các toà án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định".

Tổ chức "tư pháp công an" gồm có những phụ trách tư pháp công an và những uỷ viên tư pháp công an.

Phụ trách tư pháp công an là dự thẩm, biện lý và phó biện lý (đều là các viên chức thuộc toà án).

+ Uỷ viên tư pháp công an bao gồm:

 

a) Về bên toà án: Thẩm phán sơ cấp

b) Về bên công an: Chủ sự và Phó chủ sự các phòng chính trị và phòng tư pháp, Trưởng ban chính trị và Ban tư pháp, Quận trưởng các Quận công an ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Hải phòng, Chợ lớn; Trưởng ty Công an các tỉnh khác; tỉnh nào nhiều việc Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ chỉ định một trưởng ban thay Trưởng Ty làm uỷ viên tư pháp công an.

c) Các ngành khác: Kiểm soát viên kiểm lâm, hoả xa, thương chính được giao tiến hành nhiệm vụ "tư pháp công an" đối với những việc phạm pháp riêng cho từng ngành đó.

+ Quyền kiểm soát và ra chỉ thị đối với phụ trách và uỷ viên tư pháp công an:

- Tất cả phụ trách tư pháp công an và uỷ viên tư pháp công an đều đặt dưới quyền kiểm soát của Chưởng lý toà thượng thẩm.

- Trong phạm vi (quản hạt) một tỉnh, uỷ viên tư pháp công an, đều đặt dưới quyền kiểm soát của biện lý hoặc thẩm phán làm nhiệm vụ biện lý (ghi chú: biện lý về sau gọi là công tố).

Biện lý có quyền ra chỉ thị và kiểm soát công việc của tất cả các uỷ viên tư pháp công an.

+ 24 giờ sau điều tra, khám nhà ở một nơi nào, uỷ viên tư pháp công an phải gửi bản sao văn bản khám phá và tịch thu tang vật cho biện lý tỉnh (nơi điều tra, khám nhà biết).

+ Việc bổ dụng, thăng thưởng và trừng phạt hành chính đối với những uỷ viên tư pháp công an không phải là thẩm phán viên đều làm sau khi hỏi ý kiến của biện lý và trưởng lý (thuộc ngạch thẩm phán của toà án).

 

Về tổ chức "Tư pháp công an" theo Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946 thì đó là hình thức điều tra theo tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà.

Về pháp lý, chỉ có những cán bộ công an: Trưởng ty, Trưởng phòng, Trưởng ban chính trị. Tư pháp hoặc Trưởng Ban khác được Bộ Nội vụ chỉ định mới được công nhận là Uỷ viên tư pháp công an, có quyền điều tra các vụ phạm pháp "thu thập tang chứng, bắt người phạm pháp" giao cho toà án xét xử.

Việc chỉ đạo, kiểm soát "tổ chức và hoạt động tư pháp công an" thuộc thẩm quyền của các Chưởng lý, biện lý (sau này là Công tố, kiểm sát) ở ngành tòa án. Tổ chức tư pháp công an không có tính độc lập và bị phụ thuộc, chi phối của toà án.

Các hoạt động điều tra bí mật (trinh sát) của công an không chuyển hoá qua hoạt động "tư pháp công an" đều không có giá trị pháp lý.

Cán bộ hỏi cung chỉ là thư ký giúp việc cho Uỷ viên tư pháp công an, mặc dầu trong thực tế cán bộ hỏi cung là người điều tra, lập hồ sơ vụ phạm pháp. Cán bộ trinh sát vừa làm trinh sát vừa làm hỏi cung.

Các ngành kiểm lâm, hoả xa (đường sắt), thương chính (nay là thương mại, hải quan...) đều có tổ chức "tư pháp công an" gần tương ứng với Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự hiện nay.

8. Cuộc tranh luận tư pháp độc lập với hành chính.

Tháng 4 năm 1948, trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn rất quyết liệt, giặc Pháp vừa thất bại thảm hại trong chiến dịch tấn công lên Việt Bắc, nơi mà các cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đều tập trung ở vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang, biết bao công việc bề bộn mà vẫn nổ ra cuộc tranh luận lý thuyết và thực tiễn để xây dựng tốt hơn bộ máy Nhà nước của ta, xung quanh mối quan hệ tư pháp với hành chính. Trong lịch sử ngành tư pháp, cuộc tranh luận này là một sự kiện lớn, kéo dài khoảng hai năm trên diễn đàn công khai của Báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng. Báo Độc lập của Đảng dân chủ Việt nam cũng có bài nhưng chỉ đề cập một cách gián tiếp không tham gia tranh luận.

Đại diện cho cuộc tranh luận, một bên là Đồng chí Quang Đạm, nhà nghiên cứu lý luận Mác - Lê Nin, một bên là ông Vũ Trọng Khánh nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp (1945 - 1946). Thời gian tham gia tranh luận ông là Giám đốc Tư pháp Khu 10 (vùng Phú Thọ ngược lên Tây Bắc).

Không những cuộc tranh luận là một sự kiện lớn trong lịch sử phát triển ngành mà nó còn có ý nghĩa nhất định trong việc nghiên cứu quá trình xây dựng Nhà nước ta, trong các mối quan hệ chủ yếu giữa tư pháp với hành chính, giữa Chính phủ với Toà án, giữa Quốc hội, Chính phủ, Toà án, một vấn đề hiện nay vẫn còn đang có tính thời sự của việc nghiên cứu (xem thêm phần trích dẫn tại Phần III. Các văn bản và tư liệu).

 

III. Ngành tư pháp trong những năm cuối của cuộc kháng chiến

* Cải cách tư pháp (1950)

* Toà án nhân dân đặc biệt trong cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất.

* Thành lập và kiện toàn các toà án vùng mới giải phóng ở miền Bắc (cuối thời kỳ kháng chiến chống Pháp).

1. Cải cách tư pháp 1950

Cuộc kháng chiến đã vượt qua được nhiều khó khăn nên từ đầu năm 1949, việc kiện toàn chính quyền nhân dân đã được đẩy mạnh thêm một bước với việc tổ chức bầu cử lại Hội đồng nhân dân ở vùng tự do, củng cố Hội đồng nhân dân ở các vùng du kích, vùng sau lưng địch..., với các lớp huấn luyện rèn - cán - chỉnh - cơ (rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn cơ quan) với Hội nghị cán bộ chính quyền toàn quốc...

Về tư pháp, cuộc cải cách được tiến hành trên cả ba mặt: Cải cách về luật pháp (Sắc lệnh số 97 ngày 22/05/1950 qui định những nguyên tắc cơ bản về dân sự...). Cải cách về tố tụng (Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 qui định một số vấn đề về quyền khởi kiện, quyền của phụ nữ trong ly hôn...) và cải cách về tổ chức.

Cải cách cả ba mặt nói trên là dân chủ hoá thêm một bước tổ chức và hoạt động tư pháp phù hợp với Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 "đảm bảo các quyền tự do dân chủ, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" và trên cơ sở sự trưởng thành của cán bộ chính quyền nói chung, cán bộ tư pháp nói riêng qua thực tiễn kháng chiến và qua học tập lý luận, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt nam.

Về tổ chức đã có những cải cách sau:

Đổi tên gọi Toà án sơ cấp, đệ nhị cấp là Toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh.

Hợp nhất toà án quân sự khu hay liên khu với Hội đồng Phúc án để lập Toà án nhân dân liên khu có thẩm quyền xử các việc chính trị và phúc thẩm của Hội đồng Phúc án.

Đối với các việc chính trị không phức tạp và ít nghiêm trọng. Toà án nhân dân Liên khu có thể uỷ quyền cho toà án nhân dân tỉnh.

Giám đốc tư pháp Liên khu chuyển sang làm nhiệm vụ công tố bên cạnh Toà án nhân dân Liên khu và gọi là Công tố uỷ viên, chức danh biện lý ở các Toà án nhân dân tỉnh cũng được đổi là công tố uỷ viên. Việc đổi tên này không chỉ đơn thuần là vấn đề danh từ mà để thể hiện sự thống nhất của quyền công tố ngay từ khi kháng chiến đã được giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính khu rồi Liên khu hành sự thay mặt Bộ Tư pháp và Chính phủ. Công tố uỷ viên phải chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu và tỉnh về đường lối truy tố chung và cụ thể. Chánh án và các thẩm phán xử án cũng chịu sự chỉ đạo chung về đường lối xét xử nhưng đối với từng việc, thì độc lập quyết định trên cơ sở đánh giá đúng đắn chứng cứ đối chiếu với luật pháp.

Đào tạo cán bộ công nông chọn lựa qua hoạt động của hội thẩm nhân dân. Những cán bộ đã kinh qua công tác chính quyền đoàn thể như công đoàn, thanh niên, phụ nữ ... được bầu hay chỉ định làm hội thẩm nhân dân thường trực, và qua con đường này một số đã trưởng thành, được lựa chọn bổ sung cho ngành.

ở Toà án nhân dân Liên khu, tiến hành bầu cử Chánh án trong số thẩm phán chuyên môn và hội thẩm nhân dân.

5) Nâng chế định phụ thẩm nhân dân thành hội thẩm nhân dân

Khác với phụ thẩm nhân dân trước với quyền hạn còn thấp như đã nói trên, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán chuyên môn, có quyền biểu quyết về tội danh cũng như hình phạt, trong các việc hình sự và nội dung các quyết định trong các việc dân sự, hôn nhân - gia đình.

Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp hoặc cấp dưới bầu nhiệm kỳ một năm. Nơi nào Hội đồng nhân dân chưa có điều kiện hoạt động thì do các đoàn thể nhân dân cử vào danh sách do Uỷ ban kháng chiến hành chính cùng cấp lập hàng năm. ở Toà án nhân dân các cấp đều có Hội thẩm nhân dân luân phiên thường trực.

Thành phần Hội đồng xét xử từ nay thống nhất cho các loại việc hình sự, dân sự và vi cảnh là ba người: chánh án và hai hội thẩm nhân dân.

Đẩy mạnh công tác hoà giải: ở cấp huyện, thành lập Hội đồng Hoà giải gồm thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân.

Mở rộng công tác bào chữa. Trước đây, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa. Nay theo Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949 và Nghị định ngày 12/1/1950 của Bộ tư pháp, bị cáo hoặc đương sự có quyền nhờ một công dân trên 21 tuổi, chưa can án, bào chữa hoặc bênh vực quyền lợi cho mình trước toà án. Người công dân làm bào chữa phải được Chánh án, toà án hữu quan (từ cấp tỉnh trở lên) chấp nhận trên cơ sở kiểm tra các điều kiện về tư cách như nói trên.

Chánh án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của bị cáo cử người bào chữa cho bị cáo, cử luật sư hoặc cử một công dân do các đoàn thể giới thiệu.

8) Cùng với những cải cách như trên ở vùng tự do và vùng sau lưng địch. Sắc lệnh số 157 ngày 17/11/1950 quy định việc thành lập Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm.

Đặc điểm của toà án này là về quản hạt có thể gồm một số xã tạm bị chiếm trong cùng một tỉnh, trong cùng một huyện hay nhiều huyện, hay một số huyện trong tỉnh... quản hạt được quy định như vậy cho phù hợp với tình hình cụ thể từng nơi và để toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm có thể mở rộng quản hạt tuỳ theo sự phát triển của so sánh lực lượng giữa ta và địch trên các chiến trường, và ở từng địa bàn cụ thể.

Với quản hạt như trên, Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm vừa "có thẩm quyền của toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh và Toà án quân sự", có nghĩa là xét xử từ các việc vi cảnh đến tội đại hình cả về hình sự thường và chính trị.

Việc thành lập các toà án này là thực hiện chủ trương của Hội nghị cán bộ chính quyền toàn quốc lần thứ VI ngày 14 - 18/1/1949 về "trừ gian, chống tề, phá chính quyền bù nhìn" để đề cao uy thế của chính quyền nhân dân trong vùng tạm bị chiếm "bảo vệ nhân dân và trừng trị nguỵ quyền". Bản án được thi hành ngay, tố tụng đơn giản nhưng không được tuỳ tiện và "trái với những chủ trương của Chính phủ".

Sắc lệnh quy định toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm phải có Chánh án và Công tố uỷ viên là thẩm phán. Trường hợp không có, thì theo đề nghị của Uỷ ban kháng chiến hành chính và Giám đốc tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ định người ngoài ngạch thẩm phán. Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu có thể được uỷ quyền việc quyết định nhân sự của Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm.

2. Toà án nhân dân đặc biệt trong cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất

" Để bảo đảm việc thi hành chính sách ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố chính quyền nhân dân, đẩy kháng chiến đến thắng lợi" Toà án đặc biệt có nhiệm vụ "trừng trị những kẻ phản cách mạng, những kẻ chống, phá hoại chính sách ruộng đất, về phân định thành phần giai cấp trong khi thực hiện chính sách ruộng đất". (Sắc lệnh 150 ngày 12/11/1953)

 

Thành phần tòa án đặc biệt gồm 1 Chánh án và từ 6 đến 10 thẩm phán, đa số là trung, bần, cố nông; bần cố nông phải nhiều hơn trung nông. Một nửa số thẩm phán này do Nông hội hoặc Hội nghị đại biểu nông dân cử ra.

Công cuộc cải cách ruộng đất nhất là ở đợt 5 đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, công khai tự phê bình trước toàn Đảng, toàn dân, vạch kế hoạch sửa sai và kỷ luật cán bộ.

Sai lầm do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng cơ bản là:

- Chưa nhận thức đầy đủ những đặc điểm của xã hội nước ta, mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và dân tộc là những sai lầm trong tư tưởng chỉ đạo, tả khuynh, áp dụng máy móc kinh nghiệm bên ngoài.

- Việc tổ chức thực hiện đã có những thiếu sót nghiêm trọng: các cơ quan cải cách ruộng đất tổ chức thành một hệ thống riêng từ trên xuống dưới với những quyền hạn quá rộng, vượt ra ngoài pháp luật của Nhà nước, độc đoán, chuyên quyền trầm trọng, chủ quan, tự mãn, trấn áp, xử trí bừa bãi, đàn áp ý kiến và thúc ép làm theo ý mình.

Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội đã nghe Hội đồng Chính phủ kiểm điểm, đã quyết định cách chức Phó chủ nhiệm Uỷ ban cải cách ruộng đất, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp, thi hành kỷ luật một số cán bộ và bãi bỏ toà án đặc biệt.

3. Thành lập và kiện toàn các toà án vùng mới giải phóng ở miền Bắc (cuối thời kỳ kháng chiến chống Pháp)

Trước khi Hiệp định Giơ Ne Vơ được ký kết, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng từ 15 đến 18/7/1954 để nhận định tình hình, bàn về nhiệm vụ mới, trong đó có nhiệm vụ tiếp thu các vùng mới giải phóng đặc biệt là tiếp thu và quản lý thành thị. Chính sách đối với các thành thị mới giải phóng được đề ra như sau:

"- Bảo hộ tính mệnh, tài sản của toàn thể nhân dân trong thành phố.

- Cấm chỉ không được giết ẩu, bắt bừa, chỉ bắt những tên đang cầm vũ khí chống lại ta, hoặc đang tích cực hoạt động chống lại ta.

- Bảo hộ công thương nghiệp: - Tiếp thu và quản lý công thương nghiệp của thực dân và bù nhìn... - Bảo hộ công thương nghiệp của tù nhân người Việt nam và ngoại kiều, ngăn ngừa những hành động phá hoại hoặc cản trở việc phục hồi công thương nghiệp.

- Tôn trọng tự do tín ngưỡng, bảo hộ nhà thờ, đền, chùa, miếu mạo. Những người nào lợi dụng tôn giáo, làm việc phản quốc, vi phạm pháp luật thì nghiêm trị".

Một số cán bộ tư pháp được cử vào các đội hành chính đi tiền trạm làm việc tiếp quản cùng với quân đội trước khi Chính phủ về Thủ đô.

Toà án nhân dân thành phố và Toà án phúc thẩm Hà Nội (tương đương với toà án nhân dân liên khu) đã được thành lập với Công tố uỷ viên, Chánh án và Thẩm phán đều là cán bộ có trình độ chính trị và pháp lý, có kinh nghiệm công tác. Một số viên chức trong các cơ quan tư pháp của Pháp - nguỵ được giữ lại làm việc theo đúng chủ trương của Chính phủ. Toà án nhân dân khu Tả Ngạn (Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Kiến An) đã được thành lập cùng với việc kiện toàn các toà án tỉnh, huyện của đồng bằng sông hồng. ở Hải Phòng sau khi hết hạn tập kết của quân đội Pháp cũng đã thành lập ngay Toà án nhân dân thành phố và toà án phúc thẩm.

Các Toà án nhân dân của Hà Nội cũng như trong cả nước, đã tích cực làm việc "thanh lý tích án" tức là giải quyết các vụ án còn tồn đọng của Toà án đặc biệt góp phần để sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất.

IV. ngành tư pháp trong thời kỳ giải phóng miền Bắc

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Với đặc điểm của thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước đã quyết định tổ chức lại nền hành chính ở miền Bắc, đồng thời tổ chức lại hệ thống tư pháp sau cuộc Cải cách tư pháp năm 1950.

Trong hệ thống hành chính, việc tổ chức lại hướng vào các vấn đề chủ yếu:

1. Bỏ cấp khu và liên khu. Các Uỷ ban kháng chiến - hành chính liên khu, khu kết thúc hoạt động.

2. Tổ chức lại chính quyền đô thị vừa được giải phóng nhất là các đô thị lớn như Hà nội - Hải phòng.

3. Tổ chức lại chính quyền địa phương nông thôn với 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) đều có Hội đồng nhân dân (trong kháng chiến chống Pháp, cấp huyện không có Hội đồng nhân dân).

Dựa theo hệ thống tổ chức mới của nền hành chính, với những đặc điểm của hệ thống tư pháp sau khi đã có cuộc Cải cách tư pháp 1950, Đảng và Nhà nước đã chủ trương kiện toàn hệ thống tư pháp bao gồm những vấn đề chủ yếu:

1. Kết thúc hoạt động của Sở Giám đốc tư pháp Liên khu và Khu, trước đây là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu và Khu.

 

Các cán bộ công tác tại Sở Tư pháp được chuyển sang làm nhiệm vụ ở toà án phúc thẩm hoặc toà án đệ nhị cấp hoặc về Bộ Tư pháp.

2. Tổ chức các toà án phúc thẩm khu vực như Toà án phúc thẩm Hà nội, Toà án phúc thẩm Hải phòng, Toà án Khu Tả ngạn v..v. làm nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án sơ thẩm của toà án tỉnh.

3. Thành lập Toà án nhân dân tối cao thuộc Hội đồng Chính phủ

Hiến pháp năm 1946 đã quy định trong các cấp xét xử ở nước ta có Toà án tối cao. Vì điều kiện chiến tranh chưa thành lập được nên sau khi hoà bình lập lại, trong kỳ họp thứ 8 khoá I, Quốc hội đã quyết định thành lập Toà án nhân dân tối cao thuộc Chính phủ.

Nghị định số 381 năm 1959 của Chính phủ đã quy định Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất có nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương và Toà án quân sự các cấp.

Toà án nhân dân tối cao xử sơ thẩm, chung thẩm những vụ án mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao và những vụ án đặc biệt mà Viện Công tố trung ương hoặc Toà án nhân dân tối cao thấy phải do Toà án nhân dân tôí cao xét xử; Xử phúc thẩm, chung thẩm những vụ án do toà án cấp dưới xử sơ thẩm trong các trường hợp có kháng nghị của cơ quan Công tố hoặc của đương sự; Xử lại hoặc chỉ thị cho toà án cấp dưới xử lại những vụ án đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có sai lầm; Duyệt lại các án tử hình.

Toà án nhân dân tối cao còn có nhiệm vụ nghiên cứu đường lối chính sách xét xử, nghiên cứu các đạo luật về hình sự và dân sự, hướng dẫn các toà án áp dụng pháp luật, đường lối chính sách, thi hành các thủ tục hình sự và dân sự, vạch chương trình công tác, kiểm tra công tác xét xử, tổng kết kinh nghiệm công tác xét xử của toà án các cấp, quản lý cán bộ và biên chế ngành toà án.

4. Thành lập Viện Công tố Trung ương thuộc Chính phủ.

Cùng với việc thành lập Toà án nhân dân tối cao, việc thành lập Viện Công tố trung ương cũng được Chính phủ quyết định để làm cho các hoạt động 6xét xử và tố tụng ăn khớp, hợp lý, vận hành nhanh chóng.

Theo Nghị định 256/TTg ngày 1/7/1959 thì nhiệm vụ chung của Viện Công tố là giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật Nhà nước, truy tố theo luật hình những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của người công dân, bảo đảm cho công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi.

Nhiệm vụ cụ thể của Viện Công tố là điều tra và truy tố trước toà án những kẻ phạm pháp về hình sự; Giám sát việc chấp hành luật pháp trong công tác điều tra của cơ quan điều tra; Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc xét xử của các toà án; Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động của cơ quan giam giữ và cải tạo; Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.

5. Tổ chức Tư pháp sau giải phóng.

Với việc thành lập Toà án nhân dân tối cao, Viện Công tố Trung ương, đồng thời trong Chính phủ đã lập ra Thứ Bộ Công an nên đến tháng 1 năm 1960 Chính phủ ra Nghị định số 1/CP quy định lại chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn Bộ Tư pháp bao gồm các điểm sau:

- Nghiên cứu những quy định về hệ thống tổ chức và thẩm quyền của toà án nhân dân địa phương các cấp, của tư pháp ở xã; Hướng dẫn việc thực hiện các quy định ấy.

- Nghiên cứu và dự thảo các Bộ luật và các đạo luật tổng hợp về dân sự, hình sự và thủ tục tố tụng.

- Chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm mục đích giáo dục cho nhân dân ý thức tuân theo pháp luật.

- Nghiên cứu những quy định về hội thẩm nhân dân, về tổ chức luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên và quản lý các tổ chức ấy.

- Đào tạo và giáo dục cán bộ toà án và cán bộ tư pháp.

- Quản lý cán bộ và biên chế của ngành tư pháp (không còn có toà án và công tố).

- Hướng dẫn, kiểm tra và tổng kết công tác của ngành tư pháp.

Tổ chức của Bộ Tư pháp gồm có:

- Vụ tổ chức cán bộ;

- Vụ tuyên giáo;

- Vụ nghiên cứu pháp luật;

- Trường cán bộ tư pháp;

- Văn phòng và một số phòng giúp việc do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định thành lập sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

ở các Khu, tỉnh, thành phố sẽ thành lập các cơ quan tư pháp.

Tháng 7 năm 1960, theo Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ được Quốc hội thông qua (ngày 14/7/1960), trong thành phần Chính phủ không còn có Bộ Tư pháp nữa. Không có văn bản quy định sự giải thể Bộ Tư pháp và công việc của Bộ được chuyển giao cho các cơ quan nào.

Trong thực tiễn chỉ đạo, công việc của Bộ Tư pháp đã giao phần lớn cho Toà án nhân dân tối cao và một phần cho Vụ Pháp chế Phủ Thủ tướng.

phần ba

Bộ tư pháp giải thể, thành lập Uỷ ban pháp chế

(1960 - 1981)

Gồm 7 điểm:

* Giải thể Bộ Tư pháp.

* Chuyển chức năng của Bộ Tư pháp cho các cơ quan.

* Thành lập Uỷ ban pháp chế thuộc Chính phủ.

* Thống nhất đất nước - Uỷ ban pháp chế tiếp nhận công tác của Bộ Tư pháp trong Chính phủ cách mạng lâm thời Miền nam Việt Nam.

* Thống nhất hệ thống pháp luật trong cả nước.

* Thành lập trường Đại học pháp lý thuộc Uỷ ban pháp chế.

* Thành lập Ban pháp chế ở các Bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

I. Giải thể Bộ Tư pháp

Sự kiện giải thể Bộ Tư pháp là một sự kiện lớn trong lịch sử phát triển của ngành. Cho đến nay nhiều câu hỏi vẫn đặt ra về nguyên nhân đích thực của việc giải thể.

Vào thời điểm 1958, Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1946 đã được thành lập, đã huy động các cơ quan ở Trung ương tham gia việc soạn thảo, kể cả việc soạn thảo 5 đạo luật lớn về tổ chức Nhà nước gắn liền với việc soạn thảo Hiến pháp.

Năm đạo luật đó là Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án, Luật tổ chức Viện kiểm sát, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Trong khi thảo luận và soạn thảo 5 đạo luật này, việc nghiên cứu, tổ chức lại Chính phủ cũng như tổ chức lại các cơ quan như Quốc hội, Toà án, Viện Công tố đều được đem ra cân nhắc, phân tích.

Sửa đổi Hiến pháp, viết lại các đạo luật về tổ chức cơ quan Nhà nước, chấn chỉnh và kiện toàn các Bộ, phân cấp lại cho các tỉnh, thành phố trong điều kiện đã giải phóng miền Bắc, khôi phục kinh tế, chuẩn bị đưa miền Bắc vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tiến hành đấu tranh thống nhất đất nước đòi hỏi trước hết phải tổ chức lại các cơ quan trung ương. Đó là một đòi hỏi khách quan.

Nhiều Bộ được tách ra như Bộ Công thương được chia thành Bộ Công nghiệp và Bộ Thương nghiệp; Bộ Canh nông thành Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường, Tổng cục Thuỷ sản, Tổng cục lâm nghiệp. Có cơ quan được thành lập mới như Uỷ ban kế hoạch quốc gia, có Bộ lập ra thời kỳ đầu của Nhà nước nay nhập vào Bộ khác như Bộ Thanh niên.

Bộ Tư pháp nằm trong bối cảnh lịch sử đó, việc thành lập Toà án nhân dân tối cao, Viện Công tố Trung ương, Thứ Bộ Công an (phụ trách việc quản lý trại giam) nên việc xem xét lại tổ chức của Bộ trong điều kiện cụ thể đó là một việc bình thường để chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức. Chúng tôi nói đó là một việc bình thường vì lẽ ngay từ năm 1956, khi mới giải phóng miền Bắc, Nhà nước ta đã lập ra Uỷ ban kiện toàn tổ chức trung ương để xúc tiến công việc kiện toàn tổ chức ở tất cả các ngành, các cấp.

Đó cũng là thời điểm chúng ta rất chú trọng nghiên cứu kinh nghiệm của Liên Xô trong tổ chức bộ máy Nhà nước, xem đó như mô hình kiểu mẫu của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tất cả các lĩnh vực ở miền Bắc.

Vào thời điểm này, không hiểu vì lý do nội bộ như thế nào, Liên Xô giải thể Bộ Tư pháp Liên bang, chỉ giữ lại Bộ tư pháp ở các nước Cộng hoà nằm trong Liên bang và lập nên Uỷ ban pháp lý trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Thông tin mà chúng ta nắm được là Bộ Tư pháp ở các nước Cộng hoà có thể làm hết mọi việc về tư pháp kể cả vấn đề liên quan đến toà án và công tố. Bộ Tư pháp Liên bang không cần thiết nữa vì không còn có hoạt động quản lý. Hoạt động xét xử và hoạt động công tố thì đã có Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao Liên Xô thực hiện. Đấy là lý do giải thể Bộ Tư pháp Liên Xô - Họ nhấn mạnh nhiều đến chính thể Liên bang, công việc đã đưa về các nước Cộng hoà nên không cần có Bộ Tư pháp Liên bang.

Mô hình đó của Liên Xô ảnh hưởng rất lớn (theo chủ quan của nhóm đề tài) đến suy nghĩ, nhận thức của các nhà tổ chức, lập pháp nước ta lúc đó. Có thể đây là một nguyên cớ dẫn đến sự giải thể Bộ Tư pháp của chúng ta. Vào khoảng năm 1967, 1968 (nhóm đề tài nhớ không rõ về năm tháng) Bộ Tư pháp Liên Xô lại được tái lập, Uỷ ban pháp lý trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô kết thúc hoạt động. Năm 1970, Liên Xô triệu tập Hội nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp các nước xã hội chủ nghĩa họp lần thứ nhất tại Budapest nhằm xây dựng các mối quan hệ hợp tác giữa Bộ Tư pháp các nước xã hội chủ nghĩa. Việt Nam chưa có Bộ Tư pháp nên không tham dự. Năm 1972 họp lần thứ hai tại Matxcơva, năm 1975 tại Vác sa va, sau đó cứ 2,3 năm lại họp một lần tại một nước xã hội chủ nghĩa.

Từ năm 1972, Việt Nam đều đặn tham gia các cuộc hội nghị này với tư cách Uỷ ban pháp chế của Chính phủ và từ năm 1981 thì tham gia với tư cách Bộ Tư pháp.

Việc giải thể Bộ Tư pháp ở nước ta có thể còn có một nguyên nhân khác nữa. Chúng tôi nói có thể nghĩa là cần xem xét kỹ nguyên nhân này, đánh giá nó trong quá trình lịch sử của ngành.

Vào khoảng năm 1956 - 1957, ở Hà Nội có xuất hiện phong trào nhân văn - giai phẩm trong sinh viên, một số trí thức và văn nghệ sĩ. Phong trào này có khuynh hướng lãng mạn, đề cao tự do cá nhân, phê phán chủ nghĩa tập thể. Họ ra tờ báo nhân văn, tạp chí giai phẩm mùa thu đả kích vào sự quản lý của Nhà nước trong một số lĩnh vực, kêu gọi tự do cá nhân. Trong tình hình đó có dư luận cho rằng Đảng dân chủ Việt Nam phần nào ủng hộ phong trào này. Ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp đương chức trong Chính phủ ta lại là một trong vài nhân vật đứng đầu Đảng Dân chủ.

Việc giải thể Bộ Tư pháp diễn ra trong một trình tự đơn giản, êm ả, không gây xáo động và dư luận gì.

Sau khi Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 1959 vào ngày 31 tháng 12 năm 1959, các đạo luật tổ chức Quốc hội, tổ chức Chính phủ, tổ chức Toà án, Viện Kiểm sát được lần lượt thông qua trong năm 1960, 1961.

Ngày 14/7/1961, Quốc hội thông qua Luật tổ chức Chính phủ. Trong luật này, có một điều khoản quy định về cơ cấu của Chính phủ gồm 20 Bộ nhưng trong đó không có Bộ Tư pháp. Như vậy, mặc nhiên Bộ Tư pháp không có trong bộ máy Chính phủ. Ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp được chuyển về công tác tại Tổ luật học thuộc cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội (sau này trở thành Viện luật học của Uỷ ban khoa học xã hội). Không có một quyết định chính thức nào của cơ quan có thẩm quyền về việc giải thể Bộ Tư pháp.

II. Chuyển chức năng của Bộ Tư pháp cho các cơ quan

Khi giải thể Bộ Tư pháp vào năm 1961, không có một văn bản nào quy định sự phân chia các chức năng của Bộ Tư pháp cho các cơ quan. Mặc nhiên trong Luật tổ chức toà án nhân dân quy định Toà án nhân dân tối cao quản lý toà án địa phương; Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao quản lý trực tiếp hệ thống kiểm sát địa phương; Bộ Công an thì quản lý trại giam - đây là những nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trước đây.

Còn lại các chức năng lập pháp, tuyên truyền giáo dục pháp luật, quản lý các tổ chức tư pháp (luật sư, công chứng, giám định, thi hành án, lý lịch tư pháp...) và chức năng tư pháp đối ngoại được coi là các vấn đề tương trợ và uỷ thác tư pháp thì không rõ ràng thuộc về cơ quan nào.

Vào cuối năm 1961, đồng chí Phạm Văn Bạch lúc đó là Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã cùng với đồng chí Phan Mỹ, Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng, Phạm Khắc Hoè Vụ trưởng Vụ pháp chế Văn phòng Phủ Thủ tướng đã thoả thuận sự phân công về các chức năng kể trên như sau:

- Chức năng lập pháp: Toà án nhân dân tối cao đảm nhận công việc soạn thảo về Luật Hình và Luật Hộ (Dân sự). Văn phòng Chính phủ cùng với các Bộ của Chính phủ đảm nhận công việc soạn thảo về Luật Hành chính, Luật Kinh tế và các luật khác.

- Chức năng tuyên truyền giáo dục pháp luật: Văn phòng Chính phủ cùng các Bộ chỉ đạo tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong tất cả các lĩnh vực, Toà án nhân dân tối cao chỉ đạo các cấp toà án tuyên truyền giáo dục pháp luật trước các phiên toà.

- Quản lý các tổ chức tư pháp: Toà án nhân dân tối cao đảm nhận.

- Tương trợ và uỷ thác tư pháp: Vì các mối quan hệ chỉ diễn ra chủ yếu trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện qua các Đại sứ quán nên đề nghị để Bộ Ngoại giao đảm nhận.

III. Thành lập Uỷ ban pháp chế thuộc Chính phủ

Ngay sau khi giải thể Bộ Tư pháp, vào những năm 1962, 1963, 1964, trong nhiều cuộc họp thảo luận công việc tại Phủ Thủ tướng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, nhiều người đã nhận thấy sự cần thiết phải tái lập lại Bộ Tư pháp.

Nguồn cán bộ pháp lý cung cấp cho các ngành không có, nhu cầu thì nhiều, ngay cả việc cung cấp cho các cơ quan pháp luật cũng hầu như rất hiếm. Việc gửi sinh viên ra các nước xã hội chủ nghĩa học về luật không có cơ quan lo cùng Bộ Đại học.

Công việc làm luật tiến triển rất ít, hầu hết là xây dựng các văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư) do các Bộ làm trình Chính phủ ban hành.

Việc nghiên cứu thành lập lại Bộ Tư pháp đã được xúc tiến ngay từ thời kỳ đó nhưng vì miền Bắc bắt đầu có chiến tranh không quân nên công việc có chậm lại.

Tuy vậy, giữa năm 1965 Ban bí thư vẫn ra một quyết định thành lập trường Đại học pháp lý, cử đồng chí Trần Công Tường lúc đó là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xúc tiến thành lập trường (Văn bản quyết định này hiện nay chưa sưu tầm được)

Cuộc chiến tranh không quân ở miền Bắc ngày càng mở rộng nên nhiều việc phải tạm ngừng, đồng chí Trần Công Tường chuẩn bị tham gia vào phái đoàn của nước ta đàm phán tại Paris, nên công việc mở trường hầu như không còn nghĩ tới.

Cuối năm 1971, triển vọng hoà bình ở miền Bắc có phần sáng sủa, đồng chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ thị trực tiếp việc nghiên cứu lập lại Bộ Tư pháp.

Hơn một năm nghiên cứu, với sự tham gia trực tiếp của đồng chí Hoàng Quốc Việt Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đồng chí Phạm Văn Bạch Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đồng chí Bảy Huệ (vợ đồng chí Nguyễn Văn Linh) đại diện Ban tổ chức Trung ương Đảng, đề án thành lập Bộ Tư pháp được hoàn tất.

Các đồng chí Thường vụ Hội đồng Chính phủ đã nghe đề án nhiều lần vào giữa năm 1972, có lần có cả đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội sang họp tham gia ý kiến, đã đi đến một ý kiến thống nhất là sau 3 năm nữa sẽ lập Bộ Tư pháp, trước mắt lập ra Uỷ ban pháp chế của Chính phủ, hoạt động một thời gian sẽ chuyển dần thành Bộ Tư pháp. Trong hội nghị quyết định về thành lập Uỷ ban pháp chế, đồng chí Phạm Văn Đồng đề nghị điện ngay cho anh Trần Công Tường đang ở trong phái đoàn Paris trở về nước để nhận chức Chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế.

Chức năng của Uỷ ban pháp chế được quy định theo Nghị định 190/CP năm 1972 về cơ bản giống như chức năng của Bộ Tư pháp thời kỳ trước, trừ công việc rất quan trọng là quản lý các toà án nhân dân địa phương vẫn để ở bên Toà án nhân dân tối cao chờ khi lập Bộ Tư pháp sẽ chuyển về (xem Nghị định 190/CP năm 1972 kèm theo).

Từ khi thành lập từ cuối năm 1972 cho tới khi thống nhất đất nước (1975), thực tế thời gian hoạt động hai năm, với lượng cán bộ chuyên môn chỉ có 4, 5 người công việc chuyên môn tiến triển chậm, chỉ đáp ứng công việc trước mắt.

Uỷ ban pháp chế đã phối hợp với nhiều cơ quan tiếp tục soạn thảo Bộ luật Hình sự (đang làm dở dang từ trước) Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật lao động, Luật Ruộng đất.

Về tuyên truyền, ra tờ Thông tin pháp chế.

Về thành lập ngành, dần dần tổ chức bộ phận pháp chế ở các Bộ, Tổng cục; Ban pháp chế ở các tỉnh.

Về tương trợ tư pháp, theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao bắt đầu nghiên cứu soạn thảo Hiệp định tương trợ tư pháp với Cộng hoà dân chủ Đức.

Về đào tạo, xây dựng đề án thành lập Trường Đại học pháp lý và mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ pháp chế các Bộ, Tổng cục và các tỉnh.

Tiếp tục tìm cán bộ chuyên môn pháp lý về Uỷ ban và tuyển một số cán bộ có trình độ về các lĩnh vực khác về Uỷ ban.

IV. Thống nhất đất nước - Uỷ ban pháp chế tiếp nhận công việc của Bộ Tư pháp trong Chính phủ cách mạng lâm thời Miền nam Việt Nam.

Khi giải phóng Miền nam (1975), ngày 9/5/1975 ba đoàn cán bộ của ba cơ quan Uỷ ban pháp chế, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do ba đồng chí Phạm Văn Bạch, Trần Công Tường và đồng chí Huỳnh Lắm - Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã vào thành phố Sài Gòn để cùng Bộ Tư pháp Chính phủ lâm thời Miền nam Việt Nam tiếp quản Bộ Tư pháp của Nguỵ.

Theo quyết định của Ban Bí thư, ba đoàn phải đi chung để tiếp quản Bộ Tư pháp của Nguỵ bởi vì Bộ Tư pháp của Nguỵ quyền quản lý cả Toà án và Công tố. Tổ chức tiếp quản xong, ba đồng chí Bạch, Tường, Lắm đã giao cho Bộ Tư pháp của Chính phủ cách mạng lâm thời Miền nam Việt Nam chỉ đạo công việc của cả ba ngành ở các tỉnh phía Nam cho đến khi thống nhất đất nước (1976) thì chuyển giao lại công việc:

- Quản lý toà án cho Toà án nhân dân tối cao;

- Quản lý Công tố cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;

- Công việc còn lại như: lập pháp, chưởng khế, luật sư, thi hành án, trung tâm nghiên cứu pháp luật... giao cho Uỷ ban pháp chế.

V. Thống nhất hệ thống pháp luật trong cả nước.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Uỷ ban pháp chế trong thời kỳ này là phải rà soát lại hệ thống pháp luật của Chính phủ ta ở Miền Bắc với hệ thống pháp luật của Chính phủ cách mạng lâm thời Miền nam Việt Nam, tổng hợp thành một hệ thống thống nhất, dùng chung cho cả nước.

Với hơn một vạn văn bản (10.000) từ năm 1945 đến 1975, kể từ Luật, Sắc lệnh, Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ và một số ít Thông tư của các Bộ Tài chính, Uỷ ban kế hoạch và cơ quan tổng hợp khác. Uỷ ban pháp chế đã cùng các Bộ, Tổng cục hệ thống lại toàn bộ, đánh giá các quy định, loại bỏ những điểm đã lỗi thời, giữ lại những quy định còn phù hợp với tình hình trong 664 văn bản.

Kết quả đã được Chính phủ trình Quốc hội thông qua vào năm 1976, công bố 664 văn bản gồm phần lớn là Luật, Pháp lệnh, Nghị định trở thành một hệ thống pháp luật thống nhất được thi hành trong cả nước (xem Nghị quyết số 76 kèm theo về vấn đề này).

VI. Thành lập Trường Đại học pháp lý thuộc Uỷ ban pháp chế.

Việc thành lập Trường Đại học pháp lý vào năm 1979 trực thuộc Uỷ ban pháp chế là một quá trình hoạt động không mệt mỏi của những người quan tâm đến đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý ở Việt Nam.

Trước khi thành lập trường Đại học pháp lý, đã có các trường đào tạo pháp lý ở các trình độ khác nhau:

- Trường cán bộ tư pháp thuộc Toà án nhân dân tối cao đã mở hai khoá liên tiếp vào những năm 1960, 1961, 1962 với chương trình đại học do Giáo sư Liên Xô giảng trực tiếp, mỗi khoá khoảng gần ba năm. Sau hai khoá đó, trường Cán bộ toà án của Toà án nhân dân tối cao vẫn tiếp tục giảng dạy ở trình độ trung cấp cho đến khi nhập vào trường Đại học pháp lý (1981).

- Trường Cao đẳng pháp lý thuộc Uỷ ban pháp chế mới được thành lập vào năm 1979 trên cơ sở của trường trung học pháp lý đã hoạt động được hơn hai năm.

- Khoa pháp lý trường Đại học tổng hợp Hà nội được thành lập từ năm 1976.

Tháng 11 năm 1979 trường Đại học pháp lý trực thuộc Uỷ ban pháp chế đã được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường Cao đẳng pháp lý với Khoa pháp lý trường Đại học tổng hợp theo Quyết định số 405/CP của Hội đồng Chính phủ. Về sau, khi thành lập Bộ Tư pháp thì Toà án nhân dân tối cao đã có quyết định đưa trường trung cấp toà án hợp nhất với trường Đại học pháp lý. (Vấn đề này xin xem thêm tại Phần thứ II - Một số hoạt động của ngành tư pháp trong 55 năm (1945-2000))

 

VII. Thành lập Ban pháp chế ở các Bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Từ khi thành lập Uỷ ban pháp chế một trong những mối quan tâm lo lắng của các đồng chí có trách nhiệm trong cơ quan là tổ chức thành lập các Vụ hoặc Phòng pháp chế ở các Bộ, Tổng cục và các Ban pháp chế ở các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Khó khăn chính là không có cán bộ chuyên môn nên các Bộ, các tỉnh ngần ngại thành lập một bộ phận quá mới mẻ. Hơn nữa, nhận thức về công tác pháp chế, về tầm quan trọng của hoạt động lập pháp, lập quy cũng chưa được coi trọng, nhiều người cho rằng không cần đến công tác pháp chế.

Tuy vậy, những năm đầu xây dựng ngành (1973 - 1975) trước khi thống nhất đất nước, một số Bộ, Tổng cục đã thành lập Vụ pháp chế, Ban Pháp chế, Phòng Pháp chế như Bộ giao thông vận tải, Tổng cục bưu điện, Bộ Thủy lợi, Bộ Nội vụ (Công an), Quốc phòng, Ngoại giao, Ngoại thương, Nội thương, Vật tư, Tài chính, Ngân hàng, Lao động, Giáo dục, Quản lý ruộng đất,...hoạt động có nhiều hiệu quả đối với ngành.

ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhiều nơi đã lập ra Ban Pháp chế như Thái bình, Hà nội, Hà tây, Vĩnh phú, Nghệ an, Hải Hưng, Hải phòng, Cao bằng, Hà bắc...hoạt động có nhiều uy tín đối với địa phương. Năm 1975 khi giải phóng Miền nam, mặc dù chưa chính thức thống nhất đất nước, việc thành lập Ban pháp chế tỉnh được hưởng ứng ở hầu hết các tỉnh phía Nam mà địa phương mở đầu thành lập vào cuối năm 1975 là thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Quảng nam - Đà nẵng, Đồng tháp, Tiền Giang, Đồng Nai, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Hậu Giang.

Hệ thống pháp chế địa phương, sau năm 1976 đã lần lượt thành lập, hoạt động tới năm 1981 thì chuyển sang hình thức Sở Tư pháp.

VIII. Tổ chức nội bộ Uỷ ban pháp chế.

 

Việc thành lập Uỷ ban pháp chế của Chính phủ bước đầu đã thu gom công việc trước đây của Bộ Tư pháp trừ nhiệm vụ quản lý toà án địa phương. Về sau này, khi chuyển Uỷ ban pháp chế thành Bộ Tư pháp thì nhiệm vụ quản lý toà án địa phương và nhiệm vụ đào tạo cán bộ toà án cùng với trường cán bộ toà án đã chuyển từ Toà án nhân dân tối cao sang Bộ Tư pháp.

Công việc xây dựng pháp luật và hệ thống hoá pháp luật đã được Uỷ ban pháp chế chú ý, hướng dẫn nghiệp vụ cho pháp chế các Bộ, Tổng cục, cơ quan pháp chế của Uỷ ban nhân dân các tỉnh. Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, công tác quản lý hành chính tư pháp (luật sư, công chứng, giám định tư pháp, thi hành án, lý lịch tư pháp, thống kê tư pháp...) đã được chuyển từ Toà án nhân dân tối cao sang Uỷ ban pháp chế.

Phải nói rằng vì thiếu cán bộ chuyên môn phụ trách các Vụ nên công việc của Uỷ ban pháp chế tiến triển chậm.

Lúc đầu thành lập vào cuối năm 1972, cơ quan có 5 người gồm 1 chủ nhiệm, 2 chuyên viên và 2 nhân viên hành chính quản trị.

Trụ sở làm việc nhờ vào trụ sở của Văn phòng Hội đồng Chính phủ, đến đầu năm 1973 được cấp một trụ sở tại số 5 Ông ích Khiêm.

Vào thời gian đó, vì thiếu người, chưa có Phó chủ nhiệm nên đồng chí Trần Công Tường tạm phân công các chuyên viên cấp Vụ theo từng khối công tác.

Năm 1974, Chính phủ bổ nhiệm hai Phó chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế là đồng chí Nguyễn Ngọc Minh và đồng chí Phạm Tống Hoằng. Đồng chí Nguyễn Ngọc Minh vẫn kiêm chức Viện trưởng Viện luật bên Uỷ ban khoa học xã hội nên không tham gia nhiều công việc của cơ quan.

Đồng chí Phạm Tống Hoằng nguyên là Vụ trưởng của Ban tổ chức Trung ương sang làm Phó chủ nhiệm phụ trách nội bộ, dự định xúc tiến vào công việc xin cán bộ cho Uỷ ban pháp chế. Nhưng mới sang được ít ngày thì Miền nam được giải phóng, đồng chí Hoằng phải vào để nắm tình hình Bộ Tư pháp nguỵ quyền cùng Bộ Tư pháp của Chính phủ cách mạng lâm thời tiếp quản công việc tư pháp.

Năm 1976, Uỷ ban có thêm một số cán bộ cấp Vụ được điều động tới Uỷ ban pháp chế, sự phân công, bố trí được điều chỉnh lại, các Vụ đều có người phụ trách gồm Văn phòng, Vụ pháp luật chung và hệ thống hoá pháp luật, Vụ pháp luật kinh tế, Vụ hướng dẫn thi hành pháp luật, Vụ tuyên truyền giáo dục pháp luật, Vụ hành chính tư pháp, Vụ tổ chức cán bộ, Viện nghiên cứu pháp lý. Riêng về trường Đại học pháp lý vì đang làm Đề án nên chưa có người phụ trách.

Cùng thời gian này (1976) trường Đại học tổng hợp Hà nội mở khoa pháp lý, khoá đầu tuyển khoảng 30 sinh viên, do anh Nguyễn Ngọc Minh làm Chủ nhiệm khoa. Anh Minh vẫn kiêm chức Phó chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế và Viện trưởng Viện luật của Uỷ ban khoa học xã hội (năm 1979 Khoa này nhập với trường Cao đẳng pháp lý thành Đại học pháp lý trực thuộc Uỷ ban pháp chế và nay là Trường Đại học Luật Hà nội).

Kết quả mà Uỷ ban pháp chế làm được như đã ghi ở các phần trên là những thành tựu "vạn sự khởi đầu nan" của một cơ quan mới thành lập, đến thời kỳ này (1976 - 1977) số lượng cán bộ khoảng 40 người, 1 chủ nhiệm, 2 phó chủ nhiệm (có một người kiêm nhiệm chức vụ), 8 cán bộ cấp Vụ, gần 20 chuyên viên, còn lại là nhân viên hành chính quản trị.

Năm 1978, sức khoẻ của đồng chí Trần Công Tường bị giảm sút, nên mọi việc ở cơ quan hầu như do đồng chí Phạm Tống Hoằng giải quyết.

Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Thọ đã đề nghị Thủ tướng Phạm Văn Đồng để đồng chí Trần Công Tường được nghỉ hưu.

Vấn đề là chưa có người thay đồng chí Trần Công Tường nhưng ý định cho đồng chí Tường nghỉ hưu đã được quyết định nên lúc đó đã phải chọn một phương án tạm thời là: để đồng chí Nguyễn Ngọc Minh làm quyền Chủ nhiệm Uỷ ban.

Do đồng chí Minh vẫn kiêm nhiệm nhiều việc như trước nên công việc của Uỷ ban pháp chế tiến triển chậm.

Chính tình hình đó đã đi đến một quyết định nhanh chóng của Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm đồng chí Trần Quang Huy nguyên là Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương, Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo của Phủ Thủ tướng làm Chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế vào đầu năm 1979.

Công việc đầu tiên mà đồng chí quan tâm là lập cho được trường Đại học pháp lý trên cơ sở nhập hai đơn vị: Khoa pháp lý trường Đại học tổng hợp và trường Cao đẳng pháp lý. Do có uy tín trong khối văn giáo nên việc thành lập trường diễn ra nhanh chóng vào cuối năm 1979.

Đồng chí cũng rất chú ý đến việc chỉnh đốn nội bộ cơ quan Uỷ ban pháp chế. Do có nhiều mối quan hệ mật thiết với đồng chí Phạm Văn Đồng, Trường Chinh; đồng chí xúc tiến việc nghiên cứu tái lập Bộ Tư pháp, giao cho đồng chí Nguyễn Ngọc Minh cùng một nhóm cán bộ xây dựng các đề án về Bộ Tư pháp đồng thời vơí việc soạn thảo Hiến pháp 1980 thay thế Hiến pháp năm 1959 đang làm khẩn trương bên Quốc hội.

Về nội bộ, đồng chí đề nghị Ban bí thư ra quyết định để đồng chí Phạm Tống Hoằng và đồng chí Trần Châu Giáo nghỉ hưu. Sau khi hai đồng chí này được nghỉ hưu, chưa có người thay thế, đồng chí Huy trực tiếp chỉ đạo công việc có đồng chí Nguyễn Ngọc Minh, Phó chủ nhiệm giúp việc.

Đề án tái lập Bộ Tư pháp do đồng chí Trần Quang Huy trực tiếp chỉ đạo, thành lập trên cơ sở của Uỷ ban pháp chế được xúc tiến rất khẩn trương vì theo chương trình của Quốc hội thì cuối năm 1980 thông qua Hiến pháp, từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1981 sẽ thông qua Luật tổ chức Chính phủ, đây cũng là dịp tốt nhất để trình Quốc hội về Đề án tái lập Bộ Tư pháp.

Xin nói thêm về một số sự kiện tái lập Bộ Tư pháp:

Năm 1961, Bộ Tư pháp giải thể. Công việc phần lớn chuyển cho Toà án nhân dân tối cao và Vụ Pháp chế của Phủ Thủ tướng.

Sau khi giải thể, năm 1962 đã có nhiều ý kiến trình lên Ban Bí thư và Thường vụ Chính phủ về thành lập lại Bộ Tư pháp vì Toà án nhân dân tối cao và Vụ Pháp chế không đảm nhận hết được công việc của Bộ Tư pháp trước đây mà nhu cầu thực tiễn lại rất đòi hỏi, như công tác quản lý văn khế (nay ta gọi là công chứng), lý lịch tư pháp, luật sư, thi hành án, cố vấn pháp luật cho các cơ quan hành chính địa phương... Ngay cả những việc đã giao cho Toà án nhân dân tối cao và Vụ pháp chế cũng có nhiều ý kiến cho rằng không hợp lý. Công tác đào tạo cán bộ luật học không có người phụ trách.

Người phát biểu nhiều lần, có ý kiến chính thức lại là đồng chí Phạm Văn Bạch lúc đó là Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đồng chí Lê Giản lúc đó là Phó Chánh án toà án nhân dân tối cao.

Năm 1964, Chính phủ lập ra một tổ nghiên cứu về cải tiến quản lý kinh tế dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, tổ này đã tiếp xúc với một số chuyên gia nước ngoài, họ đã rất ngạc nhiên vì Việt Nam không có Bộ Tư pháp - Cần nói thêm khi giải thể Bộ Tư pháp Việt Nam ngoài lý do khác, chúng ta có tham khảo kinh nghiệm của Liên Xô nhưng chỉ biết Liên Xô bỏ Bộ Tư pháp liên bang, ít để ý đến ở 15 nước Cộng hoà vẫn có Bộ Tư pháp.

Qua tình hình đó, Thủ tướng đã chỉ thị cho nghiên cứu tái lập Bộ Tư pháp. Năm 1965, do chiến tranh không quân đánh phá miền Bắc lan rộng nên việc nghiên cứu này có phần chững lại.

Năm 1968, mặc dù chiến tranh vẫn còn ác liệt, Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ thị cho Phó Thủ tướng mời đồng chí Trần Công Tường, nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp từ năm 1945, lúc đó đang tham gia phái đoàn Việt Nam đàm phán tại Paris về nước để phụ trách việc lập lại Bộ Tư pháp. Do bận công việc nên đồng chí Trần Công Tường chưa về nước được, nhưng ở trong nước, theo chỉ thị của Thủ tướng việc nghiên cứu tái lập Bộ Tư pháp vẫn được tiếp tục nghiên cứu.

Đề án tái lập Bộ Tư pháp được thảo luận nhiều lần giữa các đồng chí Hoàng Quốc Việt lúc đó là Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đồng chí Phạm Văn Bạch lúc đó là Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đồng chí Trần Hữu Dực Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, đại diện của Ban tổ chức Trung ương là đồng chí Bảy Huệ (vợ đồng chí Nguyễn Văn Linh).

Tất cả các cuộc họp đều khẳng định việc tái lập Bộ Tư pháp với chức năng, nhiệm vụ giống như quy định tại Nghị định 37 về Bộ Tư pháp từ năm 1945.

Là cán bộ biên tập cho Đề án này, tôi đã phải xem lại hết các Sắc lệnh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký, các nhân vật chủ yếu đã hoạt động về thời kỳ đó như đồng chí Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hoè, Nguyễn Văn Hưởng...

Đề án hoàn tất, mọi người thống nhất ý kiến, vào một buổi tối giữa năm 1972, đồng chí Phạm Văn Đồng mời đồng chí Trường Chinh lúc đó là Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (thực ra là có cả Hoàng Văn Hoan lúc đó là Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) đến họp tại Phủ Thủ tướng để chuẩn bị trình ra Quốc hội về tổ chức tư pháp. Trong cuộc họp, nhiều ý kiến rất khác nhau, chủ yếu xoay quanh việc đánh giá đồng chí Trần Công Tường, vì đồng chí Tường sẽ được gọi từ Paris về để nhận nhiệm vụ lãnh đạo cơ quan này. Cuối cùng, đồng chí Phạm Văn Đồng kết luận: chưa thành lập ngay Bộ Tư pháp mà lập ra một cơ quan là Uỷ ban pháp chế, sau một thời gian sẽ lập Bộ Tư pháp.

Uỷ ban Pháp chế được thành lập theo Nghị định 190/CP năm 1972 trên cơ sở của đề án đã chuẩn bị, chỉ có khác dự kiến là chưa chuyển ngay việc quản lý các toà án địa phương về Uỷ ban pháp chế - có nghĩa là một Thứ Bộ tư pháp (tên thường gọi của thời kỳ đó) đã ra đời, chưa làm trọn vẹn mọi công việc của Bộ Tư pháp, chủ yếu là việc quản lý toà án.

Thời kỳ này, một sự kiện lớn của lịch sử đất nước là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước - Uỷ ban pháp chế được giao trọng trách cùng các Bộ và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam lựa chọn một hệ thống pháp luật thống nhất áp dụng chung cho cả nước trên cơ sở chủ yếu của hệ thống pháp luật miền Bắc và một phần hợp lý của hệ thống pháp luật Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam.

Năm 1976, Quốc hội đã ra Nghị quyết về hệ thống pháp luật thống nhất này gồm 664 văn bản Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư.

a. Chuẩn bị thành lập lại Bộ Tư pháp

Năm 1978, đồng chí Trần Công Tường - Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp chế được nghỉ hưu, đồng chí Nguyễn Ngọc Minh - Phó Chủ nhiệm được chỉ định tạm thời phụ trách Uỷ ban Pháp chế và nhận được chỉ thị từ đồng chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng chuẩn bị thành lập Bộ Tư pháp.

Đồng chí Nguyễn Ngọc Minh cùng hai chuyên gia là tôi và đồng chí Phạm Thái lúc bấy giờ là Vụ trưởng ở Toà án nhân dân tối cao soạn các đề án thành lập Bộ Tư pháp.

Năm 1979, đồng chí Trần Quang Huy được cử sang làm Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp chế, vẫn cho tiếp tục nghiên cứu việc lập lại Bộ Tư pháp - Đồng chí Nguyễn Ngọc Minh, tôi và đồng chí Phạm Thái tiếp tục soạn thảo, gặp nhiều cơ quan có trách nhiệm, hội họp nhiều lần để đi đến những dự kiến thống nhất. Lúc bấy giờ, chúng ta cũng bắt đầu làm việc với Bộ Tư pháp Cộng hoà dân chủ Đức về một bản Hiệp định tương trợ tư pháp giữa hai nước nên chúng ta cũng có điều kiện để tham khảo, so sánh.

Đầu năm 1981, Ban Nội chính Trung ương do đồng chí trưởng ban Lê Quốc Thâu triệu tập một cuộc họp với tất cả các cán bộ cấp Vụ của Uỷ ban Pháp chế tại trụ sở của Ban Nội chính - số 4 Nguyễn Cảnh Chân.

Cuộc họp có khoảng 15 cán bộ cấp Vụ được triệu tập. Trong cuộc họp, đồng chí Lê Quốc Thâu nêu vấn đề chuẩn bị thành lập Bộ Tư pháp, sau đó đồng chí Nguyễn Đức Tâm - Uỷ viên Bộ Chính trị, trưởng ban tổ chức trung ương đặt vấn đề hỏi ý kiến các đồng chí tham dự cuộc họp là nên chọn Bộ trưởng như thế nào? Ai làm là xứng đáng? Bộ Tư pháp có nhiều công việc đối ngoại, vậy có nên có một Bộ trưởng biết cả công việc pháp luật với đối ngoại không?

Cuối cùng, mỗi người viết ý kiến của mình vào một tờ giấy, muốn nói dài ngắn tuỳ ý, nếu để đồng chí Trần Quang Huy hiện đang làm chủ nhiệm chuyển thành Bộ trưởng hoặc nếu cử người khác thì lý do như thế nào? Ai có thể về đó làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Mỗi người viết một bản gửi lại cho Ban tổ chức trung ương, không ai biết ý kiến của ai. Đầu tháng 6 năm 1981, chúng tôi vẫn được chỉ thị phải hoàn thiện dự thảo Nghị định thành lập Bộ Tư pháp. Giữa tháng 6 năm 1981, Quốc hội họp, thông qua các dự luật trong đó có Luật về tổ chức Hội đồng Bộ trưởng, đổi tên Hội đồng Chính phủ thành Hội đồng Bộ trưởng. Trong Luật có ghi Hội đồng Bộ trưởng có bao nhiêu Bộ, và trong danh sách các Bộ có Bộ Tư pháp.

Bộ Tư pháp được thành lập theo đạo luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng và sau đó khi thông qua danh sách Hội đồng Bộ trưởng do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đề nghị thì đồng chí Phan Hiền đã được cử giữ chức Bộ trưởng.

b. Nghị định 143/HĐBT ra đời

Sau khoảng một tuần có quyết định của Quốc hội, đồng chí Phan Hiền tiếp xúc riêng với đồng chí Nguyễn Ngọc Minh và một số anh em cấp Vụ tại nhà riêng.

Sau đó, đồng chí Phan Hiền đến cơ quan Uỷ ban Pháp chế tuyên bố theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng do Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng thông báo thì cơ quan Uỷ ban pháp chế sẽ chuyển thành cơ quan Bộ Tư pháp.

Tất cả cán bộ, nhân viên của Bộ đều làm việc bình thường, theo sự phân công đã có, chờ Nghị định chính thức của Hội đồng Bộ trưởng mới điều chỉnh dần. Cuộc họp đó rất ngắn, sau đó đồng chí Nguyễn Ngọc Minh có hỏi đồng chí Phan Hiền về cương vị công tác của mình (lúc đồng chí Minh làm việc ở Uỷ ban pháp chế vẫn làm Viện trưởng Viện luật của Uỷ ban khoa học xã hội). Đồng chí Phan Hiền trả lời, sẽ đề nghị đồng chí Nguyễn Ngọc Minh làm Thứ trưởng thường trực.

Về Nghị định quy định cụ thể chức năng, quyền hạn của Bộ Tư pháp, tôi được đồng chí Phan Hiền giao cho soạn thảo lại và phải làm việc rất khẩn trưởng, thật nhanh để Nghị định ra đời càng sớm càng tốt.

Tôi đã gặp gỡ làm việc nhiều lần về Nghị định này với anh Trịnh Nguyên - Phó ban Tổ chức Chính phủ, anh Lê Huy Bảo - Phó ban tổ chức Trung ương, anh Hoàng Du - Phó chủ nhiệm văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

Anh Hoàng Du có thông báo cho tôi, Nghị định 143/HĐBT được đồng chí Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký vào ngày chủ nhật và được ghi trên văn bản là ngày 22 tháng 11 năm 1981.

Phần bốn

Tái lập ngành tư pháp

(1981- 2000)

* Tổ chức và hoạt động theo Nghị định 143/HĐBT ngày 22/11/1981 (1981-1993)

* Tổ chức hoạt động theo Nghị định 38/CP ngày 4/6/1993 (1993-2000)

 

I. Tổ chức hoạt động theo Nghị định 143/HĐBT

1. Cơ cấu, tổ chức mới.

2. Tiếp thu nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương. Cuộc tranh luận về quản lý toà án.

3. Thúc đẩy xây dựng pháp luật.

4. Đặt công tác tuyên truyền pháp luật là mũi nhọn.

5. Mở các quan hệ quốc tế về tư pháp.

6. Mở rộng đào tạo và nghiên cứu khoa học.

7. Thay đổi lãnh đạo Bộ

1. Cơ cấu tổ chức mới.

Tái lập Bộ tư pháp là một quyết định thuận theo một quá trình tất yếu vì công việc đã được chuẩn bị từ nhiều năm.

Việc đầu tiên mà Bộ trưởng mới quan tâm là chỉ đạo khẩn trương việc biên soạn Nghị định về tổ chức Bộ Tư pháp làm cơ sở cho việc tổ chức và triển khai hoạt động.

Ngày 22/11/1981, Nghị định 143/HĐBT đã được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành.

Bộ máy Bộ Tư pháp theo Nghị định này bao gồm các Vụ xây dựng pháp luật, Vụ tuyên truyền giáo dục pháp luật, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Vụ quản lý Toà án, Vụ quản lý các tổ chức khác, Vụ tổ chức và cán bộ, Vụ đào tạo, Trường đại học pháp lý, Văn phòng và các đơn vị trực thuộc Bộ.

ở Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có Vụ pháp chế, ở cấp tỉnh có Sở Tư pháp, ở cấp huyện, cấp xã có Ban Tư pháp. ở các Tổng công ty, Liên hiệp xí nghiệp có cố vấn pháp luật, nhiều Tổng công ty có Phòng pháp chế.

Có thể nói, khi tái lập Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ nhiều hơn và bộ máy, hệ thống lớn hơn so với Bộ Tư pháp trước đây (xem Nghị định 143/HĐBT kèm theo).

Đồng thời, với việc quyết định bộ máy, Chính phủ đã bổ nhiệm hai Thứ trưởng cho Bộ Tư pháp là đồng chí Phùng Văn Tửu và đồng chí Đào Xuân Miễn. Hai đồng chí đều công tác lâu năm tại Toà án, đồng chí Tửu làm Giám đốc Trường cán bộ Tư pháp sau đó làm chuyên gia pháp lý tại Cămpuchia, đồng chí Đào Xuân Miễn làm Chánh án toà án tỉnh Quảng Ninh chuyển về.

Sau khi tiếp thu công việc quản lý Toà án địa phương, Chính phủ bổ nhiệm thêm một Thứ trưởng phụ trách các tỉnh phía Nam là chị Nguyễn Thị Chơn, hoạt động lâu năm trong đoàn thể phụ nữ.

2. Tiếp thu công việc quản lý toà án địa phương - Cuộc tranh luận về quản lý toà án

Toà án nhân dân tối cao thực hiện nhanh chóng việc bàn giao nhiệm vụ quản lý Toà án nhân dân địa phương, chuyển trường cán bộ Toà án tại Hà Nội (Láng) và Trường cán bộ Toà án thành phố Hồ Chí Minh (Bình Triệu) và đưa một số cán bộ của Vụ tổ chức sang Bộ Tư pháp.

Sự hợp tác giữa Toà án với Bộ, giữa cán bộ cấp Vụ, giữa lãnh đạo hai cơ quan rất chặt chẽ nên việc tiếp thu, nắm tình hình cán bộ toà án có nhiều thuận lợi.

Công việc quản lý toà án địa phương có rất nhiều việc phải làm, do có thuận lợi nên những năm đầu việc quản lý đạt một số kết quả nhất định. Việc quan trọng là nắm tình hình nhân sự Thẩm phán, biết rõ điểm yếu, điểm mạnh của từng người để mỗi nhiệm kỳ bầu lại thẩm phán có được ý kiến chính xác trong việc lựa chọn thẩm phán. Do chế độ thẩm phán bầu nên Bộ Tư pháp phải quan hệ rất chặt chẽ với Toà án tối cao, với cấp uỷ địa phương và các Ban tổ chức chính quyền các cấp.

Bên cạnh công việc về nhân sự, công việc nghiên cứu, chỉ đạo về tổ chức, thống nhất cách tổ chức Toà án cấp tỉnh, cấp huyện theo các nguyên tắc tố tụng, quy định biên chế cho mỗi cấp Toà án đều là những vấn đề khá phức tạp.

Về đào tạo, số đông thẩm phán chưa qua Đại học nên nhiệm vụ của Vụ quản lý Toà án, Vụ tổ chức, Trường đại học pháp lý rất nặng nề. Con số sau đây chứng minh tình hình đó. Nhiệm kỳ 1981-1985, số lượng thẩm phán tỉnh là 445 người, có 106 đã qua Đại học, 169 trung cấp, 150 bồi dưỡng ngắn ngày, 20 chưa học gì. Số lượng thẩm phán huyện là 1547 người, đã qua đại học 202, trung cấp 644, bồi dưỡng ngắn ngày 598, chưa học 103.

Cơ sở vật chất và các phương tiện làm việc của Toà án cấp tỉnh, huyện hết sức nghèo nàn, hầu như không có gì trừ hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. ở một số tỉnh phía Nam, có nơi trụ sở Toà án của Nguỵ quyền khá đàng hoàng nhưng cơ quan khác đã tiếp quản. Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện cho Toà án địa phương là một nhiệm vụ lớn, đặc biệt trong thời kỳ này còn chế độ bao cấp, nên nhiều lần ở Uỷ ban kế hoạch gợi ý Bộ nên có một Vụ kế hoạch để tính toán kỹ vì số lượng ngân sách rất lớn. Rất tiếc, lãnh đạo Bộ đã không đồng ý lập Vụ kế hoạch nên công việc xây dựng cơ sở cho Toà án địa phương tiến triển không nhiều.

Công việc quản lý Toà án địa phương trong những năm đầu diễn ra thuận lợi với sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao, thì về sau, từ năm 1989 đã xuất hiện nhiều ý khác nhau về trách nhiệm quản lý Toà án địa phương.

