• Thuộc tính
Tên đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp
Nội dung tóm tắt

Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các tranh chấp xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, nhưng hoạt động của các cơ quan tư pháp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hoạt động của các cơ quan tư pháp đã góp phần bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, giữ gìn kỷ cương pháp luật và thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử1...

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, các yêu cầu về bảo đảm quyền dân chủ, quyền giám sát của công dân trong quá trình tố tụng luôn luôn là một nội dung quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện các cơ quan tư pháp; trong đó, tập trung vào các vấn đề như: tăng cường sự giám sát của Quốc hội, HĐND, các tổ chức xã hội và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, thi hành án và giám sát việc thực hiện các văn bản pháp luật trong lĩnh vực tư pháp, xã hội hoá một số hoạt động bổ trợ tư pháp…

Trong thời gian qua, chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ tiếp cận vấn đề giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp dưới các góc độ khác nhau, tuy nhiên, trong tất cả các công trình nghiên cứu dù đã công bố, hoặc đang triển khai thì vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu trực diện và chuyên sâu về vấn đề giám sát và cơ chế giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp.

Trước yêu cầu đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng cơ chế hữu hiệu bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp đã trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Cơ chế đó phải bảo đảm được tính thực quyền và hiệu quả, huy động được sức mạnh tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào công tác tư pháp, khắc phục được căn bản tính dân chủ hình thức trong hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Chính vì vậy, việc triển khai nghiên cứu Đề tài khoa học cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp” là rất cần thiết. Kết quả của đề tài sẽ góp phần giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn đang đòi hỏi.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ các vấn đề: (i) Những vấn đề lý luận về giám sát và cơ chế giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp (quan niệm, bản chất, ý nghĩa, nội dung, phương thức, cơ chế giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp...); (ii) Đánh giá được thực trạng hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp ở nước ta (thực trạng pháp luật và thực trạng thi hành pháp luật), kinh nghiệm nước ngoài về vấn đề này; (iii) Các yêu cầu và giải pháp góp phần hoàn thiện cơ chế giám sát hữu hiệu của nhân dân đối với cơ quan tư pháp.

Phạm vi nghiên cứu đề tài.

- Về đối tượng giám sát: đề tài tập trung nghiên cứu cơ chế bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của 3 cơ quan chính trực tiếp tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) và Cơ quan thi hành án.

- Về nội dung giám sát: chỉ tập trung vào các hoạt động giám sát trực tiếp của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp (không đề cập đến hoạt động giám sát thông qua các cơ quan nhà nước).

CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT VÀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ GIÁM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP

1. Quan niệm, bản chất và đặc điểm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

1.1. Quan niệm, bản chất giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

Xuất phát từ khái niệm chung về giám sát xã hội, sau khi phân tích bản chất của giám sát như một chức năng quản lý xã hội, Đề tài cho rằng giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp là việc làm sáng tỏ sự phù hợp về nội dung, hình thức, các phương thức, phương pháp, kết quả hoạt động của các cơ quan cụ thể cấu thành hệ thống các cơ quan tư pháp, của những người lãnh đạo các cơ quan đó và của những người có chức vụ, quyền hạn khác, của toàn bộ cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp với Hiến pháp và các đòi hỏi của pháp luật. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của giám sát thể hiện không phải ở chỗ để xác nhận các thiếu sót và vi phạm, thu thập các thông tin khác nhau và đưa ra các sửa chữa đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp, mà là ở chỗ để cải thiện trạng thái công việc và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đưa ra các biện pháp hiện thực để khắc phục các thiếu sót và vi phạm đã được làm sáng tỏ và các nguyên nhân của chúng.

Ở nước ta có sáu loại chủ thể cơ bản thực hiện giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp. Đó là: các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và công dân với tư cách là người riêng biệt. Dựa vào các chủ thể nói trên, người ta phân giám sát thành: giám sát Nhà nước, giám sát của các tổ chức chính trị, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, giám sát của các tổ chức xã hội, giám sát của các tập thể lao động, giám sát do công dân trực tiếp thực hiện. Giám sát do các cơ quan Nhà nước thực hiện đối với tổ chức và hoạt động đối với các cơ quan tư pháp được gọi là giám sát Nhà nước; giám sát do các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các tập thể lao động và công dân trực tiếp thực hiện được gọi là giám sát của xã hội (hiểu theo nghĩa rộng) hoặc giám sát của nhân dân (hiểu theo nghĩa hẹp) đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp cũng có nhiều loại khác nhau. Mỗi loại đó do các nhóm tổ chức và những người có quyền giám sát tương ứng thực hiện đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp và của những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan đó. Giám sát của nhân dân cũng có nhiều biểu hiện: giám sát của các tổ chức chính trị, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, giám sát của các tổ chức xã hội, giám sát của các tập thể lao động, giám sát của công dân...

Các loại giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp được phân biệt với nhau bởi tính chất và khách thể của các quyền giám sát, bởi nhóm, mức độ và số lượng của các khách thể bị giám sát, bởi các hình thức và phương pháp tiến hành giám sát, bởi các hậu quả pháp lý của nó, tức là có các đặc điểm của mình nhờ đó chúng trở thành các loại giám sát độc lập.

Trong cơ chế giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp, với tư cách là một chủ thể độc lập có thể khẳng định đó là một định chế (thiết chế) dư luận xã hội. Thiết chế dư luận xã hội là một chủ thể độc lập của giám sát, tồn tại cùng với sự giám sát trực tiếp của công dân, với sự giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, của các tổ chức xã hội. Việc coi đó là một loại giám sát sẽ làm hoàn thiện thêm hệ thống các chủ thể giám sát. Chính sự giám sát của thiết chế dư luận xã hội là một dạng của giám sát xã hội.

Xét trên phương diện chủ thể thì giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp bao gồm:

- Giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp... (không bao gồm giám sát của Đảng vì đây là một thiết chế độc lập với tư cách lãnh đạo Nhà nước và xã hội);

- Giám sát của cá nhân công dân, của các doanh nghiệp;

- Giám sát của các tổ chức ngôn luận, báo chí và giám sát của dư luận xã hội.

Xét trên phương diện pháp lý thì “Giám sát của nhân dân” là một thuật ngữ được ghi nhận trong Hiến pháp (Điều 8 Hiến pháp 1992 sửa đổi). Bằng hoạt động giám sát đối với các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước, nhân dân tham gia một cách thực sự vào việc quản lý công việc của Nhà nước và xã hội; đồng thời thực hiện “trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” (Điều 11 Hiến pháp 1992 sửa đổi).

Giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp cần quan niệm là quyền mà không phải là trách nhiệm của họ. Từ đó, có các biện pháp thúc đẩy và bảo đảm thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp, nói riêng.

