• Thuộc tính
Tên đề tài Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý thẩm phán tòa án địa phương
Nội dung tóm tắt
 
 

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý thẩm phán là nội dung quan trọng trong quá trình thực hiện cải cách các cơ quan tư pháp nói riêng, bộ máy nhà nước ta nói chung.

Nội dung quản lý đối với thẩm phán rất rộng, bao gồm nhiều khâu, như tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển, điều động, khen thưởng, kỷ luật... Vấn đề đặt ra là làm thế nào cho công tác quản lý thẩm phán vừa bảo đảm được những nét chung như quản lý cán bộ công chức, vừa bảo đảm được những nét đặc thù để thẩm phán thực hiện tốt nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài cấp Bộ “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương” chính là nhằm góp phần giải quyết những đòi hỏi bức xúc đó.

Mục tiêu của đề tài đặt ra là:

- Nghiên cứu, phân tích, xác định rõ thẩm quyền của từng cơ quan nhà nước trong việc quản lý thẩm phán Toà án nhân dân điạ phương theo quy định của pháp luật hiện hành;

- Đánh giá đầy đủ, toàn diện, sâu sắc thực trạng công tác quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp;

- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần đổi mới cơ chế quản lý thẩm phán Toà án nhân dân điạ phương...

Đề tài chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu cơ chế quản lý đối với thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, còn với thẩm phán Toà án quân sự sẽ dành cho một đề tài khác.

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức

Cơ sở của việc giao thẩm quyền quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức cho Bộ Tư pháp xuất phát từ tính đặc thù trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án. Các nguyên tắc đó là:

Thứ nhất, Tòa án là cơ quan xét xử, không phải là cơ quan hành chính. Vì vậy, khác với Bộ, ngành, các Tòa án tuy khác nhau về thẩm quyền nhưng đều là cơ quan xét xử, đều nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để phán quyết. Tòa án nhân dân tối cao cũng là cơ quan xét xử, và khi xét xử chánh án Tòa án nhân dân tối cao cũng là một thẩm phán. Do đặc thù này mà các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 đã quy định thành một nguyên tắc truyền thống: Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước. Đồng thời, để bảo đảm quyền năng độc lập xét xử của mỗi cấp Tòa án, yêu cầu đặt ra là Tòa án nhân dân các cấp không phụ thuộc vào nhau về mặt hành chính (tổ chức, nhân sự, kinh phí). Các Tòa án có mối quan hệ về tố tụng theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án nhân dân tối cao chưa bao giờ được Hiến pháp quy định là cơ quan "quản lý ngành toà án".

Thứ hai, nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này không những được quy định trong các Hiến pháp của nước ta hơn nửa thế kỷ qua, mà còn là nguyên tắc truyền thống của tất cả các nước trên thế giới. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ không ai được can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án kể từ khi thẩm phán và hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử và xét xử trước tòa. Để bảo đảm nguyên tắc này, đòi hỏi việc quản lý toà án (cơ quan xét xử) phải do một cơ quan khác thực hiện

Thứ ba, nguyên tắc hai cấp xét xử.

Trong quan hệ về mặt tố tụng, với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước, trong mối quan hệ với Tòa án địa phương, Tòa án nhân dân tối cao đã được pháp luật giao cho những quyền năng tố tụng sau đây:

- Quyền hủy bỏ bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân địa phương;

- Quyền rút vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân địa phương lên để xét xử;

- Quyền tổng kết công tác xét xử;

- Quyền hướng dẫn công tác xét xử đối với các Tòa án nhân dân địa phương.

Với các quyền năng tố tụng đó, Tòa án nhân dân tối cao cũng như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có đủ điều kiện để nắm vững tình hình xét xử mà thực hiện trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội theo quy định tại Điều 135 của Hiến pháp 1992. Vì vậy, nếu giao cho Tòa án nhân dân tối cao quyền quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức sẽ ảnh hưởng không tốt đối với công tác xét xử nói chung và công tác xét xử của Tòa án nhân dân địa phương nói riêng, khó bảo đảm được tính khách quan.

Mặt khác, nếu giao cho Tòa án nhân dân tối cao quyền quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức, thì cùng với quyền năng tố tụng hiện có, cơ quan Tòa án sẽ trở thành hệ thống cơ quan xét xử khép kín. Điều đó không những làm tổn hại đến nguyên tắc độc lập xét xử của các Tòa án nhân dân địa phương, mà còn làm giảm vai trò của Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, luật sư, giám định và các quy định về chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 129, Hiến pháp 1992), xét xử tập thể (Điều 131, Hiến pháp 1992), quyền của bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ khi kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm (Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bởi vì, khi bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân trong trường hợp cấp dưới đã xin ý kiến thỉnh thị cấp trên thì những quy định về xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm khó tránh khỏi tính hình thức.

Trong bộ máy nhà nước, hoạt động quản lý là hoạt động chủ yếu của Chính phủ. Chính phủ có trách nhiệm quản lý toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, ngoại giao và quản lý tư pháp. Vì vậy, không thể tách quản lý tư pháp khỏi hoạt động quản lý của Chính phủ được. Nếu chuyển cho Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, thì một mặt sẽ biến Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử đồng thời là cơ quan quản lý. Mặt khác, bên cạnh Chính phủ lại có một cơ quan "Chính phủ", cũng lo việc tổ chức, tài chính, đào tạo cán bộ. Điều đó hoàn toàn trái với một trong những quan điểm của Đảng ta trong xây dựng bộ máy nhà nước: bảo đảm quyền lực thống nhất và có sự phân công phân nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Trên cơ sở những lý do nêu trên Điều 16 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 quy định: "Việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhận..." Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992 quy định Chính phủ thống nhất quản lý viên chức (Điều 16), quản lý hành chính tư pháp (Điều 18). Nhằm cụ thể hóa nội dung của việc quản lý các Tòa án nhân dân về mặt tổ chức nói riêng và quản lý tư pháp nói chung, ngày 16/12/1992 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 173/TTg về việc giao cho Bộ Tư pháp quản lý ngân sách của các Tòa án nhân dân địa phương, ngày 4/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định số 38/CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo những văn bản pháp luật này, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ sau đây:

(i) Chủ trì hoặc tham gia xây dựng, thẩm tra các dự án pháp luật, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật.

(ii) Quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức.

(iii) Quản lý thi hành án dân sự.

(iv) Thực hiện quản lý nhà nước về các hoạt động tư pháp bổ trợ (luật sư, công chứng, giám định, quốc tịch, hộ tịch...).

(v) Đào tạo đại học luật và các chức danh tư pháp.

Những nhiệm vụ cơ bản trên đây là nhằm thực hiện chức năng hành chính - tư pháp của Chính phủ được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992, Nghị định số 15/CP ngày 02/03/1993 của Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản pháp luật khác. Các nhiệm vụ đó có quan hệ hữu cơ với nhau tạo nên thể thống nhất từ việc chuẩn bị các dự án pháp luật, đến việc thẩm tra các dự án pháp luật, thi hành pháp luật, bảo đảm tính hiệu lực của pháp luật và công việc điều hành của Chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất, cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Về thực tiễn quản lý, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã có những cố gắng lớn trong công tác quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức. Vì vậy, các Tòa án địa phương từng bước được kiện toàn về mặt tổ chức, về cán bộ, về trang thiết bị và cơ sở làm việc. Bộ mặt của cơ quan công lý ở địa phương ngày càng được thay đổi, bảo đảm tính nghiêm trang của pháp đình.

1.2. Về quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương

1.2.1. Đặc thù nghề nghiệp của thẩm phán

Với quan điểm, thẩm phán là hạt nhân, đối tượng quan trọng trong đổi mới, tăng cường chất lượng xét xử của Tòa án. Dù ở vị trí công tác nào cũng có thể khẳng định rằng, thẩm phán là một chức danh thực hiện nghề nghiệp đặc thù. Do vậy, cần có cơ chế quản lý và hệ thống chính sách phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của thẩm phán trong xã hội. Đặc thù trong hoạt động xét xử của thẩm phán và những hệ quả của những đặc thù đó là:

a) Lao động của thẩm phán là một dạng của lao động trí não, đầy khó khăn, phức tạp đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội và của công dân.

Hoạt động (lao động) của thẩm phán phải chịu nhiều áp lực, áp lực từ phía các phần tử tội phạm, áp lực từ phía xã hội, công luận. Vì xã hội luôn luôn giám sát hoạt động của Tòa án vì vậy, việc xét xử của thẩm phán phải đảm bảo đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý. Nếu việc làm của Tòa án (thẩm phán) là đúng đắn thì xã hội, công luận sẽ ngợi khen, nhưng mặt khác, nếu là việc làm sai trái sẽ bị công luận phê phán. Điều này sẽ ảnh hưởng to lớn đến nền công lý của quốc gia.

b) Thẩm phán là người đại diện cho Nhà nước trực tiếp bảo vệ nền công lý, do vậy sự công bằng, vô tư, khách quan, tình người là phẩm chất không thể thiếu của thẩm phán.

c) Hoạt động của thẩm phán gắn liền với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức.

Xét xử là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hoạt động cơ bản đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Hoạt động xét xử có thể dẫn đến chỗ công dân, pháp nhân, các tổ chức được hưởng các quyền và lợi ích hoặc gánh chịu các nghĩa vụ nhất định. Đặc biệt là việc xét xử trên lĩnh vực hình sự, kết quả của hoạt động xét xử hình sự dẫn đến những hậu quả pháp lý rất nghiêm trọng đối với người bị kết án (như người bị kết án bị tử hình...). Có thể thấy rằng sai lầm trong hoạt động xét xử của thẩm phán khó tính hết hậu quả, nó không chỉ làm thiệt hại một cá nhân cụ thể, mà còn gây nên sự mất niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội.

d) Độc lập xét xử là nguyên tắc cơ bản đối với hoạt động của thẩm phán.

e) Thẩm phán hoạt động theo một trình tự pháp lý chặt chẽ được quy định trong pháp luật tố tụng.

g) Khi xét xử, Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước để ra bản án, quyết định.

Bản án, quyết định của Tòa án do Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước để tuyên đối với bị cáo và các đương sự khác. Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân và tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án và quyết định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó.

Bởi tính hiệu lực cao của bản án và quyết định của Tòa án như vậy, cho nên pháp luật tố tụng quy định việc sửa đổi, hủy bỏ các văn bản đó không phải như những văn bản hành chính đơn thuần mà phải thông qua trình tự tố tụng nghiêm ngặt bằng thủ tục kháng cáo hoặc kháng nghị.

Vì những lẽ trên mà chúng ta thấy để trở thành thẩm phán phải có đủ những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức. Thủ tục bổ nhiệm thẩm phán là thủ tục riêng, theo đó thẩm phán phải do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Đây là các đặc thù cơ bản của nghề nghiệp thẩm phán đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý phù hợp.

1.2.2. Quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương

Theo nguyên tắc tổ chức bộ máy của Nhà nước ta, thì quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp (xét xử). Trong đó, cơ quan hành pháp là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm thực hiện các vấn đề về quản lý hành chính nhà nước và điều hành đối với toàn bộ hoạt động trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Trên tinh thần này, việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự cấp quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực, theo quy định của pháp luật (Điều 16 Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự), thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp - thành viên của Chính phủ. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, đề tài đã đưa ra khái niệm: Quản lý Toà án về mặt tổ chức là một hình thức quản lý nhà nước có nội dung là việc xây dựng các điều kiện cần thiết để hình thành các cơ quan xét xử và để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc: thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Các điều kiện cần thiết này chính là con người, tổ chức, trụ sở, kinh phí, phương tiện hoạt động cho các Toà án mà những cơ quan chức năng của nhà nước phải bảo đảm.

1.3. Nguyên tắc cơ bản quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương

Như trên đã phân tích, thẩm phán là một “nghề” đặc biệt với những đặc thù riêng. Do vậy, để việc quản lý thẩm phán đạt hiệu quả, hoạt động quản lý thẩm phán cần quán triệt một số nguyên tắc cơ bản sau đây:

(i) Hoạt động quản lý thẩm phán phải hỗ trợ, giúp đỡ thẩm phán bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định: “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”.

(ii) Hoạt động quản lý thẩm phán phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ. Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức - nguồn nhân lực của bộ máy nhà nước là một trong ba nội dung chủ yếu của công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 3 và 8 (khoá VII). Trong thời gian qua, việc quản lý đội ngũ thẩm phán và phát triển nguồn nhân lực cũng bộc lộ những nhược điểm, bất cập, những tồn tại cần khắc phục. Những tiến bộ đã đạt được chưa đủ đáp ứng được yêu cầu phục vụ đổi mới kinh tế - xã hội và phục vụ dân của bộ máy công quyền mà cán bộ công chức là chủ thể. Vì vậy, đối với việc quản lý đội ngũ thẩm phán cần phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ.

(iii) Hoạt động quản lý toà án địa phương nói chung, quản lý thẩm phán nói riêng phải bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước, trước hết là Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao ở cấp trung ương và Sở Tư pháp, Toà án nhân dân cấp tỉnh.

1.4. Nội dung quản lý thẩm phán và kinh nghiệm thực tiễn

Nội dung quản lý thẩm phán được xác định bao gồm các nội dung chính của hoạt động quản lý cán bộ công chức. Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc thù của nghề thẩm phán mà các nội dung cụ thể cũng có những điểm khác biệt so với hoạt động quản lý cán bộ, công chức bình thường. Đề tài tập trung nghiên cứu một số nội dung mang tính đặc thù của hoạt động quản lý thẩm phán sau đây:

a) Về tiêu chuẩn thẩm phán. Phù hợp với thực trạng chất lượng cán bộ ở Việt Nam trong thời gian qua, thẩm phán cần đáp ứng tiêu chuẩn sau:

Một là, công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đó là tiêu chuẩn chính trị của người thẩm phán.

Hai là, có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật, trung thực kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, hách dịch, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Ba là, có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ của thẩm phán. Theo quy định pháp luật, chưa có sự phân biệt về trình độ thẩm phán các cấp. Tiêu chuẩn về trình độ của thẩm phán được quy định chung cho thẩm phán Toà án các cấp là cao đẳng toà án hoặc đại học luật. Tiêu chuẩn này chỉ còn là tiêu chí, giải pháp để giải quyết tồn tại của lịch sử, nếu tiếp tục quy định này sẽ không phù hợp vì trên thực tế chúng ta không còn đào tạo trình độ cao đẳng toà án.

Bốn là, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

b) Tuyển chọn thẩm phán. Ở nước ta, thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán. Thực tế cho thấy có một số vấn đề chưa hợp lý như sau:

- Thẩm quyền bổ nhiệm: tất cả các thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm (trừ chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu). Do số lượng thẩm phán cần bổ nhiệm quá nhiều nên việc bổ nhiệm như hiện nay khó tránh khỏi tính hình thức. Theo quan điểm của đề tài, thẩm quyền bổ nhiệm nên có sự phân cấp hợp lý hơn. Chủ tịch nước chỉ bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh trở lên, còn thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện nên giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

- Về thành phần Hội đồng tuyển chọn: theo quan điểm của đề tài, thành phần Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán chưa phù hợp, cần có thêm đại diện tổ chức Đảng bộ địa phương và một số thẩm phán có kinh nghiệm là thành viên của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán. Bên cạnh đó, không nên quy định Hội luật gia là thành viên của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán, vì công tác của Hội luật gia ít liên quan đến công tác Tòa án.

c) Thuyên chuyển thẩm phán. Theo quy định, để điều chuyển thẩm phán từ Tòa án nhân dân nơi này đến Tòa án nhân dân địa phương khác ít nhất cần 10 con dấu đối với thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện (cấp ủy, chánh án tỉnh, chánh án huyện, Sở Tư pháp - của cả nơi đi và nơi đến và ý kiến thống nhất của Toà án nhân dân tối cao và cuối cùng là của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); cần phải có 6 con dấu đối với thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh. Trên thực tế, người được thuyên chuyển điều động gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như: lương thấp, phải xa gia đình, bị san sẻ về thu nhập, nếu chuyển cả gia đình cùng đến nơi công tác mới thì vấn đề về nhà ở, công việc làm, việc học tập của vợ chồng và các con như thế nào?... Do vậy, trước hết về thủ tục điều động cần gọn hơn và nên giao cho cơ quan quản lý có thẩm quyền không qua các khâu trung gian khác như nêu trên

d) Về khen thưởng và kỷ luật thẩm phán. Khi tiến hành khen thưởng, kỷ luật thẩm phán cần tuân theo các nguyên tắc sau:

(1) Nguyên tắc công minh, công bằng trong khen thưởng, kỷ luật là thưởng phạt đúng người, đúng lỗi.

(2) Nguyên tắc đề cao ý nghĩa giáo dục, cổ vũ trong khen thưởng, kỷ luật và kết hợp giữa giáo dục với kỷ luật, xử phạt.

(3) Nguyên tắc kết hợp khen thưởng, kỷ luật về chính trị, tinh thần với khen thưởng hoặc kỷ luật bồi hoàn bằng vật chất

Công tác này phải được thực hiện bằng một cơ chế dân chủ. Những người làm công tác này phải có nhân tâm và đức độ cao, có tấm lòng trong sáng.

1.5. Mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý thẩm phán

Theo quy định tại Điều 16 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân thì việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm với sự phối hợp chặt chẽ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Cụ thể hoá quy định này ngày 14/5/1993 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân; ngày 29/9/1993, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/UBTVQH9 ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực; Bộ trưởng Bộ Tư pháp, chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế số 91/TP-TA ngày 19/01/1994 về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý Toà án nhân dân cấp huyện về mặt tổ chức...

Qua những văn bản này cho thấy, Bộ Tư pháp là cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm chính trong mối quan hệ phối hợp với các cơ quan khác như với Quốc hội, với Chủ tịch nước, với Toà án nhân dân tối cao, với tỉnh uỷ, thành uỷ để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và giám đốc Sở Tư pháp; phối hợp với huyện uỷ để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện.

Hàng năm, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao thống nhất trình Chính phủ quyết định tổng biên chế và các chế độ phụ cấp khác cho các Tòa án nhân dân địa phương và căn cứ vào đó thống nhất quy định biên chế, số lượng thẩm phán, hội thẩm nhân dân cho từng Tòa án nhân dân địa phương.

Bộ Tư pháp cùng Toà án nhân dân tối cao phối hợp kiểm tra công tác của các Tòa án nhân dân địa phương (kiểm tra: đơn thư khiếu nại đối với Thẩm phán, tuyển dụng cán bộ, sử dụng ngân sách, thi đua... ).

Với những vấn đề như đã nêu trên, thì ngoài việc chỉ đạo trực tiếp, Bộ Tư pháp cùng Toà án nhân dân tối cao đã có các hướng dẫn cụ thể để các địa phương thực hiện công tác quản lý thống nhất, đi vào nề nếp và đạt hiệu quả.

2. Thực trạng quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương hiện nay

2.1. Thực trạng quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương

2.1.1. Về đội ngũ thẩm phán([1])

Tính đến tháng 9-1999 số lượng thẩm phán toà án nhân dân địa phương có:

- Thẩm phán cấp tỉnh gồm 925 người, trong đó 50 chánh án, 10 quyền chánh án (một tỉnh chưa bổ nhiệm được chánh án), 107 phó chánh án;

- Thẩm phán cấp huyện: 2.218 người, trong đó có 545 chánh án, 51 quyền chánh án (15 huyện chưa bổ nhiệm được chánh án),

- Thẩm phán toà án quân sự: 108

So với số lượng được phân bổ thì đội ngũ thẩm phán còn thiếu 193 người ở cấp tỉnh và 720 người ở cấp huyện. Tình trạng thiếu thẩm phán chủ yếu tập trung ở một số vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, các địa phương mới chia tách.

Khó khăn hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân địa phương là tình hình thiếu thẩm phán so với số lượng được phân bổ. Trình độ, phẩm chất của thẩm phán cũng chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử. Người cán bộ có đủ tiêu chuẩn để tuyển dụng vào làm việc cho các Toà án, nhất là đối với các Toà án cấp huyện ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, còn rất khó khăn do chính sách đào tạo chung còn chưa hợp lý. Chế độ chính sách đối với cán bộ viên chức nói chung, cũng như đối với cán bộ Toà án nói riêng chưa đáp ứng được các nhu cầu của đời sống, phần nào ảnh hưởng đến trách nhiệm và hậu quả công tác...

3.1.2. Về cơ chế quản lý thẩm phán

Quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức là một hình thức quản lý nhà nước, có nội dung là xây dựng các điều kiện cần thiết để cơ quan xét xử đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc: “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”. Những điều kiện đó là: cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, trụ sở làm việc, kinh phí và các phương tiện hoạt động cho các Tòa án nhân dân địa phương mà các cơ quan quản lý nhà nước phải thực hiện.

- Về bổ nhiệm thẩm phán: quy trình bổ nhiệm thẩm phán phải căn cứ vào tiêu chuẩn đã được quy định, phải rà soát, đánh giá cán bộ, lấy phiếu tín nhiệm, trao đổi thống nhất với cấp uỷ địa phương... lập hồ sơ đưa ra hội đồng tuyển chọn thẩm phán quyết định và đề nghị lên cấp trên.

- Về thuyên chuyển, điều động, miễn nhiệm cán bộ phải theo thủ tục chặt chẽ như: có ý kiến của người được điều động (đơn xin miễn nhiệm); có sự thống nhất của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao (đối với thẩm phán cấp tỉnh), của Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án tỉnh (đối với thẩm phán cấp huyện); có sự nhất trí của cấp uỷ địa phương nơi đi và đến...

- Về kỷ luật thẩm phán: ngoài hình thức cách chức thẩm phán do Chủ tịch nước thực hiện, còn các hình thức kỷ luật khác như khiển trách, cảnh cáo, buộc thôi việc đối với thẩm phán đều áp dụng theo quy định chung đối với công chức, viên chức nhà nước.

- Về thủ tục cách chức thẩm phán: phải có bản tự kiểm điểm của thẩm phán, có nghị quyết, biên bản họp kiểm điểm của đơn vị, biên bản của Hội đồng kỷ luật, có ý kiến bằng văn bản của cấp uỷ... Nghị quyết của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán và tờ trình lên cấp trên.

Ưu điểm của cơ chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp và các cơ quan khác trong việc quản lý thẩm phán là có nhiều cơ quan cùng nhau xem xét, quyết định một vấn đề sẽ chặt chẽ, đúng đắn và khách quan, tránh sự tuỳ tiện, độc đoán trong việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ. Nhưng cơ chế này cũng còn bộc lộ những bất cập, do ý kiến không thống nhất giữa các cơ quan hữu trách dẫn đến tình trạng chậm chạp, ách tắc trong quá trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động thẩm phán.

2.1.3. Nội dung quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương theo pháp luật hiện hành

Theo quy định tại Điều 16 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nghị định số 38/CP ngày 04/06/1993 của Chính phủ về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tư pháp thì việc quản lý thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Theo đó, chúng ta có thể thấy nội dung quản lý thẩm phán của Bộ Tư pháp khá toàn diện, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sau đây:

- Bảo đảm cơ cấu tổ chức, bộ máy, biên chế, đội ngũ thẩm phán của Tòa án nhân dân địa phương ổn định và phát triển đáp ứng yêu cầu hoạt động xét xử.

- Bảo đảm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương.

- Bảo đảm chính sách đối với thẩm phán, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc cho các Tòa án nhân dân địa phương phù hợp với đặc thù của hoạt động xét xử.

Riêng việc hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với việc xét xử từng vụ án cụ thể, do yêu cầu bảo đảm nguyên tắc “độc lập và tuân theo pháp luật” của thẩm phán và hội thẩm; nên pháp luật không quy định cho cơ quan nào thực hiện. Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức cũng không có thẩm quyền này. Đây chính là điểm đặc thù trong nội dung quản lý đối với thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương.

- Xét về chức năng, nhiệm vụ quản lý chung đối với công tác quản lý thẩm phán, thì cơ chế quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương là một cơ chế hỗn hợp. Cụ thể, trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình, Bộ trưởng Bộ Tư pháp mặc dù là chủ thể quản lý, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về công tác quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương, nhưng không được quyết định tất cả, mà chỉ là phần lớn công việc thuộc nội dung quản lý. Ví dụ, các vấn đề về số lượng thẩm phán, biên chế, chế độ lương, trang phục, giấy chứng minh thẩm phán, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán, chánh án, phó chánh án Tòa án nhân dân địa phương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước xem xét, quyết định.

- Về phân công nhiệm vụ quản lý thẩm phán của các đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp:

+ Về tổ chức, cán bộ: Vụ Quản lý Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm chung trong việc bảo đảm xây dựng, tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân địa phương nói chung, đồng thời trực tiếp giải quyết các vấn đề có liên quan đến các đối tượng là thẩm phán tỉnh, chuyên viên chính, thẩm tra viên chính trở lên (trừ các lĩnh vực về tổ chức, cán bộ thuộc đặc thù quản lý của Bộ Quốc phòng đối với cán bộ Toà án quân sự quân khu, khu vực). Vụ Tổ chức cán bộ và trường Đại học Luật có trách nhiệm phối hợp và thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Toà án. Thanh tra Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các Tòa án nhân dân địa phương, phối hợp giải quyết đơn thư khiếu tố, khiếu nại, đối với cán bộ Tòa án nhân dân địa phương. Vụ Pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế có trách nhiệm hợp tác quốc tế về trao đổi kinh nghiệm, học tập, tham quan khảo sát Toà án nước ngoài đối với các Tòa án nhân dân địa phương. Các Sở Tư pháp được phân cấp và chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ các vấn đề về tổ chức, cán bộ của Toà án nhân dân cấp huyện, kể cả việc đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán, chánh án, phó chánh án. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh được uỷ quyền quản lý cán bộ và một số việc về tổ chức, cán bộ có liên quan của toà án cấp mình (trừ việc thuyên chuyển, quyết định nâng lương, giải quyết chế độ đối với thẩm phán, quản lý thẩm tra viên chính, chuyên viên chính ).

+ Về kinh phí: Vụ Kế hoạch - tài chính được giao trực tiếp quản lý kinh phí của các Tòa án nhân dân địa phương (trừ Toà án quân sự). Đối với các Sở Tư pháp tuy không được giao quản lý trực tiếp kinh phí của Toà án cấp huyện, nhưng có trách nhiệm giám sát việc sử dụng kinh phí của các Toà án này.

Qua thực tiễn quản lý cho thấy, về lĩnh vực quản lý tổ chức, cán bộ đối với các Tòa án nhân dân địa phương, sự phân công, phân nhiệm các nhiệm vụ, trách nhiệm quản lý nói trên là tương đối hợp lý, tránh được hiện tượng các cơ quan lãnh đạo quản lý quá nhiều, quản lý không tốt, quản lý không nổi những việc không đáng quản hoặc để các đơn vị quản lý ở cơ sở thiếu quyền tự chủ, năng động trong công việc. Vấn đề còn tồn tại trong lĩnh vực này là năng lực cán bộ làm công tác quản lý còn hạn chế, sự phân công quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm đến từng cán bộ quản lý còn chưa cụ thể, phần nào hạn chế đến hiệu quả và hiệu lực quản lý. Ngoài ra, vấn đề làm rõ ranh giới phạm vi quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác giữa Vụ Quản lý Toà án với các đơn vị khác có liên quan của Bộ, giữa Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án quân sự địa phương cần sớm được quy định hoặc hướng dẫn thực hiện một cách chi tiết, cụ thể. Đối với lĩnh vực quản lý kinh phí các Tòa án nhân dân địa phương, cơ chế quản lý hầu như trái ngược với cơ chế quản lý trong lĩnh vực tổ chức cán bộ. Thông thường, trong các lĩnh vực quản lý, quyền hạn và trách nhiệm phải gắn với nhau. Do đó việc phân công trách nhiệm và quyền hạn của các Sở Tư pháp trong lĩnh vực quản lý này cần được nghiên cứu, xem xét, để làm sao huy động được tính tích cực của các tổ chức quản lý ở cơ sở.

2.1.4. Về thẩm quyền và phương thức quản lý thẩm phán toà án địa phương trong giai đoạn hiện nay.

2.1.4.1. Bổ nhiệm thẩm phán

Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân quy định rõ các tiêu chuẩn cụ thể về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thời gian công tác trong ngành pháp luật... Có thể tóm tắt quy trình bổ nhiệm thẩm phán theo quy định của pháp luật như sau:

- Đối với thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, Ban cán sự Đảng Sở Tư pháp, Tòa án nhân dân tỉnh cùng huyện ủy, thống nhất danh sách, hồ sơ đề nghị trình Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp huyện. Đối với thẩm phán cấp tỉnh Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao cùng tỉnh ủy, thành ủy thống nhất danh sách hồ sơ trình Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp tỉnh xém xét để chọn.

- Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp tỉnh, trên cơ sở các quy định của pháp luật đối với tiêu chuẩn của Thẩm phán, xét chọn những người có đủ năng lực, trình độ chuyên môn đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán đối với các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố thuộc trung ương, thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương, thẩm phán Tòa án quân sự khu vực.

- Đối với thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cấp huyện xét chọn, đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.

- Chủ tịch nước xem xét đề nghị bổ nhiệm thẩm phán, ra quyết định bổ nhiệm.

Chế định bổ nhiệm thẩm phán đảm bảo cho Nhà nước lựa chọn được người có đủ điều kiện về trình độ chuyên môn nghiệp vụ pháp lý thực hiện chức năng xét xử của Tòa án. Mặt khác, thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn và ý thức pháp luật và trách nhiệm cá nhân, đồng thời xác định các cơ quan Đảng, Nhà nước có trách nhiệm trong việc thực hiện chế định này. Một đặc điểm quan trọng của chế định này là đảm bảo thực hiện được nguyên tắc: “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp luật”, khắc phục được những nhược điểm trong chế định bầu trước đây.

2.1.4.2. Miễn nhiệm và cách chức thẩm phán

Việc miễn nhiệm, cách chức thẩm phán do Chủ tịch nước quyết định và cũng phải qua một trình tự, thủ tục giống như trình tự, thủ tục bổ nhiệm thẩm phán. Theo các quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân thì Chủ tịch nước ra quyết định miễn nhiệm, cách chức đối với thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Tòa án quân sự cấp quân khu, toà án quân sự khu vực theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, trên thực tế trước khi đề nghị Chủ tịch nước miễn nhiệm chức vụ thẩm phán đối với một người nào đó cần xác định rõ lý do miễn nhiệm (do yêu cầu quy hoạch cán bộ ở địa phương để chuyển sang cơ quan khác hoặc do sức khỏe, hay trình độ non kém không thể đảm nhiệm được nhiệm vụ...) và phải có đơn xin miễn nhiệm thẩm phán, ý kiến của cấp ủy Đảng địa phương nơi người đó công tác. Đối với việc cách chức thẩm phán, ngoài việc phải tuân theo các nguyên tắc nêu trên, hồ sơ đối với người bị cách chức phải có bản tự kiểm điểm về những hành vi vi phạm kỷ luật, biên bản của Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi người thẩm phán công tác. Một yếu tố bắt buộc đối với việc cách chức chức vụ thẩm phán là phải được Hội đồng tuyển chọn thông qua và đề nghị.

2.1.4.3. Điều động, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán.

Theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân thì việc thuyên chuyển thẩm phán từ Tòa án nhân dân này đến Tòa án nhân dân khác cùng cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện, sau khi thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Trên thực tế thì vấn đề này được thực hiện một cách chặt chẽ, cụ thể như sau:

Đối với việc thuyên chuyển thẩm phán từ Tòa án nhân dân tỉnh này đến Tòa án nhân dân tỉnh khác trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi thẩm phán hiện đang công tác và ý kiến của cấp ủy Đảng nơi thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến Tòa án nhân dân huyện khác trong cùng một tỉnh, trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến Tòa án nhân dân huyện khác (không cùng một tỉnh) trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng, ý kiến của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh nơi Thẩm phán đang công tác và nơi thẩm phán sẽ chuyển đến.

2.2. Những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý thẩm phán

Như trên đã phân tích, việc quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian qua đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động xét xử khách quan, chí công vô tư của các Tòa án nhân dân địa phương; đảm bảo nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong công tác này còn một số hạn chế cụ thể trên các lĩnh vực sau:

Về chất lượng thẩm phán. Nhìn vào chất lượng đội ngũ thẩm phán ở cấp huyện cũng như toà án tỉnh cho thấy, trong những năm qua Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân các cấp đã thực sự cố gắng trong việc bồi dưỡng về nghiệp vụ pháp lý cho cán bộ Toà án và đặc biệt là đội ngũ thẩm phán. Song nhìn chung đội ngũ thẩm phán các cấp về cơ bản và phần đông không được đào tạo chính quy. Đa phần học qua các lớp hệ đại học tại chức và luân huấn, có những đồng chí theo yêu cầu bức xúc của các thời kỳ khác nhau nên được điều chuyển từ các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng hoặc các ngành khác sang làm cán bộ xét xử, thậm chí làm chánh, phó Toà án nhân dân cấp huyện. Từ thực tế này, có thể nói rằng, trình độ chuyên môn của các thẩm phán ở mỗi cấp còn nhiều hạn chế và chưa thực sự đồng đều, kiến thức pháp lý, kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều thẩm phán còn hạn chế, khả năng đảm đương công tác xét xử chưa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của tình hình phức tạp trong các mối quan hệ pháp lý trên lĩnh vực dân sự, hình sự. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng án phải cải sửa, huỷ ở các cấp phúc thẩm cũng như giám đốc thẩm chiếm tỷ lệ cao ở cả toà án nhân dân cấp huyện, cũng như toà án nhân dân cấp tỉnh trong những năm qua.

Về công tác tổ chức cán bộ cũng như việc quản lý về tổ chức đối với Tòa án nhân dân địa phương hiện tại cũng còn nhiều bất cập. Việc điều chỉnh bố trí, cán bộ ở các Toà án nhất là đội ngũ thẩm phán, cán bộ lãnh đạo còn quá chậm và không kịp thời. Thực tế trong những năm qua có nhiều huyện 2-3 năm liền không có chánh án. Vì vậy đã gây không ít khó khăn cho hoạt động nghiệp vụ của các đồng chí thẩm phán ở các Toà án đó

Việc tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân cũng còn nhiều điều chưa thật sự hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác xét xử hiện nay. Nên chăng trong Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cần tăng thêm thành phần là những nhà chuyên môn cao để có những nhận xét đánh giá đúng đắn về năng lực chuyên môn của người được bổ nhiệm thẩm phán.

Việc bổ nhiệm thẩm phán các cấp đều do Chủ tịch nước thực hiện, công việc quá nhiều và mang tính chất sự vụ hành chính, nên phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán theo hướng Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện (như trước đây được quy định tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946).

Về miễn nhiệm thẩm phán, quy định “thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm” chỉ phù hợp với các trường hợp tự nguyện xin chuyển công tác vì lý do sức khoẻ, hợp lý hoá gia đình... Còn các trường hợp do tổ chức điều động vì nhu cầu công việc hoặc do yêu cầu bố trí cán bộ, kể cả việc bố trí cán bộ vào vị trí cao hơn... nhưng bản thân thẩm phán không tự nguyện, không muốn chuyển công tác thì đơn tự nguyện là hình thức (đã có trường hợp miễn cưỡng làm đơn xin miễn nhiệm). Do vậy, cần có quy định thủ tục đương nhiệm, miễn nhiệm thì mới phù hợp với thực tế.

Về thủ tục thuyên chuyển, điều động thẩm phán, thủ tục thuyên chuyển, điều động thẩm phán rất rườm rà, nếu có ý kiến không thống nhất giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc điều động thẩm phán từ địa phương này sang địa phương khác chậm chạp, ách tắc, làm ảnh hưởng lớn đến việc bố trí thẩm phán giữa các địa phương, nhất là thẩm phán cấp huyện trong cùng tỉnh. Nên chăng, cần bỏ bớt các thủ tục không cần thiết, vì quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán đã được sàng lọc, cân nhắc kỹ trước khi Chủ tịch nước quyết định. Mặt khác, trong trường hợp được Chủ tịch nước bổ nhiệm (hoặc nếu sau này phân cấp giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện) thì người thẩm phán phải tuân theo sự bổ nhiệm, phân công công tác, còn khi xét xử phải đảm bảo nguyên tắc “thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Quy định về chức năng, nhiệm vụ của thẩm phán chỉ bó hẹp ở một địa phương được bổ nhiệm là không hợp lý và gây khó khăn cho việc điều chuyển thẩm phán từ địa phương này đến địa phương khác theo yêu cầu của tổ chức cũng như phục vụ nhiệm vụ chung.

Việc quy định và khống chế nhiệm kỳ của thẩm phán đã gây nên tâm lý thiếu yên tâm công tác của thẩm phán. Nhà nước cần xác định đây là một nghề và người đã được bổ nhiệm chức vụ thẩm phán thì họ chỉ bị cách chức khi họ có vi phạm hoặc tự từ bỏ chức vụ của mình. Có như vậy mới nâng cao được vị trí của thẩm phán và đồng thời để họ thực sự yên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình.

Về chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với thẩm phán còn quá thấp  Thực hiện chế độ tiền lương mới, chỉ có hệ số mức lương của ngạch thẩm phán tỉnh và thẩm phán tối cao là cao hơn một chút so với ngạch lương hành chính tương ứng, còn hệ số mức lương của ngạch thẩm phán huyện là quá thấp và còn có khoảng cách khá xa với ngạch lương thẩm phán tỉnh. Trong những năm gần đây, tuy điều kiện làm việc của các Thẩm phán có được cải thịện chút ít nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự tạo được điều kiện tốt để các thẩm phán thật sự tận tâm, tận lực cho công tác xét xử.

Về khen thưởng thẩm phán. Việc khen thưởng thẩm phán hiện nay được áp dụng chung như đối với công chức, viên chức hành chính khác là không hợp lý. Do đặc thù của nghề xét xử có thể nghiên cứu những hình thức khen thưởng thi đua theo nhiệm kỳ thẩm phán hoặc theo chức danh nghề nghiệp như thẩm phán ưu tú, thẩm phán nhân dân.

3. Phương hướng và một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian tới

3.1. Phương hướng kiện toàn công tác quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian tới

Công cuộc đổi mới sâu rộng và đồng bộ trên các lĩnh vực của đất nước đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới hệ thống pháp luật, chức năng, phương thức hoạt động điều hành và quản lý của Nhà nước, trong đó có việc đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, nhất là việc đổi mới, xây dựng đội ngũ thẩm phán ngang tầm với nhiệm vụ mới. Vấn đề này đã được thể hiện và quán triệt rõ trong Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Do đó, Bộ Tư pháp với chức năng, nhiệm vụ được giao trong công tác quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, ngoài trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan, trong việc nghiên cứu, xây dựng Đề án hoàn thiện tổ chức, bộ máy hệ thống các cơ quan xét xử theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp quận, huyện, Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Toà án tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn Tòa án nhân dân địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật; cần tổ chức triển khai việc nghiên cứu, đề xuất các phương án cải tiến công tác quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho các bước triển khai thực hiện, nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết về đội ngũ cán bộ, trụ sở, kinh phí, phương tiện hoạt động cho Tòa án nhân dân địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Thứ nhất, xuất phát từ tình hình hoạt động, tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam trước mắt cũng như lâu dài, nhiệm vụ đào tạo, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán, cán bộ toà án, xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện kỹ thuật cho công tác xét xử phải được xem là một nhiệm vụ quan trọng của ngành tư pháp.

Thứ hai, việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức là một hình thức quản lý hành chính nhà nước. Do đó, việc cải tiến công tác này phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý toà án.

Thứ ba, việc cải tiến công tác quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức cần được xem xét, nghiên cứu một cách tổng thể về cơ chế lẫn tổ chức bộ máy, cán bộ, để có thể đề ra các biện pháp giải quyết các vấn đề đang còn tồn tại một cách triệt để.          

Thứ tư, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngạch, bậc công chức của ngành, gắn trách nhiệm với quyền hạn, nhiệm vụ với tuyển dụng và đề bạt qua thi tuyển hoặc kiểm tra sát hạch đối với đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân. Huấn luyện lại và tuyển chọn công chức theo tiêu chuẩn chức danh của người thẩm phán.

Thứ năm, phấn đấu tất cả Thẩm phán đều đạt tiêu chuẩn quy định cho từng ngạch, từng chức danh thẩm phán. Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh và Toà án cấp huyện; điểu chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọn cho phù hợp tình hình cán bộ hiện nay để bổ sung đủ thẩm phán cho Toà án cấp huyện và Toà án cấp tỉnh.

3.2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thẩm phán toà án địa phương trong thời gian tới

3.2.1. Cần nghiên cứu tổ chức Toà án theo thẩm quyền là: toà sơ thẩm, toà phúc thẩm, toà giám đốc thẩm. Với cách tổ chức Toà án như hiện nay, cán bộ đã thiếu lại càng thiếu, không tập trung được lực lượng cán bộ cũng như về cơ sở vật chất. Để khắc phục những nhược điểm trên đây, đề tài đề nghị các toà án cấp tỉnh, huyện sẽ tổ chức thành toà khu vực, có thể một số tỉnh, huyện thành lập một toà. Đây là phương án tập trung toàn diện lực lượng cán bộ, tinh giản biên chế, cơ sở vật chất. Về giải pháp thực hiện: đưa số thẩm phán, cán bộ của 3 toà thuộc Toà án nhân dân tối cao tập trung, bổ sung cho toà án cấp tỉnh; lấy số thẩm phán, cán bộ cấp tỉnh bổ sung cho toà án cấp huyện, thu hẹp số lượng trụ sở, giảm bớt chi phí hành chính.

3.2.2. Quy định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan quản lý, cơ quan phối hợp trong việc quản lý thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương.

3.2.3. Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các Sở Tư pháp trong lĩnh vực quản lý toà án, đồng thời tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp, tăng cường số lượng, chất lượng về đội ngũ cán bộ viên chức thừa hành. Ở các Sở Tư pháp phải có phòng quản lý toà án với biên chế từ 05 đến 10 người. Theo đó, đề nghị giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán toà án nhân dân huyện. Quyết định bổ nhiệm thẩm phán huyện không nên ghi rõ thẩm phán theo đơn vị hành chính mà chỉ ghi là thẩm phán huyện, thành, thị trong tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Phân cấp cho giám đốc Sở Tư pháp đảm nhiệm việc điều động thẩm phán, chánh án, phó chánh án Toà án huyện trong một tỉnh sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án toà án nhân dân tỉnh.

3.2.4. Cuối nhiệm kỳ thẩm phán nên tổ chức việc thi sát hạch công tác quản lý đối với chánh, phó án và sát hạch thẩm phán. Trên cơ sở đó để đề nghị bổ nhiệm nhiệm kỳ tiếp theo.

3.2.5. Để khắc phục những tồn tại và hạn chế trong công tác tổ chức và quản lý đội ngũ thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương, đề tài xin đưa ra một số giải pháp như sau:

- Phải quan tâm tăng cường đội ngũ thẩm phán cả về số lượng và chất lượng để lực lượng này thực sự là nòng cốt thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Toà án.

- Trước mắt cần tổ chức khảo sát tình hình thực tế ở Toà án các cấp địa phương, căn cứ vào khối lượng công việc, địa bàn và tính chất điều kiện xã hội ở từng địa phương để quy định cụ thể về biên chế cán bộ trong đó có số lượng thẩm phán cho thích hợp.

- Các cơ quan quản lý về tổ chức Tòa án nhân dân địa phương ở trung ương cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo và nâng cao trình độ pháp lý cũng như trình độ chính trị cho đội ngũ thẩm phán. Cần có một quy định cụ thể về trình độ chính trị của thẩm phán (ngoài kiến thức pháp lý như quy định hiện nay), có như vậy mới đảm bảo được yêu cầu: liêm chính, trung thực, vô tư và mẫu mực của người thẩm phán, hạn chế được những hành vi tiêu cực của thẩm phán trong xét xử.

3.2.6. Quy định điều kiện để được bổ nhiệm thẩm phán phải qua đào tạo tại Trường đào tạo các chức danh tư pháp. Bởi vì, thẩm phán là một nghề quan trọng. Theo kinh nghiệm của một số nước và xuất phát từ thực tiễn quản lý đội ngũ thẩm phán, việc tổ chức nghiệp vụ xét xử, trang bị kỹ năng, rèn luyện đạo đức và phong cách của người thẩm phán là rất cần thiết, góp phần từng bước chính quy hoá đội ngũ thẩm phán.

Thẩm phán là một nghề đặc thù, có ảnh hưởng lớn đối với tính công minh của pháp luật, uy tín và nền công lý của một quốc gia. Vì vậy, cũng cần có quy định về danh dự thẩm phán, tiêu chuẩn đạo đức của người thẩm phán (cần nghiên cứu để ban hành Quy tắc đạo đức thẩm phán). Tiêu chuẩn đó cần được quy định rõ ràng, phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của nghề thẩm phán trong xã hội và phải được công bố công khai để nhân dân tham gia giám sát.

3.2.7. Khảo sát, đánh giá, rút kinh nghiệm thực tế việc thực hiện Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân để sửa đổi, bổ sung những điều bất hợp lý hoặc chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tiễn công tác xét xử hiện nay. 

3.2.8. Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung các văn bản hướng dẫn về thủ tục, trình tự bổ nhiệm thẩm phán theo hướng đơn giản, thuận tiện mà vẫn chặt chẽ đảm bảo tính nhanh nhạy của công tác tổ chức cán bộ và đáp ứng được yêu cầu xét xử. Xây dựng chương trình, kế hoạch tuyển chọn cụ thể (lịch họp của Hội đồng tuyển chọn các cấp) để chủ động về thời gian, đẩy nhanh tiến độ bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương. Không quy định nhiệm kỳ của thẩm phán là 5 năm như hiện nay. Trong quy trình bổ nhiệm thẩm phán, cần có quy định thẩm phán phải được phát triển từ thẩm phán cấp huyện: qua thẩm phán cấp huyện thì mới làm thẩm phán cấp tỉnh và qua thẩm phán cấp tỉnh để lên thẩm phán tối cao. Quy định con đường phát triển như vậy của thẩm phán không những góp phần nâng cao nghiệp vụ, uy tín của thẩm phán mà còn là điều kiện thuận lợi cho việc điều chuyển thẩm phán từ nơi thừa sang nơi thiếu. Cần quy định cụ thể điều kiện để miễn nhiệm chức danh thẩm phán.

3.2.9. Để tạo điều kiện cho thẩm phán hoạt động có hiệu quả, Nhà nước cần quan tâm đến chế độ đãi ngộ, điều kiện vật chất phục vụ làm việc của các thẩm phán, giúp cho các thẩm phán thực sự yên tâm trong khi thực thi nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó cũng cần có quy định cụ thể về chế độ đãi ngộ, cơ chế quản lý, việc bồi dưỡng nghiệp vụ pháp lý cho hội thẩm nhân dân để những người này thực sự là những cộng sự tích cực của thẩm phán trong hoạt động xét xử.

 3.2.10. Về đào tạo và bồi dưỡng thẩm phán. Xuất phát từ tình hình hoạt động và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam, trước mắt cũng như lâu dài nhiệm vụ đào tạo, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án, xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện kỹ thuật cho công tác xét xử phải được xem là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Tư pháp và của Nhà nước. Rõ ràng đây không phải là vấn đề chỉ liên quan đến ngành Tư pháp, mà đòi hỏi cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước về cả mặt quan điểm, nhận thức cũng như quá trình thực hiện. Vấn đề này cần được quán triệt đầy đủ thì việc cải tiến công tác quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức mới đạt được hiệu quả.

Trước mắt, cần tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm. Để trở thành thẩm phán, người đó nhất thiết phải có bằng Đại học Luật. Đây là điều kiện “cứng” và rất hợp lý. Song đội ngũ thẩm phán hiện nay đã bị đặt vào tình thế hết sức nan giải. Số lượng thẩm phán còn “nợ” bằng Đại học Luật khá lớn (cấp huyện 42,3%, cấp tỉnh 8,8%). Vì vậy cần tập trung làm tốt công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán hiện có, trọng tâm là những đối tượng đang “nợ” bằng.

Về lâu dài, cần có một chủ chương, chính sách lâu dài cho công tác đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán và xây dựng thành chủ chương chung của Nhà nước về việc tăng cường việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm nhằm góp phần xoá bỏ tình trạng bất cập về kiến thức của Thẩm phán trước yêu cầu mới. Đây là một trong những công việc cấp bách, cần làm và có thể làm được ngay trong năm 2000 - 2001. Chủ trương đó là cơ sở để các trường Đại học Luật, Trường Đào tạo các chức danh tư pháp, Trường bồi dưỡng Thẩm phán, Trường Cao đẳng Kiểm sát có kế hoạch thực hiện. Ngoài ra, đề tài đề nghị các trường đào tạo trong khối nội chính cần trao đổi, thảo luận với nhau chương trình và giáo trình giảng dạy nhằm bảo đảm sự thống nhất và ăn khớp giữa các nội dung đào tạo.

3.2.10. Vấn đề sử dụng thẩm phán sau khi được đào tạo, để trở thành thẩm phán cấp sơ thẩm phải có thời gian học tập tốt tại Trường Đào tạo các chức danh tư pháp và phải làm thẩm phán dự bị 1 năm. Tiêu chuẩn làm thẩm phán cấp trên phải có thời gian làm thẩm phán cấp dưới liền kề một nhiệm kỳ. Nếu điều đó được thực hiện tốt sẽ không thiếu những thẩm phán đã kinh qua cơ sở. Đội ngũ thẩm phán này vừa có lý luận, vừa có thực tiễn để làm thẩm phán Tòa án cấp trên, đưa ra được những quyết định mẫu mực hướng dẫn đường lối xét xử cho Tòa án cấp dưới.

3.2.11. Ngoài việc quan tâm củng cố về mặt tổ chức đối với đội ngũ thẩm phán, các cơ quan chức năng ở trung ương cần kịp thời sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động xét xử của Toà án như Luật Tố tụng dân sự... Việc giải thích pháp luật bằng các thông tư lên ngành cũng cần được quan tâm đúng mức để kịp thời cung cấp những điều kiện pháp lý cần thiết cho hoạt động nghiệp vụ của các thẩm phán.


([1]) Theo Báo cáo của Chính phủ số 76/CP ngày 28/10/1999 về việc thực hiện công tác quản lý toà án nhân dân về mặt tổ chức và công tác thi hành án dân sự.

 

 

Nội dung toàn văn

Bộ tư pháp

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý

 

 

 

 

 

đề tài khoa học cấp bộ

Số đăng ký: 96 – 98 – 036

 

 

 

xây dựng và hoàn thiện

cơ chế quản lý thẩm phán tòa án

địa phương

 

 

 

 

 

Chủ nhiệm đề tài:

Nguyễn Văn Sản

Nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp

 

 

Hà nội – 2001

nhóm thực hiện đề tài

 

 

I. Chủ nhiệm đề tài:

- Nguyễn Văn Sản, nguyên thứ trưởng Bộ Tư pháp

II. Phó chủ nhiệm đề tài:

- TS. Hoàng Thế Liên, Viện trưởng Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp;

- Lê Quang Đãng, nguyên Vụ trưởng Vụ quản lý Toà án địa phương, Bộ Tư pháp.

III. Thư ký đề tài:

- Trần Mạnh Đạt, Nghiên cứu viên Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp

IV. Các cộng tác viên chính:

- Đặng Minh Ngọc, nguyên Chánh án TAND TP Hà Nội;

- Nguyễn Vĩnh Oánh, Giám đốc Sở Tư pháp TP Hà Nội;

- Trần Quốc Phú, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp;

- TS. Dương Thị Thanh Mai, Phó Viện trưởng Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp;

- TS. Đinh Ngọc Hiện, Phó Viện trưởng Viện NCKH xét xử, TANDTC;

- ThS. Cao Xuân Phong, Nghiên cứu viên Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp;

- Dương Bạch Long, Nghiên cứu viên Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp.

V. Các cơ quan phối hợp chính:

- Vụ Quản lý Toà án địa phương, Bộ Tư pháp;

- Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây; tỉnh Bắc Giang; tỉnh Yên Bái;

- Sở Tư pháp TP Hà Nội; Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ; Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương.

 

 

Báo cáo tóm tắt đề tài:

xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý

thẩm phán tòa án địa phương

 

Thời gian thực hiện đề tài: 1997-1998

 

1. Mục tiêu nghiên cứu:

- Nghiên cứu, phân tích, xác định rõ thẩm quyền của từng cơ quan nhà nước trong việc quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân điạ phương theo quy định của pháp luật hiện hành;

- Đánh giá đầy đủ, toàn diện, sâu sắc thực trạng công tác quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp;

- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần đổi mới cơ chế quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân điạ phương...

2. Phạm vi nghiên cứu.

Đề tài chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu cơ chế quản lý đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, còn với Thẩm phán Toà án quân sự sẽ dành cho một đề tài khác.

3. Phương pháp nghiên cứu.

Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm tác giả đã dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh...

4. Nhóm thực hiện đề tài.

Chủ nhiệm: - Nguyễn Văn Sản, nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp

 

Phó chủ nhiệm: - TS. Hoàng Thế Liên, Thứ trưởng Bộ Tư pháp;

- Lê Quang Đãng, nguyên Vụ trưởng

Vụ quản lý Toà án địa phương, Bộ Tư pháp.