Nhiều cuộc trao đổi giữa các chuyên viên hai cơ quan, nhiều bài báo đăng trên tạp chí của Toà án nhân dân tối cao, trên tạp chí Pháp chế xã hội chủ nghĩa của Bộ Tư pháp, các cuộc Hội thảo khoa học của đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước về Quản lý Toà án địa phương.

Các đồng chí lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao khi đi xuống làm việc đều đưa ra những ý kiến của mình về việc toà án địa phương cần trở về dưới sự quản lý của Toà án tối cao, vận động các đồng chí lãnh đạo địa phương và các đồng chí công tác tại các Toà án địa phương ủng hộ ý kiến của mình.

Hội nghị tổng kết công tác năm 1987 của ngành tư pháp vào tháng 4 năm 1988 diễn ra ở Quy Nhơn với thành phần tham dự gồm Giám đốc các Sở Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân các tỉnh, cán bộ cấp Vụ của Bộ Tư pháp đã thảo luận sôi nổi về vấn đề quản lý Toà án do một số Chánh án Toà án tỉnh nêu ra, tập trung vào mấy điểm:

- Một số Chánh án Toà án tỉnh đòi hỏi phải đưa nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương về Toà án nhân dân tối cao, không nên để tình trạng "một cổ, hai tròng", Toà án nhân dân địa phương vừa phụ thuộc Toà án nhân dân tối cao, vừa phụ thuộc vào Bộ Tư pháp, hơn nữa còn phụ thuộc vào cấp uỷ địa phương.

- Số đông Chánh án và Giám đốc Sở Tư pháp cho rằng Bộ Tư pháp quản lý Toà án địa phương là đúng nguyên tắc tổ chức, trong số này cũng có người nói Bộ Tư pháp làm quá ít về công tác quản lý Toà án nhất là vấn đề chính sách, chế độ cho thẩm phán, xây dựng cơ sở vật chất...

- Hầu hết đều nhận thấy công tác quản lý toà án địa phương của Bộ Tư pháp còn yếu, ít kết quả.

Vào thời điểm 1989 - 1990, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao đều có báo cáo riêng của mình lên Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng về công tác quản lý Toà án địa phương. Riêng Bộ Tư pháp có một Đề án toàn diện về đổi mới tổ chức tư pháp địa phương.

Quan điểm nổi bật của Toà án nhân dân tối cao về vấn đề quản lý Toà án địa phương là "nắm việc phải nắm người", Toà án nhân dân tối cao là người chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ xét xử, có khả năng quản công việc, nắm rõ trình độ, phẩm hạnh của Thẩm phán, đặt kế hoạch nâng cao đội ngũ, điều kiện sống còn bảo đảm chất lượng xét xử.

Nắm việc phải nắm cán bộ đó là nguyên lý hoạt động của mọi tổ chức theo ý kiến của Toà án nhân dân tối cao. Chuyển cho Toà án nhân dân tối cao trách nhiệm quản lý Toà án địa phương là để bảo đảm cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện trách nhiệm theo Hiến pháp quy định là Chánh án phải báo cáo công tác xét xử trước Quốc hội. Còn tránh được sự chồng chéo trong quản lý Toà án bởi vì có quá nhiều cơ quan cấp trên quản lý Toà án địa phương.

Quan điểm của Bộ Tư pháp hoàn toàn khác với Toà án nhân dân tối cao. Theo nhóm đề tài thì có lẽ cho đến nay (2000) hai ý kiến khác nhau đó vẫn tồn tại. Nếu trong lịch sử 54 năm của ngành (1945 - 1999) thì Bộ Tư pháp có 34 năm quản lý Toà án địa phương, Toà án nhân dân tối cao có 20 năm quản lý Toà án địa phương thì chắc hai quan điểm đó phải được thảo luận kỹ lưỡng hơn nữa. Tiếc rằng, trên thế giới hầu hết các nước đều đặt quan hệ quản lý của Bộ Tư pháp với Toà án nhân dân địa phương, còn giữa Toà án nhân dân tối cao với Toà án các cấp đều là quan hệ tố tụng.

Đỉnh cao của sự khác nhau về trách nhiệm quản lý Toà án nhân dân địa phương là Toà án nhân dân tôí cao đã đơn phương trình ra Quốc hội kỳ họp năm 1990 về kiến nghị chuyển trách nhiệm quản lý Toà án địa phương về Toà án nhân dân tối cao. Tài liệu trình Quốc hội này đã được gửi đến từng đại biểu Quốc hội xem xét.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phan Hiền buộc phải báo cáo tình hình với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười trong khi Quốc hội đang họp. Đồng chí Chủ tịch Đỗ Mười đã bàn với các cơ quan bên Đảng, sau đó Ban Bí thư đã chỉ thị cho đồng chí Phạm Hưng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao thu hồi tài liệu đó và việc thu hồi đã được thực hiện ngay trong kỳ họp Quốc hội.

3. Thúc đẩy xây dựng pháp luật

Đây là thời kỳ mà Bộ Tư pháp tập trung năng lực của mình vào việc xây dựng các đạo luật cơ bản của Nhà nước và xã hội. Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật Ruộng đất (sau này gọi là Luật đất đai), Luật Hôn nhân và gia đình, các luật vào thời điểm bắt đầu đổi mới kinh tế (1986 trở đi) lần lượt được nghiên cứu, soạn thảo và ra đời vào thời kỳ này.

Thực ra, công việc nghiên cứu các bộ luật lớn đã được xúc tiến từ những năm trước nhưng chưa có điều kiện, đất nước còn chiến tranh, mới thống nhất, đang xây dựng lại Hiến pháp (1981) nên phải tới khi có Hiến pháp công việc nghiên cứu mới xúc tiến khẩn trương.

Đây là thời kỳ khởi sắc nhất về công tác làm luật, vì gần 30 năm xây dựng nền kinh tế bao cấp ở miền Bắc, phần lớn chúng ta dùng văn bản dưới luật để quản lý kinh tế và xã hội (Nghị định, Thông tư, Chỉ thị).

Ngoài việc tham gia với hầu hết các Bộ trong việc soạn thảo các đạo luật lớn của thời kỳ này với tư cách là một cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm về mặt pháp lý trong các dự thảo Luật, Pháp lệnh; Bộ Tư pháp đã trực tiếp nghiên cứu, soạn thảo các Bộ luật lớn như:

- Bộ luật Hình sự ban hành năm 1985;

- Bộ luật Tố tụng hình sự ban hành năm 1988;

- Luật Hôn nhân và gia đình ban hành năm 1986;

- Luật Quốc tịch 1986;

- Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ 1981;

- Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu 1982;

- Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng danh lam thắng cảnh 1985;

- Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987;

- Pháp lệnh xử phạt hành chính 1989;

- Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989

- Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991.

Phần tham gia vào các đạo luật do các Bộ soạn thảo trong thời kỳ bắt đầu công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta (1986) cũng góp phần đáng kể vào hoạt động làm luật của Nhà nước như:

- Luật Đầu tư nước ngoài;

- Luật Doanh nghiệp tư nhân;

- Luật Công ty;

- Luật Doanh nghiệp Nhà nước;

- Bộ luật lao động

4. Đặt công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật là mũi nhọn

Nét độc đáo về hoạt động của Bộ Tư pháp trong thời kỳ này là sau khi đã đặt nề nếp về tổ chức (kiện toàn các Vụ), thúc đẩy một bước công tác xây dựng pháp luật, Bộ đã đặt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở xã là công tác mũi nhọn của ngành cả ở Bộ và các Sở Tư pháp.

Bộ đã chọn xã Long Biên thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội, bàn với Uỷ ban nhân dân huyện, Uỷ ban nhân dân xã triển khai một số công việc như:

- Đưa một nhóm cán bộ của Bộ xuống làm việc thường xuyên tại xã trong một thời gian, hàng ngày tiếp xúc với các đối tượng theo lứa tuổi, theo giới, theo đội hợp tác xã phổ biến các luật lệ về ruộng đất, hôn nhân gia đình, trật tự trị an ...

- Phân công một số cán bộ làm việc với Uỷ ban nhân dân về việc xây dựng nội quy, quy định của xã, giúp cho Uỷ ban nhân dân biên soạn những quy định đó phù hợp với pháp luật.

ở xã Long biên, trước khi nhóm cán bộ tư pháp về làm việc đã có một bản quy ước của xã, được thông qua Hội đồng nhân dân, gồm 75 điều quy định tất cả các mặt sinh hoạt của nhân dân trong xã như quy định về ma chay, cưới xin, chống mê tín dị đoan, trật tự nông thôn, xây dựng nhà cửa, cấm thả rông trâu bò, các vấn đề về hôn nhân và hoà giải xích mích trong gia đình v..v. Bản quy ước như là một Bộ luật nhỏ của xã, có nhiều điểm tốt về hướng dẫn hành vi cho người dân nhưng cũng cấm đoán và phạt quá nhiều. Qua công việc này là một bước phổ biến pháp luật cụ thể cho cán bộ xã.

Thời kỳ này, ở nhiều địa phương đã có Sở Tư pháp như thành phố Hà nội, Hồ Chí Minh, Quảng nam Đà nẵng, Hải phòng, Phú khánh, Hải hưng, Cao bằng... cũng thực hiện kế hoạch tuyên truyền, giáo dục pháp luật của Bộ.

5. Bước đầu mở ra các quan hệ quốc tế về tư pháp

Quan hệ quốc tế về tư pháp đã bắt đầu thực hiện với Cộng hoà Dân chủ Đức từ năm 1979 bằng một Hiệp định được ký kết giữa Bộ Tư pháp Cộng hoà Dân chủ Đức với Uỷ ban pháp chế Việt Nam với sự uỷ quyền của Nguyên thủ hai quốc gia và sự phê chuẩn của Quốc hội (Hiệp định này hiện nay vẫn có giá trị giữa nước ta với Cộng hoà Liên bang Đức).

Khi tái lập Bộ Tư pháp, việc quan hệ quốc tế được xúc tiến nhiều hơn và mạnh hơn.

Trong năm 1981 - 1983, Bộ Tư pháp Việt Nam đã tiến hành soạn thảo và ký kết xong 4 bản Hiệp định tương trợ tư pháp với Bộ Tư pháp các nước Liên Xô, Hunggari, Tiệp Khắc, Cu Ba . Đồng thời, cũng xúc tiến khẩn trương việc nghiên cứu và soạn thảo các Hiệp định với Bun ga ri, Ba Lan và Mông Cổ.

Các Hiệp định đã tạo nên được mối quan hệ hợp tác tốt đẹp về các vấn đề dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại, hình sự giữa nước ta với các nước đó, đặc biệt là giữa toà án hai nước.

6. Mở rộng đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý

Trường Đại học pháp lý được kiện toàn bộ máy lãnh đạo, tổ chức việc duyệt các giáo trình chính thức, tổ chức thêm hệ mở rộng, hệ tại chức, chuyên tu trong điều kiện phần lớn cán bộ Toà án đều chưa có bằng cử nhân luật.

ở các tỉnh phía Nam (thành phố Hồ Chí Minh) do nhu cầu của các sinh viên luật đang học dở dang thời Mỹ - Nguỵ, đã tổ chức các lớp dài hạn, đào tạo về pháp luật xã hội chủ nghĩa để cấp bằng tương đương Đại học cho họ.

Công việc triển khai các hình thức đào tạo bậc Đại học thuộc nhiều hệ, đến nay nhìn lại đã nhanh chóng tạo được một đội ngũ trưởng thành trong thực tiễn, có kiến thức pháp lý.

Công việc nghiên cứu khoa học pháp lý đã được tiến hành một phần trong thời kỳ Uỷ ban pháp chế nhưng chưa nhiều, cán bộ mới chỉ có 3 người. Những năm mới tái lập Bộ Tư pháp, việc nghiên cứu được thúc đẩy, đã ra được một tờ Thông tin khoa học pháp lý.

Vào năm 1985 trở đi, hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ đã được đăng ký trước Uỷ ban khoa học Nhà nước (nay là Bộ khoa học công nghệ môi trường) thành các đề tài Nhà nước, cấp Bộ đã góp phần đáng kể vào công tác xây dựng pháp luật, xây dựng ngành tư pháp, quản lý toà án, triển khai các công tác công chứng, giám định, luật sư, thi hành án, hoà giải ở cơ sở.

Hội đồng khoa học Bộ được thành lập do Bộ trưởng làm Chủ tịch Hội đồng có nhiệm vụ tư vấn về việc duyệt các giáo trình đại học, tìm hiểu các Luận văn Phó tiến sĩ luật học tốt nghiệp ở nước ngoài về.

7. Thay đổi lãnh đạo Bộ

Vào cuối năm 1986, do có nhiều sự thay đổi về nhân sự ở các cơ quan trung ương nên Đảng và Nhà nước đã điều động đồng chí Phùng Văn Tửu, Thứ trưởng Bộ sang làm Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, đồng chí Đào Xuân Miễn, Thứ trưởng Bộ sang làm Phó Ban nội chính Trung ương.

Cơ quan lãnh đạo Bộ có đồng chí Phan Hiền - Bộ trưởng và đồng chí Nguyễn Thị Chơn - Thứ trưởng Bộ phụ trách các tỉnh phía Nam.

Vào giữa năm 1987, Đảng và Nhà nước đã điều động đồng chí Trần Đông, uỷ viên trung ương Đảng sang làm Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Lúc này, Ban lãnh đạo đã có 3 đồng chí và lãnh đạo tổ chức hoạt động của ngành gần 5 năm thì nghỉ hưu. Đồng chí Nguyễn Thị Chơn vì mắt yếu nên nghỉ vào năm 1991, đồng chí Trần Đông nghỉ cuối năm 1991, đến giữa năm 1992 đồng chí Phan Hiền nghỉ vì tuổi đã cao.

Người kế nhiệm chức vụ Bộ trưởng là đồng chí Nguyễn Đình Lộc. Trước khi đồng chí Nguyễn Đình Lộc về nhận chức vào giữa năm 1992, Đảng và Nhà nước đã bổ nhiệm hai đồng chí cấp Vụ làm Thứ trưởng là đồng chí Nguyễn Văn Yểu và đồng chí Nguyễn Ngọc Hiến.

II. Tổ chức và hoạt động theo Nghị định 38/CP năm 1993 đến nay

1. Sự cần thiết phải sửa đổi Nghị định 143/CP và ban hành Nghị định 38/CP.

Thực hiện đường lối đổi mới đất nước, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, vị trí và vai trò của ngành Tư pháp ngày một tăng cường trong đời sống xã hội. Sau khi ban hành Nghị định 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp đã được Đảng và Nhà nước giao thêm nhiều nhiệm vụ mới như: Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quản lý về mặt tổ chức các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực (Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự ngày 3/1/1986); Chỉ đạo, hướng dẫn UBND các cấp thực hiện công tác đăng ký hộ tịch (Nghị định số 219-HĐBT ngày 20/11/1987). Có những công tác được Nhà nước giao cụ thể và nâng cao như: Hướng dẫn, kiểm tra về tổ chức và hoạt động các Đoàn Luật sư (Pháp lệnh tổ chức luật sư ngày 18/12/1987, Quy chế Đoàn luật sư); thống nhất quản lý công tác giám định tư pháp (Nghị định số 117-HĐBT ngày 21/7/1988); đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật rộng rãi trong nhân dân; phối hợp với các Bộ, các ngành liên quan đưa môn học về pháp luật vào chương trình giảng dạy tại các Trường phổ thông, Đại học, Trung học chuyên nghiệp và các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ nhất là cán bộ quản lý (Chỉ thị số 315-CT ngày 7/12/1982, Chỉ thị số 300-CT ngày 20/10/1987); Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm trao đổi, xem xét, thẩm tra kỹ các dự thảo văn bản pháp luật của các Bộ trước khi trình Hội đồng Bộ trưởng (Công văn số 348-VB ngày 18/3/1988 của Chủ tịch HĐBT); thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ, của Sở (Pháp lệnh Thanh tra ngày 1/4/1990); quản lý thống nhất về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước trong phạm vi cả nước (Nghị định số 45-HĐBT ngày 27/2/1991); tham gia ý kiến về pháp lý đối với các hiệp định của Chính phủ vay vốn của nước ngoài; tham gia ý kiến đối với các dự thảo Điều ước quốc tế có quy định trái với pháp luật của CHXHCN Việt nam (Pháp lệnh ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế của CHXHCN Việt nam ngày 25/10/1989, Điều 3, đoạn 3).

Từ năm 1982, khi Toà án nhân dân tối cao chuyển giao cho Bộ Tư pháp nhiệm vụ quản lý các Toà án nhân dân địa phương thì đồng thời cũng chuyển giao việc hướng dẫn tổ chức và hoạt động của tổ hoà giải.

Thực hiện Hiến pháp 1992 và các đạo luật về tổ chức bộ máy Nhà nước được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ nhất thông qua tháng 10 năm 1992, theo Pháp lệnh Thi hành án Dân sự ngày 21/4/1993 và Nghị định 30/CP ngày 2/6/1993 của Chính phủ , Bộ Tư pháp có chức năng quản lý và tổ chức thi hành án dân sự trong cả nước.

Theo quyết định số 173-TTg ngày 16/12/1992 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý thống nhất ngân sách của Toà án nhân dân địa phương, từ 1/1/1993, Bộ Tư pháp đã thực hiện nhiệm vụ quản lý ngân sách Toà án địa phương và thi hành án dân sự.

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, những quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp được quy định trong Nghị định 143/HĐBT không còn phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp trong tình hình mới. Vị trí và vai trò của Bộ Tư pháp nói riêng và của ngành Tư pháp nói chung từng bước được tăng cường. Việc thay thế Nghị định 143/HĐBT về chức năng quyền hạn, nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp là hết sức cần thiết. Ngày 4/6/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp, thay thế Nghị định 143-HĐBT, đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới, kiện toàn hệ thống các cơ quan tư pháp, đánh dấu một bước phát triển mới của tổ chức bộ máy cơ quan Bộ Tư pháp nói riêng và tổ chức hệ thống ngành tư pháp nói chung, vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước đặt ra.

2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ tư pháp theo Nghị định số 38/CP của Chính phủ

Chức năng.

Nghị định số 38/CP ngày 04/06/1993 của Chính phủ quy định Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước thống nhất về công tác tư pháp; xây dựng và tham gia xây dựng pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý về mặt tổ chức Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực (gọi chung là Toà án địa phương); đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý và quản lý các công tác tư pháp khác được Chính phủ giao.

Nhiệm vụ và quyền hạn.

Để thực hiện chức năng trên, Bộ Tư pháp có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

a/ Về xây dựng và tham gia xây dựng pháp luật.

 

Tổng hợp chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cùng Văn phòng Chính phủ dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh dài hạn và hàng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định.

Trình Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh về dân sự, các dự án luật, pháp lệnh khác theo sự phân công của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đó.

Xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý của các dự án luật, pháp lệnh, văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo trước khi các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trình Chính phủ.

Phối hợp với Văn phòng Chính phủ trong việc tổ chức chỉ đạo công tác hệ thống hoá văn bản pháp luật.

Hệ thống hoá văn bản pháp luật trong phạm vi chức năng của Bộ; kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ các văn bản pháp luật không phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.

b/ Về quản lý Toà án nhân dân địa phương.

 

Xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của các Toà án địa phương, thống nhất quản lý ngân sách Toà án địa phương.

Trình Chính phủ quyết định tổng biên chế Toà án của các địa phương sau khi thống nhất ý kiến với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ. Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, quy định biên chế cho từng Toà án địa phương sau khi trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, hội thẩm nhân dân và cán bộ Toà án địa phương; hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra và giải quyết việc thực hiện các chế độ, chính sách đó.

Sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định danh sách các thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực; xem xét và đề nghị bổ nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán Toà án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định.

Trong phạm vi chức năng kiểm tra hoạt động của các Toà án địa phương thực hiện chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với tập thể, cá nhân của Toà án địa phương.

c/ Về quản lý và tổ chức thi hành án dân sự.

Trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các chế độ, chính sách cụ thể, các văn bản pháp luật hướng dẫn về công tác tổ chức thi hành án dân sự; xây dựng tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động cho công tác thi hành án và đội ngũ thi hành án dân sự.

d/ Về công tác tư pháp khác.

 

Thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với tổ chức và hoạt động luật sư, công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch, thống kê tư pháp, lý lịch tư pháp;

Quản lý các công việc về quốc tịch theo quy định của pháp luật;

Trình Chính phủ quyết định (hoặc quyết định theo sự uỷ quyền của Chính phủ) quy chế tổ chức và hoạt động của các tổ chức luật sư, công chứng, giám định;

Thống nhất quản lý các biểu mẫu, sổ sách về công chứng, hộ tịch, thống kê tư pháp, lý lịch tư pháp;

e/ Về công tác hoà giải.

 

Trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn công tác hoà giải các tranh chấp trong nhân dân; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổng kết hoạt động của các tổ hoà giải.

f / Về phổ biến giáo dục pháp luật.

Trình Chính phủ quyết định và tổ chức thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn và hàng năm; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình giảng dạy pháp luật trong các trường học.

g. Về đào tạo, bồi dưỡng

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo viên chức tư pháp của cả nước; tổ chức đào tạo cán bộ pháp lý bậc đại học, cao học và sau đại học theo sự phân công của Chính phủ;

Thống nhất quản lý việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ Toà án, tư pháp, pháp chế, luật sư, công chứng giám định, hộ tịch, chấp hành viên;

h. Về công tác nghiên cứu khoa học pháp lý:

Tổ chức việc nghiên cứu khoa học pháp lý, phát triển công tác thông tin pháp lý.

i. Về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp

Trình Chính phủ quyết định chương trình, kế hoạch và dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp; quản lý và tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện chương trình, kế hoạch và dự án đó.

Trình Chính phủ quyết định việc ký kết, phê duyệt việc tham gia các điều ước quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực tư pháp theo quy định của Chính phủ.

k. Về thanh tra và giải quyết khiếu tố.

 

Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong phạm vi chức năng của Bộ.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo thẩm quyền.

3. Tổ chức bộ máy.

Tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp theo Nghị định 38/CP ngày 4/6/1993 của Chính phủ gồm 12 cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và 04 tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ, cụ thể như sau:

3.1. Các cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước:

1. Văn phòng Bộ

2. Vụ Kế hoạch - tài chính,

3. Vụ quản lý Toà án địa phương,

4. Cục Quản lý thi hành án dân sự,

5. Vụ Quản lý luật sư, tư vấn pháp luật,

6. Vụ quản lý công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp,

7. Vụ Pháp luật hình sự, hành chính,

8. Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế,

9. Vụ Hợp tác quốc tế,

10. Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật,

11. Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo,

12. Thanh tra Bộ.

3.2. Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ:

1. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý,

2. Trường đại học luật Hà Nội

3. Báo Pháp luật,

4. Tạp chí Dân chủ và pháp luật.

Tổ chức bộ máy Bộ Tư pháp theo quy định của Nghị định 38/CP đã tăng 6 đơn vị so với tổ chức bộ máy theo quy định của Nghị định 143/HĐBT.

3. Những nhiệm vụ và tổ chức mới của Bộ Tư pháp từ sau khi có nghị định 38/CP

1. Những nhiệm vụ mới:

Từ năm 1993 đến tháng 6/2000, Bộ tư pháp được giao thêm 20 nhiệm vụ mới, cụ thể như sau :

a) Về xây dựng và tham gia xây dựng pháp luật (01 nhiệm vụ mới)

 

1. Thẩm định các dự án luật, pháp lệnh để Chính phủ có thể xem xét trước khi quyết định trình Quốc hội; hoặc để Chính phủ tham gia ý kiến đối với những dự án do các cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; thẩm định dự thảo Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; tham gia ý kiến về dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Nghị định 101/CP ngày 23 /9/1997 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật);

b) Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (02 nhiệm vụ ):

2. Làm đầu mối phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn việc phát hành Bản tin Tư pháp ở các địa phương (Chỉ thị 02/ 1998/TTg và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 7/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật);

3. Chủ trì công tác xây dựng tủ sách pháp luật ở xã, phường thị trấn (Quyết định số 69/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ);

c) Về công tác đào tạo, bồi dưỡng (01 nhiệm vụ ):

4. Đào tạo bồi dưỡng Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác (Quyết định số 34/1998/QĐ-TTg ngày 11/02/1998 của Thủ tướng Chính phủ)

d) Về công tác thi hành án (06 nhiệm vụ):

5 .Quản lý nhà nước đối với việc công nhận và thi hành án tại Việt nam các bản án và quyết định dân sự của Toà án nước ngoài (Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt nam, quyết định của Toà án nước ngoài ngày 17/4/1993);

6. Thực hiện thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp (Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/ 12/1993);

7. Quản lý và tổ chức thi hành án kinh tế (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994);

8. Quản lý Nhà nước đối với việc công nhận và thi hành tại Việt nam quyết định của Trọng tài nước ngoài (Pháp lệnh về công nhận và thi hành tại Việt Nam các quyết định của trọng tài nước ngoài ngày 04/9/ 1995);

9. Thi hành các quyết định về phần tài sản, quyền tài sản trong các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21/5/1996);

10. Quản lý và tổ chức thi hành các vụ án lao động (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996);

e) Về công tác tư pháp khác (05 nhiệm vụ):

11. Quản lý Nhà nước về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách (Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ).

12. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động hành nghề tư vấn pháp luật của Tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt nam (Nghị định 92/1998/NĐ-CP ngày 10/11/1998 của Chính phủ );

13. Quản lý Nhà nước đối với Trung tâm Trọng tài kinh tế (Nghị định 116/CP ngày 05/9/1994 của Chính phủ);

14. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản (Nghị định 86/CP ngày 19/12/1996);

15. Quản lý và thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm (Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm);

16. Quản lý và hướng dẫn hoạt động của Câu lạc bộ Pháp chế Doanh nghiệp (Công văn số 324/CV-VPCP ngày 25/1/1999 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng về việc thành lập Câu lạc bộ Pháp chế Doanh nghiệp)

f) Về công tác hoà giải (01 nhiệm vụ):

17. Giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác hoà giải (Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ).

g) Về pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế (03 nhiệm vụ ):

18. Thẩm định các Dự thảo Điều ước Quốc tế (Pháp lệnh số 07/1998/PL-UBTVQH10 ngày 20/8/1999 về ký kết và tham gia các Điều ước quốc tế);

19. Quản lý và hợp tác với nước ngoài về pháp luật (Nghị định 103/1998/NĐ-CP ngày 26/12/1998 của Chính phủ);

20. Cấp ý kiến pháp lý cho các Dự án vay vốn nước ngoài (Nghị định 87/CP ngày 05/8/1997 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức).

 

 

2. Các đơn vị mới.

Sau khi ban hành Nghị định 38/CP tổ chức cơ quan Bộ Tư pháp tăng thêm hai đầu mối là:

a) Cục Trợ giúp pháp lý (QĐ số 734/TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ).

b) Trường đào tạo các chức danh tư pháp (QĐ số 34/1998/QĐ-TTg ngày 11/2/1998 của Thủ tướng Chính phủ).

4. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan tư pháp địa phương

1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan tư pháp địa phương theo quy định của Nghị định 38/CP và Thông tư liên Bộ số 12/TTLB.

Theo Nghị định 38/CP, Thông tư liên bộ số 12-TTLB ngày 26 tháng 7 năm 1993, Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ hướng dẫn về về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan tư pháp địa phương hệ thống các cơ quan tư pháp địa phương bao gồm:

- Sở Tư pháp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Phòng Tư pháp ở huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh, thành phố;

- Ban tư pháp ở xã, phường, thị trấn.

1.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

1.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có chức năng giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý Nhà nước về công tác tư pháp trong phạm vi địa phương và chịu sự chỉ đạo và quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp.

Sở Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a/ Giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý thống nhất việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân:

+ Chủ trì việc soạn thảo hoặc tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật theo sự phân công của Uỷ ban nhân dân;

+ Được Uỷ ban nhân dân uỷ nhiệm xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý của các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan khác Uỷ ban nhân dân soạn thảo trước khi trình Uỷ ban nhân dân quyết định ban hành;

+ Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án Luật, Pháp lệnh theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân và Bộ Tư pháp;

+ Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra và hướng dẫn các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân về nghiệp vụ trong việc rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.

b/ Quản lý các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh về mặt tổ chức theo sự phân cấp của Bộ Tư pháp;

c/ Quản lý công tác thi hành án dân sự địa phương theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự, Nghị định số 30-CP của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên, và sự hướng dẫn của Bộ Tư pháp;

d/ Quản lý tổ chức và hoạt động của các đoàn luật sư, các tổ chức tư vấn luật theo quy định của Bộ Tư pháp;

e/ Quản lý các hoạt động công chứng, giám định tư pháp theo quy định của Bộ Tư pháp; chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra thực hiện công tác hộ tịch, lý lịch tư pháp, thống kê tư pháp theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp; giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện một số công tác hộ tịch thuộc thẩm quyền;

g/ Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn và ngắn hạn ở địa phương, phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan, tổ chức có liên quan hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giảng dạy pháp luật trong các trường học;

h/ Bồi dưỡng kiến thức pháp lý và hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp địa phương;

i/ Chỉ đạo và tổng kết hoạt động hoà giải trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

j/ Thực hiện thanh tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật.

1.1.2 Cơ cấu tổ chức và biên chế của Sở Tư pháp.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp, vào tình hình cụ thể của địa phương, quy mô tổ chức, khối lượng công việc và khả năng cán bộ để quyết định cơ cấu bộ máy và biên chế của Sở Tư pháp theo nguyên tắc tổ chức gọn nhẹ, gồm những công chức chuyên môn được đào tạo đúng ngành nghề, có đủ tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch công chức hành chính do Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ ban hành.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc Sở Tư pháp do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định sau khi thống nhất ý kiến bằng văn bản với Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Riêng biên chế của Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp do Bộ Tư pháp quy định ngoài biên chế của địa phương.

1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Phòng tư pháp Quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có chức năng giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện quản lý Nhà nước các công việc về tư pháp trong phạm vi quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và chịu sự chỉ đạo và quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Tư pháp.

Phòng Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a/ Giúp Uỷ ban nhân dân quản lý thống nhất việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh:

+ Soạn thảo hoặc tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật theo sự phân công của Uỷ ban nhân dân;

+ Được Uỷ ban nhân dân uỷ nhiệm xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan khác của Uỷ ban nhân dân soạn thảo trước khi trình Uỷ ban nhân dân ban hành;

+ Thường xuyên rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban nhân dân ban hành;

+ Tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh và các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và hướng dẫn của Giám đốc Sở Tư pháp.

b/ Giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp và Giám đốc Sở Tư pháp trong việc quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương; tổ chức và kiểm tra hoạt động thi hành án của Đội thi hành án;

c/ Quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ công tác hộ tịch, lý lịch tư pháp và thống kê tư pháp;

d/ Giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện một số hành vi công chứng theo quy định của pháp luật về công chứng;

e/ Hướng dẫn nghiệp vụ và chỉ đạo hoạt động của các tổ hoà giải;

g/ Tổ chức việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân; phối hợp với Phòng Giáo dục và các cơ quan, tổ chức hữu quan tổ chức thực hiện chương trình giảng dạy pháp luật trong nhà trường.

1.2.2. Tổ chức và biên chế của Phòng Tư pháp:

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp đã được quy định, vào quy mô tổ chức, khối lượng công việc và khả năng cán bộ của địa phương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định cụ thể cơ cấu bộ máy và biên chế của Phòng Tư pháp trong tổng biên chế hành chính của địa phương.

Việc bố trí cán bộ phải theo tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch công chức hành chính do Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ ban hành.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Trưởng phòng, Phó phòng Tư pháp do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định sau khi thống nhất ý kiến bằng văn bản với Giám đốc Sở Tư pháp.

Riêng biên chế của Đội thi hành án thuộc Phòng Tư pháp do Bộ Tư pháp quy định ngoài biên chế của địa phương.

1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban tư pháp xã, phường, thị trấn.

1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Tư pháp.

Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a/ Giúp Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thực hiện quản lý Nhà nước về các công việc tư pháp;

 

b/ Giúp Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị để thi hành các quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

c/ Thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân;

d/ Thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch, quản lý lý lịch tư pháp và thống kê tư pháp;

e/ Hướng dẫn, quản lý hoạt động của các tổ hoà giải;

g/ Tổ chức phối hợp việc thi hành án ở địa phương theo sự chỉ đạo của Đội thi hành án

1.3.2. Tổ chức của Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn được quy định như sau:

Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn do một Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phụ trách.

2. Kiện toàn tổ chức các cơ quan tư pháp địa phương.

Thực hiện Nghị định 143/HĐBT ngày 21/12/1981 hệ thống các cơ quan tư pháp địa phương từng bước được xây dựng và củng cố. Trước năm 1988 40 Sở Tư pháp, thuộc 40 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 436 phòng tư pháp trên tổng số 506 huyện, quận, thành phố thuộc cấp tỉnh và Ban tư pháp ở hầu hết các xã, phường, thị trấn trong cả nước đã được thành lập. Tuy nhiên, năm 1988 theo thông báo số 46 của Ban bí thư và Công văn số 488/V1 của Hội đồng Bộ trưởng về tinh giản bộ máy của cơ quan nhà nước, nhiều địa phương đã giải thể Sở Tư pháp, thành lập phòng tư pháp trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh như: Quảng Ninh, Hoàng Liên Sơn, Sơn La. Phần lớn các quận, huyện đều giải thể phòng tư pháp; có nơi tư pháp huyện sáp nhập vào văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện, có nơi sáp nhập với thanh tra, có nơi thành lập tổ công tác trực thuộc Uỷ ban nhân dân huyện.

Việc giải thể, sáp nhập hoặc thu hẹp tổ chức tư pháp ở nhiều địa phương đã làm cho công tác tư pháp bị giảm sút không được triển khai đặc biệt là công tác tư pháp cấp huyện, xã thiếu sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan tư pháp cấp trên nên hoạt động tư pháp ở cơ sở không được duy trì có nề nếp, có nơi bị bỏ trống hoặc tồn tại một cách hình thức.

2.1. Sở Tư pháp.

Hiện nay, Sở Tư pháp của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, từng bước được củng cố và kiện toàn.Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tế của từng địa phương, mô hình tổ chức bộ máy và biên chế của các Sở Tư pháp rất khác nhau. Một số Sở Tư pháp thành lập các phòng nghiệp vụ theo lĩnh vực chuyên môn như: Phòng xây dựng văn bản, Phòng phổ biến giáo dục pháp luật, Phòng tổ chức cán bộ và quản lý toà án địa phương... Cũng có Sở Tư pháp vừa tổ chức phòng nghiệp vụ vừa tổ chức bộ phận công tác. Theo kết quả báo cáo của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (12/1999), cơ cấu tổ chức bộ máy các Sở Tư pháp (không kể phòng thi hành án và các phòng công chứng nhà nước) như sau: có 5 Sở Tư pháp (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nghệ An, Đắc Lắc) có 8-9 phòng và đơn vị tương đương; 15 Sở Tư pháp có 6-7 phòng và đơn vị tương đương ; 32 Sở Tư pháp có 4-5 phòng và đơn vị tương đương; 14 Sở Tư pháp có 2-3 phòng và đơn vị tương đương; có 56 Sở Tư pháp đã thành lập trung tâm trợ giúp pháp lý theo Quyết định 734/TTg ngày 6/4/1997 của Thủ tướng chính phủ.

Biên chế của các Sở Tư pháp cũng khác nhau. Không kể biên chế của phòng thi hành án và phòng công chứng nhà nước, nơi có số lượng cán bộ nhiều nhất là Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh (61 người ), Sở Tư pháp Hà Nội (47 người); 11 Sở Tư pháp có biên chế từ 26 đến 41 người, 33 Sở Tư pháp có biên chế từ 20 đến 25 người, 20 Sở Tư pháp có biên chế dưới 20 người , trong đó 5 Sở Tư pháp có biên chế dưới 15 người (Hưng Yên, Quảng Trị, Phú Yên, Hà Nam, Ninh Thuận). Cơ cấu Ban Giám đốc của các Sở Tư pháp không đồng nhất, 24 Sở Tư pháp có 3 người trở lên (1 Giám đốc, 2-3 Phó Giám đốc), 37 Sở Tư pháp có 2 người trở lên (1 Giám đốc, 1 Phó Giám đốc).

2.2. Phòng tư pháp .

Hiện nay, hầu hết các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước đã thành lập Phòng Tư pháp .

Theo qui định, Phòng tư pháp cấp huyện có 2 bộ phận: bộ phận tư pháp và Đội thi hành án dân sự. Hầu hết các phòng tư pháp đều có Trưởng phòng hoặc Quyền Trưởng phòng và Phó Trưởng phòng. ở một số Phòng tư pháp, Phó Trưởng phòng là Đội trưởng Đội Thi hành án dân sự .

Về biên chế của bộ phận tư pháp của phần lớn các Phòng Tư pháp từ 2-3 người. Riêng các Phòng Tư pháp ở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, bộ phận tư pháp có biên chế từ 4-8 người; một số Phòng Tư pháp ở các tỉnh miền núi và miền trung như : Lào Cai , Hà Quang, Quảng Bình, Bình Định ... biên chế chỉ từ 1-2 người. Biên chế Đội Thi hành án dân sự của các Phòng Tư pháp trung bình có từ 4-8 người.

2.3. Ban tư pháp .

Sau khi có Nghị định 09 /1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn, Ban Tư pháp đã có hướng phát triển quan trọng. Phần lớn các Ban Tư pháp đã được thành lập độc lập, rất ít nơi ghép Ban Tư pháp với công an xã, thanh tra xã. Theo báo cáo 6/2000 của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 10349 Ban Tư pháp xã, phường, thị trấn thành lập trong đó có 8532 cán bộ tư pháp chuyên trách, 3687 cán bộ tư pháp kiêm nhiệm, ngoài ra còn có đại diện một số ban, ngành ở địa phương tham gia vào Ban Tư pháp như Hội Cựu chiến binh, thanh niên, phụ nữ, công an.

Sau khi có Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở 25/12/1998, tổ hoà giải đã được củng cố và kiện toàn đến nay có được trên 80 ngàn tổ hoà giải ở hầu hết các làng, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác.

5. Ngành tư pháp phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ được giao

1. Công tác xây dựng pháp luật

Xây dựng pháp luật là một trong những công tác trọng tâm của Bộ Tư pháp. Trong những năm 1993 -1999 Bộ Tư pháp đã chủ trì xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng góp phần vào sự hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng đất nước như:

- Bộ luật Dân sự (1995);

- Bộ luật Hình sự (1999);

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều trong Bộ luật Tố tụng Hình sự (1993);

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân (1999);

- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (1996);

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều trong bộ luật hình sự (1998);

- Luật Quốc tịch sửa đổi (1998);

- Luật Hôn nhân gia đình (2000);

- Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (1993);

- Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài (1993)

- Pháp lệnh thi hành án dân sự (1993)

- Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế (1999)

Bộ Tư pháp tham gia với các Bộ, ngành xây dựng nhiều văn bản Luật, Pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Từ năm 1997 Bộ Tư pháp đã thẩm định và cho ý kiến với các dự án, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật trước khi trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

2. Công tác quản lý Toà án địa phương.

Thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, đội ngũ công chức các cơ quan Toà án nhân dân địa phương không ngừng được củng cố và tăng cường. Bộ cũng đã có nhiều biện pháp tích cực để nhanh chóng xây dựng đội ngũ Thẩm phán đáp ứng với yêu cầu tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ hiện nay. Nếu như năm 1981 có 23,2% Thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh có trình độ đại học luật (71 người) thì đến nay, tỷ lệ Thẩm phán toà án có trình độ đại học chiếm 82%; tỷ lệ Thẩm phán cấp huyện có trình độ đại học luật là 75%; số còn lại đang theo học đại học luật bằng các hình thức khác nhau. Công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ này đã được chú trọng nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ Thẩm phán trước yêu cầu ngày càng cao của công tác xét xử.

3. Công tác thi hành án

Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự (1993), Nghị định 30/CP ngày 2/6/1993 của Chính phủ, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo và tổ chức công tác thi hành án dân sự. Đến nay đã có 61 Phòng thi hành án của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 598 đội thi hành án được thành lập ở các huyện, quận trong cả nước. Đội ngũ công chức thi hành án từng bước được củng cố kiện toàn, hoạt động ngày càng có hiệu quả góp phần giữ nghiêm kỷ cương phép nước tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với sự nỗ lực của đội ngũ công chức thi hành án, số lượng án dân sự tồn đọng ngày một giảm, nâng cao lòng tin của nhân dân vào pháp luật, vào chế độ xã hội chủ nghĩa.

4/ Công tác phổ biến giáo dục pháp luật.

Trong những năm qua Bộ Tư pháp đã hướng dẫn chỉ đạo các Sở Tư pháp tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân các cấp thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở địa phương, xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, biên soạn tài liệu và hướng dẫn kịp thời những văn bản pháp luật mới ban hành đến với nhân dân. Xây dựng tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, nhân dân.

Phối hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo đưa công tác giáo dục pháp luật vào nhà trường ở các cấp học phổ thông, các trường đại học và trung học chuyên nghiệp.

5/ Công tác hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp.

Bộ Tư pháp đã kịp thời xây dựng, sửa đổi trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật mới về tổ chức và hoạt động của tổ chức luật sư, công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch... đáp ứng yêu cầu phát triển của đời sống kinh tế- xã hội trong giai đoạn mới. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII, Bộ Tư pháp đã vận dụng chủ trương xoá đói, giảm nghèo trong công tác tư pháp và được Nhà nước cho phép thành lập các Trung tâm Trợ giúp pháp lý không thu tiền đối với người nghèo và các đối tượng chính sách. Tuy mới hoạt động từ cuối năm 1997 nhưng đến nay, đã có 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập các Trung tâm Trợ giúp pháp lý với hàng ngàn chuyên viên trợ giúp pháp lý và cộng tác viên. Dưới sự hướng dẫn của Cục Trợ giúp pháp lý Bộ Tư pháp, các Trung tâm Trợ giúp pháp lý hoạt động có hiệu quả, góp phần giải toả những vướng mắc pháp luật, nâng cao dân trí và ổn định trật tự xã hội.

6/ Công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp.

Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với các đối tác nước ngoài, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành khác duy trì và mở rộng hợp tác với hơn 30 nước trên thế giới, giúp Chính phủ ký 13 Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, hôn nhân, gia đình và hình sự với các nước nhằm bảo đảm sự bảo hộ pháp lý cho công dân Việt Nam ở các nước đó và tương trợ tư pháp lẫn nhau giữa các nước.

7/ Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý.

Trong những năm qua, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, cải cách hành chính, cải cách Tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống các cơ sở lý luận và thực tiễn về pháp luật và tư pháp. Bộ Tư pháp đã triển khai nghiên cứu ba đề tài cấp Nhà nước và nhiều đề tài cấp Bộ. Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã và đang đóng góp đáng kể, tích cực vào kiện toàn tổ chức và hoạt động của ngành tư pháp, xây dựng, phổ biến và áp dụng pháp luật, được sự đánh giá cao của Bộ Khoa học, công nghệ.

8/ Công tác xây dựng ngành, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Tư pháp.

Từ năm 1993, việc kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của ngành. Chủ trương "Hướng về cơ sở" đã được triển khai trong toàn ngành Tư pháp. Cho đến nay, hệ thống các cơ quan Tư pháp từ Trung ương đến địa phương đã được củng cố, kiện toàn, đáp ứng yêu cầu triển khai có hiệu quả các hoạt động Tư pháp, góp phần thực hiện các nhiệm vụ xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Cùng với việc củng cố, kiện toàn các đơn vị hành chính và sự nghiệp thuộc cơ quan Bộ Tư pháp, hệ thống các cơ quan bổ trợ Tư pháp và hành chính Tư pháp trong toàn ngành cũng đã được xây dựng, củng cố và đi vào hoạt động. Thực hiện Nghị định số 86/NĐ - CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản, đến nay cả nước có 39 Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản ở 39/61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hoạt động của các Trung tâm này đang từng bước đi vào nề nếp. Trung tâm trọng tài kinh tế phi chính phủ đã được thành lập ở 4 tỉnh, thành phố: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Giang, Cần Thơ với 50 trọng tài viên, mặc dù còn mới mẻ nhưng các Trung tâm trọng tài kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế ở nước ta.

Ngày 22/7/1999, Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 212/1999/QĐ-TCCB về thành lập Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp. Đến nay, đã có gần 400 tổ chức và cá nhân đăng ký tham gia Câu lạc bộ Pháp chế Doanh nghiệp. Đây là một diễn đàn để các doanh nghiệp, doanh nhân, luật gia... tìm hiểu pháp luật và góp phần vào việc giải đáp các thắc mắc, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền để hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển của đời sống kinh tế- xã hội.

Tổ chức pháp chế các Bộ, ngành cũng đang từng bước được củng cố và kiện toàn. 40 Bộ, ngành đã thành lập mới hoặc tổ chức lại tổ chức pháp chế ở Bộ, ngành mình theo Nghị định số 94/CP.

Tính đến ngày 30/12/1999, Bộ Tư pháp quản lý 13.571 cán bộ, trong đó các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước là: 13.077 cán bộ, bao gồm cơ quan Bộ: 326 cán bộ, Toà án nhân dân địa phương: 8683 cán bộ và các cơ quan thi hành án dân sự địa phương: 4268 cán bộ. Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ có 494 cán bộ, bao gồm: Trường Đại học Luật Hà nội 434 người, Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp 22 người, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý 30 người, Tạp chí Dân chủ và pháp luật 11 người. Như vậy, so với năm 1993, tổng số cán bộ, công chức của Bộ Tư pháp tăng thêm 11%.

Trong tổng số cán bộ, công chức của Bộ Tư pháp có 63.2% công chức có trình độ đại học trở lên.

Yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ không chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị mà còn phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi đặt ra cho công tác xây dựng ngành nhiệm vụ hết sức quan trọng. Xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ đặt ra là khâu then chốt trong tổ chức và hoạt động của ngành. Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Tư pháp đã được chú trọng. Nhiều hình thức đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, ngoại ngữ đã được triển khai.

Các cơ sở đào tạo đã được củng cố và tăng cường. Từ năm 1993, Trường Đại học Luật Hà Nội bắt đầu đào tạo Thạc sỹ và Tiến sỹ luật, góp phần quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ pháp lý đầu đàn của đất nước. Đến nay có 06 khoá đào tạo nghiên cứu sinh luật gồm 65 người và 09 khoá cao học luật với 903 người. Bên cạnh đó, Trường cũng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo hệ đại học chính quy và tại chức.

Từ năm 1997, Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp được thành lập để đào tạo đội ngũ Thẩm phán, Luật sư, Công chứng viên và các chức danh Tư pháp khác. Đến nay, Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp đã tổ chức được 02 khóa đào tạo Thẩm phán và nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ Chấp hành viên, Công chứng viên..., đồng thời Trường đã tổ chức các lớp chuyên đề về sở hữu trí tuệ, nghiệp vụ luật sư, giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế...

6. Một số sự kiện quan trọng.

- Ngày 7/1/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 715/QĐ-TTg về ngày truyền thống của ngành Tư pháp. Theo Quyết định này, ngày 28/8 hàng năm là ngày truyền thống của ngành Tư pháp.

- Ngày 29/11/1995, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Quyết định số 711/KT-CTN về tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành Tư pháp.

- Ngày 7, 8 tháng 9 năm 2000, Hội nghị Thi đua ngành Tư pháp lần thứ nhất được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội.

Trong các năm 1993- 2000, nhiều đơn vị và cá nhân thuộc ngành Tư pháp đã được tặng thưởng nhiều Huân chương Lao động và các hình thức khen thưởng khác.

7. Thay đổi cán bộ lãnh đạo Bộ.

Đầu năm 1998, Đồng chí Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Hiến chuyển sang công tác tại Học viện Hành chính Quốc gia.

Tháng 6/1998, Đồng chí Hà Hùng Cường- Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và Đồng chí Uông Chu Lưu- Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự, hành chính được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Tư pháp.

Tháng 6/2000, Đồng chí Lê Thị Thu Ba- Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Tư pháp.

kết luận

Lịch sử 55 năm của một Nhà nước cũng như của ngành tư pháp - một bộ phận quan trọng hợp thành của Nhà nước là một chặng đường không phải là dài. Nhưng những gì đã qua, ý tưởng và sự thực hiện, thành tựu và thất bại, thăng và trầm, nhất là trong gia đoạn gần đây trong 10 năm đổi mới, tổ chức Tư pháp cũng có thể rút ra được một số bài học, cả mặt tích cực, tiêu cực.

Nhiệm vụ của nhóm đề tài chỉ là nghiên cứu lịch sử, sự phát triển của ngành một cách trung thực, chính xác, góp phần lưu lại một số tư liệu, các sự kiện đáng chú ý, không có nhiệm vụ làm một bộ sử với đầy đủ các sự kiện, nhân vật, niên biểu, v..v.

Những bước phát triển chậm hoặc nhanh của hệ thống Tư pháp cho phép nhận xét rằng nhận thức về Tư pháp trong xã hội còn khác nhau, đáng chú ý là sự khác biệt đó lại có cả trong đội ngũ cán bộ có thẩm quyền.

Hoạt động Tư pháp về chức năng, tính chất, phương pháp, về tổ chức và đào tạo cán bộ có những điểm khác với hoạt động hành chính và các hoạt động khác của quyền lực Nhà nước.

Cơ quan hành chính với tư cách là cơ quan công quyền, thực hiện các hoạt động hành chính, đem lại cho xã hội các dịch vụ công: ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, công ăn việc làm, giữ gìn sức khoẻ, kinh doanh, trật tự, an toàn, và an ninh... Tất cả mọi người trong xã hội đều được hưởng thụ các kết quả của dịch vụ công cộng của hệ thống hành chính.

Cơ quan Tư pháp với tư cách là cơ quan tư quyền, hoạt động chủ yếu theo yêu cầu của mỗi công dân khi họ có tranh chấp. Không kể các vấn đề hình sự, việc đưa ra Toà thuộc quyền công tố của Nhà nước, các vấn đề khác về tranh chấp kinh tế, dân sự, lao động, hành chính, đất đai, nhà ở, hôn nhân gia đình việc đưa ra toà đều thuộc quyền tư tố của công dân, các tổ chức. Họ muốn đưa ra hay không muốn đưa ra là quyền của họ.

Đó là cơ sơ phân biệt công quyền và tư quyền, hành chính và tư pháp.

Đặc tính đó cho phép nhận thức về Tư pháp ở nhiều khía cạnh khác nhau.

Tư pháp, xét theo khía cạnh triết học pháp lý được quan niệm như một ý tưởng cao đẹp về một nền công lý, các tranh chấp trong xã hội đều được giải quyết đúng pháp luật, hợp lẽ công bằng, biểu hiện một giá trị cao đẹp về sự công bằng trong xã hội, một xã hội bình đẳng, và lòng tin của nhân dân vào pháp luật ngày càng tăng.

Tư pháp, xét theo khía cạnh thể chế Nhà nước được hiểu đó là một trong ba quyền lực cơ bản của bộ máy Nhà nước: Lập pháp, Hành chính, Tư pháp.

Tư pháp, xét theo khía cạnh khoa học tổ chức là những nguyên tắc, cách thức tổ chức các cơ quan Tư pháp khác nhau như các Toà án, Viện kiểm sát, Công an tư pháp, các tổ chức bổ trợ Tư pháp. v. v...

Đề tài lịch sử 55 năm ngành Tư pháp trên thực tế khuôn lại trong phạm vi tổ chức bộ máy, đề cập một phần rất nhỏ đến hoạt động, chưa được mở rộng về sự phản ánh chức năng giữ gìn nền công lý, góp phần xây dựng một xã hội công bằng văn minh.

Về nội dung, đề tài lịch sử ngành tư pháp lẽ ra nên nghiên cứu:

- Lịch sử nền công lý Việt Nam, tổng kết lại đường lối chính sách hình sự qua việc tổng kết Bộ luật hình sự và tố tụng hình sự đồng thời tổng kết lại đường lối chính sách dân sự qua việc tổng kết Bộ Luật dân sự và tổ chức dân sự.

- Lịch sử tổ chức ngành tư pháp, tức là đề tài này mới bước đầu nghiên cứu.

- Lịch sử hoạt động của ngành tư pháp chưa được đặt ra nghiên cứu.

Hạn chế của đề tài và nhóm đề tài cũng là đề nghị nên chăng tiếp tục một đề tài khác với nội dung rộng hơn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phần thứ hai

Một số hoạt động của ngành tư pháp trong 55 năm

(1945 – 2000)

 

nghiên cứu hoạt động xây dựng pháp luật 55 năm

(1945 - 2000)

Nguyễn Văn Thảo

Nguyên Viện trưởng Viện NCKH pháp lý

 

Chuyên đề này nghiên cứu hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước ta trong đó ngành tư pháp là ngành chịu trách nhiệm chủ yếu trước Nhà nước về hoạt động xây dựng pháp luật, nên hoạt động xây dựng pháp luật là một trong những hoạt động lớn của ngành tư pháp.

Xây dựng pháp luật bao gồm nhiều hoạt động như hoạt động nghiên cứu để tìm kiếm nội dung pháp luật phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, tìm kiếm hình thức văn bản pháp luật thích hợp, tìm kiếm cơ chế, quy trình xây dựng pháp luật hợp lý, khoa học, nghiên cứu so sánh pháp luật nước ta với pháp luật các nước.v.v...

Trong khuôn khổ của nghiên cứu lịch sử 55 năm ngành, chuyên đề này trình bày các giai đoạn lịch sử pháp luật Việt Nam có liên quan trực tiếp hoạt động xây dựng pháp luật. Về các giai đoạn của lịch sử pháp luật Việt Nam, có thể có nhiều cách phân kỳ:

- Phân kỳ theo lịch sử Hiến pháp.

- Phân kỳ theo các mốc chuyển biến của lịch sử chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, thống nhất đất nước, thời kỳ đổi mới...

Nếu phân kỳ theo lịch sử Hiến pháp, chúng ta có 4 bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992. Phân kỳ theo tiêu chuẩn này có điểm lợi là mốc lịch sử Nhà nước thường đi với mốc lịch sử Hiến pháp nhưng điểm yếu là không phản ánh hết các diễn biến chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội, vì các diễn biến đó có thể xảy ra trước hoặc sau khi ban hành Hiến pháp.

Nếu phân kỳ theo các mốc chuyển biến lịch sử thì chúng ta có thể phân ra thời kỳ giành chính quyền, tiến hành kháng chiến chống Pháp (1945-1954), thời kỳ xây dựng CNXH ở Miền Bắc (1955-1975), thời kỳ thống nhất đất nước (1976 đến nay), trong đó có một thời kỳ đổi mới (1987 đến nay).

Phân kỳ theo các mốc chuyển biến lịch sử có thể phản ánh rõ hơn nội dung pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật nước ta vào mỗi giai đoạn có chuyển biến.

Mặc dù có 2 phương pháp để phân kỳ lịch sử, tác giả của chuyên đề này vẫn cho rằng 2 phương pháp đó có chỗ gặp nhau, ăn khớp, không có gì quá chênh lệch.

Vì vậy sẽ phối hợp cả 2 phương pháp để phân kỳ lịch sử pháp luật:

Thời kỳ thứ nhất từ 1945 đến 1959 giành độc lập, thống nhất nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, kháng chiến chống Pháp, giải phóng Miền Bắc, khôi phục sản xuất ở Miền Bắc.

Thời kỳ thứ hai từ 1960 đến 1980, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước, tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong cả nước.

Thời kỳ thứ ba từ 1981 đến 1986, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở của việc nghiên cứu mô hình mới về quản lý kinh tế.

Thời kỳ thứ tư từ 1987 đến nay, thời kỳ đổi mới.

I-Thời kỳ thứ nhất (1945-1959)

1. Nội dung pháp luật của thời kỳ thứ nhất:

Đây là thời kỳ mới giành chính quyền, thành lập Nhà nước đầu tiên, sau một năm lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược nước ta nên nội dung pháp luật tập trung vào các vấn đề chủ yếu của công cuộc bảo vệ độc lập, xây dựng Nhà nước, kháng chiến chống Pháp, bồi dưỡng sức dân.

Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, một văn kiện chính trị, pháp lý đặt cơ sở cho công cuộc xây dựng đất nước, kêu gọi thế giới văn minh của "Kỷ nguyên chính nghĩa và công lý" ủng hộ nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà vừa thoát thai từ cuộc Tổng khởi nghĩa của một dân tộc đã đứng lên giành độc lập. Nội dung của pháp luật thời kỳ này có mấy điểm lớn:

1.1. Pháp luật bảo vệ nền độc lập còn non trẻ.

Ngay sau Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị Chủ tịch Chính phủ nhân dân lâm thời ký các sắc lệnh:

- Tịch thu các tài sản (đồn điền, hầm mỏ, nhà máy lớn) của thực dân Pháp và Việt gian phản quốc, đồng thời tuyên bố bảo hộ tính mệnh, tài sản của Pháp kiều và kiều dân Pháp thành thật tôn trọng chủ quyền của Việt Nam.

- Xoá bỏ mọi thứ thuế do Pháp - Nhật đặt ra.

- Cấm đi lính, tiếp tế, làm công cho thực dân Pháp (Pháp đã xâm lăng Nam Bộ).

- Lập Toà án quân sự, thành phần toà án gồm chánh án do quân đội cử ra, một uỷ viên chính trị do Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc khu cử ra, và một uỷ viên chuyên môn (tư pháp) do chưởng lý toà thẩm cử ra.

- Chính phủ, Quốc hội ra nhiều nghị quyết giao hảo với các nước đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc, với các tổ chức tiến bộ của nhân dân Pháp, với Đức giáo hoàng "để giành lấy sự đồng tình và ủng hộ của họ".

1.2. Pháp luật tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam đầu tiên trong lịch sử:

Hiến pháp 1946 phản ánh trung thành trọn vẹn và sâu đậm nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Hiến pháp và một số sắc lệnh đã quy định về tổ chức Nhà nước như sau:

- Nghị viện nhân dân (Quốc hội) là cơ quan cao nhất của Quốc gia.

- Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch và nội các. Nội các gồm Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng và có thể có Phó thủ tướng. Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của Quốc gia.

- Toà án thực hiện quyền xét xử theo nguyên tắc độc lập, thẩm phán chỉ trọng pháp luật và công lý.

- Tổ chức chính quyền địa phương ở nông thôn khác với ở đô thị được áp dụng nguyên tắc phân quyền trong cách thức tổ chức nền hành chính.

1.3. Pháp luật xây dựng nền dân chủ nhân dân.

- Sắc lệnh số 14 ngày 8/9/1945 và Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 về tổng tuyển cử, quyền bầu cử và ứng cử tự do.

- Sắc lệnh số 40 ngày 29/03/1946 về bảo vệ tự do cá nhân, quyền tự do thân thể, nhà ở và thư tín.

- Sắc lệnh số 41 ngày 29/03/1946 về chế độ tự do báo chí.

1.4. Pháp luật bảo đảm tôn trọng quyền tư hữu tài sản và tự do kinh doanh

Về mặt này phải kể đến việc ban hành những nguyên tắc của Luật dân sự vào năm 1950, những chế định của Bộ luật Lao động và vấn đề người cày có ruộng theo luật cải cách ruộng đất.

1.5. Pháp luật trừng trị tội phạm

Thời kỳ đầu của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để duy trì trật tự, Chính phủ đã quyết định giữ lại một số luật lệ của chế độ cũ, vì Chính phủ chưa kịp đặt ra luật lệ mới, miễn là các luật lệ cũ không trái với độc lập tự do (Sắc lệnh ngày 10/10/1945). Để bảo vệ cách mạng chống bọn phá hoại thì từ tháng 9 năm 1945, Chính phủ đã ra sắc lệnh quy định việc trừng trị các tội phạm chính trị do Toà án quân sự xét xử. Sắc lệnh số 6 ngày 5/9/1946, Sắc lệnh số 21(1946), quy định "tội bắt cóc, tống tiền, ám sát", "tội tự ý trộm cắp, phá huỷ, cắt dây điện thoại, điện tín", với mục đích phá hoại,v.v...Sắc lệnh số 133/SL ngày 20/1/1953 tổng hợp và cụ thể hoá thêm các tội phạm chính trị ấy. Sắc lệnh số 151/SL ngày 12/4/1953 "trừng trị bọn địa chủ" chống pháp luật.

Năm 1956, Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 ra đời nhằm trừng trị những hoạt động phản cách mạng mới, "những âm mưu và hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch nhà nước.

2. Về hình thức văn bản pháp luật của thời kỳ này (1945-1959)

Mới thành lập, Nhà nước ta chưa đầy 2 tuần với bao nhiêu khó khăn chồng chất do giặc đói, giặc ngoại xâm, bọn phản động hoạt động chống đối quyết liệt, ngân khố không có tiền, vậy mà sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Chính phủ đã họp bàn ngay việc tổng tuyển cử bầu Quốc hội, lập một Nhà nước hợp pháp và khẩn trương soạn thảo một Hiến pháp mới. Một ban soạn thảo Hiến pháp được thành lập do chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban.

Bằng Hiến pháp, một hình thức văn bản cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật, chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước bằng đạo luật.

Tuy nhiên, vì phải tiến hành cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đất nước bị chia cắt thành nhiều vùng khó đi lại nên Quốc hội không có điều kiện họp thường xuyên.

Trong điều kiện đó, Nhà nước đã sử dụng hình thức văn bản Sắc lệnh của Chủ tịch nước để quản lý đất nước và tiến hành cuộc kháng chiến - Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất sâu sắc việc sử dụng hình thức văn bản Sắc lệnh. Năm 1919 trong bức thư tố cáo chế độ thực dân Pháp cai trị nước ta, bức thư đã có một đoạn nói rõ cần phải thay đổi cách cai trị bằng Sắc lệnh sang cai trị bằng đạo luật. Vì vậy khi phải sử dụng hình thức Sắc lệnh do Quốc hội không có điều kiện họp thường xuyên để ban hành Luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao đổi thống nhất với Ban thường trực Quốc hội, lúc đó do cụ Bùi Bằng Đoàn làm trưởng ban, trước khi ban hành Sắc lệnh sẽ đưa sang để Ban thường trực cho ý kiến. Một thông tư của Chủ tịch Chính phủ đã định rõ mối quan hệ đó và trách nhiệm của Chính phủ trong việc đưa dự thảo Sắc lệnh đến Ban thường trực Quốc hội.

Trong 9 năm kháng chiến, Chủ tịch nước đã ban hành hơn 700 Sắc lệnh, điều chỉnh các quan hệ trong mọi lĩnh vực cần thiết của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cũng cần nói thêm về việc sử dụng hình thức Sắc lệnh, xem như hình thức chủ yếu của thời kỳ này, nhưng Chính phủ vẫn thường xuyên chú ý đến hình thức đạo luật. Xin nêu hai dẫn chứng cụ thể.

Vào năm 1952, cuộc kháng chiến đang ở vào thời kỳ khốc liệt, quân đội ta phản công dữ dội ở nhiều mặt trận, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định tiến hành cải cách ruộng đất nhằm bồi dưỡng sức dân để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, vừa tiến hành cách mạng dân tộc giải phóng tổ quốc, vừa tiến hành cách mạng dân chủ, đem lại ruộng đất cho nông dân.

Các định chế về cải cách ruộng đất được nghiên cứu rất kỹ, đi đến kết luận không thể ban hành bằng một Sắc lệnh mà phải bằng hình thức một đạo luật. Quốc hội phải họp để thông qua Luật cải cách ruộng đất. Với muôn vàn khó khăn, đại biểu Quốc hội ở các miền, nhất là ở Nam bộ, đã đi bộ suốt 4 tháng để đến Việt Bắc, họp Quốc hội vào năm 1953, thảo luận và thông qua Luật cải cách ruộng đất.

Cuối của thời kỳ này, cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi (1954) Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, công cuộc khôi phục kinh tế được thực hiện. Quốc hội đã có điều kiện họp thường kỳ tại thủ đô Hà Nội.

Trước khi về tiếp quản thủ đô Hà nội, Chính phủ đã chủ trương cần nghiên cứu, soạn thảo ngay một số dự luật quan trọng để sau ngày giải phóng có thể trình ra Quốc hội ngay phiên họp đầu tại thủ đô mới giải phóng.

Luật bầu cử, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật bảo đảm quyền tự do của nhân dân, Luật tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội, chính sách tôn giáo được Quốc hội lần lượt ban hành vào những năm đó (1956-1959).

Thực tiễn lập pháp đó chứng minh nhận thức về tầm quan trọng của hình thức đạo luật trong hoạt động nghiên cứu, xây dựng pháp luật và trong thực tiễn thi hành pháp luật cuả hệ thống hành chính.

II- Thời kỳ thứ hai (1960-1980)

1. Nội dung pháp luật của thời kỳ thứ hai

Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, thực hiện đấu tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.

Nội dung pháp luật có mấy điểm lớn:

1.1. Hiến pháp 1959 và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước

Cách mạng nước ta đang chuyển sang một tình thế mới. Nhân dân ra sức củng cố Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, và tiếp tục đấu tranh để hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

"Trong giai đoạn mới của Cách mạng, Quốc hội ta cần sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới..."

Tính chất nhà nước là vấn đề cực kỳ lớn, quan trọng của giai đoạn mới. "Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo...Được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong mặt trận dân tộc thống nhất, nhất định sẽ dành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà. Nhân dân ta nhất định xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".

Sau Hiến pháp 1959, các đạo luật về tổ chức đã lần lượt ra đời, đánh dấu một thể chế mới về nhà nước khi bắt đầu thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.

Các đạo luật đó bao gồm: Luật tổ chức Quốc Hội, Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân tối cao, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp.

Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959 về vấn đề Nhà nước và các đạo luật về tổ chức nhà nước có những điểm sau đây:

- Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

- Hội nghị Chính trị hiệp thương do Chủ tịch nước triệu tập và chủ trì là một hội nghị tập hợp rộng rãi các đoàn thể, các nhân vật có tiếng tăm trong cả nước để bàn những vấn đề trọng đại của đất nước.

- Chủ tịch nước không kiêm nhiệm Chủ tịch Chính phủ- bầu chức danh Thủ tướng.

- Trong Chính phủ không còn Bộ tư pháp, công tác của Bộ tư pháp giao cho Toà án, Viện kiểm sát, Vụ pháp chế của Văn phòng Chính phủ.

- Thiết lập Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu chánh án.

- Thiết lập Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu Viện trưởng.

- ở tất cả các cấp tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương đều có hội đồng nhân dân (trước đây ở cấp huyện không có hội đồng nhân dân).

1.2. Pháp luật về kinh tế.

Nội dung của luật kinh tế thời kỳ này có mấy đặc điểm sau:

- Nền kinh tế hiện vật không mang tính hàng hoá được quản lý bằng một cơ chế tập trung theo chế độ bao cấp, lúc đầu còn có nhiều thành phần kinh tế sau đó chỉ còn kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể.

- Các chính sách xã hội và tiêu dùng trong xã hội đối với nhân dân được thực hiện theo chế độ cung cấp tem phiếu.

- Các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội phát triển theo hướng ít phức tạp, không đa dạng, khá thuần nhất, các động lực kích thích sự phát triển kinh tế, xã hội chủ yếu dựa vào các yếu tố chính trị và tư tưởng.

- Các chính sách tiền phương, hậu phương phù hợp với cơ chế bao cấp ở miền Bắc, có tác dụng thúc đẩy sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Các chính sách đó được bổ sung thêm một số luật lệ phù hợp với đặc điểm miền Nam từ khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời ra đời.

Nét ưu trội của thời kỳ pháp luật này đã thể hiện khá đặc sắc đường lối, chính sách xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội của Đảng ta. Đó là thời kỳ thể hiện sự quyết tâm của chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước.