Giữa các loại giám sát Nhà nước và giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp có mối liên hệ biện chứng, bảo đảm sự thống nhất, tính chỉnh thể toàn vẹn của cơ chế giám sát. Mỗi mắt xích trong cơ chế đó, dù có sự đa dạng về nhiệm vụ và phương thức giải quyết, nhưng đều nhằm đạt được mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp.

2.2. Đặc điểm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp

Về chủ thể: nếu như chủ thể của giám sát tối cao là Quốc hội; chủ thể của giám sát mang tính quyền lực Nhà nước là các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; chủ thể kiểm sát hoạt động tư pháp là Viện kiểm sát thì trong giám sát của nhân dân, chủ thể là nhân dân (bao gồm cả các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, cá nhân công dân, các doanh nghiệp, dư luận xã hội ...).

Về tính chất: nếu như hoạt động giám sát của các cơ quan Nhà nước đối với hoạt động tư pháp là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước; được kế hoạch hoá; được thực hiện như một nghĩa vụ của chủ thể giám sát và có xu hướng chuyên môn hoá để bảo đảm chất lượng giám sát thì giám sát của nhân dân lại có những đặc thù khác.

Khác với giám sát của cơ quan Nhà nước, giám sát của nhân dân thường tập trung vào các sự việc cụ thể nhiều hơn; ở đây, có thể nói thiếu vắng tính tổng thể, hệ thống, tính thường xuyên và liên tục. Hiểu theo nghĩa rộng, giám sát của nhân dân cũng bao gồm cả giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận. Hoạt động của các chủ thể này có thể khác biệt hơn về tính tổ chức song chủ yếu cũng nhằm vào một số vụ án điểm có phản ánh từ dư luận xã hội.

Bên cạnh đó, phải nói rằng, giám sát của nhân dân là một phương thức để thực hành dân chủ và biểu dương quyền làm chủ của các thành viên xã hội, được tiến hành bởi các chủ thể đa dạng trong tập hợp nhân dân nên không thể đòi hỏi tính chuyên môn là điều cần có ở chủ thể giám sát mang tính quyền lực Nhà nước.

Ngoài ra, giám sát của nhân dân còn được đặc trưng bởi các yếu tố khác là phạm vi và nội dung giám sát.   

3. Phạm vi, nội dung và các hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

3.1. Phạm vi giám sát

Nếu đặt vấn đề giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp thì cần đề cập đến quan niệm về “tư pháp”.

Xuất phát từ mục tiêu, nội dung nghiên cứu của đề tài, hoạt động tư pháp trong đề tài này được quan niệm đó là hoạt động tố tụng bao gồm: hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Trong hoạt động tố tụng, có nhiều chủ thể tham gia như: cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm...) người tham gia tố tụng: đương sự, luật sư, người làm chứng, người giám định....; Cơ quan thi hành án, chấp hành viên... Quyền tư pháp ở nước ta (trong đề tài này quyền tư pháp được quan niệm là quyền tố tụng mà trọng tâm là quyền xét xử) được thực hiện bởi Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra. Với cách hiểu rộng, hoạt động tư pháp bao gồm các khâu: điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và do các cơ quan: điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp khác (cơ quan giám định tư pháp, công chứng…) thực hiện.

Mặc dù Toà án đóng vai trò trung tâm và quyết định trong toàn bộ hoạt động tư pháp song việc giám sát của nhân dân phải được áp dụng trong phạm vi hoạt động các cơ quan tiến hành tố tụng vì lý do sau đây:

Thứ nhất, về mặt lý thuyết, tố tụng (bất luận là loại tố tụng nào) đều được quan niệm là hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát, cá nhân, tổ chức, cơ quan Nhà nước, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Dưới góc độ thủ tục, tố tụng được hiểu là trình tự do pháp luật quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án và thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án.

Thứ hai, dưới góc độ triết học pháp quyền, tư pháp là biểu tượng của công lý, là một giá trị ngàn đời của nhân loại. Nếu như mục tiêu chính của hoạt động giám sát mang tính quyền lực Nhà nước là đạt được tính pháp chế trong toàn bộ công tác của bộ máy Nhà nước thì trong giám sát của nhân dân, không phải lúc nào tiêu chí đó cũng đặt lên hàng đầu mặc dù thông qua giám sát của nhân dân, tính pháp chế trong hoạt động tư pháp cũng đạt được một cách gián tiếp. Động cơ giám sát của dân cư trong mỗi trường hợp cụ thể chủ yếu xuất phát từ yếu tố lợi ích và yếu tố văn hoá, đạo đức.

Vì những lẽ trên đây, phạm vi giám sát của nhân dân bao gồm hoạt động tư pháp do các chủ thể có thẩm quyền mang tính quyền lực Nhà nước tiến hành trong các giai đoạn tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) và cả hoạt động thi hành án. Trong đó đối tượng giám sát chủ yếu là hoạt động xét xử của Toà án.

3.2. Nội dung giám sát

Cơ chế giám sát của nhân dân được thiết lập nhằm mục đích chủ yếu và trực tiếp nhất là bảo đảm dân chủ. Trong số các biện pháp bảo vệ quyền, tự do của công dân thì thủ tục tư pháp là biện pháp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Như vậy, tiêu chí hàng đầu để định hướng nội dung giám sát của nhân dân là vấn đề bảo vệ quyền công dân. Để bảo đảm điều này thì các hoạt động tư pháp phải được tiến hành sao cho không chỉ “không để lọt tội phạm và người phạm tội”, mà còn phải đáp ứng yêu cầu “đúng người, đúng tội”, đúng thủ tục để tránh các trường hợp "oan, sai”. Dựa trên hai tiêu chí này, có thể dự kiến một số nội dung giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp như sau:

- Giám sát việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung.

- Giám sát việc áp dụng các biện pháp tố tụng làm hạn chế quyền công dân.

Như vậy, một trong những nội dung giám sát của nhân dân là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, truy tố, khởi tố được tiến hành bởi các cơ quan tố tụng.

- Giám sát hoạt động xét xử của Toà án.

- Giám sát các hoạt động khác của cơ quan tư pháp.

4. Vị trí, vai trò và ý nghĩa xã hội của sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

4.1. Vị trí của quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

Là một trong những phương thức thực hiện quyền lực nhân dân, quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy Nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng.

- Giám sát bên trong giữa các cơ quan tư pháp với nhau đã được pháp luật tố tụng quy định khá cụ thể. Tuy nhiên, cơ chế này cũng có những hạn chế, bất cập mà tự nó không thể khắc phục triệt để, thể hiện ở hai mặt cơ bản:

Thứ nhất, cơ chế pháp lý chưa thật chặt chẽ và đồng bộ, biểu hiện rõ nét là quy trình tố tụng còn bị cắt khúc.