Thư ký: - Trần Mạnh Đạt, Nghiên cứu viên Viện NCKH Pháp lý

 

Các cộng tác viên chính:

- Đặng Minh Ngọc, nguyên Chánh án TAND TP Hà Nội;

- Nguyễn Vĩnh Oánh, Giám đốc Sở Tư pháp TP Hà Nội;

- Trần Quốc Phú, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp;

- TS. Dương Thị Thanh Mai, Phó Viện trưởng Viện NCKH Pháp lý

- TS. Đinh Ngọc Hiện, Phó Viện trưởng Viện NCKH xét xử, TANDTC;

- ThS. Cao Xuân Phong, Nghiên cứu viên Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp;

- Dương Bạch Long, Nghiên cứu viên Viện NCKH Pháp lý, Bộ Tư pháp.

Các cơ quan phối hợp chính:

- Vụ Quản lý Toà án địa phương, Bộ Tư pháp;

- Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây; tỉnh Bắc Giang; tỉnh Yên Bái;

- Sở Tư pháp TP Hà Nội; Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ; Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương.

5. Quá trình thực hiện đề tài:

- Đề tài đã thực hiện 12 chuyên đề nghiên cứu khoa học;

- Đề tài đã tổ chức hai cuộc Hội thảo ở hai miền Nam, Bắc và nhiều cuộc khảo sát ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam;

- Quá trình nghiên cứu đề tài cũng là quá trình các cơ quan tư pháp từng bước được đổi mới nên nhiều nội dung của đề tài trên thực tế đã được vận dụng ở những mức độ nhất định vào công việc của Bộ Tư pháp.

- Tham gia thực hiện đề tài có các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn thuộc các cơ quan Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân và Sở Tư pháp một số địa phương như: Hà Nội, Hà Tây, Hải Phòng, Yên Bái...

6. Cơ cấu và một số nội dung nghiên cứu chính của đề tài

6.1. Cơ cấu của quyểt đề tài gồm:

Phần I. Tổng thuật kết quả nghiên cứu của đề tài;

Phần II. Các chuyên đề nghiên cứu cụ thể;

Phần III. Khảo sát, điều tra, thông tin, tư liệu.

6.2. Nội dung nghiên cứu chính của Đề tài tập trung làm rõ về các vấn đề sau:

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương;

2. Vài nét về lịch sử quản lý thẩm phán từ năm 1945 đến nay và vị trí, vai trò của người thẩm phán trong hoạt động xét xử.

3. Thực trạng quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong giai đoạn hiện nay.

4. Phương hướng và một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý thẩm phán Toà án nhân dân địa phương trong thời gian tới.

 

tổng thuật kết quả nghiên cứu đề tài

 

I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương;

ở phần này, Ban chủ nhiệm đã đưa ra các phân tích, bình luận để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quả lý Toà án địa phương (từ trang 12 đến trang 37 của Báo cáo Tổng thuật). Nội dung giải quyết ở 5 vấn đề cơ bản sau:

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức.

Trong đó làm rõ về:

a) Về vấn đề quản lý Tòa án nhân dân địa phương do cơ quan nào quản lý về mặt tổ chức là hợp lý và hiệu quả?

b) Về quan điểm chuyển nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức cho Toà án nhân dân tối cao.

1.2. Về quản lý Thẩm phán toà án nhân dân địa phương.

Trong mục này, chúng tôi đi vào làm rõ về:

1.2.1. Đặc thù nghề nghiệp của thẩm phán

Với quan điểm, Thẩm phán là nhân tố hạt nhân, đối tượng quan trọng trong việc đổi mới Tòa án, tăng cường chất lượng xét xử của Tòa án. Dù ở vị trí công tác nào chúng ta cũng có thể khẳng định rằng, Thẩm phán là một chức danh thực hiện nghề nghiệp đặc thù. Do vậy, cần có cơ chế quản lý và hệ thống chính sách phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của Thẩm phán trong xã hội. Đặc thù trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và những hệ quả của những đặc thù đó bao gồm:

a) Lao động của Thẩm phán là lao động trí não, đầy khó khăn, phức tạp đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của công dân.

b) Thẩm phán là người đại diện cho Nhà nước trực tiếp bảo vệ nền công lý do vậy sự công bằng, vô tư, khách quan, tình người là phẩm chất không thể thiếu của Thẩm phán.

c) Hoạt động của Thẩm phán gắn liền với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức.

d) Độc lập xét xử là nguyên tắc cơ bản đối với hoạt động của Thẩm phán.

e) Thẩm phán hoạt động theo một trình tự pháp lý chặt chẽ được quy định trong pháp luật tố tụng.

g) Khi xét xử, Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước để ra bản án, quyết định.

1.2.2. Quản lý thẩm phán Toà án địa phương.

Xuất phát từ yêu cầu quản lý hành chính nhà nước đối với các Toà án nói chung và đối với thẩm phán nói riêng và từ chính vị trí, vai trò, tính chất, nguyên tắc hoạt động của các Toà án, là đòi hỏi khách quan nội tại về các điều kiện cần thiết cho việc hình thành và bảo đảm các hoạt động có hiệu lực và hiệu qủa của Toà án.

Từ đây, có thể đưa ra khái niệm: Quản lý Toà án về mặt tổ chức là một hình thức quản lý nhà nước có nội dung là việc xây dựng các điều kiện cần thiết để hình thành các cơ quan xét xử và để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc: "Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Các điều kiện cần thiết này chính là con người, tổ chức, trụ sở, kinh phí, phương tiện hoạt động cho các Toà án mà những cơ quan chức năng của nhà nước phải bảo đảm.

1.3. Nguyên tắc cơ bản quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương.

Như trên đã phân tích, Thẩm phán là một "nghề" đặc biệt với những đặc thù riêng. Do vậy, để việc quản lý thẩm phán đạt hiệu quả, hoạt động quản lý thẩm phán cần quán triệt một số nguyên tắc cơ bản sau đây:

Nguyên tắc 1: Hoạt động quản lý thẩm phán phải hỗ trợ, giúp đỡ thẩm phán bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định: "khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật".

Nguyên tắc 2: Hoạt động quản lý thẩm phán phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ.

 

Nguyên tắc 3: Hoạt động quản lý toà án địa phương nói chung, quản lý thẩm phán nói riêng phải bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước, trước hết là Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao

1.4. Nội dung quản lý thẩm phán và kinh nghiệm thực tiễn

Nội dung quản lý Thẩm phán được xác định bao gồm các nội dung chính của hoạt động quản lý cán bộ công chức. Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc thù của nghề Thẩm phán mà các nội dung cụ thể cũng có những điểm khác biệt so với hoạt động quản lý cán bộ, công chức bình thường. Tuỳ vào tình hình và đặc điểm của mỗi nước, việc tổ chức và quản lý Thẩm phán cũng có những khác nhau, nhưng tất cả các nước đều thống nhất quản lý Thẩm phán trên các vấn đề sau:

- Biên chế Thẩm phán trong toàn quốc;

- Quỹ tiền lương;

- Vấn đề thi tuyển, tuyển dụng, sử dụng, thuyên chuyển, đào tạo, miễn nhiệm Thẩm phán;

- Tiêu chuẩn Thẩm phán;

- Tiền lương, chế độ chính sách đối với Thẩm phán;

- Phương pháp đánh giá chất lượng Thẩm phán hàng năm;

- Khen thưởng, kỷ luật, cách chức Thẩm phán.

- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Thống kê Thẩm phán.

1.5. Mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp và các các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý thẩm phán.

Theo quy định tại Điều 16 của Bộ luật tổ chức Toà án nhân dân thì việc quản lý Toà án nhân dân điạ phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Cụ thể hoá quy định này ngày 29 tháng 9 năm 1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/UBTVQH9 ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực. Trên cơ sở Nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ban hành quy chế số 91/TP-TA ngày 19 tháng 1 năm 1994 về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý Toà án nhân dân cấp huyện về mặt tổ chức. Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ra quyết định phân cấp quản lý về tổ chức các Toà án nhân dân cấp huyện đối với Giám đốc Sở Tư pháp và quyết định uỷ quyền cho Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh. Quy định về vấn đề này, một trong những văn bản quan trọng là Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân.

Hàng năm, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao thống nhất trình Chính phủ quyết định tổng biên chế và các chế độ phụ cấp khác cho các Toà án nhân dân địa phương và căn cứ vào đó thống nhất quy định biên chế, số lượng Thẩm phán, Hội Thẩm cho từng Toà án nhân dân địa phương.

Bộ Tư pháp cùng Toà án nhân dân tối cao đã phối hợp trong việc kiểm tra công tác của các Toà án nhân dân địa phương như kiểm tra đơn thư khiếu nại đối với Thẩm phán, kiểm tra về tuyển dụng cán bộ, kiểm tra về sử dụng ngân sách, kiểm tra công tác thi đua... theo như điểm 4 Điều 2 của Quy chế phối hợp.

Như vậy có thể nói, sự phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực về mặt tổ chức cho đến nay đã đi vào ổn định, nề nếp và điều này được minh chứng bằng các mặt hoạt động cụ thể (chúng tôi sẽ phân tích kỹ ở phần sau).

II. Vài nét về lịch sử quản lý thẩm phán nhân dân từ năm 1945 đến nay và vị trí, vai trò của người thẩm phán trong hoạt động xét xử

ở phần này, chúng tôi điểm lại vài nét về lịch sử quản lý thẩm phán nhân dân từ năm 1945 đến nay; về vị trí, vai trò của người thẩm phán trong hoạt động xét xử quan các giải đoạn lịch sử nhất định.

III. Thực trạng quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong giai đoạn hiện nay.

Đây là phần nội dung nghiên cứu chính của đề tài. Ban chủ nhiệm dã tập trung đánh giá, phân tích và bình luận cụ thể về:

3.1. Thực trạng quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương.

3.1.1. Về đội ngũ thẩm phán

Tính đến tháng 9-1999 số lượng thẩm phán toà án nhân dân địa phương có:

- Thẩm phán cấp tỉnh gồm 925 người, trong đó 50 Chánh án, 10 Quyền Chánh án (một tỉnh chưa bổ nhiệm được Chánh án), 107 Phó Chánh án;

- Thẩm phán cấp huyện: 2.218 người, trong đó có 545 Chánh án, 51 Quyền Chánh án (15 huyện chưa bổ nhiệm được Chánh án),

- Thẩm phán toà án quân sự: 108

So với số lượng được phân bổ thì đội ngũ Thẩm phán còn thiếu 193 người ở cấp tỉnh và 720 người ở cấp huyện, nhưng tình trạng đó không phải ở hầu khắp mà chủ yếu tập trung ở một số vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, các địa phương mới chia tách.

Khó khăn hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Toà án địa phương là tình hình thiếu Thẩm phán so với số lượng được phân bổ. Trình độ, phẩm chất của Thẩm phán cũng chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử. Người cán bộ có đủ tiêu chuẩn để tuyển dụng vào làm việc cho các Toà án, nhất là đối với các Toà án cấp huyện ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, còn rất khó khăn do chính sách đào tạo chung còn chưa hợp lý. Chế độ chính sách đối với cán bộ viên chức nói chung, cũng như đối với cán bộ Toà án nói riêng chưa đáp ứng được các nhu cầu của đời sống, phần nào ảnh hưởng đến trách nhiệm và hậu quả công tác...

3.1.2. Về cơ chế quản lý thẩm phán

Quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức là một hình thức quản lý Nhà nước, có nội dung là xây dựng các điều kiện cần thiết để cơ quan xét xử đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc: "Khi xét xử thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật". Những điều kiện đó chính là: cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, trụ sở làm việc, kinh phí và các phương tiện hoạt động cho các Toà án nhân dân địa phương mà các cơ quan quản lý nhà nước phải thực hiện.

- Về bổ nhiệm thẩm phán: theo quy định hiện hành về quy trình bổ nhiệm thẩm phán phải căn cứ vào tiêu chuẩn đã được quy định, phải rà soát, đánh giá cán bộ, lấy phiếu tín nhiệm, trao đổi thống nhất với cấp uỷ địa phương... lập hồ sơ đưa ra Hội đồng tuyển chọn thẩm phán quyết định và đề nghị lên cấp trên.

- Về thuyên chuyển, điều động, miễn nhiệm cán bộ cũng phải theo thủ tục chặt chẽ như có ý kiến của người được điều động (phải có đơn xin miễn nhiệm); có sự thống nhất của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao (đối với thẩm phán cấp tỉnh), của Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án tỉnh (đối với thẩm phán cấp huyện); có sự nhất trí của cấp uỷ địa phương nơi đi và đến...

- Về kỷ luật thẩm phán: ngoài hình thức cách chức thẩm phán do Chủ tịch nước thực hiện, còn các hình thức kỷ luật khác như khiển trách, cảnh cáo, buộc thôi việc đối với thẩm phán đều áp dụng theo quy định chung đối với công chức, viên chức nhà nước.

- Về thủ tục cách chức thẩm phán: phải có bản tự kiểm điểm của thẩm phán, có nghị quyết, biên bản họp kiểm điểm của đơn vị, biên bản của Hội đồng kỷ luật, có ý kiến bằng văn bản của cấp uỷ... Nghị quyết của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán và tờ trình lên cấp trên.

Quá trình thực hiện cơ chế phối hợp trên cho thấy: cơ chế này có ưu điểm là có nhiều cơ quan cùng nhau xem xét, quyết định một vấn đề sẽ chặt chẽ, đúng đắn và khách quan, tránh sự tuỳ tiện, độc đoán trong việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ. Nhưng cơ chế này cũng còn bộc lộ những bất cập, có lúc, có nơi ý kiến không thống nhất giữa các cơ quan hữu trách dẫn đến tình trạng chậm chạp, ách tắc trong quá trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động thẩm phán. Và xung quanh vấn đề này cũng có nhiều ý kiến khác nhau cần tiếp tục nghiên cứu, để điều chỉnh, sửa đổi cho hợp lý.

3.1.3. Nội dung quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương theo pháp luật hiện hành.

Theo quy định tại Điều 16 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Nghị định số 38/CP ngày 04 tháng 06 năm 1993 của Chính phủ về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tư pháp thì việc quản lý Thẩm phán các Toà án nhân dân địa phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, cụ thể là:

- Trình Chính phủ quyết định tổng biên chế của các Toà án địa phương sau khi thống nhất ý kiến với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; quy định biên chế cho từng Toà án địa phương sau khi trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

- Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và cán bộ Toà án địa phương; hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra và giải quyết việc thực hiện các chế độ, chính sách đó.

- Sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội quyết định danh sách các thành viên Hội đông tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực; xem xét và đề nghị bổ nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định.

- Trong phạm vi chức năng kiểm tra hoạt động của Toà án địa phương thực hiện chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với tập thể, cá nhân của Toà án địa phương.

- Thống nhất quản lý việc bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ Toà án.

- Thanh tra việc thực hiện chế độ chính sách, pháp luật của cơ quan tổ chức và cá nhân trong phạm vi chức năng của Bộ ( trong đó có các Toà án và cán bộ Toà án địa phương ).

Ngoài ra, theo quy định Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh tổ chức các Toà án quân sự và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Bộ trưởng Bộ Tư pháp còn có các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn:

- Quyết định việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án nhân dân địa phương này đến Toà án nhân dân địa phương khác cùng cấp;

- Quyết định danh sách các thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

- Xem xét và đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực để Chủ tịch nước quyết định;

- Xem xét và đề nghị bổ nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực để Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định;

3.1.4. Về thẩm quyền và phương thức quản lý Thẩm phán toà án địa phương trong giai đoạn hiện nay.

Từ chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, có thể thấy nội dung quản lý của Bộ Tư pháp đối với thẩm phán Toà án địa phương khá toàn diện, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sau đây: về số lượng Thẩm phán, biên chế, chế độ lương, trang phục, giấy chứng minh Thẩm phán, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyển, cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án địa phương.

Bên cạnh đó, nhiều vấn đề quan trọng thuộc nội dung quản lý thẩm phán Toà án địa phương khi thực hiện Bộ trưởng Bộ Tư pháp phải thống nhất hoặc trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng như quy chế phối hợp ban hành kèm theo Nghị quyết 46 NQ/UBTVQH ngày 29 tháng 09 năm 1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quy định. Thực tế cho thấy Chủ tịch nước, Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ quốc phòng và các cấp uỷ Đảng địa phương, tuy không là chủ thể quản lý đối với Thẩm phán Toà án địa phương nhưng có ảnh hưởng ràng buộc nhất định trong việc thực hiện công tác này.

Theo quy định tại Điều 16 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Cụ thể hóa quy định này, ngày 29/9/1993 UBTV Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/UBTVQH ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực. Trên cơ sở Nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế số 91/TP-TA ngày 19/1/1994 về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý Tòa án nhân dân cấp huyện về mặt tổ chức.

Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ra quyết định phân cấp quản lý về tổ chức các Tòa án nhân dân cấp huyện đối với Giám đốc Sở Tư pháp và quyết định ủy quyền cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Một trong những văn bản có tính quan trọng đó là Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân - quy định các tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm Thẩm phán và bầu Hội thẩm nhân dân.

3.1.4.1. Trong việc thực hiện chế định bổ nhiệm:

Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân quy định rõ các tiêu chuẩn cụ thể về phẩm chất chính trị đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quá trình về thời gian công tác trong ngành pháp luật... có thể tóm tắt quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của pháp luật hiện hành như sau:

- Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, Ban cán sự Đảng Sở Tư pháp, Tòa án nhân dân tỉnh cùng Huyện ủy, thống nhất danh sách, hồ sơ đề nghị trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện. Đối với Thẩm phán cấp tỉnh Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao cùng Tỉnh ủy, Thành ủy thống nhất danh sách hồ sơ trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh xét chọn.

- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh, trên cơ sở các quy định của pháp luật đối với tiêu chuẩn của Thẩm phán, xét chọn những người có đủ năng lực, trình độ chuyên môn đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán đối với các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố thuộc Trung ương, Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực.

- Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện xét chọn, đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.

- Chủ tịch nước xem xét đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, ra quyết định bổ nhiệm.

Chế định bổ nhiệm Thẩm phán đảm bảo cho Nhà nước lựa chọn được người có đủ điều kiện về trình độ chuyên môn nghiệp vụ pháp lý thực hiện chức năng xét xử của Tòa án. Mặt khác Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn và ý thức pháp luật và trách nhiệm cá nhân, đồng thời xác định các cơ quan Đảng, Nhà nước có trách nhiệm trong việc thực hiện chế định này. Một đặc điểm quan trọng của chế định này là đảm bảo thực hiện được nguyên tắc: "khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp luật", khắc phục được những nhược điểm trong chế định bầu trước đây.

3.1.4.2. Trong việc thực hiện miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán.

Việc miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán do Chủ tịch nước quyết định và cũng phải qua một trình tự, thủ tục giống như trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán.

Theo các quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì Chủ tịch nước ra quyết định miễn nhiệm, cách chức đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, quận, Tòa án quân sự cấp quân khu, Toà án quân sự khu vực theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án tòa án nhân dân tối cao.

Tuy nhiên, trên thực tế chế định này, trước khi đề nghị Chủ tịch nước miễn nhiệm chức vụ Thẩm phán đối với một người nào đó cần xác định rõ lý do miễn nhiệm (do yêu cầu quy hoạch cán bộ ở địa phương để giữ chuyển sang cơ quan khác hoặc do sức khỏe, hay trình độ non kém không thể đảm nhiệm được nhiệm vụ...) và phải có đơn xin miễn nhiệm Thẩm phán, ý kiến của cấp ủy Đảng địa phương nơi người đó công tác. Đối với việc cách chức Thẩm phán ngoài việc phải tuân theo các nguyên tắc nêu trên, hồ sơ đối với người bị cách chức phải có bản tự kiểm điểm về những hành vi vi phạm kỷ luật, biên bản của Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi người Thẩm phán công tác. Một yếu tố bắt buộc đối với việc cách chức chức vụ Thẩm phán là phải được Hội đồng tuyển chọn thông qua và đề nghị.

3.1.4.3. Trong việc điều động, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán.

Theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân này đến Tòa án nhân dân khác cùng cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện sau khi thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Theo quy định này đã xác định rõ thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng như của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán. Trên thực tế thì vấn đề này được thực hiện một cách chặt chẽ, cụ thể như sau:

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân tỉnh này đến Tòa án nhân dân tỉnh khác trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán hiện đang công tác và ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến Tòa án nhân dân huyện khác trong cùng một tỉnh trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh có sự thống nhất của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến tòa án nhân dân huyện khác (không cùng một tỉnh) trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng, ý kiến của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh nơi Thẩm phán đang công tác và nơi Thẩm phán sẽ chuyển đến.

Đánh giá chung

Nhìn vào chất lượng đội ngũ Thẩm phán ở cấp huyện cũng như Toà án tỉnh, chúng tôi thấy rằng: trong những năm qua Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân các cấp đã thực sự cố gắng trong việc bồi dưỡng về nghiệp vụ pháp lý cho cán bộ Toà án và đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Song nhìn chung đội ngũ Thẩm phán các cấp về cơ bản và phần đông không được đào tạo chính quy. Đa phần học qua các lớp hệ đại học tại chức và luân huấn, có những đồng chí theo yêu cầu bức xúc của các thời kỳ khác nhau nên được điều chuyển từ các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng hoặc các ngành khác sang làm cán bộ xét xử, thậm chí làm Chánh, Phó Toà án nhân dân cấp huyện. Từ thực tế này, có thể nói rằng, trình độ chuyên môn của các Thẩm phán ở mỗi cấp còn nhiều hạn chế và chưa thực sự đồng đều, kiến thức pháp lý, kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều đồng còn hạn chế, khả năng đảm đương công tác xét xử chưa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của tình hình phức tạp trong các mối quan hệ pháp lý trên lĩnh vực dân sự cũng như hình sự hiện nay. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng án phải cải sửa, huỷ ở các cấp phúc thẩm cũng như giám đốc thẩm chiếm tỷ lệ cao ở cả Toà án nhân dân cấp huyện cũng như Toà án nhân dân cấp tỉnh trong những năm qua.

Đối với công tác tổ chức cán bộ cũng như việc quản lý về tổ chức đối với Toà án địa phương hiện tại cũng còn nhiều bất cập. Việc điều chỉnh bố trí, cán bộ ở các Toà án nhất là đội ngũ Thẩm phán, cán bộ lãnh đạo còn quá chậm và không kịp thời. Thực tế trong những năm qua có nhiều huyện 2-3 năm liền không có Chánh án như Lục Nam, Yên Thế, Tân Yên. Thậm chí như Toà án nhân dân huyện Tân Yên: một đồng chí Thẩm phán được giao quyền phụ trách cơ trong suốt thời gian dài, chính vì vậy đã gây không ít khó khăn cho hoạt động nghiệp vụ của các đồng chí Thẩm phán ở các Toà án đó.

Việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng còn nhiều điều chưa thật sự hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác xét xử hiện nay.

3.2. Những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý thẩm phán.

Như trên đã phân tích, việc quản lý Thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian qua đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động xét xử khách quan, chí công vô tư của các Toà án địa phương; đảm bảo nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong công tác này theo chúng tôi còn một số hạn chế cụ thể trên các lĩnh vực sau:

Về Hội đồng tuyển chọn thẩm phán: nên chăng trong Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cần tăng thêm thành phần là những nhà chuyên môn cao để có những nhận xét đánh giá đúng đắn về năng lực chuyên môn của người được bổ nhiệm thẩm phán.

 

Về thủ tục bổ nhiệm: Hiện nay việc bổ nhiệm thẩm phán các cấp đều do Chủ tịch nước thực hiện, công việc quá nhiều và mang tính chất sự vụ hành chính, nhiều ý kiến đề nghị nên phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán, có thể thực hiện như trước đây được quy định tại Sắc lệnh 13 ngày 24-1-1946: Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện.

Về miễn nhiệm thẩm phán: Theo quy định hiện thì trong mọi trường hợp thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm, nhiều ý kiến cho rằng quy định như vậy chỉ phù hợp với các trường hợp tự nguyện xin chuyển công tác vì lý do sức khoẻ, hợp lý hoá gia đình... Còn các trường hợp do tổ chức điều động vì nhu cầu công việc hoặc do yêu cầu bố trí cán bộ, kể cả việc bố trí cán bộ vào vị trí cao hơn... nhưng bản thân thẩm phán không tự nguyện, không muốn đi thì đơn tự nguyện là hình thức (đã có trường hợp miễn cưỡng làm đơn xin miễn nhiệm). Do vậy, cần có quy định thủ tục đương nhiệm, miễn nhiệm thì mới phù hợp với thực tế.

 

Về thủ tục thuyên chuyển, điều động thẩm phán: Theo quy định hiện nay phải có đơn của thẩm phán, có ý kiến thống nhất của cấp uỷ, của Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án tỉnh nơi đi, nơi đến... thủ tục rất rườm rà, nếu có ý kiến không thống nhất là việc điều động chậm chạp, ách tắc làm ảnh hưởng lớn đến việc bố trí thẩm phán giữa các địa phương, nhất là thẩm phán cấp huyện trong cùng tỉnh, nên chăng cần bỏ bớt các thủ tục không cần thiết vì quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán đã được sàng lọc, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi Chủ tịch nước quyết định và cũng bởi lý do Chủ tịch nước bổ nhiệm (hoặc nếu sau này phân cấp giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện) thì người thẩm phán phải tuân theo sự bổ nhiệm, phân công trong địa bàn cả nước, điều này cũng phù hợp với nguyên tắc "khi xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

Về chế độ tiền lương: Thực hiện chế độ tiền lương mới, ngạch lương của thẩm phán được Nhà nước quan tâm, hệ số mức lương của ngạch thẩm phán được quy định cao hơn so với mức lương của ngạch hành chính tương ứng. Nhưng về thực chất chỉ có hệ số mức lương của ngạch thẩm phán tỉnh và thẩm phán tối cao là cao hơn một chút so với ngạch lương hành chính tương ứng, còn hệ số mức lương của ngạch thẩm phán huyện là quá thấp và còn có khoảng cách khá xa với ngạch lương thẩm phán tỉnh, đề nghị các cấp có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu xếp lại cho phù hợp.

 

Về khen thưởng thẩm phán: việc khen thưởng thẩm phán hiện nay được áp dụng chung như đối với công chức, viên chức hành chính khác, nhưng do đặc thù của nghề xét xử có thể nghiên cứu những hình thức khen thưởng thi đua theo nhiệm kỳ thẩm phán hoặc theo chức danh nghề nghiệp như thẩm phán ưu tú, thẩm phán nhân dân.

IV. Phương hướng và một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian tới.

4.1. Phương hướng kiện toàn việc quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian tới.

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa... Công cuộc đổi mới sâu rộng và đồng bộ trên các lĩnh vực của đất nước đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới hệ thống pháp luật, chức năng, phương thức hoạt động điều hành và quản lý của nhà nước, trong đó có việc đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan Tư pháp, nhất là việc đổi mới, xây dựng đội ngũ thẩm phán ngang tầm với nhiệm vụ mới. Vấn đề này đã được thể hiện và quán triệt rõ trong Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ nhất, xuất phát từ tình hình hoạt động và tổ chức của các Toà án địa phương và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam, trước mắt cũng như lâu dài nhiệm vụ đào tạo, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án, xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện kỹ thuật cho công tác xét xử phải được xem là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Tư pháp. Vấn đề này cần được quán triệt đầy đủ thì việc cải tiến công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức mới đạt được hiệu quả.

Thứ hai, việc quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức là một hình thức quản lý hành chính Nhà nước. Do đó, việc cải tiến công tác này phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý Toà án.

Thứ ba, xuất phát từ tình hình tổ chức và hoạt động của công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức, việc cải tiến công tác này cần được xem xét, nghiên cứu một cách tổng thể về cơ chế lẫn tổ chức bộ máy, cán bộ để có thể đề ra các biện pháp giải quyết các vấn đề đang còn tồn tại một cách triệt để.

 

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhất là đội ngũ thẩm phán đủ sức đảm nhiệm và hoàn thành tốt các nhiệm vụ của thời ký mới. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngạch, bậc công chức của Ngành, gắn trách nhiệm với quyền hạn, nhiệm vụ với tuyển dụng và đề bạt qua thi tuyển hoặc kiểm tra sát hạch đối với đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân. Huấn luyện lại và tuyển chọn công chức theo tiêu chuẩn chức danh của người thẩm phán.

Thứ năm, đẩy mạnh việc đào tạo lại đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân địa phương theo kịp trình độ hiện đại. Phấn đấu tất cả Thẩm phán đều đạt tiêu chuẩn quy định cho từng ngạch, từng chức danh thẩm phán. Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh và Toà án cấp huyện; điểu chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọn cho phù hợp tình hình cán bộ hiện nay để bổ sung đủ thẩm phán cho Toà án cấp huyện và Toà án cấp tỉnh;

 

4.2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thẩm phán toà án địa phương trong thời gian tới.

Kiến nghị thứ nhất: Cần nghiên cứu tổ chức Toà án theo thẩm quyền là: Toà Sơ thẩm, Toà Phúc thẩm, Toà Giám đốc thẩm. Với cách tổ chức Toà án như hiện nay, cán bộ đã thiếu lại càng thiếu, không tập trung được lực lượng cán bộ cũng như về cơ sở vật chất, có không ít Toà án cấp huyện mỗi năm chỉ xét xử 10 - 15 vụ, thậm chí có đơn vị chỉ xét xử 2 - 3 vụ một năm nhưng cũng phải bố trí tối thiểu từ 5, 7 cán bộ, Thẩm phán và xây dựng một trụ sở, cấp phương tiện làm việc... gây tốn kém lãng phí lớn, điều đó chứng tỏ, tổ chức Toà án vừa theo thẩm quyền vừa theo địa giới hành chính là không khoa học. Để khắc phục những nhược điểm trên đây, chúng tôi đề nghị các Toà án cấp tỉnh, huyện hiện nay sẽ tổ chức thành Toà khu vực, có thể một số tỉnh, huyện thành một Toà. Đây là phương án sẽ tập trung toàn diện lực lượng cán bộ, tinh giảm biên chế, cơ sở vật chất. Về giải pháp thực hiện: đưa số Thẩm phán, cán bộ của 3 Toà thẩm Toà án nhân dân Tối cao để tập trung, bổ sung cho Toà án cấp tỉnh; lấy số Thẩm phán, cán bộ cấp tỉnh bổ sung cho Toà án cấp huyện và thu hẹp hàng trăm trụ sở, giảm bớt về chi phí.

Kiến nghị thứ hai: Việc quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương cần được quy định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan quản lý, cơ quan phối hợp, không nên để như hiện nay, lẫn lộn giữa cơ quan quản lý với cơ quan phối hợp, không hiểu cơ quan nào là chủ thể quản lý? bởi lẽ cơ quan quản lý phải hỏi, chờ đợi ý kiến của cơ quan phối hợp trả lời thì cơ quan quản lý mới được ra văn bản. Như vậy, vấn đề này không phù hợp với thực tiễn cũng như tính khoa học của việc quản lý Nhà nước nói chung và lĩnh vực quản lý Toà án địa phương nói riêng. Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân: " Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp với Chánh án Toà án nhân dân Tối cao ...", việc phối hợp ỏ đây chỉ là biện pháp quản lý có như vậy mới đúng với tính chất quản lý. Để tránh sự chồng chéo trong quản lý, dẫn đến kém hiệu quả, chúng tôi đề nghị bỏ ý cuối của Điều 16 luật tổ chức Toà án nhân dân đã nêu ở trên.

Kiến nghị thứ ba: Cần phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các Sở Tư pháp trong lĩnh vực quản lý toà án, đồng thời phải tăng cuờng thêm công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp, tăng cường số lượng, chất lượng về đội ngũ cán bộ viên chức thừa hành. ở các Sở Tư pháp phải có phòng quản lý Toà án với biên chế từ 05 đến 10 người. Theo đó, đề nghị phân cấp bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Việc bổ nhiệm Thẩm phán huyện không nên ghi rõ Thẩm phán theo đơn vị hành chính mà chỉ ghi là Thẩm phán huyện, thành, thị trong tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Việc phân cấp việc điều động Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án huyện trong một tỉnh giao cho Giám đốc Sở Tư pháp đảm nhiệm sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh.

 

Kiến nghị thứ tư: Cuối nhiệm kỳ Thẩm phán nên tổ chức việc thi sát hạch công tác quản lý đối với Chánh, Phó án và sát hạch Thẩm phán. Trên cơ sở đó để đề nghị bổ nhiệm nhiệm kỳ tiếp theo. Qua sát hạch nếu năng lực thực tiễn yếu, trình độ không đạt yêu cầu - có thể thôi bổ nhiệm Thẩm phán có như vậy mới tạo cho Thẩm phán rèn luyện, học tập nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ chống tư tưởng bình quân chủ nghĩa, lười học tập, rèn luyện của người Thẩm phán.

Kiến nghị thứ năm: Tăng cường năng lực của Toà án có đủ điều kiện thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành theo quy định của Hiến pháp cũng như Luật tổ chức Toà án, khắc phục những tồn tại và hạn chế trong công tác tổ chức và quản lý đội ngũ Thẩm phán Toà án địa phương, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau:

Phải quan tâm tăng cường đội ngũ Thẩm phán cả về số lượng và chất lượng để lực lượng này thực sự là nòng cốt thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Toà án.

Theo chúng tôi, trước mắt cần tổ chức khảo sát tình hình thực tế ở Toà án các cấp địa phương, căn cứ vào khối lượng công việc, địa bàn và tính chất điều kiện xã hội ở từng địa phương để quy định cụ thể về biên chế cán bộ trong đó có số lượng Thẩm phán cho thích hợp.

Các ngành quản lý về tổ chức Toà án địa phương ở trung ương cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo và nâng cao trình độ pháp lý cũng như trình độ chính trị cho đội ngũ Thẩm phán. Thực tế những năm qua, Bộ Tư pháp cũng như Toà án nhân dân tối cao chưa thực sự tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm phán được đi học các lớp chính trị. Theo chúng tôi cần có một quy định cụ thể về trình độ chính trị của Thẩm phán (ngoài kiến thức pháp lý như quy định hiện nay) có như vậy mới đảm bảo đảm được yêu cầu: liêm chính, trung thực, vô tư và mẫu mực của người Thẩm phán, hạn chế được những hành vi tiêu cực của Thẩm phán trong xét xử.

Kiến nghị thứ sáu: Cần quy định điều kiện để được bổ nhiệm Thẩm phán phải qua đào tạo tại Trường đào tạo các chức danh tư pháp (trong đó có đào tạo Thẩm phán). Bởi vì, thẩm phán là một nghề quan trọng. Theo kinh nghiệm của một số nước và xuất phát từ thực tiễn quản lý đội ngũ Thẩm phán, việc tổ chức nghiệp vụ xét xử, trang bị kỹ năng, rèn luyện đạo đức và phong cách của người Thẩm phán là rất cần thiết, góp phần từng bước chính quy hoá đội ngũ Thẩm phán.

 

Thẩm phán là một nghề đặc thù, có ảnh hưởng lớn đối với tính công minh của pháp luật, uy tín và nền công lý của một Quốc gia. Vì vậy, cũng cần có quy định về danh dự Thẩm phán, tiêu chuẩn đạo đức của người Thẩm phán. Tiêu chuẩn đó cần được quy định rõ ràng, phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của nghề thẩm phán trong xã hội và phải được công bố công khai để nhân dân tham gia giám sát, để tự mỗi một cán bộ cân nhắc và quyết định trước khi bước vào nghề thẩm phán.

Cần nghiên cứu để ban hành Quy tắc đạo đức Thẩm phán, các văn bản hướng dẫn cơ quan Toà án địa phương tổ chức hoạt động xét xử, tiếp công dân, tự học tập bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực công tác của Thẩm phán nói riêng, cán bộ toà án nói chung, nâng cao văn hoá tố tụng để Toà án trở thành niềm tin, chỗ dựa tin cậy của Đảng, chính quyền và nhân dân trong hoạt động áp dụng pháp luật.

Kiến nghị thứ bảy: Cần khảo sát, đánh giá, rút kinh nghiệm thực tế việc thực hiện Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân để sửa đổi, bổ sung những điều bất hợp lý hoặc chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tiễn công tác xét xử hiện nay.

* Theo chúng tôi cần phải cải tiến chế độ tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán bằng việc vẫn duy trì chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, song cần đơn giản về thủ tục tuyển chọn. Thẩm quyền xét xử của Thẩm phán không nên chỉ hạn chế trong một địa phương (nếu đã được bổ nhiệm Thẩm phán thì theo thẩm quyền quản lý có thể điều động, thuyên chuyển công tác nhưng không phải làm thủ tục bổ nhiệm lại).

* Không quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm như hiện nay. Cần quy định cụ thể điều kiện để miễn nhiệm chức danh Thẩm phán.

* Để tạo điều kiện cho Thẩm phán hoạt động có hiệu quả, chúng tôi đề nghị Nhà nước quan tâm đến chế độ đãi ngộ, điều kiện vật chất phục vụ làm việc của các Thẩm phán, giúp cho các Thẩm phán thực sự yên tâm trong khi thực thi nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó cũng cần có quy định cụ thể về chế độ đãi ngộ, cơ chế quản lý, việc bồi dưỡng nghiệp vụ pháp lý cho Hội thẩm nhân dân để những người này thực sự là những cộng sự tích cực của Thẩm phán trong hoạt động xét xử.

* Ngoài việc quan tâm đến củng cố về mặt tổ chức đối với đội ngũ Thẩm phán, các cơ quan chức năng ở Trung ương cần kịp thời sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động xét xử của Toà án như Luật tố tụng dân sự... Việc giải thích pháp luật bằng các thông tư lên ngành cũng cần được quan tâm đúng mức để kịp thời cung cấp những điều kiện pháp lý cần thiết cho hoạt động nghiệp vụ của các Thẩm phán. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao chất lượng xét xử của Toà án các cấp. Là điều kiện để dảm bảo nguyên tắc: "Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

Kiến nghị thứ tám: Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung các văn bản hướng dẫn về thủ tục, trình tự quy trình, hồ sơ bổ nhiệm thẩm phán theo hướng đơn giản, thuận tiện mà vẫn chặt chẽ đảm bảo tính nhanh nhạy của công tác tổ chức cán bộ và đáp ứng được yêu cầu xét xử. Xây dựng chương trình, kế hoạch tuyển chọn cụ thể (lịch họp của Hội đồng tuyển chọn các cấp) để chủ động về thời gian, đẩy nhanh tiến độ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, không để quá thời gian nhiệm kỳ của Thẩm phán.

Kiến nghị thứ chín: Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức và sự phấn đấu tu dưỡng của Thẩm phán; Tiếp tục nghiên cứu và sớm đưa ra được quy chế hoạt động nghề nghiệp và đạo đức của người Thẩm phán; phát động phong trào thi đua trong các Toà án nhân dân địa phương theo nội dung tiêu chuẩn thi đua đã được đề ra; đấu tranh chống tham nhũng, chống các biểu hiện tiêu cực, xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch vững mạnh, phấn đấu khi hết nhiệm kỳ tất cả các Thẩm phán đương nhiệm đủ tiêu chuẩn để được bổ nhiệm lại nhiệm kỳ tiếp theo. Tiếp tục nghiên cứu đề xuất để Nhà nước ban hành các chế độ chính sách phù hợp với đặc thù nghề nghiệp xét xử, đó là các điều kiện vật chất cần thiết để "Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"

 

Kiến nghị thứ mười: Trong quy trình bổ nhiệm Thẩm phán, đã đến lúc cần có quy định Thẩm phán phải được phát triển từ Thẩm phán cấp huyện: qua Thẩm phán cấp huyện thì mới làm Thẩm phán cấp tỉnh và qua Thẩm phán cấp tỉnh để lên Thẩm phán tối cao. Quy định con đường phát triển như vậy của Thẩm phán không những góp phần nâng cao nghiệp vụ, uy tín của Thẩm phán mà còn là điều kiện thuận lợi cho việc điều chuyển Thẩm phán từ nơi thừa sang nơi thiếu. Hơn nữa, đó cũng là phương thức củng cố lòng tin của bản thân đội ngũ Thẩm phán với nhau trong quan hệ tố tụng.

Kiến nghị thứ mười một: Về đào tạo và bồi dưỡng Thẩm phán. Xuất phát từ tình hình hoạt động và tổ chức của các Toà án địa phương và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt nam, trước mắt cũng như lâu dài nhiệm vụ đào tạo, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án, xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện kỹ thuật cho công tác xét xử phải được xem là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Tư pháp và của Nhà nước. Rõ ràng đây không phải là vấn đề chỉ liên quan đến ngành Tư pháp, mà đòi hỏi cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước về cả mặt quan điểm, nhận thức cũng như quá trình thực hiện. Vấn đề này cần được quán triệt đầy đủ thì việc cải tiến công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức mới đạt được hiệu quả .

Trước mắt, cần tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm. Để trở thành thẩm phán người đó nhất thiết phải có bằng Đại học Luật. Đây là điều kiện "cứng" và rất hợp lý. Song đội ngũ thẩm phán hiện nay đã bị đặt vào trong một tình thế hết sức nan giải. Số lượng thẩm phán còn "nợ" bằng Đại học Luật khá lớn (cấp huyện 42,3%, cấp tỉnh 8,8%). Vì vậy cần tập trung làm tốt công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán hiện có, trọng tâm là những đối tượng đang "nợ" bằng. Điều này đòi hỏi công tác đào tạo bồi dưỡng thẩm phán phải thực hiện một số công việc:

 

Về lâu dài, cần có một chủ chương, chính sách lâu dài cho công tác đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán và cần xây dựng thành chủ chương chung của Nhà nước về việc tăng cường việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm nhằm góp phần xoá bỏ tình trạng bất cập về kiến thức của Thẩm phán trước yêu cầu mới. Đây là một trong những công việc cấp bách, cần làm và có thể làm được ngay trong năm 2000 - 2001. Chủ trương đó là cơ sở để các trường Đại học Luật, Trường Đào tạo các chức danh tư pháp, Trường bồi dưỡng Thẩm phán, Trường Cao đẳng Kiểm sát. . có kế hoạch thực hiện. Ngoài ra, chúng tôi đề nghị các Trường Đào tạo trong khối Nội chính cần trao đổi, thảo luận với nhau chương trình và giáo trình giảng dạy nhằm bảo đảm sự thống nhất và ăn khớp giữa các chương trình và giáo trình giảng dạy

Kiến nghị thứ mười hai: Vấn đề sử dụng thẩm phán sau khi được đào tạo, để trở thành thẩm phán cấp sơ thẩm phải có thời gian học tập tốt tại Trường thẩm phán và phải làm thẩm phán dự bị 1 năm. Tiêu chuẩn làm thẩm phán cấp trên phải có thời gian làm thẩm phán cấp dưới liền kề một nhiệm kỳ. Nếu điều đó được thực hiện tốt sẽ không thiếu những thẩm phán đã kinh qua cơ sở. Đội ngũ thẩm phán này vừa có lý luận, vừa có thực tiễn để làm thẩm phán tòa án cấp trên, đưa ra được những quyết định mẫu mực hướng dẫn đường lối xét xử cho tòa án cấp dưới.

 

Tính kế thừa giữa các thế hệ được duy trì sẽ có đội ngũ thẩm phán cấp trên giỏi tay nghề, tinh thông nghiệp vụ. Chú ý xây dựng đội ngũ cốt cán cơ sở, để thông qua đó những thẩm phán giỏi sẽ trở thành nguồn cung cấp thẩm phán cho tòa án cấp trên. Vì vậy, cần đưa thẩm phán đã tốt nghiệp ở các trung tâm đào tạo thẩm phán về cơ sở, vừa để tăng cường cho cơ sở nhất là trong tình hình cải cách bộ máy tòa án theo hướng tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp huyện hiện nay, vừa tạo cho cán bộ trưởng thành, tạo nguồn thẩm phán cung cấp cho tòa án cấp trên ./.

 

 

 

Phần cập nhật, bổ sung

Đến nay, theo quy định tại Chương V Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 2-4-2002 và theo quy định của Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân toà án dân ngày 4-10-2002, thì tiêu chuẩn Thẩm phán đòi hỏi phải có những nội dung sau:

Một là, Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, Hiến pháp và Pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đó là tiêu chuẩn chính trị của người Thẩm phán.

 

Hai là, có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật, trung thực kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, hách dịch, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật. Đây là một đòi hỏi của nhân dân đối với cán bộ Nhà nước trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Do vậy, mỗi cán bộ Toà án nói chung, Thẩm phán Toà án nói riêng phải tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, thường xuyên tự phê bình và phê bình theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Bởi vì, Thẩm phán là "những người phụ trách thi hành pháp luật lẽ tất nhiên... phải nêu cao cái gương phụng công, thủ pháp chí công, vô tư cho nhân dân noi theo..." Chỉ có những người có phẩm chất đạo đức như vậy, khi được chọn và bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân mới được nhân dân tâm phục, khẩu phục. Đó là cơ sở để nhân dân tin phán quyết của Toà án là công minh, khách quan và đúng pháp luật. Khi ấy, việc thực hiện các bản án, quyết định của Toà án sẽ được mọi người tự giác hơn.

Ba là, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm thực tiễn theo quy định của pháp luật, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân... Đây là tiêu chuển nghiệp vụ của người thầm phán.

 

Mặt khác, trình độ Thẩm phán phải được kết hợp và thể hiện bởi năng lực của Thẩm phán. Do vậy, theo quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23 của Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân ngày 3-4-2002 thì:

- Người được chọn để bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án cấp huyện thì phải là người có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và phải có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên;

- Người được chọn để được bổ nhiệm làm thẩm phán Toàn án nhân dân cấp tỉnh thì người đó phải là Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu.

- Người được chọn để được bổ nhiệm làm thẩm phán Toàn án nhân dân tối cao thì người đó phải là Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương.

Trong trường hợp cần thiết, người công tác trong ngành Tòa án nhân dân hoặc người do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến công tác tại ngành Tòa án nhân dân tuy chưa có đủ thời gian làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp dưới hoặc chưa có đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn khác quy định tại Điều 20 hoặc Điều 21 hoặc Điều 22 của Pháp lệnh này, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực hoặc Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương

Bốn là, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiêu chuẩn này đòi hỏi người Thẩm phán phải có thể lực cần thiết, không có dị tật, dị hình ảnh hưởng tới tư thế hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của người Thẩm phán.

Vấn đề tuyển chọn Thẩm phán đã được quy định một cách cụ thể tại Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân toà án dân ngày 4-10-2002.

 

Mục lục

 

 

Nội dung

Trang

 

Lời nói đầu

9

Phần I

Tổng thuật kết quả nghiên cứu đề tài

11

I.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương;

12

II.

Vài nét về lịch sử quản lý thẩm phán từ năm 1945 đến nay và vị trí, vai trò của người thẩm phán trong hoạt động xét xử.

37

III.

Thực trạng quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong giai đoạn hiện nay.

42

IV.

Phương hướng và một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý thẩm phán Toà án nhân dân địa phương trong thời gian tới.

58

Phần II

Các chuyên đề

68

1.

Vị trí, vai trò của người Thẩm phán trong Toà án nhân dân hiện nay

TS. Đinh Ngọc Hiện

Phó Viện trưởng Viện KHXX - TANDTC

69

2.

Quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương – Thực trạng và giải pháp.

Vụ Quản lý Toà án địa phương

Bộ Tư pháp

77

3.

Thực trạng công tác quản lý Toà án nhân dân quận, huyện về mặt tổ chức từ năm 1992 đến nay ở thành phố Hà Nội.

Sở Tư pháp TP Hà Nội

84

4.

Tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử của Thẩm phán

Trần Quốc Phú

Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp

90

5.

Vấn đề tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án huyện – Thực trạng, vấn đề đặt ra, giải pháp.

Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ

 

100

6.

Mối quan hệ giữa các cơ quan trong vấn đề bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác...Thẩm phán – Thực trạng và giải pháp

Vụ Quản lý Toà án địa phương

Bộ Tư pháp

105

7.

Vấn đề quản lý Thẩm phán huyện – Thực trạng, những vấn đề đặt ra, giải pháp

.Sở Tư pháp tỉnh Yên Bái

115

8.

Thực tiễn xét xử án sơ thẩm hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái và một số kiến nghị.

Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái

120

9.

Mối quan hệ của các cơ quan địa phương trong việc tuyển chọn Thẩm phán để đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, thị xã - Thực trạng các vấn đề đặt ra và giải pháp

Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương

127

10.

Hoạt động xét xử của Thẩm phán – Thực trạng vấn đề đặt ra và giải pháp.

Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang

132

11

Một số nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến việc giải quyết các tranh chấp dân sự – Giải pháp khắc phục.

Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây

138

12.

Thực tiễn công tác xét xử án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và một số đề xuất.

Toà án nhân dân thành phố Hà Nội

145

Phần III

Khảo sát - Điều tra – Thông tin – Tư liệu

151

1

Kết quả phiếu khảo sát, điều tra

152

2

Lược thuật một số ý kiến của các cộng tác viên đề tài tại hội nghị, hội thảo khoa học

154

 

 

 

 

 

Lời nói đầu

 

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm phán là nội dung quan trọng trong quá trình thực hiện cải cách các cơ quan tư pháp nói riêng, bộ máy nhà nước ta nói chung.

Nội dung quản lý đối với Thẩm phán rất rộng, bao gồm nhiều khâu, như tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển, điều động, khen thưởng, kỷ luật... Vấn đề đặt ra là làm thế nào cho công tác quản lý vừa bảo đảm được những nét chung như đối với cán bộ công chức, vừa bảo đảm được những nét đặc thù để Thẩm phán thực hiện tốt nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nghiên cứu đề tài cấp Bộ "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm phán Toà án địa phương" chính là nhằm góp phần đáp ứng những đòi hỏi bức xúc đó.

Mục tiêu của đề tài đặt ra là:

- Nghiên cứu, phân tích, xác định rõ thẩm quyền của từng cơ quan nhà nước trong việc quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân điạ phương theo quy định của pháp luật hiện hành;

- Đánh giá đầy đủ, toàn diện, sâu sắc thực trạng công tác quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp;

- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần đổi mới cơ chế quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân điạ phương...

Đề tài chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu cơ chế quản lý đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, còn với Thẩm phán Toà án quân sự sẽ dành cho một đề tài khác.

Tham gia thực hiện đề tài có các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn thuộc các cơ quan Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân và Sở Tư pháp một số địa phương như: Hà Nội, Hà Tây, Hải Phòng, Yên Bái...

Đề tài đã tổ chức hai cuộc Hội thảo ở hai miền Nam, Bắc và nhiều cuộc khảo sát ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.

Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm tác giả đã dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh...

Quá trình nghiên cứu đề tài cũng là quá trình các cơ quan tư pháp từng bước được đổi mới nên nhiều nội dung của đề tài trên thực tế đã được vận dụng ở những mức độ nhất định vào công việc của Bộ Tư pháp.

Thay mặt nhóm nghiên cứu, Ban chủ nhiệm đề tài xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện NCKH Pháp lý đã tạo điều kiện cho nhóm nghiên cứu hoàn thành đề tài này.

 

Ban chủ nhiệm đề tài

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

phần i

 

tổng thuật kết quả nghiên cứu đề tài

 

 

 

 

 

 

 

 

 

I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương;

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong phạm vi chức năng của mình, các Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Khi thực hiện chức năng xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây chính là các vấn đề chủ yếu quyết định tính chất tổ chức, hoạt động và phương thức quản lý Nhà nước đặc thù đối với các Toà án nhân dân địa phương.

a) Về vấn đề quản lý Tòa án nhân dân địa phương do cơ quan nào quản lý về mặt tổ chức là hợp lý và hiệu quả? Vấn đề này đã được đặt ra để thảo luận rộng rãi và kỹ lưỡng không ít hơn hai lần nhất là khi xây dựng các Luật tổ chức tòa án nhân dân 1981 và 1992... Những lần thảo luận đó đều đi đến kết quả thống nhất được ghi nhận thành một nguyên tắc trong Điều 16 của Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981 trước đây và năm 1992 hiện hành là: "Việc quản lý các tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao". "Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc quản lý tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức" do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định". Tòa án nhân dân tối cao không được giao thẩm quyền quản lý các tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức xuất phát từ tính đặc thù trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án. Các nguyên tắc đó là:

- Tòa án nhân dân các cấp là cơ quan xét xử của Nhà nước.

- Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Nguyên tắc hai cấp xét xử.

Các nguyên tắc truyền thống này được Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và 4 bản Hiến pháp của nước ta ghi nhận như là những nguyên tắc hiến định nhằm bảo đảm dân chủ, khách quan trong xét xử, bảo đảm cho tòa án xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tòa án là cơ quan xét xử, không phải là cơ quan hành chính. Vì vậy, khác với Bộ, ngành; các Tòa án tuy khác nhau về thẩm quyền nhưng đều là cơ quan xét xử, đều nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để phán quyết. Một sự việc có khi phải qua nhiều cấp xét xử của tòa án. Do đó, Tòa án nhân dân không thể tổ chức như một ngành, làm nhiệm vụ như một bộ của hệ thống hành pháp (Chính phủ). Tòa án tối cao cũng là cơ quan xét xử, và khi xét xử Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cũng là một thẩm phán. Do đặc thù này mà các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 đã quy định thành một nguyên tắc truyền thống: Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước. Đồng thời, để bảo đảm quyền năng độc lập của mỗi cấp tòa án, yêu cầu đặt ra là cần tổ chức tòa án không phụ thuộc vào nhau về mặt hành chính (tổ chức, nhân sự, kinh phí). Các tòa án có mối quan hệ về tố tụng theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án nhân dân tối cao chưa bao giờ được Hiến pháp quy định là cơ quan "quản lý ngành toà án".

Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không những được quy định trong các Hiến pháp của nước ta hơn nửa thế kỷ từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà là nguyên tắc truyền thống của tất cả các nước trên thế giới.

Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ không ai được can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án kể từ khi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử và xét xử trước tòa. Để bảo đảm nguyên tắc này, đòi hỏi việc quản lý toà án (cơ quan xét xử) cần do một cơ quan khác thực hiện

Trong quan hệ về mặt tố tụng, với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước, Tòa án tối cao đã được pháp luật giao cho những quyền trong mối quan hệ với các tòa án địa phương. Các quyền năng tố tụng của Tòa án tối cao đó là:

- Quyền hủy bỏ bản án hoặc quyết định của tòa án địa phương;

- Quyền rút vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án địa phương lên để xét xử;

- Quyền tổng kết công tác xét xử;

- Quyền hướng dẫn công tác xét xử đối với các tòa án địa phương.

Với các quyền năng tố tụng đó, Tòa án nhân dân tối cao cũng như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có đủ điều kiện để nắm vững tình hình xét xử mà thực hiện trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Điều 135 của Hiến pháp 1992 còn có quy định: "Chánh án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân". Theo tinh thần đó, với tư cách là người đứng đầu Tòa án nhân dân tối cao - cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của Tòa án nhân dân tối cao trước Quốc hội, chứ không phải là công tác xét xử của tất cả các Toà án của nước ta (mặc dù Toà án nhân dân tối cao có nhận được thông tin về công tác xét xử của các Toà án nhân dân địa phương).

Vì vậy, nếu giao cho Tòa án nhân dân tối cao quyền quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức sẽ ảnh hưởng không tốt đối với công tác xét xử nói chung và công tác xét xử của Tòa án nhân dân địa phương nói riêng, khó bảo đảm được tính khách quan.

Mặt khác, nếu giao cho Tòa án nhân dân tối cao quyền quản lý các tòa án địa phương về mặt tổ chức thì cũng với quyền năng tố tụng hiện có, cơ quan tòa án sẽ trở thành hệ thống cơ quan xét xử khép kín. Điều đó không những làm tổn hại đến nguyên tắc độc lập xét xử của các Tòa án nhân dân địa phương, mà còn làm giảm vai trò của Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, luật sư, giám định và các quy định về chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 129, Hiến pháp 1992), xét xử tập thể (Điều 131, Hiến pháp 1992), quyền của bị cáo, người bị hại, ngươi đại diện hợp pháp của họ khi kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm (Điều 206, Bộ luật tố tụng hình sự). Bởi vì, khi bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân trong trường hợp cấp dưới đã xin ý kiến thỉnh thị cấp trên thì những quy định về xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm khó tránh khỏi mang tính hình thức.

Không phải ngẫu nhiên mà trong công cuộc đổi mới Đảng và Nhà nước ta đưa ra quan điểm: quản lý Nhà nước không được can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động xét xử, với đặc thù là các tòa án đều là cơ quan xét xử, thực hiện cùng một loại công việc và đối với một vụ việc cụ thể lại xét xử trên cùng một bộ hồ sơ... thì yêu cầu về sự tách bạch rạch ròi giữa các tòa án lại càng cần thiết. Có như vậy mới bảo đảm cho các tòa án khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm xét xử khách quan, công minh.

Có ý kiến lập luận rằng, độc lập hay không độc lập khi xét xử phụ thuộc vào bản lĩnh của Thẩm phán chứ đâu phụ thuộc vào cách thức tổ chức? Đúng là "bản lĩnh" của Thẩm phán cũng là một yếu tố bảo đảm độc lập trong xét xử nhưng Thẩm phán cũng là một con người. Các Thẩm phán khác nhau có các bản lĩnh khác nhau. Do đó, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc lớn, cốt lõi của hoạt động xét xử, phải có cơ chế về mặt tổ chức thật chặt chẽ là yêu cầu hàng đầu. Nếu không được bảo đảm bằng một cơ chế chặt chẽ, thì Thẩm phán với tư cách là một con người, ai dám bảo đảm "bản lĩnh" của mình là chuẩn mực để xử lý đúng đắn, công minh các vụ việc quan trọng, có những vụ việc cực kỳ quan trọng, vô cùng phức tạp... có quan hệ trực tiếp đến quyền con người, thậm chí đến sinh mạng con người, an ninh của xã hội.

Hơn nữa, trong bộ máy Nhà nước ta, hoạt động quản lý (các Hiến pháp gọi là hoạt động chấp hành và hành chính) là hoạt động chủ yếu của Chính phủ. Chính phủ có trách nhiệm quản lý toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội: Kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, ngoại giao và quản lý tư pháp. Vì vậy, không thể tách quản lý tư pháp khỏi hoạt động quản lý của Chính phủ được. Nếu chuyển cho Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, thì một mặt sẽ biến Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử đồng thời là cơ quan quản lý. Mặt khác là, bên cạnh Chính phủ lại có một cơ quan "Chính phủ", cũng lo việc tổ chức, tài chính, đào tạo cán bộ. Điều đó hoàn toàn trái với một trong những quan điểm của Đảng ta trong xây dựng bộ máy Nhà nước: bảo đảm quyền lực thống nhất và có sự phân công phân nhiệm rõ ràng giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Vì những lý lẽ trên, không phải ngẫu nhiên mà tại Hội nghị tư pháp 1989, đồng chí Đỗ Mười đã khẳng định: "... Nếu chuyển cho tòa án quản lý theo lối khép kín thì hệ quả sẽ như thế nào? Đó là một điều mà các đồng chí cần phân tích để rút ra kết luận từ kinh nghiệm thực tiễn. Theo tôi, trong điều kiện hiện nay, ở nước ta, Bộ Tư pháp quản lý tòa án địa phương về mặt tổ chức là nhằm tạo điều kiện cho tòa án tập trung vào nhiệm vụ xét xử và xử đúng pháp luật. Cố nhiên, nếu còn những chỗ nào đó chưa thật hợp lý thì hai bên cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau để cùng giải quyết".

 

Về thực tiễn lịch sử nước ta, từ năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13 tổ chức ra tòa án sơ cấp ở cấp huyện hoặc ở một số huyện; tòa án đệ nhị cấp ở tỉnh, tòa án thượng thẩm cấp kỳ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ). Thẩm phán ở tòa án thượng thẩm và tòa án đệ nhị cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm, mà thẩm phán ở tòa án sơ cấp do Bộ trường Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Tất cả các cơ quan tòa án đều đặt dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp về mặt tài chính, kinh phí, tổ chức, chế độ làm việc và các công việc nhân sự.

 

Trong quá trình chuẩn bị ban hành Hiến pháp 1959, vào năm 1957, Tòa án nhân dân tối cao được thành lập. Mặc dù vậy, Nghị định số 01 ngày 11/2/1960 vẫn giao cho Bộ Tư pháp chức năng chủ yếu là quản lý tòa án địa phương và các cơ quan bổ trợ tư pháp. Sau khi có Hiến pháp 1959, do những điều kiện cụ thể của tình hình lúc bấy giờ Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14/7/1960 đã giải thể Bộ Tư pháp. Và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về tổ chức bộ máy làm việc và biên chế của Tòa án nhân dân địa phương các cấp (Điều 23). Điều 23 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định như vậy, nhiều người lầm tưởng rằng từ năm 1960 Tòa án nhân dân tối cao được giao nhiệm vụ quản lý các Tòa án nhân dân địa phương. Nhưng theo tinh thần của Điều 23 Luật tổ chức Tòa án nhân dân cũng như trên thực tế thì lại không phải như vậy. Bởi vì, Điều 23 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 chỉ giao cho Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về tổ chức bộ máy làm việc và biên chế của Tòa án địa nhương. Trên thực tế, Tòa án nhân dân tối cao cũng chỉ làm công việc tổng hợp biên chế để phân bổ cho các tòa án địa phương. Trong thời gian này, Thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động của các Tòa án nhân dân địa phương do ủy ban nhân dân cùng cấp đảm nhiệm; chế độ tiền lương của cán bộ Tòa án nhân dân địa phương các cấp do Chính phủ đảm nhiệm. Như vậy, thực chất là Tòa án nhân dân tối cao chưa thực sự thực hiện việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức theo đúng nghĩa của nó, mà mặc dù có thời gian không có sự hiện diện của Bộ Tư pháp, nhưng quyền quản lý Tòa án nhân dân địa phương vẫn thuộc Chính phủ. Và quyền đó được Chính phủ giao cho chính quyền địa phương đảm nhiệm.

Do sự đòi hỏi của tình hình, tháng 9 năm 1972, ủy ban thường vụ Quốc hội đã thành lập ủy ban pháp chế của Hội đồng Chính phủ nhằm bước đầu thống nhất trở lại công tác quản lý tư pháp của Chính phủ. Sau đó, đến năm 1981, Bộ Tư pháp được thành lập lại và được giao quyền quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức (Điều 16 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981). Trên thực tế, việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức chuyển giao từ chính quyền địa phương về Bộ Tư pháp.

Để thành lập lại Bộ Tư pháp, thay mặt Hội đồng Bộ trưởng, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã trình trước kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VII như sau:

"Thực tiễn 20 năm qua (1960 - 1981) đã chứng minh rõ việc Hội đồng Bộ trưởng - cơ quan chấp hành Nhà nước cao nhất, cơ quan quản lý toàn diện của Nhà nước không có Bộ Tư pháp là điều rất không hợp lý.

...Tòa án nhân dân tối cao với tính chất là một tòa án, một cơ quan xét xử theo quy định của Hiến pháp, lại được giao làm nhiệm vụ của một bộ của Chính phủ (chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội), trong khi đó thì Hội đồng Chính phủ không nắm được tình hình thi hành pháp luật, không nắm được tình hình xét xử của tòa án, không gắn được việc chấp hành pháp luật với việc điều hành công việc chung của Chính phủ, từ đó không chỉ đạo được hoạt động đấu tranh chống tội phạm và loại trừ các nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và các hành vi phạm pháp luật khác.

ở địa phương, ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cũng không nắm được tình hình thi hành pháp luật ở địa phương, từ đó không chỉ đạo được hoạt động đấu tranh chống tội phạm và loại trừ các nguyên nhân, điều kiện gây ra tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương.

Tình hình này kéo dài sẽ có hậu quả không tốt. Hội đồng Chính phủ phải là người quản lý toàn diện mọi hoạt động của đời sống xã hội, kể cả quản lý tư pháp. Hội đồng Chính phủ phải có Bộ Tư pháp để giúp Hội đồng Chính phủ thống nhất quản lý công tác tư pháp.

Thực hiện những nhiệm vụ đó trong những năm 70 đã thấy rõ phải đặt công tác quản lý tòa án địa phương trong bộ phận quản lý tư pháp của Chính phủ..."

Qua đó, chúng ta cũng thấy rằng một trong những lý do thành lập lại Bộ Tư pháp là để Chính phủ thống nhất quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức là một nội dung quan trọng của quản lý tư pháp thuộc Chính phủ.

Trong quá trình xây dựng Hiến pháp 1992, Toà án nhân dân tối cao đã có báo cáo số 215/NCPL ngày 9-10-1991 trình Bộ chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng đề nghị giao quyền quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức cho mình. Đề nghị đó đã được các cơ quan có trách nhiệm,

kể cả cơ quan cao nhất của Đảng thảo luận kỹ. Kết quả là Hiến pháp 1992 vẫn khẳng định những nguyên tắc truyền thống trong tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân:

- Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (Điều 127).

- Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 130).

- Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam.

Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân địa phương và các tòa án quân sự (Điều 134) .

 

- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.

Chánh án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân (Điều 135).

Mặc dù các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân không có gì thay đổi so với trước, nhưng khi chuẩn bị ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992, Tòa án nhân dân tối cao lại đặt vấn đề đề nghị giao quyền quản lý các tòa án địa phương về mặt tổ chức cho Tòa án nhân dân tối cao.

Một lần nữa, vấn đề đó lại được xem xét nghiêm túc, kỹ lưỡng và dân chủ trong quá trình ban hành Luật tổ chức tòa án nhân dân 1992.

Điều 16 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 quy định: "Việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhận..." Đồng bộ với Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992, Luật tổ chức Chính phủ 1992 quy định Chính phủ thống nhất quản lý viên chức (Điều 16), quản lý hành chính tư pháp (Điều 18).

Nhằm cụ thể hóa nội dung của việc quản lý các Tòa án nhân dân về mặt tổ chức nói riêng và quản lý tư pháp nói chung, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 173/ TTG ngày 16-12-1992 về việc giao cho Bộ Tư pháp quản lý ngân sách của các Tòa án nhân dân địa phương, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/CP ngày 4/6/1993 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp.

Theo những văn bản pháp luật hiện hành của nước ta, Bộ Tư pháp có những chức năng và nhiệm vụ sau đây:

a) Chủ trì hoặc tham gia xây dựng, thẩm tra các dự án pháp luật, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật.

b) Quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức.

c) Quản lý thi hành án dân sự.

d) Thực hiện quản lý nhà nước về các hoạt động tư pháp bổ trợ (luật sư, công chứng, giám định, quốc tịch, hộ tịch...).

e) Đào tạo đại học luật và các chức danh tư pháp.

Những chức năng nhiệm vụ cơ bản trên đây là một bộ phận chức năng hành chính - tư pháp của Chính phủ được quy định trong Luật tổ chức Chính phủ năm 1992, Nghị định 15/CP ngày 02/03/1993 của Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản pháp luật khác. Các chức năng và nhiệm vụ đó có quan hệ hữu cơ với nhau tạo nên thể thống nhất từ việc chuẩn bị các dự án pháp luật đến việc thẩm tra các dự án pháp luật, thi hành pháp luật, bảo đảm tính hiệu lực của pháp luật và công việc điều hành của Chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất, cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.

Về thực tiễn quản lý, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã có những cố gắng lớn, tập trung sức thực hiện từng bước có kết quả về nhiều mặt công tác quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức. Vì vậy, các tòa án địa phương từng bước được kiện toàn về mặt tổ chức, về cán bộ, về trang thiết bị và cơ sở làm việc. Bộ mặt của cơ quan công lý ở địa phương ngày càng được thay đổi, bảo đảm tính nghiêm trang của pháp đình.

b) Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và sửa đổi Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, có ý kiến đề nghị chuyển nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức cho Toà án nhân dân tối cao. ý kiến này dựa trên lập luận cho rằng cần phải đảm bảo gắn việc theo dõi, hướng dẫn nghiệp vụ với việc nhận xét, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, ý kiến này cần được nghiên cứu, cân nhắc kỹ.

1.2. Về quản lý Thẩm phán toà án nhân dân địa phương.

1.2.1. Đặc thù nghề nghiệp của thẩm phán

Trong Bộ máy Nhà nước, Tòa án nhân dân có một vị trí đặc biệt. Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Điều 127, Hiến pháp 1992). Chỉ các Tòa án này mới có quyền xét xử và giải quyết các vụ án hình sự, các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và các vụ việc pháp lý khác theo quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân. Đồng thời thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân ý thức pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, tham gia cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm và các vi phạm.

Trong hoạt động xét xử của Toà án, Thẩm phán là nhân tố hạt nhân, đối tượng quan trọng trong việc đổi mới Tòa án, tăng cường chất lượng xét xử của Tòa án. Dù ở vị trí công tác nào chúng ta cũng có thể khẳng định rằng, Thẩm phán là một chức danh thực hiện nghề nghiệp đặc thù. Do vậy, cần có cơ chế quản lý và hệ thống chính sách phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của Thẩm phán trong xã hội. Đặc thù trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và những hệ quả của những đặc thù đó bao gồm:

a) Lao động của Thẩm phán là lao động trí não, đầy khó khăn, phức tạp đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của công dân.

Khác với những lao động khác, lao động của Thẩm phán là lao động đặc thù nghĩa là trên cơ sở các quy định của pháp luật Thẩm phán có nhiệm vụ xem xét các tình tiết của vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vấn đề định khung... và áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. áp dụng ở đây không phải là cứng nhắc mà là một quá trình tư duy vất vả và phải huy động tổng thể của những hiểu biết không chỉ về pháp luật mà còn về cuộc sống xã hội... Khi được phân công giải quyết vụ án, thì từ thời điểm đó cho đến khi xét xử và thông qua bản án là khoảng thời gian không nhiều (theo quy định của pháp luật). Thời gian làm việc của Thẩm phán không chỉ là 8 tiếng đồng hồ tại trụ sở Tòa án, mà Thẩm phán phải suy nghĩ, phải cân nhắc để đưa ra quyết định đúng đắn, thấu tình, đạt lý.

Đối tượng mà Thẩm phán giải quyết là con người, là quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Một bản án tử hình đúng pháp luật được thông qua, một mặt sẽ loại ra khỏi cuộc sống một tên tội phạm, mặt khác đó là một con người - là nỗi niềm day dứt của Thẩm phán.

Hoạt động (lao động) của Thẩm phán phải chịu những áp lực, áp lực từ phía các phần tử tội phạm, áp lực từ phía xã hội, công luận. Vì xã hội luôn luôn giám sát hoạt động của Tòa án. Không phải ngẫu nhiên mà trong Điều 131 Hiến pháp 1992 và Điều 7 Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân năm 1992 đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án xét xử công khai. Nguyên tắc này góp phần vào việc giáo dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội, thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mặt khác, nguyên tắc này tạo điều kiện cho nhân dân tham dự phiên tòa, giám sát hoạt động của Tòa án cũng như của các cơ quan chức năng khác, nâng cao ý thức trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và những người tiến hành tố tụng khác. Qua xét xử trực tiếp, qua hệ thống truyền hình, nhân dân có thể biết được mọi diễn biến phiên tòa, mỗi cử chỉ, lời nói của thẩm phán. Đây là sự giám sát của xã hội từ phía bên ngoài, sự giám sát từ bên trong phiên tòa chính là các Hội thẩm nhân dân. Nguyên tắc "việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân (hoặc Hội thẩm quân nhân) tham gia" được ghi nhận từ năm 1946 đến nay trong các Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án của nước ta năm 1960, 1981, 1992. Hội thẩm nhân dân ngoài việc mang đến Tòa án hơi thở từ cuộc sống, từ bầu không khí đời thường, bổ sung những vốn quý về các lĩnh vực của cuộc sống, những quan niệm về đạo đức, truyền thống... cho Thẩm phán. Hội thẩm còn đại diện cho nhân dân giám sát các hoạt động của Tòa án, làm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật, hợp lẽ, công bằng, bảo đảm pháp chế. Nếu việc làm của Tòa án (Thẩm phán) là đúng đắn thì xã hội, công luận sẽ ngợi khen, nhưng mặt khác nếu là việc làm sai trái sẽ bị công luận phê phán. Điều này sẽ ảnh hưởng to lớn đến nền công lý của quốc gia.

b) Thẩm phán là người đại diện cho Nhà nước trực tiếp bảo vệ nền công lý do vậy sự công bằng, vô tư, khách quan, tình người là phẩm chất không thể thiếu của Thẩm phán.

Công lý (Justic) là các chuẩn mực đạo đức xã hội mà pháp luật có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ. Hoạt động xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý. Do vậy sự công bằng trong hoạt động xét xử là phẩm chất không thể thiếu được của người Thẩm phán. Công bằng ở đây là không thiên lệch về bên nào. Tất cả các đương sự (như người bị hại, bị cáo...) không bị phân biệt thành phần xuất thân, địa vị xã hội, thành phần kinh tế, ngôn ngữ đều được Thẩm phán xem xét như nhau. Các hành vi, quyền và lợi ích hợp pháp...của họ được Thẩm phán xét xử dưới "lăng kính" của pháp luật. Trong việc xét xử các vụ án hình sự, công bằng là sự đánh giá tương xứng giữa hành vi phạm tội và trách nhiệm trước pháp luật của người phạm tội. Định tội danh đúng là tiền đề quan trọng của việc quyết định hình phạt công bằng(). Quyết định hình phạt công bằng có nghĩa là hình phạt được tuyên đối với bị cáo phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội. Sự tương xứng ấy cũng là thể hiện việc khắc phục những mặc cảm, định kiến, những khuynh hướng cực đoan dễ xẩy ra trong tâm lý người xét xử. Công bằng còn đòi hỏi các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại và các đương sự khác phải được bảo vệ. Một đòi hỏi nữa của công bằng là người không phạm tội phải được minh oan đầy đủ và được khôi phục mọi quyền lợi của mình().

Vô tư, khách quan là những phẩm chất không thể thiếu đối với người Thẩm phán. Những phẩm chất đó bảo đảm cho Thẩm phán thực hiện nguyên tắc "cáo trị, hồi tị" trong pháp luật tố tụng hình sự, nghĩa là người Thẩm phán cần phải từ chối việc giải quyết vụ án nếu cho rằng mình có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Sự vô tư và khách quan của Thẩm phán còn thể hiện ở chỗ không bị mặc cảm bởi những ấn tượng ban đầu về vụ án hay nhân thân bị cáo cũng như các đương sự khác có lợi ích trong vụ án. Thẩm phán gạt bỏ những định kiến của mình, giải quyết vụ án trên cơ sở xem xét các chứng cứ. "Tình người" là một đức tính cần phải có của người Thẩm phán. Các nhà lập pháp đã cố gắng đưa sự nghiêm minh và tính công bằng vào trong các đạo luật. Nhưng một Thẩm phán khi quyết định hình phạt không thể có được một sự tính toán chính xác về mặt lý trí cũng như về toán học. Trong trường hợp này, sự công minh và tình người giúp cho Thẩm phán hành động đúng().

c) Hoạt động của Thẩm phán gắn liền với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức.

Điều 127 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 đã quy định "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Chỉ Tòa án mới có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.

Xét xử là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là phương pháp cơ bản đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Hoạt động xét xử nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế - chính trị, xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân.

Hoạt động xét xử có thể dẫn đến chỗ công dân, pháp nhân, các tổ chức được hưởng các quyền và lợi ích hoặc gánh chịu các nghĩa vụ nhất định. Đặc biệt là việc xét xử trên lĩnh vực hình sự thì kết quả của hoạt động xét xử hình sự dẫn đến những hậu quả pháp lý rất nghiêm trọng đối với người bị kết án (như người bị kết án bị tử hình...). ở đây, có thể thấy rằng sai lầm trong hoạt động xét xử của Thẩm phán khó tính hết hậu quả của nó. Sai lầm trong hoạt động xét xử của Thẩm phán không chỉ làm thiệt hại một cá nhân cụ thể mà còn gây nên sự mất niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội.

d) Độc lập xét xử là nguyên tắc cơ bản đối với hoạt động của Thẩm phán.

Khác với những cơ quan hành chính khác, cơ quan cấp dưới phải phục tùng và chịu sự chỉ đạo của cơ quan hành chính cấp trên, cơ quan Tòa án cấp dưới quan hệ với Tòa án cấp trên là quan hệ tố tụng. Mối quan hệ này cho phép Tòa án cấp trên hướng dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử nhưng không quyết định trước về chủ trương xét xử một vụ án cụ thể, buộc Tòa án cấp dưới phải tuân theo. Độc lập ở đây còn được hiểu, Thẩm phán khi xét xử không bị phụ thuộc vào quyết định hoặc kết luận của cơ quan điều tra (độc lập với hồ sơ vụ án), độc lập với kết luận của Viện Kiểm sát (độc lập với bản cáo trạng và quyết định truy tố của Viện Kiểm sát). Bản án của Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát().

Độc lập của Thẩm phán không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ của pháp luật. Nó đòi hỏi "Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào(). Không phải ngẫu nhiên mà Bộ Tư pháp quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức (Điều 16 Luật Tổ chức TAND). Việc quản lý này nhằm giúp cho các cơ quan Tòa án tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của mình là xét xử các vụ án. Lãnh đạo của cơ quan Tư pháp có thể yêu cầu Chánh án các Tòa án địa phương cung cấp những thông tin liên quan đến hoạt động của các cơ quan Tòa án như tình trạng trụ sở xét xử của Tòa án, các phương tiện làm việc, máy móc thiết bị... nhưng không thể là những thông tin cụ thể về một vụ án hình sự hoặc dân sự nào đó. Các cơ quan cấp trên không có quyền hỏi về việc xét xử từng loại vụ án cụ thể đối với Chánh án cũng như Thẩm phán hoặc đòi hỏi họ phải đưa ra lời giải thích như: Vì sao đưa vụ án ra xét xử; bản án với hình phạt nặng hay nhẹ như vậy...() Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án (Chánh án đương nhiên là Thẩm phán) trong nội bộ cơ quan Tòa án cũng có hai mối quan hệ sau đây: quan hệ giữa Chánh án (Thủ trưởng cơ quan) và Thẩm phán (nhân viên) là quan hệ hành chính, do vậy Thẩm phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án (Điều 9 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND) và mối quan hệ tố tụng giữa hai Thẩm phán với nhau. Mối quan hệ này phải do Luật tố tụng điều chỉnh. Điều này có nghĩa là đối với Thẩm phán nguyên tắc độc lập trong xét xử phải được thực hiện nghiêm chỉnh. Tất nhiên Thẩm phán muốn độc lập cần phải có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, dũng cảm... và Nhà nước cũng cần tạo ra cơ chế cho Thẩm phán được độc lập. Thẩm phán làm việc trên cơ sở pháp luật và đúng như Các Mác đã nói: "Nội dung đã được pháp luật quy định trước; luật vật chất lại có luật hình thức xét xử cần thiết vốn có của nó, việc xét xử và luật pháp liên hệ mật thiết với nhau như hình với bóng, muốn áp dụng pháp luật cần phải có quan Tòa; đối với quan Tòa không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp, quan Tòa độc lập không phụ thuộc vào tôi cũng không phải phụ thuộc vào Chính phủ, quan Tòa xem xét hành động của tôi trên cơ sở một đạo luật nhất định kết tội tôi vi phạm pháp luật, còn nơi nào bị pháp luật vi phạm thì nơi đó ít ra phải có luật pháp"().

Làm thế nào để khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây chính là phương diện đạo đức của vấn đề. Nội dung của nguyên tắc là như vậy, nhưng khi người Thẩm phán ngồi vào ghế xét xử thì phải tôn trọng nguyên tắc đó. Bởi khi xét xử, người Thẩm phán đưa ra một phán quyết nhân danh Nhà nước mà mục đích cuối cùng là làm thế nào để có thể đem lại sự công bằng cho xã hội. Một con người, dầu không bị ai can thiệp, nhưng lòng không trong sáng, tâm tư bị chi phối bởi những quan hệ cá nhân, dù có độc lập trên danh nghĩa thì trong quyết định của mình cũng không thể hiện được tính độc lập, tính khách quan vô tư đó. Vì vậy, đòi hỏi người Thẩm phán phải có một bản lĩnh, vượt lên trên cái tôi của mình, đại diện cho khát vọng xã hội, vì lợi chung của xã hội để đưa ra một phán quyết về tính chất của hành vi, trên cơ sở đó vận dụng quy định của pháp luật để giải quyết. ít có lĩnh vực nào lại đòi hỏi tính khách quan, vô tư cao đến như vậy như đối với người Thẩm phán khi đánh giá một vụ án và đưa ra một phán quyết về một biện pháp chế tài để xử lý. Vì ở đây thể hiện một cách rất đầy đủ thái độ, quan hệ cá nhân của người trong cuộc với đương sự hay bị cáo, thể hiện cả cách nhìn về mặt tốt, mặt xấu của đời sống xã hội. Với yêu cầu như vậy, người Thẩm phán phải là người chí công vô tư, phụng công thủ pháp. Vậy thì cần phải hiểu, độc lập xét xử không chỉ là một quyền thuần tuý mà độc lập xét xử luôn đi liền với chỉ tuân theo pháp luật, nó đã trở thành nghĩa vụ đạo đức, một đòi hỏi về phẩm chất, một bản lĩnh của người Thẩm phán.()

 

e) Thẩm phán hoạt động theo một trình tự pháp lý chặt chẽ được quy định trong pháp luật tố tụng.

Trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán là nhân vật trung tâm. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về các phán quyết của mình. Các phán quyết (bản án, quyết định) của Thẩm phán nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và là kết quả cuối cùng hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử. Các phán quyết của Thẩm phán có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức. Cho nên hoạt động xét xử của Toà án có tính tổ chức rất chặt chẽ. Toà án khi xét xử một vụ việc cụ thể phải tuân theo những trình tự, thủ tục luật định một cách nghiêm ngặt, không được tuỳ tiện bỏ qua một thủ tục nào. Đó là vấn đề chuẩn bị xét xử, áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, tranh luận trước Tòa, nghị án...Việc quy định như vậy nhằm tránh sự tùy tiện, lạm quyền của Thẩm phán, cơ quan tiến hành tố tụng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Nếu vi phạm nghiêm trọng những quy định của pháp luật tố tụng thì Quyết định của Toà án sẽ bị kháng cáo hoặc kháng nghị và sẽ bị Tòa án cấp trên xem xét lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm để cải, sửa hoặc hủy. Đây chính là điểm đặc thù của hoạt động xét xử của Thẩm phán so với các nghề khác.

g) Khi xét xử, Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước để ra bản án, quyết định.

Bản án, quyết định của Tòa án do Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước để tuyên đối với bị cáo và các đương sự khác. Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân và tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án và quyết định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó (Điều 25 - Bộ luật tố tụng hình sự).

Bởi tính hiệu lực cao của bản án và quyết định của cơ quan Tòa án như vậy cho nên pháp luật tố tụng quy định việc sửa đổi, hủy bỏ các văn bản đó không phải như những văn bản hành chính đơn thuần mà phải thông qua trình tự tố tụng nghiêm ngặt bằng thủ tục kháng cáo hoặc kháng nghị.

Vì những lẽ trên mà chúng ta thấy để trở thành Thẩm phán phải có đủ những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức. Khi xét xử Thẩm phán nhân danh Nhà nước nên Thẩm phán phải do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Đây là các đặc thù cơ bản của nghề nghiệp thẩm phán đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý phù hợp (chúng tôi xin phân tích rõ ở những phần sau).

 

1.2.2. Quản lý thẩm phán Toà án địa phương.

Theo nguyên tắc tổ chức bộ máy của nhà nước ta hiện nay thì quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp (xét xử). Trong đó cơ quan hành pháp là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm thực hiện các vấn đề về quản lý hành chính nhà nước và điều hành đối với toàn bộ hoạt động trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Trên tinh thần này, việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự cấp quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực, theo quy định của pháp luật (Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh tổ chức cácToà án quân sự), thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp - thành viên của Chính phủ. Xuất phát từ khái niệm chung về quản lý Toà án nói chung được đề cập ở phần trên, và căn cứ vào các quy định của pháp luật, có thể hiểu quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức là việc giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình những công việc để bảo đảm tổ chức bộ máy, cán bộ và cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện cần thiết cho các hoạt động của Toà án nhân dân địa phương.

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như Luật tổ chức Toà án nhân dân trong các thời kỳ đều xác định rõ nhiệm vụ của Toà án nhân dân: đó là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hoà xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những người chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ này chính là đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (Hội thẩm quân nhân trong quân đội) ở Toà án các cấp.

Như vậy, có thể khẳng định rằng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành Toà án, thì hoạt động nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán đóng vai trò hết sức quan trọng. Những phán quyết đúng sai của Hội đồng xét xử phần nhiều thuộc về trách nhiệm của mỗi Thẩm phán, người chịu trách nhiệm chính trong giải quyết từng vụ án.

Thực tiễn đã chứng minh: hoạt động xét xử của Thẩm phán là một loại hình hoạt động đặc biệt mang tính quyết định đến kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Toà án. Chính vì vậy, trong những năm qua, cùng với việc đổi mới về cơ cấu tổ chức hệ thống Toà án (thành lập thêm các Toà) thì công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ làm việc trong các cơ quan Toà án, trong đó có đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp được chú trọng. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 cũng như Luật tổ chức Toà án nhân dân (ban hành ngày 6-10-1992) đã quy định chế độ: tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán Toà án thay thế cho chế độ bầu cử. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có hiệu lực thi hành từ ngày 15-8-1993 đã cụ thể hoá những quy định đó càng chứng minh rõ vị trí, tầm quan trọng của Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức năng xét xử cử Toà án. Đây là điều kiện rất thuận lợi để đội ngũ Thẩm phán Toà án phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình, góp phần quan trọng phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ tổ quốc, bảo về chế độ, củng cố chính quyền nhân dân, góp phần thực hiện quyền dân chủ và công bằng xã hội trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.

Tóm lại, yêu cầu quản lý hành chính nhà nước đối với các Toà án nói chung và đối với thẩm phán nói riêng xuất phát từ chính vị trí, vai trò, tính chất, nguyên tắc hoạt động của các Toà án, là đòi hỏi khách quan nội tại về các điều kiện cần thiết cho việc hình thành và bảo đảm các hoạt động có hiệu lực và hiệu qủa của Toà án. Từ đây, có thể đưa ra khái niệm: Quản lý Toà án về mặt tổ chức là một hình thức quản lý nhà nước có nội dung là việc xây dựng các điều kiện cần thiết để hình thành các cơ quan xét xử và để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc: "Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Các điều kiện cần thiết này chính là con người, tổ chức, trụ sở, kinh phí, phương tiện hoạt động cho các Toà án mà những cơ quan chức năng của nhà nước phải bảo đảm.

1.3. Nguyên tắc cơ bản quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương.

Như trên đã phân tích, Thẩm phán là một "nghề" đặc biệt với những đặc thù riêng. Do vậy, để việc quản lý thẩm phán đạt hiệu quả, hoạt động quản lý thẩm phán cần quán triệt một số nguyên tắc cơ bản sau đây:

Nguyên tắc 1: Hoạt động quản lý thẩm phán phải hỗ trợ, giúp đỡ thẩm phán bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định: "khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật". Thực tiễn cho thấy, để nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế là rất khó khăn, phức tạp, không những chỉ đòi hỏi bản lĩnh, tư chất của người thẩm phán trước sự can thiệp từ bên ngoài, và cả sự cám dỗ của những lợi ích vật chất mà cần tạo ra cơ chế phòng ngừa gần, phòng ngừa cả từ xa bằng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp quản lý. Như vậy, hoạt động quản lý không được cản trở mà phải tạo điều kiện để thẩm phán thực hiện đúng pháp luật, tăng cường pháp chế trong hoạt động xét xử.

Nguyên tắc 2: Hoạt động quản lý thẩm phán phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ. Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức - nguồn nhân lực của bộ máy nhà nước là một trong ba nội dung chủ yếu của công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước đã được xác định trong nghị quyết Trung ương 3 và 8 (khoá VII). Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng về "Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đổi mới" chúng ta càng thấy tính bức xúc của việc bảo đảm thực hiện yêu cầu này. Trong thời gian qua, việc quản lý đội ngũ thẩm phán và phát triển nguồn nhân lực nhưng cũng bộc lộ những nhược điểm, bất cập, những tổn tại cần khắc phục. Những tiến bộ đã đạt được chưa đủ đáp ứng được yêu cầu phục vụ đổi mới kinh tế - xã hội và phục vụ dân của bộ máy công quyền mà cán bộ công chức là chủ thể. Đối với việc quản lý đội ngũ thẩm phán đó trong quá trình hoạt động, chúng ta càng cần phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ. Đó là một câu hỏi lớn được đặt ra trong quá trình nghiên cứu về quản lý thẩm phán.

Nguyên tắc 3: Hoạt động quản lý toà án địa phương nói chung, quản lý thẩm phán nói riêng phải bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước, trước hết là Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao ở cấp trung ương và Sở Tư pháp, Toà án nhân dân cấp tỉnh. Yêu cầu này không chỉ dựa trên quy định của Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân mà cần được đặt ra trên một bình diện rộng. Bởi vì, ở nước ta quản lý thẩm phán thực chất là quản lý cán bộ trong một lĩnh vực hoạt động đặc thù, không chỉ thuần tuý là hoạt động hành chính tư pháp. Tuy nhiên, "phối hợp" không có nghĩa là bất cứ vấn đề gì liên quan đến quản lý thẩm phán đều phải được "bàn" chung, "họp" chung. Điều cốt lõi là phải nghiên cứu để phân định rõ thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan. Sự phân định đó càng được làm rõ bao nhiêu thì sự phối hợp, thống nhất hành động càng có hiệu quả bấy nhiêu, trong đó phải nhấn mạnh, làm ró chức năng của cơ quan tư pháp với tư cách là cơ quan được luật giao nhiệm vụ tổ chức phối hợp.

 

1.4. Nội dung quản lý thẩm phán và kinh nghiệm thực tiễn

Xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp của hoạt động xét xử nên hoạt động quản lý Thẩm phán ở đa số các nước đều xác định là một hoạt động quản lý hành chính nhà nước đặc biệt. Đặc biệt cả về chủ thể quản lý, nội dung quản lý và đối tượng quản lý.

Nội dung quản lý Thẩm phán được xác định bao gồm các nội dung chính của hoạt động quản lý cán bộ công chức. Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc thù của nghề Thẩm phán mà các nội dung cụ thể cũng có những điểm khác biệt so với hoạt động quản lý cán bộ, công chức bình thường. Tuỳ vào tình hình và đặc điểm của mỗi nước, việc tổ chức và quản lý Thẩm phán cũng có những khác nhau, nhưng tất cả các nước đều thống nhất quản lý Thẩm phán trên các vấn đề sau:

- Biên chế Thẩm phán trong toàn quốc;

- Quỹ tiền lương;

- Vấn đề thi tuyển, tuyển dụng, sử dụng, thuyên chuyển, đào tạo, miễn nhiệm Thẩm phán;

- Tiêu chuẩn Thẩm phán;

- Tiền lương, chế độ chính sách đối với Thẩm phán;

- Phương pháp đánh giá chất lượng Thẩm phán hàng năm;

- Khen thưởng, kỷ luật, cách chức Thẩm phán.

- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Thống kê Thẩm phán.

Để thực hiện các nội dung trên đòi hỏi phải có nhiều cơ quan khác nhau, trong đó mỗi cơ quan đảm nhiệm một khâu quản lý nhất định như: ban hành văn bản, tổ chức thực hiện (trong đó có kết hợp các nguyên tắc quản lý nhà nước như: quản lý theo chức năng, quản lý theo ngành, quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ,. thực hiện phân cấp, uỷ quyền...) kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo... Trong các nội dung kể trên, chúng tôi tập trung nghiên cứu một số nội dung mang tính đặc thù của hoạt động quản lý Thẩm phán để chứng minh.

Về tiêu chuẩn Thẩm phán.

Tiêu chuẩn Thẩm phán là điều kiện cần phải có của một người để làm căn cứ cho việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán. Đối với hoạt động quản lý Thẩm phán thì việc xây dựng các tiêu chuẩn Thẩm phán là một công việc khó khăn. Thông thường việc xây dựng tiêu chuẩn Thẩm phán ở các nước đều dựa trên bốn yếu tố cơ bản: quan điểm chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sức khoẻ. Các tiêu chuẩn này một mặt phải xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, mặt khác phải phù hợp với thực trạng chất lượng cán bộ hiện có.

Phù hợp với thực trạng chất lượng cán bộ ở Việt Nam vào thời điểm hiện nay, thì tiêu chuẩn Thẩm phán đòi hỏi phải có những nội dung sau:

Một là, Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, Hiến pháp và Pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đó là tiêu chuẩn chính trị của người Thẩm phán.

Hai là, có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật, trung thực kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, hách dịch, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Đây là một đòi hỏi của nhân dân đối với cán bộ Nhà nước trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Do vậy, mỗi cán bộ Toà án nói chung, Thẩm phán Toà án nói riêng phải tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, thường xuyên tự phê bình và phê bình theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Bởi vì, Thẩm phán là "những người phụ trách thi hành pháp luật lẽ tất nhiên... phải nêu cao cái gương phụng công, thủ pháp chí công, vô tư cho nhân dân noi theo..." Chỉ có những người có phẩm chất đạo đức như vậy, khi được chọn và bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân mới được nhân dân tâm phục, khẩu phục. Đó là cơ sở để nhân dân tin phán quyết của Toà án là công minh, khách quan và đúng pháp luật. Khi ấy, việc thực hiện các bản án, quyết định của Toà án sẽ được mọi người tự giác hơn.

 

Ba là, có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ của Thẩm phán. Tiêu chuẩn về trình độ của Thẩm phán được quy định chung cho Thẩm phán Toà án các cấp là Cao đẳng Toà án hoặc đại học luật.

Như vậy, theo pháp luật hiện hành, thì chưa có sự phân biệt về trình độ Thẩm phán các cấp. Việc quy định trình độ "Cao đẳng Toà án" chỉ còn là tiêu chí, giải pháp để giải quyết tồn tại của lịch sử, nếu tiếp tục quy định như vậy thì không phù hợp vì trên thực tế từ lâu chúng ta không còn đào tạo trình độ Cao đẳng Toà án. Hơn nữa, số các đồng chí có bằng Cao đẳng Toà án hiện nay cũng đã cao tuổi và không còn nhiều. Do vậy, không nên quy định tiêu chuẩn "cao đẳng Toà án" trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân mà nên quy định trình độ Thẩm phán phải có trình độ tốt nghiệp Đại học luật trở lên. Có quy định như vậy mới từng bước khắc phục sự yếu kém của đội ngũ cán bộ là :" Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là về quản lý kinh tế thị trường, quản lý xã hội, Pháp luật..." (Nghị quyết Trung ương ba khoá VIII).

Mặt khác, trình độ Thẩm phán phải được kết hợp và thể hiện bởi năng lực của Thẩm phán. Do có nhiều cán bộ "lười" học, "lười" nghiên cứu, một số học lướt cốt chỉ để lấy được bằng cấp. Cho nên, mọi bằng cấp phải được kiểm nghiệm qua thực tế. Và phải lấy hiệu quả công tác và sự đóng góp thực tế làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Việc xây dựng tiêu chuẩn về năng lực Thẩm phán Toà án các cấp phải tính tới tính chất công việc của Thẩm phán Toà án các cấp và năng lực xét xử của Thẩm phán Toà án cấp trên dứt khoát phải hơn năng lực xét xử của Thẩm phán Toà án cấp dưới. Bởi vì, theo quy định của Pháp luật tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, thì Toà án cấp tỉnh phúc thẩm, giám đốc thẩm các bản án của Toà án cấp huyện, Toà án nhân dân Tối cao phúc thẩm, giám đốc thẩm những bản án của Toà án cấp tỉnh. Do vậy, cần quy định năng lực của Thẩm phán theo hướng người được chọn để bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp trên phải là người đã làm tốt ở cương vị là Thẩm phán Toà án cấp dưới. Vậy, thì Thẩm phán Toà án cấp huyện lấy nguồn từ đâu? Theo chúng tôi: Nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp huyện là Thư ký Toà án cấp huyện, Thư ký và Thẩm tra viên Toà án cấp tỉnh; Nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp tỉnh là Thẩm phán Toà án cấp huyện, Thư ký, Thẩm tra viên và chuyên viên Toà án nhân dân Tối cao. Làm được như vậy sẽ là điều kiện tốt để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân. Nhưng chỉ có thể thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ Toà án khi có sự đồng bộ với chính sách xã hội bảo đảm cho cán bộ Toà án chuyển từ nơi này tới nơi khác mà không gây sáo trộn tới cuộc sống của bản thân và gia đình họ.

Bốn là, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiêu chuẩn này đòi hỏi người Thẩm phán phải có thể lực cần thiết, không có dị tật, dị hình ảnh hưởng tới tư thế hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của người Thẩm phán.

 

Khi xây dựng tiêu chuẩn Thẩm phán phải quán triệt quan điểm của Đảng về tiêu chuẩn cán bộ trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: Có phẩm chất chính trị tốt, vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Có tinh thần năng động, sáng tạo, phấn đấu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dám đấu tranh với những quan điểm sai trái; Có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn đoàn kết nội bộ. Có quan hệ mật thiết với nhân dân; Có năng lực, trình độ và sức khoẻ phù hợp với nhiệm vụ công tác được giao. Có phong cách làm việc khoa học, đưa lại hiệu quả thiết thực. Tức là, người cán bộ phải có phẩm chất và năng lực, có đức và tài trong đó đức là cái gốc của người cán bộ.

Tuyển chọn Thẩm phán.

Công tác tuyển chọn Thẩm phán là một nội dung không thể thiếu trong hoạt động quản lý Thẩm phán. Việc tuyển chọn Thẩm phán phải đạt được mục đích: tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán, bảo đảm tính độc lập trong hoạt động xét xử, chuyên nghiệp hoá đội ngũ Thẩm phán. Do vậy, trong công tác này thì những nội dung chủ yếu mà chúng ta phải quan tâm là: phương thức tuyển chọn, thủ tục tuyển chọn và nhiệm kỳ của Thẩm phán.

Tuyển chọn Thẩm phán thường được tiến hành theo hai cách thức: Bầu hoặc cử Thẩm phán và Bổ nhiệm Thẩm phán.

Chế độ bầu (hay cử) Thẩm phán được tiến hành thông qua cử tri trực tiếp hay gián tiến thông qua đại biểu cử tri (mà đại diện là các cơ quan quyền lực nhà nước) lựa chọn. Chế độ này có ưu điểm là bảo đảm cho quần chúng nhân dân trực tiếp thực hiện quyền dân chủ trong việc lựa chọn những người thay mặt mình thực hiện hoạt động xét xử. Nhưng chế độ này cũng có những nhược điểm như việc bầu cử Thẩm phán thường nặng về hình thức. Điều này làm cho việc đánh giá về trình độ chuyên môn pháp lý và phẩm chất đạo đức của người được tuyển chọn khó chính xác. Một nhược điểm nữa là việc bầu Thẩm phán thường theo nhiệm kỳ của của Hội đồng nhân dân địa phương, mà các cơ quan này lại có nhiệm kỳ ngắn, điều này làm cho Thẩm phán chưa thực sự yên tâm công tác và tập trung nghiên cứu học tập, lao động sáng tạo trong hoạt động xét xử. Mặt khác, chế độ bầu Thẩm phán cũng làm cho hoạt động xét xử của Tòa án chưa thực sự độc lập, vì lệ thuộc vào chính quyền địa phương và chính điều này dẫn đến tình trạng việc áp dụng luật ở các Tòa án không được thống nhất.

Theo chế độ bổ nhiệm Thẩm phán thì người được tuyển chọn làm Thẩm phán do người có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm. Chế độ này có những ưu điểm là: có điều kiện để lựa chọn kỹ người để bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của Thẩm phán không phụ thuộc vào nhiệm kỳ của cơ quan dân cử, do vậy Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức pháp luật và trách nhiệm cá nhân. Một đặc điểm quan trọng của chế định này là đảm bảo thực hiện được nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử. Tuy nhiên, để đạt được mục đích trên thì dước góc độ quản lý thì những vấn đề chúng ta cần quan tâm là: thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán thuộc về cơ quan nào? thủ tục bổ nhiệm như thế nào là hợp lý? Vì nếu quy định thẩm quyền bổ nhiệm không hợp lý sẽ dẫn đến hậu quả hoặc là người có thẩm quyền bổ nhiệm sẽ can thiệp vào hoạt động xét xử làm cho nguyên tắc độc lập xét xử không đảm bảo, hoặc là không quy định rõ việc phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm sẽ làm cho việc bổ nhiệm trở nên tràn lan, không đảm bảo chất lượng.

ở nước ta, Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Thực tế cho thấy có một số vấn đề chưa hợp lý là:

- Thẩm quyền bổ nhiệm: Hiện nay, tất cả các Thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiện (trừ Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu). Do số lượng Thẩm phán cần bổ nhiệm quá nhiều nên việc bổ nhiệm như hiện nay khó chánh khỏi tính hình thức. Theo chúng tôi, thẩm quyền bổ nhiệm nên có sự phân cấp hợp lý hơn. Chủ tịch nước chỉ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, còn Thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán toà án nhân dân địa phương nên giao cho Bộ Trưởng Bộ Tư pháp.

- Về Thành phần Hội đồng tuyển chọn: Với thành phần Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán quy định như hiện nay chưa phù hợp, theo chúng tôi cần quy định có thêm đại diện tổ chức Đảng bộ địa phương và một số Thẩm phán có kinh nghiệm là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Bên cạnh đó, chúng ta không nên quy định Hội luật gia là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, vì công tác của Hội luật gia ít liên quan đến công tác Tòa án.

Thuyên chuyển Thẩm phán.

Thuyên chuyển, điều động Thẩm phán nhằm mục đích điều động, phân bổ cán bộ một cách hợp lý theo địa giới hành chính hoặc theo cấp xét xử trên cơ sở nhiệm vụ xét xử của các địa phương. Dưới góc độ quản lý cán bộ, thì những vấn đề chúng ta cần phải quan tâm là: việc thuyên chuyển Thẩm phán phải đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ xét xử, mặt khác phải đảm bảo được đời sống của Thẩm phán.

Theo quy định hiện nay, để điều chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân nơi này đến Tòa án nhân dân nơi khác ít nhất cần 10 con dấu đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện (cấp ủy, Chánh án tỉnh, Chánh án huyện, Sở Tư pháp - của cả nơi đi và nơi đến và ý kiến thống nhất của Toà án nhân dân tối cao và cuối cùng là của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); cần phải có 6 con dấu đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh. Trên thực tế người được thuyên chuyển điều động gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như: lương thấp, phải xa gia đình bị san sẻ về thu nhập, nếu chuyển cả gia đình cùng đến nơi công tác mới thì vấn đề về nhà ở, công việc làm, việc học tập của vợ chồng và các con như thế nào?...

Do vậy, trước hết về thủ tục điều động cần gọn hơn và nên giao cho cơ quan quản lý có thẩm quyền không quan các khâu trung gian khác như nêu trên.

 

 

Về khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán.

Khen thưởng và kỷ luật Thẩm phán là những công cụ, biện pháp trong quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ Thẩm phán. Thông qua các hình thức khen thưởng để đánh giá công lao, ghi nhận những đóng góp, cống hiến của Thẩm phán, khích lệ họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khen thưởng được coi như tấm gương sát thực nhất để mọi người học tập, làm theo. Kỷ luật Thẩm phán là hình thức xử lý, trừng phạt với mức độ khác nhau tuỳ theo nội dung, tính chất vi phạm chế độ chính sách và pháp luật. Mục đích của các hình thức kỷ luật là răn đe, phòng ngừa, uốn nắn những sai phạm có thể xảy ra hoặc đã xảy ra.

Công tác khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán có tác dụng to lớn trong việc nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất của đội ngũ Thẩm phán, làm tốt công tác này, chất lượng của đội ngũ Thẩm phán sẽ không ngừng được nâng cao, góp phần quan trọng vào việc quản lý, phát triển và sử dụng Thẩm phán.

Khi tiến hành khen thưởng, kỷ luật Thẩm phán cần tuân theo các nguyên tắc sau:

1. Nguyên tắc công minh, công bằng trong khen thưởng, kỷ luật là thưởng phạt đúng người, đúng lỗi.

2. Nguyên tắc đề cao ý nghĩa giáo dục, cổ vũ trong khen thưởng, kỷ luật và kết hợp giữa giáo dục với kỷ luật, xử phạt.

3. Nguyên. tắc kết hợp khen thưởng, kỷ luật về chính trị, tinh thần với khen thưởng hoặc kỷ luật bồi hoàn bằng vật chất.

Những nguyên tắc cơ bản trên đây có ý nghĩa định hướng cho công tác khen thưởng, kỷ luật đạt được mục tiêu, ý nghĩa sâu sắc. Để thực hiện đúng đắn công tác này còn đòi hỏi sự vận dụng một cách khoa học vào từng hoàn cảnh cụ thể, từng con người cụ thể. Công tác này phải được thực hiện bằng một cơ chế dân chủ. Những người làm công tác này phải có nhân tâm và đức độ cao, có tấm lòng trong sáng.

1.5. Mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp và các các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý thẩm phán.

Theo quy định tại Điều 16 của Bộ luật tổ chức Toà án nhân dân thì việc quản lý Toà án nhân dân điạ phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Cụ thể hoá quy định này ngày 29 tháng 9 năm 1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/UBTVQH9 ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực. Trên cơ sở Nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ban hành quy chế số 91/TP-TA ngày 19 tháng 1 năm 1994 về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý Toà án nhân dân cấp huyện về mặt tổ chức. Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ra quyết định phân cấp quản lý về tổ chức các Toà án nhân dân cấp huyện đối với Giám đốc Sở Tư pháp và quyết định uỷ quyền cho Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh. Quy định về vấn đề này, một trong những văn bản quan trọng là Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân.

Những văn bản trên đây là những căn cứ pháp lý cơ bản nhằm thực hiện việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức đạt hiệu quả và đi vào nề nếp mà trong đó có các quy định về mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương. Qua những văn bản này cho thấy Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản quản lý có trách nhiệm chính trong mối quan hệ phối hợp với các cơ quan khác như với Quốc hội, với Chủ tịch nước, với Toà án nhân dân tối cao, với tỉnh uỷ, thành uỷ đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và Giám đốc Sở Tư pháp, huyện uỷ đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Với chức năng quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức theo quy định tại Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và trên cơ sở Nghị quyết số 46NQ/UBTVQH9 ngày 29 tháng 9 năm 1993 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý các Toà án nhân. dân địa phương, các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực về mặt tổ chức, ngay từ đầu, Bộ Tư pháp cùng Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ quốc phòng thống nhất trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định số lượng Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, mẫu trang phục cũng như chế độ cấp phát và sử dụng trang phục cho các Toà án nhân dân địa phương; số lượng Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân cho các Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực). Các vấn đề trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân cũng như Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực; việc thuyên chuyển Thẩm phán; vấn đề khen thưởng - kỷ luật đối với cá nhân hay tập thể các Toà án nhân dân địa phương được thực hiện một cách nghiêm túc theo quy định của Quy chế.