Trong lĩnh vực kinh tế, các chế độ pháp luật về kế hoạch hoá nền kinh tế về tổ chức các xí nghiệp quốc doanh, điều lệ hợp tác xã, chế độ hạch toán, chế độ hợp đồng và cơ quan trọng tài lần lượt ra đời.

Một nền kinh tế chỉ huy được dần dần hình thành. Cùng với nó, pháp luật hành chính, trong những năm 60 đã công bố địa vị pháp lý của các bộ (tới khoảng 40 điều lệ) của chính quyền địa phương và đã quy định một hệ thống tài chính trực tiếp chỉ huy, quản lý kinh doanh.

Bên cạnh pháp luật kinh tế và pháp luật hành chính, một loạt các chế độ về lao động, tài chính,v.v... đều hướng vào phục vụ cho sự vận hành cơ chế kinh tế tập trung, hiện vật và bao cấp điển hình là chế độ thực thi thực thanh và chế độ biên chế nhà nước, có vào cơ quan, xí nghiệp nhà nước mới được coi là có công ăn việc làm. Các pháp luật khác đều như vậy. Cả đến pháp luật hình sự cũng chứa đựng nhiều yếu tố của các quan hệ kinh tế hiện vật, các trách nhiệm chủ yếu dựa vào nền kinh tế chỉ huy, không cho phép buôn bán hàng hoá. Pháp luật dân sự hầu như chưa có gì.

Ngày 29/12/1959, Quốc hội thông qua Luật hôn nhân và gia đình, hai ngày trước ngày thông qua Hiến pháp mới.

Nguyên tắc nam nữ bình đẳng đã được áp dụng, trên bình diện xã hội, trong các vùng giải phóng từ những năm đầu 40, sau ngày Tuyên ngôn độc lập, khi Chính phủ nhân dân lâm thời ban hành sắc lệnh về bầu cử Quốc hội và sắc lệnh về bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp thì phụ nữ đã được ngang quyền với nam giới về quyền bầu cử và ứng cử, tham gia quản lý nhà nước.

Tự do kết hôn bao hàm tự do ly hôn, nhất là đối với những cặp vợ chồng trước đây lấy nhau là bị cha mẹ ép uổng.

1.4. Pháp luật sau khi thống nhất đất nước.

Năm 1975, sau khi giải phóng miền Nam, hệ thống pháp luật của Chính phủ cách mạng lâm thời Nam Việt Nam tuy chỉ có một số ít sắc lệnh nhưng vẫn còn hiệu lực ở các tỉnh phía Nam cho tới ngày thống nhất hai miền, hai chính phủ.

Năm 1976, sau khi thống nhất hai miền thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội ta đã thông qua đề nghị của Chính phủ ban hành một hệ thống pháp luật thống nhất có hiệu lực trong cả nước gồm 644 văn bản Luật, Pháp lệnh, Nghị định đã ban hành từ năm 1945 đến năm 1975 của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam.

2- Hình thức văn bản pháp luật và cách xây dựng pháp luật của thời kỳ thứ hai:

Phù hợp với nội dung pháp luật của thời kỳ xây dựng cơ chế quản lý kinh tế, xã hội và mọi lĩnh vực của đời sống theo mô hình bao cấp, nhà nước ta đã sử dụng hình thức văn bản pháp luật Nghị định, loại văn bản dưới luật, là hình thức phổ biến nhất trong hệ thống văn bản pháp luật.

Hình thức đạo luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được sử dụng nhưng không nhiều, chủ yếu trong lĩnh vực thuế, tổ chức bộ máy nhà nước cấp cao và chính quyền địa phương, nghĩa vụ công dân...

Tính trong 20 năm (1960-1980), Nhà nước ta đã ban hành 11 đạo luật, 20 Pháp lệnh, 460 Nghị định có tính quy phạm. Lĩnh vực quản lý kinh tế được điều chỉnh hầu hết bằng các Nghị định, Thông tư của Chính phủ và các Bộ. Về số liệu của Nghị định mà chúng tôi thống kê ở đây là các Nghị định có tính quy phạm. Chính phủ còn ban hành các Nghị định về phân vạch địa giới hành chính, các vấn đề nhân sự, cá biệt hành chính.

Nguyên nhân nào đã dẫn đến tình trạng lập pháp ít, lập quy nhiều.

Điểm lại hoạt động xây dựng pháp luật của thời kỳ này, chúng tôi thấy nguyên nhân nổi rõ nhất là nhận thức về lập pháp, lập quy được phổ biến qua kinh nghiệm của Liên Xô cũ và Trung Quốc.

ở Liên Xô cũ, vào thời kỳ đó đã có một quan niệm rất phổ biến là kinh tế xã hội chủ nghĩa đang hình thành, các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực đều chưa ổn định, luôn thay đổi nên không thể dùng hình thức Luật để điều chỉnh vì Luật là một hình thức văn bản cao, khó thay đổi hoặc thay đổi phải mất nhiều thời gian. Văn bản dưới luật do Chính phủ ban hành ban hành kịp thời, nhanh hơn, sửa đổi cũng nhanh, phù hợp với những chuyển động thường xuyên, đang đi lên của các quan hệ kinh tế, xã hội.

ở Trung Quốc, vào thời kỳ đó đã đưa ra một quan niệm về đường lối lập pháp, lập quy là phải theo một quá trình từ thô đến tinh, từ đơn giản đến phức tạp, từ hình thức văn bản thấp đến hình thức văn bản cao từ lệ đến luật. Đó là cách làm các đạo luật của Trung Quốc.

Cùng với quan niệm đó, ở nước ta trong nhiều giới còn chưa nhận thức rõ về vai trò của Quốc hội, nên hoạt động của Quốc hội có phần nào hình thức, thời gian họp ít, phần lớn thời gian họp chỉ bàn kế hoạch, ít bàn đến lập pháp.

III. Thời kỳ thứ ba (1980 -1987)

1. Nội dung pháp luật của thời kỳ thứ ba

Trong thời kỳ từ 1960 - 1980, Đảng và nhà nước đã có đánh giá sơ bộ về những mặt mạnh, mặt yếu của nền kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung, bao cấp và đã tiến hành nghiên cứu, làm thử về cải tiến quản lý kinh tế ở Hợp tác xã nông nghiệp và nhiều xí nghiệp quốc doanh.

Những năm cuối của thập kỷ 80 (1977, 1978, 1979) ở Liên Xô (cũ) và hầu hết các nước XHCN Đông Âu ban hành Hiến pháp mới, tổ chức lại bộ máy nhà nước, thực hiện cải cách kinh tế. ở nước ta, sau khi thống nhất đất nước, chuyển thành nước cộng hoà Xã hội chủ nghĩa cũng có nhu cầu ban hành một Hiến pháp mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật.

Nhu cầu đó càng cấp bách hơn vì kinh tế và đời sống của nhân dân trong thời kỳ này bị sa sút nhiều. Tình hình đó quyết định nội dung chủ yếu của pháp luật thời kỳ này.

1.1. Pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980.

Hiến pháp năm 1980 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước như Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng, Toà án, Viện kiểm sát, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp đã quy định về hình thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan này có nhiều thay đổi so với Hiến pháp năm 1959.

Thiết chế Chủ tịch nước được thay bằng thiết chế Hội đồng nhà nước, Nguyên thủ quốc gia một người thay bằng Nguyên thủ quốc gia là một tập thể.

Quốc hội không tổ chức Uỷ ban thường vụ Quốc hội như Hiến pháp năm 1959, chỉ có Chủ tịch và Phó chủ tịch Quốc hội. Các chức năng chủ yếu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 được chuyển sang Hội đồng nhà nước.

Hội đồng Chính phủ đổi thành Hội đồng bộ trưởng, hoạt động theo chế độ tập thể lãnh đạo.

 

Toà án nhân dân tối cao chuyển công tác quản lý toà án địa phương về tổ chức, công tác quản lý các tổ chức bổ trợ tư pháp (gọi chung là quản lý tư pháp) về Bộ tư pháp giống như thời kỳ đầu (1945-1959).

Về bốn cấp chính quyền: trung ương, tỉnh, huyện, xã vẫn giữ như cũ nhưng ở các đô thị thành lập cấp phường tương đương với cấp xã ở nông thôn.

1.2. Pháp luật về kinh tế:

Thời kỳ có nhiều chủ trương làm thử đổi mới về kinh tế ở nhiều lĩnh vực. Trong nông nghiệp có chủ trương khoán hộ, trong công nghiệp bắt đầu một cơ chế mới, chế độ tự chủ về tài chính cho xí nghiệp quốc doanh.

Các Quyết định số 25/CP và 26/CP ngày 21/1/1981 trong quản lý xí nghiệp quốc doanh, Chỉ thị số 100-CT/TƯ ngày 13/1/1981 trong quản lý hợp tác xã nông nghiệp đã đánh dấu thời kỳ đổi mới đang hình thành.

 

1.3. Chương trình làm luật hàng năm được thực hiện khi có Quốc Hội mới:

Từ năm 1980, khi có Hiến pháp mới, Quốc Hội ta đã có chương trình xây dựng luật và pháp lệnh hàng năm, mở ra một trình tự mới cho công tác xây dựng pháp lệnh.

Tất cả các lĩnh vực đều được Chính phủ đưa vào dự kiến chương trình làm luật đưa ra Quốc Hội quyết định. Các đạo luật, bộ luật lớn bắt đầu được nghiên cứu soạn thảo như Luật lao động, Luật đất đai, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, các luật về thuế...

Thời kỳ này (1980-1986), Quốc Hội đã ban hành được 16 đạo luật, 18 pháp lệnh. Có thể nói bắt đầu khởi sắc một thời kỳ mới về xây dựng các đạo luật, pháp lệnh.

1.4. Ban hành Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Những năm đầu của Nhà nước ta, vì điều kiện kháng chiến và những khó khăn về công tác lập pháp, pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự được ban hành bằng văn bản đơn hành, quy định lẻ tẻ về một số tội phạm và trình tự tố tụng.

Sau khi thống nhất đất nước, Nhà nước đã tổ chức pháp điển hoá về hình sự và tố tụng hình sự, biên soạn ra hai bộ luật: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự. Năm 1985, Bộ luật hình sự được ban hành. Năm 1988 Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành. Đó là hai bộ luật đầu tiên trong hệ thống các bộ luật, đạo luật của nước ta.

(a) Bộ luật hình sự gồm hai phần, 20 chương, 280 điều khoản đã đưa ra các chế định chung về tội phạm và hình phạt, về các chế định, quy định các tội phạm cụ thể, mỗi tội phạm được ấn định thành một tội danh, gồm có 209 tội danh, xếp đặt các tội danh đó vào 12 nhóm tội.

(b) Bộ luật tố tụng hình sự gồm 7 phần, 32 chương, 286 điều. Quy định toàn bộ quá trình tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng, các thủ tục đặc biệt, v.v.

IV- Thời kỳ thứ tư - Pháp luật trong thời kỳ đổi mới (1987-2000)

1. Nội dung pháp luật thời kỳ đổi mới:

Vào giữa năm 1986, Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 khoá VI đã đánh giá tình hình, đề ra chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế quản lý kinh doanh thay thế cho nền kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý tập trung, bao cấp.

Đại hội Đảng khoá VII khẳng định chủ trương về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đề ra cương lĩnh phát triển kinh tế - xã hội, trong đó đã quyết định xây dựng nền kinh tế hàng hoà nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.

Công việc thể chế hoá xây dựng pháp luật từ đó đến nay (2000) đã hình thành một hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới, phục vụ cho việc xây dựng cơ cấu kinh tế mới, cơ cấu xã hội mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

1.1. Trước Đại hội VII, trong 4 năm 1986-1990 đã xây dựng được nhiều văn bản pháp luật theo hướng cải cách kinh tế. Quyết định số 76/HĐBT ngày 26/6/1986 bổ sung chế độ tự chủ về tài chính của xí nghiệp quốc doanh (1986). Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 ban hành các chính sách đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh, trên thực tế là thể chế hoá một bước Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản lần thứ 6 khoá VI (1986) về việc chuyển nền kinh tế bao cấp ở nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.

 

Trong lĩnh vực đầu tư của người nước ngoài vào Việt Nam và lĩnh vực kinh doanh tư nhân, Quốc Hội đã ban hành một loạt đạo luật để hình thành và vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đó là Luật đầu tư nước ngoài (1987), Luật công ty (tư nhân) (1990). Luật doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tiêu thụ đặc biệt, Bộ luật hàng hải, Luật đất đai, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế thay thế chế độ hợp đồng theo kế hoạch (1989).

1.2. Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, với cương lĩnh mới, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp 1992.

Hiến pháp 1992 thay thế Hiến pháp 1980 khẳng định những nguyên tắc pháp lý cơ bản của công cuộc đổi mới ở nước ta trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và tổ chức Nhà nước:

- Nguyên tắc tự do kinh doanh, bảo hộ các thành phần kinh tế, tăng cường vai trò doanh nghiệp của Nhà nước.

- Bảo đảm quyền con người và quyền công dân.

- Khuyến khích người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

- Xã hội công bằng, văn minh, lành mạnh, đẩy lùi các tệ nạn, xoá đói giảm nghèo.

- Tăng cường khă năng bảo vệ tổ quốc, trật tự và an ninh.

- Tổ chức một Nhà nước trên cơ sở nguyên tắc thống nhất quyền lực, có phân công và phối hợp chặt chẽ quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp.

Cùng với Hiến pháp 1992, các đạo luật về tổ chức Quốc Hội, Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát, tổ chức hội đồng nhân dân đã có một số thay đổi quan trọng về thiết chế bộ máy Nhà nước:

- Bỏ Hội đồng Nhà nước, lập lại thiết chế Nguyên thủ quốc gia một người.

- Về tổ chức Quốc hội lập lại thiết chế Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

- Tổ chức Chính phủ gồm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng thay thế cho Hội đồng Bộ trưởng.

- Về tổ chức toà án, thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán toà án nhân dân các cấp thay thế cho chế độ bầu thẩm phán (chế độ bổ nhiệm thẩm phán đã thực hiện ở nước ta từ năm 1945 đến năm 1959, tới năm 1960 mới thực hiện chế độ bầu thẩm phán cho tới năm 1992)

- Thành lập các toà án chuyên môn: Toà án kinh tế, Toà án hành chính, Toà án lao động. Đây là một thành tựu của cải cách hành chính, cải cách tư pháp gắn liền với cải cách kinh tế.

- Thành lập Kiểm toán Nhà nước.

1.3. Bộ luật dân sự và hệ thống pháp luật kinh tế phục vụ cho thời kỳ đổi mới;

 

Cũng giống như thực trạng của Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, pháp luật về dân sự của nước ta chỉ được quy định lẻ tẻ trong một số văn bản đơn hành gồm một số chế định và một vài trình tự tố tụng.

Sau một thời gian tiến hành pháp điển hoá, Bộ luật Dân sự được biên soạn và đã được Quốc hội thảo luận, thông qua vào tháng 10 năm 1995.

Bộ luật dân sự gồm 7 phần, 33 chương, 838 điều khoản, quy định về:

- Các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.

- Tài sản và quyền sở hữu.

- Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự.

- Thừa kế.

- Chuyển quyền sử dụng đất.

- Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.

- Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Từ năm 1992 đến nay Quốc hội nước ta đã ban hành nhiều đạo luật, pháp lệnh nhằm thể chế hoá đồng bộ các chủ trương chính sách đổi mới kinh tế, xã hội, cải cách một bước bộ máy nhà nước, trọng tâm là cải cách nền hành chính nhà nước. Đây là thời kỳ xây dựng pháp luật được chú ý nhiều do nhu cầu khách quan của việc quản lý nền kinh tế thị trường, xây dựng và phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền.

Các đạo luật về Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các loại công ty, các hình thức liên doanh với nước ngoài, Luật đầu tư được bổ sung và hoàn thiện nhiều lần, Luật thương mại, Luật đất đai, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật ngân hàng, Luật ngân sách, v.v...lần lượt ra đời.

Bên cạnh pháp luật về kinh tế, pháp luật về cải cách bộ máy nhà nước, trọng tâm là cải cách hành chính, về cải cách tư pháp, pháp luật quản lý xã hội, Luật cải cách giáo dục, chăm sóc bảo vệ bà mẹ trẻ em,v.v...đều đồng thời được ban hành.

Có thể nói 13 năm đổi mới, hệ thống pháp luật của chúng ta đã được hoàn thiện nhiều, nâng cao về chất lượng, chặt chẽ về hình thức, bao quát nhiều lĩnh vực.

Trong 13 năm đổi mới đã ban hành được 84 đạo luật, 77 pháp lệnh, 826 nghị định có tính quy phạm.

Khung pháp lý hiện nay trong 1 số lĩnh vực chủ yếu bao gồm:

Khung pháp lý hiện nay về nền hành chính nhà nước, đã được hoàn thiện trong 5 năm qua (1994-1999) bao gồm nhiều đạo luật, pháp lệnh, nghị định về tổ chức hoạt động và quy chế làm việc của Chính phủ, về tổ chức lại các Bộ và Tổng cục (24 Bộ và 26 Tổng cục); về tổ chức hoạt động của HĐND; UBND các cấp; về quy chế dân chủ và chế độ công khai tài chính của cơ quan nhà nước trước nhân dân tại các xã (nông thôn), phường (đô thị). Khung pháp lý hiện nay còn thiết lập Kiểm toán nhà nước là một cơ quan kiểm tra tài chính đối với các cơ quan, tổ chức hoạt động theo ngân sách.

Khuôn khổ này còn đưa ra một quy chế công chức và chế độ công vụ mới bắt đầu thực hiện từ năm 1999, quy chế mới này còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành bằng 20 bản nghị định của Chính phủ.

Khung pháp lý cũng đưa các nguyên tắc đổi mới về chế độ quản lý tài chính công thông qua luật ngân sách, các nghị định quy định về chế độ chi tiêu ngân sách ở cấp xã, phường và hiện đang nghiên cứu về chế độ khoán chi quĩ lương và chi tiêu hành chính ở các cơ quan nhà nước.

Khung pháp lý hiện nay của nền kinh tế thị trường sau 5 năm hoàn thiện gồm:

- Luật về các loại công ty, doanh nghiệp. Tháng 6 năm 1999, Quốc hội thông qua Luật doanh nghiệp quy định về các loại công ty và doanh nghiệp tư nhân. Tháng 10 thông qua Luật doanh nghiệp nhà nước.

- Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật này đã sửa đổi, bổ sung 4 lần (kể từ năm 1987). Luật về khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước bỏ vốn đầu tư.

- Luật về các loại thuế trong đó có luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp là 2 loại thuế mới.

- Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng, trong đó theo chủ trương sẽ cải tổ lại toàn bộ hệ thống ngân hàng.

- Luật thương mại và các quy định mới về xuất nhập khẩu, giảm bớt việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến.

- Luật đất đai đã sửa đổi tới 3 lần. Luật mới năm 1988 quy định cho các cá nhân và tổ chức kể cả các tổ chức kinh doanh nước ngoài trong vấn đề thuê đất, cho thuê lại đất và một số quyền khác.

- Luật lao động trong đó chú ý bảo vệ quyền lợi cho người bán sức lao động và người thuê mướn lao động.

- Bộ luật dân sự và nhiều văn bản khác quy định về quyền sở hữu công nghiệp.

- Pháp luật về kiểm toán tư.

- Nhiều luật khác trong các lĩnh vực kinh tế như luật về khoáng sản, bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn thuỷ sản, bảo vệ môi trường, luật về nước...

Khung pháp lý hiện nay của nền tư pháp sau 5 năm hoàn thiện bao gồm:

- Luật về việc thành lập các toà án chuyên môn như Toà án kinh tế (1994), Toà án lao động (1992), Toà án hành chính (1995) và các quy định về tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính.

- Luật về tổ chức trọng tài kinh tế phi Chính phủ được thành lập ở tất cả các tỉnh, thành phố.

- Luật về thẩm phán và hội thẩm nhân dân.

- Luật về tổ chức công chứng, giám định tư pháp, tổ chức luật sư, thi hành án dân sự. Luật về tổ chức luật sư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam

Kết luận

Bên cạnh những thành tựu, ưu điểm của hệ thống pháp luật trong 13 năm đổi mới, cần nói đến khuyết tật của các thể chế hành chính.

So với các thể chế khác của nhà nước như thể chế kinh tế, thể chế hình sự, lao động, hôn nhân và gia đình v.v...thể chế hành chính có một đặc điểm dễ nhận là nhiều cơ quan ban hành và đụng chạm trực tiếp đến đời sống hàng ngày của công dân.

Các thể chế kinh tế, hình sự, lao động, hôn nhân và gia đình v.v...thường đươc ban hành dưới hình thức Luật, Pháp lệnh, Nghị định, một số rất ít Thông tư của Bộ, còn thể chế hành chính thì ngược lại, một số nguyên tắc được quy định bằng Luật, Pháp lệnh còn phần lớn là Nghị định, Thông tư và các văn bản của chính quyền địa phương. Đặc biệt là các thủ tục hành chính, phần lớn do Bộ và các cấp chính quyền địa phương ban hành.

Các thủ tục như thủ tục cấp phép, đăng ký, chứng thực, chứng nhận, cưỡng chế,v.v...đụng chạm sát sườn tới lợi ích của công dân nên khi ban hành thường gặp ngay những phản ứng tích cực hoặc tiêu cực.

Các thủ tục này thường do từng ngành, từng địa phương ban hành nên rất dễ mâu thuẫn, chống chéo, khó thực hiện, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực quản lý của nền hành chính.

Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc đặt thêm các quy định chi tiết tưởng như để công việc quản lý tốt hơn nhưng làm cho hệ thống thể chế hành chính càng rối rắm.

Hệ thống thể chế hành chính còn bị phụ thuộc nhiều vào các đạo luật, pháp lệnh là những văn bản phải được thực hiện lâu dài và ổn định. Hiện nay chất lượng của một số đạo luật còn thấp. Một đạo luật vừa ban hành, năm sau đã phải sửa. Trong vòng 10 năm có đạo luật đã phải sửa tới hai, ba lần, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của hệ thống thể chế hành chính.

Nhược điểm hiện nay của việc xây dựng thể chế hành chính là: mỗi đạo Luật, Pháp lệnh về một lĩnh vực nhất định đều do Bộ, Tổng cục chủ quản lĩnh vực đó soạn thảo. Các lợi ích của ngành được Bộ, Tổng cục chú ý và ghi nhận vào các đạo luật, pháp lệnh, còn lợi ích của ngành khác, địa phương khác được ghi nhận rất mờ nhạt nên các phần quy định về quyền, nghĩa vụ của các Bộ, Tổng cục trong các đạo luật, pháp lệnh dễ mâu thuẫn, chồng chéo, khó thực hiện do tình trạng bản vị, cục bộ của mỗi Bộ, Tổng cục trong việc soạn thảo luật. Sự mâu thuẫn, chồng chéo của một số Luật, Pháp lệnh làm cho Chính phủ lúng túng không thể đưa ra các thể chế hành chính trái với luật. Đã có 37 luật, pháp lệnh quy định về thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp làm cho công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp tại một đơn vị sản xuất, kinh doanh trong nhiều trường hợp có 5,7 đoàn cùng xuống một thời gian.

Khi gặp khó khăn trong việc đưa ra một quy định cụ thể trong các luật, pháp lệnh, Quốc hội thường giao quyền quy định đó cho Chính phủ, thực chất đó là việc uỷ quyền lập pháp. Hiện nay theo sự tính toán sơ bộ, Chính phủ còn nợ hơn 50 nghị định chưa ban hành do Quốc hội giao Chính phủ. Về phía Chính phủ lại chưa có một cơ quan chuyên trách nghiên cứu việc uỷ quyền lập pháp, soạn thảo các nghị định kiểm soát các thông tư của Bộ trưởng, và văn bản chủ tịch tỉnh ban hành.

Quyền lập quy của Bộ, Chính quyền cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương quá lớn, hầu như hiệu lực quản lý phụ thuộc phần lớn vào các thông tư của Bộ và các quy định của Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.

Khuyết tật của hệ thống thể chế hành chính hiện nay, sau nhiều năm cải cách, vẫn là một hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, chưa thuận tiện cho dân.

Tất cả các loại thủ tục từ những thủ tục quan trọng như xin phép kinh doanh, xin phép làm nhà, xin cấp đất, vay tiền của ngân hàng, xin cấp ngân sách đến những thủ tục bình thường đối với nhân dân như thủ tục đăng ký hộ tịch, hộ khẩu,v.v...đều còn nhiều quy định phiền hà, bắt dân đi lại nhiều lần, tốn kém, đã làm nảy sinh nhiều hành vi tiêu cực trong các mối quan hệ giữa dân với cán bộ làm thủ tục.

Bên cạnh hệ thống thủ tục hành chính còn nhiều khuyết tật, các thể chế hành chính khác như thể chế về tổ chức hành chính, về công chức do nhiều nguyên nhân đã có những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, khó thực hiện hoặc không có điều kiện vật chất để thực hiện.

Mỗi ngành, mỗi bộ với thẩm quyền của mình đã đưa ra nhiều quy định mâu thuẫn với ngành khác, cơ quan khác.

 

Bộ Tư pháp với nhiệm vụ quản lý

toà án nhân dân địa phương

T.S Dương Thị Thanh Mai

Phó Viện trưởng Viện NCKH pháp lý

I. Khái quát và phân kỳ lịch sử phát triển của Bộ Tư pháp với nhiệm vụ quản lý Toà án nhân dân địa phương.

Bộ Tư pháp được thành lập ngày 28/8/1945 và đã trải qua chặng đường 55 năm phát triển với nhiều bước thăng trầm. Có thể phân kỳ các giai đoạn phát triển của Bộ Tư pháp như sau:

Giai đoạn 1- 1945-1960- Hình thành và phát triển trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Giai đoạn 2- 1960-1981- Bộ Tư pháp không tồn tại; hình thành và phát triển Vụ Pháp chế thuộc Văn phòng Chính phủ (1960-1971) và Uỷ ban pháp chế (1972-1981);

 

Giai đoạn 3- 1981- 2000- Bộ Tư pháp tái lập và phát triển.

Trong các giai đoạn 1 và 3 khi tồn tại với tư cách là một Bộ trong Chính phủ, Bộ Tư pháp đều được giao nhiệm vụ quản lý toà án nhân dân địa phương mặc dù phạm vi, nội dung và phương thức quản lý có sự khác biệt giữa các giai đoạn. Riêng trong hơn 20 năm kể từ khi Bộ Tư pháp bị giải thể (1960) đến khi tái thành lập (1981), nhiệm vụ quản lý toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức được chuyển giao từng phần cho Toà án nhân dân tối cao và chính quyền địa phương. Vì vậy, chuyên đề này sẽ chỉ tập trung vào các giai đoạn 1 và 3.

II/ Giai đoạn 1945-1960.

2.1. Giai đoạn 1945-1949:

Ngày 13/9/1945 , theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 33C thiết lập toà án quân sự tại một số thành phố ở Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ để " xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà". Có thể coi đây là ngày khai sinh của hệ thống toà án của nước ta. Việc tổ chức thực hiện Sắc lệnh được giao cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, kết quả là đã thành lập được 9 toà án quân sự trong toàn quốc.

Nghị định số 37 ngày 1/10/1945 tổ chức Bộ Tư pháp quy định các phòng sự vụ để giúp Bộ trưởng Tư pháp thực hiện nhiệm vụ quản lý toà án như:

 

- Phòng giám đốc hộ vụ chịu trách nhiệm việc tổ chức và quản trị các toà án dân sự, thương sự; quản trị việc biện hộ trước các toà án, bảng danh sách các luật sư, quản trị công việc và trụ sở của các đại tụng viên, hỗ giá viên, thừa phát lại, quản lý văn khế đồng thời chăm lo việc dự thảo và thi hành các đạo luật về dân sự, thương sự và tố tụng thủ tục.

- Phòng giám đốc hình vụ chăm lo việc truy tố các tội phạm, kiểm soát thủ tục và thi hành các án phạt, những việc kháng tố và kháng cáo quan trọng; việc cảnh sát tư pháp; dự thảo luật và sắc lệnh về hình vụ; việc đại xá và phóng thích.

 

- Phòng viên chức và kế toán :

+ Ban viên chức chịu trách nhiệm về việc bổ nhiệm viên chức các toà án; định cách thức tuyển cử viên chức ngạch tư pháp; bảng thăng thưởng các thẩm phán và viên chức tư pháp, danh vị, kỷ luật, việc xin nghỉ hưu, xin về hưu.

 

+ Ban kế toán lập ngân sách của Bộ, phân chia chi thu, việc cấp dưỡng cho các thẩm phán viên cũ và gia đình họ, việc mua bán vật dụng.

Như vậy, theo Nghị định này, Bộ Tư pháp không chỉ quản lý về tổ chức, nhân sự, kinh phí, cơ sở vật chất của các toà án mà còn trực tiếp thực hiện hoặc quản lý một số hoạt động liên quan chặt chẽ với hoạt động xét xử như truy tố các tội phạm, biện hộ trước toà, kháng tố và kháng cáo quan trọng, thi hành án phạt, thừa phát lại….

Sự hình thành hệ thống toà án và việc quản lý các toà án thường: thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị định 37, sau khi những nguyên tắc cơ bản trong dự thảo Hiến pháp đầu tiên đã được công nhận và Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân đã được ban hành, đầu tháng 12/1945, Bộ trưởng Tư pháp thành lập một Hội đồng gồm các luật gia, thân sỹ và nhân viên cao cấp để nghiên cứu tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán. Kết quả của việc nghiên cứu là bản dự thảo Sắc lệnh do Bộ trưởng Tư pháp trình Hội đồng Chính phủ xem xét và sau đó Chủ tịch nước ký ban hành. Đó là Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán. Đây là sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ tổ chức các toà án, các tổ chức giải quyết tranh chấp ở cơ sở và quy định tiêu chuẩn, quyền hạn, trách nhiệm của các ngạch thẩm phán. Theo Sắc lệnh số 13:

 

- Các nguyên tắc cơ bản của nền tư pháp mới : 1/Toà án tư pháp độc lập đối với các cơ quan hành chính; các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý, các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp (điều 47); 2/ Nhân dân tham gia việc xử án: nếu là việc tiểu hình thì phụ thẩm nhân dân tham gia ý kiến, nếu là việc đại hình thì phụ thẩm cùng quyết định với thẩm phán; 3/ Các phiên toà xét xử công khai, trừ trường hợp đặc biệt; 4/ Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước toà án.

- Về tổ chức, hệ thống toà án được tổ chức ở ba cấp hành chính- toà án sơ cấp ở các quận, huyện, phủ, châu; toà án đệ nhị cấp ở cấp tỉnh (gồm cả 3 thành phố Hà Nội, Hải phòng, Sài Gòn- Chợ Lớn) và 3 toà thượng thẩm ở 3 kỳ (Bắc, Trung, Nam). Ngoài ra, ở cấp xã, Ban thường vụ của Uỷ ban hành chính cấp xã (gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký) sẽ kiêm việc tư pháp. Việc tổ chức các toà án là sự kết hợp giữa tổ chức theo thẩm quyền xét xử với tổ chức theo đơn vị hành chính – lãnh thổ;

 

- Về các ngạch thẩm phán: theo Sắc lệnh có hai ngạch thẩm phán: thẩm phán sơ cấp ở các toà sơ cấp và thẩm phán đệ nhị cấp ở các toà đệ nhị cấp và toà thượng thẩm, trong đó thẩm phán đệ nhị cấp lại chia làm hai loại- thẩm phán xét xử ("thẩm phán ngồi") do Ông chánh nhất toà thượng thẩm đứng đầu và thẩm phán buộc tội (công tố viên hay còn gọi là "thẩm phán đứng") do Ông chưởng lý đứng đầu.

Đến Hiến pháp 1946, trong hệ thống tổ chức toà án còn có Toà án tối cao đặt trong Bộ Tư pháp nhưng do điều kiện kháng chiến nên trên thực tế, Toà án tối cao chưa được thành lập và chưa đi vào hoạt động.

Sắc lệnh số 13 đã quy định cụ thể một số nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong việc quản lý toà án :

 

Về quản lý tổ chức các toà án: Bộ trưởng Bộ Tư pháp thiết lập dần dần các toà án ở các nơi theo nguyên tắc phù hợp với điều kiện và sự chuẩn bị đủ về cán bộ; Sắc lệnh giao quyền cho Bộ trưởng Tư pháp, trong khi thực hiện nhiệm vụ quản lý toà án, nếu thấy cần thiết, có thể đặt thêm các toà án sơ cấp ở các thành phố và thị xã thuộc tỉnh hoặc toà án đệ nhị cấp ở các thành phố khác ngoài Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn- Chợ lớn; bằng một nghị định có thể thay đổi quản hạt của các toà án sơ cấp, đệ nhị cấp. Tuỳ theo sự quan trọng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bằng một nghị định để chia các toà án đệ nhị cấp làm 4 hạng, ấn định cách tổ chức các Toà thượng thẩm và số các chánh án, hội thẩm, phó chưởng lý, tham lý, lục sự ở mỗi toà.

Về quản lý cán bộ: - Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định Danh sách các người được ứng thi hay được bổ dụng thẳng vào làm thẩm phán trên cơ sở đề nghị của Hội đồng xem xét hạnh kiểm và năng lực của người đệ đơn (hội đồng này do Bộ trưởng Bộ Tư pháp cử).

 

Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán đệ nhị cấp bằng sắc lệnh; Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán sơ cấp bằng nghị định trên cơ sở quyết nghị của Hội đồng xét về phương diện chuyên môn để ấn định phẩm trật và nơi làm việc của các thẩm phán được bổ dụng

Bộ trưởng Bộ Tư pháp tổ chức việc tập sự của các thẩm phán được tuyển bổ; ấn định lương bổng của thẩm phán sau khi thoả thuận với Bộ trưởng Bộ Tài chính; ra nghị định thăng bổ cho các thẩm phán sơ cấp trên cơ sở bảng thăng thưởng do Hội đồng thăng thưởng của kỳ lập (thành phần gồm: Chánh nhất và chưởng lý Toà thượng thẩm kỳ; một đại diện của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; một hội thẩm của toà thượng thẩm; hai chánh toà đệ nhị cấp hạng nhất). Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền quyết định truy tố hay không các thẩm phán can trọng tội hay khinh tội.

Tính đến 19/12/1946, hệ thống tổ chức toà án và các ngạch thẩm phán như sau:

- Tại Trung bộ: đã tổ chức được 1 Toà thượng thẩm với 10 thẩm phán; 13 toà đệ nhị cấp với 43 thẩm phán và 60 toà sơ cấp với 60 thẩm phán;

- Tại Bắc bộ đã tổ chức 1 toà thượng thẩm-10 thẩm phán; 22 toà đệ nhị cấp với 60 thẩm phán; 120 toà sơ cấp với 120 thẩm phán.

- Tại Nam bộ: do chiến tranh bùng nổ sớm nhất nên chưa đặt được các toà án theo nguyên tắc do Sắc lệnh đặt ra;

Các đối tượng được Bộ Tư pháp chú trọng tuyển bổ vào ngạch thẩm phán là những người đã qua hoặc đã tốt nghiệp các trường pháp lý, những người đã làm việc lâu năm ở toà án, có kinh nghiệm về công tác tư pháp, có bảo đảm về phương diện tư cách, hạnh kiểm. Đối với những uỷ viên tư pháp cũ có năng lực hoặc đối với quốc dân thiểu số thì điều kiện tuyển dụng được đôi phần châm chước. Kết quả là Bộ đã lựa chọn được tạm đủ số cán bộ tư pháp để vận hành công việc tư pháp buổi ban đầu.

Hoạt động của các toà án: nhờ năng lực chuyên môn và lòng hăng hái của các thẩm phán, các toà án tuy mới thành lập nhưng đã tiến hành công việc nhanh chóng, đặc biệt là hai toà thượng thẩm ở Thuận Hoá và Hà Nội trong một thời gian ngắn đã xét xử xong các việc đọng lại từ hồi Pháp và Nhật thuộc. Tinh thần dân chủ của bộ máy tư pháp được nhân dân tín nhiệm và hoan nghênh, gây được uy tín với ngoại kiều, bảo toàn được chủ quyền quốc gia về phương diện tư pháp, bảo vệ tài sản cùng các quyền tự do-dân chủ căn bản của công dân.

2.1.2. Từ sau Kháng chiến chống Pháp toàn quốc đến trước cải cách tư pháp lần 1 :

 

Tháng 12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ. Tổ chức tư pháp đã biến chuyển theo tinh thần kháng chiến với các yêu cầu: đơn giản hoá bộ máy tư pháp; Trung ương uỷ quyền rộng rãi cho địa phương…

A/ Tổ chức các toà án: trong thời kỳ chiến tranh, nhiệm vụ của các toà án quân sự, toà án binh trở nên rất quan trọng, vì vậy, trong thời kỳ này, luôn tồn tại song song hai hệ thống toà án- toà án thường và toà án binh.

Toà án quân sự: Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ thành lập các toà án quân sự ở khắp các liên khu với Chánh án là một uỷ viên của Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu hay tỉnh. Các toà án này có nhiệm vụ xét xử các vụ phạm pháp có phương hại đến nền độc lập của quốc gia, các vụ phá rối trật tự xã hội.

 

Toà án binh: Bộ Tư pháp đã cùng với Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ ra nhiều thông lệnh thiết lập các toà án binh các cấp: Thông lệnh số 11 ngày 26/12/1946, Thông lệnh số 31 ngày 16/2/1946 và Thông lệnh số 60 ngày 28/5/1947 quy định tổ chức và thẩm quyền của toà án binh mặt trận; sau đó, thành lập toà án binh khu (2/1947) và Toà án binh tối cao (4/1947), Toà án binh khu trung ương đặt tại Bộ Quốc phòng (7/1947). Thường các toà án binh chỉ được tổ chức và xét xử khi có vụ án; các hội đồng xét xử gồm một chánh án và hai hội thẩm, trong đó chỉ có một hội thẩm hoặc phó hội thẩm chuyên môn là thẩm phán đệ nhị cấp do cơ quan tư pháp cử (ở toà án binh khu thì do Giám đốc Sở Tư pháp khu cử từ số chánh án hoặc dự thẩm toà án nhân dân tỉnh nơi lập phiên toà, ở toà án binh tối cao thì do nghị định của Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm) với sự chuẩn y của Bộ trưởng Bộ quốc phòng; số còn lại đều là quân nhân - cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của các đơn vị- kiêm nhiệm. Phụ trách buộc tội tại phiên toà là một công tố uỷ viên chuyên trách do nghị định liên bộ Nội vụ- Tư pháp chỉ định. Các toà án binh vừa làm công tác xét xử vừa làm công tác điều tra, truy tố, quản lý, giáo dục phạm nhân.

Toà án thường: các toà án sơ cấp được duy trì trong mọi tình thế nhưng được tăng thêm thẩm quyền theo Sắc lệnh ngày 26/5/1948; toà án đệ nhị cấp thay đổi theo hướng chia quản hạt một tỉnh thành các phân hạt do một thẩm phán phụ trách để tiện lợi hơn cho dân trong điều kiện đi lại khó khăn tốn kém, nguy hiểm trong chiến tranh; các toà thượng thẩm ở 3 kỳ tạm đình chỉ việc xét xử từ ngày 1/1/1947 theo nghị định của Bộ Tư pháp do giao thông khó khăn, việc gửi hồ sơ và giải can phạm gặp nhiều trở ngại. Tuy nhiên để đảm bảo kiểm soát việc xử án của các toà án đệ nhị cấp, Bộ Tư pháp đã ra nghị định ngày 12/4/1947 và ngày 9/5/1947 tổ chức các Hội đồng phúc án với sự hiện diện của công tố viên.

 

B/ Bộ máy tư pháp quản lý các toà án

Tại Bộ Tư pháp: Sau ngày 19/12/1946, toàn bộ Văn phòng Bộ chỉ còn giữ lại 6 nhân viên để phụ trách vừa công việc thường xuyên, vừa công việc nghiên cứu pháp luật và các công việc vật chất (lưu trữ, công văn, di chuyển cơ quan ..), đảm bảo gọn nhẹ tối đa bộ máy và bảo toàn lực lượng.

Đến năm 1948, khi cuộc kháng chiến của ta bắt đầu đi vào thế tiến công, Bộ trưởng Tư pháp đã ra một nghị định tái lập các Nha nội bộ để việc điều khiển và kiểm soát các cấp dưới được hoàn bị thêm đồng thời tiến hành tuyển dụng thêm nhân viên mới. Cụ thể là :

+ Nha Hình vụ, Hộ vụ, tái lập ngày 6/3/1948 do Luật sư Nguyễn Văn Hưởng làm giám đốc. Nha này có nhiệm vụ thảo các dự án, sắc lệnh, nghị định, thông tư liên quan đến việc tổ chức các toà án, các ngành trực thuộc toà án, theo dõi, tổng hợp tình hình xét xử các việc dân sự, thương sự, hình sự của các toà án, việc quản trị lao thất

+ Nha viên chức- kế toán tái lập ngày 1/7/1948 có nhiệm vụ trông coi các thẩm phán và nhân viên giúp việc của các cơ quan tư pháp, lập ngân sách cho các cấp tư pháp;

+Hội đồng Tu luật trung ương được thành lập tháng 10/1948 gồm một số đại biểu Quốc hội, chính trị gia, nhân sỹ, luật sư, thẩm phán cao cấp đại diện cho các Ban hoặc Hội đồng tu luật của các toà thượng thẩm ở Bắc bộ và Trung bộ. Nhiệm vụ của Hội đồng này là dự thảo những bộ luật mới thống nhất cho toàn quốc phù hợp với tinh thần dân chủ để thay thế những luật lệ cũ vẫn tạm thời áp dụng trước các toà án.

Bộ trưởng Tư pháp tiến hành thường xuyên các cuộc kinh lý thanh tra các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp, các trại giam tại các khu, qua đó tiếp xúc với các cơ quan hành chính kháng chiến để thảo luận các vấn đề liên quan đến tư pháp. Từ 1946 đến 1948 Bộ Tư pháp đã tổ chức 5 cuộc Hội nghị Tư pháp toàn quốc với sự tham dự của các giám đốc tư pháp, đại biểu thẩm phán các cấp, luật sư, đại diện của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Uỷ ban kháng chiến hành chính địa phương. Đây thực sự là những lớp huấn luyện về lý thuyết chuyên môn cũng như kinh nghiệm thực hành công tác tư pháp trong điều kiện kháng chiến.

Tại các địa phương :

Trong giai đoạn 1945-1946, để giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ quản lý các toà án thường, 3 Sở Tư pháp đã được thành lập tại Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ theo cơ quan hành chính cấp kỳ (là cấp dưới trung ương, trên tỉnh).

Để phù hợp với yêu cầu tổ chức gọn nhẹ trong điều kiện kháng chiến, giao thông liên lạc khó khăn, theo Thông lệnh số 12 NV-CT ngày 29/12/1946, ở mỗi khu, Bộ trưởng Tư pháp đặt một giám đốc tư pháp để trông coi việc tư pháp trong khu và giúp ý kiến cho Uỷ ban bảo vệ khu.

Vị trí và mối quan hệ giữa giám đốc tư pháp và Uỷ ban bảo vệ khuquan hệ hành chính- tư pháp đặc thù:

 

- Về hành chính: giám đốc Tư pháp đặt dưới sự kiểm soát của Uỷ ban bảo vệ khu (về hạnh kiểm, về sự mẫn cán trong khi thi hành lệnh của thượng cấp) và khi mất liên lạc với Bộ Tư pháp thì chịu sự điều khiển của Uỷ ban bảo vệ khu (phải tuân hành mệnh lệnh). Nếu trong khi kiểm soát mà Uỷ ban không bằng lòng thì thông tri lên Chưởng lý hoặc Bộ trưởng Tư pháp, trong trường hợp mất liên lạc với Bộ thì Uỷ ban khu có quyền khiển trách thẳng hoặc truất vị viên giám đốc, thay bằng người khác, giám đốc tư pháp có quyền trần tình và phản kháng lên Chưởng lý hay Bộ trưởng .

- Về chuyên môn - giám đốc tư pháp là nhà chuyên môn đại diện cho Bộ Tư pháp ở trong khu nên Uỷ ban bảo vệ khu mỗi khi ra quyết nghị gì có liên can đến tư pháp bắt buộc phải hỏi ý kiến giám đốc tư pháp trước (và giám đốc trả lời bằng công văn), nếu không thì quyết định ấy vô giá trị, giám đốc tư pháp và các toà án sẽ không thi hành (bao gồm cả việc uỷ nhiệm để thi hành quyền công tố, việc phân định thẩm quyền giữa toà án quân sự và toà án thường…); các uỷ ban bảo vệ tỉnh, huyện và xã không có quyền ra lệnh cho các toà án.

 

Về nội dung quản lý toà án của các giám đốc tư pháp (Thông tư số 12B NV-CT ngày 29/12/1946 giải thích rõ công việc tư pháp trong một khu)

- Quản lý tổ chức và nhân sự: duy trì và chấn chỉnh các toà sơ cấp, các toà đệ nhị cấp; đảm bảo thẩm phán do Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm, nếu mất liên lạc với Bộ thì do Uỷ ban khu bổ nhiệm; đơn giản bộ máy làm việc của toà án, một người kiêm nhiệm nhiều việc

 

- Quản lý về kinh phí cho toà án: tiền tiêu về toà án quân sự do Uỷ ban bảo vệ khu lo liệu; tiền tiêu về toà án tỉnh hỏi ở Uỷ ban hành chính tỉnh, tiền tiêu về toà án sơ cấp do Uỷ ban hành chính huyện lo.

- Thanh tra: ngoài mục đích xem xét và kiểm soát, các giám đốc tư pháp còn phải cố gắng giữ vững tinh thần các thẩm phán và nhân viên tư pháp, hỏi han, giúp đỡ, giải thích, thông tin…., ghi công trạng, cho điểm các thẩm phán để báo cáo Bộ Tư pháp.

 

Các giám đốc tư pháp đã mở được nhiều lớp huấn luyện cho thẩm phán sơ cấp và các hội nghị tư pháp toàn khu để tăng thêm tinh thần hiểu biết giữa các cơ quan tư pháp và giữa cơ quan tư pháp với các Uỷ ban hành chính, công an, luật sư…Các giám đốc tư pháp đã hết sức cố gắng cùng với Uỷ ban kháng chiến khu giải quyết những đơn xin ân giảm, ân xá, phóng thích cũng như kiểm tra các trại giam để kiểm soát sự thi hành các sắc lệnh về bảo vệ tự do cá nhân, thúc đẩy các cấp công an triệt để tôn trọng thể lệ về bắt giam người.

c/ Hoạt động của các toà án: 4 Hội đồng phúc án thay thế cho các toà thượng thẩm để xét lại các vụ hình, hộ trên những quản hạt rất rộng, nhân viên và hồ sơ có khi phải di chuyển hai, ba trăm cây số nhưng các phiên toà lưu động, công khai của các Hội đồng rất được nhân dân hoan nghênh nhờ uy tín và tư cách của các vị thẩm phán. Các toà án đệ nhị cấp phân hạt duy trì hoạt động thường xuyên, các phiên toà lưu động có khi được mở ngay trong các vùng địch kiểm soát, nhiều khi phải mạo hiểm qua sát đồn địch, gây ảnh hưởng tốt trong nhân dân. Các toà án sơ cấp hoạt động đều trừ những huyện bị địch kiểm soát hoàn toàn (tạm giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính phụ trách hoặc do toà án sơ cấp ở huyện bên cạnh kiêm nhiệm). Các toà án đặc biệt (tòa án quân sự, toà án binh) hoạt động rất tích cực, nhiều vụ án được dân chúng rất hoan nghênh và nhắc đến nhiều như vụ bắt giam người trái phép, tra tấn, thủ tiêu dã man ở miền Nam Hà Đông đã bị Toà án quân liên khu 2 cũ tuyên tới 15 án tử hình.

Trong điều kiện kháng chiến giao thông đi lại khó khăn, thông tin cách trở, với số lượng cán bộ, công chức vô cùng hạn chế, phương tiện làm việc nghèo nàn, thật cảm động và trân trọng khi xem lại các tài liệu lưu trữ của Bộ Tư pháp theo dõi, thống kê, tổng hợp hoạt động xét xử của các toà án- một minh chứng cụ thể, chân thực về sự đóng góp của ngành tư pháp vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến lịch sử ( Xem Tư liệu Thống kê sự hoạt động của các toà án trong năm 1949).

2.2. Giai đoạn 1950-1960:

Sau năm năm hoạt động, hệ thống toà án đã đóng góp tích cực vào sự duy trì và củng cố chính quyền nhân dân và từng bước phát triển của công cuộc kháng chiến nhưng đồng thời cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập kể cả về tổ chức, con người và hoạt động.

Năm 1950, Bộ Tư pháp đã xây dựng dự án Sắc lệnh cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng để trình Chủ tịch nước. Mục tiêu của việc cải cách là đảm bảo tốt hơn nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động của toà án, tổ chức toà án gọn nhẹ, thống nhất, hoạt động có hiệu quả và chịu sự giám sát của dân. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch nước đã ký ban hành Sắc lệnh số 85 cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng làm cơ sở pháp lý cho việc tiến hành công cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất ở Việt Nam. Các cải cách chính về tổ chức và hoạt động của toà án :

- Làm nhẹ bộ máy tư pháp để việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn. Hệ thống tổ chức toà án gồm: Toà án tối cao; các toà án phúc thẩm, các toà án nhân tỉnh, thành phố; các toà án nhân dân huyện, quận và Ban Tư pháp xã. Để tập trung lực lượng đối phó với những âm mưu chống phá kháng chiến của địch, các toà án quân sự đã thống nhất vào trong các toà án nhân dân huyện, tỉnh và liên khu.

- Tăng thành phần nhân dân trong việc xét xử: thay chế độ phụ thẩm bằng chế định hội thẩm nhân dân. Trong tất cả các hội đồng xét xử, hội thẩm nhân dân đều chiếm đa số; thẩm quyền xét xử của hội thẩm nhân dân được mở rộng: hội thẩm nhân dân có quyền xem xét hồ sơ và quyền biểu quyết cả việc hình lẫn việc hộ. Hội thẩm nhân dân do hội đồng nhân dân các cấp bầu ra với nhiệm kỳ một năm, được hưởng lương bổng như các uỷ viên uỷ ban hành chính cấp tương đương. Theo hướng dân chủ hoá hoạt động xét xử và tăng cường cán bộ cho các toà án, Sắc lệnh số 158 ngày 17/11/1950 quy định việc bổ dụng cán bộ công nông vào ngạch thẩm phán và chế độ thăng bổ thẩm phán TAND cấp huyện lên TAND cấp tỉnh.

- Tăng cường hoạt động hoà giải để bớt sự tranh tụng, thành lập Hội đồng hoà giải tại mỗi huyện do nhân dân trực tiếp phụ trách;

 

- Tăng thẩm quyền cho các Ban tư pháp xã được phạt vi cảnh, xử lý một số việc ít quan trọng về mặt trị an; toà án huyện được quyền ấn định các phương pháp bảo thủ, phụ trách việc chấp hành án .

- Cải cách thủ tục theo hướng hợp lý hơn và giản dị hơn, ví dụ không bắt buộc tất cả hồ sơ vụ án phải đưa sang Phòng dự thẩm để thẩm cứu trước khi xử; không nhất thiết phải huỷ án chỉ vì lý do thủ tục không được tuân thủ; người bị hại về một vụ phạm pháp có thể kháng cáo không chỉ để tăng tiền bồi thường mà còn để tăng hình phạt.

 

- Về mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp và cơ quan hành chính cùng cấp: theo Sắc lệnh số 103 ngày 5/6/1950 và Thông tư số 21/TTg ngày 7/6/1950: Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp điều khiển công tố viện trong địa hạt mình, nghĩa là Uỷ ban kháng chiến hành chính có thể ra mệnh lệnh chung về đường lối công tố cũng như mệnh lệnh riêng về từng việc, các công tố viên phải tuân thủ. Đối với các cơ quan xử án, "Uỷ ban có thể vạch đường lối từng thời kỳ nhất định và đặc biệt có thể vạch đường lối cho một vụ án xét thấy quan trọng nhưng toà án không nhất thiết phải theo. Toà án có thể xử khác nhưng phải nói lý do, Uỷ ban có thể giao Công tố viện kháng cáo lên toà án trên".

Do diễn biến thực tế của công cuộc kháng chiến đòi hỏi phải đẩy mạnh "trừ gian, chống tề, phá chính quyền bù nhìn", cuối năm 1950, các Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm được thành lập với quản hạt và thẩm quyền theo việc được xác định rất linh hoạt. Sau đó, để đảm bảo thi hành chính sách cải cách ruộng đất, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, các Toà án nhân dân đặc biệt đã được thành lập theo Sắc lệnh số 150 ngày 12/4/1953. Các toà án nhân dân đặc biệt không xét xử các việc hình, việc hộ mà chỉ xét xử những vụ tranh chấp về tài sản, ruộng đất, xét xử những vụ tranh cãi về phân định thành phần giai cấp, trừng trị những kẻ phản cách mạng, cường hào, gian ác chống lại hoặc phá hoại chính sách cải cách ruộng đất. Thẩm phán của toà án nhân dân đặc biệt do Uỷ ban kháng chiến hành chính và Nông hội huyện cử từ thành phần bần cố nông và cán bộ chính trị. Nhiều vụ án đã huy động được rất đông đảo quần chúng nhân dân tham dự ví dụ như vụ án Hòn Né ở Thanh Hoá hay vụ Hưng Yên ở Nghệ An đã huy động nhân dân công giáo 10 huyện tham gia vào việc điều tra xét xử, mở phiên toà trong 7 đêm và có đêm tới 7 vạn đồng bào đến dự. Báo cáo thành tích công tác tư pháp trong 9 năm kháng chiến của Bộ Tư pháp đã nhận xét về hoạt động của các toà án nhân dân đặc biệt như sau:" Mỗi lần tổ chức xét xử theo đường lối quần chúng như thế là một phong trào giáo dục nhân dân đứng lên bảo vệ luật pháp đấu tranh với kẻ thù của nhân dân, của cách mạng.. , góp phần vào việc xây dựng nền tư pháp dân chủ nhân dân, một nền tư pháp đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân".

 

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước bước sang một giai đoạn cách mạng mới, bộ máy nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng tiếp tục được đổi mới. Tháng 4/1958, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội ra nghị quyết thành lập Toà án nhân dân tối cao và tách hệ thống toà án nhân dân khỏi Bộ Tư pháp, đặt Toà án nhân dân tối cao thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm và quyền hạn ngang một Bộ. Ngày 20/10/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 381-TTg quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Toà án nhân dân tối cao, theo đó, Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất đồng thời có các nhiệm vụ: nghiên cứu đường lối chính sách xét xử; hướng dẫn các toà án áp dụng pháp luật, thi hành các thủ tục hình sự và dân sự, kiểm tra công tác xét xử, tổng kết kinh nghiệm công tác xét xử của toà án các cấp và quản lý cán bộ, biên chế ngành toà án theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế. Trong khoảng thời gian từ năm 1958 đến đầu năm 1960, Bộ Tư pháp vẫn cùng với Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra các thông tư hướng dẫn, giải thích về tổ chức, nhiệm vụ của các toà án địa phương.

Nghị định số 1-CP ngày 11/2/1960 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp, theo đó, Bộ Tư pháp tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ quản lý

- Nghiên cứu những quy định về hệ thống tổ chức và thẩm quyền của toà án nhân dân địa phương ở các cấp, của Tư pháp ở xã; hướng dẫn thực hiện các quy định ấy ;

 

- Nghiên cứu những quy định về hội thẩm nhân dân, về tổ chức luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên và quản lý các tổ chức ấy;

- Đào tạo và giáo dục cán bộ toà án và cán bộ tư pháp;

Cũng trong Nghị định, tại điều 4 xác định "Công tác toà án và công tác tư pháp liên quan mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, cho nên các cơ quan toà án và cơ quan tư pháp từ trung ương đến địa phương phải phối hợp chặt chẽ với nhau để làm tròn nhiệm vụ do Nhà nước giao cho".

Trên cơ sở Nghị định số 1-CP, Bộ trưởng Tư pháp ra Quyết định số 06 ngày 15/3/1960 về tổ chức Bộ Tư pháp, trong đó:

Vụ tổ chức cán bộ có nhiệm vụ nghiên cứu những quy định giúp Bộ hướng dẫn việc thực hiện ở các địa phương, tổng kết kinh nghiệm về những vấn đề:

- Hệ thống tổ chức, thẩm quyền, tổ chức nội bộ của các toà án nhân dân địa phương; thiết lập các toà án nhân dân địa phương; những thể lệ về bầu cử, bãi miễn các thẩm phán các TAND địa phương;

- Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của hội thẩm nhân dân, luật sư, bào chữa viên, giám định viên, công chứng viên; quản lý các tổ chức ấy;

- Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc của tổ chức tư pháp ở xã, khu phố;

- Dự thảo các đạo luật tổng hợp và các bộ luật về thủ tục tố tụng hình sự và dân sự; giúp Bộ hướng dẫn việc thực hiện các nguyên tắc về thủ tục tố tụng ở các TAND địa phương; tổng kết kinh nghiệm về thực hiện thủ tục tố tụng ở các TAND địa phương.

Trường cán bộ tư pháp có nhiệm vụ huấn luyện về chính trị và nghiệp vụ cho các cán bộ toà án và cán bộ tư pháp từ thẩm phán huyện và tương đương thẩm phán huyện trở lên.

 

Tuy nhiên, trong Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ (7/1960) không có Bộ Tư pháp trong danh sách các Bộ và cơ quan ngang Bộ. Các nhiệm vụ quản lý toà án nhân dân địa phương được chuyển giao cho Toà án nhân dân tối cao và chính quyền địa phương. Luật tổ chức Toà án nhân dân (7/1960) quy định TAND tối cao có nhiệm vụ nghiên cứu các quy định về tổ chức tư pháp, thủ tục tố tụng, luật hình sự, dân sự, phụ trách việc huấn luyện, đào tạo cán bộ TAND, hướng dẫn các TAND cấp dưới áp dụng pháp luật, chính sách và thủ tục tố tụng trong việc xét xử (điều 21); hướng dẫn các TAND địa phương về bộ máy làm việc và biên chế (điều 23). TANDTC định tổng số biên chế của các TAND địa phương các cấp và trình UBTVQH phê chuẩn; hướng dẫn cụ thể về số thẩm phán và uỷ viên Uỷ ban thẩm phán cần bầu cho mỗi TAND địa phương để Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu (Pháp lệnh cụ thể về tổ chức của TANDTC và tổ chức của các TAND địa phương do UBTVQH thông qua ngày 23/3/1961).

 

Sơ đồ về cơ cấu tổ chức của các cấp toà án

(1945-1960)

 

Tóm lại, trong 15 năm đầu tiên của nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ, trong muôn vàn khó khăn, gian khó, nguy hiểm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và trực tiếp của Hồ Chủ tịch, Bộ Tư pháp đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử là cơ quan giúp Chính phủ đặt nền móng xây dựng nên hệ thống tư pháp cách mạng- các cơ quan toà án, cơ quan công tố với những nguyên tắc tổ chức và hoạt động khoa học, hiện đại (thẩm phán độc lập khi xét xử, xét xử công khai với sự tham gia của hội thẩm nhân dân, toà án tổ chức theo hai cấp xét xử…), thể hiện rõ bản chất của dân, do dân, vì dân.

III/ Giai đoạn từ 1981 đến 2000

3.1. Giai đoạn từ 1981-1992: Trên cơ sở Hiến pháp 1980, Luật tổ chức toà án nhân dân được ban hành theo Lệnh ngày 13/7/1981 của Chủ tịch Hội đồng nhà nước. Theo Luật, hệ thống TAND bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và TAND huyện, quận, toà án quân sự trong đó, TAND tỉnh, thành phố và TAND huyện, quận gọi chung là TAND địa phương. Điều 16 của Luật quy định

"Việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó".

Như vậy từ năm 1981 nhiệm vụ quản lý toà án nhân dân lại được giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện. Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự (1986) cũng đã giao trách nhiệm "Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc quản lý về mặt tổ chức các toà án quân sự quân khu và cấp tương đương, các Toà án quân sự khu vực" (điều 14)

Nghị định số 143 ngày 22/11/1981 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp là văn bản pháp lý đánh dấu sự "tái sinh" của Bộ Tư pháp sau 21 năm ngừng hoạt động. Nhiệm vụ quản lý toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức được xác định trong Nghị định bao gồm:

 

- Quản lý về mặt tổ chức (cơ cấu, biên chế, nhân sự) và ngân sách của các toà án nhân dân địa phương. Về biên chế, Bộ Tư pháp trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định tổng số biên chế của TAND địa phương, trên cơ sở đó, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định biên chế cho từng TAND địa phương và quy định số thẩm phán của các TAND địa phương sau khi thoả thuận với Chánh án TAND tối cao;

- Cùng với Toà án nhân dân tối cao tổng kết công tác xét xử;

- Hướng dẫn việc bầu cử thẩm phán và hội thẩm nhân dân của toà án nhân dân địa phương; tổ chức việc bồi dưỡng về chính trị và pháp lý cho thẩm phán và hội thẩm nhân dân .

Như vậy, trong giai đoạn này, việc quản lý toà án nhân dân địa phương về tổ chức theo luật định thực chất vẫn phân tán, nhiệm vụ chăm lo cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động, giải quyết chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ nói chung và việc bầu, miễn nhiệm thẩm phán vẫn thuộc về trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp.

Báo cáo tổng kết công tác tư pháp 5 năm đầu sau khi thành lập 1981-1985 đánh giá: ngay từ khi đảm nhận công tác quản lý toà án địa phương, Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân tối cao làm tốt công tác bàn giao các nội dung quản lý cũng như bàn giao một số tổ chức và nhân sự làm công tác quản lý TAND địa phương đang trực thuộc TANDTC sang Bộ Tư pháp (Trường cán bộ toà án tại Hà Nội và Trường cán bộ toà án TP. Hồ Chí Minh). Một trọng tâm trong công tác quản lý toà án là xây dựng đội ngũ thẩm phán vững mạnh về các mặt trình độ, năng lực và phẩm chất tư cách. Trong hai đợt bầu cử thẩm phán đầu tiên sau khi Bộ tiếp nhận công tác này (bầu thẩm phán cấp huyện năm 1984 và thẩm phán cấp tỉnh vào năm 1985). Bộ và các Sở Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan toà án để làm việc với hầu hết các cấp uỷ và Uỷ ban nhân dân địa phương nhằm lựa chọn, giới thiệu với Hội đồng nhân dân những người có năng lực, phẩm chất đáp ứng được yêu cầu thực tế của công tác toà án. Một vài con số sau đây cho thấy sự thay đổi tích cực bước đầu cả về số lượng và chất lượng trong đội ngũ thẩm phán :

- Số thẩm phán cấp tỉnh có trình độ đại học và cao đẳng pháp lý: năm 1980-71 người, năm 1985 tăng lên 199; số thẩm phán có trình độ trung cấp chính trị tăng từ 163 năm 1982 lên 258 năm 1985;

- Tuổi đời bình quân của thẩm phán TAND cấp tỉnh giảm từ 48 xuống 41 trong giai đoạn 1981-1985;

- Một số chế độ, chính sách đối với thẩm phán, thư ký và hội thẩm nhân dân đã được cải thiện (chế độ phụ cấp phiên toà, chế độ trang phục khi xét xử, chế độ lương của thẩm phán ..).

Công tác đào tạo, bồi dưỡng được tập trung về một đầu mối quản lý nên có nhiều thuận lợi hơn trong việc hoàn thiện một bước chương trình đào tạo các bậc (trung cấp, cao đẳng, đại học pháp lý, bồi dưỡng nghiệp vụ..) , huy động nguồn giáo viên cho việc đa dạng hoá các hình thức đào tạo (từ năm 1983 mở các khoá chuyên tu đại học pháp lý, tăng cường đào tạo tại chức phù hợp với điều kiện thực tế của các toà án, các cơ quan tư pháp…). Hình thức luân huấn theo chuyên đề hình sự, dân sự, tố tụng, lao động, kinh tế…là một giải pháp tình thế cần thiết để nâng cao từng bước trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán và chấp hành viên của các TAND địa phương theo phương châm "vừa làm vừa học" để bù đắp sự thiếu hụt do quá khứ để lại. Vì vậy, đến nhiệm kỳ 1989-1994, về cơ bản các thẩm phán và hội thẩm nhân dân đã qua đào tạo, bồi dưỡng, mặc dù còn xa mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, cụ thể là:

- Cấp tỉnh: 423/493 thẩm phán đã qua đại học hoặc trung học pháp lý;

- Cấp huyện: 760/1822- đại học pháp lý; 722/1822 – trung học pháp lý;

Qua bầu cử, có 81 thẩm phán cấp tỉnh và 425 thẩm phán cấp huyện của nhiệm kỳ trước vì không đủ tiêu chuẩn nên không được bầu lại mặc dù ở một số địa phương do yêu cầu công tác vẫn phải tái bầu những thẩm phán chưa hoàn thiện bậc đào tạo về luật .

Thực hiện Pháp lệnh thi hành án dân sự và Quy chế chấp hành viên, Bộ Tư pháp đã mở nhiều lớp tập huấn cho đội ngũ chấp hành viên và cán bộ thi hành án tại các TAND địa phương. Bộ cũng đã chỉ đạo các địa phương lựa chọn giới thiệu để bổ nhiệm chấp hành viên và chấp hành viên trưởng theo đúng Pháp lệnh, nhờ vậy, đội ngũ chấp hành viên đã từng bước được chính quy hoá. Đến năm 1991, đã bổ nhiệm được 91 chấp hành viên cấp tỉnh (trong đó có 25 chấp hành viên trưởng) và 561 chấp hành viên cấp huyện với 82 chấp hành viên trưởng.

Tăng cường và cải thiện cơ sở vật chất của các toà án nhân dân địa phương cũng là một vấn đề lớn. Trong giai đoạn này, với sự tác động của Bộ và các Sở tư pháp, cấp uỷ và Uỷ ban nhân dân các địa phương đã quan tâm hơn đến việc sửa chữa, nâng cấp hoặc xây dựng mới các phòng xử án. Trong những năm 1989-1991, Bộ Tư pháp đã báo cáo kiến nghị và được Hội đồng Bộ trưởng duyệt cấp một phần kinh phí từ ngân sách trung ương bổ sung cho một số toà án địa phương có yêu cầu cấp bách về tu sửa hội trường xét xử và trụ sở làm việc, chủ yếu là các tỉnh miền núi, Tây nguyên hoặc các tỉnh mới chia tách (riêng năm 1991 nguồn ngân sách bổ sung là 2,9 tỉ đồng). Đồng thời Bộ tiến hành nghiên cứu xây dựng đề án quản lý thống nhất ngân sách toà án địa phương nhằm tạo ra cơ chế tài chính phù hợp hơn với đặc thù quản lý toà án về tổ chức.