Thứ hai, việc thực thi quy trình tố tụng thể hiện cơ chế giám sát bên trong giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa tốt, tính khép kín là điều kiện tạo nên sự chủ quan trong hoạt động tố tụng.

- Giám sát bên ngài, tức là giám sát của nhân dân, của xã hội. Ở cơ chế giám sát này, có khi tuy là của nhân dân, của xã hội, nhưng là sự giám sát từ bên ngoài nhằm bảo đảo tính nhân dân trong hoạt động tư pháp (trong cơ chế này nhân dân có thể giám sát bằng nhiều hình thức như: trực tiếp tham gia vào quá trình tố tụng, làm nhân chứng trong vụ án, làm Hội thẩm nhân dân tại phiên toà...). Tuy nhiên, ở cơ chế giám sát này cũng bộc lộ những hạn chế mà điển hình là nguy cơ về tính hình thức rất cao. Trên thực tế chúng ta lại thiếu cơ chế pháp lý, thiếu các điều kiện tổ chức thực hiện. Hơn nữa, mức độ về tính công khai, minh bạch, về dân chủ của hoạt động tư pháp có vai trò quan trọng (nếu không nói là quyết định) đối với cơ chế giám sát từ bên ngoài.

Từ sự phân tích trên cho thấy, mỗi cơ chế giám sát đều có những vị trí nhất định có ảnh hưởng lớn đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tư pháp. Chỉ khi nào chúng ta chỉ quan tâm xây dựng và hoàn thiện đúng mức từng cơ chế giám sát (cơ chế giám sát bên trong giữa các cơ quan tư pháp; cơ chế giám sát giữa các nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp và tư pháp) và cơ chế giám sát bên ngoài (giám sát nhân dân, xã hội), đồng thời với quá trình hoàn thiện hệ thống tư pháp thì công cuộc cải cách tư pháp mới có thể đem đến hiệu quả mong muốn.

4.2. Vai trò của sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

- Bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước của nhân dân.

- Góp phần bổ sung cho cơ chế giám sát bên trong giữa các cơ quan tư pháp, giám sát giữa các nhánh quyền lực Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Góp phần củng cố tổ chức, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp.

- Bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

4.3. Ý nghĩa của sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

Về mặt chính trị: việc đẩy mạnh phát huy nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan tư pháp mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Nó không chỉ là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta, mà còn là hình thức quan trọng thể hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của công dân (tham gia thực hiện quyền lực Nhà nước).    

Về mặt xã hội: việc đẩy mạnh phát huy sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp còn mang ý nghĩa xã hội sâu rộng. Với các hình thức tổ chức đa dạng, việc thực hiện tốt cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp sẽ bảo đảm phát huy được sức mạnh của toàn xã hội đối với công tác tư pháp.

Về mặt giáo dục: xây dựng cơ chế giám sát, động viên nhân dân tham gia thực hiện quyền giám sát đối với cơ quan tư pháp còn mang ý nghĩa giáo dục.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP

1. Quan niệm về cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

Thuật ngữ “cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp” chưa được phổ biến rộng rãi trong sách báo khoa học ở nước ta. Các vấn đề thuộc nội hàm của vấn đề đó như: khái niệm, nội dung, khách thể, mục đích, hiệu quả cũng như viễn cảnh phát triển của nó chưa được xác định một cách rõ ràng.

Thông thường, khái niệm cơ chế được hiểu là tổng thể các bảo đảm về vật chất, chính trị, tư pháp, pháp lý, tổ chức, nghiệp vụ cho việc thực hiện một quyền nào đó hoặc một việc nào đó.

Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp, do vậy cũng được nhìn nhận dưới những khía cạnh khác nhau. Nhưng tựu trung lại có thể xem xét nó dưới hai khía cạnh cơ bản là khía cạnh xã hội (ở nghĩa rộng) và khía cạnh pháp lý.

2. Một số nội dung và phương thức của cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

Hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp có các nội dung chính là: theo dõi, kiểm tra tính hợp pháp, tính hợp lý (công bằng, khách quan) đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát, các quyết định, văn bản do các đối tượng này ban hành; đề nghị đối tượng giám sát xem xét lại quyết định của mình và kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp lý, tính hợp pháp của các quyết định, văn bản do đối tượng giám sát ban hành.

Các nội dung giám sát trên được thực hiện bằng các phương thức sau:

- Tham gia vào hoạt động của các cơ quan tư pháp.

- Gặp gỡ, tiếp xúc cơ quan tư pháp để thu thập thông tin.

- Gửi đơn khiếu nại, kháng cáo lên cơ quan tư pháp trực tiếp giải quyết vụ việc; gửi đơn khiếu nại, tố cáo lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

3. Hiệu quả và đánh giá hiệu quả của cơ chế giám sát nhân dân đối với hoạt động cơ quan tư pháp.

Thông thường, khi xem xét vấn đề hiệu quả của bất kỳ hoạt động xã hội nào, trước hết, người ta nói đến sự tương quan của các kết quả tích cực đã đạt được trong quá trình thực hiện hoạt động đó với các mục đích đã được dự định, mức độ gần của kết quả với mục đích, với việc cân nhắc cùng lúc các chi phí đã bỏ ra (thời gian, các chi phí vật chất và kinh phí, các nguồn lực lao động.v.v…).

Từ quan điểm tiếp cận nói trên, Đề tài cho rằng hiệu quả của giám sát là sự tương quan của kết quả mà cơ quan hoặc người giám sát đạt được với mục đích được đặt ra đối với cơ quan và người đó, là việc đạt được mục đích đó với các chi phí ít nhất về thời gian, sức lực và kinh phí.

III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ SỰ GIÁM SÁT VÀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP

Vì nhiều lý do khách quan khác nhau, đề tài không có khả năng nghiên cứu về tất cả các mô hình giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp. Do vậy, đề tài chỉ đưa ra một số mô hình (hình thức, nội dung) giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp của một số nước đã thiết lập trên thực tế và mang lại những hiệu quả khá thuyết phục như của Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hoà liên bang Nga, Trung Quốc, Ukraine... cho thấy mặc dù họ không có các mô hình cụ thể về giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp, nhưng trên thực tế pháp luật của các nước này cũng cho phép thành lập các thiết chế xã hội nhằm mục đích giám sát, bảo đảm sự công khai, minh bạch trong tổ chức bộ máy Nhà nước. Các kênh giám sát chủ yếu thông qua các cơ quan báo chí, ngôn luận, các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua cơ chế tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo, tin báo tội phạm... Nhìn chung, hoạt động của các thiết chế giám sát xã hội tại các nước này mang lại những hiệu quả nhất định được các cơ quan Nhà nước ghi nhận và sự ủng hộ của dư luận xã hội.

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP.

I. KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN GIÁM SÁT VÀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP

1. Quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp theo Hiến pháp 1946 và các văn bản pháp luật giai đoạn 1945 đến 1959;

So với trước cách mạng, các quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của công dân đã có sự thay đổi mang tính bản chất, các hành vi phạm tội được Toà án xét xử công khai (trừ các trường hợp đặc biệt), bị cáo có quyền bào chữa, việc xét xử có phụ thẩm nhân dân tham gia... các tranh chấp dân sự, thương sự, hôn nhân gia đình đều có thể đưa ra Toà án xét xử công khai...Hiến pháp 1946 ra đời đánh dấu sự ra đời của hệ thống pháp luật nước ta. Hiến pháp 1946 tuy không trực tiếp đề cập đến quyền nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, nhưng thông qua các quy định về quyền bầu cử, bãi miễn (Điều 17, 20); nguyên tắc hoạt động của toà án: khi xử việc hình phải có phụ thẩm nhân dân tham gia (Điều 65), các phiên toà án đều phải công khai, bị cáo được quyền bào chữa (Điều 67), Hiến pháp đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan đại diện và cơ quan tư pháp.

Ở mức khái quát, các quy định của pháp luật về quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp giai đoạn từ 1945 đến 1959 chưa thực sự định hình rõ nét. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với các quy luật khách quan của quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp thực chất là một trong những hình thức biểu hiện của quyền dân chủ. Chính vì vậy, dù không trực tiếp quy định, nhưng do xuất phát từ bản chất của chế độ nên các biểu hiện, khía cạnh của quyền giám sát nhân dân đối với cơ quan tư pháp ít nhiều đã thể hiện trong các chế định dân chủ giai đoạn này. Điều này được thể hiện trên những phương diện sau:

Thứ nhất: quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp được thể hiện tập trung trong chế định xét xử công khai và có phụ thẩm nhân dân tham gia.

Thứ hai: các thủ tục tư pháp, đặc biệt là các thủ tục về bắt giữ người, khám xét người, tài sản... luôn bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, bảo đảm sự giám sát của nhân dân.

Thứ ba: quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm.

Thứ tư: quyền kháng cáo của đương sự, quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân được tôn trọng và xử lý kịp thời.

2. Quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp theo Hiến pháp 1959 và các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp giai đoạn này.

Hiến pháp năm 1959 đặt cơ sở pháp lý cho bước phát triển mới của quyền nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng. Lần đầu tiên, quyền nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước được ghi nhận thành nguyên tắc hiến định. Như vậy, so với trước đây, quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp đã được quy định cụ thể và rõ ràng hơn trước:

Thứ nhất, ở một mức độ nhất định, pháp luật đã có quy định về quyền giám sát của nhân dân đối với tất cả các cơ quan tư pháp từ cơ quan điều tra, viện kiểm sát đến Toà án nhân dân và cơ quan thi hành án thông qua các chế định như: xét xử công khai, hội thẩm nhân dân, khiếu nại, tố cáo...

Thứ hai, nhân dân có quyền trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành nên cơ quan tư pháp thông qua chế định bầu thẩm phán và hội thẩm nhân dân;

Thứ ba, nhân dân có thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động của cơ quan tư pháp thông qua chế định hội thẩm nhân dân, thông qua việc ứng cử làm thẩm phán hoặc hội thẩm nhân dân;

Thứ tư, đối với các công dân là các đương sự trong các vụ án hình sự, dân sự có thể trực tiếp thực hiện quyền giám sát của mình thông qua chế định bào chữa, luật sư, thông qua các quyền thay đổi thành phần hội đồng xét xử, quyền kháng cáo bản án...

Thứ năm, ngoài các phương thức nêu trên, nhân dân còn có thể thực hiện quyền giám sát của mình thông qua các phương thức khác như: tố giác tội phạm, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo...

3. Quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp theo Hiến pháp 1980 và các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp giai đoạn này.

Sau ngày giải phóng 30/04/1975 nước nhà được thống nhất, đất nước ta được hoàn toàn độc lập, Hiến pháp năm 1980 ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử lập pháp nước nhà.

Trong lĩnh vực tư pháp, quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp cũng được Hiến pháp quy định khá đầy đủ thông qua việc nhân dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động tư pháp như phòng chống tội phạm, trực tiếp tham gia vào giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo... hoặc thông qua các chế định Hội thẩm nhân dân, chế định bào chữa, xét xử công khai... (Điều 128, 130, 131, 132, 133 Hiến pháp năm 1980).

Qua các văn bản pháp luật nêu trên thì quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp giai đoạn này có thể khái quát ở một số điểm chính sau:

Thứ nhất, chủ thể giám sát: không chỉ bó hẹp trong phạm vi cá nhân công dân, mà còn bao gồm các tổ chức, đoàn thể của nhân dân như: Mặt trận tổ quốc, các tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc (Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Công đoàn...).

Thứ hai, đối tượng giám sát là tất cả các cơ quan tư pháp bao gồm: Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như: Công chứng, giám định, bán đấu giá...

Thứ ba, phạm vi hoạt động giám sát của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp bao gồm: giám sát việc thực hiện các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung (như giám sát việc bầu, bổ nhiệm các chức danh của các cơ quan tư pháp, giám sát việc bầu Hội thẩm nhân dân...); giám sát việc áp dụng pháp luật trong quá trình tố tụng nói chung, trong hoạt động xét xử của toà án nói riêng (như giám sát việc thực hiện các thủ tục tư pháp trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, giám định, gửi và thông báo các quyết định tố tụng, thành lập Hội đồng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động...).

Thứ tư, nội dung hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp bao gồm: theo dõi, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của cơ quan tư pháp; đề nghị đối tượng giám sát xem xét lại các quyết định, bản án của mình; kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các quyết định, bản án, hành vi tố tụng của cơ quan tư pháp.

Thứ năm, các nội dung giám sát này được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau: như tham gia trực tiếp vào các hoạt động tố tụng với tư cách là người làm chứng, người tham dự phiên toà, Hội thẩm nhân dân...; gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan tư pháp; gửi đơn thư tố giác, khiếu nại, tố cao lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền…

4. Quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp theo Hiến pháp năm 1992 và các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp từ năm 1992 đến nay.