Hàng năm, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao thống nhất trình Chính phủ quyết định tổng biên chế và các chế độ phụ cấp khác cho các Toà án nhân dân địa phương và căn cứ vào đó thống nhất quy định biên chế, số lượng Thẩm phán, Hội Thẩm cho từng Toà án nhân dân địa phương.

Bộ Tư pháp cùng Toà án nhân dân tối cao đã phối hợp trong việc kiểm tra công tác của các Toà án nhân dân địa phương như kiểm tra đơn thư khiếu nại đối với Thẩm phán, kiểm tra về tuyển dụng cán bộ, kiểm tra về sử dụng ngân sách, kiểm tra công tác thi đua... theo như điểm 4 Điều 2 của Quy chế phối hợp.

Với những vấn đề nêu trên, ngoài việc chỉ đạo trực tiếp, Bộ Tư pháp cùng Toà án nhân dân tối cao đã có các hướng dẫn cụ thể để các địa phương thực hiện công tác quản lý thống nhất, đi vào nề nếp và đạt hiệu quả.

Như vậy có thể nói, sự phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực về mặt tổ chức cho đến nay đã đi vào ổn định, nề nếp và điều này được minh chứng bằng các mặt hoạt động cụ thể (chúng tôi sẽ phân tích kỹ ở phần sau).

 

II. Vài nét về lịch sử quản lý thẩm phán nhân dân từ năm 1945 đến nay và vị trí, vai trò của người thẩm phán trong hoạt động xétxử

2.1. Vài nét về lịch sử quản lý thẩm phán nhân dân từ năm 1945 đến nay.

Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 28-8-1945 Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, Bộ Tư pháp là một trong những Bộ đầu tiên trong bộ máy của Chính phủ và được giao nhiệm vụ quản lý Toà án nhân dân về mặt tổ chức. Cụ thể ngày 13 tháng 09 năm 1945 theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33-C thiết lập các Toà án quân sự và 04 tháng sau đó Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 13-SL về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán, tạo cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc tổ chức các Toà án theo thẩm quyền (Toà án sơ cấp, đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm) về việc quản lý về tổ chức đối với các Toà án này. Theo quy định tại Sắc lệnh 13-SL, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ quản lý cả về tổ chức, cán bộ và các hoạt động khác của Toà án; Chủ tịch bổ nhiệm thẩm phán từ cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán sơ cấp. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đã có vai trò đóng góp tích cực trong việc xây dựng và quản lý các Toà án. Trên cơ sở đó các cơ quan xét xử ngày càng được hoàn thiện cả về tổ chức, bộ máy và nguyên tắc hoạt động, thể hiện bằng việc Bộ Tư pháp đã trình Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22 tháng 05 năm 1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, tạo nên một bước thay đổi quan trọng thể hiện tính chất tư pháp nhân dân, dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Toà án nước ta. Bên cạnh đó một đội ngũ cán bộ Thẩm phán, dự thẩm, công tố tư pháp cảnh sát đã được chăm lo đào tạo, bồi dưỡng để thực hiện nhiệm vụ của các Toà án trong giai đoạn này.

Sau năm 1990, do điều kiện lịch sử của đất nước, do cơ chế quản lý không đồng bộ, nên công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức bị cắt khúc, không thống nhất trong việc thực hiện các nội dung quản lý. Cụ thể, các cấp chính quyền địa phương chịu trách nhiệm chăm lo về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ của các Toà án địa phương cùng cấp, Toà án nhân dân tối cao chỉ giữ vai trò chung. Ngoài ra, cách thức tổ chức việc quản lý này không bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử đồng thời chưa thể hiện được sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan Nhà nước, làm cho toà án nhân dân tối cao với chức năng là cơ quan xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử lại được giao làm nhiệm vụ của một bộ của Chính phủ, trong khi đó thì Hội đồng Chính phủ với tư cách là cơ quan chấp hành pháp luật và điều hành các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, không nắm được tình hình thi hành pháp luật, tình hình về tổ chức cán bộ và xét xử của Toà án, nên từ đó không chỉ đạo được hoạt động đấu tranh chống tội phạm và loại trừ các nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Do đó, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VII (năm 1981) công tác quản lý cá Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức chính thức được giao lại cho Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan của Chính phủ đảm nhiệm. Nhưng ở giai đoạn này thực chất Bộ Tư pháp chỉ quản lý về tổng biên chế, về cơ cấu tổ chức bộ máy của Toà án nhân dân địa phương, còn các mặt khác như tuyển dụng cán bộ, bầu cử thẩm phán, thuyên chuyển, đề bạt cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất, cấp phát quản lý kinh phí hoạt động... đều chưa thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp. Do cơ chế quản lý không thống nhất, các nội dung quản lý bị chia cắt và trình độ quản lý còn non kém nên công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức ở giai đoạn này chưa đạt kết quả như mong muốn.

Từ năm 1992 trở lại đây, hoạt động quản lý về tổ chức Toà án nhân dân địa phương đã có những chuyển biến tích cực theo cơ chế mới toàn diện, trực tiếp, thống nhất từ trung ương đến địa phương bao gốm những lĩnh vực như về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự, kinh phí hoạt động... rất nhiều công việc phải làm với các quy trình khác hẳn cơ chế quản lý cũ. Đặc biệt là chế định tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán thay thế chế định bầu cử thẩm phán trước đây thể hiện rõ sự chặt chẽ, nghiêm túc và tiến bộ nhằm tăng cường về số lượng cũng như chất lượng đội ngũ thẩm phán.

2.2. Vài nét về vị trí, vai trò của người thẩm phán trong hoạt động xét xử.

Phải nói rằng, lịch sử hình thành và phát triển về tổ chức và hoạt động của Toà án có những thời kỳ xác định rõ vị trí, vai trò của Thẩm phán, đã có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, cụ thể là:

* Theo sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 "về tổ chức Toà án và các ngạch Thẩm phán" thì "Tại phiên toà Thẩm phán xét xử một mình" hay "Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù là ngày chủ nhật hay ngày lễ cũng được. Lại có thể, nếu cần đến, mở phiên toà ngoài trụ sở của Toà án, ở các nơi xa cách Toà án" (Điều 10). Các quy định này được ban hành trong bối cảnh khi mà Toà án sơ cấp (ở mỗi quận, phủ, huyện, châu thời kỳ đó có một Toà án sơ cấp) chỉ có một Thẩm phán, một lục sự và một hay nhiều Thư ký giúp việc (Điều 9). Như vậy, phải chăng "Thẩm phán" trong thời kỹ này được xác định đồng nghĩa với "Toà án", do đó việc xác định thẩm quyền của Thẩm phán cũng là xác định thẩm quyền của Toà án. Đương, nhiên theo cách hiểu của chúng tôi thì về mặt nào đó đây là một quy định mang tính chất song trùng. Một mặt có thể hiểu đó là nhiệm vụ của Toà án, mặt khác, theo chính nghĩa đen của nó, là nhiệm vụ, quyền hạn của chính Thẩm phán, bởi vì trong chính Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 lại có quy định về trách nhiệm hay tiêu chuẩn của người Thẩm phán như: "Thẩm phán không thể lấy cớ gì, ngoài trường hợp cáo tỵ, hồi tỵ mà từ chối không xét xử một việc nào" (Điều 80); "Các Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên toà, xét xử thật nhanh chóng và công minh" (Điều 83); "Thanh liêm là một đức tính thiêng liêng của Thẩm phán Việt nam ngày nay" (Điều 83, điểm 2); "Trong đời tư cũng như đời công, các Thẩm phán phải cư xử đúng mực và biết tự trọng để giữ thanh danh và phẩm cách một vị quan toà" (Điều 84) hay "Các Thẩm phán phải... trung thành với chính thể dân chủ cộng hoà" (Điều 85)... Ngoài ra theo tinh thần quy định tại điều 3 Sắc lệnh này (nói về quyền hạn của Ban Tư pháp xã), Thì Ban Tư pháp xã có quyền "thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên", cũng thể hiện rằng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán được xác định và độc lập với nhiệm vụ của Toà án, nghĩa là ngoài việc ra bản án, quyết định theo thẩm quyền của Toà án, Thẩm phán còn có thẩm quyền ra các quyết định khác.

* Theo Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 về ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án, thì khi quy định về nhiệm vụ của ông Chánh án, có phân biệt rõ: "Ông có thể uỷ thác các ông Thẩm phán một phần các vụ kiện mà ông đã thụ lý. Tuy thế, các Thẩm phán... được tự do định đoạt trong các việc xét xử thuộc phạm vi của mình". Theo quy định này, mọi hoạt động của Toà án đều do Chánh án điều khiển và kiểm soát, nhưng khi Chánh án đã giao cho Thẩm phán giải quyết một vụ án nào đó, thì Thẩm phán có đầy đủ quyền hạn như chính ông Chánh án trong phạm vi giải quyết vụ án đó.

* Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 có quy định: "Toà án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, Toà án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Toà án nhân dân có thể xử không có Hội thẩm nhân dân" (Điều 12). Về việc Toà án nhân dân xét xử sơ thẩm không có Hội thẩm nhân dân theo quy định này, Thông tư số 2421/TC ngày 29-12-1961 của Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn thực hiện chế độ Hội thẩm nhân dân" có nêu rõ: "Khi xử sơ thẩm mà không có Hội thẩm nhân dân tham gia thì người ngồi xử chỉ là một Thẩm phán, những trường hợp này phải do Uỷ ban Thẩm phán (ở Toà án nhân dân thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh hoặc đơn vị hành chính tương đương) họăc Chánh án (ở thị xã, huyện, khu phố) quyết định". Thực tế, việc xét xử sơ thẩm không có Hội thẩm nhân dân tham gia thường được áp dụng trong việc giải quyết các vụ thuận tình ly hôn. Khi việc giải quyết các vụ thuận tình ly hôn do một Thẩm phán tiến hành đã trở thành phổ biến thì Thông tư số 03 ngày3-3-1966 của Toà án nhân dân tối cao đã mở rộng hơn thủ tục này, trong đó quy định: Chánh án hoặc Thẩm phán có quyền quyết định những biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi hỏi ý kiến của chính quyền cơ sở, mà không bắt buộc phải cùng hội thẩm nhân dân quyết định" (Điều 2, Mục II).

Cần nói thêm rằng, trong giai đoạn này Hiến pháp năm 1959 chưa quy định nguyên tắc "Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số" như đã được quy định tại điều 132 Hiến pháp năm 1980 (được Quốc hội thông qua ngày 18-12-1980), do đó việc Thẩm phán được một mình xét xử sơ thẩm vụ án đã được chấp nhận. Tuy chỉ được áp dụng trong một phạm vi hạn chế, nhưng một mặt không những nó thể hiện được vị trí, vai trò của Thẩm phán, mà còn xác định phần nào nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng, mặt khác, nó thực sự thúc đẩy được công tác giải quyết án kiện của Toà án trong những năm qua và tạo một cơ sở thực tiễn cho việc giải quyết án kiện của Toà án trong trường hợp các bên đương sự có thể thoả thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp giữa họ, hoặc trong một số trường hợp khác như giải quyết các loại việc dân sự, kinh tế, lao động, hành chính... mà không có tranh chấp.

* Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức toà án năm 1992, Pháp lệnh thẩm phán hội thẩm nhân dân 1993 qui định cụ thể về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của toà án đặc biệt là nhiệm vụ quyền hạn của thẩm phán. Ngoài những nhiệm vụ cụ thể, trong phạm vi quyền hạn của mình Thẩm phán toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nứơc, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, đây là những nhiệm vụ chính của toà án nhân dân mà thực hiện trực tiếp là những thẩm phán trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Người thẩm phán phải đảm bảo cho hoạt động xét xử của mình được tiến hành theo đúng qui định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử những vụ án hình sự toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật cuả vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; làm rõ chứng cứ xác định bị cáo có tội hoặc vô tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo. Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1992 còn qui định bằng hoạt động của mình toà án nhân dân góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những qui tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm. Toà án nhân dân còn phối hợp với các cơ quan Nhà nước để phát huy tác dụng giáo dục của phiên toà. Với các nguyên tắc xét xử của toà án được qui định tại phiên toà, đó cũng là những nguyên tắc người thẩm phán phải thực hiện giúp cho toà án xét xử công minh, chính xác, khách quan và phát huy tác dụng giáo dục của phiên toà giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật.

III. Thực trạng quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong giai đoạn hiện nay.

3.1. Thực trạng quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương.

3.1.1. Về đội ngũ thẩm phán

Tính đến tháng 9-1999 số lượng thẩm phán toà án nhân dân địa phương có:

- Thẩm phán cấp tỉnh gồm 925 người, trong đó 50 Chánh án, 10 Quyền Chánh án (một tỉnh chưa bổ nhiệm được Chánh án), 107 Phó Chánh án;

- Thẩm phán cấp huyện: 2.218 người, trong đó có 545 Chánh án, 51 Quyền Chánh án (15 huyện chưa bổ nhiệm được Chánh án),

- Thẩm phán toà án quân sự: 108

Như phần trên đã trình bày, theo quy định của Pháp luật các Toà án của nước ta được tổ chức theo địa giới hành chính từ cấp huyện trở lên. Do đó, các Toà án địa phương trên toàn quốc 61 Toà án cấp tỉnh và hơn 600 Toà án cấp quận, huyện với 3.143 thẩm phán đương nhiệm trong tổng số 3515 biên chế được phân bổ. Nhìn chung, đội ngũ Thẩm phán và các cán bộ của Toà án nhân dân địa phương đã có bước phát triển và ổn định hơn các năm trước đây, với 925 Thẩm phán cấp tỉnh và 2.218 Thẩm phán cấp huyện được bổ nhiệm theo đúng quy định của pháp luật, bước đầu bảo đảm hoàn thành được nhiệm vụ xét xử của các Toà án nhân dân. Tuy nhiên, so với số lượng được phân bổ thì đội ngũ Thẩm phán còn thiếu 193 người ở cấp tỉnh và 720 người ở cấp huyện, nhưng tình trạng đó không phải ở hầu khắp mà chủ yếu tập trung ở một số vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, các địa phương mới chia tách.

Khó khăn hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Toà án địa phương là tình hình thiếu Thẩm phán so với số lượng được phân bổ. Trình độ, phẩm chất của Thẩm phán cũng chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử. Người cán bộ có đủ tiêu chuẩn để tuyển dụng vào làm việc cho các Toà án, nhất là đối với các Toà án cấp huyện ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, còn rất khó khăn do chính sách đào tạo chung còn chưa hợp lý. Chế độ chính sách đối với cán bộ viên chức nói chung, cũng như đối với cán bộ Toà án nói riêng chưa đáp ứng được các nhu cầu của đời sống, phần nào ảnh hưởng đến trách nhiệm và hậu quả công tác...

Qua xem xét, nghiên cứu thực tế cho thấy, số lượng Thẩm phán hiện có của các Toà án địa phương chỉ bảo đảm được việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hôn nhân và gia đình. Do đó, với việc thành lập Toà Hành chính, Toà Lao động và yêu cầu, cải cách đổi mới các cơ quan Tư pháp theo hướng phân định lại thẩm quyền xét xử của Toà án, các Toà án địa phương chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn về tổ chức, cán bộ trong giai đoạn tới. Vì vậy, việc nghiên cứu, tiếp tục cải tiến công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức để làm sao cho từng cấp Toà án có đủ điều kiện cần thiết cả về tổ chức, bộ máy, kinh phí hoạt động và đội ngũ cán bộ, bảo đảm thực hiện chức năng hiến định của mình, là hết sức cần thiết và phải được xem xét, giải quyết một cách tổng thể, toàn diện và có hệ thống.

Tuy số lượng thẩm phán chưa đủ so với quy định nhưng với sự cố gắng nỗ lực của đội ngũ thẩm phán và cán bộ các toà án địa phương, sự hỗ trợ của các cấp, các ngành và sự điều động, bố trí hợp lý đội ngũ thẩm phán hiện có, đồng thời được bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời nên hầu hết các toà án địa phương đã giải quyết án đạt tỷ lệ cao và chất lượng xét xử tương đối tốt.

Tình trạng thiếu thẩm phán đòi hỏi cần phải khẩn trương tìm nguồn cán bộ và có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng hợp lý để bổ sung đủ số thẩm phán. Nhưng khách quan mà đánh giá thì số lượng thẩm phán thiếu hiện nay chưa phản ánh thực chất nội tại của việc thiếu thẩm phán, bởi vì căn cứ vào số lượng án xét xử hàng năm thì ngoài một số tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ... có tỷ lệ giải quyết án bình quân cao, còn lại khá nhiều địa phương bình quân án xét xử thấp, chỉ từ 2 đến 3 vụ trên tháng, cá biệt có nơi chưa đến 1 vụ/ tháng.

Từ thực trạng trên cần sớm có sự khảo sát kiểm tra thực tế để xây dựng định mức xét xử phù hợp và có kế họach điều chỉnh phân bổ thẩm phán cũng như cán bộ toà án nói chung cho hợp lý.

3.1.2. Về cơ chế quản lý thẩm phán

Trên cơ sở Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết 34 ngày 29-4-1993 ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Bộ trưởng Bộ tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra quyết định 91 ngày 19-1-1994 quy định việc phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án tỉnh về quản lý Toà án nhân dân cấp huyện về mặt tổ chức.

Quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức là một hình thức quản lý Nhà nước, có nội dung là xây dựng các điều kiện cần thiết để cơ quan xét xử đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc: "Khi xét xử thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật". Những điều kiện đó chính là: cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, trụ sở làm việc, kinh phí và các phương tiện hoạt động cho các Toà án nhân dân địa phương mà các cơ quan quản lý nhà nước phải thực hiện.

Với khái niệm quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức như trên và theo quy định của pháp luật thì quản lý Toà án là hình thức quản lý Nhà nước có tính đặc thù riêng biệt, không theo hệ thống ngành dọc, mà theo cơ chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Cơ chế này xuyên suốt các lĩnh vực quản lý tòa án, trọng tâm là quản lý đội ngũ thẩm phán mà nội dung của nó bao gồm: bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển, điều động, kỷ luật thẩm phán.

- Về bổ nhiệm thẩm phán: theo quy định hiện hành về quy trình bổ nhiệm thẩm phán phải căn cứ vào tiêu chuẩn đã được quy định, phải rà soát, đánh giá cán bộ, lấy phiếu tín nhiệm, trao đổi thống nhất với cấp uỷ địa phương... lập hồ sơ đưa ra Hội đồng tuyển chọn thẩm phán quyết định và đề nghị lên cấp trên.

- Về thuyên chuyển, điều động, miễn nhiệm cán bộ cũng phải theo thủ tục chặt chẽ như có ý kiến của người được điều động (phải có đơn xin miễn nhiệm); có sự thống nhất của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao (đối với thẩm phán cấp tỉnh), của Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án tỉnh (đối với thẩm phán cấp huyện); có sự nhất trí của cấp uỷ địa phương nơi đi và đến...

- Về kỷ luật thẩm phán: ngoài hình thức cách chức thẩm phán do Chủ tịch nước thực hiện, còn các hình thức kỷ luật khác như khiển trách, cảnh cáo, buộc thôi việc đối với thẩm phán đều áp dụng theo quy định chung đối với công chức, viên chức nhà nước.

- Về thủ tục cách chức thẩm phán: phải có bản tự kiểm điểm của thẩm phán, có nghị quyết, biên bản họp kiểm điểm của đơn vị, biên bản của Hội đồng kỷ luật, có ý kiến bằng văn bản của cấp uỷ... Nghị quyết của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán và tờ trình lên cấp trên.

Quá trình thực hiện cơ chế phối hợp trên cho thấy: cơ chế này có ưu điểm là có nhiều cơ quan cùng nhau xem xét, quyết định một vấn đề sẽ chặt chẽ, đúng đắn và khách quan, tránh sự tuỳ tiện, độc đoán trong việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ. Nhưng cơ chế này cũng còn bộc lộ những bất cập, có lúc, có nơi ý kiến không thống nhất giữa các cơ quan hữu trách dẫn đến tình trạng chậm chạp, ách tắc trong quá trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động thẩm phán. Và xung quanh vấn đề này cũng có nhiều ý kiến khác nhau cần tiếp tục nghiên cứu, để điều chỉnh, sửa đổi cho hợp lý.

3.1.3. Nội dung quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương theo pháp luật hiện hành.

Theo quy định tại Điều 16 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Nghị định số 38/CP ngày 04 tháng 06 năm 1993 của Chính phủ về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tư pháp thì việc quản lý Thẩm phán các Toà án nhân dân địa phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, cụ thể là:

- Trình Chính phủ quyết định tổng biên chế của các Toà án địa phương sau khi thống nhất ý kiến với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; quy định biên chế cho từng Toà án địa phương sau khi trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

- Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và cán bộ Toà án địa phương; hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra và giải quyết việc thực hiện các chế độ, chính sách đó.

- Sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội quyết định danh sách các thành viên Hội đông tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực; xem xét và đề nghị bổ nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định.

- Trong phạm vi chức năng kiểm tra hoạt động của Toà án địa phương thực hiện chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với tập thể, cá nhân của Toà án địa phương.

- Thống nhất quản lý việc bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ Toà án.

- Thanh tra việc thực hiện chế độ chính sách, pháp luật của cơ quan tổ chức và cá nhân trong phạm vi chức năng của Bộ ( trong đó có các Toà án và cán bộ Toà án địa phương ).

Ngoài ra, theo quy định Luật tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh tổ chức các Toà án quân sự và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Bộ trưởng Bộ Tư pháp còn có các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn:

- Quyết định việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án nhân dân địa phương này đến Toà án nhân dân địa phương khác cùng cấp;

- Quyết định danh sách các thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

- Xem xét và đề nghị miễn nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực để Chủ tịch nước quyết định;

- Xem xét và đề nghị bổ nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực để Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định;

Từ chức năng, nhiệm vụ nêu trên của Bộ Tư pháp, chúng ta có thể thấy nội dung quản lý Thẩm phán của Bộ Tư pháp đối với các Thẩm phán Toà án địa phương khá toàn diện, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sau đây:

- Bảo đảm cơ cấu tổ chức, bộ máy, biên chế, đội ngũ Thẩm phán của Toà án địa phương ổn định và phát triển đáp ứng yêu cầu hoạt động xét xử.

- Bảo đảm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán Toà án địa phương.

- Bảo đảm chính sách đối với Thẩm phán, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc cho các Toà án địa phương phù hợp với đặc thù của hoạt động xét xử.

Riêng việc hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với việc xét xử từng vụ án cụ thể, do yêu cầu bảo đảm nguyên tắc "độc lập và tuân theo pháp luật" của Thẩm phán và Hội thẩm; nên pháp luật không quy định cho cơ quan nào thực hiện. Toà án nhân dân tối cao, trong phạm vi chức năng luật định của mình chỉ có nhiệm vụ, quyền hạn hướng dẫn Toà án các cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật và tổng kết kinh nghiệm xét xử nói chung, mà không thể chỉ đạo việc xét xử bất cứ vụ án nào thuộc thẩm quyền của các Toà án khác. Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức cũng không có thẩm quyền này. Đây chính là điểm đặc thù trong nội dung quản lý đối với Thẩm phán các Toà án địa phương.

- Xét về chức năng, nhiệm vụ quản lý đồng thời đối chiếu với các nguyên tắc quản lý cán bộ của Đảng đối với việc quy hoạch, nhận xét, đề bạt, kỷ luật, thuyên chuyển cán bộ và các quy định của pháp luật, chúng ta có thể thấy cơ chế quản lý Thẩm phán Toà án địa phương là một cơ chế hỗn hợp. Cụ thể, trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình, Bộ trưởng bộ Tư pháp mặc dù là chủ thể quản lý, chịu trách nhiệm trước nhà nước về công tác quản lý Thẩm phán Toà án địa phương, nhưng không được quyết định tất cả, mà chỉ là phần lớn công việc thuộc nội dung quản lý. Ví dụ, các vấn đề về số lượng Thẩm phán, biên chế, chế độ lương, trang phục, giấy chứng minh Thẩm phán, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án địa phương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước xem xét, quyết định.

Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý có hiệu quả, bảo đảm được nội dung, mục tiêu quản lý, thì việc sắp xếp bộ máy, cán bộ phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý một cách khoa học, hay nói một cách khác là xác lập một cơ chế (thể chế) quản lý hợp lý là một yếu tố quan trọng. Đối với việc quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, theo quy định 38-CP ngày 04 tháng 06 năm 1993 của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có bộ máy giúp việc trực tiếp là Vụ quản lý Toà án địa phương và Vụ kế hoạch - tài chính (phần bảo đảm quản lý kinh phí của Toà án địa phương) và một số tổ chức, bộ máy khác có liên quan gián tiếp đến công tác này như Vụ tổ chức - cán bộ, Trường Đại học Luật, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ, Vụ pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế. Ngoài ra, trong hệ thống tổ chức tư pháp ở địa phương, các Sở tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, được phân công quản lý Thẩm phán các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh theo sự phân cấp của. Bộ Tư pháp và chịu sự quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ trong lĩnh vực này. Riêng đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh, tuy là đối tượng quản lý, nhưng Chánh án Toà án tỉnh cũng được Bộ Trưởng Bộ Tư pháp uỷ quyền thực hiện một số mặt công tác trong quản lý đối với cán bộ Toà án cấp mình.

Xét về mặt phân công nhiệm vụ và trách nhiệm có thể thấy:

 

Về quản lý tổ chức, cán bộ:

- Vụ quản lý Toà án địa phương chịu trách nhiệm chung trong việc bảo đảm xây dựng, tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ Toà án địa phương nói chung, đồng thời trực tiếp giải quyết các vấn đề có liên quan đến các đối tượng là Thẩm phán tỉnh, chuyên viên chính, Thẩm tra viên chính trở lên (Trừ các lĩnh vực về tổ chức, cán bộ thuộc đặc thù quản lý của Bộ Quốc phòng đối với cán bộ Toà án quân sự quân khu, khu vực).

- Vụ Tổ chức cán bộ và trường Đại học Luật có trách nhiệm phối hợp và thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Toà án.

- Thanh tra Bộ chịu trách nhiệm thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các Toà án địa phương, phối hợp giải quyết đơn thư khiếu tố, khiếu nại, đối với cán bộ Toà án địa phương.

Vụ pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế có trách nhiệm hợp tác quốc tế về trao đổi kinh nghiệm, học tập, tham quan khảo sát Toà án nước ngoài đối với các Toà án địa phương.

- Các Sở Tư pháp được phân cấp và chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ các vấn đề về tổ chức, cán bộ của Toà án nhân dân cấp huyện, kể cả việc đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án - Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh được uỷ quyền quản lý cán bộ và một số việc về tổ chức, cán bộ có liên quan của Toà án cấp mình (trừ việc thuyên chuyển, quyết định nâng lương, giải quyết chế độ đối với Thẩm phán, quản lý Thẩm tra viên chính, chuyên viên chính ).

Về kinh phí:

- Vụ kế hoạch - tài chính được giao trực tiếp quản lý kinh phí của các Toà án địa phương (trừ Toà án quân sự).

- Đối với các Sở Tư pháp tuy không được giao quản lý trực tiếp kinh phí của Toà án cấp huyện, nhưng có trách nhiệm giám sát việc sử dụng kinh phí của các Toà án này.

Qua thực tiễn quản lý cho thấy, về lĩnh vực quản lý tổ chức, cán bộ đối với các Toà án địa phương, sự phân công, phân nhiệm các nhiệm vụ, trách nhiệm quản lý (hay còn gọi là cơ chế quản lý) nói trên là tương đối hợp lý, tránh được hiện tượng các cơ quan lãnh đạo quản quá nhiều, quản không tốt, quản không nổi những việc không đáng quản hoặc để các đơn vị quản lý ở cơ sở thiếu quyền tự chủ, năng động trong công việc. Vấn đề còn tồn tại trong lĩnh vực này là năng lực cán bộ làm công tác quản lý còn hạn chế, sự phân công quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm đến từng cán bộ từng cán bộ quản lý còn chưa cụ thể, phần nào hạn chế đến hiệu quả và hiệu lực quản lý. Ngoài ra, vấn đề làm rõ ranh giới phạm vi quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác giữa Vụ quản lý Toà án với các đơn vị khác có liên quan của Bộ, giữa Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án quân sự địa phương cần sớm được quy định hoặc hướng dẫn thực hiện một cách chi tiết, cụ thể. Đối với lĩnh vực quản lý kinh phí các Toà án địa phương, cơ chế quản lý hầu như trái ngược với cơ chế quản lý trong lĩnh vực tổ chức cán bộ. Thông thường, trong các lĩnh vực quản lý, quyền hạn và trách nhiệm phải gắn với nhau. Do đó việc phân công trách nhiệm và quyền hạn của các Sở Tư pháp trong lĩnh vực quản lý này cần được nghiên cứu, xem xét, để làm sao huy động được tính tích cực của các tổ chức quản lý ở cơ sở.

3.1.4. Về thẩm quyền và phương thức quản lý Thẩm phán toà án địa phương trong giai đoạn hiện nay.

Như phần trên đã phân tích, việc quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức chính là hoạt động quản lý hành chính nhà nước đối với các Toà án địa phương. Để đạt được mục tiêu quản lý, hoạt động này cần được tiến hành trong một môi trường (cơ chế) và thể chế hành chính nhất định.

Từ chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, có thể thấy nội dung quản lý của Bộ Tư pháp đối với thẩm phán Toà án địa phương khá toàn diện, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sau đây: về số lượng Thẩm phán, biên chế, chế độ lương, trang phục, giấy chứng minh Thẩm phán, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyển, cách chức Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án địa phương.

Bên cạnh đó, nhiều vấn đề quan trọng thuộc nội dung quản lý thẩm phán Toà án địa phương khi thực hiện Bộ trưởng Bộ Tư pháp phải thống nhất hoặc trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng như quy chế phối hợp ban hành kèm theo Nghị quyết 46 NQ/UBTVQH ngày 29 tháng 09 năm 1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quy định. Thực tế cho thấy Chủ tịch nước, Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ quốc phòng và các cấp uỷ Đảng địa phương, tuy không là chủ thể quản lý đối với Thẩm phán Toà án địa phương nhưng có ảnh hưởng ràng buộc nhất định trong việc thực hiện công tác này.

Cơ chế quản lý nói trên, một mặt, có ưu điểm tạo ra sự chặt chẽ trong công tác quản lý của Bộ Tư pháp, nhưng mặt khác, phần nào hạn chế tính chủ động, nhanh nhạy, thông suốt trong việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về tổ chức, cán bộ đối với các Toà án địa phương khi cần thiết. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu kỹ hơn để xây dựng các cơ sở khoa học nhằm tạo ra một cơ chế quản lý thẩm phán Toà án địa phương hợp lý, chặt chẽ, năng động, bảo đảm đạt được mục tiêu quản lý là xây dựng các Toà án địa phương vững mạnh, trong sạch, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Đối với việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức nói chung và quản lý thẩm phán nói riêng, theo quy định 38-CP ngày 04 tháng 06 năm 1993 của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có bộ máy giúp việc trực tiếp là Vụ quản lý Toà án địa phương và vụ kế hoạch - tài chính (phần bảo đảm quản lý kinh phí của Toà án địa phương) và một số tổ chức, bộ máy khác có liên quan gián tiếp đến công tác này như Vụ tổ chức - cán bộ, Trường Đại học Luật, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ, Vụ. pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế. Ngoài ra, trong hệ thống tổ chức tư pháp ở địa phương, các Sở tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, được phân công quản lý các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh về mặt tổ chức theo sự phân cấp của. Bộ Tư pháp và chịu sự quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ trong lĩnh vực này.Riêng đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh, tuy là đối tượng quản lý, nhưng Chánh án Toà án tỉnh cũng được Bộ Trưởng Bộ Tư pháp uỷ quyền thực hiện một số mặt công tác trong quản lý đối với cán bộ Toà án cấp mình.

Theo quy định tại Điều 16 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Cụ thể hóa quy định này, ngày 29/9/1993 UBTV Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/UBTVQH ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực. Trên cơ sở Nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế số 91/TP-TA ngày 19/1/1994 về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý Tòa án nhân dân cấp huyện về mặt tổ chức.

Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ra quyết định phân cấp quản lý về tổ chức các Tòa án nhân dân cấp huyện đối với Giám đốc Sở Tư pháp và quyết định ủy quyền cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Một trong những văn bản có tính quan trọng đó là Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân - quy định các tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm Thẩm phán và bầu Hội thẩm nhân dân.

Những văn bản trên đây là những căn cứ pháp lý cơ bản nhằm thực hiện việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức có hiệu quả và đi vào nề nếp mà trong đó các quy định về mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương. Và cơ quan chủ quản quản lý có trách nhiệm chính trong mối quan hệ phối hợp với các cơ quan khác như với Quốc hội, với Chủ tịch nước, với Tòa án nhân dân tối cao, với Tỉnh ủy, Thành ủy đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Giám đốc Sở Tư pháp, huyện ủy đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện. Như vậy, về vấn đề này có thể nhận thấy rằng nó là một cơ chế phối hợp cụ thể như sau:

3.1.4.1. Trong việc thực hiện chế định bổ nhiệm:

Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân quy định rõ các tiêu chuẩn cụ thể về phẩm chất chính trị đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quá trình về thời gian công tác trong ngành pháp luật... của người Thẩm phán và trước khi được Chủ tịch nước ra quyết định bổ nhiệm làm Thẩm phán người đó phải được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xét chọn và đề nghị. Để có một đội ngũ Thẩm phán có năng lực, có trình độ chuyên môn vững vàng, có đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, có kinh nghiệm sống phong phú, phẩm chất đạo đức, chính trị tốt nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc Hiến định: "khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" và các phán quyết của Thẩm phán đảm bảo sự công minh, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật thì việc xét chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ và phải được sàng lọc một cách kỹ lưỡng và phải được nhiều ngành, nhiều cấp tham gia, giám sát.

Để giúp Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân, ở mỗi cấp đều có Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, pháp lệnh đã quy định: ở Trung ương thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực; ở các cấp tỉnh thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện, quận thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thành phần, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp được quy định tại Điều 21, 22, 23 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cũng được quy định cụ thể tại Thông tư số 05/TTLN của liên ngành Toà án nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm và Hội thẩm Tòa án nhân dân.

Việc quy định thành phần như vậy thể hiện tính dân chủ, khách quan sự tham gia của các cơ quan, tổ chức xã hội, đoàn thể và tầng lớp nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua người đại diện trong việc tuyển chọn ra người xứng đáng giữ cán cân công lý. Mặt khác, quy định này cũng xác định vai trò và trách nhiệm của các cơ quan tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cụ thể là Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, ủy ban Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam đối với Thẩm phán cấp tỉnh; Tòa án nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội luật gia tỉnh, ủy ban mặt trận Tổ quốc tỉnh đối với Thẩm phán cấp huyện.

Công tác bổ nhiệm Thẩm phán không nằm ngoài công tác quản lý cán bộ của Đảng, theo phân cấp quản lý cán bộ của Đảng hiện nay thì Tỉnh ủy chỉ có ý kiến đối với Chánh án, Phó Chánh án cấp tỉnh nhưng đối với cán bộ cơ quan Tòa án mang tính đặc thù là chỉ có Thẩm phán mới được xét xử các vụ án, do vậy không chỉ Chánh án, Phó Chánh án mà cả Thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm nên việc chuẩn bị nhân sự để đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cần được sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng.

Ngày 18/3/1994, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị số 36/CP-Tư về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân, Thẩm phán Tòa án quân sự các cấp. Theo yêu cầu của Chỉ thị thì hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện phải do Huyện ủy, Quận ủy....chỉ đạo và có ý kiến. Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải có ý kiến của Tỉnh ủy, Thành ủy; đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương ý kiến của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao, Đảng ủy quân sự Trung ương. Cũng theo yêu cầu của Chỉ thị thì việc xét tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cần chú ý trước tiêu chuẩn về chính trị và phẩm chất đạo đức (trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực).

Như vậy, có thể tóm tắt quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của pháp luật hiện hành như sau:

- Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, Ban cán sự Đảng Sở Tư pháp, Tòa án nhân dân tỉnh cùng Huyện ủy, thống nhất danh sách, hồ sơ đề nghị trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện. Đối với Thẩm phán cấp tỉnh Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao cùng Tỉnh ủy, Thành ủy thống nhất danh sách hồ sơ trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh xét chọn.

- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh, trên cơ sở các quy định của pháp luật đối với tiêu chuẩn của Thẩm phán, xét chọn những người có đủ năng lực, trình độ chuyên môn đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán đối với các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố thuộc Trung ương, Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực.

- Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện xét chọn, đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.

- Chủ tịch nước xem xét đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, ra quyết định bổ nhiệm.

Chế định bổ nhiệm Thẩm phán đảm bảo cho Nhà nước lựa chọn được người có đủ điều kiện về trình độ chuyên môn nghiệp vụ pháp lý thực hiện chức năng xét xử của Tòa án. Mặt khác Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện tích lũy kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn và ý thức pháp luật và trách nhiệm cá nhân, đồng thời xác định các cơ quan Đảng, Nhà nước có trách nhiệm trong việc thực hiện chế định này. Một đặc điểm quan trọng của chế định này là đảm bảo thực hiện được nguyên tắc: "khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp luật", khắc phục được những nhược điểm trong chế định bầu trước đây.

3.1.4.2. Trong việc thực hiện miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán.

Việc miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán do Chủ tịch nước quyết định và cũng phải qua một trình tự, thủ tục giống như trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán.

Theo các quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì Chủ tịch nước ra quyết định miễn nhiệm, cách chức đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, quận, Tòa án quân sự cấp quân khu, Toà án quân sự khu vực theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án tòa án nhân dân tối cao.

Tuy nhiên, trên thực tế chế định này, trước khi đề nghị Chủ tịch nước miễn nhiệm chức vụ Thẩm phán đối với một người nào đó cần xác định rõ lý do miễn nhiệm (do yêu cầu quy hoạch cán bộ ở địa phương để giữ chuyển sang cơ quan khác hoặc do sức khỏe, hay trình độ non kém không thể đảm nhiệm được nhiệm vụ...) và phải có đơn xin miễn nhiệm Thẩm phán, ý kiến của cấp ủy Đảng địa phương nơi người đó công tác. Đối với việc cách chức Thẩm phán ngoài việc phải tuân theo các nguyên tắc nêu trên, hồ sơ đối với người bị cách chức phải có bản tự kiểm điểm về những hành vi vi phạm kỷ luật, biên bản của Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi người Thẩm phán công tác. Một yếu tố bắt buộc đối với việc cách chức chức vụ Thẩm phán là phải được Hội đồng tuyển chọn thông qua và đề nghị.

3.1.4.3. Trong việc điều động, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán.

Theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân thì việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân này đến Tòa án nhân dân khác cùng cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện sau khi thống nhất với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Theo quy định này đã xác định rõ thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng như của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán. Trên thực tế thì vấn đề này được thực hiện một cách chặt chẽ, cụ thể như sau:

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân tỉnh này đến Tòa án nhân dân tỉnh khác trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán hiện đang công tác và ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến Tòa án nhân dân huyện khác trong cùng một tỉnh trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh có sự thống nhất của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Tòa án nhân dân huyện này đến tòa án nhân dân huyện khác (không cùng một tỉnh) trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp ủy Đảng, ý kiến của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh nơi Thẩm phán đang công tác và nơi Thẩm phán sẽ chuyển đến.

Đánh giá chung

Nhìn vào chất lượng đội ngũ Thẩm phán ở cấp huyện cũng như Toà án tỉnh, chúng tôi thấy rằng: trong những năm qua Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân các cấp đã thực sự cố gắng trong việc bồi dưỡng về nghiệp vụ pháp lý cho cán bộ Toà án và đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Song nhìn chung đội ngũ Thẩm phán các cấp về cơ bản và phần đông không được đào tạo chính quy. Đa phần học qua các lớp hệ đại học tại chức và luân huấn, có những đồng chí theo yêu cầu bức xúc của các thời kỳ khác nhau nên được điều chuyển từ các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng hoặc các ngành khác sang làm cán bộ xét xử, thậm chí làm Chánh, Phó Toà án nhân dân cấp huyện. Từ thực tế này, có thể nói rằng, trình độ chuyên môn của các Thẩm phán ở mỗi cấp còn nhiều hạn chế và chưa thực sự đồng đều, kiến thức pháp lý, kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều đồng còn hạn chế, khả năng đảm đương công tác xét xử chưa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của tình hình phức tạp trong các mối quan hệ pháp lý trên lĩnh vực dân sự cũng như hình sự hiện nay. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng án phải cải sửa, huỷ ở các cấp phúc thẩm cũng như giám đốc thẩm chiếm tỷ lệ cao ở cả Toà án nhân dân cấp huyện cũng như Toà án nhân dân cấp tỉnh trong những năm qua.

Đối với công tác tổ chức cán bộ cũng như việc quản lý về tổ chức đối với Toà án địa phương hiện tại cũng còn nhiều bất cập. Việc điều chỉnh bố trí, cán bộ ở các Toà án nhất là đội ngũ Thẩm phán, cán bộ lãnh đạo còn quá chậm và không kịp thời. Thực tế trong những năm qua có nhiều huyện 2-3 năm liền không có Chánh án như Lục Nam, Yên Thế, Tân Yên. Thậm chí như Toà án nhân dân huyện Tân Yên: một đồng chí Thẩm phán được giao quyền phụ trách cơ trong suốt thời gian dài, chính vì vậy đã gây không ít khó khăn cho hoạt động nghiệp vụ của các đồng chí Thẩm phán ở các Toà án đó.

Việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng còn nhiều điều chưa thật sự hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác xét xử hiện nay. Những vấn đề đó là:

- Quy định về chức năng, nhiệm vụ của Thẩm phán chỉ bó hẹp ở một địa phương được bổ nhiệm là không hợp lý và thực sự gây khó khăn cho việc điều chuyển Thẩm phán từ địa phương này đến địa phương khác theo yêu cầu của tổ chức cũng như phục vụ nhiệm vụ chung.

- Việc quy định và khống chế nhiệm kỳ của Thẩm phán như hiện nay đã gây nên tâm lý thiếu yên tâm công tác của các đồng chí Thẩm phán. Theo chúng tôi Nhà nước cần xác định đây là một nghề và người đã được bổ nhiệm chức vụ Thẩm phán thì họ chỉ bị cách chức khi họ có vi phạm hoặc tự từ bỏ chức vụ của mình. Có như vậy mới nâng cao được vị trí của các Thẩm phán và đồng thời để họ thực sự yên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình.

- Những quy định về công tác quản lý Toà án địa phương nói chung cũng như đối với đội ngũ Thẩm phán nói riêng như hiện nay còn nhiều điều chưa hợp lý.

Việc phân cấp quản lý Toà án địa phương do Bộ Tư pháp đảm nhiệm như hiện còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết để khẳng định về mô hình và cơ chế quản lý thích hợp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra tâm lý thiếu yên tâm trong công tác của đội ngũ Thẩm phán.

- Về chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với Thẩm phán còn quá thấp (nhất là Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện). Trong những năm gần đây, tuy điều kiện làm việc của các Thẩm phán có được cải thịn chút ít nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự tạo được điều kiện tốt để các Thẩm phán thật sự tận tâm, tận lực cho công tác xét xử. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công việc gây nên những tiêu cực trong hoạt động xét xử của các Thẩm phán.

3.2. Những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý thẩm phán.

Như trên đã phân tích, việc quản lý Thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian qua đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động xét xử khách quan, chí công vô tư của các Toà án địa phương; đảm bảo nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong công tác này theo chúng tôi còn một số hạn chế cụ thể trên các lĩnh vực sau:

Về Hội đồng tuyển chọn thẩm phán: nên chăng trong Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cần tăng thêm thành phần là những nhà chuyên môn cao để có những nhận xét đánh giá đúng đắn về năng lực chuyên môn của người được bổ nhiệm thẩm phán.

Về thủ tục bổ nhiệm: Hiện nay việc bổ nhiệm thẩm phán các cấp đều do Chủ tịch nước thực hiện, công việc quá nhiều và mang tính chất sự vụ hành chính, nhiều ý kiến đề nghị nên phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán, có thể thực hiện như trước đây được quy định tại Sắc lệnh 13 ngày 24-1-1946: Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện.

 

Về miễn nhiệm thẩm phán: Theo quy định hiện thì trong mọi trường hợp thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm, nhiều ý kiến cho rằng quy định như vậy chỉ phù hợp với các trường hợp tự nguyện xin chuyển công tác vì lý do sức khoẻ, hợp lý hoá gia đình... Còn các trường hợp do tổ chức điều động vì nhu cầu công việc hoặc do yêu cầu bố trí cán bộ, kể cả việc bố trí cán bộ vào vị trí cao hơn... nhưng bản thân thẩm phán không tự nguyện, không muốn đi thì đơn tự nguyện là hình thức (đã có trường hợp miễn cưỡng làm đơn xin miễn nhiệm). Do vậy, cần có quy định thủ tục đương nhiệm, miễn nhiệm thì mới phù hợp với thực tế.

Về thủ tục thuyên chuyển, điều động thẩm phán: Theo quy định hiện nay phải có đơn của thẩm phán, có ý kiến thống nhất của cấp uỷ, của Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án tỉnh nơi đi, nơi đến... thủ tục rất rườm rà, nếu có ý kiến không thống nhất là việc điều động chậm chạp, ách tắc làm ảnh hưởng lớn đến việc bố trí thẩm phán giữa các địa phương, nhất là thẩm phán cấp huyện trong cùng tỉnh, nên chăng cần bỏ bớt các thủ tục không cần thiết vì quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán đã được sàng lọc, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi Chủ tịch nước quyết định và cũng bởi lý do Chủ tịch nước bổ nhiệm (hoặc nếu sau này phân cấp giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện) thì người thẩm phán phải tuân theo sự bổ nhiệm, phân công trong địa bàn cả nước, điều này cũng phù hợp với nguyên tắc "khi xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

 

Về chế độ tiền lương: Thực hiện chế độ tiền lương mới, ngạch lương của thẩm phán được Nhà nước quan tâm, hệ số mức lương của ngạch thẩm phán được quy định cao hơn so với mức lương của ngạch hành chính tương ứng. Nhưng về thực chất chỉ có hệ số mức lương của ngạch thẩm phán tỉnh và thẩm phán tối cao là cao hơn một chút so với ngạch lương hành chính tương ứng, còn hệ số mức lương của ngạch thẩm phán huyện là quá thấp và còn có khoảng cách khá xa với ngạch lương thẩm phán tỉnh, đề nghị các cấp có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu xếp lại cho phù hợp.

Về khen thưởng thẩm phán: việc khen thưởng thẩm phán hiện nay được áp dụng chung như đối với công chức, viên chức hành chính khác, nhưng do đặc thù của nghề xét xử có thể nghiên cứu những hình thức khen thưởng thi đua theo nhiệm kỳ thẩm phán hoặc theo chức danh nghề nghiệp như thẩm phán ưu tú, thẩm phán nhân dân.

 

 

IV. Phương hướng và một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian tới.

4.1. Phương hướng kiện toàn việc quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương trong thời gian tới.

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa... Công cuộc đổi mới sâu rộng và đồng bộ trên các lĩnh vực của đất nước đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới hệ thống pháp luật, chức năng, phương thức hoạt động điều hành và quản lý của nhà nước, trong đó có việc đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan Tư pháp, nhất là việc đổi mới, xây dựng đội ngũ thẩm phán ngang tầm với nhiệm vụ mới. Vấn đề này đã được thể hiện và quán triệt rõ trong Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Do đó, Bộ Tư pháp với chức năng, nhiệm vụ được giao trong công tác quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, ngoài trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan, trong việc nghiên cứu, xây dựng Đề án hoàn thiện tổ chức, bộ máy hệ thống các cơ quan xét xử theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp quận, huyện, Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Toà án tối cao chủ yếu xét xử Giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn Toà án địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật như Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 đã đề ra, cần tổ chức triển khai việc nghiên cứu, đề xuất các phương án cải tiến công tác quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho các bước triển khai thực hiện, nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết về đội ngũ cán bộ, trụ sở, kinh phí, phương tiện hoạt động cho các Toà án địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.

Thứ nhất, xuất phát từ tình hình hoạt động và tổ chức của các Toà án địa phương và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam, trước mắt cũng như lâu dài nhiệm vụ đào tạo, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án, xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện kỹ thuật cho công tác xét xử phải được xem là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Tư pháp. Vấn đề này cần được quán triệt đầy đủ thì việc cải tiến công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức mới đạt được hiệu quả.

Thứ hai, việc quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức là một hình thức quản lý hành chính Nhà nước. Do đó, việc cải tiến công tác này phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý Toà án.

Thứ ba, xuất phát từ tình hình tổ chức và hoạt động của công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức, việc cải tiến công tác này cần được xem xét, nghiên cứu một cách tổng thể về cơ chế lẫn tổ chức bộ máy, cán bộ để có thể đề ra các biện pháp giải quyết các vấn đề đang còn tồn tại một cách triệt để.

 

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhất là đội ngũ thẩm phán đủ sức đảm nhiệm và hoàn thành tốt các nhiệm vụ của thời ký mới. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngạch, bậc công chức của Ngành, gắn trách nhiệm với quyền hạn, nhiệm vụ với tuyển dụng và đề bạt qua thi tuyển hoặc kiểm tra sát hạch đối với đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân. Huấn luyện lại và tuyển chọn công chức theo tiêu chuẩn chức danh của người thẩm phán.

Thứ năm, đẩy mạnh việc đào tạo lại đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân địa phương theo kịp trình độ hiện đại. Phấn đấu tất cả Thẩm phán đều đạt tiêu chuẩn quy định cho từng ngạch, từng chức danh thẩm phán. Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh và Toà án cấp huyện; điểu chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọn cho phù hợp tình hình cán bộ hiện nay để bổ sung đủ thẩm phán cho Toà án cấp huyện và Toà án cấp tỉnh;

 

4.2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thẩm phán toà án địa phương trong thời gian tới.

Kiến nghị thứ nhất: Như trên đã phân tích, về tổ chức và hoạt động xét xử của Toà án nhân dân địa phương vừa theo giới địa hành chính (Toà án tỉnh...huyện...) vừa theo thẩm quyền nên về cán bộ bị dàn trải ra khắp các tỉnh huyện... đi liền đó là cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện hoạt động đòi hỏi cần phải đầu tư một lượng ngân sách không nhỏ. Với cách tổ chức Toà án như hiện nay, cán bộ đã thiếu lại càng thiếu, không tập trung được lực lượng cán bộ cũng như về cơ sở vật chất, có không ít Toà án cấp huyện mỗi năm chỉ xét xử 10 - 15 vụ, thậm chí có đơn vị chỉ xét xử 2 - 3 vụ một năm nhưng cũng phải bố trí tối thiểu từ 5, 7 cán bộ, Thẩm phán và xây dựng một trụ sở, cấp phương tiện làm việc... gây tốn kém lãng phí lớn, điều đó chứng tỏ, tổ chức Toà án vừa theo thẩm quyền vừa theo địa giới hành chính là không khoa học.

Để khắc phục những nhược điểm trên đây, chúng tôi đề nghị cần nghiên cứu tổ chức Toà án theo thẩm quyền là: Toà Sơ thẩm, Toà Phúc thẩm, Toà Giám đốc thẩm. Các Toà án cấp tỉnh, huyện hiện nay sẽ tổ chức thành Toà khu vực, có thể một số tỉnh, huyện thành một Toà. Đây là phương án sẽ tập trung toàn diện lực lượng cán bộ, tinh giảm biên chế, cơ sở vật chất. Về giải pháp thực hiện: đưa số Thẩm phán, cán bộ của 3 Toà thẩm Toà án nhân dân Tối cao để tập trung, bổ sung cho Toà án cấp tỉnh; lấy số Thẩm phán, cán bộ cấp tỉnh bổ sung cho Toà án cấp huyện và thu hẹp hàng trăm trụ sở, giảm bớt về chi phí.

Kiến nghị thứ hai: Việc quản lý Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương cần được quy định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan quản lý, cơ quan phối hợp, không nên để như hiện nay, lẫn lộn giữa cơ quan quản lý với cơ quan phối hợp, không hiểu cơ quan nào là chủ thể quản lý? bởi lẽ cơ quan quản lý phải hỏi, chờ đợi ý kiến của cơ quan phối hợp trả lời thì cơ quan quản lý mới được ra văn bản. Như vậy, vấn đề này không phù hợp với thực tiễn cũng như tính khoa học của việc quản lý Nhà nước nói chung và lĩnh vực quản lý Toà án địa phương nói riêng. Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân: " Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp với Chánh án Toà án nhân dân Tối cao ...", việc phối hợp ỏ đây chỉ là biện pháp quản lý có như vậy mới đúng với tính chất quản lý. Để tránh sự chồng chéo trong quản lý, dẫn đến kém hiệu quả, chúng tôi đề nghị bỏ ý cuối của Điều 16 luật tổ chức Toà án nhân dân đã nêu ở trên.