Đây cũng là giai đoạn mà Bộ Tư pháp đã tích cực cùng với các Bộ ngành soạn thảo, trình Quốc hội thông qua những bộ luật, pháp lệnh rất quan trọng, tạo nền tảng pháp lý cho hoạt động xét xử của toà án: Bộ luật hình sự (1985), Bộ luật tố tụng hình sự (1987), tiếp theo là Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự, Pháp lệnh luật sư … Hoạt động xét xử và thi hành án của các toà án nhân dân địa phương, nhờ vậy, thuận lợi hơn và có nhiều tiến bộ. Nhiều toà án đã xét xử kịp thời, đúng đắn những vụ án trọng điểm, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ an ninh Tổ quốc, tài sản XHCN và trật tự, trị an xã hội. Tuy nhiên, án tồn đọng vẫn còn lớn, số vụ án đã xét xử bị cải sửa, huỷ qua phúc thẩm, giám đốc thẩm vẫn còn nhiều, chất lượng bản án chưa cao, công tác phiên toà còn nhiều hạn chế, chưa nghiêm túc, thậm chí một số nơi xảy ra rối loạn tại phiên toà, có nơi rất nghiêm trọng. Công tác thi hành án vẫn là một khâu yếu, nhiều bản án, quyết định cả về dân sự và hình sự đã có hiệu lực nhưng chưa được thi hành. Trong những hạn chế, bất cập trên, có những nguyên nhân từ phía toà án: thiếu thẩm phán, chấp hành viên; một số thẩm phán, chấp hành viên do năng lực chuyên môn yếu, đời sống khó khăn, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ xét xử và thi hành án thiếu thốn nên đã vi phạm kỷ luật, tiêu cực, nhũng nhiễu đương sự, gia đình bị cáo… Điều đó đặt ra vấn đề phải nhanh chóng cải tiến về tổ chức và lề lối làm việc, xây dựng các quy chế phiên toà, quy chế thẩm phán, hội thẩm nhân dân; đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng mọi mặt cho thẩm phán, chấp hành viên; tiêu chuẩn hoá, chính quy hoá toàn diện các toà án nhân dân địa phương, từ đội ngũ cán bộ toà án, trọng tâm là thẩm phán, thư ký toà án, hội thẩm nhân dân, chấp hành viên đến trụ sở, phương tiện làm việc. Bên cạnh đó, việc chậm trễ ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân địa phương trong công tác quản lý các toà án nhân dân địa phương về tổ chức, quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp, TANDTC và Bộ Quốc phòng trong công tác quản lý các toà án quân sự quân khu và cấp tương đương, các Toà án quân sự khu vực cũng là một trong các nguyên nhân tác động gián tiếp đến hiệu quả hoạt động của toà án.

 

Sơ đồ về cơ cấu tổ chức của các cấp toà án

(1981-1992)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

3.2. Giai đoạn 1992- 2000:

Hiến pháp 1992 thể chế hoá đường lối đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước ta theo hướng xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng XHCN và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tinh thần pháp quyền XHCN. Về các cơ quan xét xử, Hiến pháp 1992 đặt cơ sở cho những đổi mới khá cơ bản: chuyển từ chế độ bầu cử thẩm phán sang chế độ bổ nhiệm; kéo dài nhiệm kỳ của thẩm phán và hội thẩm nhân dân; có thể thành lập các toà án khác khi xét thấy cần thiết ngoài các toà án đã có; còn chỉ trong tình hình đặc biệt, chỉ có Quốc hội có thể quyết định thành lập tòa án đặc biệt; chuyển công tác thi hành án dân sự từ Toà án sang Chính phủ. Những thay đổi này tạo điều kiện cho toà án tập trung vào công tác xét xử và để đảm bảo tốt hơn nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của các loại toà án đồng thời có khả năng ứng biến với những thay đổi, đòi hỏi mới của tình hình.

Luật tổ chức toà án nhân dân 1992 (và những lần sửa đổi tiếp theo năm 1993, 1995) đã cụ thể hoá các quy định mới của Hiến pháp 1992. Về tổ chức, các toà án chuyên môn (toà kinh tế, toà lao động, toà hành chính) đã được thành lập tại Toà án nhân dân tối cao và TAND cấp tỉnh. Về con người, tất cả các thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm. Ngân sách toà án bao gồm cả quỹ lương, kinh phí hoạt động của toà án nhân dân địa phương được chuyển từ ngân sách các tỉnh, thành phố về ngân sách trung ương và giao cho Bộ Tư pháp quản lý thống nhất.

Trên cơ sở Hiến pháp, Luật tổ chức toà án nhân dân, Nghị định số 38/CP ngày 4/6/1993 quy định cụ thể nội dung quản lý toà án nhân dân địa phương tại mục 2, điều 2:

- Về tổ chức: xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của các toà án địa phương, thống nhất quản lý ngân sách toà án địa phương;

- Về biên chế: Trình Chính phủ quyết định tổng biên chế của các toà án địa phương sau khi thống nhất ý kiến với Ban tổ chức – cán bộ Chính phủ, Chánh án TAND tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; quy định biên chế cho từng toà án địa phương sau khi trao đổi ý kiến với Chánh án TAND tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;

 

- Về bổ nhiệm, miễn nhiệm thẩm phán: Sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án TAND tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định danh sách các thành viên Hội đồng tuyển chọn thẩm phán TAND cấp tỉnh; trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp tỉnh, cấp huyện và các toà án quân sự quân khu và tương đương, toà án quân sự khu vực ; xem xét và đề nghị bổ nhiệm hoặc cách chức thẩm phán Toà án cấp tỉnh để Hội đồng tuyển chọn thẩm phán xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định;

- Về kiểm tra, khen thưởng, kỷ luật: thực hiện kiểm tra hoạt động của các toà án địa phương trong phạm vi chức năng, thực hiện chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với tập thể, cá nhân của toà án địa phương.

 

Trong cơ cấu tổ chức của Bộ, nhiệm vụ quản lý toà án địa phương được giao cho 3 đơn vị phối hợp thực hiện, đó là Vụ quản lý toà án địa phương, Vụ tổ chức- cán bộ và đào tạo, Vụ Kế hoạch- tài chính.

Khắc phục khuyết điểm của giai đoạn trước, Bộ Tư pháp đã khẩn trương cùng với TAND tối cao và Bộ Quốc phòng soạn thảo, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 46 NQ/UBTVQH9 ngày 29/9/1993 ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án TAND tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý các TAND địa phương, các TAQS quân khu và tương đương, các toà án quân sự khu vực về mặt tổ chức. Theo Quy chế:

- Hình thức phối hợp là: ban hành các văn bản chung, thông báo bằng văn bản; trao đổi ý kiến bằng văn bản hoặc trực tiếp; phối hợp tổ chức kiểm tra công tác của các toà án địa phương.

- Xác định rõ các việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp phải thống nhất ý kiến với và những việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ cần trao đổi với Chánh án TANDTC hoặc với cả Chánh án TANDTC và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trước khi trình cơ quan có thẩm quyền hoặc trước khi quyết định theo thẩm quyền;

- Xác định các việc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phải thống nhất ý kiến và những việc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ cần trao đổi với Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc với cả Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án TANDTC;

đồng thời quy định cách thức xử lý các trường hợp có ý kiến khác nhau giữa các bên.

Trên cơ sở Quy chế, Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án TANDTC đã ban hành Quy chế phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý về mặt tổ chức các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong cùng một ngày, 21/3/1994, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành đồng thời ba quyết định quan trọng để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác quản lý về tổ chức đối với toà án địa phương: Quyết định số 141/QĐ-QLTA-THA và Quyết định số 142/QĐ-QLTA về phân cấp cho Giám đốc Sở Tư pháp và phân cấp cho Chánh án TAND cấp tỉnh trong việc thực hiện công tác quản lý về mặt tổ chức đối với TAND cấp huyện; Quyết định số 143/QĐ-KHTC ban hành Quy chế quản lý ngân sách ngành tư pháp. Theo đó, Giám đốc Sở Tư pháp được phân cấp và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý toàn bộ các vấn đề về tổ chức cán bộ của TAND cấp huyện (trừ việc thành lập TAND cấp huyện, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển thẩm phán) còn chánh án TAND cấp tỉnh thì được uỷ quyền quản lý cán bộ và một số việc về tổ chức, cán bộ của toà án cấp mình). Như vậy, có thể nói, đến năm 1994, về cơ bản, đã hình thành hệ thống văn bản tương đối hoàn chỉnh về quản lý toà án địa phương về tổ chức với 3 nhóm nhịêm vụ chính:

- Bảo đảm cơ cấu, tổ chức, bộ máy, biên chế, đội ngũ cán bộ của toà án địa phương đáp ứng yêu cầu của hoạt động xét xử;

- Xây dựng quy hoạch và thực hiện các chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân của các toà án địa phương;

- Bảo đảm chính sách, chế độ đối với cán bộ toà án; bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động cho các toà án địa phương phù hợp với yêu cầu đặc thù của công tác xét xử.

Thực hiện nhiệm vụ quản lý toà án địa phương, theo các Quy chế nói trên, ngoài Bộ Tư pháp với các đơn vị chức năng, còn có Chánh án TAND tối cao và bộ máy giúp việc, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và bộ máy giúp việc, các Chánh án TAND cấp tỉnh và các Giám đốc Sở Tư pháp. Ngoài ra, theo quy định của Pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, còn có các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức chính trị nghề nghiệp (Hội luật gia) cũng tham gia trong các Hội đồng tuyển chọn thẩm phán. Đây là một cơ chế quản lý mang tính phối hợp chặt chẽ, đặc thù, không phải lúc nào cũng hiệu quả nếu các bên không thật sự nhận thức được đầy đủ trách nhiệm trong việc phối hợp.

Ngay sau khi Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được ban hành, theo Báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trước Quốc hội, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với Ban cán sự Đảng TANDTC và các Ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ chỉ đạo chặt chẽ quy trình tuyển chọn từ việc kiểm điểm, rà soát lấy phiếu tín nhiệm đối với các thẩm phán đương nhiệm; lập Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp tỉnh và huyện. Qua việc tuyển chọn đã đảm bảo trình Chủ tịch nước bổ nhiệm những người đạt tiêu chuẩn thẩm phán theo quy định của Pháp lệnh. Kết quả trong đợt đầu tiên, Chủ tịch nước đã ký bổ nhiệm: 724 thẩm phán cấp tỉnh (trong đó có 52 chánh án, 101 phó chánh án, có 540 thẩm phán đương nhiệm được bổ nhiệm lại, 78 nữ, 84 người thuộc dân tộc ít người); 51 thẩm phán toà án quân sự quân khu và 55 thẩm phán toà án quân sự khu vực; 1950 thẩm phán cấp huyện trong đó có 1419 thẩm phán đương nhiệm được bổ nhiệm lại, 471 nữ, 245 người thuộc dân tộc ít người). Do tuyển chọn kỹ, nghiêm túc nên số thẩm phán không được bổ nhiệm lại ở cấp tỉnh là 10%, cấp huyện là 15%. Tuy chất lượng thẩm phán được bổ nhiệm theo tiêu chuẩn, thủ tục mới có nâng lên, nhưng vẫn còn yếu so với yêu cầu, đại bộ phận chưa được đào tạo chính quy (chỉ khoảng 10% đại học luật chính quy), đại bộ phận thẩm phán cấp tỉnh chỉ qua đào tạo bằng hình thức luân huấn, chuyên tu, tại chức. Vẫn còn khoảng 23% thẩm phán cấp tỉnh và 43% thẩm phán cấp huyện của nhiệm kỳ 1994-1999 trong diện phải trả nợ "tiêu chuẩn đại học luật" trong thời gian đảm đương trọng trách xét xử, đặc biệt là ở các tỉnh phía nam, vùng miền núi. Vì vậy, nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng để chuẩn hoá đội ngũ thẩm phán vẫn là nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý toà án địa phương, trong đó việc đào tạo nghề thẩm phán, nghề thư ký đã được đặt ra. Việc đào tạo tại chức tiếp tục được mở rộng với hàng nghìn học viên là cán bộ toà án, tư pháp, thi hành án, kiểm sát, công an, trong đó số lượng cán bộ toà án chiếm trung bình 36-39% (Báo cáo công tác tư pháp năm 1998). Để giúp cho cán bộ hoàn chỉnh bậc học, Bộ Tư pháp đã giao cho Trường Đại học Luật Hà Nội mở hai lớp chuyển cấp (cao đẳng toà án, đại học chuyên tu) thành đại học chính quy. Sau khi các toà án chuyên môn được thành lập, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Ban tổ chức- cán bộ Chính phủ, Bộ Lao động, Học viện Hành chính quốc gia mở các khoá bồi dưỡng thẩm phán xét xử các vụ án kinh tế, lao động, hành chính. Vì vậy, đến năm 1999, đã có hơn 1200 thẩm phán trả xong nợ tiêu chuẩn chuyên môn. Trường Đào tạo các chức danh tư pháp được thành lập đầu năm 1998 đã khẩn trương xây dựng chương trình, tài liệu, thu hút các cộng tác viên tham gia giảng dạy và tổ chức chiêu sinh khoá đào tạo nguồn thẩm phán đầu tiên cho nhiệm kỳ 1999-2004. 104 học viên chủ yếu là các thư ký toà án đã gần đủ thâm niên công tác theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, có đủ tiêu chuẩn về chuyên môn (tốt nghiệp đại học luật), đặc biệt quan tâm tạo nguồn cho các toà án vùng sâu, xa. Đây sẽ là các thẩm phán đầu tiên được đào tạo nghề trước khi bổ nhiệm.

Bộ Tư pháp, các Sở tư pháp đã thực hiện đầy đủ, kịp thời việc phân bổ đủ biên chế cho các toà án địa phương, tuyển dụng các chức danh cán bộ toà án để bộ máy hoạt động thông suốt, phục vụ tốt cho công tác xét xử; xây dựng mới và sửa đổi các chế độ chính sách như chế độ phụ cấp phiên toà cho hội thẩm nhân dân, người bào chữa, phiên dịch liên quan đến hoạt động xét xử.

Về đảm bảo cơ sở vật chất, theo thống kê sau khi tiếp nhận nhiệm vụ, có 48/53 toà án nhân dân cấp tỉnh và 500/568 toà án nhân dân cấp huyện có nhu cầu xây dựng mới hoặc nâng cấp trụ sở làm việc; 100% toà án có nhu cầu mua sắm trang thiêt bị tối cần thiết cho hoạt động xét xử tại toà và xét xử lưu động (bao gồm cả ôtô, xe máy, vỏ lãi đối với vùng nước nổi đồng bằng sông Cửu Long). Trong vòng 3 năm (1993-1995), đã có 47 toà án cấp tỉnh (88%) và 371 toà án cấp huyện (65%) đã xây dựng xong hoặc đã được đưa vào xây dựng, góp phần cải thiện rất đáng kể điều kiện làm việc của cán bộ toà án, tăng tính tôn nghiêm của cơ quan đại diện công lý. Trong hai năm 1997-1998, do khó khăn chung của tình hình tài chính trong nước và khu vực, việc đầu tư cho xây dựng cơ bản bị dừng lại. Đứng trước yêu cầu bức bách về trụ sở làm việc của toà án nhân dân, đặc biệt là các công trình đang xây dở, các nhà tạm đã quá niên hạn sử dụng, Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng cho phép tiếp tục đầu tư cho 106 công trình dở dang đồng thời Bộ dành một phần ngân sách để hỗ trợ 25 đơn vị mới thành lập hoặc trụ sở đã hư hỏng nặng cần cải tạo ngay.

Công tác quản lý ngân sách dần dần đi vào nền nếp, Bộ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh công tác quản lý tài chính ở cơ sở, xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm kỷ luật tài chính. Các giám đốc sở Tư pháp cũng nâng cao trách nhiệm trong việc kiểm tra, hướng dẫn sử dụng kinh phí, ngân sách của các TAND cấp huyện. Tuy nhiên, cơ chế quản lý tài chính vẫn còn không ít vướng mắc trong thực tế, kể cả từ phía người quản lý và người bị quản lý.

Bảy năm thực hiện nhiệm vụ quản lý toà án địa phương theo nội dung và phương thức mới là thời gian chưa dài nhưng với sự tích cực của cả ngành tư pháp và sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành, các cấp uỷ, chính quyền địa phương, tổ chức và hoạt động của toà án đã có những thay đổi lớn, sâu sắc mà trung tâm là hoạt động xét xử của các thẩm phán, hội thẩm nhân dân đang ngày càng đi đúng hướng của yêu cầu cải cách tư pháp trong nhà nước định hướng pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

 

Sơ đồ về cơ cấu tổ chức của các cấp toà án

(1992-2000)

 

 

 

lịch sử

các tổ chức bổ trợ Tư pháp

Nguyễn Văn Thảo

Nguyên Viện trưởng Viện NCKH pháp lý

Tổ chức Bổ trợ Tư pháp là những tổ chức xã hội hoặc cơ quan Nhà nước tham gia vào quá trình xét xử của Toà án trong các vụ án hình sự, kiện dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, góp phần làm sáng tỏ các khía cạnh pháp lý, đạo lý, lẽ công bằng xã hội, hỗ trợ cho việc phán xét, việc thi hành án có hiệu quả hơn.

Tổ chức bổ trợ Tư pháp hiện nay bao gồm cơ quan công chứng Nhà nước, tổ chức Luật sư, giám định Tư pháp, thi hành án.

I. Tổ chức công chứng

Thể chế công chứng ở Việt Nam và các nước tuy tổ chức khác nhau nhưng vẫn có những đặc điểm chung:

1. Thể chế công chứng về các mối quan hệ sở hữu tài sản trong gia đình như tài sản chung, tài sản riêng của vợ và chồng, các vấn đề về thừa kế, tặng cho...

2. Thể chế về các mối quan hệ hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế...

3. Thể chế về các quan hệ sở hữu trong hoạt động kinh doanh như chứng nhận phần vốn của các bên góp vào công ty...

4. Văn bản công chứng được xem là chứng cứ có giá trị pháp lý.

Kinh nghiệm chung ở các nước, Công chứng có nhiệm vụ:

1. Lập các văn bản (chứng thư đơn phương hoặc hợp đồng) mà pháp luật buộc phải công chứng, hoặc do đương sự (công dân hoặc tổ chức) muốn được để làm tăng thêm giá trị pháp lý của văn bản.

2. Lưu giữ các văn bản đó một cách tuyệt đối an toàn, bí mật.

3. Cấp các bản sao các văn bản đó (trích sao hoặc toàn sao) cho đương sự hoặc cho toà án khi đương sự hoặc toà án yêu cầu.

4. Văn bản công chứng là chứng cứ không thể phản bác về ý chí của đương sự thể hiện trong văn bản và về ngày, tháng, năm lập văn bản... Giá trị pháp lý nói trên của văn bản công chứng mang những ý nghĩa sau:

- Tính chất chứng cứ không thể phản bác của văn bản công chứng buộc các đương sự phải tự nguyện thực hiện những điều đã cam kết hoặc thoả thuận: do đó ngăn ngừa được những sự lật lọng, bội ước mà không cần đến sự phán quyết của toà án.

Nếu có tranh chấp mà kiện đến toà án, hoặc trường hợp toà án xét xử vụ án có liên quan, thì văn bản công chứng là chứng cứ hiển nhiên được toà án chấp nhận mà không cần xác minh.

Do đó thấy rõ công chứng tạo nên sự bảo đảm an toàn cao cho công dân, tổ chức trong các quan hệ mà họ tham gia, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử của toà án.

Hoạt động công chứng có những đặc điểm sau đây:

- Việc công chứng do công chức được Nhà nước bổ nhiệm (công chứng viên) thực hiện.

- Công chứng viên chịu trách nhiệm cá nhân về việc làm công chứng của mình.

- Việc công chứng phải tuyệt đối bí mật, khách quan.

- Hoạt động công chứng là một dịch vụ, được khách hàng trả công

Tổ chức công chứng ở nước ta

Trước Cách mạng Tháng 8, trong bộ máy cai trị của người Pháp ở Việt Nam đã thành lập Nha Quản lý văn khế và nhiệm vụ là lưu giữ toàn bộ các giấy tờ văn tự về sở hữu động sản, bất động sản của mọi người.

Cách mạng Tháng 8 thành công, với Sắc lệnh ngày 10/10/1945, Chính phủ ta đã công bố cho áp dụng tất cả các định chế trừ những định chế có phương hại đến nền độc lập của quốc gia.

Nha quản lý văn khế tiếp tục tồn tại. Hoạt động công chứng do Phòng giám đốc hộ vụ của Bộ Tư pháp phụ trách nhưng cũng chưa làm được gì thì cuộc kháng chiến đã nổ ra. Cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm, cơ quan lưu giữ giấy tờ đóng trong vùng quân Pháp kiểm soát (Hà Nội) vẫn tiếp tục hoạt động phục vụ cho việc giao dịch dân sự trong nhân dân.

Năm 1954, giải phóng miền Bắc, cơ quan này đem toàn bộ tài liệu vào thành phố Sài Gòn, chính quyền Nguỵ đổi tên là Nha Chưởng khế, tồn tại và hoạt động trong 20 năm. Giải phóng miền Nam, Uỷ ban pháp chế của Chính phủ đã vào tiếp quản Nha Chưởng khế, cho tiếp tục hoạt động tới khi chuyển thành Phòng Công chứng thành phố Hồ Chí Minh.

ở Miền Bắc, khi mới giải phóng (1954) Nha quản lý văn khế đã chuyển vào phía Nam nên toàn bộ các văn tự về nhà đất do Sở quản lý nhà đất thực hiện.

Công việc công chứng ở miền Bắc hầu như không được đặt ra trong một thời gian dài vì không có nhu cầu giao dịch dân sự, nhất là bất động sản.

Năm 1972, thành lập Uỷ ban Pháp chế có ghi nhận trong Nghị định 190/CP về trách nhiệm của Uỷ ban Pháp chế đối với công tác công chứng.

Sau khi tiếp quản Nha Chưởng khế của chính quyền Nguỵ tại thành phố Hồ Chí Minh, Uỷ ban Pháp chế đã trình Chính phủ cho triển khai công tác này.

Năm 1986, khi nền kinh tế nước ta bước đầu đổi mới, nhu cầu giao dịch dân sự, kinh tế tăng lên thúc đẩy việc thành lập cơ quan công chứng.

Nghị định 45 HĐBT năm 1991 là văn bản pháp lý đầu tiên sau đó được sửa bằng Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996 thành lập hệ thống tổ chức công chứng bao gồm 2 loại: Chuyên trách và bán chuyên trách.

Cơ quan chuyên trách gồm các phòng Công Chứng Nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp. Tại phòng Công chứng Nhà nước chuyên trách có các công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Các công chứng viên không được kiêm nhiệm những công vụ cũng như không được hành nghề tự do khác.

Cơ quan công chứng bán chuyên trách gồm:

- UBND cấp huyện

- UBND cấp xã

- Cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.

Tại các cơ quan công chứng bán chuyên trách nói trên, người trực tiếp thực hiện hành vi công chứng không phải là công chứng viên chuyên nghiệp mà là các cán bộ khác kiêm nhiệm (Phó Chủ tịch hoặc Chánh Văn phòng là thành viên UBND cấp huyện; Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp xã; viên chức lãnh sự được phân công làm công chứng). Những người kể trên không bắt buộc phải có bằng cấp hoặc chứng chỉ về chuyên môn pháp lý.

Việc giao cho UBND cấp huyện và UBND cấp xã thực hiện một số việc công chứng thể hiện tính chất qúa độ của hệ thống công chứng nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong khi nhu cầu về công chứng của nhân dân ta đang ngày một tăng nhanh và đa dạng mà khả năng tổ chức các phòng công chứng chuyên trách của ta để đáp ứng các nhu cầu đó lại có hạn, việc giao cho UBND cấp huyện và cấp xã thực hiện một số hành vi công chứng là cần thiết để tránh phiền hà cho nhân dân.

Phạm vi công chứng bao gồm:

a) Loại việc bắt buộc phải có công chứng: Các hợp đồng dân sự liên quan đến bất động sản, hợp đồng dân sự có giá trị lớn, hợp đồng dân sự với nước ngoài, các loại hợp đồng kinh tế và một số loại bản dịch tài liệu từ nước ngoài ra tiếng Việt Nam để sử dụng tại Việt Nam.

b) Loại việc không được phép công chứng là việc không thuộc phạm vi hoạt động công chứng và việc yêu cầu công chứng trái pháp luật

Về trách nhiệm pháp lý của phòng công chứng Nhà nước và của công chứng viên

Phòng Công chứng Nhà nước là tổ chức có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của phòng Công chứng Nhà nước được nói ở Điều 111 Bộ luật Dân sự. Các công chứng viên làm việc tại phòng Công chứng Nhà nước thực chất là công chức Nhà nước. Vì vậy, trong trường hợp hành vi công chứng của công chứng viên có sai sót làm thiệt hại đến lợi ích của đương sự thì người phải chịu trách nhiệm dân sự là phòng Công chứng Nhà nước chứ không phải là công chứng viên. Hoạt động công chứng là loại hoạt động đặc thù và có liên quan rất nhiều đến các quan hệ tài sản của các công dân và tổ chức, vì vậy cần phải có những chế định pháp luật thật cụ thể về trách nhiệm vật chất của phòng Công chứng Nhà nước và của công chứng viên.

Cho đến nay, tất cả các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương đã có phòng Công chứng với số lượng công chứng viên khoảng gần 300.

II. tổ chức luật sư

Hoạt động luật sư là hoạt động không mang tính "quyền lực Nhà nước", giữ vai trò "bổ trợ tư pháp", bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Luật sư là những "nhà cố vấn pháp luật" cho công dân và các tổ chức. Việc làm cố vấn pháp luật của luật sư được thực hiện như là một loại dịch vụ được trả công. Do đó luật sư là một nghề. Các luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp theo các nội dung, hình thức, quyền hạn và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Muốn hành nghề thì phải học nghề. Do đó muốn làm luật sư thì phải đào tạo và thi tuyển để được cấp chứng chỉ hành nghề. Các luật sư chịu trách nhiệm về chất lượng "dịch vụ" của mình cho khách hàng. Luật sư sống bằng thu nhập nghề nghiệp, bởi vậy người ta quan niệm nghề luật sư là một nghề tự do.

Nội dung hành nghề của luật sư rất phong phú, đa dạng nhưng có thể phân thành hai nhóm sau đây:

- Tham gia tranh tụng với tư cách là người bào chữa cho bị cáo, đại diện cho người bị hại trước toà án trong các vụ án hình sự, hoặc đại diện cho các bên đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế.

- Tư vấn pháp luật cho công dân và các tổ chức, bao gồm cả việc đại diện cho các tổ chức kinh doanh trong việc giải quyết các tranh chấp tại trọng tài thương mại.

Chính do việc phân nhóm theo hai hình thức hành nghề trên đây, mà nhiều nước trên thế giới đã phân ra hai loại luật sư: luật sư tranh tụng (Barrister) và luật sư cố vấn (Solicitor). song về tổ chức, thường chỉ có một tổ chức luật sư.

Nghề luật sư có những đặc điểm nổi bật sau đây:

1. Vốn đầu tư để hành nghề chủ yếu là chất xám của luật sư: kiến thức pháp luật, năng lực và kinh nghiệm nghề nghiệp.

2. Luật sư chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật và trước khách hàng.

3. Tính chất độc lập, khách quan và yêu cầu giữ bí mật của hoạt động nghề nghiệp.

4. Đạo đức nghề nghiệp là tiêu chuẩn không thể thiếu đối với luật sư.

5. Pháp luật vừa là chuẩn mực vừa là phương tiện hành nghề.

Luật sư là một nghề tự do. Người muốn hành nghề luật sư phải có chứng chỉ hành nghề. ở đa số các nước, chứng chỉ hành nghề luật sư do hiệp hội luật sư cấp. Điều kiện và thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề luật sư có những điểm khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước. Sau khi có chứng chỉ hành nghề, luật sư tự tổ chức việc hành nghề của họ theo các hình thức tổ chức do pháp luật quy định. ở các nước theo luật tập quán (common law) thì hình thức tổ chức hành nghề luật sư thường theo các hình thức tổ chức kinh doanh thương mại. ở các nước theo luật La mã thì thường có quy định riêng về hình thức tổ chức hành nghề này. Nhìn chung trên thế giới hiện nay có các hình thức tổ chức hành nghề luật sư sau đây:

- Văn phòng luật sư (cá nhân hoặc tập thể).

- Công ty luật dưới dạng hợp doanh (patnership) với trách nhiệm vô hạn.

- Công ty luật trách nhiệm hữu hạn.

Ngoài tổ chức hành nghề, các nước đều có tổ chức hiệp hội luật sư.

Tổ chức hiệp hội luật sư có các nhiệm vụ chủ yếu sau: tổ chức đào tạo và đào tạo lại luật sư, cấp chứng chỉ hành nghề cho luật sư, đại diện cho các luật trước Nhà nước... ở nhiều nước, các luật sư sau khi có chứng chỉ hành nghề phải đăng ký vào hiệp hội luật sư. Tổ chức hiệp hội luật sư là tổ chức xã hội, không thu lợi, hoạt động bằng kinh phí do các luật sư đóng góp.

tổ chức luật sư ở nước ta

Từ năm 1930 trở về trước các luật sư người Pháp chiếm độc quyền nghề bào chữa. Với Sắc lệnh ngày 25/5/1930, thực dân Pháp mới tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn có người Việt Nam tham gia biện hộ với các điều kiện:

- Phải tốt nghiệp đại học luật khoa;

- Phải tập sự trong một văn phòng biện hộ của một luật sư thực thụ với thời gian 5 năm.

Sau đó phải qua sát hạch và được Hội đồng luật sư công nhận thì mới trở thành luật sư chính thức, có quyền mở Văn phòng và nhận khách hàng riêng. Trước khi vào tập sự cũng như được công nhận chính thức, người luật sư phải tuyên thệ trước Toà án thực dân không được làm điều gì trái với pháp luật và triệt để trung thành với chế độ thực dân.

Cách mạng Tháng 8 thành công, bộ máy tư pháp được tổ chức lại. Chỉ hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ngày 10/10/1945 tổ chức đoàn thể luật sư.

Sắc lệnh 10/10/1945 duy trì tổ chức luật sư với một số điểm sửa đổi cho thích hợp với tình hình mới, sau đó được nghi nhận vào Hiến pháp 1946 (Điều 67).

Tiếp đến Sắc lệnh 69/SL ngày 18/6/1949 do Sắc lệnh số 44/SL sửa đổi mở rộng tổ chức bào chữa, cho phép những người công dân không phải luật sư có thể bào chữa cho đương sự trong các Toà xét xử các việc hộ và thương mại, cho bị cáo trước toà xét xử về hình. Để cụ thể hoá Sắc lệnh 69/SL, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 1/NĐ - VY ngày 12/1/1950 ấn định điều kiện để làm bào chữa viên và phụ cấp của bào chữa viên.

Sau khi Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành (18/12/1987) theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn điều kiện và giới thiệu người có đủ tiêu chuẩn gia nhập Đoàn luật sư, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chuẩn bị hồ sơ thành lập Đoàn luật sư. Sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo quy định tại Điều 7 Pháp lệnh tổ chức luật sư, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định cho phép thành lập Đoàn luật sư.

Nhiều tỉnh, thành phố đã thực hiện đúng thủ tục thành lập Đoàn luật sư với tinh thần khẩn trương nên đã sớm thành lập Đoàn luật sư như các tỉnh Vĩnh Phú, Sơn la, Bình Định, Bến Tre, thành phố Hồ Chí Minh... Cho đến nay trong cả nước chỉ còn một tỉnh là Ninh Thuận chưa thành lập Đoàn luật sư. Tiến độ thành lập các Đoàn luật sư như sau:

Năm 1989 có 16 Đoàn luật sư được thành lập.

Năm 1990 thêm 20 Đoàn luật sư được thành lập.

Năm 1991 thêm 01 Đoàn luật sư được thành lập.

Năm 1992 thêm 08 Đoàn luật sư được thành lập.

Năm 1993 thêm 04 Đoàn luật sư được thành lập.

Năm 1994 thêm 02 Đoàn luật sư được thành lập.

Năm 1996 thêm 01 Đoàn luật sư được thành lập.

Hiện nay, hầu hết các Đoàn luật sư đã được thành lập đã từng bước kiện toàn, ổn định và phát triển tổ chức. Hoạt động của các Đoàn luật sư đã đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân và tổ chức, đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Đội ngũ luật sư trong những năm qua đã tăng đáng kể về số lượng và chất lượng. Từ 186 luật sư năm 1989 đến nay số luật sư trong cả nước là hơn 1000.

Số luật sư kiêm nhiệm ở các Đoàn luật sư chiếm khoảng 40% trong tổng số luật sư của cả nước. Số luật sư chuyên trách thì phần lớn là cán bộ nghỉ hưu.

Qua số liệu dưới đây cho thấy trình độ chuyên môn của các luật sư không đồng đều, số luật sư không có bằng cử nhân luật, số luật sư kiêm nhiệm lại chiếm tỷ lệ đáng kể.

 

Năm

Tổng số Luật sư

Đại học Luật

Tương đương

Chuyên trách

Kiêm nhiệm

1989

186

110

76

101

85

1990

322

178

144

179

143

1991

369

221

158

226

143

1992

484

281

203

295

185

1993

551

318

233

332

219

1994

570

335

235

340

230

1995

668

389

279

423

245

 

III. tổ chức giám định tư pháp

Giám định tư pháp là loại hoạt động khoa học chuyên sâu do các chuyên gia (giám định viên) thuộc các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật... tiến hành trên cơ sở kiến thức, phương pháp nghiệp vụ chuyên môn để nghiên cứu kết luận về những vấn đề có liên quan đến các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, các tranh chấp kinh tế, lao động... theo quyết định trưng cầu giám định của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân.

Giám định tư pháp có những điểm đặc trưng sau đây:

1. Giám định tư pháp sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật nghiệp vụ chuyên môn để kết luận về những vấn đề có liên quan đến các tình tiết của vụ án. Vì vậy, khi cần giám định về vấn đề chuyên môn nào thì phải do người có kiến thức chuyên sâu và giầu kinh nghiệm về lĩnh vực đó thực hiện .

2. Giám định tư pháp tuy là loại hoạt động chuyên sâu về các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật... nhưng không phải với mục đích phục vụ chuyên môn đó mà là phục vụ cho lĩnh vực điều tra, truy tố xét xử. Vì vậy, giám định tư pháp là loại hoạt động chuyên môn gắn với hoạt động tư pháp. Về mặt phân loại, thông thường người ta xếp cơ quan giám định tư pháp vào loại các cơ quan bổ trợ tư pháp.

3. Trong hoạt động, giám định tư pháp đặc biệt gắn với các luật về tố tụng (hình sự, dân sự...) và phải tuân theo những quy định rất chặt chẽ của luật tố tụng. Chỉ được gọi là giám định tư pháp khi hoạt động khoa học của giám định viên được thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định của cơ quan tiến hành tố tụng và chỉ khi đó kết luận giám định mới được coi là nguồn chứng cứ độc lập trong hoạt động tố tụng.

4. Theo quy định của pháp luật về tố tụng, giám định viên tư pháp trong khi thực hiện giám định và đưa ra những kết luận chỉ dựa vào những kiến thức chuyên sâu và kết quả của việc áp dụng các biện pháp chuyên môn chứ không bị sự tác động, chi phối của bất kỳ ý muốn chủ quan nào.

Các thể loại giám định tư pháp

Giám định tư pháp có thể được tiến hành ở nhiều lĩnh vực chuyên môn; tuy nhiên căn cứ vào thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, các thể loại giám định sau đây được tiến hành thường xuyên ở nước ta:

- Giám định pháp y.

- Giám định pháp y tâm thần.

- Giám định kỹ thuật hình sự.

- Giám định kế toán tài chính.

- Giám định tác phẩm văn học và văn hoá phẩm nghệ thuật.

- Giám định trong từng lĩnh vực khoa học kỹ thuật cụ thể.

ở nước ta, theo Nghị định 117/ HĐBT năm 1991 đã hình thành các tổ chức Giám định tư pháp nhưng phân tán ở các ngành:

1) Tổ chức Giám định pháp y thuộc Bộ Y tế.

2) Tổ chức Giám định pháp y tâm thần thuộc Bộ Y tế.

3) Viện Giám định pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng.

4) Viện kỹ thuật hình sự (trong đó có phòng pháp y) thuộc Bộ Nội vụ.

5) Tổ chức Giám định kế toán - tài chính thuộc Bộ Tài chính.

6) Tổ chức giám định tác phẩm văn học nghệ thuật thuộc Bộ Văn hoá -Thông tin

ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hiện nay có các tổ chức giám định tư pháp, số lượng giám định viên khá nhiều (khoảng 1500) nhưng phần lớn hoạt động bán chuyên trách. Về thẩm quyền bổ nhiệm giám định viên: ở Trung ương, Bộ trưởng Bộ chủ quản bổ nhiệm giám định viên thuộc các tổ chức giám định trực thuộc Bộ mình. ở địa phương, chủ tịch UBND tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương) bổ nhiệm giám định viên thuộc các tổ chức giám định bán chuyên trách do cấp tỉnh quản lý.

IV. cơ quan thi hành án

Thi hành án là loại hoạt động thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực của toà án.

Công việc thi hành án có nhiều loại: Thi hành các bản án hình sự, bản án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, các bản án hình sự trong đó có phần dân sự v.v...

Hoạt động thi hành án là hoạt động cuối cùng của quá trình tố tụng trước phiên toà nhưng lại là hoạt động bắt đầu của các cơ quan hành chính, có trách nhiệm thi hành bản án đó.

Đặc điểm đó đã quyết định cách thức tổ chức cơ quan thi hành án ở mỗi nước không hoàn toàn giống nhau.

ở nước ta, thời Pháp thuộc, có một tổ chức được đặt tên là thừa phát lại (huissier) làm cả việc tống đạt giấy tờ cho toà án, cả việc lập các chứng thư cho tư nhân, việc giữ trật tự phiên toà (thường gọi là mõ toà), đồng thời giúp cho hai bên kiện dân sự thi hành các bản án dân sự sau khi toà án đã tuyên bản án dân sự đó. Chính quyền miền Nam trước đây cũng đặt chức thừa phát lại gần giống như vậy.

tổ chức thi hành án hiện nay ở nước ta

Được phân làm hai loại:

- Thi hành án hình sự.

- Thi hành án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính.

1. Cơ quan thi hành án dân sự: Chủ yếu là cơ quan phụ trách trại giam. Trước đây thuộc Bộ Tư pháp, trong Bộ Tư pháp có phòng giám đốc việc quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân. Do công việc kháng chiến chống Pháp, việc quản lý đó giao cho Bộ Nội vụ. ở các địa phương thì UBND phải thi hành các bản án hình sự về cải tạo không giam giữ, án treo, quản chế, tước một số quyền công dân v.v.

 

2. Cơ quan thi hành án dân sự, kinh tế, thương mại: Từ năm 1945 công việc này thuộc Bộ Tư pháp, khi Bộ Tư pháp giải thể thì chuyển cho Toà án tối cao tới năm 1981 lại chuyển về Bộ Tư pháp. Hiện nay gồm có:

- Cục thi hành án trực thuộc Bộ Tư pháp.

- Phòng thi hành án ở các tỉnh, thành phố trực thuộc T.W.

- Đội thi hành án ở các huyện, thị xã, quận, thành phố thuộc tỉnh.

Phạm vi thi hành án dân sự gồm:

- Các bản án, quyết định về dân sự.

 

- Các bản án, quyết định về kinh tế (thuộc toà án kinh tế).

- Các bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình.

- Các bản án, quyết định về lao động (thuộc toà lao động).

- Các bản án, quyết định về hình sự trong đó có phần dân sự.

Cơ quan thi hành án chỉ thi hành các bản án, quyết định thuộc phạm vi kể trên và đã có hiệu lực pháp luật đó là:

- Bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm.

- Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.

- Bản án, quyết định phúc thẩm.

- Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

- Bản án, quyết định của toà án nước ngoài được Toà án của Việt Nam công nhận.

- Bản án, quyết định của toà án chưa có hiệu lực nhưng được thi hành ngay:

+ Bản án, quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ mặc dù còn kháng cáo kháng nghị.

+ Quyết định khẩn cấp tạm thời của toà án để bảo đảm lợi ích cấp dưỡng của đương sự.

V. kết luận

xã hội hoá công việc bổ trợ tư pháp

Xã hội hoá các tổ chức bổ trợ tư pháp

Chủ trương xã hội hoá các hoạt động mang tính dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao và một số hoạt động khác đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng và Chính phủ.

Hoạt động tư pháp về tính chất và phương pháp có nhiều điểm khác với hoạt động hành chính. Cơ quan hành chính với tư cách là cơ quan công quyền thực hiện các hoạt động hành chính, đem lại cho xã hội các dịch vụ công cộng, tất cả mọi người trong xã hội đều được hưởng thụ các kết quả của dịch vụ công cộng đó.

Cơ quan tư pháp với tư cách là cơ quan tư quyền, hoạt động theo yêu cầu của mỗi công dân khi họ đệ đơn ra toà. Không kể các vấn đề hình sự việc đưa ra toà án thuộc quyền công tố, còn các toà án khác như toà án kinh tế, dân sự, lao động, hành chính, đất đai, hôn nhân và gia đình, việc đưa ra các toà này đều thuộc quyền tư tố của công dân, tổ chức, họ muốn đưa ra hay không đưa ra đều thuộc quyền của họ. Đó cũng là cơ sở để phân biệt công quyền và tư quyền, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đó cũng là cơ sở để chứng minh sự cần thiết phải xã hội hoá các hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nhiều hơn trong lĩnh vực hành chính.

Các tổ chức bổ trợ tư pháp như Luật sư, công chứng, thi hành án dân sự, giám định tư pháp, nên dần dần thực hiện xã hội hoá với mức độ khác nhau tuỳ đặc điểm của mỗi tổ chức.

Các mức độ của xã hội hoá:

1. Bán công - Nhà nước và dân cùng làm

2. Tập thể những người cùng nghề nghiệp đứng ra tổ chức (như hình thức Dân lập của lĩnh vực giáo dục).

3. Tư nhân - Những người có nghề nghiệp đứng ra xin phép hành nghề theo pháp luật .

Khuynh hướng nhà nước hoá những công việc mà xã hội có thể gánh vác là một khuynh hướng của thời bao cấp, vừa tốn kém, nhà nước bị quá tải về kinh phí, biên chế, dân ỷ lại mà chưa chắc hiệu quả đã tốt.

ở nhiều nước hiện nay có luật sư tư, luật sư công, đoàn thể luật sư; có công chứng tư, công chứng Nhà nước, hiệp hội công chứng; có người thi hành án của Nhà nước, có trại giam do tư nhân xây dựng, có người thi hành án là tư nhân được Nhà nước công nhận./.

 

55 năm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý

Vũ Văn Quý

Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo - Bộ Tư pháp

Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nói chung, trong đó có đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Chính vì vậy, trong suốt 55 năm qua, mặc dù tình hình biến động khách quan của kinh tế - xã hội, đất nước có nhiều thay đổi; Song công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ Tư pháp luôn được giữ vững và phát triển. Đặc biệt là trong những năm gần đây, từ khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện công cuộc đổi mới, nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý lại càng được phát triển nhằm đưa trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tư pháp hoà nhập với các nước trong khu vực và thế giới, cùng với đội ngũ cán bộ của các ngành góp phần tích cực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam.

I/ Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý từ 1945-1954

1. Vài nét về đào tạo, bồi dưỡng luật trước năm 1945

Trong một thời gian dài thực dân Pháp cai trị nước ta, công tác đào tạo, bồi dưỡng luật ít được lưu ý. Hàng năm, chính quyền thực dân chỉ gửi một số rất ít đi học ở nước ngoài, chủ yếu là ở Pháp. Mãi cho đến năm 1917, trường Pháp Chính mới được mở, chuyên đào tạo quan lại cho Bắc kỳ và trường Uyên Bác đào tạo quan lại cho Trung kỳ (Việt nam - Những sự kiện lịch sử 1858 - 1945 -Tập III. NXB Khoa học xã hội 1988 - Trang 120).

Năm 1924, Đông Dương cao đẳng học viện được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường Pháp Chính và trường Uyên Bác (Sđd trang 120). Trường này tuyển sinh trong số những người có bằng tú tài bản xứ hay tú tài Tây. Trường đào tạo trong 3 năm theo chương trình cao học về pháp luật, triết học.

Năm 1931, Đông Dương cao đẳng học viện được đổi tên và nâng lên thành trường Đại học Luật khoa Hà Nội. Trường đào tạo cử nhân luật theo chương trình Đại học Luật khoa Paris. Trường hoạt động cho đến tháng 8 -1945.

2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý từ 1945- 1954

Ngày 28/8/1945, Bộ Tư pháp chính thức được thành lập. Cũng từ đây, Bộ Tư pháp được Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà giao cho việc quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý.

Để có thể đào tạo, bồi dưỡng gấp đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn chính quyền mới dành được về tay nhân dân, Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cấp tốc. Đối tượng đào tạo là các cán bộ chính trị và một số ít trí thức luật cũ có tư tưởng tiến bộ đi theo cách mạng để bổ sung cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng bao gồm phần chính trị và pháp luật. Cụ thể là: Nghiên cứu đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ; Nghiên cứu các văn bản pháp luật do Chính phủ cách mạng mới ban hành về tổ chức Bộ Tư pháp, tổ chức và hoạt động của toà án các cấp như: Sắc lệnh số 33-C/SL ngày 13/9/1945, Sắc lệnh số 37 ngày 01/12/1945, Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946. Ngoài ra các lớp học còn nghiên cứu yêu cầu về các ngành luật, học nghiệp vụ cụ thể và nghiên cứu một số vấn đề của các bộ luật cũ được Sắc lệnh ngày 10/10/1945 cho tạm giữ thi hành v.v...

Ngoài việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cấp tốc nhằm cung cấp ngay cán bộ trước mắt cho ngành Tư pháp, Chính phủ còn có chủ trương đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực, đào tạo một cách có hệ thống để làm nòng cốt cho sự phát triển của ngành Tư pháp sau này. Chính vì thế, ngay sau khi Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời chưa đầy 3 năm, năm 1948 Trường Đại học Pháp lý đã được thành lập. Trường khai giảng khoá đầu tiên vào khoảng tháng 10-1948; Địa điểm đặt tại huyện Lập Thạch (Vĩnh Yên cũ). Chương trình học dựa trên cơ sở chương trình của trường đại học Luật khoa Paris, đồng thời có bổ sung thêm một số môn chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin. Về giáo viên: Trường chủ yếu phải dựa vào đội ngũ luật gia đào tạo ở trong và ngoài nước dưới chế độ thực dân Pháp, được giác ngộ đi theo cách mạng; Những trí thức đang công tác tại Bộ Tư pháp và các ngành khác có lý luận chính trị, có trình độ pháp lý cao đều được thỉnh giảng.

Việc thành lập Trường Đại học Pháp lý ngay sau khi chính quyền mới về tay nhân dân thể hiện sự quyết tâm rất lớn của Đảng và Chính phủ nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý cung cấp cho các cơ quan Đảng và Nhà nước chuẩn bị cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền sau này.

Tuy nhiên, do điều kiện khách quan của lịch sử, Đảng và Nhà nước ta phải đặt nhiệm vụ bảo vệ chính quyền, đấu tranh dành độc lập là trên hết. Cho nên, đến năm 1950 Trường phải tạm thời đóng cửa.

Từ khi Trường Đại học Pháp lý đóng cửa, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý cho đến năm 1954 chủ yếu là chỉ thực hiện bằng các hình thức mở hội nghị tập huấn hoặc mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày nhằm đào tạo cấp tốc hoặc đào tạo bổ sung những kiến thức pháp lý chủ yếu để có cán bộ tư pháp đáp ứng kịp thời với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng.

II. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý từ 1954- 1975.

1. Giai đoạn từ 1954 - 1960.

Năm 1954, sau hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời phải sống dưới chế độ Mỹ- Ngụy. ở miền Bắc Đảng, Chính phủ Việt nam dân chủ cộng hoà vẫn tiếp tục duy trì và phát huy mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn để có cán bộ củng cố phát triển ngành tư pháp. Ngoài việc mở các lớp ra, Chính phủ còn gửi cán bộ đi đào tạo ở Trung quốc, Liên xô (cũ) theo các trường lớp chính quy nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ cử nhân luật để về làm nòng cốt cho việc xây dựng các trường đào tạo luật ở nước ta.

2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý thời kỳ 1960 - 1975

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, trong những năm 1960 miền Bắc đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, cách mạng miền Nam cũng đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Nước ta đã có Hiến pháp năm 1959.

Trước tình hình yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương phải tiến hành quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không thể chỉ quản lý xã hội bằng các chủ trương chính sách của Đảng. Để thực hiện được chủ trương đó của Đảng, trước hết chúng ta cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ về số số lượng và phải có trình độ tương ứng để thực thi nhiệm vụ của cách mạng. Muốn có được đội ngũ cán bộ như vậy, chúng ta không chỉ dựa vào việc gửi đi đào tạo ở nước ngoài hoặc chỉ mở hội nghị tập huấn, mở các lớp bồi dưỡng theo định kỳ mà chúng ta cần phải có trường lớp chính quy để đào tạo tại chỗ. Thực hiện chủ trương đó của Đảng và Chính phủ, năm 1960 ngành Tư pháp được Nhà nước cho phép thành lập Trường Cán bộ Tư pháp. Do điều kiện khách quan của lịch sử, cuối năm 1960 đầu 1961, Bộ Tư pháp không còn, Trường Cán bộ tư pháp được chuyển giao cho Toà án nhân dân Tối cao quản lý và Trường đổi tên là Trường Cán bộ toà án.

a. Giai đoạn từ 1960 - 1964:

 

Trong những năm Trường mới được thành lập, một mặt Trường vẫn duy trì mở các lớp đào tạo bồi dưỡng ngắn ngày, mặt khác Trường mở hai lớp đào tạo nguồn, đào tạo đội ngũ giảng viên để chuẩn bị cho việc mở các lớp chính quy sau này.

Đối với các lớp đào tạo nguồn, đào tạo giảng viên, Trường mời các giáo sư luật của Liên xô (cũ) giảng dạy, nội dung học chủ yếu học các môn lý luận Mác-Lê nin về Nhà nước và pháp luật, luật hình sự, tố tụng hình sự, luật dân sự, tố tụng dân sự, luật hôn nhân và gia đình....Chương trình học này được học theo chương trình Đại học của Liên xô

b. Giai đoạn từ 1965 đến 1975:

 

Sau khi hai lớp học do các giáo sư Liên xô giảng dạy từ 1962 đến 1964 kết thúc, Trường đã chọn một số cán bộ đã qua công tác, có trình độ chuyên môn, có phương pháp giảng dạy ở lại làm giảng viên cho Trường. Ngoài số này ra, Trường còn tuyển chọn một số luật gia được đào tạo từ thời Pháp thuộc nhưng đã đi theo cách mạng cùng với một số học viên được Nhà nước ta cử đi đào tạo ở Liên xô nay đã tốt nghiệp về nước làm giáo viên cho trường.

Kể từ năm 1965, Trường đã có một đội ngũ giảng viên độc lập. Tuy bước đầu còn ít về số lượng và còn thiếu kinh nghiệm, nhưng đội ngũ giảng viên của Trường đã có nhiều cố gắng và đã có những đóng góp to lớn cho việc đặt nền móng đào tạo đội ngũ cán bộ toà án cho nước nhà.

Với đội ngũ giảng viên này, Trường đã tự tổ chức nghiên cứu chương trình, tài liệu của nước ngoài, kết hợp với việc nghiên cứu tình hình thực tiễn của Việt nam, Trường đã tự xây dựng chương trình, giáo trình và tài liệu giảng dạy cho các lớp học. Bước đầu, Trường vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bổ sung, sửa đổi. Trước hết là xây dựng chương trình, tập bài giảng, tài liệu tham khảo, học tập cho các lớp ngắn hạn; Sau đó mở rộng xây dựng chương trình, giáo trình cho các lớp đào tạo trung học và cao đẳng của Trường.

- Từ năm 1965 đến 1970: Trường đã mở 15 khoá học theo chương trình sơ cấp, thời gian từ 5 đến 6 tháng.

- Từ 1971 đến 1975: Ngoài việc Trường vẫn tiếp tục mở các lớp bồi dưỡng nhưng đồng thời đã tiến lên một bước là đào tạo các lớp trung cấp toà án. Thời gian đầu, để đáp ứng đào tạo cấp tốc đội ngũ cán bộ, Trường đào tạo các lớp trung cấp ngắn hạn 1 năm. Sau khi đào tạo được 3 khoá trung cấp với thời gian 1 năm, Trường rút kinh nghiệm, sửa đổi chương trình, giáo trình và bổ sung đưa thời gian đào tạo trung cấp lên 2 năm. Trong các khoá đào tạo trung cấp toà án, Trường đã chú trọng đào tạo cán bộ miền núi, đặc biệt là đã tiến hành đào tạo nguồn để bổ sung đội ngũ cán bộ cho các tỉnh phía Nam sau này. Cụ thể: Trường đã mở một lớp riêng cho cán bộ miền núi và một lớp cho cán bộ miền Nam do Uỷ ban Ban thống nhất điều động ra.

Ngoài việc mở các lớp tập trung tại trường, Trường Cán bộ toà án đã triển khai hình thức đào tạo cán bộ tại chỗ. Hình thức đào tạo tại chức nhằm đáp ứng ngay được cán bộ tư pháp của từng ngành, từng địa phương.

III/ Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý giai đoạn 1975 đến nay.

 

1. Giai đoạn 1975 đến 1980

Ngày 30/4/1975 là ngày đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cả nước tập trung xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đây, yêu cầu đào tạo cán bộ pháp lý không chỉ ở miền Bắc, mà một yêu cầu rất lớn và cấp bách là cần phải mở trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý cho các tỉnh phía Nam.

Xuất phát từ những yêu cầu khách quan đó, ngay cuối năm 1975, Trường Cán bộ Toà án ở thành phố Hồ Chí Minh được thành lập. Lúc đầu, Trường mở các lớp ngắn hạn cấp tốc để đáp ứng ngay đội ngũ cán bộ cho các toà án cấp huyện. Đến cuối năm 1976, ngoài việc bồi dưỡng các lớp ngắn hạn, Trường bắt đầu đào tạo các lớp trung cấp pháp lý.

ở phía Bắc, tại Hà nội, Trường cán bộ Toà án sau khi mở nhiều lớp bồi dưỡng và đào tạo trung cấp, đến năm 1977, Trường đã nâng lên đào tạo hệ cao đẳng toà án. Khi mới nâng lên đào tạo hệ cao đẳng, Trường đã tổ chức đào tạo các lớp cao đẳng toà án tập trung tại trường. Thời gian đào tạo là 3 năm. Ngoài việc đào tạo hệ cao đẳng tập trung tại trường, Trường còn mở 1 lớp cao đẳng cho Toà án Quân sự trung ương và một số lớp trung cấp cho các tỉnh phía Bắc. Tính đến năm 1980, Trường đã đào tạo hệ trung cấp và cao đẳng tập trung tại trường được 3019 người; Một lớp cao đẳng cho Toà án Quân sự Trung ương là 60 người; Đào tạo trung cấp tại 9 tỉnh được 367 người. (Các số liệu này lấy trong Báo cáo tổng kết 1960-1980 của trường Cán bộ toà án).

Việc thành lập trường Cán bộ Toà án ở Hà nội và trường Trung cấp Toà án ở thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Toà án nhân dân tối cao đã phần nào đáp ứng được đội ngũ cán bộ cho ngành toà án. Tuy nhiên, yêu cầu về cán bộ có trình độ pháp lý không phải chỉ có riêng ở ngành toà án mà ở các ngành các cấp, các cơ quan kinh tế, quản lý hành chính, văn hoá, xã hội .v.v. đều cần phải có cán bộ có trình độ chuyên môn về luật. Hơn nữa, trong giai đoạn những năm 1975-1976, nhu cầu đào tạo cán bộ pháp lý không phải chỉ dừng lại ở bậc trung học, cao đẳng mà cần phải đào tạo ở bậc cao hơn: bậc đại học, sau và trên đại học. Đứng trước tình hình đó, năm 1976, Nhà nước ta đã cho phép thành lập khoa luật đầu tiên đặt tại trường Đại học Tổng hợp Hà nội.

Ngoài ra, để đáp ứng với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho pháp chế ngành, ngày 17/7/1976, Uỷ ban pháp chế của Chính phủ có Quyết định số 236-TCCB thành lập trường Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp chế . Trường Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp chế chủ yếu chỉ có chức năng bồi dưỡng nghiệp vụ. Trường không có chức năng đào tạo cấp bằng theo hệ thống các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.

Do nhu cầu khách quan của công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý đáp ứng với yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước; Ngày 11/01/1977, Uỷ ban pháp chế của Chính phủ đã có Quyết định số 003-TCCB thành lập trường Pháp lý Việt nam. Trong Quyết định thành lập trường có ghi rõ: "Trường Pháp lý Việt nam có nhiệm vụ đào tạo những cán bộ có trình độ trung học pháp lý...". Trường được thành lập trên cơ sở trường Đào tạo,bồi dưỡng cán bộ pháp chế.

Trường Pháp lý Việt nam ngay khi được thành lập đã bắt đầu chiêu sinh và đào tạo những khoá đầu tiên trung học pháp lý. Như vậy, cho đến năm 1977, ở nước ta đã có 1 trường Trung học Pháp lý Việt nam, 1 trường Trung cấp Toà án ở thành phố Hồ Chí Minh, 1 trường Cán bộ Toà án ở Hà nội và 1 khoa Pháp lý nằm trong trường Đại học Tổng hợp Hà nội. Có được một số trường, khoa như vậy là một sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý. Tuy nhiên, nếu chỉ có một khoa luật, mỗi khóa chỉ tuyển trên dưới 100 người (khoá 1 có 67 người, khoá 2 có 134 và khoá 3 có 80 người); một trường Cán bộ Toà án đào tạo hệ cao đẳng toà án mỗi năm chiêu sinh khoảng 120 đến 150 người; và 2 trường trung cấp mỗi khoá tuyển xấp xỉ 400 chỉ tiêu thì không thể nào đáp ứng được với nhu cầu về cán bộ pháp lý cho cả nước, đặc biệt là đối với yêu cầu có nhanh đội ngũ cán bộ pháp lý có trình độ cao đẳng và đại học.

Đứng trước tình hình đó, Hội đồng Chính phủ đã có Quyết định số 299-CP ngày 22/8/1979 thành lập trường Cao đẳng Pháp lý trực thuộc Uỷ ban pháp chế của Chính phủ.

Trường Cao đẳng Pháp lý được thành lập trên cơ sở trường Trung học Pháp lý của Uỷ ban pháp chế. Tuy trường Cao đẳng Pháp lý được thành lập nhưng yêu cầu thực tiễn của đội ngũ cán bộ pháp lý trong giai đoạn hiện tại vẫn còn cần phải tiếp tục đào tạo hệ trung cấp pháp lý. Do vậy, Uỷ ban pháp chế của Chính phủ đã có Quyết định số 013-QĐ ngày 22/3/1980 giữ trường Trung học Pháp lý và đổi tên thành trường Trung học chuyên nghiệp pháp lý I. Trường Trung học chuyên nghiệp pháp lý I có nhiệm vụ đào tạo cán bộ pháp lý cho các tỉnh phía Bắc; Còn trường Trung cấp Toà án tại thành phố Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ pháp lý cho các tỉnh phía Nam.

Như trên đã nêu, khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Hà nội mới được thành lập năm 1976, đến năm 1979 vẫn chưa có học sinh ra trường. Hơn nữa, nếu chỉ là khoa nằm trong 1 trường thì số lượng tuyển sinh ít, không tập trung; Nhất là trong giai đoạn hiện tại, do hoàn cảnh khách quan của nước ta, lĩnh vực khoa học pháp lý là một trong những lĩnh vực phát triển chậm chễ: Thiếu đội ngũ cán bộ khoa học pháp lý có trình độ cao; thiếu giáo viên giảng dạy; chương trình còn chắp vá, chưa hoàn chỉnh; giáo trình hoặc là chưa có hoặc là có môn đã có nhưng chưa hoàn thiện; tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho học sinh rất hạn chế. Đứng trước tình hình đó, nếu để nhiều trường đào tạo luật, nhiều ngành quản lý công tác đào tạo luật thì sẽ không tập trung, không phát huy được hiệu quả, chất lượng đào tạo sẽ không được cao. Do đó, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 405-CP ngày 10/11/1979 thành lập trường Đại học Pháp lý trên cơ sở thống nhất khoa Pháp lý của trường Đại học Tổng hợp Hà nội và trường Cao đẳng pháp lý và giao cho Uỷ ban pháp chế của Chính phủ trực tiếp quản lý. Địa điểm của Trường đặt tại xã Duyên thái, huyện Thường tín, tỉnh Hà tây.

Vì trường Cao đẳng pháp lý mới được thành lập ngày 22/8/1979, nên mới bắt đầu chiêu sinh khoá đầu tiên. Khi Trường sáp nhập với khoa Pháp lý trường Đại học Tổng hợp để thành lập trường Đại học Pháp lý Hà nội thì khoa Pháp lý đã bắt đầu chiêu sinh khoá 4. Vì vậy, Trường nhập luôn số học sinh của trường Cao đẳng pháp lý vào khoá 4 của khoa Luật và đây cũng là khoá 4 của trường Đại học Pháp lý Hà nội.

Như vậy, kể từ khi Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến khi thành lập trường Đại học Pháp lý Hà nội (1979), tuy đã có một lần thành lập trường Đại học Pháp lý vào cuối năm 1948 tồn tại cho đến năm 1950, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, ở miền Bắc vẫn chưa có khoá sinh viên đại học luật nào được đào tạo tốt nghiệp ra trường. ở miền Nam dưới chế độ Mỹ- Ngụy, nhưng cũng do chiến tranh, tình hình kinh tế, chính trị xã hội không ổn định, việc đào tạo luật tuy có được thực hiện nhưng với số lượng và quy mô rất nhỏ so với các ngành đào tạo khác.

Tuy nhiên, do nhu cầu khách quan cần phải có đội ngũ cán bộ pháp lý có trình độ đại học và trên đại học, Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện để gửi cán bộ, lưu học sinh đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Theo số lượng thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, trong vòng 30 năm (1962-1992) chúng ta đã có 579 cử nhân luật được đào tạo ở nước ngoài. Số này chủ yếu ta gửi đi đào tạo từ trước năm 1976 khi trong nước chưa có đào tạo luật hệ đại học. Trong số 579 người được gửi đi đào tạo ở nước ngoài về có 479 người tốt nghiệp tại Liên xô (cũ), 90 người tốt nghiệp tại Cộng hoà dân chủ Đức (cũ), 7 người tốt nghiệp ở Ba lan và 3 người tốt nghiệp ở Tiệp (cũ).

Riêng việc đào tạo trên đại học, chúng ta mới gửi đi đào tạo ở nước ngoài với một số lượng rất ít. Tính đến năm 1980, số lượng phó tiến sỹ, tiến sỹ luật ở nước ta có thể "tính được trên đầu ngón tay", khoảng trên dưới 10 người.

2. Giai đoạn từ năm 1980 đến nay

Cho đến năm 1980, ở nước ta có trường Đại học Pháp lý Hà nội và trường Trung học chuyên nghiệp pháp lý I thuộc Uỷ ban pháp chế của Chính phủ. Trường Cán bộ Toà án ở Hà nội và trường Trung cấp Toà án ở thành phố Hồ Chí Minh thuộc Toà án nhân dân tối cao.

Do nhu cầu về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1980 có quy định Bộ Tư pháp là thành viên của Hội đồng Bộ trưởng. Vì vậy, ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị định 143-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp. Trong Nghị định, Hội đồng Bộ trưởng đã giao cho Bộ Tư pháp có chức năng quản lý công tác đào tạo luật và có chức năng quản lý các toà án địa phương về tổ chức.

Căn cứ vào Nghị định 143-HĐBT nói trên và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước, Toà án nhân dân tối cao, trong năm 1982 đã bàn giao trường Cán bộ Toà án và trường Trung cấp Toà án ở thành phố Hồ Chí Minh về Bộ Tư pháp. Sau khi nhận bàn giao 2 trường trên từ Toà án nhân dân tối cao về Bộ Tư pháp, ngày 06/10/1982, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 176/QĐ-TC hợp nhất trường Đại học Pháp lý Hà nội và trường Cán bộ Toà án tại Hà nội thành trường Đại học Pháp lý Hà nội. Trường gồm 2 cơ sở: Cơ sở 1 ở quận Đống Đa; Cơ sở 2 ở huyện Thường Tín, tỉnh Hà Sơn Bình. Cũng trong thời gian này, Bộ Tư pháp cho sáp nhập trường Trung học chuyên nghiệp Pháp lý I vào trường Đại học Pháp lý Hà nội và để thành Khoa Trung học nằm trong trường Đại học Pháp lý Hà nội. Còn trường Trung cấp Toà án ở phía Nam đổi tên thành trường Trung học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh. Địa điểm tại ấp Bình Triệu, xã Hiệp Bình Chánh, huyện Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

Đến năm 1982, ở nước ta chỉ còn lại 1 trường Đại học Pháp lý Hà nội, 1 trường Trung học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Tư pháp; và 1 trường Cao đẳng Kiểm sát thuộc Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao là có đào tạo cán bộ pháp lý .

Tính đến khi trường Cán bộ toà án thuộc Toà án nhân dân Tối cao được bàn giao về Bộ tư pháp, Trường đã đào tạo được 5 khoá cao đẳng toà án với số lượng trên dưới 700 người. Còn khoá 6 mới chiêu sinh thì Trường hợp nhất với trường Đại học Pháp lý Hà nội; Khi đó trường Đại học Pháp lý Hà nội được Bộ Tư pháp và Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và đào tạo) cho mở khoá 1 hệ đào tạo chuyên tu đại học pháp lý, Trường cho nhập luôn vào khoá 1 chuyên tu của Trường.

Từ khi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, nhu cầu về đội ngũ cán bộ pháp lý có trình độ cao ngày càng gia tăng. Việc thực hiện chương trình đổi mới công tác giáo dục và đào tạo nói chung, và đào tạo luật nói riêng, trong đó có chủ trương đa dạng hoá các loại hình đào tạo đã mở ra những điều kiện mới cho việc mở rộng quy mô đào tạo và hình thức đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ pháp lý nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng. Cũng từ đây, quy mô đào tạo của trường Đại học Luật Hà nội cũng được gia tăng, những khoá đầu từ một vài trăm nay đã lên đến 600,700 người/năm; thậm chí cho đến năm 1995, đã tuyển sinh đến 1200 người/năm.

Về việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo thì: ngoài hệ chính quy tập trung với số lượng ngày càng tăng trên, Trường còn mở hệ chuyên tu tập trung tại trường và mở các lớp đại học luật tại chức ở các địa phương. Riêng về hệ chuyên tu đại học luật, trường Đại học Pháp lý Hà nội đã đào tạo tập trung tại trường được 8 khoá (kể từ năm 1983 đến năm 1991) với số lượng học viên xấp xỉ 1200 người.

Do nhu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới, việc chỉ có 1 trường Đại học Pháp lý Hà nội để đào tạo cán bộ pháp lý cho cả nước là không phù hợp, đặc biệt là đào tạo cho các tỉnh phía Nam. Từ năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội ngũ cán bộ nói chung đặc biệt là cán bộ tư pháp nói riêng ở các tỉnh phía Nam rất thiếu. Cán bộ pháp lý ở các tỉnh phía Nam, lúc đầu chủ yếu là điều từ miền Bắc vào, một số chuyển từ quân đội, công an, cán bộ chính trị sang. Đứng trước tình hình đó, năm 1985-1986, Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp tổ chức các lớp bồi dưỡng pháp lý xã hội chủ nghĩa cho số các luật gia được đào tạo dưới chế độ Mỹ - Ngụy hiện đã theo cách mạng hoặc có tư tưởng tiến bộ để sau khi tốt nghiệp được lựa chọn bổ sung vào đội ngũ cán bộ pháp lý ở các tỉnh phía Nam. Tuy nhiên, nhu cầu cán bộ pháp lý ở các tỉnh phía Nam rất lớn. Nếu chỉ trông vào việc thí sinh của các tỉnh phía Nam trúng tuyển và ra Hà nội học tại trường Đại học Pháp lý Hà nội thì rất khó và không thể đáp ứng đủ số lượng cán bộ pháp lý cho các tỉnh phía Nam. Hơn nữa, do điều kiện kinh tế, xã hội còn gặp nhiều khó khăn, việc đi lại từ các tỉnh phía Nam ra Hà nội học là không thuận lợi, vì thế số thí sinh đăng ký dự thi vào Đại học Pháp lý Hà nội của các tỉnh phía Nam rất ít. Đứng trước tình hình đó, ngày 09/4/1985, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có văn bản số 1812/V8 cho phép Bộ Tư pháp đặt 1 lớp Đại học Pháp lý tại trường Trung học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh do trường Đại học Pháp lý Hà nội quản lý và giảng dạy. Số lượng mỗi năm chiêu sinh 100 học viên, đào tạo hệ tập trung 4 năm.