Cũng như Hiến pháp năm 1980, các quy định về quyền giám sát của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước nói chung, đối với các cơ quan tư pháp nói riêng đã được ghi nhận như những nguyên tắc quan trọng trong Hiến pháp 1992 và đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, đây là giai đoạn mà đất nước ta bước sang thời kỳ đổi mới, với những chủ trương, chính sách đổi mới mang tính căn bản, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội mà văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) và các nghị quyết và văn kiện của các nhiệm kỳ VII, VIII và IX của Đảng trong những năm tiếp theo đã chỉ ra. Đặc biệt là, các quy định, thiết chế, điều kiện đảm bảo thực hiện quyền đã được chú trọng và có những cải thiện căn bản. Điều này thể hiện trên một số nét chính sau:

- Các quy định về nội dung, hình thức, phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp đã cụ thể và mang tính khả thi hơn nhiều so với trước đây, đặc biệt là các quy định về vai trò của các tổ chức xã hội và công dân trong quá trình tố tụng;

- Các thiết chế đảm bảo cho quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp được tăng cường đáng kể;

- Nhà nước đã chú trọng từng bước cải thiện các điều kiện cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả trên thì thực tế cho thấy chế định giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp chưa thực sự được quan tâm đúng mức trong cả xây dựng thể chế và tổ chức triển khai cũng như các điều kiện bảo đảm cần thiết. Chúng ta vẫn chưa xây dựng được một cơ chế rõ ràng và cụ thể để nhân dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình đối với các cơ quan tư pháp.

II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP

1. Các văn bản pháp luật quy định về sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Nhà nước ta đã ban hành một loạt văn bản pháp luật, trong đó có nhiều quy định về sự giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp.

Các văn bản pháp luật hiện hành quy định về vấn đề này là: Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004), Luật Mặt trận tổ quốc năm 1999, Luật Công đoàn năm 1990, Luật thanh tra năm 2004, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, Nghị định số 33/CP ngày 14/04/1997 của Chính phủ ban hành Quy chế về trường giáo dưỡng, Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng, Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định về việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội; Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định về việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ; Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo; Nghị định số 53/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các hình phạt cấm cư trú và quản chế... Các văn bản này có những quy định làm cơ sở cho việc thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp.

2. Chủ thể của quyền giám sát.

Theo các văn bản pháp luật nêu trên thì chủ thể của quyền giám sát nhân dân đối với cơ quan tư pháp rất đa dạng. Chủ thể đó bao gồm: (i) Quần chúng nhân dân nói chung; (ii) Cộng đồng dân cư nơi có vụ việc hoặc liên quan đến vụ việc; (iii) Người tham dự phiên toà; (iv) Bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn dân sự; (v) Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; (vi) Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự; (vii) Người tham gia tố tụng khác; (viii) Cơ quan ngôn luận; (ix) Các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp: Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên...

3. Đối tượng giám sát.

Việc xác định đối tượng của quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm rõ mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng giám sát về quyền và nghĩa vụ. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp tác động đến các đối tượng sau: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương là những cơ quan xét xử của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương là những cơ quan thực hiện quyền công tố Nhà nước và kiểm sát các hoạt động tư pháp; Cơ quan điều tra hình sự thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân; Cơ quan Thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, Cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ tư pháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan tham gia vào công tác thi hành án hình sự, dân sự khác...

4. Nội dung giám sát

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì sự giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp được thực hiện thông qua các nội dung sau đây:

4.1. Trực tiếp tham gia vào hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Pháp luật hiện hành quy định nhân dân trực tiếp tham gia hoạt động tư pháp thông qua các chế định sau:

- Trực tiếp tham gia đấu tranh phòng chống tội pháp.

- Trực tiếp tham gia Hội đồng xét xử với tư cách là Hội thẩm nhân dân.

- Trực tiếp tham gia phiên tòa với tư cách là người làm chứng trong các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.

- Trực tiếp thực hiện quyền giám sát với tư cách là các đương sự trong vụ án hình sự, dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Bộ luật tố tụng dân sự 2004: Bị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện cho đương sự...

- Trực tiếp tham gia với tư cách là người bào chữa trong các vụ án hình sự; người bảo vệ quyền, lợi ích cho đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.

- Trực tiếp tham gia công tác thi hành án.

4.2. Thực hiện quyền kiến nghị đối với cơ quan tư pháp.

Pháp luật hiện hành quy định các tổ chức xã hội, công dân trong quá trình giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp có quyền kiến nghị các biện pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp như, kiến nghị các biện pháp khắc phục nguyên nhân, hậu quả của tội phạm...

4.3. Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo

Người khiếu nại có các quyền sau: tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại; khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng; rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng; được nhận văn bản trả lời về việc giải quyết khiếu nại; được khôi phục quyền lợi hợp pháp bị xâm hại, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Đồng thời, người khiếu nại có nghĩa vụ trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bầy và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó, chấp hành kết quả giải quyết khiếu nại...

4.4. Giám sát thông qua hoạt động của các phương tiện báo chí, ngôn luận

Cơ quan báo chí có trách nhiệm:

- Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do;

- Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến.

4.5. Các biện pháp bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp

Pháp luật hiện hành cũng quy định các biện pháp bảo đảm cần thiết để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với cơ quan tư pháp. Cụ thể là:

- Việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự và dân sự quy định. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai;

- Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để tổ chức và công dân tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cho tổ chức, cá nhân đã báo tin, người đã tố giác tội phạm ;

- Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục;

- Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 9 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002);

- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ khi bị đe dọa, trù dập, trả thù... (Điều 335 Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Điều 399 Bộ luật tố tụng dân sự 2004)...

III. THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ SỰ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP

1. Đánh giá một cách khái quát, có thể khẳng định rằng kể từ khi chúng ta thực hiện chủ trương Bộ Chính trị về cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới thì tính dân chủ trong hoạt động tố tụng được nâng lên đáng kể, bằng nhiều kênh khác nhau. Báo cáo số 12-BC/CCTP ngày 22/02/2006 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp về kết quả 04 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị tổng kết: "Trong những năm qua, cùng với tiến trình cải cách tư pháp, xu thế mở rộng dân chủ, công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các tổ chức xã hội đối với cơ quan tư pháp đã đi vào thực chất, mang lại hiệu quả nhất định; một mặt giúp cơ quan tư pháp nâng cao trình độ chuyên môn, mặt khác giúp người dân và tổ chức có nhiều cơ hội tiếp cận với công bằng theo đúng pháp luật...”.

Tuy nhiên, sau 4 thực hiện Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị rõ những hạn chế, yếu kém của hoạt động tư pháp, những hạn chế trong việc bảm đảm quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp, như " trong công tác điều tra, truy tố vẫn còn việc khởi tố oan sai, truy tố oan, phải đình chỉ điều tra do không phạm tội; trong công tác xét xử vẫn còn tình trạng bản án, quyết định bị sửa, huỷ do lỗi của Hội đồng xét xử; chất lượng công tác xét xử dân sự còn chưa cao, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức". "Các khiếu kiện tư pháp còn tồn đọng nhiều, trong đó có nhiều vụ việc phức tạp, đặc biệt là các khiếu kiện khéo dài, bức xúc kêu oan, sai. Vẫn còn xẩy ra các vụ việc oan chưa được kết luận kịp thời, để kéo dài trong nhiều năm không được giải quyết dứt điểm đã gây ra nhiều bức xúc trong dư luận quần chúng."2

2. Giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc

Quyền giám sát của MTTQ đã được quy định trong Luật tổ chức MTTQ năm 1999 và nhiều đạo luật khác. Trong thời gian qua, hoạt động giám sát của MTTQ các cấp đối với cơ quan tư pháp nói riêng, đối với bộ máy Nhà nước nói chung đang từng bước đi vào nề nếp và đem lại những kết quả nhất định, thể hiện qua các lĩnh vực:

- Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật; tham gia góp ý các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật của Chính phủ và chính quyền địa phương; phản ánh được nguyện vọng, ý kiến, kiến nghị của các tầng lớp nhân dân trong quá trình xây dựng thể chế.

- Thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường theo phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” đã đem lại kết quả đáng khích lệ, vai trò giám sát của Mặt trận được thể hiện ngay tại cơ sở, góp phần ngăn chặn các tiêu cực, tranh chấp có thể phát sinh ngay từ cơ sở như giám sát các hoạt động: thu, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân ở xã, phường, thôn, bản để xây dựng hạ tầng cơ sở;

- Tham gia tiếp dân, xử lí đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; cùng chính quyền ở cơ sở giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân trong khiếu nại, tố cáo.

3. Giám sát của nhân dân thông qua các phương tiện thông tin, đại chúng

- Báo chí có tác dụng của to lớn trong hoạt động bảo vệ pháp luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật, tội phạm.

- Báo chí phản ánh việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Báo chí đã tích cực đưa tin, bài phản ánh về những hiện tượng tiêu cực, những vi phạm pháp luật và tội phạm.

4. Phân tích báo cáo của các cơ quan chức năng về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cho thấy việc giám sát của nhân dân thông qua kênh khiếu nại, tố cáo là một trong những kênh đặc biệt quan trọng thể hiện rõ nét quyền giám sát của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng.

Thực tế cho thấy, cơ chế giám sát chưa có nên nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình còn hạn chế. Với quy định hiện hành, nhân dân chỉ có thể theo dõi hoạt động của các cơ quan tư pháp theo các thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng chứ chưa tự mình giám sát được hoạt động của họ. Qua phân tích các số liệu trên, Đề tài cho rằng các nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân còn thấp là do:

Thứ nhất, việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân chưa được quan tâm, chú trọng giải quyết ở khâu đầu tiên khi việc khiếu nại, tố cáo mới phát sinh.

Thứ hai, chưa phát huy được sức mạnh của tổ chức, đoàn thể, chính quyền cấp cơ sở và nhân dân vào việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là vai trò của hoà giải ở cơ sở.

Thứ ba, năng lực tổ chức giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan tư pháp còn nhiều hạn chế.

Thứ tư, sự hiểu biết phát luật của đại bộ phận dân cư còn hạn chế, ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận nhân dân còn yếu kém.

CHƯƠNG III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ GIÁM SÁT VÀ XÂY DỰNG CƠ CHẾ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP.

Xét ở tầm chính sách chung, Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng luật trưng cầu dân ý”; “đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân”. “Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn thể xã hội có trách nhiệm giám sát, kiểm tra cán bộ, công chức, phát hiện, tố cáo, lên án những kẻ tham nhũng...3.

Trong lĩnh vực tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp từ nay đến 2020 đã dành cả mục 2.5 đề ra một trong các nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp giai đoạn này là "hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp", trong đó nhấn mạnh đến các giải pháp như "Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác động viên nhân dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp, qua đó kiến nghị với các cơ quan tư pháp khắc phục, sửa chữa. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp". Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 cũng chỉ rõ: "hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân...".

Như vậy, ở tầm chủ trương, chúng ta đã có những đường hướng chiến lược trong việc tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, từ việc thừa nhận quyền đến việc thể chế hoá và tạo ra được một cơ chế giám sát thực sự hiệu quả trên thực tế là một quãng đường còn dài và cần có sự nỗ lực lớn từ phía Đảng, Nhà nước và những cơ quan, cá nhân có trách nhiệm trực tiếp.

Tổng kết lý luận và thực tiễn cũng như tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài, bước đầu nghiên cứu, Ban chủ nhiệm đề tài đưa ra một số kết luận và kiến nghị sau:

1. Hoàn thiện thể chế pháp luật làm cơ sở cho việc hình thành cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

Trước hết cần thiết phải xây dựng cho được cơ chế hữu hiệu để nhân dân nói chung tham gia giám sát hoạt động tư pháp. Có thể chỉ ra một số yếu tố cơ bản của cơ chế này là:

- Thể chế pháp luật (bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể giám sát và các chủ thể liên quan; đối tượng, phạm vi, nội dung, hình thức để nhân dân giám sát; các điều kiện bảo đảm...);

- Mức độ nhận thức, sử dụng quyền giám sát;

- Áp dụng thể chế bao gồm yếu tố về tổ chức, nhân sự, bảo đảm tài chính;

- Quan hệ tương tác giữa thể chế và việc áp dụng nó bao gồm chế độ trách nhiệm của các chủ thể, hậu quả của việc giám sát, chế độ thông tin phản hồi, công khai hoá kết quả giám sát;

- Các yếu tố khác như các quy phạm của tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp; tính công khai; dư luận xã hội và các tác động khác từ khía cạnh văn hoá, phong tục, tập quán...

- Quy định rõ quyền của nhân dân nói chung trong việc giám sát hoạt động của cơ quan tư pháp (quyền giám sát của nhân dân trong mỗi giai đoạn tố tụng, trong các trường hợp cụ thể là những quyền gì; phương thức, hình thức giám sát được thực hiện trong mỗi giai đoạn tố tụng, trong các trường hợp cụ thể là những phương thức, hình thức nào; giá trị pháp lý của kết quả giám sát của nhân dân là gì. Dân có kiến nghị, thì Nhà nước có tránh nhiệm và thái độ như thế nào, cơ chế xử lý các kết quả giám sát ra sao...).

- Quy định rõ quyền giám sát hoạt động tư pháp của các đương sự trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hành chính... đặc biệt có cơ chế bảo đảm các quyền được cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết về thủ tục, nội dung tố tụng, quyền và nghĩa vụ của đương sự, hồ sơ vụ án mà họ là đương sự, cơ chế bảo đảm tối đa quyền bào chữa, quyền biện hộ của các đương sự trong bất kỳ giai đoạn và hình thức tố tụng nào...;

- Quy định rõ cơ chế bảo vệ nhân chứng, quyền lợi và những bảo đảm cần thiết của cơ quan công quyền đối với các nhân chứng. Trong chừng mực cần thiết, có thể xây dựng đạo luật riêng về bảo vệ nhân chứng trong các vụ án hình sự;

- Quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp. Ở đây cần nhận thức rõ, trong cơ chế giám sát của nhân dân, một vấn đề lớn đặt ra là: nhân dân có quyền giám sát đối với bộ máy Nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng. Dân có quyền thì đối diện với quyền ấy là nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm cho nhân dân thực hiện các quyền này.

Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng, khó có thể có tham vọng giải quyết một cách triệt để mọi vấn đề với mục đích nâng cao chất lượng giám sát của nhân dân trong một văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, ngoài việc ban hành Luật giám sát của nhân dân, trên phương diện thể chế chúng ta cũng cần hoàn thiện pháp luật trên các lĩnh vực sau4:

- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước nói chung, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp nói riêng phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo lộ trình và nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật5.

Trong đó, đặc biệt chú ý đến các thể chế pháp lý bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp cả ở hình thức giám sát trực tiếp và gián tiếp thông qua cơ quan dân cử: Hoàn thiện pháp luật về các thiết chế bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định, tư vấn pháp lý...) theo hướng hỗ trợ kịp thời và hiệu quả cho nhân dân trong thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động tư pháp. Pháp luật về công tác bổ trợ tư pháp cần được hoàn thiện theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hoá mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý Nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp.

- Khẩn trương hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chống tham nhũng, thực hiện nguyên tắc người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm liên đới về hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của cán bộ do mình trực tiếp quản lý trong khi thi hành công vụ.

- Trong lĩnh vực pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, phải bảo đảm mọi hoạt động quản lý Nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ.

- Trong lĩnh vực pháp luật về báo chí và truyền thông phải bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do thông tin đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, không có bất kỳ vùng cấm nào đối với bất kỳ thông tin tố tụng nào trừ các thông tin ảnh hưởng đến an ninh, bí mật quốc gia và một số thông tin khác được pháp luật tố tụng quy định rõ ràng, minh bạch.

2. Công khai hoá, minh bạch hoá tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp, đặc biệt là các hoạt động tố tụng, tiền tố tụng nhằm tạo cơ sở để nhân dân tham gia giám sát.

Việc minh bạch hoá trong lĩnh vực tố tụng cần được nghiên cứu, hoàn thiện theo hướng:

- Quy định rõ những vấn đề mà nhân dân được tiếp cận, được cung cấp thông tin;

- Trách nhiệm của các chủ thể trong việc cung cấp thông tin về hành vi tố tụng;

- Xác định một địa chỉ cố định để người dân dễ dàng tiếp cận khi cần cung cấp thông tin mà họ quan tâm;

- Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tố tụng trong việc giải quyết tin báo tội phạm, khiếu nại, tố cáo của người dân trong lĩnh vực tư pháp, kể cả các khiếu nại, tố cáo nặc danh. Kết quả của các hoạt động này cũng cần được công khai cho dân biết.

3. Kiện toàn, củng cố và nghiên cứu thành lập các thiết chế (tổ chức) giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp.

Việc thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp được thực hiện qua nhiều kênh khác nhưng tựu chung lại, quyền giám sát của nhân dân đối với cơ quan tư pháp được thực hiện qua ba kênh chính:

- Thực hiện quyền thông qua các thiết chế thuộc bộ máy Nhà nước;

- Thực hiện quyền thông qua các tổ chức chính trị – xã hội (Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên);

- Trực tiếp thực hiện quyền giám sát qua chế định dân chủ trực tiếp và nhân dân thực hiện quyền giám sát thông qua cơ quan ngôn luận, báo chí.

3.1. Việc thực hiện quyền giám sát của nhân dân qua thông qua các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện thông qua cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin giám sát của các cơ quan tư pháp. Đề tài kiến nghị cơ chế này cần quy định rõ các vấn đề:

- Trên cơ sở các quy định của luật, xác định những nội dung liên quan đến hoạt động tố tụng phải thông tin đến nhân dân (công chúng);

- Xác định chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin theo yêu cầu;

- Xác định chủ thể có trách nhiệm tiếp nhận và xử lý thông tin, phản ảnh từ phía nhân dân; ở đây, có lẽ cần khai thác khả năng phối hợp với cơ quan thông tin đại chúng là một kênh tiếp nhận và chuyển tải thông tin quan trọng;

- Quy định cơ chế thông tin hai chiều giữa cơ quan tố tụng và nhân dân, quy định trách nhiệm của người có thẩm quyền phải trả lời kiến nghị của nhân dân, trong trường hợp cần thiết - giải trình bằng phương thức thích hợp. Trong tất cả các vấn đề nêu trên thì nội dung này có lẽ là quan trọng nhất và quyết định hiệu quả của cơ chế giám sát theo kênh này.

3.2. Việc thực hiện quyền thông qua các tổ chức chính trị - xã hội mà chủ yếu là Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên là một kênh giám sát khá quan trọng của nhân dân.

Để thực hiện tốt vai trò của mình, Mặt trận tổ quốc cần phải có những giải pháp và phương hướng nhằm tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên đối với hoạt động tư pháp nói riêng, đối với hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung. Cụ thể là6:

- Đổi mới phương thức phối hợp giữa Mặt trận tổ quốc với các cơ quan Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Kiểm sát, chính quyền địa phương...);

- Tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận tổ quốc với các cơ quan có chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra để thực hiện quyền giám sát của mình, đồng thời cán bộ mặt trận phải sâu sát với mọi tầng lớp nhân dân để lắng nghe ý kiến phản ánh của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước;

- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên Mặt trận tổ quốc nhằm thống nhất hành động trên cơ sở mục tiêu chung, tạo sức mạnh tổng hợp, đấu tranh quyết liệt, nhất là trước các hành vi tham nhũng (tham ô, hối lộ, bòn rút của công...), các hành vi chuyên quyền, lạm quyền, nhũng nhiễu nhân dân;

- Tăng cường mạng lưới hoạt động của Mặt trận tổ quốc ở cơ sở, hướng công tác Mặt trận xuống cơ sở để thống nhất hành động của các hội quần chúng, tập hợp những người tiêu biểu có uy tín, thông qua họ để phát huy dân chủ ở cơ sở, tham gia giải quyết các xung đột, mâu thuẫn của nhân dân ngay tại cơ sở...

- Mặt trận tổ quốc các cấp cần tăng thêm người tiêu biểu, người ngoài Đảng trong Uỷ ban mặt trận tổ quốc, tăng cường cán bộ chuyên trách có năng lực, có trình độ chuyên môn cao và mở rộng đội ngũ cộng tác viên là những chuyên gia giỏi.

- Đổi mới phương thức và nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, trong đó công tác dân vận có trách nhiệm tham mưu cho Đảng và Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ các cấp hoàn chỉnh các quy định, nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, theo tinh thần nội dung Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII), Chỉ thị l0 của Ban Bí thư (khóa IX) và Kết luận số l59 của Ban Bí thư

3.3. Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động tư pháp.