Kiến nghị thứ ba: Cần phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các Sở Tư pháp trong lĩnh vực quản lý toà án, đồng thời phải tăng cuờng thêm công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp, tăng cường số lượng, chất lượng về đội ngũ cán bộ viên chức thừa hành. ở các Sở Tư pháp phải có phòng quản lý Toà án với biên chế từ 05 đến 10 người. Theo đó, đề nghị phân cấp bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Việc bổ nhiệm Thẩm phán huyện không nên ghi rõ Thẩm phán theo đơn vị hành chính mà chỉ ghi là Thẩm phán huyện, thành, thị trong tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Việc phân cấp việc điều động Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án huyện trong một tỉnh giao cho Giám đốc Sở Tư pháp đảm nhiệm sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh.

Kiến nghị thứ tư: Cuối nhiệm kỳ Thẩm phán nên tổ chức việc thi sát hạch công tác quản lý đối với Chánh, Phó án và sát hạch Thẩm phán. Trên cơ sở đó để đề nghị bổ nhiệm nhiệm kỳ tiếp theo. Qua sát hạch nếu năng lực thực tiễn yếu, trình độ không đạt yêu cầu - có thể thôi bổ nhiệm Thẩm phán có như vậy mới tạo cho Thẩm phán rèn luyện, học tập nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ chống tư tưởng bình quân chủ nghĩa, lười học tập, rèn luyện của người Thẩm phán.

Kiến nghị thứ năm: Để Toà án có đủ điều kiện thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành theo quy định của Hiến pháp cũng như Luật tổ chức Toà án, khắc phục những tồn tại và hạn chế trong công tác tổ chức và quản lý đội ngũ Thẩm phán Toà án địa phương, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau:

Phải quan tâm tăng cường đội ngũ Thẩm phán cả về số lượng và chất lượng để lực lượng này thực sự là nòng cốt thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Toà án.

Theo chúng tôi, trước mắt cần tổ chức khảo sát tình hình thực tế ở Toà án các cấp địa phương, căn cứ vào khối lượng công việc, địa bàn và tính chất điều kiện xã hội ở từng địa phương để quy định cụ thể về biên chế cán bộ trong đó có số lượng Thẩm phán cho thích hợp.

Các ngành quản lý về tổ chức Toà án địa phương ở trung ương cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo và nâng cao trình độ pháp lý cũng như trình độ chính trị cho đội ngũ Thẩm phán. Thực tế những năm qua, Bộ Tư pháp cũng như Toà án nhân dân tối cao chưa thực sự tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm phán được đi học các lớp chính trị. Theo chúng tôi cần có một quy định cụ thể về trình độ chính trị của Thẩm phán (ngoài kiến thức pháp lý như quy định hiện nay) có như vậy mới đảm bảo đảm được yêu cầu: liêm chính, trung thực, vô tư và mẫu mực của người Thẩm phán, hạn chế được những hành vi tiêu cực của Thẩm phán trong xét xử.

Kiến nghị thứ sáu: Cần quy định điều kiện để được bổ nhiệm Thẩm phán phải qua đào tạo tại Trường đào tạo các chức danh tư pháp (trong đó có đào tạo Thẩm phán). Bởi vì, thẩm phán là một nghề quan trọng. Theo kinh nghiệm của một số nước và xuất phát từ thực tiễn quản lý đội ngũ Thẩm phán, việc tổ chức nghiệp vụ xét xử, trang bị kỹ năng, rèn luyện đạo đức và phong cách của người Thẩm phán là rất cần thiết, góp phần từng bước chính quy hoá đội ngũ Thẩm phán.

 

Thẩm phán là một nghề đặc thù, có ảnh hưởng lớn đối với tính công minh của pháp luật, uy tín và nền công lý của một Quốc gia. Vì vậy, cũng cần có quy định về danh dự Thẩm phán, tiêu chuẩn đạo đức của người Thẩm phán. Tiêu chuẩn đó cần được quy định rõ ràng, phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của nghề thẩm phán trong xã hội và phải được công bố công khai để nhân dân tham gia giám sát, để tự mỗi một cán bộ cân nhắc và quyết định trước khi bước vào nghề thẩm phán.

Cần nghiên cứu để ban hành Quy tắc đạo đức Thẩm phán, các văn bản hướng dẫn cơ quan Toà án địa phương tổ chức hoạt động xét xử, tiếp công dân, tự học tập bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực công tác của Thẩm phán nói riêng, cán bộ toà án nói chung, nâng cao văn hoá tố tụng để Toà án trở thành niềm tin, chỗ dựa tin cậy của Đảng, chính quyền và nhân dân trong hoạt động áp dụng pháp luật.

Kiến nghị thứ bảy: Cần khảo sát, đánh giá, rút kinh nghiệm thực tế việc thực hiện Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân để sửa đổi, bổ sung những điều bất hợp lý hoặc chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tiễn công tác xét xử hiện nay.

* Theo chúng tôi cần phải cải tiến chế độ tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán bằng việc vẫn duy trì chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, song cần đơn giản về thủ tục tuyển chọn. Thẩm quyền xét xử của Thẩm phán không nên chỉ hạn chế trong một địa phương (nếu đã được bổ nhiệm Thẩm phán thì theo thẩm quyền quản lý có thể điều động, thuyên chuyển công tác nhưng không phải làm thủ tục bổ nhiệm lại).

* Không quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm như hiện nay. Cần quy định cụ thể điều kiện để miễn nhiệm chức danh Thẩm phán.

* Để tạo điều kiện cho Thẩm phán hoạt động có hiệu quả, chúng tôi đề nghị Nhà nước quan tâm đến chế độ đãi ngộ, điều kiện vật chất phục vụ làm việc của các Thẩm phán, giúp cho các Thẩm phán thực sự yên tâm trong khi thực thi nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó cũng cần có quy định cụ thể về chế độ đãi ngộ, cơ chế quản lý, việc bồi dưỡng nghiệp vụ pháp lý cho Hội thẩm nhân dân để những người này thực sự là những cộng sự tích cực của Thẩm phán trong hoạt động xét xử.

* Ngoài việc quan tâm đến củng cố về mặt tổ chức đối với đội ngũ Thẩm phán, các cơ quan chức năng ở Trung ương cần kịp thời sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động xét xử của Toà án như Luật tố tụng dân sự... Việc giải thích pháp luật bằng các thông tư lên ngành cũng cần được quan tâm đúng mức để kịp thời cung cấp những điều kiện pháp lý cần thiết cho hoạt động nghiệp vụ của các Thẩm phán. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao chất lượng xét xử của Toà án các cấp. Là điều kiện để dảm bảo nguyên tắc: "Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

Kiến nghị thứ tám: Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung các văn bản hướng dẫn về thủ tục, trình tự quy trình, hồ sơ bổ nhiệm thẩm phán theo hướng đơn giản, thuận tiện mà vẫn chặt chẽ đảm bảo tính nhanh nhạy của công tác tổ chức cán bộ và đáp ứng được yêu cầu xét xử. Xây dựng chương trình, kế hoạch tuyển chọn cụ thể (lịch họp của Hội đồng tuyển chọn các cấp) để chủ động về thời gian, đẩy nhanh tiến độ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương, không để quá thời gian nhiệm kỳ của Thẩm phán.

Kiến nghị thứ chín: Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức và sự phấn đấu tu dưỡng của Thẩm phán; Tiếp tục nghiên cứu và sớm đưa ra được quy chế hoạt động nghề nghiệp và đạo đức của người Thẩm phán; phát động phong trào thi đua trong các Toà án nhân dân địa phương theo nội dung tiêu chuẩn thi đua đã được đề ra; đấu tranh chống tham nhũng, chống các biểu hiện tiêu cực, xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch vững mạnh, phấn đấu khi hết nhiệm kỳ tất cả các Thẩm phán đương nhiệm đủ tiêu chuẩn để được bổ nhiệm lại nhiệm kỳ tiếp theo. Tiếp tục nghiên cứu đề xuất để Nhà nước ban hành các chế độ chính sách phù hợp với đặc thù nghề nghiệp xét xử, đó là các điều kiện vật chất cần thiết để "Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"

 

Kiến nghị thứ mười: Trong quy trình bổ nhiệm Thẩm phán, đã đến lúc cần có quy định Thẩm phán phải được phát triển từ Thẩm phán cấp huyện: qua Thẩm phán cấp huyện thì mới làm Thẩm phán cấp tỉnh và qua Thẩm phán cấp tỉnh để lên Thẩm phán tối cao. Quy định con đường phát triển như vậy của Thẩm phán không những góp phần nâng cao nghiệp vụ, uy tín của Thẩm phán mà còn là điều kiện thuận lợi cho việc điều chuyển Thẩm phán từ nơi thừa sang nơi thiếu. Hơn nữa, đó cũng là phương thức củng cố lòng tin của bản thân đội ngũ Thẩm phán với nhau trong quan hệ tố tụng.

ã Về thủ tục bổ nhiệm: hiện nay việc bổ nhiệm thẩm phán các cấp đều do Chủ tịch nước thực hiện, công việc quá nhiều dễ dẫn đến tình trạng hình thức nhiều ý kiến đề nghị nên phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán, có thể thực hiện như trước đây được quy định tại Sắc lệnh 13 ngày 24-1-1946: Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện

ã Về cơ chế quản lý Thẩm phán, việc các cấp uỷ Đảng quản lý Tư pháp là đúng với đường lối cán bộ của Đảng, nhưng cần phải phân định trách nhiệm, ranh giới đến đâu để tránh trùng lặp hoặc cản trở công việc. Kinh nghiệm cho thấy, chế định tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán có tiến bộ hơn chế định bầu cử Thẩm phán, nhưng cũng còn vướng mắc khi cấp uỷ không đồng ý, không giới thiệu thì cơ quan chủ quản bó tay mặc dầu người đó có đủ điều kiện và tiêu chuẩn Thẩm phán. Chúng tôi cho rằng Đảng lãnh đạo bằng quan điểm đường lối cán bộ và trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ, còn con người cụ thể là do cơ quan quản lý chịu trách nhiệm, làm như vậy nó vừa đảm bảo sự lãnh đạo của đảng vừa đúng với nguyên tắc quản lý cán bộ của Đảng

ã Về thành phần Hội đồng tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán: Theo chúng tôi cần quy định có thêm đại diện cơ quan tổ chức Đảng - chính quyền và một số Thẩm phán cấp trên. Những thành phần này đều hiểu biết về hoạt động xét xử của Thẩm phán và tiêu chuẩn của Thẩm phán. Pháp luật không nên quy định Hội luật gia là thành viên của Hội đồng tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán vì thực chất cán bộ Hội không liên quan nhiều đến công tác Toà án nên ít am hiểu về Thẩm phán

ã Về miễn nhiệm Thẩm phán: Theo quy định như hiện nay thì Thẩm phán muốn được miễn nhiệm phải có đơn trình bày rõ lý do. Chúng tôi nghĩ Thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm cũng chỉ phù hợp với những Thẩm phán có điều kiện, hoàn cảnh gia đình khó khăn hoặc sức khỏe không thể công tác được nữa. Còn đối với Thẩm phán năng lực yếu kém, vi phạm về phẩm chất đạo đức nhưng chưa đến mức phải cách chức hoặc buộc thôi việc thì việc phải có đơn xin miễn nhiệm Thẩm phán là điều khó thực hiện và chúng tôi nghĩ chưa đúng với nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc Thẩm phán khước từ làm đơn xin miễn nhiệm cũng đã xảy ra làm ảnh hưởng đến việc sắp xếp cán bộ. Để đảm bảo cho việc sắp xếp cán bộ được thông suốt, nhanh chóng kịp thời thì phải tập trung quyền lực vào cơ quan quản lý, không nên quy định Thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm. Tuy nhiên, cơ quan quản lý phải xuất phát từ yêu cầu công việc của tổ chức và phải tiến hành công tác tư tưởng đối với Thẩm phán trước khi quyết định

* Về thuyên chuyển, điều động Thẩm phán Theo quy định hiện nay để thuyên chuyển một Thẩm phán sang một Toà án khác thì phải có đơn của thẩm phán đó, có ý kiến thống nhất của cấp uỷ, của Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án tỉnh nơi đi, nơi đến thủ tục này rất rườm rà. Trong trường hợp có ý kiến không thống nhất thì việc điều động chậm chạp, ách tắc làm ảnh hưởng lớn đến việc bố trí thẩm phán giữa các địa phương, nhất là thẩm phán cấp huyện trong cùng tỉnh. Theo chúng tôi, các thủ tục không cần thiết như nêu trên cần phải loại bỏ vì quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán đã được sàng lọc, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi Chủ tịch nước quyết định và cũng bởi lý do Chủ tịch nước bổ nhiệm (hoặc nếu sau này phân cấp giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện) thì người thẩm phán phải tuân theo sự bổ nhiệm, phân công trong địa bàn cả nước, điều này cũng phù hợp với nguyên tắc "khi xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"

 

* Về vấn đề kỷ luật Thẩm phán, theo quy định hiện nay, Chủ tịch nước quyết định cách chức Thẩm phán khi có vi phạm. Mức độ kỷ luật buộc thôi việc Thẩm phán chưa quy định thuộc thẩm quyền của cơ quan nào. Trong trường hợp này thường phải qua khâu cách chức sau đó cơ quan quản lý sẽ thực hiện theo thẩm quyền. Nếu Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định buộc thôi việc đối với Thẩm phán Toà án địa phương sẽ trái với quyết định của Chủ tịch nước và không đúng với quy định kỷ luật tại Nghị định 195 là cán bộ viên chức chỉ bị một hình thức kỷ luật. Do vậy, chúng tôi đề nghị nên quy định thẩm quyền xem xét quyết định các hình thức kỷ luật đối với Thẩm phán theo hướng cơ quan quản lý phối hợp với các cơ quan hữu quan xem xét và trình Chủ tịch nước quyết định hình thức kỷ luật phù hợp. Quy định như vậy sẽ bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời cũng đảm bảo chu trình quản lý cán bộ

Kiến nghị thứ mười một: Về đào tạo và bồi dưỡng Thẩm phán. Xuất phát từ tình hình hoạt động và tổ chức của các Toà án địa phương và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt nam, trước mắt cũng như lâu dài nhiệm vụ đào tạo, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án, xây dựng cơ sở vật chất và trang bị phương tiện kỹ thuật cho công tác xét xử phải được xem là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Tư pháp và của Nhà nước. Rõ ràng đây không phải là vấn đề chỉ liên quan đến ngành Tư pháp, mà đòi hỏi cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước về cả mặt quan điểm, nhận thức cũng như quá trình thực hiện. Vấn đề này cần được quán triệt đầy đủ thì việc cải tiến công tác quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức mới đạt được hiệu quả .

Trước mắt, cần tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm. Để trở thành thẩm phán người đó nhất thiết phải có bằng Đại học Luật. Đây là điều kiện "cứng" và rất hợp lý. Song đội ngũ thẩm phán hiện nay đã bị đặt vào trong một tình thế hết sức nan giải. Số lượng thẩm phán còn "nợ" bằng Đại học Luật khá lớn (cấp huyện 42,3%, cấp tỉnh 8,8%). Vì vậy cần tập trung làm tốt công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán hiện có, trọng tâm là những đối tượng đang "nợ" bằng. Điều này đòi hỏi công tác đào tạo bồi dưỡng thẩm phán phải thực hiện một số công việc:

 

ã Lập danh sách thống kê phân loại trình độ thẩm phán để báo cáo Bộ Tư pháp có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo sát hạch. Trong trường hợp thẩm phán không trả nợ được thì không đưa vào danh sách bổ nhiệm thẩm phán nhiệm kỳ tiếp theo. Việc lập danh sách đòi hỏi phải làm chặt chẽ, phân tích chất lượng cán bộ chính xác để báo cáo Bộ Tư pháp có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng thẩm phán thích hợp

ã Bên cạnh việc giải quyết triệt để tình trạng nợ bằng nêu trên cần có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên cho các thẩm phán đã có bằng Đại học Luật. Đây là một yêu cầu khách quan bởi những thay đổi lớn lao trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, đầu tư nước ngoài, công nghệ, hành chính. . đòi hỏi trình độ các thẩm phán phù hợp với những thay đổi đó. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới, nhiều văn bản hiện hành được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp, hệ thống văn bản pháp luật đã có sự thay đổi mới căn bản. Điều này cũng đòi hỏi người thẩm phán phải thường xuyên nắm bắt những văn bản pháp luật mới để vận dụng được đúng đắn chính xác

Về lâu dài, cần có một chủ chương, chính sách lâu dài cho công tác đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán và cần xây dựng thành chủ chương chung của Nhà nước về việc tăng cường việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm nhằm góp phần xoá bỏ tình trạng bất cập về kiến thức của Thẩm phán trước yêu cầu mới. Đây là một trong những công việc cấp bách, cần làm và có thể làm được ngay trong năm 2000 - 2001. Chủ trương đó là cơ sở để các trường Đại học Luật, Trường Đào tạo các chức danh tư pháp, Trường bồi dưỡng Thẩm phán, Trường Cao đẳng Kiểm sát. . có kế hoạch thực hiện. Ngoài ra, chúng tôi đề nghị các Trường Đào tạo trong khối Nội chính cần trao đổi, thảo luận với nhau chương trình và giáo trình giảng dạy nhằm bảo đảm sự thống nhất và ăn khớp giữa các chương trình và giáo trình giảng dạy

ã Đề nghị sửa đổi một số điều trong Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân liên quan đến công tác đào tạo, trong đó cần quy định thêm chỉ những người đã học lớp đào tạo Thẩm phán tại Trường đào tạo các chức danh tư pháp mới đủ điều kiện được bổ nhiệm Thẩm phán. Theo kinh nghiệm của một số nước và xuất phát từ thực tiễn quản lý đội ngũ Thẩm phán, việc tổ chức nghiệp vụ xét xử, trang bị kỹ năng, rèn luyện đạo đức và phong cách của người Thẩm phán là rất cần thiết, góp phần từng bước chính quy hoá đội ngũ Thẩm phán. Những yêu cầu này chỉ có thể được đào tạo một cách hệ thống trước hết trong các lớp đào tạo Thẩm phán chuyên ngành.

ã Đổi mới chiêu sinh đào tạo Thẩm phán, Cần chiêu sinh rộng rãi những người tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác nhau phù hợp với hoạt động xét xử, bởi tính đa dạng và phong phú của nghề làm thẩm phán đòi hỏi thẩm phán phải am hiểu sâu, biết rộng rất nhiều lĩnh vực. Điều này được thực hiện sẽ khai thác được khả năng tổng hợp của nhiều người. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ vật chất cho sinh viên như trợ cấp kinh phí, vật chất khác phục vụ cho học tập, tạo điều kiện cho sinh viên yên tâm tư tưởng học tập. Đổi mới chính sách chiêu sinh phải gắn với năng lực đào tạo. Các trung tâm đào tạo thẩm phán cần được mở ở 3 miền thay cho một trung tâm đặt tại Hà Nội mà theo kế hoạch hàng năm chỉ nhận đào tạo được trên 100 người

 

Vấn đề sử dụng thẩm phán sau khi được đào tạo, để trở thành thẩm phán cấp sơ thẩm phải có thời gian học tập tốt tại Trường thẩm phán và phải làm thẩm phán dự bị 1 năm. Tiêu chuẩn làm thẩm phán cấp trên phải có thời gian làm thẩm phán cấp dưới liền kề một nhiệm kỳ. Nếu điều đó được thực hiện tốt sẽ không thiếu những thẩm phán đã kinh qua cơ sở. Đội ngũ thẩm phán này vừa có lý luận, vừa có thực tiễn để làm thẩm phán tòa án cấp trên, đưa ra được những quyết định mẫu mực hướng dẫn đường lối xét xử cho tòa án cấp dưới.

Tính kế thừa giữa các thế hệ được duy trì sẽ có đội ngũ thẩm phán cấp trên giỏi tay nghề, tinh thông nghiệp vụ. Chú ý xây dựng đội ngũ cốt cán cơ sở, để thông qua đó những thẩm phán giỏi sẽ trở thành nguồn cung cấp thẩm phán cho tòa án cấp trên. Vì vậy, cần đưa thẩm phán đã tốt nghiệp ở các trung tâm đào tạo thẩm phán về cơ sở, vừa để tăng cường cho cơ sở nhất là trong tình hình cải cách bộ máy tòa án theo hướng tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp huyện hiện nay, vừa tạo cho cán bộ trưởng thành, tạo nguồn thẩm phán cung cấp cho tòa án cấp trên ./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

phần ii

các chuyên đề

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

vị trí, vai trò của người thẩm phán

trong toà án nhân dân hiện nay

 

TS. Đinh Ngọc Hiện

Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu

khoa học xét xử, TANDTC

 

Hiện nay, phần lớn các hoạt động tố tụng của Thẩm phán được pháp luật xác định dưới hình thức hoạt động của cơ quan xét xử (Toà án), do đó trong hoạt động tố tụng của Toà án nói chung và hoạt động tố tụng của Thẩm phán nói riêng bộc lộ nhiều hạn chế, thậm chí có nhiều mâu thuẫn, nhất là trong lĩnh vực tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, một lĩnh vực mà Toà án phải thực hiện toàn bộ các công việc trong một vòng khép kín từ khâu thụ lý, lập hồ sơ, xét xử và ra bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, từ đó, dẫn đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của Toà án có nhiều hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Đại hội VIII của Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ "cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp", trong đó có Toà án nhân dân, vậy trong cuộc cải cách đó chúng ta cần xác định vị trí, vai trò cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán như thế nào để tăng cường hơn hiệu quả giải quyết án kiện của Toà án nhân dân.

Có thể nói rằng, phần liớn các hoạt động tố tụng của Toà án chính là sự hoạt động của các Thẩm phán, và vì thế vai trò của Thẩm phán trong lĩnh vực này là hết sức quan trọng. Phải chăng, khi nói đến vấn đề cải cách tổ chức hoạt động của Toà án trong lĩnh vực tố tụng là phải tính đến việc cải cách chính hoạt động của Thẩm phán, hay nói một cách rõ ràng hơn là xác định rõ vị trí, vai trò cũng như nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng, đồng thời xác định một cơ chế tổ chức khoa học, hợp lý để Thẩm phán thực hiện được chức năng nhiệm vụ của mình nói riêng và của Toà án nói chung là hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong công tác xét xử, giải quyết các loại vụ án, vụ kiện và các việc khác theo quy định của pháp luật.

Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự đã dành Điều 44 quy định nhiệm vụ của Thẩm phán trong tố tụng dân sự và Điều 45 quy định về quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng dân sự là một nhận thức đúng mang tính đổi mới với vị trí, vai trò của người thẩm phán trong tố tụng dân sự nói riêng và trong hoạt động tố tụng của Toà án nói chung. Đây là định hướng đang thu hút sự chú ý của các nhà chuyên môn và dành được sự ủng hộ khá rộng lớn.

Phải nói rằng, lịch sử hình thành và phát triển về tổ chức và hoạt động của Toà án có những thời kỳ xác định rõ vị trí, vai trò của Thẩm phán, đã có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, cụ thể là:

- Theo sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 "về tổ chức Toà án và các ngạch Thẩm phán" thì "Tại phiên toà Thẩm phán xét xử một mình" hay "Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù là ngày chủ nhật hay ngày lễ cũng được. Lại có thể, nếu cần đến, mở phiên toà ngoài trụ sở của Toà án, ở các nơi xa cách Toà án" (Điều 10). Các quy định này được ban hành trong bối cảnh khi mà Toà án sơ cấp (ở mỗi quận, phủ, huyện, châu thời kỳ đó có một Toà án sơ cấp) chỉ có một Thẩm phán, một lục sự và một hay nhiều Thư ký giúp việc (Điều 9). Như vậy, phải chăng "Thẩm phán" trong thời kỹ này được xác định đồng nghĩa với "Toà án", do đó việc xác định thẩm quyền của Thẩm phán cũng là xác định thẩm quyền của Toà án. Đương nhiên theo cách hiểu của chúng tôi thì về mặt nào đó đây là một quy định mang tính chất song trùng. Một mặt có thể hiểu đó là nhiệm vụ của Toà án, mặt khác, theo chính nghĩa đen của nó, là nhiệm vụ, quyền hạn của chính Thẩm phán, bởi vì trong chính Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 lại có quy định về trách nhiệm hay tiêu chuẩn của người Thẩm phán như: "Thẩm phán không thể lấy cớ gì, ngoài trường hợp cáo tỵ, hồi tỵ mà từ chối không xét xử một việc nào" (Điều 80); "Các Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên toà, xét xử thật nhanh chóng và công minh" (Điều 83); "Thanh liêm là một đức tính thiêng liêng của Thẩm phán Việt nam ngày nay" (Điều 83, điểm 2); "Trong đời tư cũng như đời công, các Thẩm phán phải cư xử đúng mực và biết tự trọng để giữ thanh danh và phẩm cách một vị quan toà" (Điều 84) hay "Các Thẩm phán phải... trung thành với chính thể dân chủ cộng hoà" (Điều 85)... Ngoài ra theo tinh thần quy định tại điều 3 Sắc lệnh này (nói về quyền hạn của Ban Tư pháp xã), Thì Ban Tư pháp xã có quyền "thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên", cũng thể hiện rằng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán được xác định và độc lập với nhiệm vụ của Toà án, nghĩa là ngoài việc ra bản án, quyết định theo thẩm quyền của Toà án, Thẩm phán còn có thẩm quyền ra các quyết định khác.

Theo Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 về ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án, thì khi quy định về nhiệm vụ của ông Chánh án, có phân biệt rõ: "Ông có thể uỷ thác các ông thẩm phán một phần các vụ kiện mà ông đã thụ lý. Tuy thế, các Thẩm phán... được tự do định đoạt trong các việc xét xử thuộc phạm vi của mình". Theo quy định này, mọi hoạt động của Toà án đều do Chánh án điều khiển và kiểm soát, nhưng khi Chánh án đã giao cho Thẩm phán giải quyết một vụ án nào đó, thì Thẩm phán có đầy đủ quyền hạn như chính ông Chánh án trong phạm vi giải quyết vụ án đó.

- Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 có quy định: "Toà án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm, Toà án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Toà án nhân dân có thể xử không có Hội thẩm nhân dân" (Điều 12). Về việc Toà án nhân dân xét xử sơ thẩm không có Hội thẩm nhân dân theo quy định này, Thông tư số 2421/TC ngày 29-12-1961 của Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn thực hiện chế độ Hội thẩm nhân dân" có nêu rõ: "Khi xử sơ thẩm mà không có Hội thẩm nhân dân tham gia thì người ngồi xử chỉ là một Thẩm phán, những trường hợp này phải do Uỷ ban Thẩm phán (ở Toà án nhân dân thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh hoặc đơn vị hành chính tương đương) họăc Chánh án (ở thị xã, huyện, khu phố) quyết định". Thực tế, việc xét xử sơ thẩm không có Hội thẩm nhân dân tham gia thường được áp dụng trong việc giải quyết các vụ thuận tình ly hôn. Khi việc giải quyết các vụ thuận tình ly hôn do một Thẩm phán tiến hành đã trở thành phổ biến thì Thông tư số 03 ngày3-3-1966 của Toà án nhân dân tối cao đã mở rộng hơn thủ tục này, trong đó quy định: Chánh án hoặc Thẩm phán có quyền quyết định những biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi hỏi ý kiến của chính quyền cơ sở, mà không bắt buộc phải cùng hội thẩm nhân dân quyết định" (Điều 2, Mục II).

Cần nói thêm rằng, trong giai đoạn này Hiến pháp năm 1959 chưa quy định nguyên tắc "Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số" như đã được quy định tại điều 132 Hiến pháp năm 1980 (được Quốc hội thông qua ngày 18-12-1980), do đó việc Thẩm phán được một mình xét xử sơ thẩm vụ án đã được chấp nhận. Tuy chỉ được áp dụng trong một phạm vi hạn chế, nhưng một mặt không những nó thể hiện được vị trí, vai trò của Thẩm phán, mà còn xác định phần nào nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng, mặt khác, nó thực sự thúc đẩy được công tác giải quyết án kiện của Toà án trong những năm qua và tạo một cơ sở thực tiễn cho việc giải quyết án kiện của Toà án trong trường hợp các bên đương sự có thể thoả thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp giữa họ, hoặc trong một số trường hợp khác như giải quyết các loại việc dân sự, kinh tế, lao động, hành chính... mà không có tranh chấp.

Sau khi có Hiến pháp năm 1992, thì văn bản luật đầu tiên quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán chính là Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30-12-1993 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1994. Điều 16 Luật phá sản doanh nghiệp quy định:

"1- Thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Thu thập tài liệu, chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;

b) Giám sát và kiểm tra hoạt động của các nhân viên tổ quản lý tài sản;

c) Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ;

d) Tổ chưc và chủ trì hội nghị chủ nợ;

đ) Ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;

e) Tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

2. Quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội, thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp xem xét để khổi tố về hình sự.

3. Thẩm phán chịu trách nhiệm trước Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình".

Trong trường hợp việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp do một tập thể Thẩm phán phụ trách, thì các Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công giữa các thành viên của tập thể Thẩm phán đó (đã được quy định trong Quy chế làm việc của tập thể Thẩm phán phụ trách giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, ban hành theo Quyết định số 426/QĐ 1-7-1994 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao).

Phải nói rằng, đây là một bước đột phá trong việc quy định về các hoạt động tố tụng của Toà án trong lĩnh vực dân sự, kinh tế nói chung, đó là sự mạnh dạn và là sự đổi mới căn bản cách nhìn nhận về vai trò, vị trí của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, kinh tế thể hiện qua việc xác định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán khi đã được giao giải quyết một vụ việc nhất định.

Rất tiếc rằng, điều này đã không được xác định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, còn trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 16-3-1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 11-4-1996) chỉ có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong một số trường hợp cụ thể, đó là:

- "Việc thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước jkhi mở phiên toà do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án quyết định" (khoản 2 Điều 43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, khoản 2 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động).

- Trong thời hạn chuẩn bị xét xử (40 ngày đối với vụ án kinh tế, 30 ngày đối với vụ án lao động) Thẩm phán được phân công Chủ toạ phiên toà phải ra một trong những quyết định: đưa vụ án ra xét xử; tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; đình chỉ việc giải quyết vụ án (khoản 2 Điều 34 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, khoản 2 Điều 36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động).

- Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên toà, thì do Thẩm phán được phân công giải quýêt vụ án quyết định (điểm 2 khoản 2 Điều 43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động).

- Để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án lao động, kinh tế, trước khi mở phiên toà, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có quyền ra quyết định (khoản 2 Điều 55 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, khoản 2 Điều 54 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế).

Đặc biệt, cũng như Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong phần giải quyết các cuộc đình công (phần thứ hai) Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán được phân công giải quyết cuộc đình công. Theo quy định tại Điều 93 thì:

"1- Thẩm phán được phân công giải quyết có nhiệm vụ, quyền hạn sâu đây:

a) Thu thập tài liệu, chứng cư để lập hồ sơ giải quyết cuộc đình công;

b) Xác minh tại chỗ;

c) Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

d) Tiến hành hoà giải giữa Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động về việc giải quyết cuộc đình công.

2. Trong quá trình giải quyết cuộc đình công, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát nhân dân xem xét khổi tố về hình sự".

Như vậy, rõ ràng là từng bước và từng bước vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng đã được nhìn nhận và quy định trong văn bản pháp luật, tuy nhiên, các quy định này lại thể hiện cách nhìn nhận còn rụt rè và vì thế, các quy định đó quả thực là khập khiễng không thể hiện đúng được vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố tụng.

Thực tiễn hoạt động tố tụng dân sư hiện nay tại các Toà án đã chứng minh rằng, khi Thẩm phán đã được phân công giải quyết vụ án, thì Chánh án (khi phân công Thẩm phán lập hồ sơ vụ án) đã coi việc Thẩm phán chủ động thực hiện mọi quy định của pháp luật tố tụng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, lập hồ sơ vụ án và chịu trách nhiệm trong việc hoà giải, ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án... đương nhiên là nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán. Thực tế này được đa số các Chánh án Toà án nhân dân các quận, huyện thành phố Hà Nội, các Thẩm phán, Chánh Phó toà các toà chuyên trách Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện và nhất trí ủng hộ quan điểm cho rằng, pháp luật cần quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán (trong buổi Hội thảo khoa học về tố tụng dân sự được tổ chức tại Hà Nội ngày 4-12-1995). Quan điểm này cũng được các Chánh án các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thống nhất ủng hộ trong cuộc Hội thảo khoa học về dự thảo 4 Bộ luật tố tụng dân sự được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23-1-1997 và Hội thảo khoa học quốc tế về dự thảo 4 Bộ luật tố tụng dân sự do Văn phòng Quốc hội Trung tâm Nghị viên Canada tổ chức vào các ngày 5,7-6-1997.

Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng dân sự vừa có quá trình lịch sử, vừa có tiền đề pháp lý (đã được quy định trong một số văn bản), vừa có một thực tiễn áp dụng linh hoạt các quy định của pháp luật và còn là một yêu cầu chính đáng trên các cơ sở pháp lý và cơ sở tương quan thực tế khác, đó là:

- Điều 624 Bộ luật dân sự về việc đòi bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, có quy định:

Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải bồi hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền đó có lỗi trong khi thi hành công vụ.

Đây là cơ sở pháp lý đòi hỏi phải phân định rõ thẩm quyền của những người tiến hành tố tụng nói chung và Thẩm phán tiến hành tố tụng nói riêng, khi họ tiến hành lập hồ sơ vụ án hoặc tiến hành xét xử vụ án.

Xét trong một số lĩnh vực tố tụng thấy rằng:

- Trong tố tụng hình sự, "Điều tra viên được phân công điều tra vụ án có quyền tiến hành các biện pháp điều tra do Bộ luật này quy định và phải chịu trách nhiệm về những hoạt động điều tra của mình" (điểm 2 khoản 1 Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự).

- Trong thi hành án dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên được quy định cụ thể chi tiết tại Điều 13 Pháp lệnh thi hành án dân sự, ngoài ra Pháp lệnh này còn quy định trách nhiệm của Chấp hành viên khi thi hành nhiệm vụ của mình (Điều 14).

 

Xét rộng hơn ngoài phạm vi tố tụng, thì trong các lĩnh vực tư pháp khác, pháp luật cũng có những quy định rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn của những chức danh được bổ nhiệm, chẳng hạn:

- Nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của giám định viên tư pháp được quy định đầy đủ tại Điều 6, Điều 7 và Điều 10 Nghị định số117/HĐBT ngày 21-7-1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về giám định tư pháp.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Công chứng viên được quy định đầy đủ, cụ thể taih Điều 21, Điều 22 Nghị định số 31/CP ngày 8-5-1996 của Chính phủ "về tổ chức và hoạt động Công chứng Nhà nước...".

Hiện nay, ở nước ta "... Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao... Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh... do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức" (điểm 3 Điều 38 Luật tổ chức Toà án nhân dân). Như vậy, với nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân, Thẩm phán là chức danh đặc biệt trong hệ thống chức danh công chức tư pháp Nhà nước, do đó không có lý do trở ngại gì cho việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán người đã được Chủ tịch nước bổ nhiệm sau khi đã được tuyển chọn với những tiêu chuẩn hết sức chặt chẽ, để Thẩm phán làm nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm về việc thực hiện các nhiệm vụ đó, nhất là trong lĩnh vực tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính khi mà Thẩm phán phụ trách giải quyết một việc cụ thể ngay từ giai đoạn lập hay hoàn thiện hồ sơ.

Từ những phân tích mang tính lịch sử, thực tiễn và có so sánh nói trên, chúng tôi cho rằng, trong quá trình hoàn thiện pháp luật cần xác định rõ vị trí, vai trò của Thẩm pán bằng cách quy định các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của Thẩm phán, từ đó để Thẩm phán chủ động hoàn thành nhiệm vụ của mình và cũng là hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Toà án, đồng thời Thẩm phán chịu trách nhiệm về công việc của mình...

Khi đã xác định rõ vị trí, vai trò của Thẩm phán, thì hệ thống Thẩm phán - hệ thống chức danh tư pháp đặc bệt phải được tổ chức, quản lý theo một cơ chế riêng phù hợp với đặc điểm và nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán./.

quản lý thẩm phán toà án nhân dân

địa phương - thực trạng và giải pháp

 

Vụ quản lý Toà án địa phương

Bộ Tư pháp

 

Chính sách đổi mới sâu rộng và đồng bộ trên các lĩnh vực của đất nước đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới hệ thống pháp luật, phương thức điều hành hoạt động quản lý Nhà nước, trong đó có việc đổi mới hoạt động của ngành tư pháp. Vấn đề này được thể hiện rõ trong Văn kiện Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.

Quán triệt tinh thần trên, với chức năng quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, Bộ Tư pháp đã từng bước triển khai các lĩnh vực của công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương mà trọng tâm là việc quản lý đội ngũ thẩm phán. Bài viết này đi sâu phân tích một số điểm sau đây:

I. Thực trạng về công tác quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương.

II. Một số kiến nghị và những biện pháp để tăng cường hiệu lực của công tác quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương.

I. Thực trạng về công tác quản lý thẩm phán toà án nhân dân địa phương

1. Sự quan tâm, chú trọng của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình hình thành và phát triển công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương.

Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 28-8-1945 Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, Bộ Tư pháp là một trong những Bộ đầu tiên trong bộ máy của Chính phủ và được giao nhiệm vụ quản lý Toà án nhân dân về mặt tổ chức. Tại Nghị định 37 ngày 1-12-1945 và Sắc lệnh 13 ngày 24-1-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký về tổ chức Toà án sơ cấp ở các quận, huyện; đệ nhị cấp ở các tỉnh và toà thượng thẩm ở mỗi kỳ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ). Bộ Tư pháp có trách nhiệm thiết lập các Toà án nói trên. Chủ tịch bổ nhiệm thẩm phán từ cấp tỉnh trở lên. Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán sơ cấp.

Đến năm 1960, giải thể Bộ Tư pháp, nhiệm vụ quản lý Toà án nhân dân địa phương được chuyển sang Toà án nhân dân tối cao. Sau 20 năm thực hiện nhiệm vụ này, có một số điểm không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Toà án tối cao nên đến năm 1981, tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá 7, Chính phủ đã có tờ trình đề nghị chuyển công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức sang Chính phủ. Toà án nhân dân tối cao cũng có đề nghị chuyển công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức sang Bộ Tư pháp.

Luật tổ chức năm 1981 đã giao cho Bộ Tư pháp nhiệm vụ quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, nhưng ở giai đoạn này thực chất Bộ Tư pháp chỉ quản lý về tổng biên chế, về cơ cấu tổ chức bộ máy của Toà án nhân dân địa phương, còn các mặt khác như tuyển dụng cán bộ, bầu cử thẩm phán, thuyên chuyển, đề bạt cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất, cấp phát quản lý kinh phí hoạt động... đều chưa thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp. Do cơ chế quản lý không thống nhất, các nội dung quản lý bị chia cắt và trình độ quản lý còn non kém nên công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức ở giai đoạn này chưa đạt kết quả như mong muốn.

Từ năm 1992 trở lại đây, hoạt động quản lý về tổ chức Toà án nhân dân địa phương đã có những chuyển biến tích cực theo cơ chế mới toàn diện, trực tiếp, thống nhất từ trung ương đến địa phương bao gồm những lĩnh vực như về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự, kinh phí hoạt động... rất nhiều công việc phải làm với các quy trình khác hẳn cơ chế quản lý cũ. Đặc biệt là chế định tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán thay thế chế định bầu cử thẩm phán trước đây thể hiện rõ sự chặt chẽ, nghiêm túc và tiến bộ nhằm tăng cường về số lượng cũng như chất lượng đội ngũ thẩm phán.

2. Thực trạng đội ngũ thẩm phán

Tính đến 30-9-1997 đã bổ nhiệm được:

- Thẩm phán cấp tỉnh: 907

- Thẩm phán cấp huyện: 2.253

- Thẩm phán toà án quân sự: 130

- Đã có đủ: 61/61 Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh; 587 Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện; quyền Chánh án chỉ còn một đơn vị toà án huyện Côn Đảo.

Tuy số lượng thẩm phán chưa đủ so với quy định nhưng với sự cố gắng nỗ lực của đội ngũ thẩm phán và cán bộ các toà án địa phương, sự hỗ trợ của các cấp, các ngành và sự điều động, bố trí hợp lý đội ngũ thẩm phán hiện có, đồng thời được bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời nên hầu hết các toà án địa phương đã giải quyết án đạt tỷ lệ cao và chất lượng xét xử tương đối tốt.

Tình trạng thiếu thẩm phán đòi hỏi cần phải khẩn trương tìm nguồn cán bộ và có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng hợp lý để bổ sung đủ số thẩm phán. Nhưng khách quan mà đánh giá thì số lượng thẩm phán thiếu hiện nay chưa phản ánh thực chất nội tại của việc thiếu thẩm phán, bởi vì căn cứ vào số lượng án xét xử hàng năm thì ngoài một số tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ... có tỷ lệ giải quyết án bình quân cao, còn lại khá nhiều địa phương bình quân án xét xử thấp, chỉ từ 2 đến 3 vụ trên tháng, cá biệt có nơi chưa đến 1 vụ/ tháng.

Từ thực trạng trên cần sớm có sự khảo sát kiểm tra thực tế để xây dựng định mức xét xử phù hợp và có kế họach điều chỉnh phân bổ thẩm phán cũng như cán bộ toà án nói chung cho hợp lý.

3. Về cơ chế quản lý thẩm phán

Trên cơ sở Điều 16 Luật tổ chức Toà án nhân dân, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết 34 ngày 29-4-1993 ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra quyết định 91 ngày 19-1-1994 quy định việc phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án tỉnh về quản lý Toà án nhân dân cấp huyện về mặt tổ chức.

Quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức là một hình thức quản lý Nhà nước, có nội dung là xây dựng các điều kiện cần thiết để cơ quan xét xử đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc: "Khi xét xử thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật". Những điều kiện đó chính là: cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, trụ sở làm việc, kinh phí và các phương tiện hoạt động cho các Tòa án nhân dân địa phương mà các cơ quan quản lý nhà nước phải thực hiện.

Với khái niệm quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức như trên và theo quy định của pháp luật thì quản lý Toà án là hình thức quản lý Nhà nước có tính đặc thù riêng biệt, không theo hệ thống ngành dọc, mà theo cơ chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Cơ chế này xuyên suốt các lĩnh vực quản lý tòa án, trọng tâm là quản lý đội ngũ thẩm phán mà nội dung của nó bao gồm: bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển, điều động, kỷ luật thẩm phán.

- Về bổ nhiệm thẩm phán: theo quy định hiện hành về quy trình bổ nhiệm thẩm phán phải căn cứ vào tiêu chuẩn đã được quy định, phải rà soát, đánh giá cán bộ, lấy phiếu tín nhiệm, trao đổi thống nhất với cấp uỷ địa phương... lập hồ sơ đưa ra Hội đồng tuyển chọn thẩm phán quyết định và đề nghị lên cấp trên.

- Về thuyên chuyển, điều động, miễn nhiệm cán bộ cũng phải theo thủ tục chặt chẽ như có ý kiến của người được điều động (phải có đơn xin miễn nhiệm); có sự thống nhất của Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao (đối với thẩm phán cấp tỉnh), của Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án tỉnh (đối với thẩm phán cấp huyện); có sự nhất trí của cấp uỷ địa phương nơi đi và đến...

- Về kỷ luật thẩm phán: ngoài hình thức cách chức thẩm phán do Chủ tịch nước thực hiện, còn các hình thức kỷ luật khác như khiển trách, cảnh cáo, buộc thôi việc đối với thẩm phán đều áp dụng theo quy định chung đối với công chức, viên chức nhà nước.

- Về thủ tục cách chức thẩm phán: phải có bản tự kiểm điểm của thẩm phán, có nghị quyết, biên bản họp kiểm điểm của đơn vị, biên bản của Hội đồng kỷ luật, có ý kiến bằng văn bản của cấp uỷ... Nghị quyết của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán và tờ trình lên cấp trên.

Quá trình thực hiện cơ chế phối hợp trên cho thấy: cơ chế này có ưu điểm là có nhiều cơ quan cùng nhau xem xét, quyết định một vấn đề sẽ chặt chẽ, đúng đắn và khách quan, tránh sự tuỳ tiện, độc đoán trong việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ. Nhưng cơ chế này cũng còn bộc lộ những bất cập, có lúc, có nơi ý kiến không thống nhất giữa các cơ quan hữu trách dẫn đến tình trạng chậm chạp, ách tắc trong quá trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động thẩm phán. Và xung quanh vấn đề này cũng có nhiều ý kiến khác nhau cần tiếp tục nghiên cứu, để điều chỉnh, sửa đổi cho hợp lý.

II. Một số kiến nghị và những biện pháp để tăng cường hiệu lực của công tác quản lý thẩm phán.

A. Một số bất cập trong cơ chế quản lý thẩm phán hiện nay:

1. Về Hội đồng tuyển chọn thẩm phán: nên chăng trong Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cần tăng thêm thành phần là những nhà chuyên môn cao để có những nhận xét đánh giá đúng đắn về năng lực chuyên môn của người được bổ nhiệm thẩm phán.

2. Về thủ tục bổ nhiệm: hiện nay việc bổ nhiệm thẩm phán các cấp đều do Chủ tịch nước thực hiện, công việc quá nhiều và mang tính chất sự vụ hành chính, nhiều ý kiến đề nghị nên phân cấp trong việc bổ nhiệm thẩm phán, có thể thực hiện như trước đây được quy định tại Sắc lệnh 13 ngày 24-1-1946: Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán cấp tỉnh trở lên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện.

3. Về miễn nhiệm thẩm phán: Theo quy định hiện thì trong mọi trường hợp thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm, nhiều ý kiến cho rằng quy định như vậy chỉ phù hợp với các trường hợp tự nguyện xin chuyển công tác vì lý do sức khoẻ, hợp lý hoá gia đình... Còn các trường hợp do tổ chức điều động vì nhu cầu công việc hoặc do yêu cầu bố trí cán bộ, kể cả việc bố trí cán bộ vào vị trí cao hơn... nhưng bản thân thẩm phán không tự nguyện, không muốn đi thì đơn tự nguyện là hình thức (đã có trường hợp miễn cưỡng làm đơn xin miễn nhiệm). Do vậy, cần có quy định thủ tục đương nhiệm, miễn nhiệm thì mới phù hợp với thực tế.

4. Về thủ tục thuyên chuyển, điều động thẩm phán: theo quy định hiện nay phải có đơn của thẩm phán, có ý kiến thống nhất của cấp uỷ, của Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án tỉnh nơi đi, nôi đến... thủ tục rất rườm rà, nếu có ý kiến không thống nhất là việc điều động chậm chạp, ách tắc làm ảnh hưởng lớn đến việc bố trí thẩm phán giữa các địa phương, nhất là thẩm phán cấp huyện trong cùng tỉnh, nên chăng cần bỏ bớt các thủ tục không cần thiết vì quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán đã được sàng lọc, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi Chủ tịch nước quyết định và cũng bởi lý do Chủ tịch nước bổ nhiệm (hoặc nếu sau này phân cấp giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm phán cấp huyện) thì người thâmr phán phải tuân theo sự bổ nhiệm, phân công trong địa bàn cả nước, điều này cũng phù hợp với nguyên tắc "khi xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

5. Về chế độ tiền lương: thực hiện chế độ tiền lương mới, ngạch lương của thẩm phán được Nhà nước quan tâm, hệ số mức lương của ngạch thẩm phán được quy định cao hơn so với mức lương của ngạch hành chính tương ứng. Nhưng về thực chất chỉ có hệ số mức lương của ngạch thẩm phán tỉnh và thẩm phán tối cao là cao hơn một chút so với ngạch lương hành chính tương ứng, còn hệ số mức lương của ngạch thẩm phán huyện là quá thấp và còn có khoảng cách khá xa với ngạch lương thẩm phán tỉnh, đề nghị các cấp có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu xếp lại cho phù hợp.

Hiện nay Chính phủ đã cho phép áp dụng trợ cấp khó khăn hàng tháng đối với mỗi cán bộ Toà án tối cao Bộ Tư pháp đề nghị Chính phủ cho áp dụng thống nhất chế độ này đối với tất cả cán bộ toà án điạ phương

6. Về khen thưởng thẩm phán: việc khen thưởng thẩm phán hiện nay được áp dụng chung như đối với công chức, viên chức hành chính khác, nhưng do đặc thù của nghề xét xử có thể nghiên cứu những hình thức khen thưởng thi đua theo nhiệm kỳ thẩm phán hoặc theo chức danh nghề nghiệp như thẩm phán ưu tú, thẩm phán nhân dân.

 

B- Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác quản lý thẩm phán.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: "Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa...

Sớm xây dựng chiến lược cán bộ của thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết công tác cán bộ trong những năm qua, chủ yếu là 10 năm đổi mới, chúng ta xác định phương hướng cơ bản, các chính sách và giải pháp lớn xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đến năm 2020. Trước mắt là chuẩn bị cho nhiệm kỳ Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng".

Quán triệt tinh thần trên về công tác quản lý cán bộ toà án mà trọng tâm là việc củng cố, kiện toàn và phát triển đội ngũ thẩm phán toà án địa phương, công tác quản lý đội ngũ thẩm phán cần tập trung vào những mục tiêu chính sau đây:

1. Xây dựng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán

Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, tạo được nguồn bổ sung đội ngũ thẩm phán. Chú trọng vào một số đối tượng như sinh viên tốt nghiệp xuất sắc các trường đại học, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người, con em các gia đình có công với Tổ quốc.

Hiện nay, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán toà án địa phương còn chưa đồng đều: 77% thẩm phán cấp tỉnh và 57% thẩm phán cấp huyện có trình độ đại học luật (30% chính quy, còn lại là chuyên tu, cao đẳng, tại chức) số còn lại là thẩm phán đương nhiệm còn nợ tiêu chuẩn. Thực trạng đó đòi hỏi Bộ Tư pháp cần xây dựng chương trình đào tạo đa dạng, hợp lý để đến năm 2000 chấm dứt việc nợ tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn pháp lý đối với thẩm phán như hiện nay.

Kết hợp với hình thức đào tạo tại trường với việc rèn luyện qua thực tiễn công tác, có chế độ khuyến khích và bắt buộc việc tự học tập, tự nghiên cứu đối với thẩm phán.

2. Tăng cường công tác kiểm tra: Bộ Tư pháp cần chủ động phối hợp với Toà án nhân dân tối cao thường xuyên kiểm tra công tác xét xử của Toà án nhân dân địa phương. Chế độ báo cáo chất lượng xét xử đối với từng thẩm phán phải trở thành chế độ bắt buộc hàng năm ddồng thời phải định kỳ kiểm tra sát hạch kiến thức và trình độ chuyên môn đối với thẩm phán. Thông qua công tác kiểm tra để đánh gia đúng về năng lực cán bộ, qua đó phát hiện những điẻn hình tốt và kịp thời xử lý những thẩm phán có sai phạm trong công tác xét xử.

3. Việc xây dựng chế độ chính sách, trước hết là chế độ tiền lương đối với thẩm phán cần được cải tiến, tiền lương phải thực sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của thẩm phán, bảo đảm tái sản xuất, mở rộng sức lao động.

 

Đi đôi với khuyến khích vật chất, chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho thẩm phán. mục tiêu, lý tưởng cách mạng là động lực lớn nhất thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ.

4. Đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác quản lý toà án địa phương: đội ngũ cán bộ quản lý toà án địa phương còn mỏng và yếu do đó cần được tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý toà án kể cả ở Bộ và Sở Tư pháp, chú ý đưa những cán bộ đã có nhiều năm công tác toà án có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm và am hiểu công tác xét xử, có năng lực quản lý để làm công tác này.

Với phương thức quản lý mới, trực tiếp, toàn diện và bao gồm rất nhiều lĩnh vực như nói ở phần trên nhưng về phương tiện làm việc và việc vận dụng khoa học kỹ thuật mới vào công tác quản lý chưa được là bao, cần nhanh chóng trang bị các phương tiện kỹ thuật vào việc quản lý. (Cụ thể là quản lý bằng vi tính thay thế cách làm thủ công, sự vụ như hiện nay, vừa chậm, vừa thiếu chính xác)./.

 

 

 

 

 

 

thực trạng công tác quản lý toà án nhân dân quận, huyện về mặt tổ chức từ năm 1992 đến nay ở tp hà nội.

 

Sở Tư pháp thành phố Hà Nội

 

Quy chế phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý về mặt tổ chức các TAND quận, huyện, thị xã, thành phố trưch thuộc tỉnh (số 91 ngày 19-01-1994) và Quyết định số 141/QĐ-QLTA ngày 21-03-1994 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao cho Giám đốc Sở Tư pháp giúp Bộ trưởng thực hiện việc quản lý về mặt tổ chức các TAND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Căn cứ phương hướng, nhiệm vụ xây dựng ngành, trong mấy năm qua, Sở Tư pháp Hà Nội luôn được sự quan tâm chỉ đạo của Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố Hà Nội và Bộ Tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ, chức năng của ngành nói chung và công tác quản lý về mặt tổ chức các TAND quận, huyện nói riêng.