Sau hơn 2 năm, Hội đồng Bộ trưởng cho phép trường Đại học Pháp lý được đặt một lớp Đại học Pháp lý tại trường Trung học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh. Tuy có đáp ứng được phần nào việc khắc phục khó khăn cho học sinh, nhưng nhìn chung việc quản lý, bố trí giáo viên giảng dạy từ trường Đại học Luật Hà nội vào gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc đi lại và tốn kém kinh phí. Hơn nữa, việc quản lý từ xa sẽ không thể đạt được hiệu quả cao và chỉ tiêu đào tạo hàng năm là 100 người không thể đáp ứng kịp với nhu cầu về đội ngũ cán bộ pháp lý cho các tỉnh phía Nam. Đứng trước tình hình đó, để khắc phục những nhược điểm trên, ngày 25/12/1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 357/CT cho phép trường Đại học Pháp lý Hà nội chuyển lớp Đại học Pháp lý tại thành phố Hồ Chí Minh thành Phân hiệu đại học Pháp lý tại thành phố Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở Quyết định nói trên của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Tư pháp lấy cơ sở trường Trung cấp Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh nâng lên thành Phân hiệu đại học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh với điều kiện Phân hiệu được bổ sung đội ngũ giáo viên, được tăng cường thêm về cơ sở vật chất; Phân hiệu trực thuộc trường Đại học Pháp lý Hà nội do một phó hiệu trưởng kiêm làm Phân hiệu trưởng Phân hiệu đại học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì Phân hiệu trực thuộc trường Đại học Pháp lý Hà nội nên không bị xáo trộn về kế hoạch học tập, không ảnh hưởng về chất lượng đào tạo. Về chương trình, giáo trình: vẫn là chương trình, giáo trình của trường Đại học Pháp lý; Về giáo viên: có sự liên thông; Về kế hoạch học tập, nghiên cứu khoa học.v.v.. vẫn đều thống nhất với trường Đại học Pháp lý Hà nội. Tuy trường Trung học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh được nâng lên thành Phân hiệu đại học Pháp lý, nhưng nhiệm vụ đào tạo trung học Phân hiệu vẫn đảm nhiệm. Cho đến sau này, khi không còn đào tạo trung học tập trung tại trường, Phân hiệu vẫn tổ chức các lớp trung học pháp lý tại chức cho các địa phương. Tính đến nay, kể từ khi thành lập (1975) đến khi thôi không đào tạo hệ trung học pháp lý tập trung, trường Trung học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh đã đào tạo được 13 khoá với số lượng trên dưới 2.000 người. Với số lượng này, phần nào cũng đáp ứng được nhu cầu về cán bộ pháp lý cho các tỉnh phía Nam trong giai đoạn hiện tại.

Như vậy, cho đến khi Phân hiệu Đại học Pháp lý Hồ Chí Minh được thành lập, cả nước ta hiện chỉ có 1 trường đại học Pháp lý ở Hà nội, 1 Phân hiệu đại học Pháp lý ở thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Tư pháp và 1 trường Cao đẳng kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy các trường đào tạo cán bộ pháp lý nói trên mới được thành lập, nhưng dưới sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp và sự quản lý Nhà nước về giáo dục đào tạo của Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và đào tạo) các trường đã cố gắng nâng cao dần chất lượng và số lượng đào tạo, thực hiện tốt chủ trương đa dạng hoá các loại hình đào tạo của Đảng và Nhà nước. Chỉ tính trong vòng hơn 20 năm, từ khi khoa Luật trường Đại học Tổng hợp được thành lập năm 1976 (sau này khoa bàn giao về trường Đại học Luật Hà nội và bắt đầu tính là khoá I của trường) cho đến hết năm 1999, trường Đại học Luật Hà nội đã đào tạo và cho ra trường được 20 khoá, với số lượng 8.159 người (trong đó có 1.092 hệ mở rộng). (Xem Bảng 01 kèm theo).

 

Bảng 01: Đào tạo Đại học Luật của Trường Đại học Luật Hà Nội.

STT

Khoá học

Năm học

Số lượng

Tốt nghiệp

1.

Khoá 1

1976 - 1980

67

67

2.

Khoá 2

1977 - 1981

134

134

3.

Khoá 3

1978 - 1982

81

81

4.

Khoá 4

1979 - 1983

224

224

5.

Khoá 5

1980 - 1984

271

271

6.

Khoá 6

1981 - 1985

240

240

7.

Khoá 7

1982 - 1986

327

327

8.

Khoá 8

1983 - 1987

250

250

9.

Khoá 9

1984 - 1988

247

247

10.

Khoá 10

1985 - 1989

279

279

11.

Khoá 11

1986 - 1990

222

222

12.

Khoá 12

1987 - 1991

201

201

13.

Khoá 13

1988 - 1992

121

121 (trong đó có 09 hệ mở rộng)

14.

Khoá 14

1989 - 1994

359

359 (trong đó có 62 hệ mở rộng)

15.

Khoá 15

1990 - 1995

417

417(trong đó có 74 hệ mở rộng)

16.

Khoá 16

1991 - 1996

633

633 (trong đó có 270 hệ mở rộng)

17.

Khoá 17

1992 - 1997

1.035

1.035 (trong đó có 649 hệ mở rộng)

18.

Khoá 18

1993 - 1998

516

516 (trong đó có 26 hệ mở rộng)

19.

Khoá 19

1994 - 1999

761

761 (trong đó có 02 hệ mở rộng)

20.

Khoá 20

1995 - 1999

1.774

1.774

21.

Khoá 21

1996 - 2000

1.613

 

22.

Khoá 22

1997 - 2001

1.320

 

23.

Khoá 23

1998 - 2002

1.007

 

24.

Khoá 24

1999 - 2003

1.020

 

Tổng cộng

13.119

8.159 (trong đó mở rộng là 1.092)

Đối với việc đào tạo cán bộ pháp lý cho các tỉnh phía Nam, kể từ năm 1985, sau khi được phép của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được chuyển 1 lớp (100 chỉ tiêu) thuộc Trường Đại học Pháp lý Hà Nội vào đặt ở Trường Trung học pháp lý thành phố Hồ Chí Minh, sau này được nâng lên thành Phân hiệu Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (nay là Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh). Cho đến nay, Trường đã đào tạo và cho ra trường cung cấp được gần 4000 cán bộ pháp lý có trình độ đại học cho các tỉnh phía Nam.

Cũng kể từ năm 1985 trở đi, để đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý trong giai đoạn đổi mới của nước nhà, thực hiện chủ trương đa dạng hoá các loại hình đào tạo của Nhà nước, ngoài các hệ đào tạo chính quy tập trung ra, trường Đại học Luật Hà nội và Phân hiệu đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh còn mở hệ tại chức đặt tại các địa phương. Trường đại học Luật Hà nội mở các lớp cho các tỉnh phía Bắc và một số tỉnh phía Nam. Phân hiệu đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh do mới thành lập, đội ngũ giáo viên còn mỏng nên chỉ đảm nhiệm được 1 số lớp ở các tỉnh phía Nam. Tính đến nay, hầu hết các tỉnh trong cả nước đều có mở lớp đại học luật hệ tại chức, với số lượng đào tạo được trong cả nước lên đến trên 15.000 người.

Ngoài việc đào tạo học sinh trong cả nước ra, Trường đại học Pháp lý Hà nội và Phân hiệu đại học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh còn đào tạo lưu học sinh cho 1 số nước như: Lào, Cam-pu-chia và Y-ê-men, với số lượng trên 100 người. Chính do chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, quan hệ đối ngoại của Bộ Tư pháp và quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo của các trường, đặc biệt là các trường đào tạo luật cũng ngày càng phát triển. Để hoà nhập trong lĩnh vực đào tạo quốc tế đặc biệt là đối với các nước trong khu vực; Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 369/QĐ-TC ngày 6/7/1993 đổi tên trường Đại học Pháp lý Hà nội thành trường Đại học Luật Hà nội và Quyết định số 368/QĐ-TC ngày 6/7/1993 đổi tên Phân hiệu đại học Pháp lý thành phố Hồ Chí Minh thành Phân hiệu đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

Tính đến trước năm 1990, ở nước ta chỉ có trường Đại học Luật Hà nội và Phân hiệu đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh là đào tạo đại học luật. Hai cơ sở này đã tăng quy mô đào tạo, mở rộng các hình thức đào tạo. Tuy nhiên, so với nhu cầu rất lớn về đào tạo cán bộ pháp lý cho cả nước thì vẫn chưa đáp ứng kịp. Vì vậy, sau năm 1990 một số cơ sở đào tạo luật cũng được lập lại hoặc thành lập mới như: Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp (nay là Đại học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà nội), Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 1993, một số cơ sở khác như Đại học Mở-Bán công thành phố Hồ Chí Minh, Viện đại học Mở Hà nội và một số trường đại học dân lập cũng tiến hành đào tạo luật. Nhưng do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là thiếu đội ngũ giảng viên đặc biệt là thiếu giáo viên giảng dạy các môn luật chuyên ngành nên các cơ sở này chỉ chiêu sinh với số lượng rất hạn chế. Cho đến năm 1996, các cơ sở này không thực hiện chiêu sinh đại học luật nữa. Để nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực đào tạo, ngày 27/01/1995, Chính phủ có Nghị định 16/CP thành lập Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; trong đó sáp nhập Phân hiệu đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh và khoa Luật trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh thành Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Trên thực tế, ở nước ta hiện nay chỉ còn 3 cơ sở đào tạo đại học luật. Đó là: trường Đại học Luật Hà nội trực thuộc Bộ Tư pháp, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh và Khoa Luật trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà nội.

Ngoài việc đào tạo trình độ Cử nhân Luật để cung cấp cán bộ pháp lý cho các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội ở cấp huyện, tỉnh và Trung ương, Bộ Tư pháp còn đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép Trường Đại học Luật Hà Nội tiếp tục đào tạo Trung học pháp lý để đào tạo đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở, trong đó có cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn (Công văn 838/TCCB ngày 20/8/1993). Đặc biệt là từ khi có Nghị định 09/1998/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và qui định 04 chức danh chuyên môn cấp xã, trong đó có 01 định suất cho cán bộ Tư pháp. Các đối tượng này được hưởng chế độ sinh hoạt phí theo bằng cấp chuyên môn đào tạo; Bộ Tư pháp đã xây dựng Đề án đào tạo Trung học pháp lý và giao cho Trường Đại học Luật Hà Nội phối hợp với các địa phương mở các lớp đào tạo Trung học pháp lý để đào tạo cho các đối tượng là cán bộ Tư pháp xã, phường. Chỉ tính trong thời gian 02 năm (1998 - 1999) sau khi có Nghị định nói trên, Trường Đại học Luật Hà Nội đã phối hợp với các địa phương mở được 31 lớp với số lượng trên 3.000 người.

Bên cạnh việc mở rộng quy mô đào tạo hệ trung học và hệ đại học luật ra, việc đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý đầu đàn, đội ngũ cán bộ pháp lý có trình độ sau và trên đại học cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hàng năm, ngoài việc cử cán bộ đi đào tạo cao học và Phó tiến sĩ ở nước ngoài như: Cộng hoà Liên bang Nga, úc, Nhật bản, Singapo..., ở nước ta cũng đã có một số cơ sở được Nhà nước giao đào tạo trên đại học luật. Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia đã tiến hành đào tạo nghiên cứu sinh từ năm 1986; và từ năm 1993 bắt đầu mở các lớp đào tạo thạc sĩ luật. Sau đó, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Luật - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn và Đại học luật Hà nội cũng đã thực hiện và ngày càng mở rộng quy mô đào tạo trên đại học. Trường Đại học Luật Hà nội cùng với việc đào tạo nghiên cứu sinh còn tiến hành đào tạo cao học luật. Với sự nỗ lực, cố gắng của các cơ sở đào tạo trên đại học, đến nay đã có trên 400 người có bằng tiến sĩ và thạc sỹ luật học. Riêng Trường Đại học Luật Hà Nội đã đào tạo được 248 thạc sỹ (xem Bảng 02 kèm theo).

Bảng 02: Đào tạo Nghiên cứu sinh và đào tạo Cao học Luật

a - Đào tạo nghiên cứu sinh

STT

Tên khoá học

Năm học

Số lượng

Tốt nghiệp

1.

Nghiên cứu sinh K1

1995 - 2000

18

 

2.

Nghiên cứu sinh K2

1996 - 2001

07

 

3.

Nghiên cứu sinh K3

1997 - 2002

09

 

4.

Nghiên cứu sinh K4

1998 - 2003

11

 

5.

Nghiên cứu sinh K5

1999 - 2004

10

 

6.

Nghiên cứu sinh K6

2000 - 2005

10

 

Tổng cộng

65

 

B - Đào tạo Cao học Luật

STT

Tên khoá học

Năm học

Số lượng

Tốt nghiệp

1.

Cao học Luật K1

1992 – 1995

62

62

2.

Cao học Luật K2

1993 – 1996

82

82

3.

Cao học Luật K3

1994 – 1997

42

42

4.

Cao học Luật K4

1995 – 1998

32

32

5.

Cao học Luật K5

1996 – 1999

30

30

6.

Cao học Luật K6

1997 – 2000

36

 

7.

Cao học Luật K7

1998 – 2001

25

 

8.

Cao học Luật K8

1999 – 2002

42

 

9.

Cao học Luật K9

2000 – 2002

52

 

Tổng cộng

403

248

Trong những năm trước năm 1998, ở nước ta đã có một số cơ sở đào tạo cán bộ pháp lý, nhưng các cơ sở này đào tạo chủ yếu về lý luận và về mặt bằng pháp lý chung như đào tạo Trung học, Đại học, Sau Đại học Luật, chưa có cơ sở nào đào tạo nghề cho các chức danh Tư pháp. Vì thế, trong một thời gian dài, đội ngũ cán bộ pháp lý chậm được bổ sung, chất lượng công tác chưa cao; đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán xét xử còn cải sửa nhiều, một số án còn bị huỷ. Một số cán bộ Thẩm phán, Chấp hành viên, Công chứng viên, ... còn bị kỷ luật do nhiều nguyên nhân, trong đó có một phần là do còn chưa nắm vững chuyên môn nghiệp vụ nên đã mắc phải sai lầm, khuyết điểm. Đứng trước tình hình đó, Bộ Tư pháp đã xây dựng Đề án đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp để đào tạo bồi dưỡng cho các chức danh như Thẩm phán, Luật sư, Chấp hành viên, Công chứng viên, Thư ký Toà án… Ngày 11/02/1998 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 34/1998/QĐ-TTg thành lập Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp. Ngay từ khi mới thành lập Trường đã khẩn trương triển khai công tác đào tạo và bồi dưỡng các chức danh Tư pháp. Chỉ trong vòng chưa đầy 03 năm (từ 1998 đến nay), Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp đã phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ mở được 10 khoá đào tạo lại đội ngũ cán bộ pháp luật cho gần 1.000 người, xây dựng chương trình, giáo trình và mở được 03 khoá đào tạo nguồn Thẩm phán cho hơn 400 người. Hiện nay, Trường đang tiếp tục xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng cho Luật sư, Công chứng viên, Chấp hành viên và một số chức danh Tư pháp khác để triển khai đào tạo từ sau năm 2000 trở đi.

Tóm lại, trong 55 năm qua, công tác đào tạo luật học ở nước ta đã có bước phát triển quan trọng và thu được những kết quả đáng kể, đặc biệt kể từ khi thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu hiện tại của đất nước về đội ngũ cán bộ pháp lý nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng thì công tác đào tạo luật ở nước ta còn chưa tương xứng và còn nhiều yếu kém, nhược điểm. Chất lượng đào tạo còn thấp, chương trình, giáo trình cũng cần được bổ sung sửa đổi; tài liệu tham khảo, nghiên cứu còn thiếu; sự đầu tư của Nhà nước cho công tác đào tạo luật còn chưa tương xứng.

Để khắc phục được những tồn tại trên và để đào tạo được một đội ngũ cán bộ pháp lý đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là cần phải đào tạo được đội ngũ cán bộ pháp lý có trình độ tương đồng với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới; theo chúng tôi nhận thấy thì Đảng và nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa tới việc đầu tư chiều sâu cho công tác đào tạo luật. Tập trung đầu tư và tăng khả năng đào tạo cho một số cơ sở có đủ các điều kiện để đào tạo luật, đặc biệt là về lực lượng đội ngũ giáo viên. Tránh tình trạng đào tạo phân tán, manh mún như hiện nay. Giao cho một số trường đào tạo có chất lượng đào tạo cao học và tiến sĩ. Mở rộng hợp tác đào tạo sau và trên đại học với các nước trong khu vực và các nước phát triển. Chỉ có như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý ở Việt Nam mới đáp ứng được yêu cầu của Đảng và Nhà nước giao./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phần thứ ba

các văn bản tham khảo và tư liệu lịch sử

 

I. Các văn bản

1. Nghị định số 37 ngày 01/ 12/ 1945 tổ chức Bộ Tư pháp

Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Để đặt cơ sở đầu tiên cho việc tổ chức Bộ Tư pháp

Nghị định:

Điều 1. - Bộ Tư pháp gồm có một Văn phòng và các phòng sự vụ.

Điều 2. - Văn phòng đặt dưới quyền điều khiển của Đổng lý văn phòng và Chánh văn phòng, có các tham chính văn phòng giúp việc. Nếu cần sẽ đặt những đặc vụ uỷ viên.

 

Văn phòng có nhiệm vụ là giúp ông Bộ trưởng trong các công việc tổ chức tư pháp, để thực hiện những phương châm của Chính phủ, và trông nom tất cả việc trong nội bộ thuộc về sự giao thiệp với các cơ quan quốc gia và với người ngoài.

Điều 3. - Các phòng sự vụ đặt dưới quyền điều khiển của ông Đổng lý Văn phòng, tạm thời kiêm chức Đổng lý sự vụ. Các phòng ấy gồm có:

Phòng nhất

Phòng sự vụ nội bộ

Thư tín chính trị - Phân phát công văn - Việc xin yết kiến - Việc công bố các đạo luật và Sắc lệnh - Đưa các bản đăng Công báo - Giao thiệp với Nghị viện và Chính phủ - Triệu tập các Uỷ ban.

Giữ và coi cho có thứ tự sổ sách, hồ sơ và công thư của Bộ - Liên lạc với các nhà in và các Nha lưu trữ công văn Quốc gia.

Trông coi thư viện và các báo chí của Bộ - Giữ các kiềm ấn.

Phòng nhì

Phòng viên chức và kế toán

Ban viên chức - Bổ nhiệm viên chức các toà án - Định cách thức tuyển cử viên chức ngạch tư pháp - Bảng thăng thưởng các thẩm phán và viên chức tư pháp - Danh vị - Kỷ luật - Triệu tập Hội đồng kỷ luật - Việc xin nghỉ, xin về hưu.

Ban kế toán - Soạn lập ngân sách của Bộ - Phân chia chi thu - Việc cấp dưỡng cho các thẩm phán viên cũ hoặc gia đình của họ - Việc mua bán xây dựng - Các việc khác thuộc về kế toán.

Phòng ba

Phòng giám đốc hộ vụ

Ban pháp chế và cai trị - Việc quản trị các Toà án dân sự và thương sự - Việc tổ chức các Toà án - Dự án luật và Sắc lệnh về dân sự, thương sự và tố tụng thủ tục - Thi hành các đạo luật về dân sự, thương sự - Dự thảo Nghị định và huấn thị.

Việc biện hộ trước các toà án - Bảng danh sách các luật sư - Thi hành các Hiệp ước quốc tế về dân sự, thương sự và tố tụng thủ tục - Dự án các hiệp ước về tư pháp - Thi hành những việc điều tra về dân sự và thương sự do ngoại quốc uỷ cho làm, hoặc uỷ quyền ngoại quốc điều tra về những việc dân sự và thương sự.

Trong những thời kỳ chiến tranh: Thi hành những đạo luật làm trong thời kỳ ấy - Chế độ tư quyền của các kiều dân các nước địch - Quyền trừ và thanh toán tài sản của họ - Các việc xin bồi thường tổn hại về chiến tranh.

Ban công lại - Chế độ quản lý văn khế - Các đại tụng viên, hỗ giá viên, thừa phát lại - Công việc và trụ sở của các người kể trên.

Ban quốc tịch - Việc xin nhập quốc tịch Việt Nam hoặc xin trở lại quốc tịch Việt Nam - Các việc khác thuộc về quốc tịch ( xin nhập quốc tịch ngoại quốc, xin phép làm việc ở ngoại quốc,..v..v.)

Phòng tư

Phòng giám đốc hình vụ

Ban Hình sự - Việc truy tố các tội phạm, kiểm soát thủ tục và sự thi hành các án phạt.

Dự án Luật và Sắc lệnh về hình vụ - Dự thảo Nghị định, huấn thị về hình vụ - Việc cảnh sát tư pháp - Những việc không tố và kháng cáo quan trọng.

Ban đại xá và tạp vụ. - Việc xin đại xá và phóng thích. Dự thảo và thi hành những Hiệp ước về việc giao nộp phạm nhân của một nước ngoài cho nước ấy - Thi hành uỷ nhiệm của ngoại quốc hoặc uỷ quyền cho ngoại quốc làm những việc điều tra. Việc lập thống kê - Tư pháp lý lịch.

Phòng năm

Phòng giám đốc việc quản trị các nhà lao

và giáo dục tù nhân

Ban công văn và viên chức - Phân phát công văn - Phạm vi của các nhân viên làm việc ở các lao ngục và lao thất - Bảng thăng thưởng - Bổ nhiệm, thuyên chuyển, cho nghỉ gia hạn, từ chức... - Kỷ luật - Triệu tập Hội đồng kỷ luật - Chia loại các lao ngục và lao thất - Việc kế toán.

Ban giao dịch và công tác - Việc làm trong các nhà lao - Việc xây dựng và sửa chữa các nhà lao - Vệ sinh trong các nhà lao - Giao dịch, mua vật dụng - Nhà thuốc - Thư viện.

Việc chuyển di tù nhân - Việc giao nộp can phạm cho ngoại quốc.

Ban giáo dưỡng tù phạm - Việc giáo dục trong các nhà lao - Việc giáo dục các trẻ vị thành niên phạm tội. Tổ chức việc học nghề - Các cơ quan bảo dưỡng - Việc các trẻ con bị truy tố trước các toà án - Xét những vấn đề xã hội có liên lạc đến chế độ lao tù.

Việc thi hành án phạt, thăm tù nhân - Sức khoẻ của tù nhân - Tổ chức y tế trong các nhà lao.

Điều 4. - Ông Đổng lý Văn phòng chịu uỷ nhiệm thi hành Nghị định này.

 

Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 1945

 

Vũ Trọng Khánh ( đã ký)

---------------------------------------

2. Sắc lệnh của Chủ Tịch nước Số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946

CHủ TịCH CHíNH PHủ LâM THờI VIệT NAM DâN CHủ CộNG HOà

Chiểu theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;

Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả thuận,

RA SắC LệNH:

Điều thứ nhất: Cách tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ấn định như sau này:

CHươNG THứ NHấT: Tổ CHứC CáC TOà áN

TIếT THứ NHấT: BAN Tư PHáP Xã

Điều thứ 2: ở mỗi xã, ban thường vụ của Uỷ ban hành chính cấp xã, gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký (theo Điều số 75 Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ chức chính quyền nhân dân) sẽ kiêm cả việc tư pháp.

Cả ba uỷ viên trong ban tư pháp ấy đều có quyền quyết nghị. Thư ký giữ công việc lục sự: lưu giữ công văn, làm các giấy tờ, biên bản.

Khi một trong ba uỷ viên vắng mặt, Chủ tịch sẽ lấy một nhân viên khác ở Uỷ ban hành chính vào thay.

Mỗi tuần lễ, ban tư pháp phải họp ít nhất là một lần, họp công khai ở trụ sở của Uỷ ban.

Điều thứ 3: Ban tư pháp xã có quyền:

 

1- Hoà giải tất cả các việc dân sự và thương sự.

Nếu hoà giải được, ban tư pháp có thể lập biên bản hoà giải có các uỷ viên và những người đương sự ký.

2- Phạt các việc vi cảnh, những chỉ có quyền phạt tiền từ năm hào đến sáu đồng bạc.

Các tiền phạt sẽ do thủ quỹ nhận và phát biên lai. Tiền phạt sẽ bỏ vào quỹ làng tiêu dùng.

Nếu người phạm tội không chịu nộp phạt, thì ban tư pháp lập biên bản đệ lên Toà án sơ cấp xét xử.

3- Thi hành những mệnh lệnh của các thẩm phán cấp trên.

Điều thứ 4: Ban tư pháp xã không có quyền tịch thu tài sản của ai. Cũng không có quyền bắt bớ, giam giữ ai trừ khi có trát nã của một thẩm phán, hay khi thấy người phạm tội quả tang.

Điều thứ 5: Khi bắt người trong hai trường hợp kể trên, ban Tư pháp phải lập biên bản hỏi cung, và giải bị can lên ngay Toà án trên, trong hạn 24 giờ là cùng.

 

Điều thứ 6: Nếu cần, ban tư pháp có thể khám xét nhà các tư nhân, để thu giữ tang vật, song phải lập biên bản minh bạch và không được xâm phạm đến các đồ vật khác. Các tang vật thu giữ phải bao gói cẩn thận và niêm phong rồi đệ ngay lên Toà án trên.

TIếT THứ NHì: TOà áN Sơ CấP (ở CáC QUậN)

Điều thứ 7: ở mỗi quận (phủ, huyện, châu) có một Toà án sơ cấp, quản hạt là địa hạt quận.

 

Nếu cần, một Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt được.

Điều thứ 8: Tuỳ theo sự quan trọng, các Toà án sơ cấp sẽ chia ra làm bốn hạng do Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Điều thứ 9: Toà án sơ cấp gồm có: một Thẩm phán, một Lục sự và một hay nhiều Thư ký giúp việc.

 

Điều thứ 10: Mỗi tuần lễ, ít ra phải có hai phiên toà công khai: một phiên hộ và một phiên hình. Tại phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản án từ.

Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù là ngày chủ nhật hay là ngày lễ cũng được. Lại có thể, nếu cần đến, mở phiên toà ngoài trụ sở ngoài toà án, ở các nơi xa cách Toà.

Điều thứ 11: ở các thành phố và thị xã, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể đặt Toà án sơ cấp tổ chức theo các nguyên tắc nói trên.

 

TIếT THứ BA: TOà áN đệ NHị CấP (ở CáC TỉNH)

MụC A - CáCH Tổ CHứC

Điều thứ 12: ở mỗi tỉnh và ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, và Sài Gòn - Chợ Lớn, có một toà án đệ nhị cấp. Quản hạt của Toà này theo giới hạn của địa hạt tỉnh hay thành phố. Nếu cần, một nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt được.

Điều thứ 13: Tuỳ theo sự quan trọng, các Toà án đệ nhị cấp sẽ chia ra làm bốn hạng do nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

 

Điều thứ 14: Ngoài các thành phố kể trên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể đặt thêm Toà án đệ nhị cấp ở các thành phố khác.

Điều thứ 15: Toà án đệ nhị cấp gồm có:

 

Một Chánh án, một Biện ký, một Dự thẩm.

Một Chánh Lục sự và những Thư ký giúp việc.

Tuỳ nơi nhiều việc hay ít việc, có thể tăng thêm số Thẩm phán và Lục sự, hay để một Thẩm phán kiêm nhiều chức vụ.

Điều thứ 16: Mỗi tuần lễ, ít ra cũng phải có hai phiên họp công khai: một phiên hộ và một phiên hình.

Tại phiên toà, Chánh án ngồi xử, Biện lý ngồi ghế công tố viện, Chánh lục sự hay Lục sự ngồi ghế Lục sự.

MụC B - Xử VIệC TIểU HìNH

Điều thứ 17: Về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình. Những khi xử các việc tiểu hình, phải có thêm hai viên Phụ thẩm Nhân dân góp ý kiến.

 

Điều thứ 18: Cách thức lập danh sách các Phụ thẩm:

Danh sách các Phụ thẩm nhân dân, do Uỷ ban hành chính tỉnh hay thành phố lập vào hồi đầu năm, gồm tất cả các hội viên chính thức và dự khuyết của Hội đồng nhân dân tỉnh hay thành phố, trừ các uỷ viên hành chính và các hội viên nào làm thẩm phán hay luật sư; và nếu cần, sẽ thêm từ 10 đến 30 Phụ thẩm nữa do Uỷ ban hành chính chọn trong những người ở tỉnh hay thành phố mà có đủ điều kiện để được ứng cử vào Hội đồng nhân dân.

Danh sách số Phụ thẩm thêm này phải tư sang ông Biện lý để hỏi ý kiến rồi đệ lên Hội đồng nhân dân tỉnh hay thành phố duyệt y.

Điều thứ 19: Hai Phụ thẩm dự phiên toà sẽ chọn theo cách rút thăm.

 

Điều thứ 20: Không thể cùng làm Phụ thẩm trong một Toà án:

1- Các người thân thuộc hay thích thuộc với nhau cho đến bậc thứ ba.

2- Các người thân thuộc hay thích thuộc với các Thẩm phán hoặc với các người đương sự cho đến bậc thứ ba.

Điều thứ 21: Không ai có thể làm Phụ thẩm trong một việc mà mình là người đương sự, hoặc đã điều tra, hoặc đã làm chứng hay làm giám định.

 

Điều thứ 22: Hôm phiên toà, hai Phụ thẩm đã chọn bắt buộc phải đến dự. Người nào vắng mặt, nếu không có duyên cớ chính đáng, sẽ bị phạt lần đầu từ 20 đồng đến 50 đồng; lần thứ nhì thì từ 50 đồng đến 100 đồng; lần thứ ba từ 100 đồng đến 200 đồng; ngoài ra lại có thể mất chức Phụ thẩm.

án phạt sẽ do ông Chánh án tuyên công khai.

Điều thứ 23: Các Phụ thẩm có thể xin hồi tị với ông Chánh án, nếu có lý do chính đáng. Ông Chánh án có toàn quyền quyết định việc có nên cho hồi tị hay không.

 

Điều thứ 24: Các Phụ thẩm nhân dân có bổn phận là lấy trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một cách công bằng không vị nể, vì sợ một thế lực nào, vì riêng hay tư thù, mà bênh vực hay làm hại ai.

Các Phụ thẩm nhân dân phải giữ kín các điều bàn bạc trong lúc nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy ra sẽ bị Toà Thượng thẩm phạt từ sáu tháng đến hai năm tù.

Điều thứ 25: Khi các Phụ thẩm nhậm chức, tại phiên toà đầu, ông Chánh án sẽ đọc Điều thứ 22 nói trên, rồi mời các Phụ thẩm tuyên thệ rằng:

 

"Tôi thề trước Công lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn thận những án đem ra xử, không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi, vì tư lợi hay thù oán riêng mà bênh vực hay làm hại một bị can nào. Tôi sẽ cứ công bằng mà xét định mọi việc.

"Tôi thề sẽ không bao giờ tiết lộ ra ngoài những điều bàn bạc trong lúc nghị án".

Điều thứ 26: Các Phụ thẩm không được xem hồ sơ trước khi phiên toà. Nhưng trong phiên toà có quyền yêu cầu ông Chánh án hỏi thêm các bị can và cho biết giấy tờ ở hồ sơ.

Điều thứ 27: Ông Chánh án phải hỏi ý kiến các Phụ thẩm về tội trạng các phạm nhân và về hình phạt, rồi tự mình quyết định.

 

Nhưng về thủ tục, tạm tha và các vấn đề khác liên can đến hộ hay thương mại, ông Chánh án không phải hỏi ý kiến các Phụ thẩm.

MụC C - Xử VIệC đạI HìNH

Điều thứ 28: Khi xử các việc đại hình, Toà đệ nhị cấp gồm có năm vị cùng ngồi xử và đều có quyền quyết nghị:

1- Chánh án Toà đệ nhị cấp ghế Chánh án.

2- Hai Thẩm phán làm Phụ thẩm chuyên môn, chọn trong các Thẩm phán đệ nhị cấp hay sơ cấp trong quản hạt, do ông Chánh nhất Toà Thượng thẩm chỉ định mỗi năm một lần.

Tuy nhiên trong năm, ông Chánh nhất có thể quyết định thay đổi hai vị Phụ thẩm chuyên môn.

3- Hai Phụ thẩm nhân dân rút thăm ở danh sách định trong điều thứ 18.

Ông biện lý ngồi ghế công tố viên và Chánh Lục sự ngồi ghế Lục sự.

Điều thứ 29: Các phiên xử đại hình không được trùng với các phiên tiểu hình.

 

Điều thứ 30: Các Điều thứ 20, 21, 22, 23, 24, 25 và 26 nói trên đều áp dụng với các Phụ thẩm nhân dân xử việc đại hình.

Điều thứ 31: Sau khi nghe các bị can, các người chứng, cáo trạng của ông Biện lý, và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử để cùng xét xử về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt trường hợp tăng tội, và trường hợp giảm tội.

 

Nghị án song, Toà lại họp và ông Chánh án tuyên đọc công khai bản án.

Điều thứ 32: Những vấn đề bàn trong phòng nghị xử giải quyết theo đa số. Một người không biểu quyết sẽ coi như là có ý kiến lợi cho bị can.

Điều thứ 33: Về các vấn đề liên can đến thủ tục, tạm tha, đòi bồi thường, việc hộ và thương mại, ông Chánh án và hai Thẩm phán chuyên môn quyết định lấy, các Phụ thẩm nhân dân không tham dự.

 

Điều thứ 34: Toà đại hình xử sơ thẩm. Ông Biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên Toà Thượng thẩm.

TIếT THứ Tư - TOà THượNG THẩM

MụC A - CáC Tổ CHứC

Điều thứ 35: ở mỗi Kỳ có một Toà Thượng thẩm.

 

Toà Thượng thẩm Bắc Kỳ đặt ở Hà Nội.

Toà Thượng thẩm Trung kỳ đặt ở Thuận Hoá (Huế).

Toà Thượng thẩm Nam kỳ đặt ở Sài Gòn.

Điều thứ 36: Mỗi Toà Thượng thẩm gồm có:

Một Chánh nhất.

Các Chánh án phòng.

Các Hội thẩm.

Một Chưởng lý.

Một hay nhiều Phó Chưởng lý.

Những Tham lý.

Một Chánh Lục sự.

Các Lục sự.

Những Tham tá và Thư ký.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ ấn định cách tổ chức các Toà Thượng thẩm và số các Chánh án, Hội thẩm, Phó Chưởng lý, Tham lý và Lục sự ở mỗi Toà.

Điều thứ 37: Tại phiên toà, ngồi xử sẽ có Chánh nhất hay một Chánh án phòng chủ toạ, và hai Hội thẩm. Chưởng lý, Phó Chưởng lý hay Tham lý, ngồi ghế công tố viên. Chánh Lục sự hay Lục sự ngồi ghế Lục sự.

 

MụC B - Xử CáC VIệC HìNH

Điều thứ 38: Khi phúc lại các án tiểu hình và đại hình, ngoài ông Chánh án và hai Hội thẩm, phải có thêm hai Phụ thẩm nhân dân có quyền quyết nghị, và chọn bằng cách rút thăm trong danh sách nói ở Điều số 39 sau này.

Điều thứ 39: Danh sách các Phụ thẩm nhân dân tại Toà Thượng thẩm có từ 50 đến 100 người chọn trong nhân dân Kỳ, và sẽ do Uỷ ban hành chính Kỳ lập vào hội đầu năm sau khi hỏi ý kiến ông Chưởng lý.

 

Điều thứ 40: Các Điều thứ 20, 21, 22, 23, 24, 25 và 26 nói trên đều áp dụng với các Phụ thẩm nhân dân ở Toà Thượng thẩm.

Điều thứ 41: Sau khi nghe các bị can, các người chứng, cáo trạng của ông Chưởng lý, và sau cùng, nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Hội thẩm và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử đề cùng quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội.

 

Nghị án xong, Toà lại họp và ông Chánh án tuyên đọc công khai bản án.

Điều thứ 42: Điều thứ 32 cũng áp dụng ở Toà Thượng thẩm.

Điều thứ 43: Về các vấn đề liên can đến thủ tục, tạm tha, đòi bồi thường, việc hộ và thương mại, ông Chánh án và hai Hội thẩm quyết nghị lấy các Phụ thẩm nhân dân không tham dự.

 

Điều thứ 44: Trong việc đại hình, nếu trước Toà Thượng thẩm một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một Luật sự để bào chữa cho hắn.

TIếT THứ NăM - ĐIềU KHOảN CHUNG

Điều thứ 45: Các Toà án tổ chức trong Sắc lệnh này sẽ do nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thiết lập dần dần ở các nơi, tuỳ điều kiện thuận tiện.

 

Điều thứ 46: Các Luật sư có quyền biện hộ trước tất cả các Toà án trữ những Toà sơ cấp.

Điều thứ 47: Toà án Tư pháp sẽ độc lập đối với các cơ quan hành chính.

 

Các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc Tư pháp.

CHươNG THứ HAI - Tổ CHứC CáC NGạCH THẩM PHáN

TIếT THứ NHấT: NGạCH THẩM PHáN

MụC A - CáC NGạCH THẩM PHáN

Điều thứ 48: Sẽ đặt hai ngạch Thẩm phán: ngạch Sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp.

Thẩm phán Sơ cấp làm việc ở toà Sơ cấp. Thẩm phán Đệ nhị cấp làm việc ở các toà Đệ nhị cấp và toà Thượng thẩm.

Điều thứ 49: Các Thẩm phán Đệ nhị cấp chia ra làm hai chức vị: các Thẩm phán xử án do ông Chánh nhất toà Thượng thẩm đứng đầu, và các Thẩm phán của Công tố viên (Thẩm phán buộc tội) do ông Chưởng lý đứng đầu.

 

Điều thứ 50: Mỗi Thẩm phán xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án.

Điều thứ 51: Trong quản hạt một toà Thượng thẩm thì tất cả các Thẩm phán buộc tội họp thành một đoàn thể độc lập đối với các Thẩm phán xử án, và duy nhất, đặt dưới quyền ông Chưởng lý.

 

Ông Chưởng lý hoàn toàn giữ quyền truy tố và hành động; các Thẩm phán trong Công tố viên coi như được uỷ quyền hành động của ông Chưởng lý. Một Thẩm phán buộc tội sau khi đệ bản kết luận viết theo lệnh trên có thể kết luận miệng theo ý riêng của mình.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể ra lệnh cho ông Chưởng lý phải hành động hay không được hành động, nhưng không có quyền thế vào ông Chưởng lý mà hành động.

MụC B - CáC PHẩM TRậT TRONG NGạCH THẩM PHáN

Điều thứ 52: Các phẩm trật trong các ngạch Thẩm phán ấn định theo bảng sau này:

 

 

 

 

 

 

I- Ngạch Thẩm phán Đệ nhị cấp

 

Các hạng

Thẩm phán xử án

Thẩm phán buộc tội

Hạng Nhất

Chánh nhất Toà Thượng thẩm

Chưởng lý Toà Thượng thẩm

Hạng nhì

Bậc nhất

Chánh án phòng Toà Thượng thẩm

Bậc nhì

Chánh án Toà Đệ nhị cấp Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn.

Bậc nhất

Phó Chưởng lý Toà Thượng thẩm

Bậc nhì

Biện lý Toà Đệ nhị cấp Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn.

Hạng ba

Hội thẩm Toà Thượng thẩm.

Thẩm lý Toà Thượng thẩm.

Hạng tư

Chánh án Toà Đệ nhị cấp hạng nhất.

Dự thẩm và Thẩm phán các Toà Đệ nhị cấp Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn.

Biện lý Toà Đệ nhị cấp hạng nhất.

Phó Biện lý các Toà Đệ nhị cấp Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn.

Hạng Năm

Chánh án Toà Đệ nhị cấp hạng nhì.

Dự thẩm và Thẩm phán Toà Đệ nhị cấp hạng nhất.

Biện lý Toà đệ nhị cấp hạng nhì.

Phó Biện lý Toà Đệ nhị cấp hạng nhất.

Hạng Sáu

Chánh án Toà Đệ nhị cấp hạng ba và hạng tư.

Dự thẩm Toà Đệ nhị cấp hạng nhì.

Biện lý Toà Đệ nhị cấp hạng ba và hạng tư.

Hạng Bảy

Thẩm phán dự khuyết.

Dự thẩm Toà Đệ nhị cấp hạng ba và hạng tư.

Thẩm phán tập sự.

Tham lý Toà Đệ nhị cấp.

 

 

II- Ngạch Thẩm phán Sơ cấp

Các Hạng

Chức việc

Ngoại hạng

Hạng Nhất

Hạng Nhì

Hạng Ba

Hạng Tư

Hạng Năm

Chánh Toà Sơ cấp các thành phố to

Chánh Toà sơ cấp hạng nhất.

Chánh Toà sơ cấp hạng nhì.

Chánh Toà sơ cấp hạng ba.

Chánh Toà sơ cấp hạng tư.

Thẩm phán tập sự.

TIếT THứ NHì: TUYểN Bổ CáC THẩM PHáN

MụC A - CáCH TUYểN Bổ Về SAU NàY

Điều thứ 53: Vào ngạch Thẩm phán, phải đủ ba điều kiện chung:

1- Có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông, đàn bà.

2- Hạnh kiểm tốt.

3- Chưa can án bao giờ.

Điều thứ 54: Vào ngạch Thẩm phán Sơ cấp (hạng năm) phải ít nhất 21 tuổi, có bằng Tú tài, và trúng tuyển một kỳ thi.

 

Các người có bằng Luật khoa Tú tài (tức là có hai phần cử nhân) có thể bổ thẳng vào hạng ba không phải thi. Nếu có Luật khoa Cử nhân, thì có thể bổ thẳng vào hạng nhất.

Điều thứ 55: Vào ngạch Thẩm phán đệ nhị cấp (hạng bẩy), phải ít nhất 24 tuổi, có bằng Luật khoa cử nhất, và trúng tuyển một kỳ thi.

Những Thẩm phán Sơ cấp hạng nhất, tuy không có bằng Cử nhân luật, cũng có thể dự kỳ thi để lên ngạch Thẩm phán đệ nhị cấp; song chỉ tuyển những người ấy vào một phần năm số khuyết.

Điều thứ 56: Một Hội đồng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp cử sẽ xét hạnh kiểm và năng lực các người xin làm Thẩm phán.

 

Danh sách các người được ứng thi hay được bổ dụng thẳng sẽ do bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định theo lời đề nghị của Hội đồng.

Điều thứ 57: Các Thẩm phán đệ nhị cấp sẽ do một Sắc lệnh của vị Chủ tịch nước Việt Nam bổ nhiệm, còn các Thẩm phán Sơ cấp sẽ do nghị định Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.

MụC B - CáCH TUYểN Bổ TạM THờI

Điều thứ 58: Tạm thời, cách tuyển bổ các Thẩm phán định như sau này:

 

Điều thứ 59: Có thể bổ dụng làm Thẩm phán Sơ cấp, nhưng phải đủ điều kiện chung nói trong điều thứ 53 trên đây, và phải ít nhất 21 tuổi:

1- Các người tốt nghiệp năm thứ nhất trường Luật, khoa Đại học (một phẩn Cử nhân luật).

2- Các Tham tá lục sự.

3- Các Tham tá thông ngôn ngạch tư pháp.

4- Các quan lại cũ đã từng làm Thẩm phán.

5- Các Lục sự Toà Nam án Đệ nhị cấp cũ.

6- Các Viên chức ngách trung đẳng có bằng Cao đẳng tiểu học mà đã làm chuyên môn về Tư pháp được 5 năm.

7- Các người có bằng tú tài.

8- Các Viên chức ngạch cao đẳng không chuyên môn về tư pháp.

Nếu cần sẽ mở một kỳ thi, hay những lớp huấn luyện chuyên môn để bổ khuyết học vấn của các Thẩm phán ngạch này.

Điều thứ 60: Ngoài các hạng người kể trong Điều thứ 59 trên này, các Thẩm phán sơ cấp sẽ tuyển trong những người đã quá một trường "Tư pháp" do nghị định Bộ trưởng Bộ Tư pháp tổ chức.

 

Điều thứ 61: Có thể bổ dụng làm Thẩm phán Đệ nhị cấp, nhưng phải ít nhất 21 tuổi, và có đủ điều kiện chung nói trong Điều thứ 53 trên đây:

1- Các người có bằng Luật khoa cử nhân.

2- Các người tốt nghiệp trường Pháp chính (Ecole de Droit et d—administration); trường Cao đẳng cũ (Ecole des Hautes Etudes Indochinoises); hay có bằng Luật học Đông Dương (Certificat d—Etudes Juridiques Indochinoises), mà đã làm việc Nhà nước ít nhất là 5 năm.

3- Các Tham tá lục sự đã làm việc được 5 năm.

4- Các Quan lại cũ có bằng Tú tài mà đã từng làm Thẩm phán trong 5 năm.

5- Các tham tá thông ngôn và các Lục sự toà Nam án Đệ nhị cấp đã làm việc được 10 năm.

Điều thứ 62: Một Hội đồng, gồm có các hội viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp cử sau khi hỏi ý kiến Hội đồng Chính phủ, sẽ xét các đơn xin vào ngạch Thẩm phán, và lập danh sách các người đáng được bổ.

 

Danh sách ấy sẽ mang ra Hội đồng Chính phủ duyệt y.

Điều thứ 63: Một Hội đồng xét về phương diện chuyên môn, do Bộ trưởng Bộ Tư pháp cử sau khi hỏi ý kiến Hội đồng Chính phủ, sẽ ấn định phẩm trật và nơi làm việc của các Thẩm phán được bổ dụng.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ theo quyết nghị của Hội đồng mà ra nghị định bổ nhiệm.

Điều thứ 64: Các người được tuyển bổ có thể phải qua một thời kỳ tập sự.

 

Một nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ tổ chức việc tập sự ấy.

MụC C - BấT NăNG KIêM NHIệM

Điều thứ 65: Các người thân thuộc, thích thuộc cho đến bậc chú cháu, bác cháu, hay cậu cháu, không thể cùng làm Thẩm phán trong một toà, trừ phi vị Chủ tịch nước Việt Nam cho phép miễn trừ riêng.

Dù có miễn trừ, các người ấy cũng không thể làm cùng một phòng trong Toà Thượng thẩm.

Điều thứ 66: Một Thẩm phán không thể xét xử một việc mà người thay mặt hay Luật sư của người đương sự là thân thuộc hay thích thuộc của mình cho đến bậc thứ ba.

 

Điều thứ 67: Chức vụ Thẩm phán không thể kiêm nhiệm được với một nghề nghiệp hay nhiệm vụ công tư nào khác, trừ chức giáo sư trường Đại học hay trường Trung học của Nhà nước.

Điều thứ 68: Các Thẩm phán có thể làm hội viên các Hội đồng nhân dân.

 

Nhưng nếu được bầu vào một Uỷ ban hành chính, thì phải hoặc từ chối không vào, hoặc từ chức Thẩm phán.

TIếT THứ BA - ĐặC QUYềN CáC THẩM PHáN

MụC A - THăNG CHứC

Điều thứ 69: Thẩm phán ở một hạng chỉ có thể thăng lên hạng ngay ở trên.

Trong ngạch Đệ nhị cấp, các Thẩm phán hạng ba có thể lên ngay bậc nhất trong hạng nhì, và trong hạng nhì, Thẩm phán bậc nhì có thể lên bậc nhất, hoặc lên thẳng hạng nhất.

Điều thứ 70: Muốn được thăng lên trật trên, các Thẩm phán phải ít nhất đã được hai năm thâm niên trong trật hiện tại, và phải được ghi tên vào bảng thăng thưởng.

 

Điều thứ 71: Cách lập bảng thăng thưởng cho các Thẩm phán Đệ nhị cấp:

Cuối năm, Chánh nhất và Chưởng lý toà Thượng thẩm, mỗi vị trong phạm vị quyền hạn của mình, lập danh sách các Thẩm phán xử án và buộc tội trong quản hạt Toà Thượng thẩm đáng được thăng trật.

Danh sách này sẽ đệ lên một Hội đồng thăng thưởng chung cho cả ba Kỳ mà cách tổ chức sẽ định sau.

Hội đồng thăng thưởng, họp vào cuối năm, sẽ xét danh sách các Thẩm phán được tư thăng và xem cả hồ sơ lý lịch các Thẩm phán đủ điều kiện mà không được tư, rồi lập bảng thăng thưởng theo thứ tự hơn kém.

Vị Chủ tịch nước Việt Nam sẽ căn cứ vào bảng thăng thưởng ấy mà không ra Sắc lệnh thăng bổ.

Điều thứ 72: Cách lập bảng thăng thưởng cho các Thẩm phán Sơ cấp:

 

Cuối năm, Chánh án và Biện lý các Toà Đệ nhị cấp lập danh sách các Thẩm phán Sơ cấp trong quản hạt đáng được thăng trật rồi đệ lên Toà Thượng thẩm. Chưởng lý sẽ từ danh sách ấy và các hồ sơ ra một Hội đồng thăng thưởng của Kỳ gồm có:

- Chánh nhất Toà Thượng thẩm Kỳ Chủ tịch

- Chưởng lý Toà thượng thẩm Kỳ Hội viên

- Một vị đại diện cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hội viên

- Một Hội thẩm Toà Thượng thẩm Hội viên

- Hai Chánh án Toà Đệ nhị cấp hạng nhất Hội viên

- Một Biện lý Toà Đệ nhị cấp hạng nhất Hội viên

Hội đồng thăng thưởng sẽ xét danh sách các Thẩm phán được tư thăng, cùng hồ sơ các Thẩm phán đủ điều kiện nhưng không được tư, lập bảng thăng thưởng theo thứ tự hơn kém.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ theo thứ tự bảng ấy mà ra nghị định thăng bổ.

Điều thứ 73: Phàm Thẩm phán nào đã được ghi tên vào bảng mà chưa được thăng ngay thì đến năm sau, lại có quyền được tự nhiên ghi tên vào bảng năm ấy.

Điều thứ 74: Hội đồng thăng thưởng có thể xoá tên đã ghi vào bảng, khi có duyên cớ chính đáng.

 

MụC B - ĐặC QUYềN TàI PHáN

Điều thứ 75: Không ai có thể bắt bớ, giam cầm một Thẩm phán bất cứ vì lẽ gì, nếu không được Bộ trưởng Bộ Tư pháp thoả thuận trước.

Điều thứ 76: Nếu một Thẩm phán can trọng tội hay khinh tội thì Chưởng lý Toà Thượng thẩm tự mình, hay giao cho một Thẩm phán trong Công tố viện, đi điều tra, rồi đệ trình hồ sơ lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp để vị này quyết định có nên hay không nên truy tố.

 

Nếu nên truy tố, thì Chưởng lý thừa lệnh Bộ trưởng, đưa thẳng viên chức can tội ra trước Toà Thượng thẩm. Toà này sẽ xử chung thẩm.

Điều thứ 77: Phàm các đơn kiện hay cáo giác các Thẩm phán, can trọng tội hay khinh tội, mà do các cơ quan hành chính hay tư pháp nhận được, thì sẽ gửi thẳng lên Chưởng lý Toà Thượng thẩm.

Điều thứ 78: Nếu người phạm tội là Chánh nhất hay Chưởng lý thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp xét có nên truy tố hay không. Nếu phải truy tố thì việc sẽ do một Thẩm phán của Công tố viện Toà Thượng thẩm thừa lệnh Bộ trưởng Bộ Tư pháp đưa ra xử chung thẩm tại Toà Thượng thẩm họp tất cả các phòng.

 

MụC C - LươNG BổNG

Điều thứ 79: Lương bổng các Thẩm phán sẽ do một nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định sau khi thoả hiệp với Bộ trưởng Bộ Tài chính.

TIếT THứ Tư: NGHĩA Vụ CáC THẩM PHáN

MụC A - NGHĩA Vụ Về CHứC NGHIệP

Điều thứ 80: Các Thẩm phán không thể lấy cớ gì, ngoài trường hợp cáo tị và hồi tị, mà từ chối không xét xử một việc nào.

 

Điều thứ 81: Các Thẩm phán không được tự đặt ra luật lệ mà xử đoán.

Điều thứ 82: Các Thẩm phán không thể bào chữa các việc bằng miệng hay bằng giấy nếu không phải việc của mình, việc của vợ con, hay của thân thuộc, thích thuộc về trực hệ của mình, hay của một đứa trẻ vị thành niên mà mình làm giám hộ.

 

Điều thứ 83: Các Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên toà, xét xử thật nhanh chóng và thật công minh.

Thanh liêm là một đức tính thiêng liêng của các Thẩm phán Việt Nam ngày nay.

Điều thứ 84: Trong đời tư cũng như đời công, các Thẩm phán phải cư xử đúng mực và biết tự trọng để giữ thanh danh và phẩm cách một vị quan toà.

 

Điều thứ 85: Các Thẩm phán phải tôn trọng Chính phủ và trung thành với Chính thể dân chu cộng hoà.

MụC B - NGHĩA Vụ Về Cư Sở Và NGHỉ PHéP

Điều thứ 86: Các Thẩm phán bắt buộc phải ở nơi có Trụ sở của Toà án mình làm việc.

 

Điều thứ 87: Các Thẩm phán toà Sơ cấp, và các Thẩm phán toà Đệ nhị cấp (trừ Chánh án và Biện lý) nếu nghỉ dưới một tuần lễ phải xin phép Chánh án và Biện lý Toà Đệ nhị cấp.

Nếu nghỉ trên một tuần lễ và dưới một tháng, thì phải xin phép các ông Chánh nhất hay Chưởng lý Toà Thượng thẩm.

Nếu nghỉ trên một tháng, phải được ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho phép.

Điều thứ 88: Các Chánh án và Biện lý các Toà Đệ nhị cấp, và các Thẩm phán Toà Thượng thẩm (trừ Chánh nhất và Chưởng lý) nếu nghỉ 15 ngày trở xuống thì phải xin phép ông Chánh nhất hay Chưởng lý Toà Thượng thẩm.

 

Nếu nghỉ trên 15 ngày, phải được ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho phép.

Điều thứ 89: Các Chánh nhất và Chưởng lý Toà Thượng thẩm nghỉ, phải xin phép ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

MụC C - TUYêN THệ

Điều thứ 90: Khi bắt đầu nhậm chức, các Thẩm phán phải tuyên thệ. Về sau, lúc thuyên chuyển, không cần phải tuyên thệ lại. Duy từ toà cấp dưới lên toà cấp trên, phải tuyên thệ lần nữa.

 

Vị nào được bổ làm Chánh nhất hay Chưởng lý Toà Thưởng thẩm bao giờ cũng tuyên thệ lại.

Điều thứ 91: Các Thẩm phán Toà Thượng thẩm tuyên thệ trước toà ấy họp công khai đủ các phòng do Chánh nhất chủ toạ, Chưởng lý ngồi ghế Công tố viện và Chánh Lục sự giữ bút ký.

Các Thẩm phán Toà Đệ nhị cấp tuyên thệ trước phòng hộ Toà Thượng thẩm.

Các Thẩm phán Sơ cấp tuyên thệ trước Toà Đệ nhị cấp.

Điều thứ 92: Các Thẩm phán Toà Đệ nhị cấp nếu vì xa xôi hay ngăn trở mà không thể đến thề trước Toà Thượng thẩm được, thì có thể viết nhời thề ra giấy gửi về Toà Thượng thẩm. Toà này sẽ xác nhận lời thề ấy và lập biên bản.

 

Điều thứ 93: Các ông Chánh nhất và Chưởng lý đầu tiên của nước Việt Nam sẽ tuyên thệ trước ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp thay mặt Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Hai vị này nếu ở xa có thể tuyên thệ bằng thư gửi về ông Bộ trưởng xác nhận.

Các vị Thẩm phán đầu tiên khác của nước Việt Nam trong Toà Thượng thẩm sẽ tuyên thệ trước các ông Chánh nhất và Chưởng lý.

Điều thứ 94: Lời thề của các Thẩm phán:

 

"Tôi thề sẽ trung thành với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tôi thề sẽ mang hết sức và công tâm ra phụng sự chức vụ của tôi, sẽ giữ khẩn mật những cuộc thẩm nghị, và luôn luôn cử xử cho xứng đáng là một vị Thẩm phán cương trực và đủ tư cách".

TIếT THứ NăM: Kỷ LUậT

Điều thứ 95: Trong quản hạt Toà Đệ nhị cấp, Chánh án và Biện lý kiểm soát các Thẩm phán sơ cấp và cảnh cáo các viên ấy khi họ phạm lỗi.

Điều thứ 96: Trong quản hạt Toà Thượng thẩm, Chánh nhất đối với các Thẩm phán xử án, và Chưởng lý đối với các Thẩm phán buộc tội có quyền kiểm soát và cảnh cáo.

 

Điều thứ 97: Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền giám sát tất cả các Thẩm phán các ngạch, khiển trách các viên ấy khi họ phạm lỗi, và đòi hỏi đến để chất vấn, về các hành vi của họ.

Điều thứ 98: Khi một Thẩm phán sơ cấp phạm lỗi nặng thuộc về kỷ luật, Chánh án hay Biện lý toà án tỉnh sẽ trình với Chưởng lý Toà Thượng thẩm. Vị này, sau khi nghe viên Thẩm phán phạm lỗi biện bạch, xét có nên truy tố hay không. Nếu cần phải truy tố, thì Chưởng lý làm tờ trình và tư việc ra trước một Hội đồng kỷ luật gồm có:

 

Chánh nhất Toà Thượng thẩm Chủ tịch

Chưởng lý Toà Thượng thẩm

(hay Phó Chưởng lý thay mặt) Hội viên

Một hội thẩm Toà thượng thẩm Hội viên

Một Chánh án Toà Đệ nhị cấp hạng nhất Hội viên

Một Biện lý Toà Đệ nhị cấp hạng nhất Hội viên

và hai Thẩm phán ngang chức với viên

Thẩm phán bị truy tố Hội viên

Hội đồng, kể cả ông Chưởng lý, sẽ quyết nghị kín, sau khi nghe tờ trình của Chưởng lý và hội viên Thẩm phán bị cáo.

Điều thứ 99: Khi một Thẩm phán Đệ nhị cấp phạm lỗi nặng, Chánh nhất hay Chưởng lý Toà Thượng thẩm, tuỳ theo viên Thẩm phán phạm lỗi thuộc vào ngạch xử án hay buộc tội, sẽ xem xét có nên truy tố hay không.

Nếu việc cần phải truy tố, các vị ấy, sau khi hỏi viên Thẩm phán, làm một tờ trình rồi tư việc ra Hội đồng kỷ luật gồm có tất cả các Thẩm phán xử án và buộc tội trong Toà Thượng thẩm thêm một Chánh án và một Biện lý Toà Đệ nhị cấp do ông Chánh nhất cử ra.

Điều thứ 100: Các ông: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh nhất, và Chưởng lý Toà Thượng thẩm đều có quyền truy tố một Thẩm phán phạm lỗi ra trước Hội đồng kỷ luật.

 

Điều thứ 101: Nếu Thẩm phán phạm lỗi lại là Chánh nhất hay Chưởng lý Toà Thượng thẩm, thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp nếu xét cần, làm một tờ trình rồi tư việc ra Hội đồng Chính phủ xét xử.

Điều thứ 102: Các Hội đồng kỷ luật nói trên có thể quyết định cách trừng phạt sau này, theo thứ tự nặng, nhẹ:

 

1) Khiển trách không.

2) Khiển trách ghi vào lý lịch.

3) Đổi vì kỷ luật.

4) Tạm huyền chức và trừ nửa hay cả lương.

5) Bắt buộc phải về hưu trí.

6) Cách chức.

Điều thứ 103: Hai trừng phạt trên (1 và 2) sẽ do Chưởng lý ra mệnh lệnh thi hành.

Còn bốn trừng phạt dưới (3, 4, 5, và 6) sẽ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra nghị định duyệt y, nếu Thẩm phán phạm lỗi thuộc vào ngạch sơ cấp, hay do vị Chủ tịch nước Việt Nam ra Sắc lệnh duyệt y, nếu Thẩm phán phạm lỗi thuộc ngạch Đệ nhị cấp.

Điều thứ 104: Trước khi duyệt y, vị Chủ tịch hay Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể giao lại việc cho Hội đồng kỷ luật xét lại lần thứ hai. Quyết nghị của Hội đồng lần nay sẽ không thay đổi.

 

TIếT THứ SAU: TạM QUYềN, ĐổI CHứC Vị, Y PHụC

MụC A - TạM QUYềN

Điều thứ 105: Nếu khuyết một chức Thẩm phán dưới một tháng, Chánh nhất hay Chưởng lý Toà Thượng thẩm, mỗi vị trong phạm vi quyền hạn của mình, sẽ ra mệnh lệnh bổ người đi tạm quyền.

Điều thứ 106: Nếu khuyết một chức Thẩm phán trên một tháng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi hỏi ý kiến Đại hội đồng Toà Thượng thẩm (nếu người khuyết là một Thẩm phán đệ nhị cấp) hay hỏi ý kiến Chánh nhất và Chưởng lý (nếu người khuyết là một Thẩm phán sơ cấp) sẽ ra nghị định cử người đi tạm quyền, chọn trong các Thẩm phán bằng trật hay kém trật người khuyết, và thuộc quản hạt Toà Thượng thẩm.

 

Điều thứ 107: Nếu khuyết chức Chánh nhất hay Chưởng lý Toà Thượng thẩm, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra Nghị định bổ người tạm quyền, sau khi hỏi ý kiến Đại Hội đồng Toà Thượng thẩm và Hội đồng Chính phủ.

Điều thứ 108: Trong việc bổ đi tạm quyền, một Thẩm phán sơ cấp có thể tạm thay một Thẩm phán đệ nhị cấp. Một Thẩm phán buộc tội có thể tạm thay một Thẩm phán xử án hay trái lại.

 

MụC B - ĐổI CHứC Vị

Điều thứ 109: Một Thẩm phán xử án có thể xin sang chức vị Thẩm phán buộc tội, và trái lại, một Thẩm phán buộc tội có thể sang bên Thẩm phán xử án.

Hội đồng thăng thưởng nói ở Điều thứ 71 trên đây, sẽ xét các đơn xin đổi chức vị. Ngoài trường hợp có đơn xin, Hội đồng còn có thể quyết nghị việc đổi chức vị theo lời đề nghị của một hội viên.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp căn cứ vào quyết nghị của Hội đồng thăng thưởng, sẽ ra nghị định cho đổi chức vị.

MụC C - Y PHụC

Điều thứ 110: Y phục các Thẩm phán Toà Thượng thẩm và Toà Đệ nhị cấp sẽ, theo quốc tế, là áo dài đen tay rộng, giải trắng có nếp ở trước ngực, giải đen có lông trắng quàng trên vai bên trái.

 

Các Thẩm phán sơ cấp không có y phục riêng, nhưng sẽ đeo một dấu hiệu, do nghị định Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định.

TIếT THứ BẩY: TổNG Lệ

Điều thứ 111: Các khoản luật lệ trái với Sắc lệnh này đều bãi bỏ.

Điều thứ 112: Các Sắc lệnh, các nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, và của các Uỷ ban nhân dân, bổ dụng các Thẩm phán trước ngày ban hành Sắc lệnh này, đều có tính cách tạm thời.

 

Điều thứ 113: Sắc lệnh này sẽ do nghị định Bộ trưởng Bộ Tư pháp thi hành tuỳ tiện, và áp dụng dân dần trong nước.

Điều thứ 114: Bộ trưởng Bộ Tư pháp chịu uỷ nhiệm thi hành Sắc lệnh này.

 

Ngày 24 tháng 1 năm 1946

 

Phó thự: Hồ chí minh (đã ký)

Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Vũ trọng khánh

----------------------------------

3. Thông lệnh số 12 NV-CT ngày 29/12/1946 về tổ chức tư pháp trong tình thế đặc biệt

1/ ở mỗi khu, Bộ trưởng tư pháp sẽ đặt một giám đốc tư pháp để trông coi việc tư pháp trong khu và giúp ý kiến cho Uỷ ban bảo vệ khu. Uỷ ban này mỗi khi ra quyết nghị gì có liên quan đến tư pháp, bắt buộc phải hỏi ý kiến của giám đốc tư pháp. Giám đốc tư pháp đặt dưới quyền kiểm soát của uỷ ban bảo vệ khu, và trong trường hợp không liên lạc được với trung ương thì giám đốc tư pháp đặt dưới quyền điều khiển của Uỷ ban bảo vệ khu.

2/ Uỷ ban bảo vệ khu có uỷ nhiệm để thi hành quyền công tố sau khi hỏi ý kiến giám đốc tư pháp. Các biện lý và công cáo uỷ viên đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Uỷ ban bảo vệ khu. Các uỷ ban bảo vệ tỉnh, huyện (phủ hay châu) và xã không có quyền ra lệnh cho các toà án. ở trường hợp không liên lạc được với nhau, thì Uỷ ban bảo vệ khu có thể tạm uỷ quyền cho Uỷ ban bảo vệ tỉnh để ra lệnh cho biện lý và công cáo uỷ viên thuộc quản hạt uỷ ban bảo vệ tỉnh sau khi nghe các ông này bày tỏ ý kiến. Khi liên lạc được thì uỷ quyền ấy sẽ hết hiệu lực.

3/ ở mỗi khu sẽ đặt một hay nhiều toà án quân sự. Các Bộ trưởng Tư pháp và Nội vụ có thể uỷ quyền cho uỷ ban bảo vệ khu để lập các toà án quân sự.

4/ Nếu có sự tương tranh giữa toà án quân sự và toà án thường thì Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu, Chánh án toà án quân sự và giám đốc tư pháp họp thành Hội đồng phân định thẩm quyền. Chủ tịch Hội đồng là Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu.

5/ ở các toà án thường, nếu tình thế bắt buộc, Chánh án sau khi thoả thuận với biện lý và Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ tỉnh, có thể xử một mình các việc hình mà không cần có phụ thẩm nhân dân hay chuyên môn.

6/ Nếu vì một lẽ gì, toà án thường không thể tiếp tục công việc xử án được, việc xử những phạm pháp sẽ do quyết định của Uỷ ban bảo vệ khu mà giao cho toà án quân sự. Còn xử các việc hộ hoặc thương mại sẽ đình chỉ, trừ những việc cấp tốc thì sẽ do hội thẩm chuyên môn toà án quân sự xét xử bằng mệnh lệnh.

- Trong những trường hợp này, những thời hạn hình thức định trong các luật tố tụng hoặc trong các khế ước của tư nhân, cùng các thời hiệu sẽ tạm thời đình chỉ thi hành. Sau này, sắc lệnh sẽ định rõ điều kiện để tiếp tục thi hành các thời hạn.

Trái lại, nếu toà án quân sự không thể tiếp tục công việc xử án được, thì Uỷ ban bảo vệ khu sẽ giao những việc thuộc thẩm quyền toà án này cho toà án thường.

7/ Tuỳ theo tình thế, Bộ trưởng Tư pháp sẽ ra nghị định tạm đình chỉ công việc xử án của toà Thượng thẩm ở mỗi kỳ.