Việc nghiên cứu cho phép nhân dân tự thành lập các tổ chức giám sát độc lập (đặc biệt là trong lĩnh vực tư pháp) hoạt động vì mục đích bảo vệ quyền lợi của công chúng, thể hiện quan điểm, tiếng nói của người dân đối với hoạt động của cơ quan công quyền nói chung, đối với hoạt động của cơ quan tư pháp nói riêng là một quan điểm đáng lưu ý và cần xem xét nghiên cứu toàn diện trong một đề tài độc lập.

Mặt khác, ngoài việc củng cố, tăng cường vai trò giám sát của các tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp (Hội luật gia Việt Nam, các đoàn luật sư của các tỉnh, thành phố), trong thời gian tới chúng ta cũng cần nghiên cứu cho phép thành lập các Hiệp hội luật sư toàn quốc, Hiệp hội của Hội thẩm nhân dân... đây sẽ là những kênh giám sát có tiếng nói chuyên môn quan trọng trong hoạt động tư pháp.

3.4. Hoạt động giám sát của nhân dân thông qua cơ quan ngôn luận, báo chí.

Báo chí luôn được coi là một kênh giám sát đặc biệt quan trọng và hiệu quả đối với hoạt động của mọi cơ quan Nhà nước và đối với bất kỳ quốc gia nào. Do vậy, để nâng cao vai trò của báo chí trong hoạt động giám sát cơ quan tư pháp, chúng ta cần nhận thức rõ: (1) báo chí có nhiệm vụ phản ánh chân thực và khách quan các hoạt động của cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các vụ án; (2) hoạt động báo chí cần tuân thủ các quy định của luật báo chí và pháp luật về tố tụng khi phản ánh hoạt động tư pháp; (3) hoạt động báo chí là một kênh giám sát quan trọng và hiệu quả của nhân dân đối với cơ quan tư pháp và cuối cùng (4) hoạt động báo chí không làm thay các cơ quan tiến hành tố tụng, không thể thay thế các định chế pháp luật.

3.5. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội của nhân dân đối với hệ thống chính trị nói chung, đối với cơ quan tư pháp nói riêng.

Trong điều kiện hiện nay, xây dựng và thực hiện được cơ chế phản biện xã hội, phát huy dân chủ, chắc chắn sẽ tránh được quan liêu hóa trong Đảng, giúp Đảng đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách sát, đúng và phù hợp với mong muốn, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Trong lĩnh vực tư pháp, việc xây dựng cơ chế phản biện xã hội trước hết cần tập trung vào các vấn đề như:

- Phản biện quá trình xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định lớn của Đảng về công tác tư pháp;

- Phản biện quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp và các thể chế liên quan (như luật sư, công chứng, giám định...), đấu tranh chống tham nhũng, loại bỏ các tiêu cực trong hoạt động tư pháp...

4. Có cơ chế huy động các nguồn lực trong xã hội cho việc hình thành, thực thi quyền giám sát của nhân dân trên thực tế.

Về mặt kinh phí, tổ chức, đương nhiên việc tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân đòi hỏi sự đầu tư thích đáng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng nếu những vi phạm pháp luật được phát hiện và khắc phục kịp thời thì sẽ tiết kiệm được những chi phí đáng kể cho việc giải quyết vụ việc theo thủ tục kháng cáo, kháng nghị. Do vậy, đây là vấn đề cần phải có sự đặc biệt quan tâm từ phía Nhà nước. Chúng ta muốn xây dựng được một nền tư pháp mạnh thì phải có những đầu tư thích đáng mang tầm quốc gia. Mặt khác, khi Nhà nước đã tạo cơ chế, cho phép thành lập các tổ chức mang tính xã hội, cộng đồng trong hoạt động giám sát tư pháp thì tự xã hội, cộng đồng sẽ là nguồn lực tiềm năng rất lớn trong việc huy động các nguồn lực hình thành các kênh giám sát nhân dân hiệu quả.

5. Tăng cường các biện pháp thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về vị trí, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

“Tăng cường tuyên truyền, giáo dục các quan điểm đúng đắn, phê phán các quan điểm sai lầm, những nhận thức mơ hồ về dân chủ và nhân quyền” cần nhấn mạnh rằng, đối tượng được xem xét ở đây là dân cư nói chung, không có quyền và lợi ích liên quan mà chỉ tham gia giám sát xuất phát từ ý thức công dân và tính tích cực với tư cách là một thành viên xã hội. Vì vậy, việc thực hiện quyền giám sát chỉ có thể được cải thiện khi người dân ý thức đầy đủ về khả năng tác động đến các quá trình diễn ra trong xã hội.

Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần hướng tới mục tiêu phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, không ngừng nâng cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân./.



1 Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

2 Báo cáo số 12–BC/CCTP ngày 22/2/2006 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp về kết quả 4 năm thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. tr26.

3 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2003, tr. 134, 136.

4 Một số nội dung được nêu trong các định hướng dưới đây đã được thể hiện trong Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

5 Pháp luật phục vụ cải cách tư pháp phải được hoàn thiện đồng bộ trên các lĩnh vực: tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp. Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, bảo đảm Tòa án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của toà án sơ thẩm và toà án phúc thẩm phù hợp với tính chất, nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý các toà án nhân dân địa phương theo hướng bảo đảm tính độc lập giữa các cấp toà án trong hoạt động xét xử. Nghiên cứu mô hình thành lập Viện công tố thuộc Chính phủ; xác định rõ trách nhiệm chỉ đạo và quyết định của cơ quan công tố đối với hoạt động điều tra nhằm bảo đảm tính hiệu quả, thống nhất và liên tục của quy trình tố tụng tư pháp. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát, điều tra ban đầu với hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra. Xác định rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm của từng chức danh tư pháp trong quá trình tố tụng. Xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án, xác định mô hình Bộ Tư pháp là đầu mối giúp Chính phủ quản lý Nhà nước thống nhất công tác thi hành án. Từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án. Xác lập chế định cảnh sát tư pháp hỗ trợ công tác xét xử và thi hành án. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về công tác bổ trợ tư pháp theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hoá mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý Nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, dễ tiếp cận, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; mở rộng tranh tụng trong tất cả các phiên toà hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà hành chính đối với tất cả các loại khiếu kiện hành chính.

6 Trong các kiến nghị dưới đây, có một số kiến nghị được tiếp thu từ các công trình nghiên cứu trước đó. Cụ thể là Bài viết “Vai trò giám sát của MTTQVN, các đoàn thể nhân dân trong việc phát huy dân chủ, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả” - CN. Trần Ngọc Nhẫn - Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta hiện nay- NXB CAND, 2003; Tăng cường hoạt động giám sát của MTTQVN, của các đoàn thể nhân dân và nhân dân đối với bộ máy Nhà nước - PGS.TS. Bùi Xuân Đức - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3/2004.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về downloadTải về