Đánh gía chung việc quản lý Toà án quận, huyện về tổ chức đã đạt được kết quả trên các mặt công tác sau:

1. Công tác quản lý về mặt tổ chức bộ máy:

Cho đến nay, thành phố Hà Nội có 10 Toà án quận, huyện. Trong đó có 05 Toà án quận, 05 Toà án huyện và 02 Toà án quận mới được thành lập (quận Thanh Xuân và Cầu Giấy). ở mỗi Toà án quận, huyện căn cứ chức năng, nhiệm vụ và tính chất công việc đều hình thành các bộ phận khác nhau. Nhìn chung có các bộ phận như sau:

- Bộ phận Hình sự.

- Bộ phận Dân sự, Hôn nhân và gia đình.

- Bộ phận Văn phòng, Hành chính, Đánh máy, Quản lý.

Trong các bộ phận đều có phân công trách nhiệm và người phụ trách. Thông thường đều có Chánh án hoặc các Phó chánh án phụ trách từng bộ phận cụ thể.

Do tính chất đặc điểm riêng, nên Sở Tư pháp Hà Nội thành lập Phòng quản lý Toà án trực tiếp giúp Giám đốc Sở quản lý về mặt Nhà nước đối với các Toà án quận, huyện. Trên cơ sở quy chế phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND thành phố, Sở Tư pháp đã ban hành quy chế mối quan hệ công tác giữa Giám đốc Sở với Chánh án Toà án nhân dân quận, huyện nhằm tăng cường phat huy vai trò trách nhiệm trong quản lý điều hành về mặt tổ chức và hoạt động đối với các Toà án quận, huyện.

2. Về biên chế và phân công cán bộ TAND quận, huyện:

Tính đến tháng 12/1996, chỉ tiêu biên chế Bộ Tư pháp phân bổ cho các Toà án quận, huyện thuộc thành phố Hà Nội là 225 người. Trong số biên chế đó Bộ dự kiến số Thẩm phán là 2/3, còn lại là thư ký và cán bộ khác. Thực tế hiện nay có 212 biên chế và 14 hợp đồng (hợp đồng trong quỹ lương: 6, và hợp đồng ngoài quỹ lương: 8). Trong đó số Thẩm phán là 110 người còn lại là thư ký, các cán bộ khác.

Theo chỉ tiêu biên chế được Bộ Tư pháp phân bổ, căn cứ tính chất, địa bàn hoạt động và lượng công việc hàng năm của từng quận, huyện để phân biên chế cho từng Toà, mỗi Toà án quận được phân bổ biên chế từ 29 đến 36 người, với lượng công việc thụ lý trung bình trong một năm từ 1000 đến 1400 việc. Các Toà án huyện được phân bổ biên chế từ 12 đến 18 người, với lượng công việc thụ lý trung bình trong một năm từ 400 đến 650 việc.

Hầu hết các Toà án quận, huyện đều có Chánh án và Phó chánh án, có Toà 02 Phó chánh án hoặc có Toà mới có quyền Chánh án, do mới thành lập chưa có điều kiện củng cố. So với năm 1991 có 09 Toà (04 quận và 05 huyện) tổng biệ chế là 181 người, trong đó Chánh án là 08, Phó Chánh án là 15, Thẩm phán là 64, còn lại là thư ký và các cán bộ khác.

ở các Toà án quận, đều có sự sắp xếp phân công các bộ phận hợp lý như bộ phận xét xử án hình sự; bộ phận dân sự, hôn nhân và gia đình; bộ phận văn phòng, hành chính, đánh máy, quản trị. Trung bình ở Toà án quận có Thẩm phán xét xử tới 150 đến 200 vụ án hình sự trong một năm, dân sự từ 50 đến 82 vụ trong một năm. Với số lượng công việc như vậy, nên cường độ lao động của Thẩm phán, thư ký, đánh máy là căng thẳng để kịp hoàn thành được công theo quy định trong một trình tự tố tụng. Việc phân công các Thẩm phán đảm nhiệm từng loại công việc đều có xem xét đến hiệu quả và chất lượng. Bố trí những thư ký lâu năm có kinh nghiệm giúp việc cho Thẩm phán mới hoặc kinh nghiệm chưa nhiều, thẩm phán vững kèm cặp thư ký mới. Không thấy có tình trạng thắc mắc hoặc khiếu nại về việc bố trí phân công cán bộ ở các Toà trong những năm qua.

Ngoài công việc chuyên môn, lãnh đạo các Tòa án quận, huyện và Sở Tư pháp xem xét tạo điều kiện cho một số cán bộ học tập ngoại ngữ, chuyên môn, chính trị..., đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu đào tạo nhưng vẫn đảm bảo hoàn thành chức trách được giao.

3. Về tuyển dụng cán bộ Toà án:

Căn cứ chỉ tiêu biên chế cán bộ toà án quận, huyện, Sở Tư pháp căn cứ khối lượng công việc, tính chất và địa bàn hoạt động của từng đơn vị để phân bổ chỉ tiêu cho các Toà. Chánh án các Toà án quận, huyện là người trực tiếp quản lý, sử dụng số biên chế này được Sở giao ưquyền và chịu trách nhiệm trước Sở việc tuyển chọn người vào làm việc tại cơ quan mình. Con người và hồ sơ xin vào ngành phải đúng, đủ tiêu chuẩn theo quy định do Sở kiểm tra và lưu giữ hồ sơ. Hầu hết số người xin vào ngành đều trải qua một thời gian làm thử việc và được sự nhất trí của tập thể lãnh đạo Toà án đề nghị xin được tuyển dụng chính thức. Nhìn chung mấy năm gần đây công tác tuyển dụng có chặt chẽ hơn và theo một quy trình thống nhất ddược Bộ duyệt, sau đó Sở mới ra quyết định tuyển dụng thu hẹp các trường hợp đang học hoặc không đủ văn bằng chuứng chỉ... được tuyển dụng vào biên chế như trước đây. Qua công tác tuyển dụng của năm qua có thể khẳng định rằng nguồn bổ sung cán bộ Toà án là dồi daò, quy trình tuyển dụng khách quan và hợp lý, đúng đủ tiêu chuẩn theo yêu cầu và quy định (như có trường hợp: có bằng đại học luật, bằng vi tính, bằng ngoại ngữ...)

Năm 1996 Sở Tư pháp đã tổ chức thi tuyển và đã ra quyết định tuyển dụng: 25 biên chế. Hiện nay đang tổ chức cho 37 trường hợp chuẩn bị thi tuyển để tuyển dụng vào biên chế theo chỉ tiêu Bộ đã phân bổ.

4. Về mối quan hệ giữa Giám đốc Sở Tư pháp với cấp uỷ địa phươngvà Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội trong công tác quản lý về mặt tổ chức.

ở mỗi Toà án quận, huyện đều thành lập Chi bộ Đảng dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương. Mối quan hệ giữa Sở với cấp uỷ địa phương đều có sự thống nhất cao giữa Giám đốc Sở Tư pháp vơí cấp uỷ nhất là công tác đánh giá quy hoạch cán bộ, công tác tuyển chọn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó chánh án Toà án quận, huyện, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, thuyên chuyển điều động, chính sách cán bộ v.v... Đặc biệt công tác tuyển chọn cán bộ chủ chốt, Thẩm phán của các Toà án quận, huyện đều đã thực hiện theo một quy trình chặt chẽ có sự thống nhất cao, coi trọng ý kiến của cấp uỷ địa phương.

Thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, từ năm 1994 đến nay Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quận, huyện thành phố đã xem xét đề nghị lên Chủ tịch nước bổ nhiệm được: 111 Thẩm phán, trong đó có: 58 nữ và 53 nam, 09 Thẩm phán được bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh án và 16 Thẩm phán được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó chánh án.

* Về tuổi đời của Thẩm phán:

- 45 đến 55 tuổi có: 30 người

- 35 đến 45 tuổi có: 53 người

- 25 đến 34 tuổi có: 26 người

- 56 đến 58 tuổi có: 2 người

+ 103 Thẩm phán là đảng viên, còn 8 Thẩm phán diện cảm tình đảng.

* Về trình độ chuyên môn của Thẩm phán:

- Đã tốt nghiệp Đại học luật hoặc Cao đẳng toà án: 97 người

- Đang học ĐHPL tại chức: 5 người

- Trung cấp pháp lý: 4 người

- Luân huấn hình sự và dân sự: 5 người

Công tác quy hoạch và bố trí cán bộ ở các toà án luôn được coi trọng và có sự phối kết hợp thường xuyên. Hàng năm có tổ chức kiểm tra, nhận xét, đánh giá các mặt công tác của tập thể, cá nhân cán bộ toà án, có sự kết hợp chặt chẽ giữa tập thể lãnh đạo toà án quận, huyện với Sở Tư pháp, cấp uỷ địa phương và lãnh đạo toà án thành phố Hà Nội. Định hình, định hướng bồi dưỡng lớp cán bộ kế cận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và giữ vững ổn định về mặt tổ chức. Qua kiểm tra và thăm dò, hầu hết các Thẩm phán có ý kiến về chỉ tiêu xét xử của một thẩm phán, nếu hình sự thì 8 đến 10 vụ /tháng, dân sự, hôn nhân và gia đình thì từ 5-6 vụ/tháng. Bố trí mỗi thẩm phán có một thư ký, có như vậy chất lượng xét xử mới cao, đỡ căng thẳng về sức khoẻ và có thời gian nghiên cứu học tập thêm.

5. Về thực hiện chính sách, chế độ, khen thưởng, kỷ luật:

Ngay sau khi thực hiện chế độ chuyển xếp lương mới, căn cứ các văn bản quy định về chế độ lương của cán bộ Toà án và hướng dẫn của Bộ tư pháp, Sở Tư pháp đã kịp thời chuyển xếp lương cho 100% cán bộ Toà án đúng, đủ theo chế độ, không có trường hợp nào khiếu nại việc chuyển, xếp lương sai. Từ ngày 01/01/1993 việc cấp kinh phí, trang thiết bị cơ sở vật chất, xây dựng trụ sở cơ quan Toà án do Bộ Tư pháp thực hiện, bước đầu có nhiều thuận lợi. 6/10 Toà đã có trụ sở mới. Các toà hầu như được trang bị phương tiện đi lại (xe máy), nhu cầu về bản, ghế xét xử, tủ đựng tài liệu phần nào đã được đáp ứng. Chế độ bồi dưỡng trong phiên toà đã được nâng lên và thống nhất trong việc chi tiêu. Việc cấp phát trang phục được Bộ Tư pháp thống nhất về giá cả, mầu sắc, quy cách và tập trung vào một đầu mối do Toà án thành phố tổ chức thực hiện có sự phối hợp cùng Sở Tư pháp. Tuy nhiên, công tác kiểm tra về việc chi tiêu sử dụng kinh phí, trang phục v.v... chưa được thường xuyên. Bộ nên có quy chế và chỉ đạo cấp Sở có chương trình kế hoạch kiểm tra, tránh buông lỏng trong công tác quản lý tài chính.

Về công tác thi đua, khen thưởng trong những năm qua được thực hiện khá tốt. Sở và Toà án thành phố có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất cùng lãnh đạo các toà án quận, huyện đề ra các tiêu chuẩn thi đua cụ thể của ngành. 6 tháng đầu năm và cuối năm Sở và Toà án thành phố có kiểm tra, chấm điểm phân loại và thống nhất mức khen thưởng hoặc kỷ luật. Trong công tác khen thưỏng Bộ cần có sự chỉ đạo cụ thể hơn như: số lượng, mức khen phù hợp với ngân sách khen thưởng trong quỹ tiền lương, nhằm khuyến khích kịp thời phong trào thi đua chung.

6. Một số đề xuất và kiến nghị:

a) Về công tác cán bộ: cần có sự chỉ đạo thống nhất để có sự phối kết hợp đồng bộ và có hiệu quả hơn.

b) Hàng năm Bộ nên tổ chức Hội nghị chuyên đề về công tác quản lý về mặt tổ chức các toà án nhân dân quận, huyện nhằm nâng cao hiệu quả công tác và hoạt động của Toà án.

c) Nên cải tiến, giảm bớt các bước trong việc tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán nhưng đảm bảo đúng tiêu chuẩn và chất lượng.

d) Đề nghị cải tiến khung bậc lương đối với Chánh án các Toà án quận, huyện. Như hiện nay thẩm phán quận, huyện được bổ nhiệm thẩm phán cấp thành phố lương cao hơn Chánh án quận, huyện là chưa hợp lý.

e) Bộ sớm có kế hoạch phân bổ chỉ tiêu biên chế cán bộ Toà án hàng năm cho Sở, nên cơ cấu một thẩm phán một thư ký. Chỉ tiêu mỗi thẩm phán xét xử hình sự 8-10 vụ/tháng; dân sự, hôn nhân và gia đình nên 5-6 vụ/tháng.

g) Cần có sự phối kết hợp tốt hơn giữa Sở Tư pháp và Toà án tỉnh thành, chủ động, tăng cường công tác kiểm tra về tổ chức, hoạt động xét xử và các mặt công tác khác để kịp thời có biện pháp giải quyết, những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở.

Trên đây là một số vấn đề nêu ra để cùng suy nghĩ, xem xét cũng là những vấn đề mà chúng tôi trăn trở nhiều năm nay. Hy vọng với định hướng tới cải cách nền hành chính Tư pháp bộ máy trong các cơ quan Tư pháp sẽ được xác định và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên cơ sở đó sẽ góp phần đưa hoạt động Tư pháp có vị trí xứng đáng trong hệ thống các cơ quan Nhà nước và thế giới./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

tiêu chí đánh giá chất lượng

xét xử của thẩm phán

 

Trần Quốc Phú

Chánh thanh tra - Bộ Tư pháp

 

Khi nói đến chất lượng xét xử của thẩm phán là phải nói đến mối liên hệ gắn bó hữu cơ như "một dây chuyền sản xuất" của ba cơ quan làm án: Công an, Viện kiểm sát, Toà án. Có thể nói hai cơ quan điều tra, truy tố khi tiến hành thực hiện nhiệm vụ của mình thì kết quả, chất lượng công việc như thế nào đều có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xét xử của Thẩm phán.

Chất lượng xét xử của Thẩm phán phụ thuộc vào trình độ năng lực chuyên môn và phẩm chất, tư cách của thẩm phán.

Chất lượng xét xử của thẩm phán được xác định qua các loại hình xét xử: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và sơ thẩm đồng thời chung thẩm và qua công tác kiểm tra, thanh tra (kể cả việc thanh tra, kiểm tra lại phiên toà một cách đột xuất hoặc đỉên hình có kế hoạch).

Đồng thời chất lượng xét xử của thẩm phán được thể hiện cụ thể và rõ ràng qua các loại án như: hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, án kinh tế, lao động và án hành chính. Tuy nhiên hiện nay các loại án về tranh chấp hợp đồng kinh tế ngày càng ít so với thời kỳ còn tồn tại cơ quan trọng tài kinh tế Nhà nước; các loại án về giải quyết quyết định hành chính có nhiều nơi không có, hoặc nơi nào có cũng rất ít. Do vậy để đánh giá chất lượng xét xử của các thẩm phán ở các loại án nói trên là không có điều kiện và cơ sở. Vì vậy, trước mắt chỉ còn tập trung ở các loại án hình sự, dân sự và hôn nhân gia đình.

Việc xét xử của thẩm phán thường chứa đựng ba nội dung: nghiên cứu hồ sơ, điều hành phiên toà và nghị án - tuyên án.

Về thuật ngữ xét xử là một động từ (hay động ngữ) chỉ việc xem xét và xử các vụ án (Từ điển tiếng Việt, tr.1184). Như vậy, đối chiếu với Bộ Luật tố tụng hình sự thì xét xử được chia làm hai "công đoạn" và tạm thời xin giải thích như sau:

 

- Xem xét: là nói tới việc nghiên cứu hồ sơ, việc chuẩn bị xét xử (Chương 16 Bộ luật tố tụng hình sự từ Điều 151 đến Điều 158).

- Xử: là nói tới giai đoạn "ngồi toà" được bắt đầu từ thủ tục chủ toạ phiên toà đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử (Chương 18,19,20,21, từ Điều 175 đến Điều 203 Bộ luật tố tụng hình sự).

Xem xét và xử là hai "công đoạn" khác nhau qua lại lẫn nhau và đều có thể tạo nên độ "an toàn" và ngược lại trong quá trình tiến hành tố tụng cho đến khi kết thúc vụ án. Có thể nói rằng hai "công đoạn" xem xét và xử là 2 yếu tố cấu thành chức năng xét xử của toà án, mà các cơ quan bảo vệ pháp luật khác không thể có được. Chúng tôi coi công việc xét xử của toà án chính xác hơn là của thẩm phán - là quá trình lao động trí tuệ đầy gian nan vất vả, thì việc ra được một bản án của thẩm phán được coi là một sản phẩm - loại "siêu sản phẩm". Nếu một vụ án chứa đựng nhiều tình tiết phức tạp, phát sinh nhiều mối quan hệ trên, dưới, trong, ngoài, chằng chịt... thì một thẩm phán, chủ toạ phiên toà bằng bản lĩnh vững vàng cộng với chuyên môn giỏi, lại hiểu biết về "nhân tình, thế thái" và bằng sự lao động hăng say, chắc chắn sẽ đưa ra được một phán quýêt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật (thậm chí còn đúng lúc - như là Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói), bản án đó sẽ được nhân dân đồng tình, và như vậy, bản án sẽ không còn dừng lại ở phạm trù "siêu sản phẩm", đã trở thành một tác phẩm - ‘Tác phẩm pháp lý". Trong lịch sử xét xử của toà án nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trước kia, và ngày nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã có rất nhiều những án văn do các " quan toà" đầy bản lĩnh làm ra, nó còn lưu truyền cho đến ngày nay và mãi mãi về sau. Ví dụ trong từng thời kỳ chúng ta thấy:

- Năm 1965, Toà án nhân dân tỉnh Nam Hà, xét xử vụ Lương Huy Hân, đội lốt tôn giáo, có nhiều tội ác trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mặc dù đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta khoan hồng, nhưng trong cuộc chống chiến trang phá hoại của đế quốc Mỹ, y vẫn ngựa quen đường cũ, lợi dụng sự tự do tín ngưỡng để hoạt động chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà của nhân dân ta.

Vụ án được đưa ra xét xử công khai, điển hình ở ngay tại địa phương có đồng bào theo đạo thiên chúa, bản án tuyên đã được đồng bào hoan nghênh và ca ngợi...

- Năm 1972 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử vụ án Tạ Đình Đề.

- Tháng 8-1988 Toà án quân sự quân khu 9 xử vụ Nguyễn Văn Thụ tức Nguyễn Ngọc - nguyên trung tá chỉ huy trưởng Công an nhân dân vũ trang tỉnh Minh Hải giết Lữ Anh Dồi.

- Tháng 12-1990 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử Nguyễn Văn Mười Hai - tên lừa đảo thế kỷ...

Những bản án đã được tuyên trong các vụ án nói trên, thực sự là những công trình pháp lý mang tính công bằng, công minh rất cao và đầy tính thuyết phục... Nó thực sự là những "sản phẩm pháp lý".

Nói đến "sản phẩm" cũng có thể là chính phẩm, thứ phẩm, thậm chí là phế phẩm. Những loại "sản phẩm" như thế này chúng tôi mạnh dạn ví như: án sơ thẩm đã được phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm y án gọi là "chính phẩm". Những vụ án sơ thẩm, hoặc phúc thẩm bị giám đốc thẩm cải, sửa; hoặc sơ thẩm bị phúc thẩm cải, sửa là "thứ phẩm". Những vụ án sơ thẩm bị phúc thẩm huỷ, hoặc phúc thẩm bị giám đốc thẩm huỷ là "phế phẩm".

Tiếc thay, trong thực tế xét xử 3 loại sản phẩm này đều có thể xẩy ra ở các trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Khi mà cấp phúc thẩm còn nhiều sai sót và ngay cả giám đốc thẩm (nhất là loại án dân sự) cũng còn có độ "dung sai" không cho phép1, thì đây chính là sự khó khăn, phức tạp để có thể tìm đến một tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử của thẩm phán, nếu như chúng ta không có quyết tâm, không có một đầu tư để nghiên cứu vấn đề này, và nếu chúng ta nhìn nhận sự vật một cách tuyệt đối, cứng nhắc thì có lẽ việc đưa ra một tiêu chí để đánh giá chất lượng xét xử của thẩm phán là chua có thể thực hiện...

Chúng tôi đưa ra một vài số liệu xét xử của 2 năm 1994 và 1996 để có một nhận xét khách quan về chất lượng xét xử của thẩm phán hiện nay:

- Tại báo cáo tổng kết công tác Toà án toàn quốc năm 1994, đồng chí Chánh án Toà án nhân dân tối cao nói về chất lượng xét xử như sau: "... Rất đáng chú ý là tỷ lệ án sơ thẩm được y án khi phúc thẩm đạt rất thấp. Điều đó phản ảnh chất lượng xét xử dân sự cần được quan tâm kiểm tra, rút kinh nghiệm, uốn nắn những sai sót đồng thời quan tâm hơn nữa vấn đề xây dựng pháp luật dân sự...". Để chứng minh lời nhận xét của đồng chí Chánh án Toà án nhân dân tối cao, chúng tôi xin trích dẫn các Toà án nhân dân địa phương xét xử các vụ án dân sự và hôn nhân gia theo trình tự phúc thẩm năm 1994:

- Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình xử 11 vụ án dân sự, thì cải sửa tới 3 vụ và 1 vụ bị huỷ. Tỷ lệ cải, sửa, huỷ tới 37%.

- Toà án nhân dân tỉnh Sông Bé xử 78 vụ dân sự chỉ xử y án có 28 vụ, còn cải sửa tới 36 vụ và huỷ án tới 14 vụ. Tỷ lệ cải, sửa, huỷ tới 64%.

- Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xử 49 vụ dân sự, chỉ y án có 11 vụ, cải sửa án tới 38 vụ. Tỷ lệ cải, sửa tới77%...

Nếu tổng cộng các Toà án cấp tỉnh xử phúc thẩm trong năm 1994 về các vụ án tranh chấp dân sự thì trong số 3993 vụ đã xử, chỉ y án sơ thẩm 47,93%. Và về lĩnh vực hôn nhân gia đình đã xử phúc thẩm 1973 vụ, nhưng tỷ lệ y án sơ thẩm chỉ đạt có 38,62%.

Còn 3 Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao đã xử 352 vụ tranh chấp dân sự, chỉ y án sơ thẩm vopứi tỷ lệ 54,26%; xử 70 vụ hôn nhân và gia đình, chỉ y án sơ thẩm với tỷ lệ 47,16%.

Về xét xử hình sự xin trích dẫn một số địa phương như sau:

- Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử phúc thẩm 376 vụ với 564 bị cáo chỉ y án có 474 bị cáo; cải, sửa án 80 bị cáo, huỷ án 10 bị cáo. tỷ lệ cải, sửa, huỷ chiếm 16%.

- Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc xử phúc thẩm 213 vụ án với 291 bị cáo, chỉ y án 134 bị cáo, cải sửa án 124 bị cáo, huỷ án 33 bị cáo. Tỷ lệ cải, sửa, huỷ án chiếm 54%.

- Toà án nhân dân tỉnh Bình Định xử phúc thẩm với 68 vụ với 95 bị cáo, xử y án chỉ có 43 bị cáo, cải sửa án tới 46 bị cáo, huỷ án 6 bị cáo. Tỷ lệ cải, sửa, huỷ án chiếm tới 50%.

- Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử 58 vụ với 86 bị cáo, xử y án 54 bị cáo, cải sửa án 29 bị cáo, huỷ án 3 bị cáo. Tỷ lệ cải, sửa, huỷ án chiếm 37%.

Từ những số liệu nói trên của năm 1994 cho chúng ta một nhận xét rất khách quan là: chất lượng xét xử án dân sự thấp hơn chất lượng án hình sự. Chất lượng xét xử nói chung các loại án của Toà án nhân dân cấp huyện còn rất thấp.

Năm 1996 do nhiều nguyên nhân nên chúng tôi không có được số liệu một cách tương đối như năm 1994, nhưng có thể dẫn chứng ra đây kết luận về chất lượng công tác xét xử các vụ án hình sự của các cấp Toà án qua báo cáo tổng kết công tác năm 1996 của Toà án nhân dân tối cao: "...Đã hoàn thành và hoàn thành tốt công tác xét xử đạt tỷ lệ cao với chất lượng tốt hơn năm trước...".

Vậy chất lượng xét xử tốt hơn năm trước được thể hiện như thế nào?

Cũng theo báo cáo của Toà án nhân dân tối cao thì: "... trong tổng số vụ án mà Toà án nhân dân cấp tỉnh khi xử phúc thẩm đã y án sơ thẩm gần 67%. Số vụ án sơ thẩm bị huỷ để điều tra, xét xử sơ thẩm lại chỉ chiếm 5,34% (tức 333 vụ/6242 vụ), số vụ còn lại là tăng án, giảm án, hoặc sửa phần dân sự, hình phạt bổ sung, án phí... đối với những vụ án do cấp tỉnh xử sơ thẩm mà có kháng cáo và kháng nghị, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã xử y án gần 80%, số bản án bị huỷ để xét xử lại chỉ chiếm 1,6% (tức là 81 vụ/5092 vụ).

Về công tác xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình

- Các Toà án nhân dân địa phương xử phúc thẩm về tranh chấp dân sự, y án sơ thẩm với tỷ lệ rất thấp: 45,11%. Về hôn nhân và gia đình còn thấp hơn: 40%. Số án bị huỷ cho cả hai loại trên là: 10,73%. Bị cải, sửa là 45%.

- Còn các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xử y án sơ thẩm còn thấp hơn nhiều sau đây là những con số đáng lo ngại: y án sơ thẩm 38,49%, huỷ án tới 12,7%...

- Về giám đốc thẩm: các Toà án nhân dân địa phương đã phải xử giám đốc thẩm tới 233 vụ, đạt tỷ lệ 89% nhưng đã phải huỷ án tới 202 vụ, chiếm 86,6%. Toà án nhân dân tối cao xét xử 474 vụ đạt tỷ lệ 55%... (đây là án dân sự, chưa nói tới các loại án khác).

So sánh chất lượng xét xử giữa 2 năm 1994 và 1996, chúng ta thấy chất lượng xét xử không thấy có chuyển biến, mà thậm chí có phần đáng lo ngại hơn.

Nếu như việc cải, sửa, huỷ án của phúc thẩm đối với các bản án có kháng cáo, kháng nghị và đối với việc cải, sửa, huỷ của giám đốc thẩm đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật diễn ra "suôn sẻ" thì việc thống nhất để tìm ra một tiêu chí nhằm đánh giá chất lượng xét xử là nhông khó. Song, trong thực tế có những điều không thể phủ nhận đó là: có nhiều bản án sơ thẩm xử đúng,, đã bị phúc thẩm cải, sửa, huỷ sai, dẫn đến cấp giám đốc thẩm phải huỷ án phúc thẩm, giữ nguyên quyết định của sơ thẩm. thậm chí không ít những vụ án (phổ biến trong lĩnh vực tranh chấp dân sự) án sơ thẩm hoặc phúc thẩm xử đúng, nhưng giám đốc thẩm lại xử sai, dẫn đến vụ án phải kéo dài hàng chục năm, xử đi, xử lại nhiều lần để rồi cuối cùng có vụ án lại trở về quyết định ban đầu của án sơ thẩm, hoặc quyết định của án phúc thẩm lần đầu...

Tình trạng trên đã làm cho nhiều đơn vị Toà án, nhiều thẩm phán các cấp băn khoăn, trăn trở cho rằng không thể tìm ra được một tiêu chí thống nhất để đánh giá chất lượng xét xử của thẩm phán...

Chúng tôi nghĩ rằng, trong số hàng ngàn, hàng vạn vụ mà cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm đã xét xử, thực tế có một tỷ lệ án sai tuy không ít, song không phải là nhiều, không phải là đa số. Mà sự sai sót đó ngoài lý do chủ quan như trình độ thẩm phán còn yếu, một số người không giữ được phẩm chất trong sáng... thì nguyên nhân khách quan cũng có nhiều như: thẩm phán tất cả các cấp còn rất thiếu, nhưng án lại nhiều, có người hàng tháng phải xử trung bình gần 30 vụ... Nhưng việc đảm bảo cho cuộc sống bình thường của một thẩm phán chưa đủ, hệ thống xét xử chưa hoàn thiện...

Như chúng ta đã biết hiện nay đang tồn tại bên cạnh 2 cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm một trình tự đặc biệt, đó là trình tự xét xử giám đốc thẩm ở 4 cấp thẩm quyền. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, Bộ luật tố tụng hình sự và các Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì:

1. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện. Uỷ ban thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự khu vực.

2. Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh. Toà án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định của các Toà án quân sự cấp quân khu.

3. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án thuộc Toà án nhân dân tối cao (kể cả Toà án quân sự trung ương).

4. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những quyết định của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.

Trong khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đôi khi việc xét xử giám đốc thẩm cũng bị "trục trặc kỹ thuật" dẫn đến có sai lầm trong phán quyết, nhất là ở khâu giám đốc thẩm các vụ án dân sự. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng với thực trạng của công tác xét xử như hiện nay thì với 4 cấp thẩm quyền của trình tự giám đốc thẩm là thể hiện tính triệt để trong việc đề cao sự công bằng, công lý của Nhà nước ta. Nếu cấp giám đốc thẩm ở dưới xử sai sẽ bị giám đốc thẩm sửa, cứ như vậy diễn ra theo hình tháp của luật định, những phán quyết của các cấp Toà án cao hơn tất nhiên có độ chính xác, cũng có "độ an toàn" hơn.

Trong thực tế có nhiều người dân bị oan ức đã đến khắp mọi nơi, mọi cấp để kêu cứu những mong được pháp luật bảo vệ, kết quả đã có những người được toại nguyện. Bên cạnh đó không ít những người dựa vào quy định của pháp luật để lợi dụng bằng mọi cách, kể cả những hành vi xấu xa hòng vô hiệu hoá đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật...

Nhưng suy cho cùng, thì việc "kêu cứu" để được minh oan là việc lợi dụng để vô hiệu hoá các bản án đã có hiệu lực pháp luật và đúng, phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng phán quyết của Toà án, những phán quyết, nhất là của cấp phúc thẩm, đạt tới trình độ lý tưởng - chúng tôi gọi là "án lệ kiểu mẫu" thì những hiện tượng nói trên sẽ dần dần bị triệt tiêu, đồng thời lòng tin của nhân dân đối với cơ quan xét xử sẽ được nâng lên gấp bội.

Cũng có ý kiến cho rằng thật là khó khăn để có thể đảm bảo chất lượng xét xử của thẩm phán bởi nhiều lý do, nhưng trong đó nổi bật là lý do "những mối quan hệ chằng chịt" luôn diễn ra thường xuyên và tác động trực tiếp tới bản thân người thẩm phán.

Khi xét xử thẩm phán thường gặp phải những tình huống như: có ý kiến của "xếp", lời "đề nghị" của người thân và sự "mua chuộc" của đương sự... Đã phải đấu tranh quyết liệt với chính bản thân mình để đi đến sự lựa chọn.

- Hoặc là khước từ các "tình huống" nói trên do những mối quan hệ chằng chịt tạo thành, để làm theo các nguyên tắc của luật và chấp nhận sự "thiệt thòi" nhưng đây chính là chân dung đích thực của thẩm phán - Những quan toà thanh liêm chính trực.

- Hoặc là thoả mãn những "mối quan hệ chằng chịt" đó, và tất yếu dẫn đến phải gánh chịu trách nhiệm về hậu quả của chất lượng xét xử do mình gây nên !

Cũng có trường hợp thẩm phán khi xét xử sơ thẩm, hoặc phúc thẩm, đã có đủ căn cứ tin rằng việc phán quyết của mình là đúng nhưng đã bị phúc thẩm, hoặc giám đốc thẩm cải, sửa, huỷ sai, nếu một thẩm phán có tinh thần trách nhiệm, nêu cao tính chiến đấu của người cộng sản thì việc "phản ứng" bằng văn bản kiến nghị lên cấp có thẩm quyền là một hành động tích cực, cần được khuyến khích bởi nó mang tính dân chủ nhưng có tổ chức của thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.

Nếu kiến nghị được cấp có thẩm quyền chấp nhận thì đó là một sự tự hoà chính đáng, sự xác nhận khách quan về khả năng chuyên môn của thẩm phán đó, nhưng ý nghĩa lớn lao hơn nhiều, đó là chân lý, đã được khẳng định, lòng dân thêm tin tưởng đối với Toà án...

Trường hợp kiến nghị của thẩm phán bị cấp có thẩm quyền bác bỏ, cũng có nghĩa là thẩm phán đã ngộ nhận và cần phải nghiêm túc xem xét lại trình độ chuyên môn cuả mình.

Mặt khác, Vì lý do nào đó nằm trong các "mối quan hệ chằng chịt" mà thẩm phán "không tiện" phản ứng, để chìm sâu trong im lặng, thì mặc nhiên, thẩm phán phải chịu trách nhiệm về chất lượng xét xử của mình...

Và trong thực tế còn rất nhiều những tình huống khác xẩy ra trong lĩnh vực xét xử mà chúng tôi chưa có điều kiện trình bày ở đây.

Xin trở lại việc tìm ra "tiêu chí" để đánh giá chất lượng xét xử của Thẩm phán.

Theo từ điển tiếng Việt (trang 1022) thì tiêu chí là một danh từ hay danh nghĩa, chỉ tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm.

Như vậy, tiêu chí để đánh giá chất lượng xét xử của thẩm phán là phán quyết của phúc thẩm đối với các bản án sơ thẩm có kháng cáo kháng nghị; của giám đốc thẩm đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm (chúng tôi cũng xin lưu ý rằng, qua công tác kiểm tra của Ban thanh tra Toà án nhân dân tối cao và các phòng kiểm tra, giám đốc của các Toà án nhân dân địa phương cấp tỉnh, những kết luận kiểm tra đó cũng là một dạng để đánh giá chất lượng xét xử của thẩm phán).

Báo cáo được thực hiện như sau:

- Đối với các Toà án nhân dân cấp tỉnh ngoài việc phải báo cáo theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, thì còn phải báo cáo theo các Toà chuyên trách (Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động...).

- Đối với các Toà án nhân dân cấp huyện thì Sở Tư pháp là người tổng hợp báo cáo theo mẫu báo cáo chung thể hiện ở các loại hình án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế... để báo cáo lên Bộ Tư pháp về chất lượng xét xử của Toà án cấp huyện do mình quản lý. Đồng thời theo dõi, đánh giá chất lượng xét xử của từng thẩm phán trong mỗi đơn vị Toà án.

- Đối với các Toà phúc thẩm và Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao sẽ do quy chế làm việc của Toà án nhân dân tối cao quy định.

- Đối với các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực báo cáo như đối với các Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện (do không có cơ cấu như Sở Tư pháp...).

Về thời gian, một năm các đơn vị mới phải báo cáo một lần, theo chúng tôi là phù hợp với thời gian xét xử của 2 cấp sơ và phúc thẩm. còn đối với trình tự giám đốc thẩm thì khó khăn hơn, bởi lẽ không ít những vụ án phải kéo dài nhiều năm mới biết được kết quả.

Qua báo cáo này, cơ quan quản lý nhận biết được chất lượng xét xử của một đơn vị Toà án, trong đó tới từng thẩm phán, của từng loại án và của từng cấp xét xử. Qua báo cáo, chúng ta đánh giá một cách khách quan trình độ chuyên môn của từng cấp xét xử, loại án nào có chất lượng xét xử cao, loại án nào cần phải uốn nắn và hoàn thiện về lý luận cũng như về đường lối xét xử, địa phương nào, đơn vị nào hay xử nhẹ, hay cho án treo, đơn vị nào có chiều hướng xử nặng, có quan điểm "bác đơn ly hôn đến cùng", và cuối cùng thẩm phán nào có trình độ chuyên môn yếu kém, không thể giữ chức vụ lãnh đạo, thậm chí không thể để làm công tác xét xử...

Do cấp phúc thẩm và trình tự giám đốc thẩm cũng phải báo cáo, nên về mặt tâm lý phần nào cũng "giải toả" được những "băn khoăn" của các thẩm phán, tăng thêm niềm tin ở cấp dưới đối với xét xử của cấp trên, của cấp có thẩm quyền, trong việc xử lý những sai phạm của thẩm phán ở tất cả các cấp, thể hiện sự công bằng và công lý của pháp luật.

Khi thẩm phán xét xử có sai lầm, thì về trách nhiệm và hậu quả pháp lý như thế nào? Chúng tôi xin đề xuất như sau:

1. Về chế độ trách nhiệm

Đối với việc xét xử sơ thẩm, thì thẩm phán chủ toạ phiên toà phải chịu trách nhiệm chính và chủ yếu đối với chất lượng xét vụ án cụ thể đó, nói trách nhiệm chính và chủ yếu là bởi vì còn có 2 hội thẩm (hoặc 3 hội thẩm) tham gia. Nói trách nhiệm chính và chủ yếu còn đề cập tới trường hợp khi 2 hội thẩm biểu quyết theo đã số, thẩm phán biết là sự biểu quyết đó là không đúng nhưng phải chấp hành, nhưng thẩm phán chủ toạ phiên toà đã thể hiện quan điểm và trách nhiệm của mình đến đâu trong biên bản nghị án là sau đó là thái độ "phản ứng" có tính tổ chức như ở phần trên đã trình bày.

- Đối với việc xét xử phúc thẩm của Toà án tỉnh và Toà án tối cao (và giám đốc thẩm của các Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao) thì các thẩm phán trong hội đồng xét xử phải cộng đồng và liên đới chịu trách nhiệm, trong đó thẩm phán nghiên cứu hồ sơ, hoậc chủ toạ phiên toà là người chịu trách nhiệm chính đối với chất lượng của vụ án đó.

- Đối với việc xét xử giám đốc thẩm, thì Uỷ ban thẩm phán của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải cộng đồng chịu trách nhiệm, trong đó thẩm phán trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, Chánh án, Phó chánh án chủ toạ phiên toà phải chịu trách nhiệm chính và ngang nhau.

2. Về hậu quả pháp lý

 

- Một thẩm phán trong một năm bị huỷ một vụ án và cải sửa 3 vụ, có thể bị một chế tài, ví dụ: không được lên lương và nhắc nhở trong đơn vị.

- Nếu năm sau lại bị huỷ một vụ án và vẫn bị cải sửa 1 số vụ án thì đó là sự "tái phạm" cần phải có một chế tài cao hơn. Ví dụ: cảnh cáo trong đơn vị và tất nhiên cũng không thể lên lương, hoặc đề bạt lên chánh, phó toà...

- Nếu sang năm thứ 3 thẩm phán đó vẫn "tái phạm" có nghiã là "quá tam ba bận", thì không thể giữ nhiệm vụ xét xử được nữa.

Đối với thẩm phán giữ chức chánh án, chánh toà, phó chánh toà mà do trình độ chuyên môn yếu kém, việc xét xử thường là sai lầm, bị huỷ, cải, sửa cũng nên không để giữ những chức vụ đó (nhất là đối với cấp tỉnh và huyện).

Dưới đây là dự thảo báo cáo chất lượng xét xử của thẩm phán đã được Vụ quản lý toà án địa phương Bộ Tư pháp đang áp dụng:

Tên đơn vị Báo cáo kết quả và chất lượng

.................. xét xử của thẩm phán, năm 199...

 

Số lượng án

Chất lượng xét xử

Xét xử thụ lý

Tỷ lệ%

Y án

Cải sửa án

Huỷ án

Tỷ lệ % cải, sửa, huỷ án

1

Trần Văn A

10 vụ

12 vụ

83,3%

5 vụ

4

1

50%

4 vụ cải sửa nhỏ về áp dụng điều luật

2

Nguyên X

8vụ

10 vụ

80%

7 vụ

1

0

0,12%

Chuyển giam thành treo

3

Hoàng Y

10vụ

10 vụ

100%

10 vụ

0

0

0

 

Ngày tháng năm

Chánh án

 

 

Vấn đề tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm

thẩm phán toà án huyện -

thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp

 

Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ

 

Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các cơ quan xã hội được pháp luật điều chỉnh như quan hệ dân luật, hình sự, hôn nhân và gia định, kinh tế, hành chính... cũng phát triển theo chiều hướng ngày càng đa dạng, phức tạp. Điều đó là yếu tố khách quan đòi hỏi tăng cường đội ngũ Thẩm phán, đặc biệt là thẩm phán cấp huyện và đổi mới công tác quản lý mà đáng chú ý là công tác bổ nhiệm, điều động thẩm phán.

I. Thực trạng vấn đề tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện:

Cùng với việc kiện toàn tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp, sau Hiến pháp 1992 Nhà nước đã xác lập lại chế độ bổ nhiệm thẩm phán theo nhiệm kỳ 5 năm thay thế chế độ bầu thẩm phán được duy trì từ năm 1960-1992.

Qua thực tiễn việc tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm thẩm phán toà án cấp huyện có những mặt ưu điểm, thể hiện:

- Việc bổ nhiệm Thẩm phán về cơ bản đã lựa chọn được những người có đủ tiêu chuẩn để xét xử. Chấm dứt được tình trạng cơ cấu không hợp lý khi đưa ra Hội đồng nhân dân bầu trước đây như có những trường hợp người có nghiệp vụ, có kinh nghiệm xét xử lại không được bầu, người không có chuyên môn lại được bầu làm thẩm phán.

- Bổ nhiệm thẩm phán sẽ tạo điều kiện tốt cho việc quản lý, công tác tổ chức cán bộ, như việc: quy hoạch đào tạo, sắp xếp, bố trí, điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm... Thẩm phán được nhanh chóng, kịp thời phục vụ tốt cho công tác xét xử mà không phụ thuộc vào nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cáap huyện.

- Bổ nhiệm thẩm phán theo nhiệm kỳ 5 năm làm cho Thẩm phán yên tâm công tác, có thời gian thực tiễn để học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn, tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn ngày càng nhiều để rèn luyện trở thành người thẩm phán có tay nghề, chuyên môn giỏi.

Bổ nhiệm Thẩm phán đã góp phần thực hiện tốt hơn nguyên tắc "độc lập khi xét xử" không bị lệ thuộc vào chỉ đạo cụ thể từng vụ án về chuyên môn của cấp uỷ và Hội đồng nhân dân ở địa phương.

Những năm qua công tác tuyển chọn Thẩm phán Toà án huyện, quận ở các địa phương đã thực hiện đúng Điều 20 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993. Việc tuyển chọn Thẩm phán phải tiến hành theo một thủ tục, trình tự chặt chẽ đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, dân chủ và khách quan. Việc tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán bắt đầu từ Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.

- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TAND cấp huyện, do Giám đốc Sở Tư pháp làm Chủ tịch. Các uỷ viên là đại diện Toà án tỉnh, Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc tỉnh, Ban chấp hành Hội luật gia tỉnh.

Về cơ cấu của Hội đồng cơ bản là hợp lý đại diện của các cơ quan, tổ chức là phù hợp với thể chế chính trị của Nhà nước ta. Tuy nhiên, trên thực tế sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án TAND tỉnh là khâu rất quan trọng có tính chất quyết định chất lượng đội ngũ Thẩm phán một cách toàn diện cả về năng lực và phẩm chất. Bởi vì cơ quan quản lý về tổ chức là Sở Tư pháp phối hợp với TAND tỉnh quản lý về chuyên môn nghiệp vụ sẽ có đủ cơ sở đánh giá chính xác đối với người được đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán.

- Công tác tuyển chọn Thẩm phán đảm bảo các nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, quyết định theo đa số nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng trong công tác tuyển chọn Thẩm phán.

- Công tác chuẩn bị hồ sơ được quy định các thủ tục chặt chẽ, dúng nguyên tắc.

Nhìn chung công tác tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán ở cấp huyện làm rất nghiêm túc theo một quy trình do Hội đồng tuyển chọn thực hiện đúng với quy định của pháp luật. Song công tác tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án huyện còn bộc lộ một số mặt tồn taị như sau:

- Về cơ cấu Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án huyện:

Theo quy định của Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 15-10-1993 của Toà án tối cao - Bộ Tư pháp, thì các thành viên Hội đồng tuyển chọn đại diện cho Mặt trận tổ quốc, Hội đồng nhân dân và Hội luật gia tỉnh còn mang tính hình thức. Bởi vì các cơ quan này ở cấp tỉnh chưa trực tiếp am hiểu và nắm bắt các hoạt động của Toà án cấp huyện, trong mối quan hệ về tổ chức cán bộ và chuyên môn của Toà án cấp huyện không có mối quan hệ quản lý. Chính vì vậy các thành viên của Hội đồng tuyển chọn đại diện cho các cơ quan đoàn thể nêu trên cần phải có sự sửa đổi cho phù hợp. Mặt khác cần bổ sung trong Hội đồng tuyển chọn nên có 1 Phó Chủ tịch là Chánh án TAND tỉnh để thay Chủ tịch Hội đồng khi vắng mặt.

Quá trình họp và xét hồ sơ từng người chủ yếu là do Giám đốc Sở Tư pháp (Chủ tịch) và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh là uỷ viên có những ý kiến đánh giá sát thực đối với cán bộ bởi vì là người trực tiếp quản lý về tổ chức và chuyên môn nghiệp vụ. Các thành viên còn lại không am hiểu về người Thẩm phán cho nên cũng ảnh hưởng đến công tác tuyển chọn Thẩm phán.

- Về áp dụng tiêu chuẩn Thẩm phán hiện nay vẫn cho nợ tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, do thiếu nguồn để bổ nhiệm nên khi tuyển chọn Thẩm phán còn phải xem xét cụ thể số cán bộ thực tée của từng đơn vị để bổ nhiệm cho nên không tránh khỏi những yếu kém trong nghiệp vụ xét xử của Thẩm phán. Có thể minh hoạ bằng số liệu cụ thể như sau: Tỉnh Phú Thọ có 10 Toà án huyện, thành, thị có 8/10 đợn vị có Thẩm phán nợ tiêu chuẩn nghiệp vụ. Tổng số Thẩm phán 43 người, nợ tiêu chuẩn nghiệp vụ 14 người = 32%, đây là vấn đề cần được quan tâm.

- Tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán cần được cụ thể hoá bằng những văn bản dưới luật của Bộ Tư pháp và Toà án tối cao. Ví dụ như tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán lần đầu và Thẩm phán được tái bổ nhiệm... thì Thẩm phán tái bổ nhiệm có nhiều án cải, huỷ hoặc nhiều bản án bị kháng nghị do sai phạm lớn thì nhiệm lỳ tiếp theo có bổ nhiệm nữa không?.

- Việc bổ nhiệm Thẩm phán huyện mà ghi rõ Thẩm phán huyện nơi công tác là không phù hợp với công tác quản lý gây khó khăn cho công tác tổ chức cán bộ nhất là việc điều động Thẩm phán từ huyện này sang huyện khác khi có nhu cầu tăng cường công tác xét xử.

II. Những giải pháp và kiến nghị về vấn đề tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp huyện:

- Trước hết công tác tuyển chọn Thẩm phán muốn đạt được hiệu quả và chất lượng cao thì một yêu cầu cơ bản là phải chống được tính hình thức trong công tác tuyển chọn. Đó là việc cần thay đổi thành phần thành viên Hội đồng tuyển chọn, thôi Hội luật gia thay vào đó là đại diện lãnh đạo Ban tổ chức Tỉnh uỷ. Bởi vì Hội luật gia chỉ là một tổ chức xã hội, hoạt động nghề nghiệp phải kiêm nhiệm, không có điều kiện để nhìn nhận, đánh giá cán bộ. Cùng với việc thay đổi thành phần Hội đồng tuyển chọn nên cụ thể hoá tiêu chuẩn tuyển chọn Thẩm phán đối với người lần đầu bổ nhiệm và người được tái bổ nhiệm. Quy định cụ thể hơn thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức Thẩm phán phải có những tiêu chí cụ thể. Trình tự xét cũng phải giống như thủ tục đề nghị bổ nhiệm.

- Cần phải tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán hiện có. Trước hết là lập danh sách thống kê phân loại trình độ Thẩm phán để báo cáo Bộ Tư pháp có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo sát hợp trong nhiệm kỳ, Thẩm phán không trả nợ được thì không đưa vào bổ nhiệm Thẩm phán nhiệm kỳ tiếp theo.

- Có kế hoạch thường xuyên nâng cao lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho Thẩm phán.

Trong các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán phải bố trí hợp lý môn học lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là môn chính khoá. Người được tuyển chọn làm Thẩm phán phải quy định rõ trình độ chính trị từ trung cấp chính trị trở lên, coi đây là một tiêu chuẩn trong việc tuyển chọn Thẩm phán.

- Cần phải có kế hoạch đào tạo, quy hoạch làm nguồn cho Thẩm phán. Chủ chương chiêu sinh như hiện nay đối tượng là cán bộ, thư ký Tòa án có trình độ đại học luật là quá cứng nhắc. Nếu đóng khung như vậy thì trong nhiều năm nữa mới có đủ số Thẩm phán được đề nghị bổ nhiệm. Vì vậy, cần chiêu sinh những người đã tốt nghiệp nhiều ngành khác nhau phù hợp với hoạt động xét xử để đào tạo chương trình pháp lý khi ra trường có thể trong thời gian quy định để được đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán.

Từ thực tiễn công tác tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán TAND cấp huyện chúng tôi xin kiến nghị một số nội dung sau:

1. Đề nghị phân cấp bổ nhiệm Thẩm phán TAND huyện giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.

2. Bổ nhiệm Thẩm phán huyện không nên ghi rõ Thẩm phán theo đơn vị hành chính mà chỉ ghi là Thẩm phán huyện, thành, thị trong tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

3. Phân cấp việc điều động Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án Toà án huyện trong một tỉnh giao cho Giám đốc Sở Tư pháp đảm nhiệm sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh.

4. Cuối nhiệm kỳ Thẩm phán nên tổ chức việc thi sát hạch công tác quản lý đối với Chánh án, Phó chánh án và sát hạch Thẩm phán. Trên cơ sở đó để đề nghị bổ nhiệm nhiệm kỳ tiếp theo. Qua sát hạch nếu năng lực thực tiễn yếu, trình độ không đạt yêu cầu - có thể thôi bổ nhiệm Thẩm phán có như vậy mới tạo cho Thẩm phán rèn luyện, học tập nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ chống tư tưởng bình quân chủ nghĩa, lười học tập, rèn luyện của người Thẩm phán./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

mối quan hệ giữa các cơ quan trong vấn đề bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác...thẩm phán – thực trạng và giải pháp

 

Vụ Quản lý Toà án địa phương

Bộ Tư Pháp

 

Đảng ta luôn coi trọng công tác quản lý cán bộ, vì nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, quyết định đến thành công hay thất bại của cách mạng, đến sự sống còn của đất nước. Với ý nghĩa như vậy, Đảng đã sớm hình thành những quan điểm, đường lối, chính sách đối với cán bộ và đã được bổ sung hoàn thiện qua từng giai đoạn lịch sử nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.

Những năm gần đây, Đảng có nhiều Nghị quyết quan trọng nói về công tác tổ chức và cán bộ như Nghị quyết Ban chấp hành trung ương 8 Khoá VII và Nghị quyết Ban chấp hành trung ương 3 Khoá VIII để gây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh với quan điểm là xác định và phân biệt rõ hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các tổ chức Đảng chính quyền và các đoàn thể quần chúng trong công tác cán bộ. Đó là những quan điểm mới về việc xác định các tiêu chuẩn đánh giá cán bộ và việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ; là những quan điểm mới về nội dung, phương pháp công tác tổ chức cán bộ và đổi mới đội ngũ những người làm công tác tổ chức cán bộ...

Như vậy có thể nói rằng, công tác tổ chức - cán bộ được đổi mới một cách tương đối cơ bản, thống nhất từ trung ương đến cơ sở và nó được tiến hành ở cả tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước. Toà án nhân dân với tư cách là một cơ quan trong bộ máy Nhà nước, việc đòi hỏi phải cải cách công tác tổ chức và cán bộ nhất là đội ngũ cán bộ là thẩm phán - những người nhân danh Nhà nước tuyên các bản án cũng được đặt ra. Mặt khác, trước yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp trong những năm gần đây là một nội dung của cuộc cải cách này, việc xem xét, đánh giá vị trí và kiện toàn đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân cũng đã được đổi mới. Luật tổ chức Toà án nhân dân do Quốc hội thông qua ngày 6 tháng 10 năm 1992 quy định thẩm phán Toà án nhân dân các cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thay chế độ bầu cử, bãi miễn thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp thực hiện trước đây. Chính từ những quy định này nên việc quản lý thẩm phán được đặt trong mối quan hệ của nhiều cơ quan của Đảng và Nhà nước nhằm thống nhất tiêu chuẩn, nâng cao vai trò thẩm phán trong hệ thống chính trị góp phần đảm bảo thực hiện nguyên tắc: "Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Vì những lẽ trên, trong bản báo cáo này chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề về thực trạng mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác... đối với thẩm phán Toà án nhân dân địa phương và một số kiến nghị về vấn đề này.

i. thực trạng mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc thực hiện chế định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và thuyên chuyển thẩm phán.

Theo quy định tại Điều 16 của Luật tổ chức Toà án nhân dân thì việc quản lý Toà án nhân dân điạ phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Cụ thể hoá quy định này ngày 29 tháng 9 năm 1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 46/UBTVQH9 ban hành quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong việc quản lý Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự quuan khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực. Trên cơ sở Nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ban hành quy chế số 91/TP-TA ngày 19 tháng 1 năm 1994 về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý Toà án nhân dân cấp huyện về mặt tổ chức. Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng đã ra quyết định phân cấp quản lý về tổ chức các Toà án nhân dân cấp huyện đối với Giám đốc Sở Tư pháp và quyết định uỷ quyền cho Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh. Một trong những văn bản có tính quan trọng đó là Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân-quy định các tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm Thẩm phán và bầu Hội thẩm nhân dân.