Trong trường hợp này:

a/Về việc tiểu hình và đại hình, can phạm vẫn có quyền kháng cáo trong thời hạn đã định nhưng các bản án sẽ cứ được tạm thi hành trừ án xử tử thì phải theo thủ tục định ở Điều 8. Tuy nhiên, bị can nào đã ký kháng cáo có quyền đệ đơn xin hoãn thi hành để được tại ngoại, lên giám đốc tư pháp. Ông này sau khi đồng ý với Uỷ ban bảo vệ khu, sẽ quyết định hoặc bác, hoặc y đơn xin tại ngoại và nếu tuỳ theo trường hợp có thể bắt bị can ký quỹ một số tiền hay bất động sản.Về sau này khi toà thường thẩm tiếp tục công việc thì can phạm nào đã kháng cáo, có thể xin toà thượng thẩm phúc lại các án đó.

b/ Về việc hộ - Các mệnh lệnh cấp tốc sẽ được thi hành ngay dù có sự kháng cáo nào, người được kiện được phép của toà án cho tạm thi hành. Trong trường hợp này toà án có thể bắt người xin thi hành tạm ký quỹ một số tiền hoặc bất động sản.

 

8/ Việc ân giảm và ân xá tội nhân trong tình thế đặc biệt đã quy định trong Sắc lệnh số 4-SL ngày 28/12/1946.

9/ Các toà án sơ cấp vẫn phải giữ đủ dù gặp tình thế nào. Tuy nhiên, nếu vì một lẽ gì mà khuyết một thẩm phán sơ cấp, Uỷ ban bảo vệ khu sẽ cắt cử một thẩm phán sơ cấp để thay theo đề nghị của giám đốc tư pháp, và nếu không cử được thẩm phán đó, thì sẽ giao Uỷ ban hành chính huyện, phủ hay châu tạm làm công việc tư pháp theo Sắc lệnh 18/2/1946.

Ngày 29 tháng 12 năm 1946

 

Bộ trưởng Bộ Tư pháp

 

Vũ Đình Hoè (đã ký)

----------------------------------

4. Thông tư số 12B NV-CT ngày 29/12/1946 giải thích rõ công việc tư pháp trong một khu, địa vị và nhiệm vụ giám đốc tư pháp

I/ Trong một khu, Uỷ ban bảo vệ khu là cơ quan cao nhất nắm hết quyền hành để tập trung được mọi phương tiện giữ gìn đất nước.

Bởi vậy, viên giám đốc tư pháp do Bộ trưởng Tư pháp và Chưởng lý điều khiển cũng đặt cả dưới quyền kiểm soát của Uỷ ban bảo vệ khu. Và khi mất liên lạc với Bộ Tư pháp và Chưởng lý thì viên ấy sẽ chịu sự điểu khiển của Uỷ ban bảo vệ khu.

Kiểm soát là xét về hạnh kiểm của giám đốc tư pháp và công việc của viên ấy (có mẫn cán, có theo đúng chỉ thị của thượng cấp không). Điều khiển là ra mệnh lệnh để giám đốc tư pháp tuân hành.

a. Trong trường hợp có liên lạc với Bộ Tư pháp và Chưởng lý, các mệnh lệnh của bộ và chưởng lý sẽ chuyển qua Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu xuống cho giám đốc tư pháp thi hành. Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu nhận được các mệnh lệnh ấy thì hoặc giao ngay cho giám đốc tư pháp, hoặc giữ lại để thảo luận trong Uỷ ban bảo vệ khu để uỷ ban này định kế hoạch thi hành cho giám đốc tư pháp.

b. Trong trường hợp mất liên lạc, Uỷ ban bảo vệ khu có thể ra mệnh lệnh cho giám đốc tư pháp tuân hành.

Thế nào là mất liên lạc và ai là người nhận định tình hình ấy?

Liên lạc chậm chễ, khó khăn không phải là mất liên lạc.

Chỉ mất liên lạc khi nào muốn đi từ Uỷ ban bảo vệ khu đến Bộ Tư pháp, phải qua những nơi đang tác chiến, mà viên chỉ huy quân sự nơi ấy cấm không cho đi.

Khi một khu mất liên lạc với Chính phủ thì Uỷ ban bảo vệ khu ấy phải ra một quyết định nhận định tình thế ấy (sau khi hỏi ý kiến của tất cả các giám đốc chuyên môn, tư pháp v.v…của khu)

II/ Giám đốc tư pháp là một nhà chuyên môn đại diện cho Bộ Tư pháp ở trong khu. Bởi thế:

1/ Mỗi khi bàn định việc gì có liên can đến tư pháp, dù trong trường hợp còn giữ được hay đã mất liên lạc với Bộ Tư pháp thì Uỷ ban bảo vệ khu cũng phải hỏi ý kiến của giám đốc tư pháp trước.

a. Uỷ ban bảo vệ khu có thể quyết định trái với ý kiến của giám đốc tư pháp. Nhưng nếu quyết định mà không hỏi ý kiến của giám đốc tư pháp thì quyết định ấy vô giá trị: giám đốc tư pháp và các toà án sẽ không thi hành.

b. Hỏi ý kiến theo hình thức nào?

- Uỷ ban bảo vệ khu hỏi và giám đốc tư pháp trả lời bằng công văn.

- Uỷ ban bảo vệ khu hoặc một nhân viên của uỷ ban ấy bàn miệng với giám đốc tư pháp rồi hoặc có làm biên bản hoặc Uỷ ban bảo vệ khu chỉ ra quyết định có ghi rằng đã có sự thoả thuận của giám đốc tư pháp hay đã hỏi ý kiến viên ấy.

Khi giám đốc tư pháp không đồng ý với Uỷ ban bảo vệ khu thì có thể yêu cầu Uỷ ban khu ghi lý do bất đồng ý kiến ấy vào biên bản, hoặc trao cho Uỷ ban khu một thơ ghi những lý do ấy mà Uỷ ban bảo vệ khu sẽ ký nhận. Như thế thì giám đốc tư pháp tránh trách nhiệm về một quyết định của uỷ ban khu mà mình không bằng lòng.

Uỷ ban bảo vệ khu phải hỏi ý kiến của giám đốc tư pháp trước khi quyết định. Nếu hỏi sau thì giám đốc tư pháp có thể từ chối không thi hành.

Tuy nhiên, có những trường hợp khẩn cấp hoặc không quan trọng mà Uỷ ban bảo vệ khu ra quyết nghị rồi mới chuyển sang giám đốc tư pháp, lấy ý kiến, nếu viên này đồng ý thì ký dưới quyết nghị, như thế quyết nghị có đủ hiệu lực. Nếu viên này không đồng ý thì quyết nghị trở nên vô giá trị.

2/ Giám đốc tư pháp do Bộ Tư pháp cử ra.

Nếu trong khi kiểm soát viên ấy, Uỷ ban bảo vệ khu có điều không bằng lòng thì uỷ ban thông tri lên Chưởng lý hoặc Bộ trưởng Tư pháp để hai vị này quyết định (xếp bỏ, khiển trách, đổi…)

Trong trường hợp mất liên lạc với Bộ Tư pháp thì uỷ ban khu có quyền khiển trách thẳng hoặc truất vị viên giám đốc tư pháp mà thay người khác vào. Khi truất một giám đốc tư pháp thì bắt buộc uỷ ban khu phải tìm một viên thẩm phán hoặc một người có cử nhân luật hay một người trước kia đã ngồi xử án mà thay vào. Dù ở trường hợp nào, giám đốc tư pháp cũng có quyền trần tình và phản kháng lên chưởng lý và Bộ Tư pháp.

3/ Giám đốc tư pháp báo cáo với chưởng lý và Bộ Tư pháp biết tình hình tư pháp trong khu của mình và những điều bất đồng ý kiến với UBBV khu cùng mọi điều nhận xét có ích cho sự điều khiển tư pháp.

Tờ trình ấy sẽ gửi thẳng lên chưởng lý và bộ trưởng Bộ Tư pháp (hoặc bằng phương tiện của mình, hoặc nhờ phương tiện của uỷ ban khu). Nhưng một bản sao phải đạt cho uỷ ban khu.

4/ Giám đốc tư pháp có nhiệm vụ duy trì và tổ chức các toà án. Đại khái có những vấn đề sau này.

a. Người: duy trì toà sơ cấp theo điều 9 của thông lệnh, còn toà đệ nhị cấp thì có thể thu ít số Thẩm phán. Lục sự và các nhân viên phụ thuộc có thể để biện lý thoả thuận với uỷ ban tỉnh bộ; bổ do nghị định của uỷ ban. Nhưng thẩm phán thì phải do Bộ tư pháp bổ, hay uỷ ban khu, nếu mất liên lạc với Bộ Tư pháp.

b. Tiền: làm thật đơn giản bộ máy làm việc (một người nên kiêm nhiều việc). Tiền tiêu hỏi ở uỷ ban bảo vệ khu. Tiền tiêu về toà án quân sự do UBBV khu lo liệu. Tiền tiêu về toà án tỉnh do UBHC lo liệu. Tiền tiêu về toà án sơ cấp do UBHC huyện lo liệu.

c. Thanh tra: công việc này rất cần vì ngoài mục đích xem xét và kiểm soát, giám đốc tư pháp sẽ cố gắng giữ vững tinh thần các thẩm phán và nhân viên tư pháp. Hỏi han giúp đỡ, giải thích đưa tin v.v.

Giám đốc sẽ ghi công trạng, cho điểm các thẩm phán để về sau Bộ Tư pháp biết đến.

III/ Giám đốc tư pháp làm trung gian giữa uỷ ban khu và cơ quan tư pháp. Phải cho UBBV khu biết những sự cần thiết của toà án cũng như cho các thẩm phán biết những điểm hệ trọng của UBBV khu.

Guồng máy tư pháp mà chạy ăn nhịp với công việc UBBV khu, là nhờ ở tài khéo léo của giám đốc.

Cần cho thẩm phán hiểu rằng UBBV khu không độc đoán và cho uỷ ban khu hiểu rằng thẩm phán không phản động.

Cần hiểu rằng uỷ ban khu giữ vận mệnh của đất nước, nên việc tư pháp là phụ thuộc vào để giúp uỷ ban khu trong công cuộc chung ấy.

Những vấn đề chuyên môn đã giải quyết trong Thông lệnh

I/ Uỷ ban bảo vệ khu có uỷ nhiệm của các Bộ trưởng Tư pháp và Nội vụ, chưởng lý, để thi hành quyền công tố tại toà án thường và toà án quân sự

a. Uỷ ban bảo vệ khu muốn thi hành quyền công tố phải ra lệnh viết cho biện lý, hay công cáo uỷ viên, sau khi hỏi ý kiến giám đốc tư pháp. Biện lý và công cáo uỷ viên phải thảo cáo trạng theo lệnh ấy, nhưng lúc nói được phát biểu ý kiến riêng của mình.

b. Uỷ ban khu không thể thay thế vào biện lý hay công cáo uỷ viên để truy tố. Nhưng có thể uỷ cho giám đốc tư pháp nhiệm vụ truy tố ở những nơi không có biện lý và chỉ có thể uỷ cho giám đốc tư pháp thôi.

Uỷ ban bảo vệ tỉnh khi được uỷ quyền của UBBV khu để ra lệnh cho biện lý và công cáo uỷ viên cũng theo nguyên tắc ấy.

II/ Điều 5 – Khi nào không thể họp được phụ thẩm nhân dân hay chuyên môn, thì ông chánh án có thể xử một mình.

Phải có một quyết nghị chung do chủ tịch UBBV khu, biện lý và chánh án cùng ký.

Điều 6- Những việc cấp tốc là thế nào?

a) Ông chánh án không bị những điều luật tố tụng về mệnh lệnh khẩn cấp giàng buộc. Ông ấy sẽ quyết định tính cách cấp tốc của vụ kiện theo sự phân đoán xem:

- Việc nếu hoãn lâu lại có hại cho quyền lợi của bên nào một cách quá đáng và không chữa được phải giải quyết ngay.

- Sự giải quyết của mệnh lệnh khẩn cấp ấy chỉ là tạm thời chứ không phạm đến tình lý công việc: tình lý công việc phải do một bản án sau này phân định.

Thí dụ: mệnh lệnh khẩn cấp cho phép Ô. Mỗ gặt ngay lúa để khỏi bị hư hại không phải là quyết định rằng Ô. Mỗ có quyền sở hữu về chỗ lúa ấy.

b) Khi toà án quân sự xử việc thường hay toà thường xử việc quân sự thì toà nào cứ theo tố tụng của toà ấy, nhưng tội trạng phải định theo luật quân sự hay luật hình tuỳ theo việc thuộc về loại nào.

Một điều cần nhớ luôn:

Trong tình thế đặc biệt này, nhiệm vụ chính của các thẩm phán là góp sức vào công cuộc giữ cho đời sống của nhân dân ở hậu phương khỏi bị rối loạn để quân binh được rảnh rang chiến đấu.

Vậy các thẩm phán phải tuỳ cơ ứng biến, không có sách vở dụng cụ cùng biên bản làm việc: dàn xếp giải thích, xử theo công bằng mà không cố chấp về lệ luật cùng tố tụng.

Sở dĩ làm thế được là vì các hoạt động đều thu hẹp lại từng khu nhỏ, và thu giản dị lại, nên những lệ luật chung cần thiết cho sự sinh hoạt của cả một dân tộc nay không cần thiết nữa.

Ngày 29 tháng 12 năm 1946

 

Bộ trưởng Bộ Tư pháp

 

vũ đình hoè (Đã ký)

----------------------------------

5. Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp

và luật tố tụng

Tờ trình

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

Kính thưa Cụ Chủ tịch,

Bộ tôi trân trọng trình Cụ Chủ tịch Dự án Sắc lệnh tạm cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng hiện hành, trong khi chờ cải tổ toàn thể bộ máy.

Dự án sắc lệnh nhằm những mục đích chính sau đây:

A.- Về tổ chức Tư pháp:

Bộ máy Tư pháp cần được dân chủ hoá:

1/ Thành phần nhân dân cần được đa số trong việc xét xử;

2/ Hội thẩm nhân dân được ngồi xử cả việc Hình lẫn việc Hộ và có quyền biểu quyết;

3/ Hội đồng Hoà giải;

Nhiệm vụ chính của cơ quan Tư pháp không những là xét xử mà còn là hoà giải những vụ xích mích ở địa phương để bớt sự tranh tụng.

Sự thành lập Hội đồng hoà giải tại mỗi huyện có mục đích giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hoà giải tất cả các việc Hộ kể cả việc ly dị mà từ trước tới nay chỉ có Chánh án Toà án tỉnh mới có thẩm quyền.

Biên bản hoà giải thành có chấp hành lực: đây là một điều tiến bộ đối với thể lệ cũ. Khi các đương sự đã thoả thuận trước hội đồng hoà giải thì việc hoà giải được đem thi hành ngay.

4/ áo chùng đen của Thẩm phán và Luật sư nay bỏ đi.

B.- Về thẩm quyền.

Việc cải cách có mục đích làm nhẹ bộ máy Tư pháp để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn. Vì vậy:

1/ Cần tăng thẩm quyền cho Ban Tư pháp xã về việc phạt vi cảnh. Một số việc ít quan trọng về mặt trị an sẽ được giải quyết mau chóng ngay tại xã, và uy tín của Ban Tư pháp xã được tăng lên.

2/ Để có thể giải quyết mau chóng những việc cấp bách về mặt Hộ, tránh sự thiệt hại cho đương sự và khỏi tổn phí cho đương sự phải lên Toà án tỉnh, cần giao cho Toà án nhân dân huyện quyền ấn định các phương pháp bảo thủ, dù việc xử kiện không thuộc thẩm quyền Toà án nhân dân huyện.

c.- Về tố tụng:

Thủ tục tố tụng cần được hợp lý hơn và giản dị hơn:

1/ Trái với quan niệm xưa cho rằng việc Hộ thường chỉ có lợi hoặc có hại riêng cho tư nhân nên xã hội không cần can thiệp đến, thì nay Công tố Viện có quyền kháng cáo các án Hộ nếu xét ra cần thiết.

2/ Hiện thời theo Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946, Biện lý bắt buộc phải đưa sang phòng Dự thẩm để thẩm cứu một số việc Hình dù rằng xét ra không cần thiết. Nay dự án Sắc lệnh giao cho Biện lý quyền xét định một hồ sơ có cần phải thẩm cứu thêm hay không và biện lý chỉ giao sang phòng Dự thẩm khi xét thật cần thiết mà thôi.

3/ Từ trước tới nay, mỗi khi thủ tục tố tụng không được theo đúng thì bị tiêu huỷ dù không có hại cho việc thẩm cứu, hoặc cho quyền lợi của đương sự. Sự quá câu nệ về hình thức không còn hợp thời nữa.

4/ Chế độ dân sự nguyên cáo ghi trong Sắc lệnh Số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946 và 131 ngày 20 tháng 7 năm 1946 nên bãi bỏ. Từ nay, người bị thiệt hại về một vụ phạm pháp có thể xin kháng cáo không những để tăng tiền bồi thường mà còn để tăng hình phạt nữa.

5/ Việc chấp hành án này giao cho Thẩm phán huyện phụ trách

Nếu Cụ Chủ tịch chuẩn y, kính xin Cụ ký duyệt Sắc lệnh đính theo.

Ngày 10 tháng 5 năm 1950

K.T. Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Thứ trưởng

Trần Công Tường

(Đã ký)

 

Sắc lệnh

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

Chiểu Sắc lệnh Số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946 và các Sắc lệnh tiếp sau tổ chức các toà án,

Chiểu Sắc lệnh Số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946 và các Sắc lệnh tiếp sau ấn định thẩm quyền các toà án,

Chiểu đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,

Theo quyết nghị của Hội đồng Chính phủ, sau khi ban Thường trực Quốc hội thoả thuận;

Ra Sắc lệnh:

Chương I:

Tổ chức

Điều 1.- Toà án sơ cấp nay gọi là Toà án nhân dân huyện, Toà án đệ nhị cấp nay gọi là Toà án nhân dân tỉnh, Hội đồng phúc án nay gọi là Toà Phúc thẩm, Phụ thẩm nhân dân nay gọi là Hội thẩm nhân dân.

Điều 2.- Khi xét xử hoặc bào chữa thẩm phán và luật sư không mặc áo chùng đen.

 

Điều 3.- Để xử việc Hình và việc Hộ, toà án nhân dân huyện và toà án nhân dân tỉnh gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; toà Phúc thẩm gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân.

Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết.

Hội thẩm nhân dân được hưởng đặc quyền tài phán như các thẩm phán và lương bổng như các uỷ viên UBKCHC cấp tương đương.

Hội thẩm nhân dân dự khuyết được hưởng phụ cấp vãng phản và phụ cấp lưu trú như các hội viên Hội đồng nhân dân tỉnh đi họp Hội đồng nhân dân.

Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân là một năm.

Điều 4.- Hàng năm, mỗi hội đồng nhân dân xã sẽ bầu ba vị ở trong hoặc ngoài Hội đồng nhân dân để lập danh sách Hội thẩm nhân dân huyện. Những vị trong danh sách này sẽ bầu ra hai Hội thẩm nhân dân chính thức và một hội thẩm nhân dân dự khuyết.

 

Điều 5.- Hàng năm, mỗi Hội đồng nhân dân tỉnh sẽ bầu từ hai đến sáu Hội thẩm nhân dân chính thức và một đến hai Hội thẩm nhân dân dự khuyết.

Điều 6.- Hàng năm, mỗi Hội đồng nhân dân tỉnh trong liên khu bầu sáu vị ở trong hoặc ngoài Hội đồng nhân dân tỉnh để lập một danh sách các Hội thẩm nhân dân liên khu.

 

Những vị trong danh sách này sẽ bầu ra từ ba đến chín Hội thẩm nhân dân chính thức và từ một đến ba Hội thẩm nhân dân dự khuyết.

Chương II

Ban Tư pháp xã - Thẩm quyền

Điều 7.- Ban tư pháp xã có quyền xử:

a/ Chung thẩm:

1.- Những vụ vi cảnh phạt bạc từ 5 đồng đến 30 đồng

2.- Những việc đòi bồi thường hoặc bồi hoàn từ 300 đồng trở xuống do người bị thiệt hại thỉnh cầu trong đơn kiện, hay chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra xử.

b/ Sơ thẩm:

Những việc đòi bồi thường hoặc bồi hoàn quá 300 đồng do người bị thiệt hại thỉnh cầu trong đơn kiện hay lúc xử.

Điều 8.- Đơn xin thủ tiêu án vi cảnh của Ban Tư pháp xã sẽ do Toà án nhân dân tỉnh xét xử.

 

Chương III

Toà án nhân dân huyện - Hoà giải - Thẩm quyền

Điều 9.- Toà án nhân dân huyện họp thành hội đồng hoà giải để thử hoà giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả các việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình.

Điều 10.- Biên bản hoà giải thành là một công chính chứng thư, có thể đem chấp hành ngay. Tuy nhiên, cho đến lúc biên bản hoà giải được chấp hành xong, nếu Biện lý xét biên bản ấy phạm đến trật tự chung, thì có quyền yêu cầu toà án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ những điều mà hai bên đã thoả thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày phòng Biện lý nhận được biên bản hoà giải thành.

 

Điều 11.- Nếu hoà giải bất thành mà toà án có thẩm quyền chưa quyết định gì, thì hội đồng hoà giải có thể tạm thời cho thi hành những phương pháp bảo thủ cần thiết. Toà án nhân dân huyện phải đệ trình ngay hồ sơ cùng biên bản hoà giải bất thành ghi việc cho thi hành những phương pháp bảo thủ lê Toà án có thẩm quyền. Toà án này sẽ duyệt y, sửa chữa hay bác bỏ những phương pháp bảo thủ nếu xét không cần thiết nữa.

Điều 12.- Người nào khác với người đương sự, xét mình bị thiệt hại vì biên bản hoà giải thành, có quyền đệ đơn yêu cầu Toà án nhân dân huyện ra mệnh lệnh hoãn việc chấp hành biên bản hoà giải ấy.

 

Người bị thiệt hại phải đệ đơn trong hạn 15 ngày tròn sau khi biết biên bản hoà giải thành có điều khoản thiệt hại đến quyền lợi của mình hoặc sau khi biết sự chấp hành biên bản này.

Điều 13.- Toà án nhân dân huyện có quyền xử chung thẩm những án sơ thẩm của Ban Tư pháp xã bị kháng cáo, hoặc những vụ phạm pháp vi cảnh mà Ban Tư pháp xã xét cần xử phạt giam, hoặc những vụ tái phạm vi cảnh.

Điều 14.- Trong trường hợp cấp bách, toà án nhân dân huyện có quyền tuyên án ấn định các phương pháp bảo thủ đối với những vụ kiện không thuộc thẩm quyền toà án nhân dân huyện. Nếu người đương sự kháng cáo bản án nói trên, thì trong ngày nhân được đơn kháng cáo, toà án huyện phải gửi hồ sơ đến toà án có thẩm quyền. Toà án này trong hạn 3 ngày, sau khi nhận được hồ sơ sẽ tuyên án hoặc y, hoặc cải, hoặc bác bản án của toà án nhân dân huyện.

 

Việc kháng cáo nói trên không hoãn sự thi hành bản án của Toà án nhân dân huyện.

Chương IV

Tố tụng

Điều 15.- Công tố viện có quyền kháng cáo về việc Hộ cũng như về việc Hình.

Điều 16.- Biện lý chỉ chuyển sang phòng dự thẩm điều tra thêm một vụ phạm pháp nếu xét cần.

 

Điều 17.- Toà án chỉ thủ tiêu một phần hay toàn thể thủ tục nếu xét một hay nhiều hình thức ghi trong luật tố tụng Hình hoặc Hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền lợi của đương sự.

Trong trường hợp này, toà án đương xử vụ kiện vẫn giữ hồ sơ để tiếp tục xét xử và cử một thẩm phán để chỉ huy việc làm lại thủ tục.

Điều 18.- Về việc hình, người bị thiệt hại nào đã đệ đơn kiện thì có quyền kháng cáo để xin tăng hình phạt, tiền bồi thường và khoản bồi hoàn. Nhưng nếu người đó vì ác ý mà kháng cáo, thì toà án có thể tự mình hoặc theo lời thỉnh cầu của bị can mà bắt người ký đơn kháng cáo phải bồi thường một số tiền tương đương với sự thiệt hại đã gây ra về vật chất cũng như về tinh thần.

 

Điều 19.- Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án bộ, mà chính toà án huyện hoặc toà án trên đã tuyên.

Việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do toà án huyện phụ trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau thì Biện lý sẽ chỉ định một thẩm phán huyện để việc phát mại đó vừa có lợi cho chủ nợ lẫn người mắc nợ.

Điều 20.- Bộ trưởng Bộ Tư pháp chiểu Sắc lệnh thi hành.

 

Ngày 22 tháng 5 năm 1950

Hồ Chí Minh

(Đã ký)

 

Tiếp ký:

K.T. Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Thứ trưởng

Trần Công Tường

------------------------------------

6. Nghị định số 256-TTg ngày 1 tháng 7 năm 1959 quy định nhiệm vụ và tổ chức của Viện Công tố

Thủ tướng chính phủ

Căn cứ nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ 8 trong phiên họp ngày 29 tháng 4 năm 1959 về việc thành lập Viện Công tố và hệ thống công tố tách khỏi Bộ Tư pháp, đặt Viện Công tố trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ và có trách nhiệm và quyền hạn ngang một Bộ:

Căn cứ đề nghị của ông Viện trưởng Viện Công tố trung ương.

Nghị định

Điều 1. Nay quy định nhiệm vụ Viện Công tố như sau:

Nhiệm vụ chung của Viện Công tố là giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật Nhà nước, truy tố theo luật hình những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của người công dân, bảo đảm cho công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi.

Nhiệm vụ cụ thể của Viện Công tố là:

Điều tra và truy tố trước toà án những kẻ phạm pháp về hình sự;

Giám sát việc chấp hành luật pháp trong công tác điều tra của cơ quan điều tra;

Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc xét xử của các toà án;

Kiểm sát việc chấp hành luật pháp trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động của cơ quan giam giữ và cải tạo;

Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.

Điều 2. Trong việc chấp hành các nhiệm vụ trên, Viện Công tố có trách nhiệm áp dụng những biện pháp thích đáng theo pháp luật để xử mọi hành vi phạm pháp, mọi phần tử phạm pháp.

 

Điều 3. Hệ thống công tố gồm có:

Viện Công tố trung ương;

Viện Công tố địa phương các cấp;

Viện Công tố quân sự các cấp.

Điều 4. Viện Công tố có Viện trưởng, Viện phó và một số Công tố uỷ viên.

 

Viện trưởng, Viện phó và Công tố uỷ viên lập thành Uỷ ban Công tố có trách nhiệm xử lý những vấn đề quan trọng thuộc công tác công tố dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng.

Điều 5. Tổ chức Viện Công tố trung ương gồm:

- Văn phòng;

- Vụ Giám sát điều tra;

- Vụ Giám sát xét xử;

- Vụ Giám sát giam giữ và cải tạo;

- Các Phòng nghiệp vụ do Viện trưởng Viện Công tố trung ương thành lập sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

Điều 6. Tổ chức Viện Công tố quân sự các cấp sẽ quy định sau.

 

Điều 7. Ông Viện trưởng Viện Công tố trung ương, ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

Hà nội, ngày 1 tháng 7 năm 1959

Thủ tướng Chính phủ

Phạm Văn Đồng (Đã ký)

--------------------------------

7. Nghị định số 381-TTg ngày 20 tháng 10 năm 1959 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Toà án nhân dân tối cao

Thủ tướng Chính phủ

Căn cứ nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ 8 thành lập Toà án nhân dân tối cao và hệ thống toà án tách khỏi Bộ Tư pháp, đặt Toà án nhân dân tối cao thuộc Hội đồng Chính phủ và có trách nhiệm và quyền hạn ngang một Bộ;

Căn cứ nghị quyết của Hội nghị Thường vụ Hội đồng Chính phủ ngày 9 tháng 9 năm 1959.

Nghị định

Điều 1. Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.

 

Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương và Toà án dân sự các cấp.

Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Toà án nhân dân tối cao là:

1. Xử sơ thẩm, chung thẩm những vụ án mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao và những vụ án mà đặc biệt Viện Công tố trung ương hoặc Toà án nhân dân tối cao thấy phải do Toà án nhân dân tôí cao xét xử.

2. Xử phúc thẩm, chung thẩm những vụ án do Toà án cấp dưới xử sơ thẩm trong các trường hợp có kháng nghị của cơ quan Công tố hoặc của đương sự.

3. Xử lại hoặc chỉ thị cho Toà án cấp dưới xử lại những vụ án đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có sai lầm.

4. Duyệt lại án tử hình.

Ngoài ra Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ:

1. Nghiên cứu đường lối chính sách xét xử.

2. Nghiên cứu các đạo luật về hình sự và dân sự, hướng dẫn các Toà án áp dụng pháp luật, đường lối chính sách, thi hành các thủ tục hình sự và dân sự, vạch chương trình công tác, kiểm tra công tác xét xử, tổng kết kinh nghiệm công tác xét xử của Toà án các cấp.

3. Quản lý cán bộ và biên chế ngành Toà án theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế.

Điều 2. Toà án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án và Thẩm phán.

Chánh án, các Phó Chánh án và Thẩm phán lập thành Uỷ ban Thẩm phán, chịu trách nhiệm về việc giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc công tác của Toà án nhân dân tối cao.

Điều 3. Tổ chức Toà án nhân dân tối cao gồm có:

 

- Toà Hình sự 1

- Toà Hình sự 2

- Toà Dân sự

- Toà Quân sự

- Văn phòng

và một số phòng giúp việc do Chánh án Toà án nhân dân tối cao thành lập sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

Điều 4. Các ông Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

Hà nội, ngày 20 tháng 10 năm 1959

K.T. Thủ tướng Chính phủ

Phó Thủ tướng

Trường Chinh (Đã ký)

-------------------------------------

8. Nghị định số 01-CP ngày 11 tháng 2 năm 1960 quy định nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp.

Hội đồng Chính phủ

Căn cứ đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp;

Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp Hội nghị thường vụ của Hội đồng Chính phủ ngày 9/9/1959;

Nghị định

Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp là:

 

1. Nghiên cứu những quy định về hệ thống tổ chức và thẩm quyền của Toà án nhân dân địa phương các cấp, của Tư pháp ở xã; hướng dẫn việc thực hiện các quy định ấy.

2. Nghiên cứu và dự thảo các bộ luật và các đạo luật tổng hợp về dân sự, hình sự và thủ tục tố tụng.

3. Chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm mục đích giáo dục cho nhân dân ý thức tuân theo pháp luật.

4. Nghiên cứu những quy định về Hội thẩm nhân dân, về tổ chức luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên, và quản lý các tổ chức ấy.

5. Đào tạo và giáo dục cán bộ Toà án và cán bộ Tư pháp.

6. Quản lý cán bộ và biên chế của ngành Tư pháp theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế.

7. Hướng dẫn, kiểm tra và tổng kết công tác của ngành tư pháp.

Điều 2. Tổ chức của Bộ Tư pháp gồm có:

Vụ Tổ chức cán bộ,

Vụ Tuyên giáo,

Vụ Nghiên cứu pháp luật,

Trường cán bộ tư pháp,

Văn phòng, và một số Phòng giúp việc do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định thành lập sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

Điều 3. ở các khu, tỉnh, thành phố sẽ thành lập các cơ quan Tư pháp.

 

Điều 4. Công tác toà án và công tác tư pháp liên quan mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, cho nên các cơ quan Toà án và cơ quan Tư pháp từ trung ương đến địa phương phải phối hợp chặt chẽ với nhau để làm tròn nhiệm vụ do Nhà nước giao cho.

Điều 5. Ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

 

Hà nội, ngày 11 tháng 2 năm 1960

T.M. Hội đồng Chính phủ

Thủ tướng Chính phủ

Phạm Văn Đồng (Đã ký)

----------------------------------

9. Quyết định số 06 ngày 15-03-1960 về tổ chức Bộ tư pháp

Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 29 tháng 4 năm 1958 thành lập Viện Công tố trung ương và Toà án nhân dân tối cao;

Căn cứ Nghị định số 1-CP ngày 11-02-1960 của Hội đồng Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và khung tổ chức chung của Bộ Tư pháp;

Xét cần thiết phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cụ thể của các bộ phận trong cơ quan,

Quyết định:

Điều 1.- Tổ chức của Bộ tư pháp gồm có những bộ phận sau đây:

1. Vụ tổ chức – cán bộ

2. Vụ Nghiên cứu pháp luật

3. Vụ Tuyên giáo

4. Trường cán bộ tư pháp

5. Văn phòng

Điều 2.- Nhiệm vụ và tổ chức của Vụ tổ chức cán bộ

A. Nhiệm vụ của Vụ tổ chức – cán bộ là:

1. Nghiên cứu những quy định, giúp Bộ hướng dẫn việc thực hiện ở các địa phương, tổng kết kinh nghiệm về những vấn đề sau đây:

- Hệ thống tổ chức, thẩm quyền, tổ chức nội bộ của các Toà án nhân dân địa phương; thiết lập các Toà án nhân dân địa phương; những thể lệ về bầu cử, bãi miễn các thẩm phán các Toà án nhân dân địa phương.

- Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của Hội thẩm nhân dân, luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên; quản lý các tổ chức ấy.

- Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của tổ chức tư pháp ở xã, ở khu phố.

2. Nghiên cứu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp địa phương, giúp Bộ quản lý cán bộ và biên chế của ngành Tư pháp theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế chung.

3. Dự thảo các đạo luật tổng hợp và các Bộ luật về thủ tục tố tụng hình sự và dân sự; giúp Bộ hướng dẫn việc thực hiện các nguyên tắc về thủ tục tố tụng ở các Toà án nhân dân địa phưoưng; tổng kết kinh nghiệm về việc thực hiện thủ tục tó tụng ở các Toàa án nhân dân địa phương.

B. Tổ chức của Vụ Tổ chức – Cán bộ gồm có: phòng Tổ chức cán bộ và phòng Chế định.

Phòng tổ chức – cán bộ có nhiệm vụ nghiên cứu, theo dõi và tổng kết kinh nghiệm về những vấn đề sau đây:

 

1. Hệ thống tổ chức, thẩm quyền và tổ chức nội bộ của các Toà án nhân dân địa phương; những thể lệ về bầu cử và bãi miễn các Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương;

2. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương, giúp Bộ quản lý cán bộ và biên chế của các cơ quan tư pháp theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế chung.

3. Thủ tục tố tụng về hình sự và dân sự ở các Toà án nhân dân địa phương.

Phòng Chế định có nhiệm vụ nghiên cứu, theo dõi và tổng kết kinh nghiệm về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của Hội thẩm nhân dân, luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên và tổ chức tư pháp ở xã, khu phố; giúp Bộ quản lý tổ chức luật sư và công chứng viên; hướng dẫn các địa phương huấn luyện các cán bộ tư pháp xã và khu phố, các Hội thẩm nhân dân và bào chữa viên.

Điều 3.- Nhiệm vụ và tổ chức của Vụ nghiên cứu pháp luật

A. Nhiệm vụ của Vụ Nghiên cứu pháp luật là tổng kết kinh nghiệm về thi hành pháp luật hình sự và dân sự để dự thảo các đạo luật tổng hợp về hình sự và dân sự và bộ hình luật, bộ dân luật; sưu tầm những pháp luật về hình sự và dân sự đã được ban hành để làm tài liệu nghiên cứu cho các Toà án và cơ quan tư pháp.

 

B. Tổ chức của Vụ nghiên cứu pháp luật gồm có: Phòng Hình luật và phòng Dân luật.

Phòng Hình luật có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm về thi hành pháp luật về hình sự để dự thảo các đạo luật tổng hợp về hình sự và bộ hình luật

 

Phòng Dân luật có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm về thi hành các luật lệ về dân sự nhằm dự thảo các đạo luật tổng hợp về dân sự và bộ dân luật.

Điều 4.- Nhiệm vụ và tổ chức của Vụ Tuyên giáo.

 

A. Nhiệm vụ của Vụ tuyên giáo là:

1. Nghiên cứu chương trình và kế hoạch đào tạo, giáo dục cán bộ Toà án và cán bộ tư pháp, giúp Bộ chỉ đạo công tác đào tạo, giáo dục cán bộ toà án và cán bộ tư pháp địa phương.

2. Chỉ đạo công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở các địa phương.

B. Tổ chức của Vụ Tuyên giáo gồm có: Phòng Giáo dục và Phòng tuyên truyền phổ biến pháp luật.

 

Phòng Giáo dục có nhiệm vụ:

- Nghiên cứu chưong trình kế hoạch giáo dục, huấn luyện các thẩm phán, thư ký toà án và cán bộ tư pháp địa phương.

- Nghiên cứu, tổ chức, theo dõi và tổng kết kinh nghiệm về học tập nghiệp vụ tại chức của cán bộ toà án và cán bộ tư pháp địa phương.

- Theo dõi việc học tập ở Trường Cán bộ tư pháp để giúp Bộ lãnh đạo công tác của Trường cán bộ tư pháp

- Biên soạn tài liệu học tập nghiệp vụ cho cán bộ toà án và cán bộ tư pháp địa phương

- Phiên dịch các tài liệu pháp lý nước ngoài để làm tài liệu nghiên cứu cho các bộ phận của Bộ, các Toà án và cơ quan tư pháp địa phương.

- Quản lý thư viện, sưu tầm các tài liệu nghiên cứu để cung cấp cho các bộ phận nghiên cứu của Bộ.

Phòng Tuyên truyền phổ biến pháp luật có nhiệm vụ:

- Nghiên cứu, theo dõi và tổng kết kinh nghiệm về kế hoạch tuyên truyền phổ biến pháp luật để giáo dục cho nhân dân ý thức tuân theo và tôn trọng pháp luật của Nhà nước.

- Biên soạn tài liệu để tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nước.

- Biên soạn tài liệu để giới thiệu các toà án và cơ quan tư pháp của nước ta với các nước ngoài.

- Xuất bản các tài liệu giúp cho việc học tập của cán bộ toà án và cán bộ tư pháp và các tài liệu vèe tuyên truyền phổ biến pháp luật.

Điều 5.- Nhiệm vụ và tổ chức của trường cán bộ tư pháp.

 

A. Nhiệm vụ của trường cán bộ tư pháp là huấn luyện về chính trị và nghiệp vụ cho các cán bộ toà án và cán bộ tư pháp từ Thẩm phán huyện hoặc tương đương thẩm phán huyện trở lên.

B. Tổ chức của trường Cán bộ tư pháp gồm có: Phòng Giáo vụ và Phòng tổ chức – hành chính.

Phòng Giáo vụ có nhiệm vụ nghiên cứu việc thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy ở trường, bố trí giảng viên, theo dõi và hướng dẫn việc học tập của các học viên, tổng kết kinh nghiệm các lớp học.

Phòng tổ chức – hành chính có nhiệm vụ kiểm tra tiêu chuẩn học viên, sắp xếp tổ chức học viên, theo dõi, lãnh đạo tư tưởng và thái độ học tập của học viên, quản lý lý lịch của học viên trong khi học tập và phụ trách những công tác văn thư, hành chính, quản trị của nhà trường.

Điều 6.Nhiệm vụ và tổ chức của Văn phòng

A. Nhiệm vụ của Văn phòng là giúp ông Bộ trưởng và ông Thứ trưởng trong việc tổng hợp tình hình công tác mọi mặt của Bộ, điều hoà, phối hợp công tác giữa các bộ phận của Bộ, theo dõi, nhắc nhở thực hiện chương trình công tác của Bộ, thực hiện chế độ và chương trình sinh hoạt của Bộ, theo dõi, nhắc nhở và phối hợp công tác giữa các bộ phận về công tác miền núi; nghiên cứu những công tác mà không có bộ phận nào phụ trách; phụ trách công tác thi đua; phụ trách các công tác tài chính, kế toán, quản trị và bảo vệ cơ quan.

B. Tổ chức của Văn phòng gồm có: Phòng Hành chính – tổng hợp và Phòng Kế toán – quản trị.

Phòng Hành chính – tổng hợp có nhiệm vụ tổng hợp tình hình công tác của Bộ về mọi mặt, điều hoà, phối hợp công tác giữa các bộ phận của Bộ, theo dõi, nhắc nhở việc thực hiện chương trình công tác của Bộ, thực hiện chương trình về chế độ sinh hoạt của Bộ, theo dõi, nhắc nhở và phối hợp công tác của các bộ phận về công tác miền núi; nghiên cứu những công việc mà không có bộ phận nào phụ trách và phụ trách công tác thi đua.

Phòng Kê toán – quản trị phụ trách các công việc tài chính, kế toán, quản trị và bảo vệ cơ quan.

Điều 7. – Các ông Chánh Văn phòng và Giám đốc các Vụ, Giám đốc trường cán bộ tư pháp có trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

Hà nội, ngày 15 tháng 3 năm 1960

 

Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Vũ Đình Hoè (Đã ký)

----------------------------------

10. Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14 tháng 7 năm 1961

Điều 1

Căn cứ vào chương VI của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, luật này quy định tổ chức của Hội đồng Chính phủ.

Điều 2

Hội đồng Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng và các Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ.

Thủ tướng Chính phủ và mỗi thành viên của Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm chung trước Quốc hội về toàn bộ công tác của Chính phủ, đồng thời chịu trách nhiệm riêng trước Quốc hội về phần công tác của mình.

Hội đồng Chính phủ tổ chức và lãnh đạo toàn bộ công tác trong phạm vi trách nhiệm của mình theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Điều 3

Các Bộ và cơ quan ngang Bộ hiện nay có:

- Bộ Nội vụ,

- Bộ Ngoại giao,

- Bộ Quốc phòng,

- Bộ Công an,

- Bộ Nông nghiệp,

- Bộ Nông trường,

- Bộ Thuỷ lợi và Điện lực,

- Bộ Công nghiệp nặng,

- Bộ Công nghiệp nhẹ,

- Bộ Kiến trúc,

- Bộ Giao thông và Bưu điện,

- Bộ Lao động,

- Bộ Tài chính,

- Bộ Nội thương,

- Bộ Ngoại thương,

- Bộ Văn hoá,

- Bộ Giáo dục,

- Bộ Y tế,

- Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước,

- Uỷ ban Khoa học Nhà nước,

- Uỷ ban Dân tộc,

- Uỷ ban Thanh tra,

- Uỷ ban Thống nhất,

- Ngân hàng Nhà nước.

Việc đặt thêm hoặc bãi bỏ Bộ và cơ quan ngang Bộ do Hội đồng Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn, giữa hai kỳ họp Quốc hội thì trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Điều 4

Tuỳ sự cần thiết, Hội đồng Chính phủ đặt những cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ hiện nay có:

- Tổng cục Địa chất,

- Tổng cục Lâm nghiệp,

- Tổng cục Thuỷ sản,

- Tổng cục Vật tư,

- Uỷ ban Liên lạc văn hoá với nước ngoài,

- Uỷ ban Thể dục thể thao trung ương.

Việc đặt thêm hoặc bãi bỏ cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ do Hội đồng Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Điều 5

Hội đồng Chính phủ có hai hình thức hội nghị: Hội nghị toàn thể và Hội nghị Thường vụ.

Hội nghị toàn thể của Hội đồng Chính phủ gồm toàn thể các thành viên của Hội đồng Chính phủ.

Hội nghị Thường vụ của Hội đồng Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó thủ tướng và Bộ trưởng Phủ Thủ tướng.

Những nghị quyết của Hội nghị Thường vụ của Hội đồng Chính phủ sẽ được báo cáo trước Hội nghị toàn thể của Hội đồng Chính phủ.

Các Thủ trưởng các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ dự Hội nghị toàn thể của Hội đồng Chính phủ, nhưng không có quyền biểu quyết.

Khi cần thiết, ngoài thành phần nói trên, những người hữu quan có thể được mời dự hội nghị của Hội đồng Chính phủ, nhưng không có quyền biểu quyết.

Điều 6

Những nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư và chỉ thị của Hội đồng Chính phủ phải được Hội nghị toàn thể của Hội đồng Chính phủ hoặc Hội nghị Thường vụ của Hội đồng Chính phủ thông qua.

Điều 7

Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Hội đồng Chính phủ và thay mặt Hội đồng Chính phủ chỉ đạo công tác của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và Uỷ ban hành chính các cấp.

Các Phó thủ tướng giúp Thủ tướng trong việc lãnh đạo chung và có thể được uỷ nhiệm thay Thủ tướng chỉ đạo từng khối công tác của Chính phủ.

Điều 8

Bộ máy làm việc của Hội đồng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ là Phủ thủ tướng. Phủ Thủ tướng gồm có:

- Văn phòng Phủ Thủ tướng, đứng đầu là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng có một hoặc nhiều Thứ trưởng giúp việc;

- Các Văn phòng nghiên cứu và theo dõi từng khối công tác của Chính phủ, đứng đầu là các Chủ nhiệm Văn phòng có một hoặc nhiều Phó chủ nhiệm giúp việc. Chủ nhiệm Văn phòng là một Bộ trưởng.

Điều 9

Mỗi Bộ có Bộ trưởng và một hoặc nhiều Thứ trưởng. Mỗi Uỷ ban Nhà nước có Chủ nhiệm, một hoặc nhiều Phó chủ nhiệm và một số uỷ viên.

Uỷ ban Thanh tra có Tổng thanh tra, một hoặc nhiều Phó tổng thanh tra và có thể có một số uỷ viên.

Ngân hàng Nhà nước có Tổng giám đốc và một hoặc nhiều Phó tổng giám đốc.

Điều 10

Bộ trưởng, Thủ tướng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ lãnh đạo toàn bộ công tác thuộc phạm vi trách nhiệm của mình và chịu trách nhiệm trước Hội đồng Chính phủ.

Điều 11

Thứ trưởng các Bộ, Phó thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Phó thủ trưởng cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ trong việc lãnh đạo chung và có thể được uỷ nhiệm thay Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan chỉ đạo từng phần công tác của Bộ hoặc của cơ quan.

Điều 12

Hội đồng Chính phủ bổ nhiệm và bãi miễn các nhân viên sau đây:

- Thủ trưởng các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ;

- Thứ trưởng Phủ Thủ tướng, Thứ trưởng các Bộ, Phó chủ nhiệm các văn phòng Phủ Thủ tướng, Phó chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, Phó tổng thanh tra, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước;

- Phó Thủ trưởng các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, Uỷ viên các Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng và Phó thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Phủ Thủ tướng, các Bộ và cơ quan ngang Bộ, Chánh văn phòng và Phó văn phòng các Bộ và cơ quan ngang Bộ;

- Những nhân viên giữ những chức vụ tương đương với các chức vụ nói trên.

Luật này đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ II, kỳ họp thứ nhất, thông qua ngày 14 tháng 7 năm 1960.

------------------------------------

11. Nghị định của Hội đồng Chính phủ số 190-CP ngày 9 tháng 10 năm 1972 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban pháp chế.

Hội đồng Chính phủ

Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14-7-1960;

Căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 133-NQ/QH/K4 ngày 14-9-1972 phê chuẩn việc thành lập Uỷ ban pháp chế của Hội đồng Chính phủ.

Nghị định

Điều 1. Uỷ ban Pháp chế là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý thống nhất công tác pháp chế của Hội đồng Chính phủ theo đường lối, chính sách của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước, làm cho pháp chế trở thành sức mạnh, uy quyền của Nhà nước dân chủ nhân dân trong việc quản lý kinh tế và các lĩnh vực công tác khác của Nhà nước và trong mọi mặt của đời sống xã hội, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và kỷ luật trong lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân, bảo vệ trật tự trị an; đề cao vai trò làm chủ tập thể của quần chính, tăng cường chuyên chính đối với bọn phản cách mạng và không ngừng mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đối với nhân dân.

 

Điều 2. Uỷ ban pháp chế có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

1. Về xây dựng pháp luật:

- Lập chương trình xây dựng pháp luật trình Hội đồng Chính phủ duyệt và phối hợp các ngành, các cấp thực hiện chương trình đó;

- Dự thảo những văn bản pháp luật (luật, pháp lệnh v..v..) mà Hội đồng Chính phủ uỷ nhiệm;

- Cùng với ngành trình Hội đồng Chính phủ xét duyệt những dự thảo văn bản pháp luật và trình Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định và ban hành;

- Hướng dẫn về mặt pháp chế cho các ngành, các cấp xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy;

- Thẩm tra và góp ý kiến đối với những bản dự án pháp luật và những văn bản pháp quy do các ngành khác do các cấp thảo ra để trình Hội đồng Chính phủ xét;

- Cùng các ngành hữu quan nghiên cứu và đề nghị sửa đổi pháp luật hoặc bãi bỏ những pháp luật đã mất hiệu lực, để trình Hội đồng Chính phủ xét và trình với Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định;

- Xem xét các văn bản pháp quy của các ngành, các cấp về mặt pháp chế và đề nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ, nếu thấy cần thiết;

- Phụ trách công tác hệ thống hoá pháp luật và chuẩn bị cho công tác pháp điển hoá;

- Xuất bản thành tập những luật lệ và pháp quy hiện hành.

2. Về thi hành pháp luật:

- Phối hợp các ngành để tuyên truyền, phổ biến pháp luật và hướng dẫn việc thi hành pháp luật;

- Theo dõi việc thi hành pháp luật ở các ngành, các cấp và trong nhân dân; đề nghị với Hội đồng Chính phủ những biện pháp thích hợp nhằm thúc đẩy việc thi hành đó.

3. Về xây dựng ngành pháp chế:

- Phối hợp với các ngành xây dựng bộ phận pháp chế ở các ngành và hướng dẫn về mặt nghiệp vụ cho các bộ phận đó;

- Hướng dẫn Uỷ ban hành chính các cấp xây dựng pháp chế ở các địa phương và chỉ đạo sự hoạt động của cơ quan đó về mặt nghiệp vụ.

4. Về công tác hành chính tư pháp:

- Phụ trách công tác hành chính tư pháp thuộc phạm vi chức năng của Uỷ ban pháp chế.

5. Về việc đào tạo cán bộ pháp lý:

- Tổ chức việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp chế;

- Phụ trách trường đào tạo cán bộ pháp lý của Nhà nước.

6. Về việc nghiên cứu khoa học pháp lý:

- Đặt kế hoạch nghiên cứu và xây dựng khoa học pháp lý Việt Nam và trình Hội đồng Chính phủ duyệt;

- Phối hợp các cơ quan nghiên cứu luật học của Nhà nước, tổ chức việc nghiên cứu khoa học pháp lý.

7. Về tổng kết công tác pháp chế:

Định kỳ tổng kết công tác pháp chế của Hội đồng Chính phủ và đề nghị với Hội đồng Chính phủ những biện pháp nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa của nước ta.

8. Công tác khác:

Phụ trách một số công tác pháp chế khác mà Hội đồng Chính phủ giao cho.

Điều 3. Chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế chịu trách nhiệm trước Hội đồng Chính phủ lãnh đạo toàn bộ công tác của Uỷ ban như Điều 2 đã quy định. Các Phó chủ nhiệm giúp Chủ nhiệm trong việc lãnh đạo chung và được Chủ nhiệm uỷ nhiệm chỉ đạo từng phần công tác của Uỷ ban.

 

Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, dựa vào pháp luật, các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị của Hội đồng Chính phủ, Chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế ra những Thông tư, Chỉ thị, Quyết định ấy.

Điều 4. Tổ chức bộ máy của Uỷ ban Pháp chế gồm có:

- Văn phòng,

- Vụ Dự thảo pháp luật chung và hệ thống hoá pháp luật,

- Vụ Pháp luật kinh tế,

- Vụ Hướng dẫn thi hành pháp luật,

- Vụ Hành chính tư pháp,

- Vụ Tuyên truyền phổ biến pháp luật,

- Vụ Tổ chức và cán bộ,

- Trường pháp lý,

- Viện nghiên cứu pháp lý.

Điều 5. Hệ thống tổ chức pháp chế ở các ngành, các cấp gồm có:

 

- Vụ Pháp chế, phòng pháp chế hoặc tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ;

- Sở Pháp chế, Ty Pháp chế, Phòng pháp chế ở khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Phòng hoặc tổ pháp chế ở huyện và các đơn vị tương đương;

- Tổ pháp chế hoặc cán bộ pháp chế ở cơ sở (xã, xí nghiệp và các đơn vị tương đương).

Việc thực hiện hệ thống tổ chức pháp chế sẽ tiến hành từng bước, tuỳ theo tình hình cụ thể của mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi cơ sở, theo phương châm gọn, nhẹ và có hiệu lực thật sự.

Điều 6. Đồng chí Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp chế có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể về tổ chức và hoạt động của các bộ phận pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, ở Uỷ ban hành chính các cấp.

Việc bổ nhiệm các trưởng, phó ty và giám đốc, phó giám đốc cơ quan pháp chế ở địa phương do Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định, sau khi đã có sự thoả thuận của Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp chế.

Điều 7. Các đồng chí Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp chế, Thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và Chủ tịch Uỷ ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

 

Hà nội, ngày 9 tháng 10 năm 1972

T.M. Hội đồng Chính phủ

Thủ tướng Chính phủ

Phạm Văn Đồng (Đã ký)

-----------------------------------------------

12. Nghị quyết 76/CP ngày 25 tháng 3 năm 1977 của Hội đồng chính phủ Về vấn đề hướng dẫn thi hành, và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước

Thi hành nghị quyết ngày 2 tháng 7 năm 1976 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, để đảm bảo cho mọi lĩnh vực hoạt động trong phạm vi cả nước đều có pháp luật, tăng cường ý thức tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo việc thi hành được thống nhất và sát hợp với tình hình thực tế; xuất phát từ yêu cầu sản xuất và đời sống;

Theo đề nghị của Uỷ ban Pháp chế của Hội đồng Chính phủ trong tờ trình số 73 –VPUB ngày 1 tháng 2 năm 1977;

Quyết nghị

I. Về việc hướng dẫn thi hành pháp luật hiện hành trong cả nước

1. Nay thông qua danh mục các văn bản pháp luật hiện hành (đính theo Nghị quyết này) do các Bộ và Uỷ ban Pháp chế đề nghị. Danh mục này gồm các văn bản pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hoặc Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hoà, và do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt nam đã ban hành từ trước tới nay để cho phổ biến và thi hành trong cả nước.

Danh mục này được lựa chọn gồm những vấn đề thiết yếu nhất, cấp bách nhất và có thể thi hành được ngay, để đưa vào quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế vào nền nếp, làm sao cho tất cả mọi ngành hoạt động đều có những pháp luật cần thiết.

Đối với các văn bản do các Bộ ban hành, Hội đồng Chính phủ giao trách nhiệm cho các đồng chí Bộ trưởng xem xét, lựa chọn, công bố và hướng dẫn thi hành. Trước hết, các Bộ cần chú ý chọn các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật của Quốc hội và của Chính phủ nói trên.

2. Giao trách nhiệm cho các Bộ, các ngành (dưới đây gọi tắt là các Bộ) như sau:

- Dựa trên danh mục các văn bản luật đã được Hội đồng Chính phủ thông qua, các Bộ có trách nhiệm nhanh chóng truyền đạt nội dung các văn bản nói trên hướng dẫn chu đáo viêcj thi hành, Toà ánổ chức các đợt huấn luyện cho cán bộ trong ngành và cho cán bộ các địa phương về các vấn đè do Bộ quản lý. Những điều mà nhân dân phải thi hành, thì các Bộ phải phổ biến rộng rãi trong nhân dân.

 

Trong khi hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật của Quốc hội và Chính phủ, gặp trường hợp phải bổ sung, sủa đổi ít nhiều, nếu là những việc thuộc thẩm quyền Bộ giải quyết thì Bộ ra văn bản hướng dẫn sau khi đã bàn bạc và lấy ý kiến của Uỷ ban Pháp chế và văn phòng Phủ Thủ tướng. Nếu là những việc thuộc thẩm quyền của Chính phủ hoặc Quốc hội giải quyết thì các bộ phải báo cáo với Chính phủ và đề nghị ý kiến của mình để Chính phủ hoặc Quốc hội giải quyết, không được tự ý quyết định.

3. Giao cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trách nhiệm phổ biến và hướng dẫn thi hành cho cán bộ và nhân dân trong địa phương mình những việc do địa phương phụ trách. Trong khi thi hành, nếu Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố vùng mới giải phóng phát hiện có điểm nào không thích hợp với địa phương mình mà cần xin sửa đổi, bổ sung hoặc muốn đề nghị hoãn cho thi hành một phần nào đó, thì phải báo cáo lên Hội đồng Chính phủ quyết định. Trong khi chờ đợi, vẫn phải thi hành nghiêm chỉnh, không được tự ý làm trái pháp luật của nhà nước. Các cơ quan giúp việc Hội đồng Chính phủ khi nhận được báo cáo và đề nghị của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải nhanh chóng nghiên cứu và đề nghị Chính phủ giải quyết kịp thời và trả lời cho chính quyền địa phương.

4. Giao cho Uỷ ban Pháp chế trách nhiệm phổ biến và hướng dẫn những văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực chung, không riêng Bộ nào phụ trách và giúp đỡ các Bộ về mặt pháp lý để việc phổ biến và hướng dẫn thi hành được đúng pháp luật.

5. Danh mục này được đăng trên công báo Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, các văn bản được xuất bản thành từng tập luật lệ, Uỷ ban pháp chế sẽ bàn cụ thể với các Bộ để định rõ những tập nào do các Bộ xuất bản, những tập nào do Uỷ ban pháp chế xuất bản.

Bộ văn hoá có trách nhiệm dành mọi sự ưu tiên về giấy, về nhà in để việc xuất bản các tập luật lệ này được nhanh chóng và kịp thời Uỷ ban Pháp chế sẽ bàn cụ thể với Bộ văn hoá với ý thức tiết kiệm giấy để thực hiện tốt kế hoạch xuất bản này.

Bộ tài chính dành cho các Bộ và Uỷ ban Pháp chế ngân sách để chi tiêu về kế hoạch này. Các Bộ và Uỷ ban Pháp chế phải tính toán và gửi dự trù đến Bộ Tài chính.

-------------------------------------

 

 

13. Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 143-HĐBT ngày 22 tháng 11 năm 1981 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp

Hội đồng Bộ trường

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4 tháng 7 năm 1981 và Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 3 tháng 7 năm 1981;

Căn cứ Nghị định số 35/CP ngày 9 tháng 2 năm 1981 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ trưởng và chức năng của Bộ trong một số lĩnh vực quản lý Nhà nước;

Theo đề nghị của đồng chí Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Nghị định

Điều 1. Bộ Tư pháp là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng giúp Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quản lý thống nhất các công việc về tư pháp trong cả nước, bao gồm công tác dự thảo pháp luật, quản lý về mặt tổ chức các toà án địa phương và các công tác tư pháp khác; công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa trong cán bộ và nhân dân; góp phần bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật; tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân.

Điều 2. Bộ tư pháp có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

 

1. Tổng hợp và trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định kế hoạch xây dựng các dự án pháp luật và hướng dẫn việc thực hiện kế hoạch đó; xây dựng hoặc tham gia với các ngành xây dựng các dự án pháp luật trình Hội đồng Bộ trưởng.

Hướng dẫn công tác hệ thống hoá pháp luật và từng bước tiến hành pháp điển hoá.

Thẩm tra và đề nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ các văn bản không phù hợp với pháp luật do các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng và các Uỷ ban nhân dân địa phương ban hành.

2. Quản lý về mặt tổ chức (cơ cấu, biên chế, nhân sự) và ngân sách các toà án địa phương.

Cùng với Toà án nhân dân tối cao tổng kết công tác xét xử.

Hướng dẫn việc bầu cử thẩm phán và hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân địa phương; tổ chức việc bồi dưỡng về chính trị và pháp lý cho thẩm phán và hội thẩm nhân dân.

3. Trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành, hoặc ban hành theo thẩm quyền của mình các quy chế về giám định tư pháp, chấp hành án, công chứng, lý lịch tư pháp và quy chế luật sư; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy chế đó.

4. Hướng dẫn về nghiệp vụ các tổ chức pháp chế của các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

5. Hướng dẫn hoặc tổ chức việc phối hợp các ngành về công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong cán bộ, nhân viên Nhà nước và nhân dân.

6. Trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định biên chế, tiêu chuẩn cán bộ, nhân viên của ngành tư pháp; đào tạo, bồi dưỡng và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý.

7. Nghiên cứu khoa học pháp lý phục vụ công tác xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật và các công tác khác của ngành tư pháp.

8. Cùng với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ tổ chức công tác thống kê tư pháp, tổng kết tình hình phạm tội, kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng xét duyệt và ban hành các chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm ngăn ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

9. Thực hiện việc hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp lý theo đường lối chính sách của Đảng và pháp luật cuả Nhà nước.

10. Quản lý cán bộ, tổ chức, biên chế, ngân sách, tài sản của Bộ.

Điều 3. Hệ thống tư pháp trong cả nước gồm có:

Bộ Tư pháp.

b) Sở Tư pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương.

c) Ban Tư pháp ở cấp quận, huyện, thị xã và các đơn vị hành chính tương đương.

d) Ban tư pháp ở cấp xã, phường và các đơn vị hành chính tương đương.

e) ở các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước và một số cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng có Vụ pháp chế.

ở các Sở chuyên môn, liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty, xí nghiệp có cố vấn pháp luật.

Điều 4. Bộ máy của Bộ Tư pháp gồm có:

 

1. Các vụ xây dựng pháp luật (tổ chức theo lĩnh vực cần thiết).

2. Vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật (có tạp chí của Bộ và Nhà xuất bản pháp lý).

3. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý.

4. Vụ quản lý toà án.

5. Vụ quản lý các tổ chức tư pháp khác.

6. Vụ tổ chức và cán bộ.

7. Vụ đào tạo.

8. Văn phòng.

9. Trường đại học pháp lý và các đơn vị trực thuộc khác của Bộ.

Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các Vụ, viện, trường do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định.

Điều 5. Đồng chí Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định này.

Điều 6. Các đồng chí Bộ trưởng Tổng thư ký Hội đồng bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, các Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương có trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

 

Hà nội, ngày 22 tháng 11 năm 1981

T.M. Hội đồng Bộ trưởng

Chủ tịch

Phạm Văn Đồng (Đã ký)

-------------------------------------

14. Nghị định của Chính phủ số 38/CP ngày 4 tháng 6 năm 1993 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp

CHíNH PHủ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;

Căn cứ Nghị định số 15-CP ngày 2 tháng 3 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ tư pháp và Bộ trưởng, Trưởng ban Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ,

NGHị ĐịNH:

Điều 1.- Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước thống nhất về công tác tư pháp; xây dựng và tham gia xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý về mặt tổ chức Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực (gọi chung là Toà án địa phương); đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý và quản lý các công tác tư pháp khác được Chính phủ giao.

Điều 2.- Bộ Tư pháp có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

 

1. Về xây dựng và tham gia xây dựng pháp luật.

Tổng hợp chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cùng Văn phòng Chính phủ dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh dài hạn và hàng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định.

Trình Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh về dân sự, các dự án luật, pháp lệnh khác theo sự phân công của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đó.

Xem xét và có ý kiến về mặt pháp lý của các dự án luật, pháp lệnh, văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì soạn thảo trước khi các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trình Chính phủ.

Phối hợp với Văn phòng Chính phủ trong việc tổ chức chỉ đạo công tác hệ thống hoá văn bản pháp luật.

Hệ thống hoá văn bản pháp luật trong phạm vi chức năng của Bộ; kiến nghị sửa đổi, bổ xung hoặc huỷ bỏ các văn bản pháp luật không phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.

2. Về quản lý Toà án nhân dân địa phương.

Xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của các Toà án địa phương, thống nhất quản lý ngân sách Toà án địa phương.

Trình Chính phủ quyết định tổng biên chế Toà án của các địa phương sau khi thống nhất ý kiến với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ. Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, quy định biên chế cho từng Toà án địa phương sau khi trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách đối với thẩm phán, hội thẩm nhân dân và cán bộ Toà án địa phương; hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra và giải quyết việc thực hiện các chế độ, chính sách đó.

Sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định danh sách các thành viên Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực; xem xét và đề nghị bổ nhiệm hoặc cách chức thẩm phán Toà án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để Hội đồng tuyển chọn thẩm phán xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định.

Trong phạm vi chức năng kiểm tra hoạt động của các Toà án địa phương thực hiện chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với tập thể, cá nhân của Toà án địa phương.

3. Về tổ chức, thi hành án dân sự.

Trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các chế độ, chính sách cụ thể, các văn bản pháp luật hướng dẫn về công tác tổ chức thi hành án dân sự; xây dựng tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động cho công tác thi hành án và đội ngũ thi hành án dân sự.

4. Về công tác tư pháp khác.

Thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với tổ chức và hoạt động luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch và các hoạt động tư pháp khác; trình Chính phủ quyết định (hoặc quyết định theo sự uỷ quyền của Chính phủ) quy chế tổ chức và hoạt động của các tổ chức luật sư, công chứng, giám định; thống nhất quản lý các biểu mẫu, sổ sách về công chứng, hộ tịch, thống hê tư pháp, lý lịch tư pháp; quản lý các công việc về quốc tịch theo quy định.

5. Về công tác hoà giải.

Trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn công tác hoà giải các tranh chấp trong nhân dân; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổng kết hoạt động của các tổ hoà giải.

6. Về đào tạo, nghiên cứu khoa học, phổ biến giáo dục pháp luật.

Trình Chính phủ quyết định và tổ chức thực hiện chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn và hàng năm; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình giảng dạy pháp luật trong các trường học.

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo viên chức tư pháp của cả nước, tổ chức đào tạo cán bộ pháp lý bậc đại học, cao học và sau đại học theo sự phân công của Chính phủ; thống thất việc quản lý bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ Toà án, tư pháp, pháp chế, luật sư, công chứng giám định, hộ tịch, chấp hành viên; tổ chức việc nghiên cứu khoa học pháp lý, phát triển công tác thông tin pháp lý.

7. Về hợp tác quốc tế.

Trình Chính phủ quyết định chương trình, kế hoạch và dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp; quản lý và tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện chương trình, kế hoạch và dự án đó.

Trình Chính phủ quyết định việc ký kết, phê duyệt việc tham gia các điều ước quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực tư pháp theo quy định của Chính phủ.

8. Về thanh tra và giải quyết khiếu tố.

Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong phạm vi chức năng của Bộ.

Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo thẩm quyền.

Điều 3.- Tổ chức bộ máy của tư pháp gồm có:

a) Các cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước:

1. Văn phòng;

2. Vụ Kế hoạch - tài chính;

3. Vụ quản lý Toà án địa phương;

4. Cục thi hành án dân sự;

5. Vụ Quản lý luật sư, tư vấn pháp luật;

6. Vụ quản lý công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp;

7. Vụ Pháp luật hình sự, hành chính;

8. Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế;

9. Vụ Hợp tác quốc tế;

10. Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật;

11. Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo;

12. Thanh tra Bộ.

b) Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ:

1. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý;

2. Trường đại học luật, phân hiệu đại học luật thành phố Hồ Chí Minh;

3. Báo Pháp luật;

4. Tạp chí Dân chủ và pháp luật.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, biên chế của các đơn vị thuộc Bộ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định.

Điều 4.- Hệ thống tổ chức tư pháp ở địa phương được quy định như sau:

 

1. ở tỉnh và cấp tương đương có Sở Tư pháp; ở huyện và cấp tương đương có Phòng Tư pháp; ở xã và cấp tương đương có Ban Tư pháp.

Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban Nhân dân cùng cấp chịu sự chỉ đạo và quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan tư pháp cấp trên.

2. Sau khi được sự thoả thuận của Bộ trưởng, Trưởng ban Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, bộ máy của tổ chức tư pháp ở địa phương.

Điều 5.- Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành và thay thế Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981.