Những văn bản trên đây là những căn cứ pháp lý cơ bản nhằm thực hiện việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức đạt hiệu quả và đi vào nề nếp mà trong đó có các quy định về mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương. Và cũng qua những văn bản này chúng ta có thể thấy rằng Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản quản lý có trách nhiệm chính trong mối quan hệ phối hợp với các cơ quan khác như với Quốc hội, với Chủ tịch nước, với Toà án nhân dân tối cao, với tỉnh uỷ, thành uỷ đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh và Giám đốc Sở Tư pháp, huyện uỷ đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện. Như vậy vấn đề này có thể nhận thấy rằng nó là một cơ chế phối hợp mà cụ thể như sau:

1. Trong việc thực hiện chế định bổ nhiệm

Chế định bổ nhiệm Thẩm phán ở nước ta đã được xác định ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Theo Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 1 năm 1946 do Chính phủ ban hành, quy định thành lập hệ thống Toà án Tư pháp, trong đó quy định rõ việc thực hiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán và đồng thời xác định tính chất độc lập của người Thẩm phán. Cũng theo Sắc lệnh số 13/SL thì Thẩm phán Toà án sơ cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Tuy nhiên, chế định này cũng chỉ được thực hiện trong khoảng hơn mười năm.

Từ năm 1960 đến trước khi có Hiến pháp năm 1992, chế định bầu cử Thẩm phán đã được thực hiện ở các cấp Toà án. Theo chế định bầu cử Thẩm phán, có những ưu điểm là bảo đảm cho nhân dân lao động trực tiếp thực hiện quyền dân chủ trong việc lựa chọn những người thay mặt mình thực hiện hoạt động xét xử. Tuy nhiên, trong hơn 30 năm thực hiện chế định bầu Thẩm phán nó đã bộc lộ những nhược điểm như: Việc thực hiện chế định bầu Thẩm phán Toà án nhân dân ở nhiều nơi còn rất hình thức, chưa lựa chọn được những người có trình độ chuyên môn pháp lý, phẩm chất đạo đức tốt để thực hiện các nhiệm vụ của người Thẩm phán. Một nhược điểm nữa của chế định bầu Thẩm phán là nhiệm kỳ ngắn, phụ thuộc vào nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân làm cho Thẩm phán không yên tâm công tác dẫn đến viẹec người Thẩm phán không tập trung trí tuệ và sức sáng tạo của mình vào công tác xét xử. Cũng do chế định này làm hoạt động xét xử của Toà án thực sự không được độc lập vì lệ thuộc vào chính quyền địa phương và chính điều này dẫn đến tình trạng việc áp dụng luật ở một số Toà án không được thống nhất.

Chính vì những lý do trên đây mà Điều 128 Hiến pháp 1992, Điều 3 Luật tổ chức Toà án quy định chế độ bổ nhiệm Thẩm phán thay thế chế định bầu Thẩm phán. Tất cả các Thẩm phán Toà án nhân dân đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp là 5 năm. Riêng Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi miễn, nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ Quốc hội.

Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân quy định rõ các tiêu chuẩn cụ thể về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quá trình và thời gian công tác trong ngành pháp luật... của người Thẩm phán và trước khi được Chủ tịch nước ra quyết định bổ nhiệm làm Thẩm phán người đó phải được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xét chọn và đề nghị. Để có một đội ngũ Thẩm phán có năng lực, có trình độ chuyên môn vững vàng, có đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, có kinh nghiệm sống phong phú, phẩm chất đạo đức, chính trị tốt nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc Hiến định: "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" và các phán quyết của Thẩm phán đảm bảo sự công minh, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật thì việc xét chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ và phải được sàng lọc một cách kỹ lưỡng và phải được nhiều ngành, nhiều cấp tham gia, giám sát.

Để giúp Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, ở mỗi cấp đều có Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Pháp lệnh đã quy định: ở trung ương thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm án Toà án quân sự trung ương và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực; ở các tỉnh thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh - thành phần chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và nhiệm vụ của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp được quy định tại các Điều 21,22,23 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cũng đã quy định cụ thể tại Thông tư số 05/TTLN của liên ngành Toà án nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn một số quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Việc quy định thành phần như vậy thể hiện tính dân chủ, khách quan sự tham gia của các cơ quan, tổ chức xã hội, đoàn thể và tầng lớp nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua người đại diện trong việc tuyển chọn ra người xứng đáng giữ cán cân công lý. Mặt khác, quy định này cũng xác định vai trò và trách nhiệm của các cơ quan tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, cụ thể là Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự trung ương, Uỷ ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam đối với Thẩm phán cấp tỉnh; Toà án nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội luật gia tỉnh, Uỷ ban mặt trận tổ quốc tỉnh đối với Thẩm phán cấp huyện.

Công tác bổ nhiệm Thẩm phán không nằm ngoài công tác quản lý cán bộ của Đảng. Theo phân cấp quản lý cán bộ của Đảng hiện nay thì tỉnh uỷ, thành uỷ chỉ có ý kiến đối với Chánh án, Phó Chánh án cấp tỉnh nhưng đối với cán bộ cơ quan Toà án mang tính đặc thù là chỉ có Thẩm phán mới được xét xử các vụ án, do vậy, không chỉ Chánh án, Phó Chánh mà cả Thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm nên việc chuẩn bị nhân sự để đưa ra Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cần được sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Ngày 18 tháng 3 năm 1994, Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra chỉ thị số 36/CP-TƯ về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các cấp. Theo yêu cầu của Chỉ thị thì hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện phải do huyện uỷ, quận uỷ... chỉ đạo lập và có ý kiến; đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh phải có ý kiến của tỉnh uỷ, thành uỷ; ý kiến của Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân tối cao, Đảng uỷ quân sự trung ương đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương. Cũng theo yêu cầu của chỉ thị thì việc xét tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cần chú ý trước tiên về tiêu chuẩn về chính trị và phẩm chất đạo đức (trung thành với tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực...).

Như vậy có thể tóm tắt quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của pháp luật hiện hành như sau:

- Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, Ban cán sự Đảng Sở Tư pháp, Toà án nhân dân tỉnh cùng huyện uỷ thống nhất danh sách, hồ sơ đề nghị trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện. Đối với Thẩm phán cấp tỉnh Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao cùng tỉnh uỷ, thành uỷ thống nhất danh sách, hồ sơ trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh xét chọn.

- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp tỉnh trên cơ sở các quy định của pháp luật đối với tiêu chuẩn của Thẩm phán, xét chọn những người có đủ năng lực, trình độ chuyên môn đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán đối với các Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực. Đối với Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cấp huyện xét chọn, đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.

- Chủ tịch nước xem xét đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, ra quyết định bổ nhiệm.

Chế định bổ nhiệm Thẩm phán đảm bảo cho Nhà nước lựa chọn được người có đủ điều kiện về trình độ chuyên môn nghiệp vụ pháp lý thực hiện chức năng xét xử của Toà án. Mặt khác, Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ yên tâm công tác, có điều kiện tích luỹ kinh nghiệm xét xử, nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức pháp luật và trách nhiệm cá nhân, đồng thời xác định các cơ quan Đảng, Nhà nước có trách nhiệm trong việc thực hiện chế định này. Một đặc điểm quan trọng của chế định này là đảm bảo thực hiện được nguyên tắc ‘Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", khắc phục được những nhược điểm trong chế định bầu trước đây.

2. Trong việc thực hiện miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán.

Song song với chế định bổ nhiệm, chế định miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán cũng được Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh về Thẩm phán quy định cụ thể. Việc miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán do Chủ tịch nước quyết định và cũng phải qua một trình tự, thủ tục giống như trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán. Điều này cũng có nghĩa là các cơ quan Đảng, Nhà nước nêu trên thực hiện.

Theo các quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì Chủ tịch nước ra quyết định miễn nhiệm, cách chức đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; đối với Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, huyện, quận, Toà án quân sự cấp quân khu, Toà án quân sự khu vực theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Riêng việc miễn nhiệm và bãi miễn Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chủ tịch nước.

Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện chế định này, trước khi đề nghị Chủ tịch nước miễn nhiệm chức vụ Thẩm phán đối với một người nào đó cần xác định rõ lý do miễn nhiệm (do chuyển công tác, yêu cầu quy hoạch cán bộ ở địa phương để giữ chức vụ hoặc do sức khoẻ hay trình độ non kém không thể đảm nhiệm được nhiệm vụ...) và phải có đơn xin miễn nhiệm chức vụ đang đảm nhiệm của người Thẩm phán đó, ý kiến của cấp uỷ Đảng địa phương nơi người đó công tác, đối với việc cách chức Thẩm phán, ngoài việc phải tuân thủ các nguyên tắc nêu trên, hồ sơ đối với người bị cách chức phải có bản tự kiểm điểm về những hành vi vi phạm kỷ luật, biên bản của Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi người Thẩm phán công tác. Một yếu tố bắt buộc đối với việc cách chức chức vụ Thẩm phán phải được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán thông qua và đề nghị.

3 . Trong việc thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán

Theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân thì việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án nhân dân này đến Toà án nhân dân khác cùng cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện sau khi thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Quy định này đã xác định rõ thẩm quyền của Bộ Tư pháp cũng như Toà án nhân dân tối cao trong việc thuyên chuyển công tác đối với Thẩm phán. Tuy nhiên, trên thực tế thì vấn đề này được thực hiện một cách chặt chẽ hơn, cụ thể như sau:

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án nhân dân tỉnh này đến Toà án nhân dân tỉnh khác trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp uỷ đảng nơi Thẩm phán hiện đang công tác và ý kiến của cấp uỷ Đảng của nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Chánh án Toà án nhân dân tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển Thẩm phán từ Toà án nhân dân huyện này đến Toà án nhân dân huyện khác trong cùng một tỉnh, trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp uỷ Đảng cấp huyện nơi Thẩm phán hiện đang công tác và ý kiến của cấp uỷ đảng cấp huyện nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Đối với việc thuyên chuyển công tác của Thẩm phán từ Toà án nhân dân huyện thuộc tỉnh này đến Toà án nhân dân huyện thuộc tỉnh khác (không cùng một tỉnh) trước khi ra quyết định thì cần có ý kiến của cấp uỷ Đảng cấp huyện, ý kiến của Giám đốc Sở Tư pháp nơi Thẩm phán hiện đang công tác và ý kiến của cấp uỷ Đảng cấp huyện, ý kiến của Giám đốc Sở Tư pháp nơi Thẩm phán sẽ đến công tác. Trên cơ sở đó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh nơi Thẩm phán sẽ đến công tác đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định.

Qua thực tế trên cho thấy, việc thuyên chuyển công tác của Thẩm phán được quy định chặt chẽ thông qua sự giám sát của cấp uỷ Đảng địa phương và cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Tuy nhiên, với quy trình này nhiều khi đã tạo ra sự chậm chễ trong công tác, không đáp ứng được những nhiệm vụ cấp bách và hạn chế hiệu quả công tác.

 

ii. một số kiến nghị

Việc Đảng và Nhà nước phân công trách nhiệm cho các cơ quan Đảng, Nhà nước phối hợp trong việc quản lý Toà án nhân dân về mặt tổ chức nói chung và quản lý Thẩm phán nói riêng là điều cần thiết, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, khách quan mà đích cuối cùng là xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề vướng mắc chưa phù hợp trong công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý Thẩm phán. Để đưa cơ quản lý Thẩm phán đi vào nề nếp đạt hiệu quả, chúng tôi xin kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc làm rõ một số vấn đề sau đây:

1. Phân công, phân cấp quản lý Thẩm phán.

Về những vấn đề này trong những năm qua nhìn chung các cơ quan đều làm tốt nhiệm vụ được phân, tạo điều kiện cho Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn một số vấn đề cần làm rõ, bổ sung sửa đổi cho phù hợp như sau: Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm từ Thẩm phán cấp huyện lên đến Thẩm phán Toà án tối cao, điều đó có ý nghĩa là xác định uy tín, trách nhiệm của Thẩm phán, nhưng chúng tôi nghĩ uy tín và trách nhiệm của một Thẩm phán không phải dừng lại ở đó mà nó thể hiện ở phẩm chất chính trị và hoạt động của Thẩm phán, được quần chúng nhân dân chấp nhận. Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán phải sinh ra bộ máy giúp việc và cũng không sâu không sát công việc, cuối cùng thì cũng phải từ cơ quan quản lý làm mọi thủ tục trình lên Chủ tịch nước, hơn nữa làm cho Chủ tịch nước phải chi phối thời gian về công tác này làm ảnh hưởng đến công việc trọng đại của đất nước và thường chậm trễ ảnh hưởng đến ổn định tổ chức, phải chờ đợi có lúc đến vài ba tháng và tất nhiên cũng ảnh hưởng đến tổ chức cũng như hoạt động xét xử của Toà án. Do vậy, cần được sửa đổi bổ sung cho phù hợp, theo hướng phân cấp cho Bộ Tư pháp bổ nhiệm Thẩm phán từ cấp tỉnh xuống; Chủ tịch nước chỉ nên bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, nếu điều này được thực hiện sẽ tạo ra sự nhanh nhạy trong công tác cán bộ sớm ổn định tổ chức đi vào hoạt động.

Cũng trong phần cơ chế quản lý Thẩm phán, việc các cấp uỷ Đảng quản lý Tư pháp là đúng với đường lối cán bộ của Đảng, nhưng cần phải phân định trách nhiệm, ranh giới đến đâu để tránh trùng lặp hoặc cản trở công việc. Kinh nghiệm cho thấy, chế định tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán có tiến bộ hơn chế định bầu cử Thẩm phán, nhưng cũng còn vướng mắc khi cấp uỷ không đồng ý, không giới thiệu thì cơ quan chủ quản bó tay mặc dầu người đó có đủ điều kiện và tiêu chuẩn Thẩm phán. Chúng tôi nghĩ Đảng lãnh đạo bằng quan điểm đường lối cán bộ và trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ, còn con người cụ thể là do cơ quan quản lý chịu trách nhiệm, làm như vậy nó vừa đảm bảo sự lãnh đạo của đảng vừa đúng với nguyên tắc quản lý cán bộ của Đảng.

2. Thành phần Hội đồng tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán như hiện nay chưa phù hợp, theo chúng tôi cần quy định có thêm đại diện cơ quan tổ chức Đảng - chính quyền và một số Thẩm phán cấp trên, và những thành phần này đều hiểu biết về hoạt động xét xử của Thẩm phán và tiêu chuẩn của Thẩm phán. Không nên có thành phần Hội luật gia vì thực chất cán bộ Hội không liên quan nhiều đến công tác Toà án nên ít am hiểu về Thẩm phán.

3. Thẩm phán được bổ nhiệm gắn với địa giới hành chính như hiện nay cho thấy đã làm hạn chế đến việc điều động bố trí, sắp xếp cán bộ, cơ quan quản lý không thể điều động sắp xếp theo yêu cầu của tổ chức. Để đảm bảo tính năng động, nhanh nhạy trong công tác điều phối cán bộ từ nơi thừa đến nơi thiếu hoặc đến nơi cần thiết phải có các chức danh điều hành công việc, chúng tôi thấy không nên bổ nhiệm Thẩm phán gắn với tên địa giới hành chính mà bổ nhiệm theo cấp Toà án, là Toà án huyện hay Toà án tỉnh để tiện cho việc bố trí, sắp xếp và điều động Thẩm phán.

4. Về miễn nhiệm Thẩm phán: Theo quy định như hiện nay thì Thẩm phán muốn được miễn nhiệm phải có đơn trình bày rõ lý do. Chúng tôi nghĩ Thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm cũng chỉ phù hợp với những Thẩm phán về điều kiện, hoàn cảnh khó khăn của gia đình hoặc sức khoẻ không thể công tác được nữa. Còn đối với Thẩm phán năng lực yếu kém, vi phạm về phẩm chất đạo đức nhưng chưa đến mức phải cách chức hoặc buộc thôi việc... thì việc phải có đơn xin miễn nhiệm Thẩm phán là điều khó thực hiện và chúng tôi nghĩ chưa đúng với nguyên tắc "tổ chức tập trung dân chủ". Việc Thẩm phán khước từ làm đơn xin miễn nhiệm cũng đã xảy ra làm ảnh hưởng đến việc sắp xếp cán bộ. Để đảm bảo cho việc sắp xếp cán bộ được thông suốt, nhanh chóng kịp thời thì phải tập trung quyền lực vào cơ quan quản lý, không nên quy định Thẩm phán phải có đơn xin miễn nhiệm. Tuy nhiên cơ quan quản lý phải xuất phát từ yêu cầu công việc của tổ chức và phải tiến hành công tác tư tưởng đối với Thẩm phán trước khi quyết định.

 

5. Về thuyên chuyển, điều động Thẩm phán: Việc điều động, thuyên chuyển Thẩm phán từ đơn vị Toà án này đến đơn vị Toà án khác cùng cấp theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mới chỉ phù hợp với những Thẩm phán xin chuyển công tác và Thẩm phán điều động tạm thời để giải quyết án cho đơn vị thiếu Thẩm phán hoặc án đọng, chưa phù hợp với việc điều chuyển theo yêu cầu tổ chức, cụ thể là: Thẩm phán được chuyển đến bổ sung cho đơn vị thiếu sẽ vấp phải những khó khăn không thực hiện được đó là do lương thấp, gia đình phải chia rẽ không đảm bảo cuộc sống, không có nhà ở... Để thực hiện điều này chúng tôi nghĩ Nhà nước phải có chế độ chính sách thảo đáng về nhà ở, về lương bổng cho các Thẩm phán. Thẩm phán được điều động bổ sung phải được sự đồng ý của Toà án và cấp uỷ nơi Thẩm phán đang công tác và địa phương sắp đến. Cơ chế này không phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ, cơ quan quản lý phải đi lại thường xuyên đến Toà án và cấp uỷ nhiều lần nhưng có nhiều trường hơpj không đưa lại kết quả vì một trong các cơ quan trên không đồng ý. Chúng tôi nghĩ cần phải tập trung thống nhất quyền lực điều hành vào cơ quan quản lý, có như vậy thì công tác tổ chức cán bộ mới mang lại hiệu quả đảm bảo cho cơ quan Toà án hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Tất yếu không thể bỏ qua sự phối kết hợp giữa cơ quan quản lý, cấp uỷ địa phương và cơ quan trực tiếp sử dụng Thẩm phán.

6. Về vấn đề kỷ luật Thẩm phán, theo quy định hiện nay, Chủ tịch nước quyết định cách chức Thẩm phán khi có vi phạm còn mức độ kỷ luật buộc thôi việc Thẩm phán chưa quy định thuộc thẩm quyền của cơ quan nào. Trong trường hợp này thường thì phải qua khâu cách chức sau đó cơ quan quản lý sẽ thực hiện theo thẩm quyền. Nếu Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định buộc thôi việc đối với Thẩm phán Toà án địa phương sẽ trái với quyết định của Chủ tịch nước và không đúng với quy định kỷ luật tại Nghị định 195 là cán bộ viên chức chỉ bị một hình thức kỷ luật. Do vậy, chúng tôi đề nghị nên quy định thẩm quyền xét quyết định các hình thức kỷ luật đối với Thẩm phán theo hướng cơ quan quản lý sẽ thực hiện có sự phối hợp với các cơ quan hữu quan sau đó báo cáo Chủ tịch nước. Quy định như vậy sẽ bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời cũng đảm bảo chu trình quản lý cán bộ.

 

 

 

 

 

 

 

 

vấn đề quản lý thẩm phán huyện -

thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp

 

Sở Tư pháp tỉnh Yên Bái

 

Quản lý Thẩm phán huyện là một bộ phận quan trọng của công tác quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức đã được quy định trong Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Thực hiện tốt việc quản lý Thẩm phán huyện là chúng ta đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để nguươì Thẩm phán thực hiện tốt trọng trách của mình trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay là quản lý đội ngũ Thẩm phán huyện như thế nào, quản lý đến đâu? Khi mà Nhà nước ta chủ trương mở rộng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện, thị xã là một vấn đề thực tiễn và cấp bách, có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và thực hiện cải cách tư pháp.

Như chúng ta đã biết, thực hiện Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981, kể từ năm 1981 công tác quản lý các Toà án nhân dân địa phương được chuyển giao cho Bộ Tư pháp. Thời gian này chế định Thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra với thời hạn 2 năm. Trong suốt một thời gian dài chế độ bầu Thẩm phán đã bộc lộ nhiều hạn chế; tiêu chuẩn, trình độ năng lực của Thẩm phán chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ công tác, có lúc có nơi còn bầu cả những người không có nghiệp vụ pháp lý làm công tác xét xử. Vì vậy, công tác quản lý Thẩm phán đã gặp những khó khăn nhất định. Đến năm 1993 chế định bầu Thẩm phán được Nhà nước thay bằng chế định bổ nhiệm Thẩm phán với thời hạn là 5 năm.

Để tăng cường công tác quản lý về tổ chức các Toà án nhân dân địa phương, trong đó có vấn đề quản lý Thẩm phán theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, Bộ Tư pháp đã ban hành những văn bản cụ thể hoá công tác quản lý như: Quyết định số 141/QL-QLTA-THA ngày 21-3-1994 phân cấp quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, Quy chế số 91/TP-TA ngày 19-1-1994 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao ban hành quy chế phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chành án Toà án nhân dân tỉnh trong việc quản lý các Toà án nhân dân huyện, thị xã về mặt tổ chức. Đó là những quy định rất cơ bản, tạo điều kiện để Sở Tư pháp thực hiện tốt công tác quản lý các Toà án nhân dân huyện, thị xã về mặt tổ chức.

Yên Bái là một tỉnh miền núi gồm nhiều dân tộc, địa dư rộng, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế chậm phát triển, trình độ dân chí pháp lý thấp lại không đồng đều giữa các vùng dân cư. Từ thực tế công tác quản lý Thẩm phán huyện những năm qua đã có những tiến bộ, thu được kết quả quan trọng. Số lượng Thẩm phán qua xét chọn được Chủ tịch nước bổ nhiệm hiện có là 29 đồng chí (năm 1992 có 16 đồng chí). Do làm tốt công tác quản lý đã tạo những điều kiện thuận lợi để các đồng chí Thẩm phán nâng cao trình độ nghiệp vụ, chính trị. Nếu như trước năm 1993 số Thẩm phán có trình độ đại học chiếm khoảng 30% thì đến nay hầu hết đã có trình độ đại học luật hoặc tương đương. Chất lượng xét xử cả Thẩm phán cũng ngày một tốt hơn, các sai sót về nghiệp vụ được khắc phục, thể hiện ở số lượng án bị huỷ, cải sửa năm sau ít hơn năm trước. Phẩm chất chính trị, đạo đức của Thẩm phán được trau dồi, thể hiện rõ bản lĩnh, tư chất của người làm công tác xét xử mặc dù đời sống của Thẩm phán và gia đình vẫn còn gặp nhiêù khó khăn, song không có biểu hiện tiêu cực tham nhũng.

Từ thực tiễn công tác quản lý Thẩm phán huyện ở địa phương, chúng tôi đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau đây:

1. Quán triệt nội dung các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp và phân cấp quản lý về tổ chức Toà án nhân dân huyện, thị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Thường xuyên kiện toàn về tổ chức bộ máy, đôị ngũ cán bộ, đội ngũ Thẩm phán; xây dựng kế hoạch, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán về trình độ nghiệp vụ, chính trị, năng lực công tác, phẩm chất tư cách đạo đức nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong tình hình mới.

2. Trong việc tuyển chọn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán, Toà án huyện, thị phải đảm bảo những tiêu chuẩn, điều kiện đã được quy định. Người được xem xét để đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán là người có đủ đức, đủ tài, có ý thức xây dựng ngành, và gương mẫu trong công tác bảo vệ pháp luật.

3. Thực hiện tốt quy chế số 91/TP-TA ngày 19-1-1994 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án Toà án nhân dân tối cao; thường xuyên phối hợp có sự trao đổi bàn bạc, thống nhất với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh trong các khâu từ việc xem xét lựa chọn người để đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán cũng như đánh giá năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ Thẩm phán thông qua công tác xét xử, công tác xét khen thưởng, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo (trừ các khiếu nại về xét xử) và xử lý vi phạm, miễn nhiệm cách chức Thẩm phán.

4. Thường xuyên giữ mối liên hệ, tranh thủ ý kiến của cấp uỷ, chính quyền các huyện, thị xã trong công tác quản lý đội ngũ Thẩm phán. Trong đó việc xem xét lựa chọn người được bổ nhiệm làm Thẩm phán đảm bảo phải có sự nhất trí của cấp uỷ, chính quyền địa phương. Đồng thời thông qua ý kiến của cấp uỷ, chính quyền địa phương để đánh giá năng lực xét xử của Thẩm phán. Suy cho cùng công tác xét xử của Toà án nhân dân huyện, thị xã nói chung và của Thẩm phán nói riêng là nhằm mục đích phục vụ các yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương.

5. Có sự quan tâm thoả đáng đến công việc, hoàn cảnh gia đình, đời sống hàng ngày của đội ngũ Thẩm phán. Thực hiện tốt chính sách của Nhà nước đã quy định đối với Thẩm phán, nhằm tạo sự an tâm, phấn khởi để Thẩm phán phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được giao.

Tuy nhiên, cũng từ thực tiễn công tác quản lý Thẩm phán huyện trong những năm qua, theo suy nghĩ của chúng tôi còn có những khó khăn bất cập không chỉ riêng của Yên Bái mà là khó khăn chung của các tỉnh miền núi, cần có những giải pháp khắc phục, cụ thể là:

1. Về phân cấp quản lý: theo như phân cấp quản lý hiện nay thì Giám đốc Sở Tư pháp quản lý về mặt tổ chức các Toà án huyện, thị xã. Trong khi đó Toà án tỉnh lại chỉ đạo hướng dẫn về nghiệp vụ, việc đánh giá Thẩm phán thông qua nghiệp vụ. Do đó, việc đánh giá mức độ, khả năng hoàn thiện nhiệm vụ của Thẩm phán có những khó khăn nhất định, theo quy định của Sở Tư pháp không kiểm tra nghiệp vụ xét xử của Thẩm phán. Vì vậy, để đánh giá đúng năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của người Thẩm phán cần phải có quy định cụ thể về sự phối hợp giữa Giám đốc Sở Tư pháp và Chánh án Toà án tỉnh trong việc kiểm tra tổ chức và xét xử của Thẩm phán huyện, để Sở Tư pháp chủ động xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ cho Thẩm phán cũng như đánh giá năng lực của Thẩm phán một cách khách quan, toàn diện hơn.

2. Về tiêu chuẩn của người được xét đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán

 

Trước hết cần phải khẳng định rằng, để người Thẩm phán có đủ năng lực, trình độ làm tốt công tác xét xử, từng bước tiêu chuẩn hoá đội ngũ Thẩm phán thì người được xét, chọn để đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán về nguyên tác phải hội đủ những tiêu chuẩn đã được quy định trong Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân. Thực tế từ trước tới nay ở Yên Bái, Sở Tư pháp đã quan tâm lựa chọn và đề nghị bổ nhiệm những người có đủ tiêu chuẩn, năng lực làm Thẩm phán, tăng cường cho các huyện vùng cao. Song do sự am hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của các dân tộc còn hạn chế (ở những huyện vùng cao còn rất nhiều người còn chưa thạo tiếng phổ thông) do đó đã gây ảnh hưởng tới hiệu quả hoàn thành công việc của người Thẩm phán. Còn việc xem xét những cán bộ là người dân tộc thiểu số có đủ điều kiện để bổ nhiệm làm thẩm phán là vấn đề hết sức khó khăn. Vì vậy trong giai đoạn này cùng những năm tới, Bộ Tư pháp cần xem xét đưa ra giải pháp tình thế, có sự chiếu cố về tiêu chuẩn đối với người dân tộc thiểu số để xét chọn bổ nhiệm làm thẩm phán, có như vậy mới tăng cường được thẩm phán là người dân tộc làm công tác xét xử, bảo đảm cho Toà án các huyện vùng cao phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

3. Về số lượng Thẩm phán trong kết cấu chức danh của Toà án nhân dân huyện, thị xã.

Với đặc thù của các tỉnh miền núi là địa dư rộng, giao thông đi lại rất khó khăn nhất là các huyện vùng cao có những xã, bản phải đi bộ từ 2 đến 3 ngày đường mới tới, cho nên trong công tác điều tra, xét xử án kiện của người thẩm phán gặp rất nhiều khó khăn. Nếu chỉ căn cứ vào số lượng án kiện hàng năm của các Toà án cũng như của từng người thẩm phán để quy định số lượng thẩm phán và số lượng biên chế của các toà án huyện miền núi thì không hợp lý. Vì vậy đề nghị Bộ xem xét tăng biên chế và số lượng thẩm phán của mỗi đơn vị toà án huyện miền núi, có như vậy mới bảo đảm cho các đơn vị toà án miền núi hoàn thành được nhiệm vụ.

4. Về chế độ chính sách của Nhà nước đối với thẩm phán

Nghề thẩm phán là một "nghề đặc biệt" luôn chịu sức ép từ phía công luận. Trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước đã có sự quan tâm đúng mức tới đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật. Đời sống của thẩm phán và gia đình họ đã được cải thiện một bước. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế ở một tỉnh miền núi còn gặp rất nhiều khó khăn, phần nào ảnh hưởng tới hiệu quả, mức độ hoàn thành công việc của người thẩm phán, đề nghị Nhà nước xem xét nghiên cứu định ra chính sách hợp lý có tính đến đặc thù của các tỉnh miền núi đối với đội ngũ thẩm phán nói riêng và cán bộ toà án nói chung để người thẩm phán có điều kiện cống hiến sức lực, tài năng của mình vào sự nghiệp giữ gìn công lý, vì sự phát triển của ngành tư pháp và công cuộc đổi mới trên đất nước ta.

Trên đây là một số vấn đề quản lý đội ngũ thẩm phán huyện của Sở Tư pháp trong thời gian qua nhất là các địa phương miền núi như Yên Bái. Chúng tôi hy vọng Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu xem xét hoặc đề nghị Nhà nước ban hành những quy định về chính sách, chế độ nhằm nâng cao hiệu quả quản đội ngũ thẩm phán huyện của Sở Tư pháp, đưa công tác quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức đi vào nề nếp, ổn định, tạo thuận lợi để đội ngũ thẩm phán và cán bộ Toà án nhân dân các địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

thực tiễn xét xử án sơ thẩm hình sự của

toà án nhân dân tỉnh yên bái và một số kiến nghị

 

Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái

 

Yên Bái là một tỉnh miền núi, dân số không đông (70 vạn người) nhưng có tới 30 dân tộc; kinh tế kém phát triển, trình độ dân chí nói chung và trình độ hiểu biết pháp luật nói riêng còn thấp, nhất là ở các huyện vùng cao. Đây cũng là nơi còn nhiều tập tục lạc hậu, trong đó có tập quán trồng cây thuốc phiện có từ lâu đời và có thời kỳ được coi là sản xuất hàng hoá, do đó đã để lại nhiều hậu quả về kinh tế, xã hội phức tạp cần phải được tập trung và có thời gian để giải quyết.

Những đặc điểm trên có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình tội phạm ở địa phương, về nhiệm vụ xét xử hình sự của Toà án trong tỉnh.

Số vụ án hình sự sơ thẩm các Toà án trong tỉnh Yên Bái đã xét xử trong năm 1996 và 6 tháng đầu năm 1997 gồm 534 vụ, 697 bị cáo.

Trong đó Toà án tỉnh xử 117 vụ với 170 bị cáo, 9 Toà án huyện, thị xã xử 417 vụ với 527 bị cáo.

Qua số liệu thống kê nêu trên, chúng tôi thấy có một số vần đề cần lưu ý là:

- Số vụ án tội nhóm tội về kinh tế chiếm tỷ lệ rất thấp 4/534 vụ bằng 0,7% với 8/697 bị cáo bằng 1,15%; số vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa cũng chiếm tỷ lệ thấp là 10/534 vụ chiếm 1,87% với 17/679 bị cáo chiếm tỷ lệ 2,44%, trong khi đó số vụ án xâm phạm tài sản công dân là 236 vụ chiếm tỷ lệ 44,1% với 320 bị cáo chiếm tỷ lệ 45,9%. Riêng về tội trộm cắp tài sản công dân có 154 vụ chiếm tỷ lệ 28,8%. Số các vụ án về ma tuý tuy chỉ thuộc hai tội: mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma tuý và tổ chức sử dụng chất ma tuý là 151 vụ chiếm 28,2%, với 183 bị cáo chiếm 26,2% số bị cáo.

Cũng cần chú ý tới tội giết người, đã xét 21 vụ trong tổng số 117 vụ án ở cấp tỉnh, chiếm tỷ lệ 17,9%.

- Những đặc điểm về các loại tội phạm nêu trên phản ánh tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương mà Uỷ ban thẩm phán Toà án tỉnh Yên Bái đã nhận thấy để chỉ đạo công tác xét xử về hình sự đối với các Toà án trong tỉnh.

- Về hình phạt đã áp dụng

Số bị cáo được tuyên bố không có tội: 2

Số bị cáo được miễn hình phạt: 1

Số bị cáo bị cảnh cáo: 4

Số bị cáo bị phạt tù dưới 3 năm và được hưởng án treo: 138

Số bị cáo bị phạt tù từ 3 tháng đến 7 năm: 502

Số bị cáo bị phạt tù từ trên 7 năm tới 10 năm: 21

Số bị cáo bị phạt tù từ trên 10 năm tới 15 năm: 22

Số bị cáo bị phạt tù từ trên 15 năm tới 20 năm: 5

Số bị cáo bị phạt tù chung thân: 1

Số bị cáo bị phạt tử hình:1

Số bị cáo bị phạt tiền (là hình phạt bổ sung): 123

Trong 117 vụ án Toà án tỉnh xử, có 33 vụ có kháng cáo, 1 vụ bị kháng nghị. Toà án nhân dân tối cao đã xử phúc thẩm 22 vụ gồm 27 bị cáo. Kết quả y án đối với 22 bị cáo, tăng mức hình phạt 2 bị cáo, và giảm mức phạt cho 3 bị cáo. Như vậy tỷ lệ án bị sửa phần hình phạt là 5/117 số vụ án và là 5/170 số bị cáo, tỷ lệ 2,9%. Số vụ án cấp huyện xử 417 vụ, có 52 vụ có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm đã giữ nguyên hình phạt đối với 55 bị cáo, giảm mức hình phạt cho 16 bị cáo (trong đó có 10 trường hợp cải án, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho hưởng án treo). Những vụ cấp phúc thẩm sửa án thường là tăng, hoặc giảm mức hình phạt tù không đáng kể. tỷ lệ cải sửa tính chung khoảng3,7% số bị cáo.

Số vụ án bị cấp giám đốc thẩm huỷ án là 4 vụ. Trong đó chỉ có 1 vụ huỷ để xét xử lại theo hướng áp dụng khung hình phạt nặng hơn và 1 vụ huỷ vì có sai lầm trong việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.

Phân tích kết quả xét xử sơ thẩm của các Toà án trong tỉnh Yên Bái trong thời gian năm 1996 và 6 tháng đầu năm 1997 chúng tôi thấy rằng công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự đã đạt được các tiêu chí:

1. Xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trước tiên cần thấy là trong số 534 vụ án các Toà án Yên Bái đã xét xử sơ thẩm với 697 bị cáo, đã không kết tội oan một người nào và cũng không để lọt một kẻ phạm tội nào. Toàn bộ các vụ án do Toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm, không vụ nào bị huỷ. Số lượng rất ít các vụ án do Toà án cấp huyện xử sơ thẩm (4/427 vụ bằng 0,9%) bị huỷ là huỷ để áp dụng pháp luật chính xác hơn, có tính khoa học hơn... Ví dụ: cấp sơ thẩm truy tố xét xử về tội cưỡng đoạt tài sản công dân, cấp giám đốc thẩm huỷ án để xét xử lại về tội cướp tài sản công dân hoặc cấp sơ thẩm truy tố, xét xử theo khoản 1, cấp giám đốc thẩm huỷ để xét xử lại theo hướng áp dụng khoản 2 với cùng điều luật. Sai lầm của cấp sơ thẩm đều có nguyên nhân từ việc truy tố chưa được chính xác.

Tỷ lệ án bị cấp phúc thẩm sửa 3,7% trong đó, nhiều trường hợp sửa do xem xét đến những diễn biến sau khi xét xử sơ thẩm như bị cáo tiếp tục bồi thường thiệt hại, bên bị hại đề nghị xét giảm mức hình phạt cho bị cáo hoặc cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội đứng ra bảo lãnh việc giáo dục bị cáo.

Chúng tôi cho rằng việc cấp phúc thẩm sửa án là tất yếu của hoạt động xét xử phúc thẩm, nhất là trong một số trường hợp giảm án, cải án, thì đó là những sai sót nhỏ thường diễn ra trong quá trình hoạt động xét xử.

2. Xét xử phục vụ tốt yêu cầu chính trị địa phương

Xét xử các vụ án hình sự là quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật để thực hiện các chính sách của đảng, là phục vụ các yêu cầu chính trị của địa phương.

Do đó, việc xét xử các vụ án trọng điểm, các vụ án thuộc diện chống tham nhũng, chống tệ nạn xã hội luôn được chú trọng và được coi là trọng tâm của họat động xét xử. các loại án này luôn có sự tập trung và áp dụng hình phạt rất nghiêm khắc.

Ví dụ vụ Giám đốc ngân hàng huyện Văn Yên là Hoàng Trọng Quỳnh chủ trương cho cán bộ, nhân viên ngân hàng vay tiền từ nguồn vốn kinh doanh, không cần thế chấp tài sản, dẫn đến thất thoát trên 3 tỷ đồng. Quỳnh tự sát, 3 cán bộ ngan hàng bị truy tố về tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hiệu quả nghiêm trọng và bị phạt từ 8 đến 12 năm tù. Vụ Tạ Đình Bảng, kế toán ngân hàng tham ô 25.000.000 đồng, mặc dù đã thu hồi đủ, đã bị kết án 3 năm tù giam... Vụ Nguyễn Văn Mừng giết người. Do sau khi giết người, Mừng đã bổ đầu, cắt đứt đầu và xả thịt nạn nhân làm rất nhiều mảnh vứt xuống hồ (để phi tang) gây một dư luận rất xấu ở địa phương, được xác định là án điểm. Toà án Yên Bái đã tổ chức phiên toà lưu động, xét xử điển hình tại địa phương xảy ra vụ án, có hàng ngàn người dự và đã xử phạt tử hình Nguyễn Văn Mừng.

Tất cả những vụ án thuộc diện chống tham nhũng, chống tệ nạn xã hội, án điểm... cấp phúc thẩm xét xử đều y án sơ thẩm.

3. Xét xử phục vụ công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

Xét xử đúng người, đúng tội. đúng pháp luật là góp phần vào việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, nhưng phần nào vẫn còn mang tính thụ động.

Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, các Toà án tỉnh Yên Bái đã phát hiện những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, chủ động tham gia vào phòng, chống tội phạm ở địa phương.

Điển hình là từ việc phân tích đặc điểm của địa phương: kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí còn thấp, có tập quán trồng thuốc phiện là nguyên nhân trực tiếp của một số tội phạm (như các tội về ma tuý chiếm 28,2% tổng số vụ án, tội trộm cắp tài sản công dân chiếm 28,8% số vụ án mà chủ yếu là do các con nghiện thực hiện). Các Toà án trong tỉnh Yên Bái đã không chỉ xét xử nghiêm khắc các tội về ma tuý mà còn tham gia với các ngành hữu quan, cùng nhận thức đúng, thực hiện nghiêm túc đường lối truy tố, xét xử các tội phạm về ma tuý và khi xét xử các vụ án về ma tuý, hoặc các bị cáo phạm tội do tác động của ma tuý... các Toà án đều kết hợp tuyên truyền về chính sách của Đảng trong việc đấu tranh phòng và chống ma tuý...

Bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác xét xử về hình sự trong năm 1996 và 6 tháng đầu năm 1997 của các Toà án tỉnh Yên Bái còn những tồn tại, thiếu sót sau:

1. Chưa phản ảnh đúng tình hình tội phạm ở địa phương, trong một số vụ án cụ thể, chưa đảm bảo nguyên tắc: "mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật".

Theo thống kê, những vụ án thuộc các tội về kinh tế chỉ chiếm 0,7% số vụ án, những vụ án thuộc các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa chỉ chiếm 1,87% tổng số các vụ án. Thực tế cho thấy nhiều vụ án thuộc các loại tội nói trên đã được phát hiện, có vụ đã được nêu lên trên báo chí, nhưng không được truy tố trước pháp luật.

Một số vụ án do cơ quan truy tố bỏ lọt kẻ phạm tội và mặc dù ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, toà án yêu cầu truy tố bổ sung nhưng không được đáp ứng, do phải thực hiện Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự. Toà án chỉ có thể xét xử những bị cáo và hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố rồi khởi tố vụ án theo Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự nhưng những quyết định khởi tố vụ án của Toà án chưa bao giờ được các cơ quan điều tra, truy tố thực hiện. Kết quả xét xử những vụ án này bị hạn chế về phần nào, gây hoài nghi về hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.

2. Sự thiếu chuẩn mực trong các bản án: mặc dù số án bị huỷ, bị sửa ở giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm chiếm tỷ lệ thấp, nhưng trong những vụ án đã có hiệu lực pháp luật tồn tại sự khác biệt đáng kể về đường lối xử lý những vụ án cùng tính chất. Thực trạng những vụ án tình tiết như nhau nhưng việc áp dụng hình phạt khác nhau khá phổ biến, thể hiện sự thiếu nhất quán, thiếu công bằng trong việc xét xử các vụ án hình sự.

3. Chất lượng các bản án nói chung còn thấp: nhiều bản án trình bày việc phạm tội không đầy đủ, không nêu được những tình tiết có ý nghĩa về định tội, lượng hìn và thường phiến diện trong khi nhận định về tính chất vụ án, về việc xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.

4. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc bảo đảm các quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử được thực hiện nghiêm túc nhưng các quyền của những người tham gia tố tụng khác như quyền cuả nguyên đơn dân sự, của người bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thường bị coi nhẹ, điều này dẫn đến việc giải quyết vụ án không triệt để và không thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân quy định tại Điều 1 Bộ luật tố tụng hình sự.

Phân tích nguyên nhân những việc đã làm được và những mặt còn thiếu sót trong công tác xét xử nhưngx vụ án hình sự, chúng tôi nhận thấy:

1. Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố cơ bản đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử hình sự: trước hết để xét xử đúng cần phải quán triệt đầy đủ các Nghị quyết của đảng, các chính sách hình sự, nhiệm vụ xét xử phục vụ yêu cầu chính trị địa phương. Các Toà án cần tranh thủ sự lãnh đạo của cấp uỷ, ý kiến chỉ đạo của cấp uỷ đối với những vụ án điểm, những vụ án thuộc diện đấu tranh chống tham nhũng, những vụ án quan trọng mà dư luận đang chú ý theo dõi, đồng thời phải tích cực tham mưu để cấp uỷ lãnh đạo tốt công tác đấu tranh chống tội phạm ở địa phương.

Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và các thông tư liên ngành Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện hai bộ luật trên là công cụ sắc bén để thực hiện chính sách hình sự của Đảng, đã phát huy tác dụng to lớn trong việc chống và phòng ngừa tội phạm.

Trong thời gian qua, phần tội phạm của Bộ luật hình sự đã nhiều lần được Quốc hội sửa đổi, bổ sung và được nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện, nhưng phần chung của Bộ luật này và Bộ luật tố tụng hình sự chậm được sửa đổi, mặc dù đã bộc lộ một số thiếu sót, bất cập.

Ví dụ: chế định về bồi hoàn, bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra Luật quy định rất chung, có tính nguyên tắc nên trong thực tế, nhiều bản án xử đúng pháp luật, nhưng không thể thi hành như trường hợp xử bị cáo tử hình nhưng vẫn phải tuyên bồi thường thiệt hại (thường là lớn) ngay cả khi đã có đủ căn cứ xác định bị cáo không có tài sản riêng cũng vậy. Sự thiếu thực tế đó của bản án không chỉ không bảo về quyền lợi hợp pháp cho người bị hại mà còn gây nhiều phức tạp cho quá trình thi hành án.

Pháp luật tố tụng hình sự quy định Viện kiểm sát vừa kiểm sát toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, vừa giữ quyền công tố, nhưng ngoài sự giám sát chung của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân như đối với hoạt động của mọi cơ quan tiến hành tố tụng khác thì không có một cơ quan nào, thậm chí không có một chế định pháp luật nào chế ước quyền công tố. Phải chăng đây là một nguyên nhân của tình trạng tội phạm ẩn. Trên thực tế số vụ án, số bị can đã bị khởi tố, sau đó lại đình chỉ điều tra, mặc dù có đủ yếu tố phạm tội (có trường hợp phạm tội nghiêm trọng) khá phổ biến. Tình hình này cũng như tình trạng mọi quyết định khởi tố của Toà án không có kết quả đã nêu trên, theo chúng tôi cần được khắc phục và chỉ có thể khắc phục bằng biện pháp sửa đổi, bổ sung luật.

3. Trong thời gian qua đội ngũ thẩm phán đã được đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và nói chung, có phẩm chất chính trị vững, có kiến thức pháp lý, có kinh nghiệm thực hiện bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử. Việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ thẩm phán không chỉ nhằm tuyển chọn, bổ sung mà là mục tiêu phấn đấu của các thẩm phán đương nhiệm. Phần lớn các thẩm phán đều tốt nghiệp cao đẳng, đại học pháp lý, trung cấp, cao cấp chính trị, số còn lại đang tiếp tục được đào tạo bằng các hình thức tại chức, luân huấn.

Hiện tại số lượng thẩm phán còn thiếu 1/3 so với chỉ tiêu biên chế và số ít năng lực yếu. Nguồn bổ sung thẩm phán nhất là thẩm phán tỉnh rất khó khăn, chúng tôi thấy cần tìm một giải pháp thích hợp để việc tuyển chọn thẩm phán tỉnh từ các thẩm phán cấp huyện trong đó có việc tuyển chọn thẩm phán cấp huyện, từ nguồn cán bộ, thư ký của Toà án tỉnh được thuận lợi và cần cải tiến quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán để việc bổ nhiệm thẩm phán được thuận lợi hơn.

4. Mối quan hệ giữa quản lý công tác xét xử và quyền xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Đây là vấn đề lớn có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.

Theo chúng tôi quản lý công tác xét xử là nhiệm vụ quan trọng nhất của lãnh đạo Toà án các cấp và đặc trưng cơ bản trong hoạt động xét xử là thẩm phán và hội thấm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là mối quan hệ thống nhất, hữu cơ.

Thực tiễn cho thấy nơi nào lãnh đạo Toà án quản lý tốt công tác xét xử thì nơi đó quyền xét xủ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được bảo đảm.

Tuy nhiên công tác xét xử dưới hình thức nào, là một vấn đề cần được nghiên cứu và thực hiện phù hợp với tình hình hiện tại và chúng tôi thấy rằng Bộ Tư pháp cần có hướng dẫn cụ thể.

Toà án tỉnh Yên Bái đã xây dựng quy chế hoạt động với nội dung chủ yếu là xác lập mối quan hệ giưã lãnh đạo, Uỷ ban thẩm phán, các toà, phòng, các thẩm phán. Bước đầu thực hiện thấy có tác dụng tốt, nhưng chúng tôi thấy cần tiếp tục rút kinh nghiệm.

5. Trong thời gian qua Bộ Tư pháp đã rất chú ý đến việc tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các Toà án địa phương, nhưng về kinh phí cho hoạt động xét xử, các Toà án địa phương gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các tỉnh, huyện miền núi địa bàn rộng. Với mức kinh phí hiện nay, không thể đảm bảo việc chi theo chế độ cho hội đồng xét xử, luật sư, phiên dịch, nhân chứng theo quy định. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, phải xét xử thiếu nhân chứng hoặc cắt giảm chi phí cho nhân chứng. điều này hạn chế nhiều đến hiệu quả của phiên toà.

Trên đây là những vấn đề được đúc kết từ thực tiễn xét xử hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái. Trong lĩnh vực này cũng còn nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu và tổng kết định kỳ hàng năm để có những giải pháp hữu hiệu khác phục tồn tại thiếu sót, đảm bảo cho công tác xét xử hình sự luôn luôn đúng đắn, nghiêm minh và thống nhất./.

 

 

 

 

 

 

Mối quan hệ của các cơ quan địa phương trong việc tuyển chọn thẩm phán để đề nghị bổ nhiệm thẩm phán toà án nhân dân huyện, thị xã-

thực trạng các vấn đề đặt ra và giải pháp

 

Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương

 

Nói đến Toà án là phải nói đến thẩm phán, thẩm phán là nhân vật xét xử chính cử cơ quan toà án, chỉ có thẩm phán mới có quyền nhân danh Nhà nước công bố một bản án, tuyên bố một người là có tội hay không, phải chịu hình phạt như thế nào và giải quyết các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.

Tuy vậy có thể nói trong nhiều năm qua, đội ngũ cán bộ toà án nói chung, mà trước hết là đội ngũ thẩm phán không chỉ ở tỉnh Hải Dương mà hầu hết tất cả các tỉnh, thành phố vẫn đang thiếu kể cả về số lượng và chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, không cân xững với khối lượng công việc quá lớn và tính chất đa dạng, phức tạp trong từng loại vụ việc ngày càng gia tăng. Chính sách đối với cán bộ Toà án cũng như đội ngũ Thẩm phán có những điểm chưa phù hợp. Các quy trình chọn lọc, đào tạo, bồi dưỡng, xét tuyển và bổ nhiệm cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan, các ngành các cấp trong khâu tuyển chọn vẫn còn những điểm chưa hợp lý cần phải nghiên cứu giải quyết.

Chúng ta đều biết rằng: cải cách tư pháp là một bộ phận quan trọng của công cuộc cải cách bộ máy Nhà nước hiện nay. Hiến pháp năm 1992 cũng như Luật tổ chức Toà án nhân dân do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 6 tháng 10 năm 1992 và pháp lệnh về thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân ngày 14-5-1993 đã có những sửa đổi hết sức quan trọng đó là: tiếp tục giao cho Bộ Tư pháp quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức (bao gồm: cơ cấu, biên chế, ngân sách và cán bộ...). Thay chế độ bầu cử Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương bằng chế độ tuyển chọn để Chủ tịch nước bổ nhiệm - Mở rộng nhiệm kỳ Thẩm phán Toà án huyện từ 2 năm đến 5 năm, quy định rõ các tiêu chuẩn bắt buộc, phân bổ số lượng Thẩm phán ở từng địa phương và mở rộng thẩm quyền xét xử... thành lập các Toà chuyên trách v.v... Bộ Tư pháp cũng có nhiều biện pháp tích cực nhằm từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, đội ngũ cán bộ; làm thay đổi bộ mặt Toà án địa phương (nhất là cấp huyện); từng bước nâng cao uy tín và hiệu lực, hiệu quả công tác xét xử của Thẩm phán và Toà án địa phương.

Trong khâu tuyển chọn đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án huyện, thị xã phải qua các quy trình chuẩn bị rất chặt chẽ. Ngoài các tiêu chuẩn quy định về phẩm chất đạo đức, sức khoẻ, thâm niên nghề nghiệp và trình độ chuyên môn phải có hồ sơ thủ tục theo mẫu; lấy ý kiến thăm dò tín nhiệm; thống nhất giữa Giám đốc Sở Tư pháp với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh; xin ý kiến cấp uỷ; họp với các thành viên Hội đồng tuyển chọn (gồm đại diện Toà án nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở Tư pháp, Mặt trận tổ quốc, Hội đồng nhân dân tỉnh, tỉnh Hội luật gia), làm tờ trình v.v... tất cả đều phải chu đáo theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp.

Như vậy một vấn đề hết sức cơ bản, có ý nghĩa then chốt là mối quan hệ giữa các cơ quan ở địa phương mà trước hết là sự lãnh đạo cuả các cấp uỷ Đảng, các ngành có đại diện là thành viên Hội đồng xét chọn Thẩm phán trong việc theo dõi, đánh giá và tuyển chọn Thẩm phán, theo dõi các hoạt động của Thẩm phán sau khi được bổ nhiệm, cần được nghiên cứu, có cơ chế hợp lý và từng bước được hoàn thiện bảo đảm sự nhịp nhàng, nhanh chóng, chính xác, không để ách tắc, kéo dài một cách vô cớ.

Trước hết đó là vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng địa phương. Để đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp công tác cán bộ, ngày 18-3-1994 Ban chấp hành Trung ương đã ra Chỉ thị số 36/CT-TW về việc lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân địa phuương. Chỉ thị yêu cầu hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán phải có ý kiến nhất trí của cấp uỷ.

 

Trong thực tế những năm qua các cấp uỷ đảng đã có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc quy hoạch, bồi dưỡng, quản lý, đánh giá và lựa chọn cán bộ để giới thiệu với Hội đồng tuyển chọn xem xét đề nghị bổ nhiệm; mối quan hệ giữa ban cán sự Đảng, Giấm đốc Sở Tư pháp với thường trực các huyện, thị uỷ duy trì chặt chẽ, thường xuyên. Đó là mối quan hệ phối hợp, tôn trọng các ý kiến của nhau. đặc biệt là từ khi thực hiện pháp lệnh mới về Thẩm phán Toà án nhân dân không còn tình trạng điêù động, bố trí người không có chuyên môn về làm Thẩm phán Toà án (như những năm trước đây).