Điều 6.- Bộ trưởng Bộ Tư pháp, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

 

T.M. Chính phủ

Thủ tướng

Võ Văn Kiệt (Đã ký)

-------------------------------------

B. tư liệu

1. Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của các toà án nhân dân địa phương ngày 15 tháng 7 năm 1990

I. Một số nét về tổ chức và hoạt động của các Toà án nhân dân địa phương

Sau khi Nhà nước ban hành Hiến pháp (1980) và Luật tổ chức Toà án nhân dân (1981) các TAND địa phương từng bước đã được đổi mới về tổ chức và hoạt động:

Đội ngũ cán bộ Toà án, đặc biệt là Thẩm phán đã được thêm về số lượng và nâng cao về chất lượng xét xử. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ chính trị của đội ngũ này thường xuyên được rèn luyện, nâng cao. Có thể nói một trong những thành tích rõ nét trong 10 năm vừa qua là đã bồi dưỡng và đào tạo được một đội ngũ cán bộ Toà án được tiêu chuẩn hoá đẻ tạo điều kiện cho việc hoàn thành nhiệm vụ xét xử. Các Toà án có nhiều vụ việc đã tường bước được tăng cường thêm cán bộ, góp phần giải quyết hiện tượng án bị tồn đọng trong nhiều năm. Việc tuyển chọn cán bộ để làm Thẩm phán qua các nhiệm kỳ đã có sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp, TAND tối cao và cấp uỷ địa phương nên đã thu được kết quả nhất định. Việc quản lý công tác cán bộ TAND địa phương cũng đã cải tiến tường bước, đang nghiên cứu sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để quản lý. Đã bảo đảm thêm một số phương tiện và cơ sở vật chất tối thiểu cho các TAND địa phương hoạt động, Chính phủ đã chú ý cấp kinh phí cho một số Toà án huyện và tỉnh có nhiều khó khăn.

Chức danh chấp hành viên đã được quy định cùng với việc bổ nhiệm chặt chẽ đã làm cho công tác thi hành án có chuyển biến, việc thi hành án dân sự có chiều hướng tốt hơn.

Các cơ quan bổ trợ cho hoạt động xét xử như Công chứng, giám định, Luật sư đã được hình thành, bước đầu hoạt động có kết quả, góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử của Toà án.

Việc ban hành bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự và một số văn bản khác của Nhà nước trong lĩnh vực Tư pháp đã đưa hoạt động của Toà án dần dần vào nề nếp, quy củ, thống nhất.

Bên cạnh những kết quả đó, tổ chức và hoạt động của Toà án địa phương trong nhưng năm qua vẫn bộc lộ một số bất hợp lý ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử. Nền kinh tế chuyển hướng đã bộc lộ rõ rệt thêm những nhược điểm về tổ chức của Toà án. Dưới đây xin nêu một số điểm:

1/. Tổ chức Toà án theo nguyên tắc 2 cấp xét xử:

Theo tinh thần của Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức TAND 1981, các Toà án được tổ chức theo nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm). Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt cách thức tổ chức các cơ quan xét xử so với cách thức tổ chức các cơ quan hành chính.

Trên thực tế các TAND địa phương (không kể các Toà án quân sự) đều được tổ chức theo địa giới hành chính huyện, tỉnh, mà không theo cấp xét xử như quy định của Hiến pháp.

Riêng đối với các TAND cấp huyện sự bất hợp lý của cách thức tổ chức theo địa giới hành chính thể hiện rất rõ ở những điểm sau:

- Mỗi quận, huyện có những đặc điểm khác nhau về địa lý, dân cư, điều kiện kinh tế, văn hoá - xã hội, tâm lý truyền thống...; đồng thời tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các loại tranh chấp cũng diễn biến khác nhau, Ví dụ: Quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) có diện tích 4,25 KM2, dân số trên 17 vạn mà số án hàng năm phải xét xử thường là trên dưới 1000 vụ. Trong khi đó có nhiều huyện dân khá đông, diện tích rộng nhưng số lượng án phải xử hàng năm rất ít cụ thể là:

Quảng Ninh 1988 (số vụ) 1989(số vụ)

- Huyện Bình Liêu 29 9

- Huyện Ba Che 11 17

Nghệ Tĩnh

- Quỳ Châu 20 21

- Tường Lương 24 19

Long An

- Vĩnh Hưng 9 28

- Tân Thạch 7 20

Bình Định

- An Lao 14 10

- Vân Canh 19 20

- Vĩnh Thạch 21 15

Qua khảo sát cho thấy số TAND huyện có số lượng án phải xử hàng năm rất khác nhau, Qua khảo sát 114 huỵện của 10 tỉnh cho thấy số Toà án huyện xử trong năm 1989 từ 5 đến 100 vụ là 54,5%; từ 100 đến 200 vụ là 34,2%; từ 200 đến 300 vụ là 8,75%; trên 300 vụ là 2,6%. Qua đó ta thấy:

- Cùng một điều kiện vật chất như nhau (trụ sở, phương tiện làm việc....); với cùng một cơ cấu tổ chức như nhau (Chánh án, Thẩm phán, Thư ký, Chấp hành viên, Văn thư...) nhưng số việc của các Toà án lại rất khác nhau (dĩ nhiên những Toà án nhiều việc có thể được tăng biên chế nhưng tỷ lệ tăng không thể bằng tỷ lệ tăng của số vụ án được), vì thế đã gây ra sự lãnh phí về cơ sở vật chất và làm cho biên chế cồng kềng không cần thiết.

- Cơ sở vật chất vừa lãnh phí, vừa không được tập trung thành ra có tình trạng "thiếu đều" mà mấy chục năm qua chưa giải quyết hết được cho các Toà án, nhất là trong tình hình hiện nay thì càng gặp khó khăn. Do vậy các Toà án lụp sụp về trụ sở, phương tiện làm việc thiếu, ảnh hưởng khồng nhỏ đến sự tôn nghiêm của cơ quan xét xử.

- Cách tổ chức các Toà án huyện rải đều như vậy vừa lãnh phí cán bộ, vừa không tập trung được cán bộ giỏi vì họ bị phân tán, ví thế chất lương xét xử không nâng nhanh được. Đặc biệt ở vùng cao và vùng sâu vừa thiếu về số lượng nhưng lại rất yếu về chất lượng, trong khi đó vẫn phải rải đều cán bộ ra cho các Toà án.

Cách tổ chức theo địa giới hành chính còn tạo nên một sự ngộ nhận là các cơ quan Toà án được tổ chức giống như các cơ quan hành chính, Toà án cấp trên chỉ đạo, điều hành các Toà án cấp dưới, các Toà án nhân dân được tổ chức như một ngành (một Bộ), có quản lý, chỉ đạo, thỉnh thị, xét duyệt. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho nguyên tắc độc lập xét xử không thực hiện được đầy đủ.

Thực tiễn còn cho thấy, việc tổ chức TAND theo địa giới hành chính, làm cho các Toà án huyện phụ thuộc vào các cơ quan địa phương cấp huyện, bị các cơ quan này can thiệp vào việc xét xử các vụ án.

2. Về thẩm quyền của các Toà án địa phương.

Theo quy định của pháp luật hiện hành TAND cấp huyện có quyền xử phần lớn các vụ án dân sự và xử các vụ án hình sự từ 7 năm tù trở xuống, TAND cấp tỉnh có quyên xử sơ thẩm về hình sự và phúc thẩm về dân sự.

Việc phân định thẩm quyền xét xử như vậy nên đã dẫn đến tình trạng như sau:

Toà án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm qua nhiều các vụ án hình sự nên Toà án nhân tối cao phải xử phúc thẩm. Theo luật nhiệm vụ chủ yếu của Toà án nhân dân tối cao với tính cách là cơ quan xét xử cao nhất là hướng dẫn áp dụng thống nhất đường lối xét xử, tổng kết xét xử và giám đốc việc xét xử (xử giám đốc thẩm).

Việc phân định thẩm quyền như hiện nay đã buộc Toà án nhân tối cao phải tập trung một lực lượng lớn vào xét xử phúc thẩm (với ba Toà phúc thẩm lớn tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh). Đồng thời buộc Toà án nhân dân cấp tỉnh phải tập trung vào việc xét xử sơ thẩm về hình sự mà lẽ ra, cách tổ chức Toà án theo nguyên tắc hai cấp xét xử thì Toà án nhân dân cấp tỉnh phải làm nhiệm chủ yếu là xét xử phúc thẩm.

Tình trạng bất hợp lý đó đã ảnh hưởng không tốt đến công tác xét xử. Toà án cấp tỉnh và cấp huyện khi nhận xử một vụ án hình sự phải dự kiến trước xem nếu dưới 7 năm thì để cho huyện, trên 7 năm thì để cho tỉnh. Toà án nhân tối cao ít làm nhiệm vụ giám đốc thẩm.

3. Về chế độ bầu cử Thẩm phán:

Việc thực hiện chế độ bầu cử Thẩm phán đã bộc lộ một số nhược điểm như sau:

- Thẩm phán Toà án nhân cấp tỉnh và cấp huyện đươc Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kỳ họp của mình nhưng trên thực tế, các đại biểu rất ít hoặc hầu như không biết kỹ về những người được bầu làm Thẩm phán (kể cả Hội thẩm nhân dân). Do đó không tránh khỏi việc bầu chỉ là hình thức. Có những người thiếu chuyên môn vẫn được bầu làm Thẩm phán.

- Với nhiệm kỳ là 2 năm đối với cấp huyện và 4 năm đối với cấp tỉnh (nay là 5 năm) người Thẩm phán luôn luôn bị đạt trong tình trạng không ổn định. Chính điểm này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của họ: Họ sẽ chấp nhận những áp lực, những tác động của lãnh đạo địa phương, của người có chức có quyền vào việc giải quyết vụ án. Bởi vì người có dũng khí nghề nghiệp, dám đấu tranh cho sự thật rất có thể không được bầu lại, bị chuyển công tác như thực tế đã xẩy ra.

- Trước năm 1960, Nhà nước ta đã có quy định cụ thể về tiêu chuẩn Thẩm phán. Nhưng từ năm 1960 đến những năm gần đây không có quy định về vấn đề này. Năm 1989 Bộ Tư pháp đã mới hướng dẫn tiêu chuẩn để bầu làm Thẩm phán và đã có những kết quả nhất định ở các Toà án nhân dân địa phương. Vì thiếu sự hướng dẫn về tiêu chuẩn Thẩm phán nên việc bầu cử Thẩm phán chỉ là hình thức. Nhiều cán bộ trái ngành, không có chuyên môn vẫn được bầu làm Thẩm phán.

Cần lưu ý là chế độ bầu Thẩm phán tuy là một nguyên tắc Hiến pháp nhưng trên thực tế lại được thực hiện khác nhau ở mỗi cấp:

- Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc Hội bầu

- Các phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Hội đồng Nhà nước cử (bổ nhiệm) không có nhiệm kỳ.

- Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu.

Như vậy trên thực tế chúng ta đã kết hợp cả nguyên tắc bầu và nguyên tắc cử (bổ nhiệm).

4. Nhược điểm của lề lối làm việc hành chính.

Như đã phân tích ở trên, Toà án là cơ quan tài phán, quan hệ giữa các Toà án cấp trên và cấp dưới trước hết và chủ yếu là quan hệ tố tụng. Toà án cấp dưới xử sai thì Toà án cấp trên sẽ sửa hay huỷ bản án theo một trình tự tố tụng, bằng cách mở phiên toà chứ không phải chánh án Toà án cấp trên ra một quyết định hành chính.

Nhưng nhiều năm qua, trong một số các Toà án đã áp dụng một cách làm việc hành chính của Toà án cấp trên đối với các Toà án cấp dưới: Toà án cấp dưới nhiều trường hợp phải thỉnh thị Toà án cấp trên trước khi xét xử một vụ án cụ thể. Còn trong một Toà án thì lãnh đạo "duyệt" án trước khi Thẩm phán ra xử tại phiên toà. Đây là điều vi phạm Luật tố tụng về nguyên tắc độc lập xét xử.

Nguyên nhân của hiện tượng trên là do trình độ của Thẩm phán còn thấp, pháp luật còn chưa hoàn thiện nên việc thỉnh thị án trong thời gian trước đây cũng có tác động nhất định. Hiện này lề lối làm việc "duyệt án" và "thỉnh thị án" đã giảm nhiều nhưng vẫn còn rải rác ở các Toà án, có nơi vẫn còn nặng nề.

II. những đề nghị đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án

quan điểm đổi mới toà án

1. Đổi mới Toà án để hoạt động của Toà án, phục vụ cho công cuộc đổi mới về kinh tế của nước ta.

Cách tổ chức Toà án trong nhiêu năm qua chừng nào thích hợp với cơ chế tập chung quan liêu, nay không còn phù hợp với tình hình mới nữa. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phân làm phát sinh nhiều loại quan hệ xã hội với tính chất ngày càng phức tạp. Các tranh chấp mới phát sinh (như trong lĩnh vực sở hữu, tổ chức và hoạt động của Công Ty, xí nghiệp, đất đai, lao động... ) trước đây được giải quyết bằng thủ tục hành chính, nay đòi hỏi giải quyết bằng một trình tự Tư pháp đó bảo đảm quyền bình đẳng giữa các bên tranh chấp trước pháp luật, thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà công khai...

Với cách tổ chức và hoạt động của Toà án như hiện nay (ảnh hưởng của việc điều hành từng mệnh lệnh của cơ quan hành chính, Thẩm quyền xét xử còn bị hạn hẹp, trình độ cán bộ còn yếu, phương tiện làm việc thiếu thốn, nguyên tắc độc lập xét xử chưa thực sự được chấp hành đầy đủ...) thì Toà án chưa đảm đương được nhiệm vụ của mình trong điều kiện nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần. Do đó, Toà án cần được đổi mới, một mặt giải quyết được các tranh chấp nảy sinh trong kinh tế và trong xã hội, mặt khác bảo đảm công lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2. Đổi mới Toà án để phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm trật tự, kỷ cương và pháp luật.

Nền Tư pháp của một nước (cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án, các Tổ chức Tư pháp, Cơ quan quản lý trại giam..) được tổ chức và hoạt động như thế nào là sự thể hiện tâp uy quyền của Nhà nước, sự bảo đảm vững chắc kỷ cương, kỷ luật và trật tự xã hội, đồng thời thể hiện mức độ bảo đảm quyền dân chủ của công dân.

Đối với cơ quan Toà án, tổ chức và hoạt động đó được thể hiện ở các điểm sau:

- Cách tổ chức và hoạt động của Toà án cấp sơ thẩm (trước đây gọi là Toà án sơ cấp) và sự phân định thẩm quyền cho cấp sơ thẩm đó.

- Cách tổ chức Toà án cấp phúc thẩm (trước đây gọi là Toá án đệ nhị cấp và toà án thượng thẩm) và sự phân định thẩm quyền cho cấp phúc thẩm đó.

- Tổ chức ra các Toà án chuyên môn để xét xử các loại tranh chấp khác nhau (Toà hình sự, Toà dân sự, Toà lao động, Toà kinh tế, Toà đất đai, Toà xét xử người chưa thành niên....)

- Đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên môn cao, xét xử giỏi, bảo đảm đầy đủ các nguyên tắc tố tụng tại phiên toà.

- Có các phương tiện tối thiểu cho việc xét xử (trụ sở, phòng xử án, các phong làm việc khác: Phòng cách ly nhân chứng, phòng Luật sư nghiên cứu hồ sơ...) để bảo đảm một hình thức tôn nghiêm của Toà án.

những đề nghị đổi mới

1. Đổi mới chế độ tuyển cử Thẩm phán:

Để có được một đội ngũ cán bộ xét xử vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh nghề nghiệp và chuyên môn nghiệp vụ giỏi, cần có một cách thức lựa chọn, tuyển cử vào chức danh Thẩm phán sao cho phù hợp với những đặc điểm nêu trên. cách thức đó có thể tiến hành như sau:

Tiêu chuẩn hoá cán bộ được bầu là Thẩm phán: Để chọn làm Thẩm phán cần phải tốt nghiệp Đại học Pháp lý, đã qua công tác tại Toà án một số năm nhất định và đã được bồi dưỡng thêm nghiệp vụ Toà án. Những người được lựa chọn làm Thẩm phán sẽ qua một kỳ sát hạch do một Hội đồng ở Trung ương gồm các Thẩm phán đã làm việc lâu năm và một số nhà khoa học chấm tuyển. Để thực hiện những điểm nói trên cần ban hành một đạo luật Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

- Đổi mới cách tuyển chọn Thẩm phán:

Phương án thứ nhất: Tất cả các Thẩm phán đều theo chế độ bổ nhiệm.

Phương án này có ưu điểm là:

- Lựa chọn được những người có tiêu chuẩn thực sự làm Thẩm phán.

- Làm cho Thẩm phán có khả năng thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử.

- Chức danh Thẩm phán là một nghề nghiệp chuyên môn, làm suốt đời, không sợ bị thay đổi. Nhà nước có một đội ngũ Thẩm phán ổn định.

Thẩm quyền bổ nhiệm theo phương án này như sau:

- Thẩm phán TANDTC và Thẩm phán các Toà án quân sự do Hội đồng Nhà nước bổ nhiểm (như hiện nay đang làm).

- Thẩm phán TAND địa phương do Bộ Trưởng Tư pháp bổ nhiệm sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án TANDTC.

Phương án thứ hai: Trong những năm trước mắt có thể cải tiến một bước chế độ tuyển cử Thẩm phán tạo điều kiện để sau này thực hiện phương án thứ nhất.

- Thẩm phán TAND địa phương do Hội đồng nhân dân bầu sau đó có sự phê chuẩn của Chính phủ.

Đối với cả hai phương án kể trên đều chủ yếu là phải tiến hành sát hạch đội ngũ Thẩm phán hiện nay. Chỉ những người đã sát hạch đủ tiêu chuẩn mới bổ nhiệm hoặc bầu.

2. Thành lập các Toà án khu vực thay cho Toà án huyện và tăng thêm thẩm quyền cho các Toà án này.

Việc thành lập các Toà án khu vực chỉ tiến hành ở những địa bàn huyện có số lượng án xét xử hàng năm quá ít (trên dưới 50 vụ hoặc dưới 100 vụ/năm). Đối với những huyện có đông dân, từ trước đến nay vẫn có nhiều vụ án thì vẫn để Toà án huyện.

Việc thành lập các Toà án khu vực có ưu điểm là:

- Làm cho Toà án khu vực phát huy tốt khả năng làm việc của Thẩm phán.

- Tập trung được một lực lượng Thẩm phán về một Toà án, làm cho lực lượng đỡ bị phân tán.

- Tiết kiệm được cơ sở vật chất và các phương tiện làm việc hiện nay đang bị dàn đều ra các huyện.

- Giảm được biên chế (tuy ít).

Nhưng việc thành lập Toà án khu vực vẫn còn cân nhắc đến những khó khăn:

- Thường những huyện ở vùng núi, vùng sâu thì cần lập Toà án khu vực, nhưng vì địa bàn rộng nên khả năng giao thông khó khăn. Qua khảo sát ở nhiều huyện miền núi cho thấy cách giải quyết khó khăn này như sau: Trang bị cho mỗi Toà án các phương tiện để xử lưu động, vừa bảo đảm cho nhân dân đỡ phải đi lại, vừa làm cho nhân dân tiếp xúc được nhiều hơn với Toà án, thông qua các phiên toà đó mà giáo dục nhân dân.

- Khi thành lập các Toà án khu vực thì biên chế dư ra cần giải quyết. Những ai có thể đi học được thì cho đi học tiếp hoặc có chính sách thích hợp với họ. Con số này không lớn và có thể giải quyết được.

- Quan hệ giữa có quan điều tra, Viện Kiểm sát cấp huyện với Toà án khu vực được giải quyết như sau: Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát cấp huyện vẫn tiến hành điều tra và truy tố theo Bộ Luật tố tụng hình sự quy định. Và hai cơ quan nói trên vẫn thực hiện theo đúng thẩm quyền lãnh thổ, và thẩm quyền loại việc của mình. Vụ án mà Viện kiểm sát huyện nào truy tố thì Viện Kiểm sát đó có quyền duy trì công tố trước Toà án khu vực.

- Sinh hoạt Đảng của các Đảng viên trong Toà án khu vực có thể sinh hoạt theo Đảng uỷ khối của Tỉnh uỷ.

Nếu chủ trương thành lập Toà án khu vực được chấp nhận, cần có một kế hoạch cụ thể tiến hành sao cho công việc không bị xáo trộn và ứ đọng.

3. Thay đổi thẩm quyền của các TAND địa phương.

Cần tăng thẩm quyền cho các TAND cấp huyện và Toà án khu vực vì.

- Theo pháp luật hiện hành, TAND cấp huyện xử phần lớn các vụ án dân sự và các vụ án dân sự theo Điều 145 Bộ Luật tố tụng hình sự, do đó TAND cáp tỉnh phải xử khá nhiều các vụ án sơ thẩm mà ít xét xử phúc thẩm theo chức năng của mình. Vì vậy buộc TANDTC phải xét xử phúc thẩm sát nhiều vụ án như đã phân tích ở phần "thiếu". Nếu tập trung thẩm quyền xét xử sơ thẩm đa số các vụ án hình sự, dân sự, HĐGĐ cho Toà án cấp huyện .. . thì các Toà án tỉnh sẽ tập trung xử phúc thẩm là chủ yếu. TANDTC sẽ chỉ thực hiện chức năng chính của mình là hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử Giám đốc, công tác xét xử của các TAND cấp dưới, lúc đó chắc chắn là hiệu quả hoạt động, chất lượng xét xử của các Toà án sẽ tốt hơn.

- Hiện nay trình độ của thẩm phán TAND cấp huyện đã khá hơn nhiêu so với trước đây, và nếu thành lập các Toà án khu vực thì đội ngũ Thẩm phán sẽ được tăng cường hơn nữa về chất lượng. Đặc biệt khi thức hiện chế độ Thẩm phán bổ nhiệm thì chắc chắn chất lượng Thẩm phán còn cao hơn.

- Nếu TANDTC chủ yếu làm Giám đốc thẩm thì ba toà phúc thẩm của TANDTC không còn tồn tại nữa. Lúc đó, cần tăng cường Thẩm phán của ba toà phúc thẩm cho một Toà án tỉnh (lưu ý vấn đề lương và chính sách cho họ), số còn lại tập trung về TANDTC, như vậy vừa tiết kiệm được cơ sở vật chất, vừa tiết kiệm được bộ máy, cán bộ.

4. Cần thiết phải nghiên cứu thành lập Toà án kinh tế, Toà án hành chính, Toà án lao động.

Trong một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì các tranh chấp phát sinh rất khác nhau về loại hình, tính chất, đối tượng.... đòi hỏi phải được giải quyết theo trình tự Tư pháp. Hiện nay chúng ta chưa có nghiên cứu sâu và cơ bản về các loại Toà án này, đồng thời cũng chưa có đội ngũ Thẩm phán có kinh nghiệm chuyên môn và chuyên trách về các tranhn chấp nói trên. Vì vậy trước mắt, để góp phần ổn định tình hình và làm từng bước, tiến tới thành lập các Toà án kinh tế, hành chính và lao động, cần thành lập các Toà án để xét xử các loại án nói trên. Việc nghiên cứu tổ chức, thiết kế các Toà án đó sẽ do Nhà nước phân công.

5. Khắc phục triệt để lề lối làm việc cũ là thỉnh thị án và duyệt án.

Mấy năm gầy đây, việc thỉnh thị án và duyệt án được hiểu một cách mềm dẻo hơn, không áp đặt như trước đây. Điều đó khẳng định vấn đề nhận thức vai trò của Toà án mỗi cấp đã rõ ràng và đầy đủ hơn, trình độ của mỗi Thẩm phán đã được năng cao hơn một bước và pháp luật về tố tụng cũng đã hoàn thiện hơn.

Nhưng hiện nay ở một số nơi vẫn còn hiện tượng thỉnh thị án, và đặc biệt là việc duyệt án còn hơi nặng nề.

Bộ Tư pháp, TANDTC cần phối hợp hướng dẫn lề lối làm việc chó các TAND địa phương để thực hiện nguyên tắc trọng tâm của Toà án là khi xét xử Tarm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo luật pháp. Trong đó, trước hết cần bỏ lề lối làm việc duyệt án và thỉnh thị án.

6. Thứ sáu: Kiện toàn và tăng cường công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức của Bộ Tư phán.

Từ khi 1981, sau khi Bộ Tư pháp được thành lập, việc quản lý các TAND địa phương về tổ chức đã được giao cho Bộ đảm nhiệm (Điều 16 Luật tổ chức TAND – 1981) Luật tổ chức của TAND cũng quy định nhiệm vụ của TATC là "hướng dẫn áp thồn nhất pháp luật và đường lối xét xử, Giám đốc việc xét xử của các Toà án cấp dưới và tổng kết kinh nghiệm xét xử" (Điều 20). Tuy nhiên trong quá trình thực hiện các điều luật vẫn còn có những ý kiến khác nhau: TANDTC giữ ý kiến nên chuyển việc quản lý Toà án địa phương về cho TANDTC, sửa đổi Điều 16 của Luật tổ chức Toà án. Về vấn đề này, Bộ Tư pháp cần trình bầy những điểm có tính nguyên tắc tổ chức, thực tiễn xét xử và quá trình lịch sử ở Việt Nam về quản lý Toà án xin trình bầy đôi nét về lịch sử:

Từ năm 1945, khi mới thành lập Nhà nước ta, sác lệnh số 13 của Chủ tịch Chính phủ năm 1946 đã tổ chức ra các Toà án như sau:

- Toà án sơ cấp ở quận, huyện, châu, phủ, thị xã.

- Toà án đệ nhị cấp ở tỉnh.

- Toà thượng thẩm ở cấp kỳ – Toà thượng thẩm Bắc kỳ đặt ở Hà Nội, Toà thượng thẩm trung kỳ đặt ở Huế, Toà thượng thẩm nam kỳ đặt ở Sai Gòn.

Các cơ quan Toà án đều đặt dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp.

Năm 1961, do điều kiện cụ thể, Bộ Tư pháp đã giải thể, công việc quản lý các TAND địa phương chuyển giao cho TANDTC. Tới năm 1962, Nhà nước ta đã thấy công việc quản lý Tư pháp không thể đặt trong Toà án được vì như vậy sẽ làm lẫn lội công tác xét xử với công tác quản lý, đã lập ra Uỷ ban pháp chế sau đó đến năm 1981 đã lập lại Bộ Tư pháp.

Bộ Tư pháp là cơ quan giúp cho Chính phủ thực hiện quản lý tư pháp.

Quản lý Tư pháp là để đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập của Thẩm phán.

Nguyên tắc xét xử chỉ tuân theo pháp luật của các Thẩm phán là nguyên tắc Hiến pháp truyền thống của nước, quán xuyến trong 3 bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980. Nhìn rộng ra tất cả các nước trên thế giới đều công bố nguyên tắc này trong Hiến pháp của mình.

Nguyên tắc này đảm bảo dân chủ, khách quan trong xét xử, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật luôn luôn là điểm căn bản trong hoạt động xét xử. Để đảm bao cho nguyên tắc này phát huy tác dụng, phải tổ chức các Toà án như thế nào cho các Toà án không phụ thuộc vào nhau. Mỗi cấp Toà án trong phạm vi thẩm quyền do luật định có toàn quyền căn cứ vào pháp luật để tiến hành xét xử. Nếu một Toà án nào xét xử có khuyết điểm, sai lầm thì đã có trình tự tố tụng đảm bảo tính đúng đắn, chính xác. Đó là trình tự chống án của đương sự, kháng nghị của Viện Kiểm sát, xử phúc thẩm của Toà án cấp trên, tiến hành Giám đốc thẩm và tái thẩm đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật....

Lao động xét xử là một loại lao động đặc biệt. Đăc trưng của nó là việc nghiên cứu, đánh giá của cá nhân người Thẩm phán đối với toàn bộ hồ sơ vụ án. Đó là công việc điều khiển phiên toà, nơi diễn ra sự tranh luận giữa các bên, nơi tìm kiếm sự thật khách quan của vụ án đòi hỏi người Thẩm phán phải có trình độ chuyên môn và có kinh nghiệm.

Cùng với đặc điểm đó, lao động xét xử còn là sự huy động nhiều tổ chức (Kiểm sát, Luật sư bào chữa, giám định...) tham ra sự tranh luận công khai trước phiên toà, là một quá trình dân chủ, đồng thời là một quá trình đảm bảo công lý. Những đặc điểm đó của lao động xét xử đòi hỏi người Thẩm phán phải được giao quyền độc lập xét xử và có trách nhiệm cá nhân trước pháp luật nếu xử sai.

Mối quan hệ giữa Toà án cấp trên với Toà án cấp dưới, xuất phát từ nguyên tắc xét xử kể trên là mối quan hệ tố tụng chứ khồng phải mối quan hệ quản lý, điều hành, chỉ đạo.

Nếu trong cơ quan Toà án dung phương pháp hành chính, Toà án cấp trên ra lệnh cho Toà án cấp dưới, Toà án cấp dưới chịu sự chỉ huy, phục tùng Toà án cấp trên thì sẽ mất tính khách quan, đồng thời vô hiệu hoá hoạt động của Hội thẩm nhân dân, cơ quan Kiểm sát và cơ quan điều tra.

Không thể tách quản ký Tư pháp khỏi Chính Phủ vì nếu để Toà án cấp trên quản lý Toà án cấp dưới sẽ biến Toà án là cơ quan xét xử đồng thời là cơ quan quản lý, trái nguyên tắc Hiến pháp quy định Toà án chỉ là cơ quan xét xử.

Những nhận thức kể trên tuy đã được chấp nhận nhưng vì thói quen của tổ chức Toà án như hệ thốnh một Bộ đã tồn tại quá lâu, do đó đã có ý kiến là Toà án tối cao cần quản lý việc xét xử, quản lý tổ chức các Toà án địa phương.

Cần phân biệt rõ hoạt động xét xử với hoạt động quản lý trong Toà án. Đồng nhất nó, làm lẫn lộn nó, như trên đã nói, không thể nào thực hienẹ được nguyên tắc độc lập của Thẩm phán. Vì vậy cần giữ nguyên Điều 16 Luật tổ chức TAND, tức là Chính phủ, cơ quan quản lý cao nhất của Nhà nước, cần quản lý toàn diện: Kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, ngoại giao... và quản lý Tư pháp.

Vấn đề đặt ra là Bộ Tư pháp phải tăng cường, làm tốt hơn nữa công tác quản lý các Toà án địa phương về tất cả các mặt: tổ chức và biên chế, nhân sự, kính phí, ngân sách như Chính phủ đã quy định.

7. Về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Toà án.

- Trước hết, cần khẳng định rằng sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Toà án là vấn đề không phải bàn cãi. Đảng lãnh đạo Toà án nhằm làm cho Toà án thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của mình, là để cho Toà án thực hiện tốt nguyên tắc độc lập xét xử ? Đảng lãnh đạo Toà án nhưng không làm thay đổi Toà án Toà án, không can thiệp vào việc giải quyết vụ án như định trước mức hình phạt, dự kiến mức bồi thường cho Toà án xét xử. Nhiều năm qua, sự lãnh đạo của Đảng đối với Toà án đã thể hiện rõ kết quả vận dụng đường lối của Đảng vào việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, để tránh khuynh hướng bao biện, làm thay của cơ quan Đảng trách nhiệm đối với Toà án, cần khẳng định một vấn đề như sau:

- Đảng lãnh đạo Toà án bằng việc đưa ra những đường lối xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật, các tranh chấp trong từng thời kỳ.

- Đảng đưa ra đường lối hoạch định cán bộ cho Toà án, trước hết là đội ngũ Thẩm phán, xây dựng tổ chức Đảng trong Toà án, kiểm tra các Đảng viên làm trong Toà án.

- Một số vụ án có tính chất quan trọng đặc biệt (liên quan đến những thành phần tôn giáo: bị cáo là người đứng đầu các tổ chức tôn giáo, là người có uy tín trong dân tộc thiểu số...) thì phải xin ý kiến cấp uỷ về đường lối xét xử.

- Đảng cần ban hành cụ thể hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của các cơ quan này.

Đề án trên đây của Bộ Tư pháp đã được xây dựng trên cơ sở khảo sát tại nhiều địa phương, tiến hành nghiên cứu so sánh với nhiều nước và là kết quả của việc nghiên cứu của một số đề tài khoa học thực hiện trong 3 năm qua.

Bộ Trưởng Bộ Tư pháp

------------------------------------

2. Cuộc tranh luận tư pháp độc lập với hành chính

Đồng chí Quang Đạm viết bài đầu tiên với nhan đề "Tư pháp với Nhà nước" vào tháng 4 năm 1948, sau đó vào tháng 7, 8, 9 năm 1948 viết liên tiếp 3 bài khác, đại ý phê phán quan điểm "Tư pháp độc lập" của cán bộ ngành Tư pháp, cho rằng quan điểm đó đã ngăn cản công việc tiêu diệt các lực lượng phản động.

Trong bài trả lời cũng đăng trên báo Sự Thật vào tháng 8 năm 1948, ông Vũ Trọng Khánh đã trả lời bác bỏ ý kiến của đồng chí Quang Đạm, cho rằng "tư pháp độc lập với hành chính" là nguyên tắc Hiến định trong Hiến pháp 1946, một nguyên tắc cơ bản để giữ gìn dân chủ, vô tư và khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân.

Nhóm đề tài cho rằng cần thiết trích ra một số đoạn đã đăng trên báo Sự Thật để ghi nhận trung thực lịch sử phát triển ngành ta:

Bài của Quang Đạm (Trích)

"Tư pháp không thể độc lập đối với chính quyền nhân dân"

... "Thuyết độc lập và phân quyền (của các nhà tư tưởng, chính trị Pháp ở cuối thế kỷ XVIII), với tất cả vẻ đẹp trừu tượng của nó, đã được phát huy đến cùng. Từ chỗ độc lập đối với các phong trào tiến bộ, từ chỗ phân quyền người ta đi đến chỗ thái độ độc quyền (...) ". Đồng chí Quang Đạm đã nhận xét như vậy và nói tiếp:

"Nhìn lại xã hội Việt nam, ta cũng thấy có hai hiện tượng. Sau cuộc Đại chiến Thế giới thứ nhất, làn sóng dân chủ tràn qua Đông Dương, hình thức chính quyền hoàn toàn cũ không còn thích hợp nữa. Để bưng bít dư luận, ngoài việc mở những Viện dân biểu bù nhìn thực dân Pháp đưa ra chế độ phân quyền giữa hành chính với tư pháp và trưng bày nhãn hiệu Tư pháp độc lập. Nhưng sự thật thế nào, tưởng không phải nói, ai cũng biết. Hàng ngàn bản án thảm khốc, chống cách mạng, bóp nghẹt phong trào giải phóng; hàng vạn vụ án bênh vực quyền lợi các quý quan cùng tôi tớ của chúng. ý kiến độc lập đâu? lương tri, lương tâm nào? công lý, chính nghĩa gì? nguồn gốc xã hội, thế lực, địa vị, tín ngưỡng, tôn giáo cho đến mầu da, tiếng nói của người đứng trước vành móng ngựa đều có hiệu lực làm lệch cán cân xử đoán dưới cặp mắt bất lực của thần Tô-mit (Thémis).

"Một số phần tử trí thức vào ngạch tư pháp ngấm nghía (thấm thía) thân thể bạc bẽo của mình bên cạnh uy quyền hống hách của các quan phụ mẫu, luôn luôn cố tìm an ủi trong lý tưởng độc lập, nhưng trăm mối liên quan sâu xa ràng buộc quá chặt, họ đành chép miệng phàn nàn: Dưới ách cường quyền, không có công lý.

"Cách mạng tháng 8 bùng nổ. Chính quyền nhân dân thành lập. Vì lòng tự ái của chủ nghĩa tự do (duy tâm) của giới trí thức, vì ý thức xã hội và quan niệm theo học thuyết cũ, vì ganh tỵ địa vị và quyền hạn, một số viên chức đó vẫn giữ khư khư thái độ riêng rẽ đối với chính quyền nhân dân, chủ trương "tư pháp biệt lập để bảo đảm tự do cá nhân’ được xem như một chân lý vĩnh viễn tuyệt đối. Cuộc tranh đấu có khi sâu sắc ngấm ngầm, trạng thái độc lập chuyển thành thái độ đối lập, thủ tục phân quyền hoá ra thủ đoạn độc quyền, nhiều khi công việc tiêu diệt các lực lượng phản động đã vấp trở lực nghiêm trọng vì thái độ, ý thức và quan niệm sai lầm ấy.

" Không thể như thế được. Để xây dựng một nước Việt nam dân chủ mới mạnh mẽ vẻ vang, chúng ta phải gấp rút chấm dứt tình trạng đó (...) Dưới một chế độ phản động, Tư pháp phải đứng vào lập trường dân chúng mà biệt lập và phân quyền với Nhà nước trong những điều kiện có thể. Nhưng trong một chế độ dân chủ mới như ở nước ta hiên nay, Nhà nước đã là của nhân dân tiến bộ, thì tư pháp lại phải kết hợp với Nhà nước mà đối lập với các lực lượng phá hoại chính quyền. Như thế mới thật là có nhận định thiết thực và tiến bộ về vấn đề độc lập và phân quyền (...) Độc lập phải phối hợp với thống nhất nghĩa là phải đứng vào một mặt trận chung với nhân dân và Nhà nước của nhân dân mà chống lại các mưu đồ phá hoại của quân thù, chống lại ý thức và quan niệm sai lầm do chế độ và học thuyết cũ còn lại.

"Phân quyền phải phối hợp với tập quyền, nghĩa là phải phân quyền theo lối phân công phụ trách trong phạm vi chuyên môn, dưới một sự chỉ huy tập đoàn về nguyên tắc căn bản.

"Đây không phải là một sự nhượng bộ trong thời kháng chiến, mà chính là một nguyên tắc trọng yếu của chế độ dân chủ mới."

Báo sự thật số 91, ngày 15/1/1948

Trích bài thứ hai của Quang Đạm.

" Tính chất chuyên môn trong tư pháp"

Trong bài thứ hai này, Quang Đạm đi sâu hơn vào lý luận và khẳng định Tư pháp có quyền định đoạt độc lập các công việc nghiệp vụ riêng của ngành mình, nhưng phải phục tùng đường lối chính trị của Nhà nước ta, phải thi hành chính sách trừng trị, chính sách xét xử của chế độ ta. Đó là vấn đề quan hệ giữa chính trị và chuyên môn. Trích bài viết đó:

" Tôi nhớ, sau ngày thành lập Chính quyền dân chủ không bao lâu, một hôm tôi tiếp thư một ông bạn phàn nàn với tôi về Uỷ ban hành chính tỉnh ông: "cái gì họ cũng xen vào, bất cứ chuyên môn hay không chuyên môn!". Rồi ông nói riêng về tư pháp, ông kết luận với một giọng bất mãn: "ừ thì họ thạo chính trị, họ làm chính trị. Còn tư pháp là phần chuyên môn của chúng tôi, họ phải để cho chúng tôi toàn quyền hành động". "Nhận định đó cố nhiên là nhầm, - lời nhà báo Quang Đạm - Trong bất cứ chính thể nào, tất cả mọi ngành đều phải theo một đường lối chính trị chung chứ không thể tách ra được (...) Mỗi ngành chuyên môn như một cành cây chính trị như cả thân cây...

"Toàn thể Nhà nước phải có một tập đoàn chỉ đạo thống nhất về chính trị, mà trong mỗi ngành chuyên môn cũng phải có phần chính trị của nó phối hợp với đường lối thống nhất kia.

"Nói riêng về Tư pháp, chúng ta cũng phải nhận rõ tính chất phân công và tính chất thống nhất đối với toàn thể chính quyền (...). Trong ngành Tư pháp, những phương pháp thi hành thể lệ tố tụng, những công việc của phòng lục sự, của ban giám định, v..v...đều là những việc đòi hỏi phải có kinh nghiệm quen thạo (pratique) đối với nghề nghiệp và chức vụ. Về những công việc đó, khó lòng biết được rõ ràng nếu chúng ta chưa từng hưởng thụ một chương trình huấn luyện riêng, chưa từng bắt tay làm việc trong một thời gian. Vả lại các công việc đó đều phức tạp và tỉ mỉ, nên phải có người chuyên trách mới làm chu đáo, chứ không ai có thể bao biện lấy cả. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không nên lầm lẫn bao biện với kiểm soát.

"Còn như quan hệ về tội lỗi, sự nhận định của hành vi nguy hiểm cho cuộc an toàn chung, gây hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân và của chính quyền nhân dân chỉ là một vấn đề về ý thức xã hội trong từng thời đại mà thôi. ý thức ấy do chế độ kinh tế, do quan hệ xã hội, do quyền lợi thiết thực và do trình độ giác ngộ về chính trị mà nảy ra chứ không phải do một khoa học chuyên môn nào tạo nên (...)"

Báo sự thật số 93, ngày 19/5/1948

Ông Vũ Trọng Khánh trả lời:

Toà soạn Sự thật viết lời nói đầu về bài của ông Khánh (Trích)

 

... " Không chờ bạn Quang Đạm trình bày hết ý kiến, các bạn đọc, nhất là các bạn trong giới tư pháp đã gửi qua chúng tôi nhiều bài hoặc tán thành hoặc phản đối những điểm bạn Quang Đạm nêu ra. Đó là một triệu chứng chỉ rằng dư luận của quốc dân ta đã chú trọng đến vấn đề tư pháp. Chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh tất cả ý kiến của các bạn (...). Bạn Quang Đạm sẽ thảo luận trên báo này với các bạn về những điểm cần thiết để mở rộng tư tưởng pháp lý dân chủ của nước nhà...".

Dưới đây là bài phát biểu của ông Khánh (Trích)

 

" Sở dĩ một số anh em có trách nhiệm về Tư pháp uỷ cho tôi trả lời bài "Tư pháp với Nhà nước" là vì bài ấy có hại về chính trị. Trong lúc các người phụ trách về Hành chính và Tư pháp mới bắt đầu điều hoà (hoà giải - VĐH) được các toà án và các Uỷ ban, nhất là cấp huyện, bằng cách giải thích cho bên nọ hiểu rõ nhiệm vụ và cách tổ chức của bên kia, thì ông Quang Đạm lại nhắc lại những ý kiến chỉ trích tầm thường, khiến cho những mầm hiểu nhầm và chia rẽ giữa các Uỷ ban với Thẩm phán lại có thể nhóm lên. Ông quên rằng Tư pháp cũng là một cơ quan chính quyền do Chính phủ dân chủ cộng hoà thiết lập đồng thời với các Uỷ ban hành chính; vậy thì ta không được vạch lên báo những khuyết điểm của Uỷ ban hành chính sợ mất uy tín của chính quyền, ta cũng nên dè dặt trong lời chỉ trích Tư pháp trên mặt báo, nhất là trên tờ báo Sự thật!

"Tôi nói ý kiến của ông Quang Đạm rất tầm thường và sẵn sàng nhận một cuộc tranh luận công khai vơí ông trong một hội nghị hay một buổi diễn thuyết nào, vì tranh luận bằng lời viết, sợ không nói đủ và thiếu thì giờ.

"Dưới đây, tôi chỉ nhắc từng lý lẽ của ông Quang Đạm rồi trả lời rất vắn tắt."

Ông Khánh phân tích và bác bỏ 10 lý lẽ đó. Tôi chỉ ghi ở đây mấy ý chính về lý luận chung, Ông Quang Đạm nói:

" 1- Từ khi xã hội chia thành giai cấp, Tư pháp xuất hiện để bảo vệ thế lực kẻ thống trị và đàn áp đối phương". Trả lời:

" Tôi muốn hỏi khi Điều 712 dân luật bắt kẻ nào làm thiệt hại đến người khác phải bồi thường cho người ấy, và Bộ Hình luật làm tội những kẻ đánh nhau hay giết người không phải vì cớ chính trị, thì là bảo vệ ai và đàn áp giai cấp nào?"

" 2- Trên tiền đồ tiến bộ sau này, một khi loài người đã xoá hết dấu vết giai cấp, bộ máy Nhà nước được cất vào Viện bảo tàng, thì Tư pháp cũng chỉ còn giá trị một món đồ cổ mà thôi" (Quang Đạm)

 

Vũ Trọng Khánh trả lời: " Ta cũng mong rằng Tư pháp, Hành chính và Quân sự cũng được xếp vào kho đồ cổ đó. Nhưng thời kỳ ấy còn xa lắm thay! Hiện nay ta vẫn còn cần đến Quân sự, Hành chính và Tư pháp. Hiện nay Nga vẫn còn luật pháp và toà án. Vả lại theo đúng biện chứng pháp, chưa chắc cái xã hội cộng sản đã là không chứa những mối mâu thuẫn khiến cho nó lại phải biến chuyển đi nữa. Thái độ khoa học hơn cả là nghĩ rằng ta chưa có thể nhận được xã hội cộng sản sẽ hứa những động cơ gì (động lực), vây ta cũng chưa nên hấp tấp nói rằng lúc ấy Quân sự, Hành chính, Tư pháp sẽ mất hẳn. Có khi nó chỉ biến hình thức, biến cách tổ chức mà thôi. Dù sao tranh luận về điểm này cũng như đi tìm quả đất ở đâu sinh ra và sẽ đi đến đâu" (...)

Đối với Tư pháp và cán bộ Tư pháp Việt nam, ý kiến của hai ông tranh luận như sau:

"7- Sau khi nói rằng: Cách mạng tháng 8 bùng nổ, các phần tử trí thức được bổ dụng. Ông Quang Đạm buộc tội họ đã ngăn trở "công việc tiêu diệt các lực lượng phản động", rồi hô to; "không thể để như thế được".

Trả lời: "Thực ra cả ông và tôi đều không có quyền phân xử. Chỉ nhân dân mới được quyết đoán. Vậy xin ông hỏi nhân dân xem có nên giao quyền tư pháp cho các Uỷ ban hành chính như ở chế độ uỷ viên tư pháp lúc đầu tiên không? Có nên bãi bỏ Toà án đi không? Có nên hợp nhất quyền hành chính và tư pháp như khi còn ở chế độ Pháp bảo hộ không? Sự bắt bớ và làm tội rất thận trọng và có phương pháp của toà án có gọi là cản trở công việc tiêu diệt phản động không? Các phụ thẩm nhân dân (lấy cả ở trong các tỉnh bộ và trong các đoàn thể cứu quốc) có công nhận rằng thẩm phán xử một cách thực vô tư và độc lập không?".

Ông Vũ Trọng Khánh phát biểu tiếp:

"8- Khi một người nào muốn ra lệnh cho toà án phải xử như thế này, thế khác mà Toà án không nghe theo, thì chúng tôi cho rằng đấy là giữ quyền độc lập.

"Nếu ông Quang Đạm cho như thế là một thái độ đối lập, thì tôi muốn hỏi khi các thẩm phán can thiệp vào việc hành chính hay chính trị, các Uỷ ban sẽ cư xử như thế nào để cho khỏi thành ra đối lập?

"Ông Quang Đạm trách toà án có thủ đoạn độc quyền tuy rằng Chính phủ chỉ đặt ra thủ tục phân quyền. Có lẽ ông muốn trách rằng khi Nhà nước giao việc hành chính cho Uỷ ban và việc Tư pháp cho Toà án. Tại làm sao Toà án lúc xử án lại cứ khư khư làm một mình, cũng như Uỷ ban khi làm việc hành chính và chính trị lại không sang thảo luận với Toà án?

"9- Ông Quang Đạm khuyên rằng: Tư pháp phải kết hợp với Nhà nước mà đối lập với các lực lượng phá hoại chính quyền. Không một bộ phận nào được tách mình ra khỏi khối đoàn kết.

"Đáp lại lời kỳ quặc ấy, tôi chỉ hỏi: Các thẩm phán đứng trong hàng ngũ kháng chiến từ trước đến nay gọi là ở trong hay ngoài khối đoàn kết. Khi Tư pháp trừng trị những kẻ bắt người trái phép, tha bổng cho những kẻ bị bắt vô chứng cứ thì là phá hoại chính quyền hay củng cố chính quyền? Khi Tư pháp phản đối những sự giam cầm vô tổ chức có phải là đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, làm giảm uy tín của Nhà nước nhân dân hay không?

"10- Ông Quang Đạm còn khuyên: Phân quyền phải phối hợp với tập quyền, nghĩa là phân quyền theo lối phân công phụ trách trong phạm vi chuyên môn dưới sự chỉ huy tập đoàn về nguyên tắc căn bản.

Tôi lại phải hỏi ông hai điều:

"Một là, theo ý ông hiểu thì có lẽ khi nào xử án ông Chánh án phải bàn về nguyên tắc với Uỷ ban hành chính rồi mới ra toà ngồi xử; vậy khi làm các việc hành chính và chính trị thì các Uỷ ban có sang bàn với ông Chánh án trước đã rồi mới về thi hành không?

"Hai là, khi hai ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Tư pháp ngồi trong Chính phủ để cùng cả Hội đồng bàn định những chính sách thì có gọi là "một sự chỉ huy tập đoàn về nguyên tắc căn bản" không? Rồi sau khi Chính phủ giao việc hành chính cho các Uỷ ban, việc Tư pháp cho các toà án thì có gọi được là "phân quyền theo lối phân công phụ trách trong phạm vi chuyên môn’ không? Nếu được thì chính là cách tổ chức chính quyền hiện giờ. Vậy ông bất tất phải đặt thành vấn đề."

Cuối cùng, Ông Vũ Trọng Khánh viết:

"Thực ra những ý kiến của ông Quang Đạm không làm cho người dân nghi ngờ sự ích lợi thiết thực của Toà án, không làm cho các anh em hành chính quên rằng các toà án đã giúp cho anh em rất nhiều, bên hành chính biết rằng bên toà án đã giúp nhiều trong việc bắt mọi người phải tôn trọng thể lệ của bên hành chính đặt ra, trừng trị những kẻ làm rối cuộc trị an, không tuân lệnh của Chính phủ, tóm lại đã giúp cho sự củng cố chính quyền một cách đắc lực. ở nhiều nơi, Uỷ ban và Toà án đã hiểu rằng uy tín của chính quyền là trách nhiệm chung tất cả, chứ không phải rằng khi uy tín của một bên bị thương tổn là làm tăng thế lực của bên kia."

Báo Sự thật số 98 và 89 ngày 19/8 và 2/9/1948

Bộ trưởng Vũ Đình Hoè tham gia cuộc thảo luận:

Theo Đồng chí Vũ Đình Hoè có nói với chúng tôi (nhóm đề tài): "Tôi không trực tiếp can thiệp vào cuộc tranh luận giữa Quang Đạm - có thể coi như đại diện cho Toà soạn báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của những người nghiên cứu Chủ nghĩa Mác với Vũ Trọng Khánh, nguyên Bộ trưởng của Chính phủ lâm thời, chính thức nói tiếng nói của số đông cán bộ Tư pháp lúc bấy giờ.

Tôi thấy cần phát biểu, mặc nhiên lấy tư cách là người phụ trách đương nhiệm ngành Tư pháp, có phận sự hướng dẫn anh em đồng nghiệp về lý luận pháp lý, lý luận nghiệp vụ của ngành.

Bài tôi viết mang đầu đề: "Tư pháp trong chế độ dân chủ mới đăng trong Tạp chí Độc lập số 1, ra vào tháng 7 năm 1948. Bài viết dưới dạng nghiên cứu chứ không nhằm mục đích bút chiến với nhà báo Quang Đạm. Nó đã được các Giám đốc Tư pháp sử dụng làm tài liệu học tập cho tất cả cán bộ trong ngành; anh em đánh giá cao nội dung chính xác của nó về sự khẳng định "nền Tư pháp trong chế độ dân chủ mới xây dựng trên hai nguyên tắc căn bản.

1.- Nguyên tắc Tư pháp của nhân dân.

2.- Nguyên tắc Tư pháp độc lập với hành chính."

Sau mấy bài tranh luận của ông Vũ Trọng Khánh và bài viết của đương nhiệm Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hoè, đồng chí Quang Đạm có phát biểu thêm trên báo Sự thật số 98 và 99 vào cuối tháng 8 năm 1948 - đại ý như sau:

" Tôi viết mấy bài về tư pháp không hề có ý phạm tới cả giới tư pháp, một giới đang tham gia kháng chiến, đang phụng sự chế độ dân chủ cộng hoà. Tôi càng không có ý làm tổn thương tinh thần đoàn kết giữa tư pháp với các bộ phận khác trong Chính phủ, trong dân tộc. Trái lại tôi chỉ thiết tha mong mỏi một sự tiến bộ và một sự hợp tác chặt chẽ, chân thành do phê bình thẳng thắn để hiểu rõ nhau, chứ không phải một "sự hợp tác" theo kiểu đối phó.

" Mục đích hai bài về tư pháp không có gì khác việc góp một vài ý kiến khi nghe tin Bộ Tư pháp sửa soạn công việc làm luật và Bộ giáo dục mở trường pháp lý đào tạo cán bộ tư pháp. Đó là những việc có quan hệ mật thiết đến quyền lợi nhân dân" (...)

Cuối cùng, đến đầu năm 1950, Toà soạn báo Sự thật, số 125 ra ngày 6/1/1950, đưa tin: "Chúng tôi nêu lên vấn đề tư pháp được nhiều bạn sốt sắng tham gia ý kiến. Chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh tất cả các bạn. Hiện nay các quan điểm khác nhau và giống nhau đều đã rõ. Vậy để kết thúc, chúng tôi đăng tiếp bài này, nêu thêm mấy điểm cần chú ý. Mong góp một phần vào sự nghiên cứu vấn đề pháp lý của chúng ta".

Bài cuối cùng của nhà báo Quang Đạm như sau (Trích):

 

"Vấn đề Tư pháp, từ lúc đưa ra, đã được bàn cãi rất lâu và khá sôi nổi, tuy không liên tục lắm. Trên báo Sự thật, các ông Vũ Trọng Khánh, Lưu Anh, Vũ Trọng Côn và Tân Lân đã lần lượt lên tiếng. Tạp chí Độc lập cũng dành cho vấn đề này ba bài dài. Đối với các bạn chống lại quan điểm này của chúng tôi, độ cuối năm ngoái chúng tôi đã trả lời chung rồi. Gần đây, ông Vũ Trọng Khánh có viết tiếp một bài nữa. Hiện nay những chỗ căn bản khác nhau giữa hai lập trường có thể nói là đã rõ. Nếu ý định mở một cuộc thảo luận là thống nhất tư tưởng ngay thì thật chúng ta chưa đạt mục đích mong muốn. Nhưng nếu ta đặt mục đích là thu thập những ý kiến khác nhau để tìm cách đi tới thống nhất, thì tại đây ta có thể chấm dứt chặng đường thứ nhất và chuyển sang hình thức rộng hơn như những cuộc họp mặt đông đảo hay những buổi nghiên cứu chung chẳng hạn".

------------------------------------------

3. Sở giám đốc tư pháp khu

 

Hoàng Ngọc Trung

Nguyên Phó giám đốc Sở giám đốc tư pháp khu V

Về tên gọi thì Sở tư pháp ngày đó được gọi là Sở giám đốc tư pháp khu chứ không gọi là Sở tư pháp như bây giờ và có 3 khu:

Khu III : Có Phó giám đốc tư pháp khu;

Khu IV: Giám đốc là Trần Kim lý, Phó giám đốc là Dương Đình Nguyên;

Sở giám đốc tư pháp Miền nam Trung bộ sau gọi là Liên khu V: Giám đốc là ông Nguyễn Duy Đính, Cử nhân luật - Tri phủ; Phó giám đốc là tôi - Hoàng Ngọc Trung - Tri huyện.

Thời gian đó bộ máy tư pháp là nơi tập trung cán bộ tư pháp của Nam triều.

1. Sự hình thành bộ máy tư pháp của các tỉnh thuộc Bộ tư pháp:

Lúc đầu do Bộ tư pháp tổ chức và uỷ quyền cho các toà phúc thẩm (ở Trung bộ có toà phúc thẩm ở Huế) lấy mấy cán bộ chủ chốt mà lúc này người được Bộ tin cậy cử làm Trưởng lý và Chánh án là ông Nguyễn Xuân Dương và ông Nguyễn Chánh Thành cử nhân, dưới có một số ông tham lý. Ông Xuân Dương và Chánh Thành lựa chọn danh sách cán bộ tư pháp mà họ biết đề xuất cho Bộ ra Quyết định (Nghị định) đề cử làm thẩm phán của các toà án huyện, toà án tỉnh. ở Trung bộ, hai ông lục tra danh sách cán bộ Nam triều, cán bộ làm ở các toà sứ, cho nên phần nhiều là cán bộ của bộ máy cũ sau này mới có một số sinh viên năm thứ nhất, thứ hai trường luật (không học được) tham gia vào. Chính hai ông này đề xuất cho Bộ tư pháp ra quyết định thành lập các toà án bấy giờ, ở huyện gọi là Toà án sơ cấp, ở tỉnh gọi là toà án đệ nhị cấp. Cách tổ chức của toà án lúc bấy giờ theo hình thức toà án của tây, bởi chưa có mô hình nên tổ chức theo mô hình Toà án tư sản Pháp.

Đặc điểm: Toà án là cơ quan đặc biệt có hai thủ trưởng, một ngành công tố và một ngành xét xử ( gọi là thẩm phán đứng và thẩm phán ngồi), hai ngành mà đứng đầu ngành Toà án ở Tỉnh bên công tố có biện lý và phó biện lý, thẩm phán công tố. Bên toà án có Chánh án, Phó chánh án và thẩm phán xét xử ( Thẩm phán ngồi). ở huyện chỉ có một thẩm phán vừa làm công việc công tố và xét xử luôn. ở toà phúc thẩm Trung kỳ ( Huế ) bên công tố có ông trưởng lý, phó trưởng lý, tham lý công tố ( thẩm phán đứng), còn bên toà

án có ông Chánh nhất, phó chánh án và các thẩm phán toà thượng thẩm. Sau cách mạng tháng tám, cuối năm 1945 thì bổ dụng thẩm phán.

Lúc cách mạng tháng 8 rồi tôi làm Tri huyện đến khi giao chính quyền thì tôi ở lại giúp việc cho cấp huyện, tới tháng 1/1946 tôi được bổ dụng làm thẩm phán huyện ở Huế, sau mấy tháng thì được cử làm dự thẩm Toà án Quảng Nam - Đà Nẵng. Tháng 4/1946 thì các toà án tỉnh ở những vùng tự do có đủ thẩm phán. Các thẩm phán lấy từ cán bộ tư pháp cũ của Nam triều, của thực dân Pháp, trong số đó người có trình độ cao nhất là cử nhân luật, tú tài, tối thiểu cũng là Cao đẳng tiểu học.

Đến khi xảy ra toàn quốc kháng chiến ( 23/12/1946) trên dự trù là sẽ có sự chia cắt, không thể liên lạc với Bộ được. ở trung ương cũng có những thông lệnh về tổ chức bộ máy tư pháp, trong tổ chức bộ máy tư pháp thì có vấn đề thành lập Sở giám đốc tư pháp khu. Năm 1948, đồng chí Phạm Văn Đồng lúc đó là đặc phái viên của Chính phủ Trung ương tại miền Nam Việt Nam đề bạt tôi làm phó giám đốc Sở giám đốc tư pháp khu V. Thời gian đó các Toà án có Bộ tổ chức rồi, nhưng do chiến tranh nhiều địa phương chạy, vỡ. Nên để tổ chức lại bộ máy tư pháp, chúng tôi phải liên hệ tìm thêm người như anh em chạy ra vùng tự do, ở các địa phương bị vỡ và những địa phương mà chưa có tổ chức bộ máy. ở khu chúng tôi tổ chức được sự đoàn kết rộng rãi trong anh em, tránh sự bất lợi như phản động, cấu kết, (điều này cũng có một điều thuận lợi là nhân dân lúc này rất thích ngành tư pháp). Về nhân sự, thì chúng tôi có mời một số anh em làm cho bộ máy cũ quan lại như Tổng đốc, trí thức ( có ông làm Tổng đốc đã về hưu) tham gia vào làm công tác tư pháp, việc đưa mấy ông cán bộ, quan lại này ra làm tư pháp cũng không có phản ứng gì . Sau đó chúng tôi tiến hành tổ chức bộ máy, mở lớp huấn luyện bởi vì thẩm phán thì tương đối đủ nhưng còn thiếu lục sự ( nhân viên pháp lý, lập biên bản), chúng tôi đã tổ chức, liên hệ với các tỉnh tổ chức một lớp đào tạo lục sự có khoảng 30 đến 40 người, hầu hết là những ngươì có trình độ văn hoá khá, kháng chiến họ không đi bộ đội mà ra làm lục sự, cho nên chất lượng về hoạt động tư pháp như giấy tờ, văn bản... họ làm rất tốt ( Có thể nói vui một chút là Viện kiểm sát và Toà án bây giờ các việc liên quan đến giấy tờ còn thua ngày trước, có khi còn thua cả một tư pháp xã lúc bấy giờ của chúng tôi).

Còn đối với các tỉnh, chúng tôi chỉ tiến hành việc kiểm tra, theo dõi, hướng dẫn để họ thực hiện chế độ báo cáo biết họ có hoạt động đều đặn hay không, hướng dẫn họ làm sổ sách...Lúc này có một khó khăn là bỏ toà phúc thẩm, đáng lẽ án của Toà án đệ nhị cấp có kháng cáo thì đưa ra toà phúc thẩm Huế ( nhưng toà phúc thẩm Huế giải tán).....

Qua năm 1948, Bộ tư pháp thành lập Hội đồng phúc án nằm trong Sở giám đốc tư pháp, Hội đồng phúc án gồm các thẩm phán được chỉ định ( hầu hết là những ông quan lại một số cán bộ tư pháp, các ông Chánh án có uy tín tốt trong nhân dân đưa ra để tham gia vào Hội đồng này). Cụ Phạm Phú Tiết là Chánh án Toà án Quảng Nam - Đà Nẵng kiêm Chánh án Toà án quân sự làm Chánh án của Hội đồng phúc án, ông Nguyễn Tú là Phó chánh án Hội đồng phúc án ngoài ra lấy thêm một số ngưòi khác như anh Võ Quảng biện lý mới của Toà án Đà Nẵng...( hệ thống xét xử). Hệ thống công tố, bên Sở giám đốc tư pháp cử thêm một thẩm phán là tham lý công tố thay mặt thường xuyên cho giám đốc kiểm tra. Tham lý công tố lúc này là anh Quách Tạo, nguyên là biện lý của tỉnh Phú Yên. Lúc bấy giờ, những án nào có kháng cáo ở địa phương (thời đó gọi chung là kháng cáo), đó là những bản án mà nhân dân phản đối, biện lý không tán thành) thì chuyển lên Sở giám đốc tư pháp thông qua ông Tham lý công tố, ông tham lý công tố gửi lên Hội đồng phúc án, ông Tham lý công tố đại diện cho công tố viện. Những án nào không có kháng cáo thì anh biện lý ký thi hành hay nói cách khác là biện lý chỉ đạo thi hành án cấp tỉnh.

Hoạt động của Sở giám đốc tư pháp và Hội đồng phúc án lúc bấy giờ là vào khoảng từ tháng 4 năm 1947 đến cuối năm 1950 ( Sở giám đốc tư pháp chỉ có giai đoạn này).

2. Quan hệ của Sở giám đốc tư pháp với Bộ

Quan hệ giữa Bộ tư pháp với Sở giám đốc tư pháp hoặc ngược lại chỉ là gửi công văn, giấy tờ nhưng khi mất, khi còn, khi có, khi không. Quan hệ chủ yếu lúc bấy giờ là quan hệ với Uỷ ban kháng chiến hành chính, vấn đề tổ chức toà án, cử người đều do Uỷ ban kháng chiến hành chính ra quyết định. Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính khu V lúc bây giờ là ông Tháp (bác sĩ), nói chung Uỷ ban kháng chiến hành chính khu rất ủng hộ ngành tư pháp. Cán bộ tư pháp khu V xa cách trung ương, trình độ không cao, chỉ có ba anh đậu cử nhân là anh Nguyễn Duy Đính, Võ Bá Hộ, Nguyễn Trọng Tỉnh, phần nhiều là Cao đẳng, tiểu học, cao hơn một chút là tú tài (hết phổ thông cấp III), họ không có ý thức chống đối nên không xảy ra tình hình đối phó giữa cơ quan công an và Uỷ ban kháng chiến đối với ngành tư pháp mà đựoc ủng hộ nhiều không như khu III và khu IV. Quan hệ với bên công an cũng tốt bởi vì bên uỷ viên tư pháp công an chúng tôi uỷ nhiệm điều tra, giao gì họ cũng làm, chấp hành đầy đủ không như khu IV là công an làm tất cả.

Bên cạnh đó, Khu có tổ chức thi đua nên các Toà án hoạt động rất đều

 

trên tất cả các mặt như : Điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Trại giam thì do Uỷ ban chịu trách nhiệm, giám sát trại giam thì do biện lý các tỉnh quản lý.

----------------------------------------

4. Sở tư pháp Nam bộ

Huỳnh Ngọc Chi

Nguyên Giám đốc Sở tư pháp thành phố Hồ Chí Minh

Cuối năm 1949, tôi đang công tác ở Phòng Quân pháp của Bộ chỉ huy quân sự trực thuộc Ban Ngoại vụ Nam Bộ, thì có công văn của Sở Tư pháp Nam Bộ chiêu sinh dự lớp bồi dưỡng Chánh án, Biện lý Toà án các tỉnh thuộc Nam Bộ . Đồng chí Nguyễn Văn Tây tức Thanh Sơn (1).Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ kiêm trưởng ban Ngoại vụ Nam Bộ quyết định cử tôi đi dự lớp học này.

Do thời gian đã gấp, đường đi lại rất xa nên vừa có quyết định hôm trước thì ngay hôm sau tôi đã lên đường đi bộ hàng trăm cây số để cho kịp ngày khai mạc lớp. Lúc bấy giờ Sở Tư pháp đang đóng trụ sở ở miền Tây Nam Bộ thuộc Khu 9. Từ một vùng bí mật ở Hà Tiên ,tôi quyết định đi đường thuỷ vượt eo biển Rạch Giá vê miệt Thứ của vùng giải phóng Rạch Giá rồi đi bộ tiếp. Tuy có nguy hiểm hơn nhiều so với con đường đi bộ phải vượt lộ Cái Sắn nhưng đường đi sẽ được rút ngắn hơn phân nửa.

Lớp học này mở vào đầu năm 1950 là lớp có quy mô lớn và dài ngày so với thời bấy giờ (7 tháng) là lớp đầu tiên và là duy nhất loại này của Sở Tư pháp nên được tổ chức rất chu đáo. Cơ sở vật chất khá tươm tất gồm ba ngôi nhà lá rộng lớn, nền nhà cao ráo và sạch sẽ vừa được xây dựng xong ở vên rừng U minh và nhiều dẫy nhà phụ, có cả chồng trại chăn nuôi heo, gà, vịt để dự trữ lương thực cho nhà trường. Nơi ngủ là 3 dẫy sạp lát vạt tre, dài khoảng hơn 50 mét đủ cho khoảng 80 hoch viên, tuy không êm lắm nhưng trong hoàn cảnh kháng chiến như thế đã quá là tốt. Giảng viên gồm một lực lượng hùng hậu có các luật sư do Pháp đào tạo trong đó có người được đào tạo tại Pháp các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp như các Luật sư Trương Tấn Phát tức Trần Phong Quế (2), Luật sư Nguyễn Văn Kiêm (3), Luật gia Hồ Văn Xuân (4), Nguyễn Văn Viễn (5), Hồ Văn Diệu (6), Luật sư Tiến sĩ Trần Văn Khương (7)... và nhiều chuyên gia khác lo phần triết học.

Tôi còn nhớ sau buổi khai mạc, bài học đầu tiên là bài "Chủ nghĩa Mác và vấn đề luật pháp" do Luật sư Trương tấn Phát, giảng. LS. Trương Tấn Phát là một nhà lý luận pháp lý, đã học luật ở pháp năm 1946, được bầu đại biểu Quốc hội (khoá I) nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, được gần gũi và học tập ở Bác Hồ nên tiếp thu được quan điểm cách mạng tiến bộ. Nhưng lúc bấy giờ do điều kiện công tác khó khăn đồng chí lâm bệnh nên chỉ giảng một số bài chủ yếu còn người trực tiếp lo cho lớp là LS. Nguyễn Văn Kiêm và Lg. Hồ Văn Xuân (phó giám đốc).

Vào năm 1950 Pháp lệnh số 47 ngày 10/10/1945 do Hồ Chủ tịch ký vẫn còn hiệu lực. Do tình trạng kháng chiến rất ác liệt mà việc xây dựng một hệ thống pháp luật không phải là chuyện một ngày một buổi, nhưng trong nước không thể một ngày không có luật, do đó Hồ Chủ tịch mạnh dạn đề ra chủ trương rất sáng tạo và thiết thực cho ban hành Pháp lệnh số 47 nói trên quy định: cho đến khi ban hành được những bộ luật thống nhất cho toàn cõi Việt Nam, các pháp luật cũ được tạm thời duy trì. Do đó các học viên lớp học chúng tôi đều là những cán bộ, khá đông là chánh án, biện lý đang chức, đều có nghiên cứu pháp luật của Pháp, khi xét xử vẫn phải sử dụng các điều luật của Bộ hình luật canh cải hoặc Bộ dân luật. Chính lớp học này đã giúp chúng tôi có một quan điểm nhân dân của pháp luật trong chế độ cách mạng. Trong hoàn cảnh kháng chiếm mà một lớp học kéo dài 7 tháng là khá lâu nhưng bù lại chúng tôi được trang bị về lý luận, về quan điểm mới cũng như kinh nghiệm công tác pháp luật, khi gần mãn khoá, trường có tổ chức cho học viên tham gia các phiên toà thật với những bị cáo và đương sự thật để học viên thực tập qua thực tế. Tôi còn nhớ phiên toà hình sự mở ban đêm trong vùng giải phóng thuộc tỉnh Cần thơ ánh sáng của 3 ngọn đèn măng sông sáng rực. Phiên toà do Đ/c Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Cần thơ là chủ toạ, một đại diện bồ độ làm hội thẩm quân sự, một học viên làm hội thẩm chuyên môn pháp luật, một học viên làm biện lý và 3 học viên làm biện hộ sư nhân dân. Sau phiên toà có họp để rút kinh nghiệm chu đáo và thẳng thắn.

Sở dĩ tôi nói nhiều vè lớp này vì đó là lớp học pháp lý đầu tiên đã đưa chủ nghĩa Mác vào vấn đề luật pháp, có phân tích bản chất của pháp luật và tính nhân dân của nó, hoàn toàn trái với trước đó chúng tôi chỉ học nặng về tính hình thức, mà ít đi vào nội dung bản chất của vấn đề.

Sau lớp học này tôi được chuyển hẳn công tác về Sở Tư pháp nam Bộ, Sở Tư pháp Nam Bộ lúc đó có khoảng hơn 20 cán bộ nhân viên do Đ/c Trương Tấn Phát tức Trần Phong Quế làm Giám đốc và hai đồng chí LS. Nguyễn Văn Kiêm và Hồ Văn Xuân là Phó giám đốc. Cho đến nay số còn lại như luật sư Nguyên Văn Kiêm, Lê Quan Thẩm (8), Nguyễn Văn Thạch tự Huế tức Sáu Cẩm (9), Nguyễn Văn Hội (10), Mai Hà San (12), Bùi huy Sắt (13)... Lúc bấy giờ trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, anh chị em chúng tôi, từ Ban Giám đốc đến nhân viên đều ra sức lao động để góp phần tự túc về ăn và mặc sao cho cơ quan như là ruộng nuôi tằm, chài cá, hái rau, bắt cua... công việc in ấn cũng do cơ quan tự làm nhiệm vụ chuyên môn của Sở Tư pháp lúc bấy giờ là quản lý toàn bộ về bộ máy cũng như nhân sự của Toà án cấp tỉnh, huyện và ban Tư pháp xã. Nhiệm vụ cụ thể của chúng tôi là hướng dẫn đường lối xét xử, nghiệp vụ cho các Toà án cấp tỉnh đề bạt cán bộ, tổ chức bộ máy cho hệ thống các Toà án và nhất là chúng tôi rất đặc biệt quan tâm việc xây dựng và củng cố Ban Tư pháp xã làm hạt nhân đoàn kết nhân dân ở địa phương. Lúc bấy giờ trong vùng giải phóng rất ít những vụ hình sự cũng như dân sự, ban đêm nói chung nhà không đóng cửa, việc tranh chấp về tài sản cũng ít khi xảy ra nên công tác xét xử có hạn chế và chúng tôi tập chung vào công tác Tư pháp ở xã là chủ yếu. Trong công tác cụ thể chúng tôi phải áp dụng các điều khoản pháp luật của Pháp nhưng dưới quan điểm mới của cách mạng.

Chúng tôi thường đi tận các xã, lội bộ mỗi ngày hàng mấy chục cây số để tổ chức bồi dưỡng công tác Tư pháp xã tận địa phương tạo nên một lực lượng chân rết băt rễ sâu vào đồng bào về công tác tư pháp. Hoạt động của Ban Tư pháp chủ yếu là ở địa phương, có quần chúng trực tiếp tham gia, mọi việc giải quyết đều dưa trên tính hợp lý và hợp pháp của pháp luật và chính sách đại đoàn kêts dân tộc. Lúc bấy giờ có một sự kiện lịch sử làm thay đổi toàn bộ nếp sống kháng chiến của chúng tôi đồng thời đánh dấu một thắng lợi lớn của nhân dân ta. Sau Hiệp định Giơnevơ, thi hành việc chuẩn bị tập kết Chính quyền cách mạng được tiếp quản một số vùng bị địch tạm chiếm để làm khu tập kết tạm thời nhân sự phía cách mạng.

Theo lệnh trên, lúc bấy giờ Sở Tư pháp Nam Bộ đã cử một số đồng chí Nguyễn Văn Hiền (14), Trần Thiện Dõng (15), Hoàng Trung Tiếu (16) và tôi tham gia đoàn tiếp quản khu vực Cà Mau, và trong đó tôi và đồng chí Hiền tiếp quản thị trấn Cà Mau, thị trấn Cà Mau lúc đó là trung tâm quản lý về chính trị nên tình hình an ninh rất phức tạp. Lần đầu tiên chúng tôi tham gia quản lý một thị trấn lớn, có vị trí chính trị hết sức quan trọng. Nhưng nhờ sự giúp đỡ và tình cảm của đồng bào vùng giải phóng cũng như vùng thị trấn vừa tiếp quản nên trật tự an toàn xã hội được tốt. Những phần tử xấu đều không giám rục rịch chống đối gì cả. Toàn bộ đoàn cán bộ từ đồng chí Chủ tịch Uỷ ban quân quản là Nguyễn Xuân Hoàng đến nhân viên bình thường đều ăn ở tại dinh viên chủ quản trước đây. Lúc đầu chúng tôi mặc đồng phục bà ba đen có ngắn huy hiệu đỏ sao vàng trước ngực. Sau đó độ một tháng thì toàn bộ mặc đồng phục quần âu áo sơ mi ka ki sám. Tiểu đoàn danh tiếng 307 được giao việc bảo vệ trật tự trị an toàn thị trấn.

Lúc bấy giờ đồng bào ở Sài gòn và các vung tạm chiếm khác tập lập đổ về Cà Mau để thăm thân nhân từ vùng giải phóng ra và chung vui chiến thắng ở thị trấn Cà Mau. Thi trấn lúc nào cũng đông nghịt người như ngày hội lớn.

Lúc đó chính quyền cách mạng chúng tôi có tổ chức liên tục những buổi chiếu phim cách mạng cẻu yếu là phim Liên Xô, dựng lên nhiều sân khấu kịch, cải lương. Các đoàn thể ở vùng giải phóng và cả các chiến sĩ Tiểu đoàn 307 cũng thường xuyên tổ chức những buổi liên hoan văn nghệ ngoài trời để chung vui với bà con. Đồng bào Sài gòn xuống, chỉ qua một buổi là quen thân với các cán bộ cách mạng. Xe đò chạy đượng Sài gòn Cà Mau lúc nào cũng tấp nập và đông khách lần đầu tiên đến thăm vùng giải phóng.

Không khí ở Cà Mau lúc ấy rất vui, tưng bừng và rất xúc động. Các hiệu quán ở thị trấn tấp nập người mua kẻ bán, giá cả phải chăng, không có nói thách, người ta gặp nhau luôn chào hỏi, lễ phép và lịch sự, chan hoà và ấm cúng.

Về mặt công tác tư pháp Đ/c Hiền và tôi chịu trách nhiệm về các việc có liên quan đến pháp luật. Chúng tôi trực tiếp giải quyết các thắc mặc, trả lời những câu hỏi của người dân đang thấy cái gì cũng lạ, giải thích pháp luật ở vùng giải phóng và chính sách của chính quyền cho bà con? Đặc biệt lúc bấy giờ tuy thời gian không nhiều nhưng chúng tôi có tổ chức hai phiên toà, một phiên Toà dân và một phiên Toà hình được bà con đến dự rất đông và tất cả đều hoan nghênh nhiệt liệt lề lối xét xử có tính nhân dân và chặt chẽ của ta. Báo Nhân dân lúc bấy giờ đã từng thuật lại vụ án tranh chấp nhà cửa tại thị trấn dưới đầu đề lớn đăng trọn nửa trang báo "Công lý chí minh chiếu sáng thị trấn Cà Mau" được đồng bào rất đồng tình.

Đến khoảng gần cuối năm 1954, chúng tôi rời thị trấn lên tàu Arkhangel của Liên Xô đi tập kết ra Bắc chấm dứt thời gian hoạt động ở Sở Tư pháp Nam Bộ trong những ngày lịch sử đó.

Sau này, có dịp học tập pháp luật ở các giáo sư Liên Xô, trong hội trường rộng lớn chan hoà ánh điện, chúng tôi nghiệm ra tất nhiên việc giảng dạy có đầy đủ hơn, trình độ cao hơn, lãnh hội có thuận lợi hơn nhưng những chân lý chủ nghĩa Mác và vấn đề pháp luật mà chúng tôi đã học ở lớp đầu tiên ở rừng U minh, về cơ bản cũng hoàn toàn đúng, nhất là tính giai cấp và quan điểm nhân dân trong việc sử dụng pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống của nhân dân và công tác quản lý Nhà nước.

 

 

(1). Đ/c Thanh Sơn đã về hưu tại TP.HCM.

(2). Đ/c Trương Tấn Phát, Uỷ viên UB thường vụ Quốc hội đã chết do tai nạn tại TP. HCM.

(3). Đ/c Nguyễn Văn Kiêm đã về hưu tại TP. HCM.

(4), (5), (6). Các đồng chí này đều đã qua đời.

(7). Đ/c Trần Văn Khương, luật sư, hiện ngụ tại Q1 TP. HCM.

(8). Đ/c Lê Quang Thẩm nguyên Chủ tịch Long an – phó tổng Thanh tra Nhà nước đã về hưu

(9). Đ/c Sáu Cẩm nguyên UV thường vụ quẩn uỷ quận Bình thạnh đã về hưu tại TP.HCM.

(10). Đ/c Nguyễn Văn Hội nguyên chánh án Toà án nhân dân TP.HCM hiện là UV thường vụ Hội Luật gia TP.HCM.

(11). Đ/c Huỳnh Ngọc Chi nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM hiện là UV thường vụ Hội Luật gia TP.HCM.

(12). Đ/c Mai Hà San - Hiệu trưởng trường Đại học kiến trúc TP.HCM.

(13). Đ/c Bùi Huy Sắt nguyên chánh văn phòng Toà phúc thẩm TAND tối cao đã về huy tại TP.HCM

(14). Đ/c Nguyễn Văn Hiền đã về hưu tại TP.HCM.

(15). Đ/c Trần Thiện Dõng đã qua đời tại TP.HCM.

(16). Đ/c Hoàng Trung Tiếu nguyên thẩm phán TAND TP.HCM, Chủ tịch công ty luật thống nhất

-------------------------------------------

5. Hồi ký những mẩu chuyện về tổ chức, công tác xây dựng và hoạt động của ngành pháp chế từ năm 1975 - 1982

 

Phạm Tống Hoằng

Nguyên Phó chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế

I. Lời nói đầu

Theo yêu cầu của đồng chí Nguyễn Đình Lộc Bộ trưởng Bộ tư pháp kêu gọi trong buổi lễ phát Huân chương vì sự nghiệp tư pháp, cho những người có công lao đóng góp xây dựng ngành tư pháp Việt Nam, tôi xin ghi lại sơ lược và những mẩu chuyện mà tôi hồi tưởng lại thời gian công tác của mình, từ tháng 4/1975 đến khi bị bệnh phải nghỉ hưu luôn cho đến nay.

Thưa các đồng chí, trong người tôi hiện nay vẫn còn mang nhiều bệnh hoạn chưa khỏi, tuổi đời tôi đã nhiều (sinh năm 1917) và đã nghỉ hưu qua một thời gian khá dài (13 năm) nên trí nhớ bị lãng quên đi nhiều. Ngay cả việc mình làm mà đến nay cũng không nhớ hết, huống chi các chi tiết sự việc đã qua và việc làm của các đồng chí khác không còn nhớ để kể. Vậy tôi có thể ghi lại những nét lớn của sự việc, tóm gọn những nét cơ bản và ý chính trong sự kiện mà đến nay tôi còn nhớ, đã làm, thấy và biết trong thời gian nói trên, để Ban biên tập sưu tầm thêm tình hình và số liệu qua các đồng chí khác còn mạnh khoẻ, có công tác pháp chế trong thời kỳ đó, bổ sung mà biên soạn cho đầy đủ hơn.

Tôi xin lưu ý quí đồng chí làm biên tập, người già yếu như tôi giảm sút minh mẫn, đầu óc quên nhiều nhớ ít và thường bị lẫn lộn sự việc, nội dung và lẫn lộn thời gian, địa điểm, nên khó tránh khỏi thiếu sót. Đấy là chưa kể người do quan niệm nhận thức theo chủ quan, thậm trí có ý kiến nói thiếu trung thực , tự đề cao mình, nhấn mạnh mặt này, mặt khác làm cho lịch sử bị xuyên tác. Vậy tôi xin đề nghị Ban biên tập khách quan tổng hợp tình hình và số liệu do các đồng chí có công tác trong thời gian ấy kể lại, quí đồng chí biên tập hệ thống hoá lại, gạt bỏ bớt những ý và việc trùng lặp và không đúng trong thực tế lúc bấy giờ để nhằm khắc phục các nhược khuyết điểm như nói trên.

II. Vấn đề tổ chức và cán bộ của ngành

A. Tình hình khi tôi mới sang nhận công tác

 

Tôi là Phạm Tống Hoằng nguyên là phó bí thư của tỉnh uỷ Long Châu Hà (đ/c Thân Bí thư tỉnh uỷ là khu uỷ viên khu 9 phụ trách nên vắng mặt luôn) 1950 tôi đắc cử đại biểu của Tỉnh ủy đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai tại Việt Bắc năm 1951, sau Đại hội Đảng tôi được học lớp chính trị trường Nguyễn ái Quốc Trung ương rồi đi học trường Bắc Kinh công học Trung Quốc. Đến khi về nước, Trung ương Đảng giữ tôi lại làm chuyên viên, rồi trưởng phòng, Vụ phó, Vụ trưởng ở Ban tổ chức trung ương Đảng và Ban kinh tế kế hoạch của Trung ương đảng, chuyên trách làm công tác quản lý cán bộ của các ngành trong khối mình phụ trách, giúp trung ương trực tiếp quản lý, điều động, đề bạt, bổ nhiệm các chức vụ Chánh, Phó giám đốc, Bộ thứ trưởng và tương đương. Đến tháng 4/1975 Trung ương và Chính phủ đề bạt tôi làm Phó chủ nhiệm kiêm Phó bí thư Đảng đoàn ủy ban pháp chế Chính phủ.

B. Tình hình tổ chức và cán bộ của ngành

 

Khi tôi mới sang nhận nhiệm vụ công tác ở Uỷ ban pháp chế tôi được Ban tổ chức trung ương Đảng và anh em cán bộ trong Uỷ ban cho biết : Uỷ ban pháp chế và hệ thống tổ chức đã được thành lập hơn ba năm rồi, nhưng hoạt động kém , không xây dựng và công tác phát triển lên được, nội bộ mất đoàn kết giữa lãnh đạo và lãnh đạo, mâu thuẫn giữa cán bộ với nhau. UBPC Trung ương mất tín nhiệm với Thủ tướng chính phủ, với các ngành ở trung ương và địa phương, tổ chức pháp chế các ngành, các địa phương gần như tan rã, lãnh đạo điều cán bộ tổ chức cho làm công tác hết, có nơi chỉ còn có một cán bộ văn phòng kiêm nhiệm thôi.

+ Tổ chức và nhân sự UBPC Trung ương.

- Ban lãnh đạo mới có đồng chí Trần Công Tường làm Chủ nhiệm kiêm Bí thư Đảng đoàn Uỷ ban pháp chế Chính phủ. Các Vụ, Viện và Văn phòng gồm có:

1. Văn phòng: Đồng chí Thảo là chuyên viên 2 phụ trách.

2. Vụ tổ chức cán bộ: Đồng chí Trần Châu Giáo làm Vụ trưởng.

3. Vụ pháp luật quốc tế: Đồng chí Cù Đình Lộ chuyên viên 3 phụ trách.

4. Vụ pháp luật chung và kinh tế: Đồng chí Tân Vụ phó phụ trách.

5. Vụ hành chính tư pháp: Chưa có cán bộ

6. Vụ hướng dẫn thi hành pháp luật: Chưa có cán bộ.

7. Vụ tuyên truyền: Chưa có cán bộ.

8. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý: Chưa có cán bộ

9. Nhà trường chưa có, mới có đồng chí Dũng chuyên viên từng lúc đi mượn địa điểm mở lớp bồi dưỡng và đồng chí Tường, Thảo, Tân đến giảng bài.

- Tóm lại, cả cơ quan Uỷ ban pháp chế mới có một đồng chí chủ nhiệm, 1 đồng chí Vụ trưởng, 1 Vụ phó, 7 chuyên viên 1,2 và một số nhân viên phụ trách các mặt công tác nghiên cứu, hành chính, lưu trữ, đánh máy, quản trị, thủ quĩ, lao công, lái xe.

+ Tổ chức và nhân sự tổ chức pháp chế ngành và địa phương

 

Các ngành ở Trung ương và các tỉnh thành địa phương miền Bắc như trên đã nói, lúc mới đầu cũng có đầy đủ hệ thống tổ chức và nhân sự của Ban hay phòng pháp chế trực thuộc với lãnh đạo Bộ, Ban và Uỷ ban các ngành trên Trung ương và trực thuộc với Uỷ ban hành chính tỉnh, thành. Nhưng qua một thời gian hoạt động thấy không có tác dụng nhiều, nên lần lượt rút cán bộ chuyên trách đi làm công tác khác, chỉ còn một số ít ngành Trung ương và tỉnh, thành còn một đồng chí Chánh hay Phó văn phòng kiêm nhiệm công tác tư pháp cho lãnh đạo mà thôi.

- Các tỉnh, thành phố phía Nam, sau giải phóng lúc đầu còn Bộ tư pháp của Mặt trận giải phóng Miền Nam. ở Bộ tư pháp lúc bấy giờ còn ông Tảng làm Bộ trưởng, đồng chí Thả làm Thứ trưởng và một số cán bộ quản lý hồ sơ, quản lý cơ quan Bộ và một số luật sư của Pháp còn ở lại, các địa phương tỉnh,thành chưa có tổ chức gì hết.

+ Cơ sở vật chất cơ quan Uỷ ban pháp chế Chính phủ

 

- Trụ sở cơ quan UBPC Chính phủ được Chính phủ cấp nhà của ngành bưu điện chuyển sang. Nhưng trong cơ quan đến khi tôi về, vẫn còn hai gia đình nhân viên bưu điện còn ăn ở trong cơ quan UBPC, chưa đưa ra được. Trang trí bàn ghế chưa đủ chỗ làm việc, cán bộ nhân viên pháp chế chưa có nhà còn nằm nên bàn làm việc để ngủ. Phía trước sân và phía sau cơ quan còn đầy cỏ rác, vũng nước, bùn lầy rất trở ngại cho ra vào đi lại làm việc trong cơ quan.

+ Tôi nhận xét

 

Đồng chí Trần Công Tường là một đồng chí đảng viên trí thức rất tốt, đã có thử thách trong quá trình tham gia hoạt động cách mạng và trung thành với Đảng, kinh qua Thứ trưởng Bộ tư pháp sau giải phóng miền Bắc, Viện phó Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung ương rồi điều sang làm Chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế kiêm bí thư Đảng đoàn Uỷ ban phap chế cho đến khi nghỉ hưu. Đồng chí Tường đã tốt nghiệp Đại học luật thời Pháp, hiểu biết về pháp lý rộng, đóng góp cho Đảng và Nhà nước được nhiều công lao trong quá trình công tác. Nhưng đồng chí Tường có nhược điểm về mặt công tác thực tế, có lý luận rộng nhưng phát biểu và đề xuất công tác theo diễn cảnh nen không thực hiện hoặc thực hiện kết quả ít. Đồng chí Tường quản lý công tác và tổ chức thực hiện còn chung chung, nên kết quả bị hạn chế. Nên không củng cố và phát huy tác dụng công tác của ngành. Cụ thể như đồng chí Tường thấy cần đào tạo cán bộ pháp lý nhưng đồng chí lại làm dự án Trường pháp lý của ta rất quy mô rộng lớn, chiêu sinh nhiều, để xin Thủ tướng chính phủ cho một khoảng ngân sách tương xứng để xây dựng. Nhưng trong lúc chưa có giáo trình, giáo án, chưa có cán bộ giảng viên, chưa có địa điểm và bộ máy quản lý nhà trưuờng nên Hội đồng chính phủ bác bỏ đề án đó.

III. Xây dựng phát triển ngành có hệ thống tổ chức.

1. Khi tôi mới sang Uỷ ban pháp chế:

 

- Cuối tháng 4/1975 Đảng và Chính phủ điều tôi và đồng chí Nguyễn Ngọc Minh Vụ trưởng Vụ pháp luật của Uỷ ban khoa học xã hội Trung ương sang làm Phó chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế Chính phủ. Đồng chí Tường triệu tập 2 chúng tôi để phân công cụ thể như sau:

- Đồng chí Tường Chủ nhiệm kiêm bí thư Đảng đoàn phụ trách chung.

- Đồng chí Hoằng Phó chủ nhiệm kiêm phó bí thư Đảng đoàn phụ trách nội bộ và các đơn vị:

+ Văn phòng Uỷ ban

+ Vụ tổ chức và cán bộ.

+ Vụ hành chánh tư pháp.

+ Vụ hướng dẫn thi hành pháp luật.

+ Nhà trường.

- Đồng chí Nguyễn Ngọc Minh phó chủ nhiệm kiêm uỷ viên Đảng đoàn phụ trách:

+ Vụ pháp luật quốc tế.

+ Vụ pháp luật chung và kinh tế.

+ Vụ tuyên truyền.

Tôi thấy giao nhiệm vụ cho tôi nhiều và nặng quá, tôi chưa học gì về pháp lý mà biết gì về chức năng, nhiệm vụ và nội dung công tác hành chính tư pháp, hướng dẫn thi hành pháp luật và công tác quản lý giảng dạy ở nhà trường. Mặc dù tôi trình bày lại nhưng đồng chí Tường vẫn không thay đổi, tôi báo cáo lên Ban tổ chức Trung ương Đảng và đồng chí Trần Hữu Dực Trung ương uỷ viên - Phó thủ tướng chính phủ lại giải thích lý do, khuyên nhủ động viên tôi nhận tất cả nhiệm vụ đồng chí Tường phổ biến phân công, tôi đành phải nhận. Về cơ quan tôi phải suy nghĩ đề ra chương trình, kế hoạch công tác của mình để trình lại với đồng chí Tường.

2. Các bước xây dựng ngành

 

A. Tôi đề nghị chương trình kế hoạch công tác: Để tiến hành củng cố, xây dựng tổ chức và cán bộ trong cơ quan và toàn ngành, tôi xin được tìm hiểu và học hỏi công tác của Uỷ ban. Tiến hành đi xin cán bộ và tuyển chọn, bổ sung sắp xếp lại cơ quan Uỷ ban pháp chế Trung ương và các ngành, các cấp địa phương. Xin thêm ngân sách để sữa chữa và phát triển mở rộng cơ quan, nhà ở cho cán bộ và từng bước xây dưng trường pháp lý. Giải quyết mâu thuẫn nội bộ và củng cố các tổ chức Đảng, công Đoàn cơ quan, đẩy mạnh công tác lên. theo dõi tình hình và công tác pháp chế toàn ngành để có sơ kết, tổng kết báo cáo lên cấp trên và cải tiến công tác hoạt động. Tôi trình lại chương trình kế hoạch này được Đảng đoàn chấp thuận cho tôi tiến hành xen kẽ chương trình này trong quá trình công tác

B. Công tác tư tưởng củng cố nội bộ cơ quan: Trước tiên, tôi trực tiếp gặp và trao đổi tình hình công tác tâm tư tình cảm của các đồng chí cán bộ trong cơ quan ( rất thuận lợi cơ quan có quá ít người nên tôi đi khắp lượt ). Tôi hỏi thăm tình hình sinh hoạt và đời sống từng gia đình cán bộ. Qua đó tôi lựa lời hoà giải, đoàn kết với nhau, cùng giúp đỡ cho nhau đẩy mạnh công tác ( vì khen chê công tác của Uỷ ban trong đó cũng có mình). Và bàn bạc tìm mọi biện pháp và điều kiện giải quyết khó khăn cho cán bộ nào nếu có.

Tôi bàn với đồng chí Giáo Bí thư chi bộ cơ quan họp toàn bộ chi bộ ( vì cơ quan mới có một chi bộ) tôi trình bày yêu cầu mục đích công tác tư tưởng và tình hình nội bộ cần được giải quyết như mất đoàn kết, thiếu an tâm công tác, thiếu nhiệt tình và ý thức giúp đỡ lẫn nhau, để cùng nhau tiến bộ. Tôi đề nghị các đồng chí thảo luận, phê phán, góp ý kiến xây dựng đoàn kết, củng cố lại tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn và dân quân, tự vệ, để bảo vệ cơ quan. Nên sau đó hạn chế bớt sự mâu thuẫn giữa đồng chí Tường và đồng chí Giáo ( bị tước nhiệm vụ công tác tổ chức và cán bộ ) Khắc phục mâu thuẫn của hai phe giữa đồng chí Giáo, đồng chí Hiếu, đồng chí Dũng... và đồng chí Thảo, Tân v..v không nhân nhượng cho nhau trong công tác, ngày càng được hạn chế nhiêù.

C. Xin cán bộ bổ sung cho Uỷ ban pháp chế Trung ương.

Tôi sang Ban tổ chức Trung ương Đảng báo cáo chương trình kế hoạch công tác của tôi và tình hình tổ chức,cán bộ trong Uỷ ban và đề nghị Ban tổ chức Trung ương cho tôi giấy giới thiệu và nội dung gợi ý cho tôi xin cán bộ quân đội chuyển ngành từ đại uý, thiếu tá, giới thiệu với Ban chấp hành thanh niên Trung ương cho một số cán bộ trung, cao đã quá tuổi để về bổ sung cho các đơn vị trong Uỷ ban pháp chế Trung ương.

Tôi và đồng chí Giáo Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ đi sang quân đội cầm giấy giới thiệu trao đổi, lần đầu được đồng chí Ngô Kiên cán bộ Toà án bên quân đội, quân hàm trung tá, đồng chí Tý thiếu tá và mấy cán bộ đại uý. Chúng tôi sang Ban chấp hành thanh niên Trung ương xin được đồng chí Lê Văn Sĩ, Trần Đình Sông là thưuờng vụ Ban chấp hành Đoàn và mấy cán bộ thanh niên xung phong khác. Càng về những năm sau, tôi và đồng chí Giáo từng bước xin cán bộ quân đội và các ngành, các cấp địa phương, sinh viên tốt nghiệp Đại học luật nước ngoài bổ sung dần lên, ngày càng hoàn chỉnh cho bộ máy.

3. Trở lại thời gian đầu tôi chỉ đạo, đồng chí tổ chức cán bộ lập hồ sơ, tôi đề nghị lên Ban tổ chức Trung ương duyệt và đề nghị Ban tổ chức Trung ương Đảng ra quyết định bổ nhiệm và đề bạt một số cán bộ lãnh đạo Vụ và văn phòng như sau:

+ Văn phòng Uỷ ban: Đồng chí Thảo chuyên viên II phụ trách.

+ Vụ tổ chức cán bộ: Đồng chí Giáo Vụ trưởng và một số cán bộ nghiên cứu.

+ Vụ pháp luật quốc tế: Đề bạt đồng chí Lộ Vụ trưởng, đồng chí Kiên Vụ phó và một số cán bộ nghiên cứu.

+ Vụ pháp luật chung và kinh tế: Đồng chí Tân Vụ phó phụ trách và một số cán bộ nghiên cứu.

+ Vụ tuyên truyền: Đề bạt đồng chí Sĩ Vụ trưởng và một số cán bộ nghiên cứu, về sau có tổ chức in ấn Tập san pháp lý do đồng chí Đức phụ trách.

+ Vụ hành chính tư pháp: Đề bạt đồng chí Song làm Vụ trưởng và một số cán bộ nghiên cứu.

+ Vụ hướng dẫn thi hành pháp luật: Đồng chí Tý thiếu tá phụ trách, chưa có cán bộ.

+ Viện nghiên cứu khoa học pháp lý: Do đồng chí Tường Chủ nhiệm Uỷ ban phụ trách, chưa có cán bộ.

+ Trường pháp lý lúc đầu chưa có, mà chỉ có đồng chí Dũng chuyên viên II phụ trách tổ chức lớp bồi dưỡng cho cán bộ thôi.

Hai phòng hành chính do đồng chí Mừng chuyên viên II phụ trách, phòng quản trị về sau có đồng chí Giá bên quân đội sang đề bạt phó văn phòng phụ trách. Bên dưới hai phòng càng về sau có đủ cán bộ, nhân viên phụ trách lưu trữ, đánh máy, thủ quỹ, lao động, cấp dưỡng, lái xe v..v

4. Xây dựng tổ chức và cán bộ Ban hay phòng pháp chế trực thuộc Bộ, ngành trung ương và trực thuộc Uỷ ban hành chính thành, tỉnh địa phương.

Tôi bàn với đồng chí Thảo phụ trách văn phòng, tập hợp tình hình và công tác pháp chế của ngành trong thời gian qua và chương trình công tác xây dựng, tổ chức và công tác trong thời gian tới. Tôi mang dự thảo báo cáo đó sang báo cáo với đồng chí Trần Hữu Dực - Phó thủ tướng và xin ý kiến triệu tập Hội nghị do đồng chí Dực chủ trì để mời đại biểu là Chủ tịch hay Phó chủ tịch trong thường vụ thành và tỉnh uỷ; mời đồng chí Bộ hay Thứ trưởng phụ trách tổ chức và cán bộ của Bộ và các ngành tương đương đến họp nghe tôi trình đọc báo cáo, đồng chí Dực sẽ cho ý kiến và nói về ý nghĩa,mục đích xây dựng và củng cố lại Ban hoặc Phòng pháp chế trực thuộc với lãnh đạo ngành và địa phương để làm công tác pháp chế. Đồng chí Dực cuối cùng chỉ thị cho các đồng chí đại biểu đó về báo cáo lại với Đảng , đoàn và cấp Uỷ để tiến hành xây dựng và củng cố lại hệ thống ngành pháp chế và tôi được trực tiếp với các đồng chí để trao đổi thực hiện. Sau khi báo cáo với đồng chí Tường và lên báo cáo và đề nghị với đồng chí Trần Hữu Dực chấp nhận, tôi viết giấy triệu tập họp luôn.

Hôm đó các đại biểu mời nói trên đến dự họp đông đủ. Đồng chí Trần Hữu Dực chủ trì, tôi đọc báo cáo sau đó đồng chí Dực phát biểu ý kiến đánh giá và nhận xét báo cáo tình hình và công tác, đề ra chương trình hành động của ngành để các ngành, các cấp lãnh đạo, đi sâu thực hiện đồng thời nói thêm về ý nghĩa công tác và mục đích bộ phận pháp chế giúp cho lãnh đạo về mặt pháp lý không thể thiếu được. Vậy các đại biểu về thực hiện bổ sung cán bộ xây dựng lại tổ pháp chế của mình cho thật đầy đủ và phát triển mọi mặt về tổ chức và công tác ngày càng tốt hơn. Qua Hội nghị này, tôi và đồng chí Giáolần lượt đến các ngành, các Bộ trung ương và các thành, tỉnh địa phương miền Bắc bám lấy Vụ tổ chức cán bộ và lãnh đạo của các ngành và địa phương để xây dựng. Sau một thời gian các ngành, các tỉnh, thành địa phương đều có Ban hay phòng pháp chế với vài ba cán bộ chuyên trách hay Chánh hoặc phó văn phòng kiêm nhiệm với một vài cán bộ nghiên cứu. Dần dần về sau này có nhiều cán bộ tăng cường thêm trở thành một hệ thống từ Trung ương đến địa phương ngày càng lớn mạnh.

Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất nước nhà, lúc đầu còn Bộ tư pháp miền Nam giải phóng. Tôi vào miền Nam để nắm tình hình công tác của ngành tư pháp, có đến liên hệ với Bộ tư pháp bàn về công tác, nắm tình hình, thu thập hồ sơ, số liệu. Trong Bộ tư pháp miền Nam gồm có ông Nguyễn Như Tảng làm Bộ trưởng; đồng chí Thả làm thứ trưởng; đồng chí Nghĩa chánh Văn phòng và mấy cán bộ nhân viên công tác ở văn phòng. Tình hình hoạt động của Bộ tư pháp chưa có gì, tôi chỉ thu thập hồ sơ, tài liệu pháp luật và lên danh sách mấy chục luật sư cũ mang về nộp cho đồng chí Tường và cho Ban tổ chức Trung ương danh sách nhân sự. Còn các tỉnh thì vẫn chưa có tổ chức Tư pháp.

Sau khi Bộ tư pháp miền Nam giải phóng. Uỷ ban pháp chế Trung ương và tổ chức pháp chế ngành ở trung ương và các địa phương đã hình thành tổ chức tư pháp và bắt đầu hoạt động đều. Tôi và đồng chí Giáo vào miền Nam xây dựng Ban hay phòng pháp chế của các địa phương. Tôi đến gặp Ban tổ chức thành uỷ và thường trực Uỷ ban nhân dân thành phố mấy lần mới xin được đồng chí Chương, đồng chí Chi phụ trách và một số cán bộ nghiên cứu công tác thành lập Ban pháp chế sau đổi tên là Sở tư pháp cho đến bây giờ. Tôi và đồng chí Giáo nhiều lần xuống các tỉnh, thành phố Cần Thơ cùng đi thương thuyết thành lập tổ chức và bố trí nhân sự như vậy. Mới đầu cũng có đôi ba cán bộ sau tăng cường cán bộ thêm và lập Phòng pháp chế quận huyện có 1,2 cán bộ chuyên trách hay kiêm nhiệm, nhất là đồng chí Giáo thời gian sau thường vào đôn đốc xây dựng tổ chức, nên sau này mới có một hệ thống của ngành trong toàn quốc.

IV. Về công tác tư pháp

Về hoạt động công tác chuyên môn, nghiên cứu và xây dựng, xét duyệt các đề án pháp luật v..v. Đồng chí Trần Công Tường và đồng chí Nguyễn Ngọc Minh giúp cho Hội đồng Chính phủ và Quốc hội, có chương trình tổ chức thực hiện công tác pháp chế là chính, tôi đóng góp về mặt này do thiếu trình độ lý luận pháp luật nên rất hạn chế. Mặc dù tôi ngày đêm rất cố gắng học hỏi với đồng chí Thảo, đồng chí Tân, đồng chí Lộ cán bộ trong ngành, nên đóng góp lãnh đạo chung của toàn ngành rất hạn chế

Về công tác hành chính - tư pháp, đồng chí Thảo, đồng chí Phùng giúp tôi xây dựng đề án tổ chức phòng luật sư, phòng công chứng của ngành, để chỉ đạo hướng dẫn Vụ hành chính - Tư pháp và đồng chí Song tổ chức nghiên cứu thực hiện và hướng dẫn các ngành tư pháp hành chính bên dưới. Được đồng chí Tường đồng ý tôi bàn với đồng chí Giáo, đồng chí Phùng lấy một số cán bộ luật sư cũ và cán bộ được học bồi dưỡng pháp lý thành lập phòng luật sư và theo yêu cầu của toà án mà phân công cán bộ luật sư của phòng đi biện hộ và ngày càng phát triển lớn lên và hướng dẫn cho các địa phương tổ chức tổ luật sư bào chữa cho địa phương được tốt.

Tôi cùng với đồng chí Tý Vụ hướng dẫn thi hành pháp luật tổ chức một số cuộc họp với các phong, ban pháp chế các ngành Trung ương. Tôi nói rõ tình hình và ý nghĩa xây dựng biên soạn hệ thống hoá các luật pháp trong các Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định trên gửi xuống các ngành, địa phương bị chồng chéo lẫn nhau, phủ định nội dung văn bản khác nhau, cần phải biên soạn lại nội dung nhất quán, trình lên lãnh đạo, lên Hội đồng Chính phủ ra quyết định sửa đổi. Đồng chí Tý còn giúp tôi tổ chức các cuộc họp với các ngành, phổ biến và đôn đốc các ngành thực hiện Chỉ thị 59/TTCP chống tác phong và lề lối làm việc quan liêu, hách dịch, gây phiền cho cán bộ khác và nhân dân có kết quả đáng khích lệ. Ngoài ra còn đi các địa phương họp với các đồng chí cán bộ pháp chế các ngành trong nhiều lần để hướng dẫn thi hành pháp luật, phản ánh tình hình, tổng kết công tác hàng năm về ngành để cải tiến phát triển lên.

Tôi và đồng chí Thảo thường xuyên thảo luận chỉ đạo công tác văn phòng, như xây dựng báo cáo sơ kết, tổng kết hành năm, hàng quý và cuối năm của ngành đều đặn, đồng chí Thảo chủ bút. Tổ chức các cuộc họp chuyên môn của ngành và làm báo cáo khi cần có. Đồng chí Thảo thường xuyên cập nhập của cácVụ pháp chế Trung ương các ngành và địa phương thực hiện pháp chế và tình hình mới hàng tuần báo cáo cho tôi biết, không kể tình hình đột xuất bất thường xảy ra, để tôi báo cáo với cấp trên và tôi mới có ý kiến chỉ đạo kịp thời. Cuối năm tôi thường xuyên tổ chức hội nghị toàn ngành để báo cáo tổng kết tình hình và công tác pháp chế của toàn ngành và chương trình kế hoạch công tác cho năm sau để anh em thực hiện, có tổ chức thi đua, phát bằng khen của Uỷ ban pháp chế Trung ương.

Tôi bàn với đồng chí Thảo và anh em quản trị tăng cường cán bộ để kiện toàn tổ chức, xin thêm ngân sách sửa chữa và xây thêm nhà làm việc cho cơ quan, xin nhà ở cho cán bộ, đưa các hộ dân ra khỏi cơ quan. Ngoài ra tôi bàn với Chi uỷ củng cố lại tổ chức Đảng, công đoàn, bảo vệ cơ quan sinh hoạt đều kỳ. Khi phát triển cơ quan lớn lên có nhiều Đảng viên, chia ra nhiều chi bộ, tôi thường xuyên được bầu bí thư chung, sau bầu Bí thư đảng uỷ suốt qua các nhiệm kỳ đến khi tôi về hưu mới bầu lại đồng chí khác. Song song với củng cố tổ chức và sinh hoạt của Đảng bộ cơ quan, tôi cũng bàn bạc với anh em củng cố và tổ chức sinh hoạt của các công đoàn, đoàn thanh niên, tổ chức bảo vệ cơ quan đi vào nề nếp.

Đặc biệt có một vụ cán bộ vi phạm kỷ luật nội quy, nguyên tắc tổ chức của cơ quan trong Uỷ ban, như anh Chín là cán bộ của Vụ pháp luật chung và kinh tế, đã qua nhiều lần nghỉ phép đi vào miền Nam quá hạn hàng tháng, lần này anh đi khám nghĩa vụ quân sự trúng tuyển, có giấy báo cho cơ quan biết ngày nhập ngũ để thu xếp cho anh đi nghĩa vụ quân sự. Anh lại đề nghị với đồng chí phụ trách Vụ và công đoàn cho anh nghỉ phép vào Nam để thăm bà con. Đơn vị Vụ không cho vì sợ anh đi phép quá thời gian về không kịp nhập ngũ. Anh Chín chạy lên lãnh đạo Uỷ ban trình bày lại, hứa hẹn về trước ngày nhập ngũ, nếu trễ anh xin chịu trách nhiệm và kỷ luật. Anh đi phép qua ngày cơ quan điện gọi anh vẫn không chịu về để đi nghĩa vụ, vì quân đội đã có công văn gọi và có ý kiến thiếu người trong đợt này cơ quan phải chịu trách nhiệm. Cơ quan lại có điện gọi anh cũng không về, cán bộ công tác miền Nam về báo lại: Anh Chín đang xin công tác ở trong Nam. Anh Chín ở lại trong đó gần ngót 1 tháng trễ ngày nhập ngũ và quá ngày phép đã lâu, nên ở trong đó không cơ quan nào dám nhận, nên anh phải về nhà, mà cũng không báo cho cơ quan biết.

Vụ pháp luật chung và kinh tế khi biết đến nhà gọi anh vào cơ quan kiểm điểm và đi nhập ngũ. Anh đến kiểm điểm, nhận khuyết điểm nghỉ phép quá hạn nhiều lần, anh đề nghị miễn nghĩa vụ và chịu kỷ luật cảnh cáo. Họp tổ công đoàn và chi bộ anh em phê phán nhiều và đều đề nghị có hai ý kiến:

Một là buộc thôi việc, thứ hai chỉ có 1 hoặc 2 người đề nghị cảnh cáo và giao cho bên quân đội kết án theo luật pháp ( Theo quy định trốn đi nghĩa vụ bị phạt giam 3 tháng). Sau đó đưa lên Hội đồng kỷ luật tôi là chủ tịch,Đảng uỷ, công đoàn và đồng chí phụ trách Vụ công tác của cán bộ đó họp, mời cán bộ đó lên để trao đổi thông qua kỷ luật. Hội đồng kỷ luật bàn bạc, thảo luận về hành động vô kỷ luật nhiều lần đi trễ phép, lần này lại trốn không chấp hành nghĩa vụ quân sự sau khi đất nước mới giải phóng, bên quân đội đề nghị cơ quan có kỷ luật giải quyết. Hội đồng kỷ luật nhất trí đề nghị Chủ nhiệm Uỷ ban pháp chế kỷ luật buộc anh Chín thôi việc và cho 3 tháng lương về nhà làm ăn.

Khi trình lên đồng chí Tường nhất trí đã ký quyết định theo kết luận của Hội đồng kỷ luật. Sau đó anh Chín khiếu nại với đồng chí Tường, là cha mẹ anh trong kháng chiến chống Pháp có hiến cho Đảng mấy chục ki lô vàng và một căn hộ nhà để làm trụ sở, anh đã nhận khuyết điểm và xin rút lại quyết định kỷ luật. Đồng chí Tường nói lại và đề nghị tôi chỉ thị cho anh em và văn phòng viết công văn xin rút lại quyết định nói trên. Tôi nói không thể được ta làm như vậy là sai nguyên tắc tổ chức, anh em trong cơ quan coi thưuờng lãnh đạo và nội quy công tác trong cơ quan, nếu có ai làm sai mình không lãnh đạo được. Sau đó đồng chí Minh Phó chủ nhiệm lại khuyên tôi nể gia đình có cống hiến tài sản cho cách mạng và nhờ đồng chí Vũ Tuân Trung ương uỷ viên - Chánh văn phòng Hội đồng Chính phủ đề nghị tôi giảm kỷ luật cho Chín, tôi không đồng ý. Anh Chín lại đi trực tiếp báo cáo tình hình bị kỷ luật và yêu cầu chiếu cố gia đình anh có công với cách mạng mà can thiệp với tôi phải giảm bớt kỷ luật để anh được ở lại công tác, nên anh Vũ Tuân, anh Lê Đức Thọ và anh Trường Chinh gọi điện thoại cho tôi bảo giảm kỷ luật cho anh Chín, tôi phảp trình bày cụ thể lại quá trình kiểm điểm sai phạm; Vụ chuyên môn, chi bộ , tổ công đoàn nhất trí kỷ luật nghiêm khắc, đề nghị Hội đồng kỷ luật xét duyệt, đồng chí thủ trưởng Uỷ ban đã ký quyết định gửi đi khắp nơi rồi. Nếu các anh cho chúng tôi làm như vậy là quá đáng, xin có công văn hay trực tiếp chỉ thị cho chúng tôi thấy việc làm của mình mức độ đúng sai, chỉ thị phải giảm kỷ luật, chỉ thị rút quyết định để chúng tôi thi hành, nên các đồng chí lãnh đạo không có ý kiến nữa. Nhờ có sự kiên quyết đó mà cán bộ công nhân viên chức trong cơ quan thực hiện nội quy rất nghiêm chỉnh về sau.

Tóm lại tất cả việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác của tôi nói trên nhất nhất đều có báo cáo và thông qua đồng chí Tường Chủ nhiệm - Bí thư Đảng đoàn góp thêm ý kiến. Những việc có liên quan với đồng chí Minh, với các ngành, các cấp tôi đều có trực tiếp trao đổi thương lượng. Hàng tháng, quý, năm đều có báo cáo lên Phủ thủ tướng và các kỳ họp Hội đồng Chính phủ tôi thường đại diện của Uỷ ban pháp chế đến dự, nên năm sđược tình hình chung, học tập kinh nghiệm mà nâng dần kiến thức và kết quả công tác được tốt hơn.

V. Quá trình xây dựng trường pháp lý

 

Khi tôi mới về nhận công tác, đồng chí Tường chủ nhiệm, có đề án Trường đại học pháp lý rất quy mô, nhưng chưa có giáo trình, giáo án, chưa có cán bộ giảng viên, nên Chính phủ bác đề nghị, không cấp cho ngân sách xây dựng trường. Hiện thời có đồng chí Dũng chuyên viên phụ trách đi mượn địa điểm và chuẩn bị cơ sở vật chất mở lớp bồi dưỡng từng tháng cho mỗi lớp, không có giảng viên chuyên trách, đồng chí Thảo, Tân, Lộ tự biên soạn tài liệu từng bài lên giảng, đồng chí Tường cững có đến giảng không cần tài liệu.

Tôi đề nghị với đồng chí Tường, tiếp tục cho mở lớp bồi dưỡng pháp lý cho cán bộ của các ngành, địa phương như hình thức nói trên. Cho phép tôi chỉ đạo anh em đi xin cán bộ học tốt nghiệp Đại học pháp lý ở nước ngoài về, chuẩn bị chương trình giảng dạy và giáo án cho trường trung cấp tiến dần lên Cao đẳng, Đại học pháp lý, chuẩn bị kế hoạch từng bước xây dựng trường, xin đất xây dựng trường, xin thêm ngân sách xây dựng, chọn cán bộ tổ chức xây dựng và bộ máy hành chính quản trị của trường... được anh Tường chấp nhận uỷ nhiệm cho tôi tổ chức thực hiện.

Tôi bàn với đồng chí Giáo Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ xây dựng chương trình kế hoạch cụ thể, tôi sang báo cáo với Ban tổ chức trung ương Đảng và đồng chí Trần Hữu Dực Phó thủ tướng đồng ý và theo dõi giúp đỡ. Tôi và đồng chí Giáo đi xin các sinh viên tốt nghiệp Đại học pháp lý nước ngoài mới về, bước đầu mới có đôi ba anh và sau từng thời gian xin bổ sung thêm vào. Giao cho đồng chí Yểu ( nay là Chủ nhiệm hay Phó chủ nhiệm bên Uỷ ban pháp luật Quốc hội) phụ trách và động viên anh em xây dựng giáo trình, giáo án các môn pháp lý.

Tôi sang gặp anh Đỗ Mười Bộ trưởng Bộ xây dựng lúc bấy giờ, anh Đặng Thí cũng là Trung ương uỷ viên, trưởng ban thống nhất Bắc Nam của Trung ương Đảng để xin giúp đỡ và địa điểm xây dựng trường, nhờ có sự quen biết nên các anh ủng hộ mua vật liệu xây dựng, địa điểm đất rộng có sẵn hai kho lớn để sửa chữa làm hội trường, lớp học về sau cho xây thêm nhà ở, nhà ăn cho cán bộ và học sinh.Tôi bàn với văn phòng và phòng quản trị tổ chức một đội xây dựng tiến hành ngay sau khi được cấp trên chấp nhận. Nên xây dựng hơn một năm thì trang trí, nội thất bàn ghế nhà trường có gần đủ, ngoài ra còn tổ chức nuôi heo, cá hồ để cải thiện đời sống cho anh em và phục vụ các ngày lễ, tết nguyên đán.

Xây dựng nhà trường được nhanh là nhờ có đồng chí Trần Châu Giáo thường xuyên kiểm tra, đôn đốc làm công tác thuyết phục động viên tất cả cán bộ có liên quan với trường, xây dựng và tổ chức thực hiện. Nhưng rất tiếc giáo trình, giáo án anh em biên soạn gần xong vì tôi dốt về pháp lý nên đề nghị đồng chí Tường nhất là đồng chí Nguyễn Ngọc Minh xem để sửa chữa, bổ sung, hiệu đính cho mở lớp trung cấp pháp lý. Đồng chí Minh xem qua và nói rằng vì bận nhiều nên không sửa chữa được nếu muốn đồng chí Minh sửa chữa thì sẽ bỏ hết để viết lại. Lớp trung cấp pháp lý được chiêu sinh khai giảng, mà đồng chí Minh có ý kiến như vậy là cũng ngại cho nhà trường. Tôi lấy danh nghĩa Phó chủ nhiệm phụ trách trường pháp lý cho phép tổ chức chiêu sinh mở lớp Trung cấp pháp lý, tôi chịu trách nhiệm cho anh em được giảng dạy theo giáo án đã biên soạn, qua từng bước học viên thảo luận, tiếp thu mà rút kinh nghiệm sửa đổi, bổ sung cho giáo án được hoàn chỉnh và sát với tình hình thực tiễn của đất nước và xã hội của mình. Như vậy trường Trung học pháp lý chính quy mới ra đời từ đó.

Sau khi tôi đại diện ngành làm trưởng đoàn đại biểu đi dự hội nghị Bộ trưởng Bộ tư pháp quốc tế các nước XHCN tháng 5/1978 về, trong lãnh đạo giữa tôi với đồng chí Tường và Minh bắt đầu xảy ra những vấn đề thiếu nhất trí, như tôi có trình bày lại quá trình tôi đi hội nghị và nghiên cứu hệ thống tổ chức của Bộ tư pháp CHDC Đức . Tôi đem tài liệu sưu tầm về hệ thống tổ chức của Bộ tư pháp CHDC Đức, dự thảo thành lập Bộ tư pháp Việt Nam và báo cáo toàn bộ tình hình công tác của Uỷ ban và cả ngành trong thơì gian qua với đồng chí Huy. Trong đó có vấn đề nâng cấp nhà trường lên Trường Cao đẳng pháp lý mà trước đó khi đồng chí Huy còn làm trưởng ban khoa giáo đã đồng ý rồi. Tôi nói thêm khi tôi trình lên đồng chí Trường Chinh Chủ tịch quốc hội đề nghị của Uỷ ban pháp chế, đồng chí Tường và đồng chí Minh có ý kiến: Bên Vụ pháp luật của Uỷ ban khoa học xã hội mới có lớp Đại học pháp lý và một số cán bộ giảng viên học luật nước ngoài về giảng dạy, xin cho nhập lớp Đại học pháp luật bên đó về trường pháp lý lập lên trường đại học pháp lý và được đồng chí Trường Chinh và Thủ tướng phủ chấp nhận rồi.

Đến khi tiến hành sát nhập lớp Đại học và cán bộ giảng dạy bên UBKHXH sang và chiêu sinh thêm cho lớp Đại học pháp lý song song với lớp Trung cấp, lấy tên là Trường Đại học pháp lý của Uỷ ban pháp chế Chính phủ. Đồng chí Nguyễn Ngọc Minh đã đề nghị đồng chí Trần Quang Huy để đồng chí Minh làm hiệu trưởng, tôi không đồng ý với lý do đồng chí Minh đang bận nhiều công tác chuyên môn pháp lý của Uỷ ban, trường mới thành lập phải có người chuyên trách quản lý chặt thường xuyên mới có hiệu quả và phát triển lên được. Tôi trình bày thêm, cơ sở vật chất và cán bộ nhà trường, cán bộ giảng dạy còn thiếu, tiến hành mở hai lớp trung cấp và đại học song song từng bước phải xây dựng thêm. Tôi xin thôi làm Hiệu trưởng trường pháp lý ( Vì không có trình độ, kiến thức chuyên môn) và giới thiệu, đề nghị Ban tổ chức Trung ương Đảng điều đồng chí Chi có trình độ đại học luật đang làm Vụ trưởng bên Viện kiểm sát nhân dân tối cao sang làm Hiệu trưởng.

Sau một thời gian, đồng chí Huy gặp lại tôi trao đổi và thuyết phục tôi để đồng chí Minh Phó chủ nhiệm kiêm Hiệu trưởng trường Đại học pháp lý của Uỷ ban pháp chế. Đồng chí Huy còn nói đã tham khảo ý kiến đồng chí Thân TW uỷ viên, trưởng ban nội chính Trung ương Đảng cũng đồng ý bổ nhiệm đồng chí Minh Phó chủ nhiệm kiêm Hiệu trưởng. Vậy tôi nên đồng ý để đồng chí Minh kiêm hiệu trưởng một thời gian thử xem?

Tôi nói rõ tâm tư của mình không đồng ý với quyết định nói trên, vì tôi có mấy nhận xét và lo lắng như: Đồng chí Minh là một người làm chuyên gia pháp lý giỏi, đã đóng góp nhiều về mặt này cho Uỷ ban ta. Nhưng đồng chí Minh chưa làm công tác tổ chức và quản lý mà như lời đề xuất tổ chức xây dựng trường của đồng chí là không ổn: cán bộ, học sinh của trường chia làm hai hệ thống ăn ở, học tập, lương bổng khác nhau, chế độ của cán bộ và sinh viên đại học phải cao hơn trung cấp..., nhất là cán bộ không theo nguyên tắc tiêu chuẩn, trình độ, năng lực và cống hiến khác nhau mà giai rquyết một cách hình thức bề ngoài như vậy sẽ phát sinh mất đoàn kết, không hợp lý, không công bằng sẽ phát sinh mâu thuẫn trong học sinh và cán bộ của toàn trường, khó lãnh đạo không thống nhất, khó xây dựng được trường ngày càng lớn mạnh hơn được. Hơn nữa đồng chí Minh rất bận về lãnh đạo công tác của Uỷ ban pháp chế nghiên cứu và chỉ đạo công tác, thỉnh thoảng đi giảng bài ở trường, còn thì giờ đâu kiểm tr, quản lý, điều hành cả bộ máy vừa mở lớp vừa xây dựng thêm và giải quyết công tác nội bộ và yêu cầu phát sinh mới.

Tôi đề nghị xin đồng chí Chi bên Viện kiểm sát nhân dân tối cao về làm hiệu trưởng trực tiếp quản lý trường, kiểm tra tiêu chuẩn sinh viên lớp đại học pháp luật bên Uỷ ban khoa học xã hội đưa sang và chiêu sinh thêm cho đủ số rồi sẽ mở lớp. Một ban giảm hiệu chung lãnh đạo cả hai hệ thống Trung cấp và Đại học, tổ chức cấp dưỡng chung, ăn uống chung cùng một chế độ, tiền lương cán bộ giảng dạy và cán bộ nhân viên nhà trường đúng theo tiêu chuẩn không phân biệt, yêu cầu phòng quản trị và tổ xây dựng tiếp tục xây thêm nhà cho trường lớp vì đất còn rộng để hangf năm chiêu sinh thêm cho khoá mới..v..v.

Nói về bổ nhiệm Hiệu trưởng trường Đại học pháp lý tôi đề nghị như vậy, đồng chí Thân trưởng Ban nội chính và anh Huy là chủ nhiệm đều là đồng chí Trung ương uỷ viên, là cấp trên có ý kiến quyết định thì tôi chấp hành nghiêm chỉnh nhưng tôi vẫn giữ ý kiến riêng của mình. Các đồng chí lãnh đạo quyết định đồng chí Minh kiêm nhiệm Hiệu trưởng trường Đại học pháp lý chính thức, tôi chuyển sang lo công việc khác do mình phụ trách.

Kết quả sau một năm nhà trường đã xảy ra nhiều vấn đề, vì làm theo đề xuất ý kiến đồng chí Minh và thiếu quản lý nên cán bộ giảng dạy và công tác của hai hệ Trung cấp và Đại học mâu thuẫn, mất đoàn kết ngày càng tăng, hệ đại học chưa có giáo án, giảng dạy bằng viết đề cương, lên hội trường giảng bài, học sinh bỏ học đi ăn chơi trác táng ở ngoài, nội qui nhà trường không được thực hiện, cán bộ công nhân viên ngày càng tiêu cực, cơ sở vật chất và xây dựng thêm nhà trường đình đốn .v..v... đã có cán bộ phản ánh lên Trung ương, Đảng và Chính phủ cử đoàn kiểm tra xuống gồm có Ban kiểm tra Đảng, Ban nội chính, Ban tổ chức Trung ương Đảng xuống kiểm tra và kết luận ( trong lúc tôi đi chữa bệnh 4 tháng ở Công hoà dân chủ Đức về nghe anh em nói lại):

Quốc hội và Chính phủ đã thông qua chuyển uỷ ban pháp chế thành Bộ tư pháp và đoàn kiểm tra nói trên đã kết luận và báo cáo lên Đảng và Chính phủ, đề nghị cách chức Hiệu trưởng của đồng chí Nguyễn Ngọc Minh và thôi luôn Phó chủ nhiệm UBPC trở về làm Giám đốc Vụ pháp luật của Uỷ ban khoa học xã hội như cũ. Đồng chí Trần Quang Huy chuyển lên làm Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội. Cán bộ cũ của Uỷ ban pháp chế và của Trường đại học pháp lý vấn giữ như cũ cho Bộ tư pháp và nhà trường. Đảng và nhà nước đề bạt đồng chí Phan Hiền Thứ trưởng Bộ ngoại giao sang làm Bộ trưởng Bộ tư pháp. Trường đại học pháp lý Đảng và nhà nước chấp nhận đề nghị của tôi chuyển đồng chí Chi bên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm Hiệu trưởng nhà trường, tổ chức bộ máy nhà trường và quản lý công tác cán bộ, học sinh và xây dựng mở rộng trường đại học pháp lý.

Còn tôi năm 1981 ốm nặng, Hội đồng bác sĩ đề nghị Trung ương cho tôi nghỉ việc. Nhưng đồng chí Phan Hiền Bộ trưởng Bộ tư pháp đề nghị giữ tôi lại vì chưa có Thứ trưởng cùng anh tổ chức xây dựng công tác của Bộ. Anh Lê Đức Thọ vừa là Uỷ viên Bộ chính trị vừa là Uỷ viên Ban bí thư phụ trách trưởng ban tổ chức trả lời không được, mà sẽ bổ sung cán bộ khác, còn tôi phải nghe theo ý kiến của Hội đồng bác sĩ để kéo dài thêm tuổi thọ. Tôi được nghỉ luôn đến đầu năm 1983 tôi mới hưởng lương hưu chính thức.

VI. Đi hội nghị Bộ trưởng Bộ tư pháp quốc tế và nghiên cứu xây dựng đề án Bộ tư pháp.

Trong năm 1977, tôi và đồng chí Thảo trao đổi xây dựng đề án thành lập Bộ tư pháp của ta, mấy lần đưa vào tổ chức của Uỷ ban pháp chế nâng lên, trong đó có đề cập quản lý tổ chức toà án các cấp, đưa lên đồng chí Tường góp ý kiến để trình Quốc hội nhưng đồng chí Tường vẫn thấy nội dung chưa nhất trí được. Trước năm 1978 Uỷ ban pháp chế có được mời đi dự hội nghị Bộ trưởng Bộ tư pháp quốc tế các nước xã hội chủ nghĩa, tôi được Thủ tướng Chính phủ chỉ định làm trưởng đoàn và 2 cán bộ phiên dịch cùng đi. Trong lúc đồng chí Tường đi vào Nam công tác, tôi điện vào bão cáo với đồng chí Tường và xin ý kiến. Đồng chí Tường trả lời tôi phải viết bản tham luận thông qua Phủ thủ tướng để mang theo đọc tham luận trong hội nghị và tôi đề nghị đồng chí Thảo và đồng chí Tân là đoàn viên hiểu biết nhiều về pháp lý để giúp đỡ tôi trong hội nghị.

Tôi bàn với đồng chí Thảo, đồng chí Tân và đồng chí Lộ giúp tôi viết hai bản tham luận:

1. Quá trình tổ chức và công tác pháp chế trong thời gian qua;

2. Nội dung Hiến pháp mới của Việt Nam.

Đồng chí Giáo chắp bút viết lại tôi thông qua, trình lên Văn phòng pháp chế của Chính phủ duyệt lại lần cuối.

Tôi đề nghị được ở lại thêm 2 tuần để tham quan nghiên cứu hệ thống tổ chức Bộ tư pháp CHDC Đức để chuẩn bị đề án xây dựng Bộ tư pháp của nước ta. Anh Trần Hữu Dực Phó thủ tướng chấp thuận. Về nhân sự tôi báo cáo lại danh sách theo ý kiến anh Tường chỉ định , Ban tổ chức trung ương không duyệt và phân tích cán bộ của uỷ ban pháp chế các anh đã nắm chắc, đồng chí Đặng Hữu Khiêm giám đốc trợ lý Ban lãnh đạo nói cuộc hội nghị này ta dự để học hỏi, có tham luận duyệt vẫn đưa ra đọc, để mỗi nước học tập lẫn nhau, nên không có bàn cãi gì về pháp lý, trong quan hệ các đoàn với nhau là xã giao chính trị thôi, nên về nhân sự của đoàn anh có ý kiến: Tôi trưởng đoàn, đồng chí Giáo Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ đoàn viên cùng đi để nghiên cứu hệ thống tổ chức Bộ tư pháp của bạn, đồng chí Sông Vụ trưởng hành chính - Tư pháp thanh niên mới sang cần đi theo để bồi dưỡng và tôi được chọn thêm một cán bộ có triển vọng và học ở Đức về làm phiên dịch. Chúng tôi nghe cũng có lý nên về chuẩn bị cho kịp ngày đi họp đầu tháng 5/ 1978 tại CHDC Đức.

Trong quá trình chúng tôi vào hội nghị tôi đã có lời chào chủ nhà và các đoàn 12 nước XHCN dự họp, hai lần đọc hai bản tham luận viết sẵn và cuối hội nghị đọc lời hoan nghênh hội nghị. Trong quá trình hội nghị các đoàn được Thủ tướng CHDC Đức mời gặp mặt, đi thăm quan một số nơi. Ngoài ra lần lượt chúng tôi đi tiếp xúc với các đoàn, đồng chí Hiến làm phiên dịch rất đắc lực, chúng tôi có giúp đỡ đoàn tư pháp Lào viết bài chào mừng, sửa đổi, bổ sung cho bản đọc tham luận được các đồng chí rất cảm tình, được đồng chí Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ tư pháp CHDC Đức tiếp đón rất nhiệt tình.

Theo đề nghị của đoàn ta xin ở lại để nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của quý Bộ trong quá trình xây dựng, tổ chức cả hệ thống Bộ tư pháp để về xây dựng ngành tư pháp của mình. Được đồng chí Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ tư pháp đồng ý và chỉ thị cho một đồng chí Thứ trưởng và cán bộ phụ trách từng các mặt chuẩn bị báo cáo cho đoàn về ngành công tác của mình. Trong tuần đầu đi xuống các ngành toà án, tư pháp của tỉnh, huyện, xã tham quan và nghiên cứu các tổ chức tư pháp, toà án ở đó rồi mới về văn phòng Bộ tư pháp lần lượt nghe các đơn vị giới thiệu tổ chức và kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và thực hiện công tác.

Đoàn chúng tôi làm việc rất căng, ngày hai buổi làm việc liên tục không được nghỉ, các đồng chí Thứ trưởng thay phiên ngồi phát biểu bổ sung kết luận do các cán bộ đầu ngành báo cáo từng mặt công tác. Tôi, đồng chí Giáo và đồng chí Sông đều ghi chép, đồng chí Hiến làm phiên dịch suốt một tuần mới xong toàn bộ.

Khi về nước tôi có sơ bộ báo cáo toàn bộ tình hình đi dự hội nghị và nghiên cứu Bộ tư pháp CHDC Đức với Đảng, đoàn, Tổ chức họp tất cả cán bộ nghiên cứu nghe đồng chí Giáo sơ bộ báo cáo tình hình kết quả hội nghị và trình bày tài liệu nghiên cứu hệ thống tổ chức và công tác của Bộ tư pháp CHDC Đức. Sau đó đồng chí Giáo tập hợp cả số liệu của tôi và đồng chí Sông giao hết cho đồng chí Giáo hệ thống hoá lại với số liệu của đồng chí ghi mà biên soạn laị một tập tài liệu đánh máy cung cấp cho đồng chí Tường 1 bản, đồng chí Minh 1 bản, còn tôi giữ một bản sau này tặng cho đồng chí Trần Quang Huy và còn lại là đồng chí Giáo giữ. Tiếp sau khi hội nghị về, tôi có bàn lại với đồng chí Thảo, đồng chí Giáo dự thảo lại đề án thành lập Bộ tư pháp của ta để đồng chí Tường cho ý kiến lại bị bỏ trôi, đến khi đồng chí Huy về thay tôi có nạp đề án đó với tài liệu nghiên cứu được cung cấp cho đồng chí Huy xem xét và sửa đổi để trình lên Chính phủ và Quốc hội cho thành lạap Bộ Tư pháp.

Tóm lại, trong cả một quá trình tham gia lãnh đạo và chỉ đạo củng cố và phát triển ngành tư pháp trong quá trình 7 năm đó là 7 năm vưà học vừa làm không lúc nào ngơi nghỉ, mới có những kết quả kể trên. Nhưng thú thật còn quên đi nhiều nên phải sơ lược tóm tắt lại mấy vấn đề chung cho từng mặt công tác để Ban biên tập tham khảo, bổ sung cho số liệu mà các đồng chí phải đi sưu tầm thêm. Với thời gian tôi làm công tác vẫn còn nhiều đồng chí khoẻ mạnh như đồng chí Thảo, Tân, Sông, Sĩ, Giáo cùng hoạt động công tác ở Uỷ ban pháp chế có lẽ còn nhớ được nhiều hơn tôi.

Tôi xin chúc quí đồng chí đi sưu tầm, tổng hợp, đúc kết thành bản Biên niên lịch sử ngành tư pháp thành công tốt đẹp.

File đính kèm downloadTải về