Tuy vậy, ở một số địa phương, đơn vị có lúc cấp uỷ chưa thực sự quan tâm đúng mức, coi nhẹ công tác xét xử của Toà án, chỉ thấy vai trò của các cơ quan điều tra, truy tố, ngược lại có nơi lại bao biện, đi quá sâu vào công tác tổ chức và nghiệp vụ không bảo đảm nguyên tắc hiến định. Nhiều trường hợp phải trao đổi kéo dài. Những việc điều động đều phải xin ý kiến cấp uỷ làm thủ tục thường là khó khăn.

Thứ hai là: Mối quan hệ giữa Giám đốc Sở Tư pháp với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh (theo quy chế phối hợp số 91/QC ngầy 19-1-1994), nhìn chung được thực hiện khá nghiêm túc, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên bước đầu được phân công một cách rành mạch khắc ophục được tình trạng chồng chéo. Các bên có nghĩa vụ theo dõi, quản lý và có trách nhiệm đánh giá, phân loại cán bộ, theo những tiêu chí từng chức năng của mình. Các phiên họp của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán được cung cấp những thông tin về số lượng, chất lượng giải quyết án của từng Thẩm phán, do Toà án cung cấp. Việc quy hoạch, bồi dưỡng, tạo nguồn vốn Thẩm phán không thể tách rời với sự quản lý về tư tưởng, về tổ chức của Sở Tư pháp và hướng dẫn nghiệp vụ của Toà án nhân dân tỉnh.

Thứ ba là: Mối quan hệ giữa Giám đốc Sở Tư pháp với Mặt trận tổ quốc. Mặt trận tổ quốc tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán với tư cách đại diện các tầng lớp, các tổ chức quần chúng nhân dân để tập hợp ý kiến nhân dân về hoạt động của Toà án nhân dân cũng như phong cách, năng lực làm việc của mỗi cán bộ Toà án - Sự phối hợp tham gia của Mặt trận tổ quốc trong quá trình tuyển chọn Thẩm phán là không thể thiếu. Thông qua đội ngũ Hội thẩm nhân dân trực tiếp xét xử với Toà án, thông qua các tổ chức chính quyền, các tầng lớp dân cư, Mặt trận tổ quốc có những nhận xét tương đối đầy đủ về mỗi cán bộ Toà án trong diện đưa ra xem xét tuyển chọn để đề nghị bổ nhiệm.

 

Thứ tư là: Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Sở Tư pháp và Hội đồng xét tuyển Thẩm phán. Hội đồng nhân dân tỉnh và các cấp thực hiện chức năng giám sát toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, đặc biệt là đối với hoạt động xét xử của Toà án. Trước đây trong một thời gian dài Hội đồng nhân dân là cơ quan trực tiếp lựa chọn và bầu ra các Thẩm phán Toà án. Hiện nay theo Hiến pháp năm 1992 và Pháp lệnh Thẩm phán - Hội thẩm nhân dân, việc bầu cử Thẩm phán được thay thế bằng cơ chế bổ nhiệm. Ngoài hoạt động giám sát thường xuyên, thì định kỳ 6 tháng, 1 năm Chánh án Toà án nhân dân phải báo cáo công tác xét xử trước kỳ họp Hội đồng nhân dân; đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn bất cứ hoạt động nào của cơ quan Toà án, nhân viên Toà án trong việc áp dụng pháp luật vào công tác xét xử. thông qua đó nắm được phẩm chất chính trị, năng lực thực tiễn của của cán bộ Toà án để có thể tham gia xét tuyển chọn một cách khách quan, đúng đắn.

Hoạt động của Hôị đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện nói chung cũng như tỉnh Hải Dương kể từ sau ngày tái lập tỉnh đều đã thể hiện đúng nguyên tắc phối hợp chặt chẽ; phát huy được vai trò của đại diện mỗi ngành, mỗi lĩnh vực thành viên, bảo đảm đúng quy trình, dân chủ thảo luận, có sự nghiên cứu hồ sơ kỹ lưỡng, có sự tiếp xúc kiểm tra. Đã đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm những Thẩm phán bảo đảm đúng tiêu chuẩn luật định. Thực tiễn chưa có trường hợp nào bị bác bỏ. Đến nay tại tỉnh Hải Dương đã tuyển chọn được 45 Thẩm phán (kể cả Chánh án, Phó chánh án) so với chỉ tiêu quy định còn thiếu 19 Thẩm phán. Tiếp tục bồi dưỡng tạo nguồn để bổ nhiệm trong thời gian tới.

Về một số giải pháp và kiến nghị

Trên cơ sở thực tiễn sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân, với những kết quả bước đàu đã từng bước hoàn chỉnh các tiêu chuẩn cần thít, hình thành đội ngũ Thẩm phán có đủ phẩm chất và năng lực, khắc phục được những nhược điểm do cơ chế bầu cử trước đây. Kết quả đó biểu hiện sự làm việc có nguyên tắc, nghiêm túc, bảo đảm tính công khai dân chủ của Hội đồng xét tuyển Thẩm phán. Biểu hiện sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành các cấp, các cơ quan, đơn vị và các thành viên Hội đồng trong đó Giám đốc Sở Tư pháp là Chủ tịch và thường trực.

Tuy nhiên chúng tôi xin đề nghị một số điểm dưới đây:

1. Thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý trong công tác cán bộ, tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm phối hợp của cấp uỷ đảng (thường trực Huyện uỷ). Có cơ chế phân công hợp lý trong mối quan hệ giữa Ban cán sự Đảng của Sở Tư pháp với Thường vụ, Thường trực huyện, thị uỷ, lựa chọn được chính xác, khẩn trương.

2. Tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc, có các quy định cần thiết về chế độ thông tin để kịp thời nắm bắt trình độ, năng lực cán bộ Toà án trên cơ sở đó lừa chọn xét tuyển.

3. Thực hiện nghiêm túc Quy chế số 91/QC về quan hệ phối hợp giữa Giám đốc Sở tư pháp với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, Quyết định số 141/QĐ của Bộ Tư pháp về phân cấp quản lý cán bộ. Định kỳ có sự phối hợp khảo sát, phân loại, tạo nguồn cho công tác xét tuyển Thẩm phán.

4. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu có chế độ hợp lý về tài liệu nghiên cứu tham khảo, về thông tin công tác xét tuyển Thẩm phán giữa các địa phương, về phương tiện, cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng xét tuyển Thẩm phán hoạt động có hiệu quả, khắc phục dứt điểm hiện tượng hình thức, hoặc coi đó như trách nhiệm chính của Giám đốc Sở Tư pháp. Thường xuyên có các cuộc toạ đàm, trao đổi, kiểm tra, khảo sát, củng cố mối quan hệ giữa thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.

5. Đề nghị Nhà nước nghiên cứu xem xét lại thẩm quyền về bổ nhiệm Thẩm phán. Riêng cấp huyện, quận,thị xã có thể uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định bổ nhiệm, bảo đảm việc xét tuyển, bổ nhiệm được nhanh chóng kịp thời.

6. Đề nghị Bộ Tư pháp có những hướng dẫn cụ thể về tổ chức các lễ trao các quyết định bổ nhiệm (cả về nội dung, hình thức) bảo đảm việc trao quyền lực Nhà nước thực sự nghiêm tuác, trang trọng và tiết kiệm.

7. Đề nghị xem xét vai trò thành viên của Hội luật gia vì ở địa phương Hội luật gia là một thành viên của Mặt trận tổ quốc và Mặt trận tổ quốc đã có thành phần trong Hội đồng xét tuyển. Hội luật gia giúp Mặt trận tổ quốc trong việc tư vấn là phù hợp.

Trên đây là một số ý kiến tham gia của Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương, phần nói về mối quan hệ giữa các cơ quan ở địa phương, trong đó trọng tâm là các cơ quan đại diện là thành viên trong Hội đồng xét tuyển Thẩm phán với việc xét tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, thị xã.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

hoạt động xét xử của thẩm phán -

thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp

 

Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang

 

I. Đặt vấn đề

Ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, Toà án nhân dân là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp. Nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa cùng các hoạt động tư pháp khác được kiểm tra, xem xét một cách công khai thông qua thủ tục tố tụng do luật định để đưa ra một phán quyết cuối cùng mang tính quyền lực, cưỡng chế của Nhà nước. Đây là nơi phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền chuyên chính vô sản được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng duy nhất. Đó là Đảng cộng sản Việt Nam.

Nhìn lại quá trình trưởng thành, đặc biệt là trong những năm Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, hoạt động nghiệp vụ và công tác tổ chức cán bộ của Toà án đã từng bước được hoàn thiện và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Những kết quả này được ghi nhận trên nhiều phương diện. Song một vấn đề đáng được quan tâm chú ý nhiều đó là hoạt động xét xử của Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp.

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như Luật tổ chức Toà án nhân dân trong các thời kỳ đều xác định rõ nhiệm vụ của Toà án nhân dân. Đó là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hoà xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những người chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ này chính là đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (Hội thẩm quân nhân trong quân đội) ở Toà án các cấp.

Như vậy, có thể khẳng định rằng: trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành Toà án, thì: Hoạt động nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán đóng vai trò hết sức quan trọng. Những phán quyết đúng sai của Hội đồng xét xử phần nhiều thuộc về trách nhiệm của mỗi Thẩm phán, người chịu trách nhiệm chính trong giải quyết từng vụ án.

Thực tiễn đã chứng minh: Hoạt động xét xử của Thẩm phán là một loại hình hoạt động đặc biệt mang tính quyết định đến kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Toà án. Chính vì vậy, trong những năm qua, cùng với việc đổi mới về cơ cấu tổ chức hệ thống Toà án (thành lập thêm các Toà) thì công tác đaò tạo, đào tạo lại cán bộ làm việc trong các cơ quan Toà án, trong đó có đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp được chú trọng. đặc biệt Hiến pháp năm 1992 cũng như Luật tổ chức Toà án nhân dân(ban hành ngày 6-10-1992) đã quy định chế độ: tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán Toà án thay thế cho chế độ bầu cử. Pháp lện về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có hiệu lực thi hành từ ngày 15-8-1993 đã cụ thể hoá những quy định đó càng chứng minh rõ vị trí, tầm quan trọng của Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức năng xét xử cử Toà án. Đây là điều kiện rất thuận lợi để đội ngũ Thẩm phán Toà án phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình, góp phần quan trọng phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ tổ quốc, bảo về chế độ, củng cố chính quyền nhân dân, góp qhần thực hiện quyền dân chủ và công bằng xã hội trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.

Trong những năm qua, cùng với những thuận lợi trong việc tạo điều kiện cho các Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ như đã nêu trên, thì công tác tổ chức và quản lý hoạt động của đội ngũ những người làm công tác xét xử tại các Toà án 9 (thẩm phán) vẫn còn nhiều hạn chế bất cập.

Tại hội thảo chuyên đề: "Quản lý Thẩm phán Toà án địa phương - Thực trạng và giải pháp", dưới góc nhìn của một cơ quan xét xử ở địa phương, tuy còn nhiều hạn hẹp nhưng chúng tôi xin được nêu những vấn đề nổi lên trong hoạt động xét xử của Thẩm phán, thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp, góp tiếng nói chung cùng các ngành chức năng ở trung ương tạo ra những thuận lợi và thời cơ để toàn ngành Toà án nói chung và đội ngũ Thẩm phán Toà án nói riêng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình theo luật định.

II. Thực trạng hoạt động xét xử của Thẩm phán

ở đây, chúng tôi không nêu lên những mặt tích cực, những việc đã làm được trong hoạt động xét xử của Thẩm phán Toà án các cấp ở địa phương, mà xin nêu một số một số vấn đề đáng quan tâm như sau:

1. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển trên nhiều mặt của nề kinh tế - xã hội trên đất nước thì những tiêu cực trong đời sống xã hội, những hành vi vi phạm pháp luật, những tranh chấp trên lĩnh vực dân sự cũng như hôn nhân gia đình ngày một gia tăng, tính chất các vụ việc ngày càng phức tạp. Ngành Toà án nói chung và đặc bịt là đội ngũ Thẩm phán phải đương đầu với một khối lượng công việc rất lớn. Thế nhưng, nhìn chung về số lượng Thẩm phán ở Toà án nhân dân huyện và tỉnh đều còn ít. Cụ thể ở tỉnh Bắc Giang các Toà án cấp huyện bình quân chỉ có 3-4 Thẩm phán. Trong khi đó số lượng án phải giải quyết nhiều. Điển hình như Toà án thị xã Bắc Giang trong nhiều năm chỉ có 4-5 Thẩm phán, hàng năm đều có từ 2-3 đồng chí thay phiên nhau đi học nghiệp vụ, nhưng số lượng án trung bình hàng năm khoảng 400-500 vụ. Đặc biệt ở cấp huyện phải xét xử sơ thẩm hầu hết các loại án dân sự và hôn nhân gia đình. Với số lượng Thẩm phán như vậy, thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu điều tra và giải quyết án theo quy Luật tố tụng.

Cũng như ở Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang với ssố lượng biên chế Thẩm phán như ấn định của Bộ Tư pháp là 17 đồng chí cũng chưa thực sự hợp lý và cững là khó khăn lớn cho việc hoàn thành nhiệm vụ xét xử. Đây là một thực tế và cũng là khó khăn cần sớm được quan tâm giải quyết.

2. Nhìn vào chất lượng đội ngũ Thẩm phán ở cấp huyện cũng như Toà án tỉnh, chúng tôi thấy rằng: trong những năm qua Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân các cấp đã thực sự cố gắng trong việc bồi dưỡng về nghiệp vụ pháp lý cho cán bộ Toà án và đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Song nhìn chung đội ngũ Thẩm phán các cấp ở tỉnh Bắc Giang về cơ bản và phần đông không được đào tạo chính quy. Đa phần học qua các lớp hệ đại học tại chức và luân huấn, có những đồng chí theo yêu cầu bức xúc của các thời kỳ khác nhau nên được điều chuyển từ các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng hoặc các ngành khác sang làm cán bộ xét xử, thậm chí làm Chánh, Phó Toà án nhân dân cấp huyện. Từ thực tế này, có thể nói rằng, trình độ chuyên môn của các Thẩm phán ở mỗi cấp còn nhiều hạn chế và chưa thực sự đồng đều, kiến thức pháp lý, kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều đồng còn hạn chế, khả năng đảm đương công tác xét xử chưa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của tình hình phức tạp trong các mối quan hệ pháp lý trên lĩnh vực dân sự cũng như hình sự hiện nay. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng án phải cải sửa, huỷ ở các cấp phúc thẩm cũng như giám đốc thẩm chiếm tỷ lệ cao ở cả Toà án nhân dân cấp huyện cũng như Toà án nhân dân cấp tỉnh trong những năm qua.

3. Đối với công tác tổ chức cán bộ cũng như việc quản lý về tổ chức đối với Toà án địa phương hiện tại cũng còn nhiều bất cập. Việc điều chỉnh bố trí, cán bộ ở các Toà án nhất là đội ngũ Thẩm phán, cán bộ lãnh đạo còn quá chậm và không kịp thời. Thực tế trong những năm qua ở Bắc Giang có nhiều huyện 2-3 năm liền không có Chánh án như Lục Nam, Yên Thế, Tân Yên. Thậm chí như Toà án nhân dân huyện Tân Yên: một đồng chí Thẩm phán được giao quyền phụ trách cơ trong suốt thời gian dài, chính vì vậy đã gây không ít khó khăn cho hoạt động nghiệp vụ của các đồng chí Thẩm phán ở các Toà án đó.

4. Việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng còn nhiều điều chưa thật sự hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác xét xử hiện nay. Những vấn đề đó là:

- Quy định về chức năng, nhiệm vụ của Thẩm phán chỉ bó hẹp ở một địa phương được bổ nhiệm là không hợp lý và thực sự gây khó khăn cho việc điều chuyển Thẩm phán từ địa phương này đến địa phương khác theo yêu cầu của tổ chức cũng như phục vụ nhiệm vụ chung.

- Việc quy định và khống chế nhiệm kỳ của Thẩm phán như hiện nay đã gây nên tâm lý thiếu yên tâm công tác của các đồng chí Thẩm phán. Theo chúng tôi Nhà nước cần xác định đây là một nghề và người đã được bổ nhiệm chức vụ Thẩm phán thì họ chỉ bị cách chức khi họ có vi phạm hoặc tự từ bỏ chức vụ của mình. Có như vậy mới nâng cao được vị trí của các Thẩm phán và đồng thời để họ thực sự yên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình.

- Những quy định về công tác quản lý Toà án địa phương nói chung cũng như đối với đội ngũ Thẩm phán nói riêng như hiện nay còn nhiều điều chưa hợp lý.

Việc phân cấp quản lý Toà án địa phương do Bộ Tư pháp đảm nhiệm như hiện còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết để khẳng định về mô hình và cơ chế quản lý thích hợp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra tâm lý thiếu yên tâm trong công tác của đội ngũ Thẩm phán.

- Về chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với Thẩm phán còn quá thấp (nhất là Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện). Trong những năm gần đây, tuy điều kiện làm việc của các Thẩm phán có được cải thiện chút ít nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự tạo được điều kiện tốt để các Thẩm phán thật sự tận tâm, tận lực cho công tác xét xử. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công việc gây nên những tiêu cực trong hoạt động xét xử của các Thẩm phán.

- Công tác quản lý và bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán nhân dân chưa thật sự hợp lý. Thực tế hiện nay luật quy định Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, khi xét xử ngang quyền Thẩm phán. Thế nhưng thực trạng lực lượng Hội thẩm nhân dân đa phần còn rất hạn chế về trình độ pháp lý. Trong khi đó Pháp lệnh chỉ quy định Toà án chịu trách nhiệm bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho Hội thẩm nhân dân nhưng lại không quy định cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý và cung cấp kinh phí để bồi dưỡng về pháp lý cho Hội thẩm nhân dân. Đây là khó khăn lớn cho Thẩm phán chủ toạ phiên toà sơ thẩm ở địa phương trong việc phát huy trí tuệ tập thể thông qua công tác xét xử.

III. Về giải pháp

Để Toà án có đủ điều kiện thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành theo quy định của Hiến pháp cũng như Luật tổ chức Toà án, khắc phục những tồn tại và hạn chế trong công tác tổ chức và quản lý đội ngũ Thẩm phán Toà án điạ phương, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau:

1. Phải quan tâm tăng cường đội ngũ Thẩm phán cả về số lượng và chất lượng để lực lượng này thực sự là nòng cốt thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Toà án.

Theo chúng tôi, trước mắt Bộ Tư pháp cần tổ chức khảo sát tình hình thực tế ở các cấp địa phương. Căn cứ khối lượng công việc, địa bàn và tính chất điều kiện xã hội ở từng địa phương để quy định cụ thể về biên chế cán bộ trong đó có số lượng Thẩm phán cho thích hợp.

Các ngành quản lý về tổ chức Toà án địa phưong ở trung ương cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo và nâng cao trình độ pháp lý cũng như trình độ chính trị cho đội ngũ Thẩm phán. Thực tế những năm qua, Bộ Tư pháp cũng như Toà án nhân dân tối cao chưa thực sự tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm phán được đi học các lớp chính trị. Theo chúng tôi cần có một quy định cụ thể về trình độ chính trị của Thẩm phán (ngoài kiến thức pháp lý như quy định hiện nay) có như vậy mới đảm bảo đảm được yêu cầu: liêm chính, trung thực, vô tư và mẫu mực của người Thẩm phán, hạn chế được những hành vi tiêu cực của Thẩm phán trong xét xử.

2. Công tác quản lý về tổ chức cán bộ ở các cấp Toà án cần được chú ý đúng mức. Nhất là việc tuyển dụng cán bộ, nhất thiết những cán bộ được tuyển dụng vào Toà án nhân dân các cấp phải là những người có đủ điều kiện về trình độ nghiệp vụ cũng như phẩm chất đạo đức. Những người này sẽ là người bổ sung cho đội ngũ Thẩm phán khi cần thiết.

Không để tình trạng Toà án các cấp không có Chánh, Phó án trong thời gian dài như hiện nay.

3. Cần khảo sát, rút kinh nghiệm thực tế trong 4 năm thực hiện Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân để sửa đổi, bổ sung những điều bất hợp lý hoặc chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tiễn công tác xét xử hiện nay.

Theo chúng tôi cần phải cải tiến chế độ tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán bằng việc vẫn duy trì chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, song cần đơn giản về thủ tục tuyển chọn. Thẩm quyền xét xử của Thẩm phán không nên chỉ hạn chế trong một địa phương (nếu đã được bổ nhiệm Thẩm phán thì theo thẩm quyền quản lý có thể điều động, thuyên chuyển công tác nhưng không phải làm thủ tục bổ nhiệm lại).

Không quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm như hiện nay. Cần quy định cụ thể điều kiện để miễn nhiệm chức danh Thẩm phán.

4. Để tạo điều kiện cho Thẩm phán hoạt động có hiệu quả, chúng tôi đề nghị Nhà nước quan tâm đến chế độ đãi ngộ, điều kiện vật chất phục vụ làm việc của các Thẩm phán, giúp cho các Thẩm phán thực sự yên tâm trong khi thực thi nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó cũng cần có quy định cụ thể về chế độ đãi ngộ, cơ chế quản lý, việc bồi dưỡng nghiệp vụ pháp lý cho Hội thẩm nhân dân để những người này thực sự là những cộng sự tích cực của Thẩm phán trong hoạt động xét xử.

5. Ngoài việc quan tâm đến củng cố về mặt tổ chức đối với đội ngũ Thẩm phán, các cơ quan chức năng ở Trung ương cần kịp thời sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động xét xử của Toà án như Luật tố tụng dân sự... Việc giải thích pháp luật bằng các thông tư lên ngành cũng cần được quan tâm đúng mức để kịp thơì cung cấp những điều kiện pháp lý cần thiết cho hoạt động nghiệp vụ của các Thẩm phán. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao chất lượng xét xử của Toà án các cấp. Là điều kiện để dảm bảo nguyên tắc: "Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

Với chức năng của một cơ quan bảo vệ pháp luật, Toà án thông qua hoạt động xét xử của các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân để ra các quyết định, bản án để xử lý những hành vi phạm tội, giải quyết các tranh chấp xẩy ra trong đời sống xã hội, bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của nhân dân. Hiệu quả hoạt động của Toà án góp phần quan trọng trong việc củng cố và tăng cường quyền lực của Nhà nước trong đời sống xã hội. Do vậy, việc tăng cường củng cố về mặt tổ chức, quản lý đối với đội ngũ cán bộ ngành Toà án nói chung và đội ngũ Thẩm phán nói riêng là một yêu cầu thực sự bức xúc, cần được Đảng, Nhà nược thật sự quan tâm nhiều hơn nữa./.

 

 

 

 

một số nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng

đến việc giải quyết các tranh chấp dân sự –

giải pháp khắc phục

 

Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây

 

Những năm gần đây, quan hệ dân sự ngày càng phát triển do Nhà nước có những chính sách mới. Những quy định điều tiết các quan hệ dân sự cũng được hoàn thiện thêm một bước mà cụ thể là Bộ luật dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-1996, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ sự nghiệp đổi mới. để đảm bảo cho những quy định của Bộ luật dân sự đi vào cuộc sống, phát huy được tác dụng là còn khó khăn. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thông qua công tác xét xử, Toà án có nhiệm vụ áp dụng và vận dụng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn các quy định của Bộ luật dân sự vào giải quyết các tranh chấp. Ngoài việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự nó còn nhằm mục tiêu chung mà chúng ta hướng tới là hình thành ý thức tôn trọng pháp luật, biến khẩu hiệu "Sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" thành phương châm hoạt động của mỗi người dân và lối sống của toàn xã hội.

Hà Tây nằm ở phía tây - tây nam thủ đô Hà Nội, là cửa ngõ ra vào thủ đô, là cầu nối thủ đô hà Nội với nhiều miền của đất nước. Do đó, giữa Hà Tây và Hà Nội có mối quan hệ lao động qua lại thường xuyên, trực tiếp rất mau lẹ về nhiều mặt trong đời sống xã hội. Mọi diễn biến trên các lĩnh vực xã hội ở Hà Nội đều tác động trực tiếp mạnh mẽ đến Hà Tây và ngược lại, nhất là các vùng tiếp giáp... Vì vậy, trong các tranh chấp dân sự ở hà Tây, ngoài những đặc điểm chung còn có những yếu tố riêng biệt mang tính phức tạp riêng.

Từ đầu năm 1996 đến hết tháng 6 năm 1997, Toà án tỉnh thụ lý, giải quyết 712 vụ kiện dân sự các loại: năm 1996 giải quyết 505 vụ; 6 tháng đầu năm 1997 giải quyết 207 vụ. Trong số án kiện Toà án giải quyết thì các loại kiện về vay nợ, tranh chấp thừa kế, bồi thường thương tích chiếm tỷ lệ cao

- Năm 1996, trong số 505 vụ Toà án giải quyết thì kiện về vay nợ chiếm 185 vụ = 36,6%; tranh chấp thừa kế nhà đất chiếm 72 vụ = 14%; bồi thường do gây thương tích chiếm 76 vụ = 15%. Còn lại là các tranh chấp khác như gia công đặt hàng; thuê mượn tài sản; gửi giữ tài sản; đòi tài sản bị chiếm đoạt... chiếm 34%.

Trong số án cấp sơ thẩm giải quyết thì có 118 vụ bị kháng cáo chiếm tỷ lệ 23%.

So sánh số án kháng cáo trong từng loại việc thì tranh chấp về thừa kế nhà đất có tỷ lệ kháng cáo cao nhất. Cụ thể là trong 72 vụ cấp sơ thẩm giải quyết thì có tới 45 vụ kháng cáo chiếm tỷ lệ 62%; bồi thường thương tích: kháng cáo 18 vụ trên tổng số 76 vụ chiếm tỷ lệ 23%; vay nợ: kháng cáo 17 vụ trong số 185 vụ chiếm 9%.

Trong tổng số 118 vụ kháng cáo, cấp phúc thẩm giải quyết đã sửa án sơ thẩm 42 vụ chiếm 35%; huỷ án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại là 21 vụ chiếm 18%. Như vậy, trong số bản án bị kháng cáo thì án bị sửa và huỷ chiếm tỷ lệ 53%.

- 6 tháng đầu năm 1997, trong tổng số 207 vụ cấp sơ thẩm giải quyết thì: kiện về thừa kế nhà đất 25 vụ chiếm tỷ lệ 12%; vay nợ 60 vụ chiếm 28%; bồi thường thương tích 24 vụ chiếm 11,5%. Còn lại là các loại án kiện khác chiếm 48,5%.

Trong số 207 vụ Toà cấp sơ thẩm giải quyết có 69 vụ bị kháng cáo chiếm 33%. Trong số án bị kháng cáo, cấp phúc thẩm xét xử đã sửa án sơ thẩm 31 vụ chiếm tỷ lệ 48%; huỷ án sơ thẩm để điều tra xét xử lại là 10 vụ, chiếm tỷ lệ là 15%. Như vậy, cả số bản án bị sửa và huỷ chiếm tỷ lệ 63% trong số án kháng cáo.

Qua số liệu thống kê thấy hầu hết số án kiện cấp sơ thẩm giải quyết đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự, đương sự đồng tình với cách giải quyết của cấp sơ thẩm, do đó năm 1996 số án bị kháng cáo chỉ chiếm 23%. Sáu tháng đầu năm 1997 số án bị kháng cáo chiếm 33% trong toàn bộ số án đã giải quyết. Trong số vụ kiện bị kháng cáo tập trung chủ yếu vào các loại kiện tranh chấp thừa kế nhà đất, vay nợ và bồi thường thiệt hại do cố ý gây thương tích. Trong các loại án kiện này, chỉ các vụ kiện được cấp sơ thẩm giải quyết bằng biện pháp xét xử thì hầu hết các đương sự kháng cáo. Điều này thể hiện mâu thuẫn giữa các đương sự không thể điều hoà mà Toà án áp dụng không hiệu quả. Mặt khác, cũng thể hiện tính phức tạp của vụ kiện dẫn đến điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ của Toà án gặp không ít khó khăn. Trong khi pháp luật về dân sự chưa hoàn thiện thiếu đồng bộ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc Toà án áp dụng và vận dụng pháp luật.

Từ khi Bộ luật dân sự có hiệu lực thi hành thì nảy sinh những vấn đề mới. Cùng một loại kiện nhưng vụ thì áp dụng các quy phạm cũ để giải quyết, có vụ phải áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết bởi nó tuỳ thuộc vào thời điểm quan hệ tranh chấp ấy phát sinh trước hay sau thời điểm Bộ luật dân sự có hiệu lực (nếu quan hệ giao dịch đó phát sinh trước thời điểm Bộ luật dân sự có hiệu lực thì nội dung giao dịch đó có phù họp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao dịch đó không và quy định của pháp luật tại thời điểm đó có phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự không...). Đó là những yếu tố rất quan trọng và phức tạp khi xem xét áp dụng pháp luật. Trong khi đó các cơ quan có thẩm quyền chưa kịp hướng dẫn hoặc giải thích các quy định của Bộ luật dân sự để các Toà án vận dụng thống nhất... do đó cũng ảnh hưởng đáng kể đến việc định hướng điều tra của Toà án khi thụ lý giải quyết. Qua thực tế, các khó khăn vướng mắc nêu trên biểu hiện ở các loại kiện vay nợ, thừa kế nhà đất, bồi thường thương tích...

I. đối với tranh chấp thừa kế nhà đất

Đây là loại kiện phức tạp. Tính phức tạp biểu hiện ở chỗ thời điểm mở thừa kế đã lâu. Có việc xẩy ra cách thời điểm khởi kiện 30-40 năm, thậm chí đến 50-60 năm. Cả quãng thời gian dài như vậy có rất nhiều biến cố lịch sử. Thời gian đã làm cho vật tranh chấp không còn nguyên vẹn, tình trạng tài sản đã thay đổi cơ bản, thậm chí tài sản trước đây là nhà đất thì nay chỉ còn thửa đất không, hoặc tài sản trên đất lại là của người khác hoặc của một thừa kế đã tạo lập mới... làm cho việc điều tra thu thập chứng cứ của Toà án gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, chính sách pháp luật về nhà đất trong từng thời kỳ có thay đổi cũng là yếu tố khó khăn trong việc áp dụng và vận dụng pháp luật đẻ giải quyết việc kiện. Vì vậy đòi hỏi người thẩm phán phải ý thức được trách nhiệm, nắm vững các nguyên tắc pháp luật, vận dụng sao cho vừa đúng luật pháp lại phù hợp với thực tế. Chẳng hạn có việc kiện thừa kế phát sinh từ năm 1981-1982, tức là thời kỳ Hiến pháp và pháp luật không cho pháp công dân được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế quyền sử dụng đất... Nay việc kiện mới phát sinh trong điều kiện Luật đất đai năm 1993 cho công dân được quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, thừa kế quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này, người thẩm phsn đứng ở thời điểm Luật đất đai năm 1993 đang được thi hành để giải quyết quan hệ thừa kế nhà đất phát sinh ở giai đoạn trước mà khi đó pháp luật về đất đai có những quy định khác hẳn với quy định hiện hành... Mặt khác, việc tranh chấp không chỉ đơn thuần là đất mà còn là các tài sản gắn liền với đất có những thay đổi về tình trạng tài sản, thay đổi về người quản lý, chiếm giữ những tài sản... Đó là những yếu tố phức tạp khi điều tra, thu thập chứng cứ, áp dụng và vận dụng quy phạm pháp luật.

Từ những tính phức tạp, khó khăn nêu trên đòi hỏi người thẩm phán phải hiểu biết sâu sắc, đầy đủ các quy định của pháp luật hiện hành về quy phạm pháp luật của những thời kỳ trước đây. Vận dụng một cách linh hoạt để phù hợp với thực tế của từng vụ kiện. Song trong một số vụ kiện cán bộ xét xử đã không có được các yêu cầu trên nên dẫn đến khi giải quyết xác định sai quan hệ pháp luật bị tranh chấp, định hướng điều tra không đúng, không có phương pháp điều tra thích hợp... Không xác định được đâu là quan hệ pháp luật chủ yếu phải giải quyết... Vì trong nhiều việc kiện, Toà án phải xem xét giải quyết nhiều quan hệ pháp luật trong đó có quan hệ pháp luật là tiền đề, giải quyết tốt quan hệ pháp luật tiền đề thì mới có cơ sở để giải quyết tốt quan hệ pháp luật chính yếu trong vụ kiện. Điều tra theo cảm tính mà không dựa vào quy định của pháp luật làm căn cứ dẫn đến thu thập chứng cứ một chiều, phiến diện, đánh giá chứng cứ sai lệch, áp dụng pháp luật máy móc mà không chú ý đến phong tục tập quán của địa phương nơi xẩy ra tranh chấp.

II. đối với tranh chấp vay nợ

Đây là một loại quan hệ thường phát sinh trong đời sống hàng ngày của nhân dân, giữa người cho vay và người vay trước đó thường có mối quan hệ quen biết, tin tưởng nhau. Do hiểu biết pháp luật hạn chế nên khi cho nhau vay, giữa người cho vay và người vay thiết lập bằng hợp đồng miệng, có một số ít trường hợp giao kết bằng giấy tờ nhưng chỉ cụ thể số tiền cho vay, còn thời hạn vay, mức lãi thường không rõ ràng cụ thể. Trong trường hợp bên vay trả làm nhiều lần, nhiều đợt nhưng trong từng lần, từng đợt trả nợ không thoả thuận rõ với nhau là số tiền trả mỗi lần là lãi hay vốn. Có trường hợp bên vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng hình thức làm một hay nhiều công việc cho bên cho vay để trừ nợ như làm thuê, gia công hàng hoá, làm dịch vụ khác... nhưng cũng lại là thoả thuận miệng với nhau. Đến khi đòi trừ vào nợ cũng xảy ra tranh chấp. Có trường hợp bên cho vay bắt tài sản của bên vay để trừ nợ nhưng số tài sản đó trị giá không đủ để trừ vào số nợ hoặc vượt quá số nợ. Có trường hợp bên cho vay giữ tài sản của người vay nhưng thực chất lại là tài sản của người khác...

Thông thường loại việc này khi các đương sự không thể tự giải quyết cũng là thời điểm mâu thuẫn giữa các bên ở mức độ cao không thể điều hoà thì các bên mới đưa nhau đến Toà án. Chứng cư các bên đưa ra ít có độ tin cậy, trừ trường hợp khi cho nhau vay các bên giao kết bằng giấy tờ. Nếu đương sự đưa người làm chứng ra thì ít có cơ sở để tin rằng việc làm chứng của họ là khách quan. Mặt khác, sau khi đương sự đưa đơn kiện đến Toà án thì việc tranh chấp xảy ra đã lâu. Một hoặc cả hai bên dùng những thủ đoạn gian dối như giả chữ ký, tạo giấy tờ giả mạo khác... nên việc điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ cũng khó khăn, chẳng hạn: Ngoài việc xác định số lượng tài sản cho vay thì việc xác định vay có lãi hay không có lãi, thời hạn cho vay, mức lãi xuất... cũng là những tình tiết phức tạp, liên quan đến việc vận dụng pháp luật sao cho phù hợp với từng loại vay mà pháp luật quy định. Trước đây có thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 10-1-1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản trong các vụ án hình sự và dân sự. Nhưng kể từ khi Bộ luật dân sự có hiệu lực pháp luật, cùng với Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật dân sự của Quốc hội thì thực tiễn xét xử nảy sinh những vấn đề mới trong việc áp dụng quy phạm pháp luật, trong khi đó một số hướng dẫn trước đây của các cơ quan có thẩm quyền mất hiệu lực thi hành (trong đó có Thông tư liên ngành số 01/TTLN nói trên) khi chưa có các hướng dẫn mới. Vì vậy, từng đơn vị Toà án, từng cấp Toà án, từng thẩm phán vận dụng khác nhau khi giải quyết.

Giải quyết loại việc này, ngoài việc yêu cầu các đương sự tự cung cấp chứng cứ, tài liệu chứng minh thì một việc rất quan trọng là thẩm phán phải chủ động xác minh các tài liệu do đương sự xuất trình như giám định chứng cứ, chữ ký, thu thập thêm các tình tiết liên quan, giá cả của tài sản đương sự dùng trong giao dịch... Một số các vụ án bị huỷ hoặc bị sửa, nguyên nhân chủ yếu là do công tác điều tra không đạt yêu cầu, do phương pháp điều tra không thích hợp cho từng vụ việc nên không tìm ra được sự thật, nặng về yêu cầu dương sự tự chứng minh, vận dụng các quy định của pháp luật không chính xác, không toàn diện như vận dụng các quy định của pháp luật đã mất hiệu lực... nên khi giải quyết không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự.

iii. đối với loại kiện đòi bồi thường thiệt hại do cố ý gây thương tích

Đây là loại Toà án thường gặp trong hoạt động xét xử. ở loại việc này, khi sự việc cố ý gây thương tích xảy ra thì chính quyền địa phương, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, xác định người có hành vi gây thiệt hại, nguyên nhân gây thương tích... Nếu sự việc không đến mức xử lý bằng biện pháp hình sự do tỷ lệ mất sức lao động của nạn nhân thấp, hành vi của người gây thiệt hại ít nguy hiểm... thì Toà án mới giải quyết bằng biện pháp dân sự khi người bị hại yêu cầu. Trong trường hợp này toà án thường phải điều tra những thiệt hại thực tế do phải điều trị thương tích như chi phí thuốc men, thu nhập bị mất, bị giảm sút do giảm khả năng lao động... nếu người bị hại phải điều trị tại bệnh viện thì căn cứ duy nhất để xác định các chi phí trên phải thông qua bệnh án của bệnh viện nơi điều trị bệnh nhân, nhưng thực tế các đương sự không tự cung cấp được tài liệu này cho toà án. Theo quy định của Bộ Y tế thì chỉ khi nào được sự đồng ý của Giám đốc Sở Y tế thì bệnh viện nơi điều trị nạn nhân mới cung cấp bệnh án cho toà án do đó rất khó khăn cho các toà án ở xa trụ sở của Sở y tế. Có trường hợp nguyên đơn điều trị ở bệnh viện tỉnh khác thì việc yêu cầu bệnh viện cung cấp bệnh án lại càng phức tạp, khó khăn hơn. Từ những quy định của Bộ Y tế và những điều kiện thực tế đó cũng ảnh hưởng đến việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình điều tra của thẩm phán. Mặt khác, gặp những trường hợp này, thẩm phán thường ngại đi thu thập tài liệu mà thay vào đó là yêu cầu đương sự tự xuất trình các hoá đơn thuốc điều trị, giấy ra viện... để làm căn cứ đánh giá, xem xét vì vậy dẫn đến quyết định không chính xác, quyết dịnh của toà án không có sức thuyết phục.

Ngoài những nguyên nhân nêu trên đối với từng loại việc thì còn có một số nguyên nhân sau đây ảnh hưởng hạn chế đến việc giải quyết án dân sự.

- Để giải quyết hoàn chỉnh một vụ án dân sự, người thẩm phán phải thực hiện nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau trong đó có giai đoạn điều tra, thu thập tài liệu chứng cứ. Đây là giai đoạn tiêu hao nhiều thời gian công sức. Nếu chỉ có ý thức trách nhiệm, nắm vững các quy định của pháp luật cần áp dụng đối với mỗi loại kiện mà không có phương pháp điều tra đúng thì cũng không đạt kết quả tốt thậm chí còn có thể làm cho vụ kiện thêm phức tạp. Trong khi đó đội ngũ thẩm phán khi thực hiện công tác này lại chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của bản thân, do vậy có rất nhiều hạn chế. Khắc phục tình trạng này cần kịp thời trang bị kiến thức điều tra cho thẩm phán. Làm được như vậy không chỉ có ý nghĩa nâng cao trình độ nghiệp vụ cho thẩm phán mà còn có tác dụng hạn chế những sai sót nghiệp vụ ngay ở giai đoạn đầu của quá trình tố tụng.

- Một vụ kiện dân sự, ngoài bị đơn, nguyên đơn thì còn có những người có quyền và nghĩa vụ liên quan, có nhiều vụ kiện đương sự cư trú ở nhiều địa phương khác nhau, có cả ở ngoài nước. Tài sản tranh chấp cũng ở nhiều địa phương khác nhau, thậm chí ở ngoài địa bàn tỉnh, thành phố... Vì vậy, ngoài việc người thẩm phán bố trí thời gian cho việc đi điều tra, xác minh thì một yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động điều tra, đó là các chi phí phục vụ cho công tác này. Về vấn đề này chưa được thực sự chú ý đúng mức, các quy định của luật pháp cũng chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung mà chưa cụ thể hoá do đó việc điều tra của toà án cũng bị ảnh hưởng.

- Trong một số vụ kiện, việc thu thập chứng cứ của toà án đòi hỏi phải được sự giúp đỡ tích cực của một số ngành chuyên môn như cơ quan nhà đất, cơ quan địa chính trong việc giải quyết các tranh chấp đất. Nhưng thực tế việc cung cấp của những cơ quan này thực sự chưa có hiệu quả vì những lý do khác nhau trong đó có nguyên nhân do tài liệu lưu trữ của những cơ quan này không đầy đủ. Việc cung cấp tài liệu cho toà án của những cơ quan này không được coi là nghĩa vụ của họ cũng là yếu tố gây khó khăn trong việc điều tra của toà án đối với những vụ án liên quan.

Nói chung hoạt động xét xử dân sự của toà án cấp sơ thẩm cơ bản là đúng, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự. Song còn một số vụ kiện toà án cấp sơ thẩm giải quyết chưa đảm bảo chất lượng so với yêu cầu là do những nguyên nhân khách quan, chủ quan như đã phân tích ở trên. Các giải pháp để khắc phục các thiếu sót này trong quá trình giải quyết vụ án mà chúng tôi nêu ra trên đây cũng đề nghị cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu xem xét để có những quy định cụ thể, tạo điều kiện cho thẩm phán làm công tác xét xử dân sự hoàn thành tốt nhiệm vụ, chất lượng xét xử ngày càng tốt hơn, phục vụ tốt hơn cho công cuộc đổi mới của đất nước./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

thực tiễn công tác xét xử án hình sự sơ thẩm

của toà án nhân dân thành phố Hà nội và một số đề xuất

 

Toà án nhân dân thành phố Hà Nội

 

Là cơ quan xét xử của Nhà nước ở địa phương, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội có chức năng áp dụng pháp luật để xét xử những vụ án hình sự, thực hiện việc cưỡng chế Nhà nước đối với kẻ phạm tội và qua đó giáo dục quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Qua nhiều hội nghị tổng kết công tác năm của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân thành phố Hà nội luôn được đánh giá là một trong những đơn vị dẫn đầu về số lượng án đã xét xử của cà nước (Toà án nhân dân thành phố Hà Nội và Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử số lượng án hàng năm chiếm 1/3 tổng số lượng án các Toà án địa phương xét xử).

Hoạt động ở một địa bàn trọng điểm, hàng năm phải giải quyết một số lượng án rất lớn, tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp và có xu hướng ngày một tăng nhất là tội phạm về ma tuý, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các ngân hàng... song Toà án nhân dân thành phố Hà Nội luôn bám sát các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, các phương hướng nhiệm vụ chỉ đạo hàng năm của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp nỗ lực phấn đấu tập trung vào những vấn đề nóng bỏng xét xử, vừa đảm bảo đạt tỷ lệ cao nhất số lượng án đã thụ lý, vừa bảo đảm chất lượng, xét xử kịp thời và nghiêm minh, đúng người đúng tội, đúng pháp luật, hoàn thành nhiệm vụ.

Đề tài "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý thẩm phán Toà án địa phương" do Bộ Tư pháp nghiên cứu, khi thành công sẽ có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn. Cuộc Hội thảo hôm nay nằm trong chương trình nghiên cứu của đề tài, qua thực tiễn xét xử Toà án nhân dân thành phố xin báo cáo hoạt động xét xử án hình sự của ngành trong năm 1996 và 6 thàng đầu năm 1997 nhằm tìm ra những nguyên nhân, kết quả đạt được cũng như những yếu kém tồn tại, đóng góp vào sự thành công của ,một đề tài lớn.

Về thụ lý: năm 1996 toàn ngành thụ lý 5188 vụ - 8446 bị cáo, so với năm 1995 thụ lý án hình sự sơ thẩm tăng 695 vụ. 6 thàng đầu năm 1997 thụ lý 2.679 vụ - 4227 bị cáo. Riêng Toà án nhân dân thành phố thụ lý 1007 vụ- 1807 bị cáo, so với 6 thàng đầu năm 1996 tăng 117 vụ - 139 bị cáo.

 

Cả năm 1996 và 6 tháng đầu năm 1997 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý 7.867 vụ án hình sự sơ thẩm với 12.673 bị cáo phạm các tội khác nhau. đây là số lượng án thụ lý lớn nhất so với nhiều năm trước.

Về xét xử: Năm 1996 toàn ngành giải quyết 5.040 vụ - 8.159 bị cáo trên tổng số án đã thụ lý đạt tỷ lệ chung về việc giải quyết án hình sự là 97,1%, còn lại 148 vụ - 287 bị cáo.

6 tháng đầu năm giải quyết 2.412 vụ - 3.762 bị cáo, đạt tỷ lệ chung là 90,3%, còn lại 267 vụ - 465 bị cáo.

Cộng cả năm 1996 và 6 tháng đầu năm 1997 toàn ngành đã xét xử 7.452 vụ - 11.921 bị cáo, đạt tỷ lệ 94, 7% về giải quyết việc là 94,06% về số bị cáo. Trong đó Toà án nhân dân các quận huyện xét xử 5.000 vụ - 7.437 bị cáo trên tổng số 5.105 vụ - 7.594 bị cáođã thụ lý.

Toàn ngành đã hoàn lại Viện kiểm sát 774 vụ - 1.494 bị cáo. (Năm 1996 hoàn lại Viện kiểm sát 562 vụ - 1.053 bị cáo chiếm 11,1% số lượng án đã thụ lý; 6 tháng đầu năm 1997 hoàn lại 212 vụ - 441 bị cáo). Số hồ sơ hoàn lại Viện kiểm sát chủ yếu là do cần phải điều tra bổ sung chứng cứ, hồ sơ vụ án bỏ lọt tội phạm hoặc do Viện kiểm sát nhân dân rút hồ sơ.

Toà án nhân dân thành phố xét xử theo trình tự phúc thẩm 1.062 vụ - 1.302 bị cáo trên tổng số 1.187 vụ - 1.359 bị cáo Toà án nhân dân các quận huyện xét xử sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị. (Năm 1996 thụ lý 696 vụ - 872 bị cáo, xét xử 666 vụ - 825 bị cáo, 6 tháng đầu năm 1997 thụ lý 491 vụ - 587 bị cáo, xét xử 461 vụ - 524 bị cáo). Kết quả:

- Y án sơ thẩm: 945 bị cáo chiếm 72,5%

- Sửa án sơ thẩm: 317 bị cáo chiếm 24,3%

- Huỷ án: 40 bị cáo chiếm 3,07%.

Như vậy với số lượng 5000 vụ - 7.437 bị cáo do Toà án nhân dân các quận, huyện đã xét xử trong thời gian qua thì chỉ có 1.187 vụ - 1.359 bị cáo có kháng cáo, kháng nghị. Toà án nhân dân thành phố đã thụ lý xét xử theo trình tự phúc thẩm, chiếm 23,7% về số vụ, 18,2% về số bị cáo, tỷ lệ này là bình thường. Mặt khác kết quả xét xử phúc thẩm cho thấy tỷ lệ y án khá cao, cải sửa án không nhiều, số lượng án bị huỷ chiếm tỷ lệ nhỏ chủ yếu là do có tình tiết mới, có căn cứ luật định. Điều này khẳng định chất lượng xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân các quận, huyện là khá chính xác, ổn định.

Toàn ngành phối hợp chặt chẽ với các ngành trong khối nội chính đấu tranh phòng chống tội phạm một cách mạnh mẽ và kiên quyết nhất là các vụ trọng án và các vụ án về ma tuý, giữ vững an ninh trật tự an toàn xã hội ở Thủ đô.

Tuy nhiên trong hoạt động xét xử do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan và khách quan, toàn ngành vẫn còn những tồn tại thiếu sót.

Năm 1996 theo kết luậncủa đoàn kiểm tra liên ngành Trung ương, ngày 20-11-1996 trong số 70 hồ sơ và 19 bản án của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử mà liên ngành trực tiếp nghiên cứu, kiểm tra thì có 6 hồ sơ thiếu sót. Đó là mức hình phạt áp dụng cho các bị cáo thấp so với khung hình phạt mà lại cho bị cáo được hưoửng án treo. Qua kiểm tra lại để kiểm điểm nhận xét Toà án nhân dân thành phố thấy: ở một số vụ án Hội đồng xét xử phải tuyên theo đa số như luật dịnh (Hội đồng xét xử gồm 1 thẩm phán, 2 hội thẩm nhân dân hoặc hội đồng gồm 2 thẩm phán và 3 hội thẩm nhân dân). Với hình thức tuyên án như vậy nên có 6 vụ án liên ngành kiểm tra Trung ương đã đề nghị kháng nghị. ở những vụ án này thẩm phán chủ tọa phiên toà có thiếu sót là không lập văn bản kịp thời báo cáo lanmhx đạo và cấp có thẩm quiyền để xem xét lại bản án theo luật định. Quá trình tiến hành tố tụng tại phiên toà ở một số trường hợp thẩm phán chưa thực hiện đúng quy định của luật tố tụng như nhất trí để đại diện Viện kiểm sát (VKS) rút hồ sơ truy tố tại phiên toà hoặc ra hai quyết định: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ cho VKS, không công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc khi công bố thì ở tư thế ngồi cá biệt, có thẩm phán khi đọc đến phần quyết định của bản án lại đọc sai giữa tội danh và điều luật áp dụng.

án sơ thẩm của Toà án nhân dân quận, huyện xét xử một số vụ bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm, không có tình tiết giảm nhẹ đáng kể, thẩm phán áp dụng bằng 1/2mức khởi điểm của khung hình phạt là quá nhẹ. Ngoài ra có vụ án khi xét xử còn bỏ sót tội phạm.

6 tháng đầu năm 1997 TAND tối cao kiểm tra 11 hồ sơ của 2 thẩm phán TAND thành phố Hà Nội xét xử về tội cướp tài sản công dân, thì về nội dung thẩm phán áp dụng hình phạt xử đầu khung là quá nhẹ, có vụ xử không đúng tội danh và bỏ lọt tội (Vụ Nguyễn Văn Bình án số 658/HSST ngày 14-7-1997, Đoàn Xuân Lanh án số 1281/HSST ngày 6-12-1996); về hình thức cách lập luận chưa chặt chẽ, lý lịch căn cước của bị cáo thiếu chuẩn xác.v.v...

Những thiếu sót, sai phạm trên đây của thẩm phán là do những nguyên nhân sau đây:

- Khi nghiên cứu hồ sơ, thẩm phán chưa nghiên cứu kỹ để đánh gía đúng tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, chưa đánh giá đúng vai trò của từng bị cáo trong vụ án có nhiều bị cáo. Vì thế ở cùng địa bàn Hà Nội bị cáo phạm tội có tính chất mức độ, hậu quả gây ra và nhân thân của bị cáo tương tự như nhau nhưng thẩm phán ở các quận, huyện lại áp dụng hình phạt khác nhau, có sự chênh lệch về mức hình phạt.

Một số thẩm phán trình độ nghiệp vụ chưa cao, chưa sắc sảo trong nhận định và quyết định của vụ án.

Về mặt chủ quan, một số thẩm phán chưa tận tâm với nghề nghiệp, chưa thận trọng trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, xét xử vụ án.

- Về hướng dẫn đường lới xét xử của cơ quan chức năng chưa kịp thời, nếu có hướng dẫn thì thường chậm và nhất là các tội phạm về ma tuý và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (phần dân sự trong các vụ án hình sự).

- Theo luật pháp quy định HĐXX sơ thẩm những vụ án ít nghiêm trọng gồm 1 thẩm phán và 2 hội thẩm nhân dân, những vụ án nghiêm trọng gồm 2 thẩm phán và 3 HTND và khi nghị án thì tuyên theo đa số. Trong trường hợp nào thì HTND vẫn chiếm đa số do vậy có vụ án thẩm phán có đường lối xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nhưng vì phải tuyên theo đa số nên đã ra một bản án thiếu chính xác, sai phạm.

Để khắc phục những thiếu sót trên đây, để xây dựng được một hệ thống Toà án vững mạnh, một đội ngũ thẩm phán giỏi về chuyên môn "cần, kiệm, liêm, chính" và "chí công vô tư" đáp ứng được những yêu cầu đổi mới của đất nước không chỉ là trách nhiệm của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao mà còn là trách nhiệm của mỗi cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan khác. Hoạt động xét xử của Toà án là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, song như thế không có nghĩa là hoạt động xét xử của Tòa án thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp, hỗ trợ của Chính quyền.

Về việc bổ nhiệm Thẩm phán, vấn đề mấu chốt nhất là sự lựa chọn được những cán bộ có bản lĩnh, năng lực, phẩm chất đạo đức và trình độ theo đúng những tiêu chuẩn, điều kiện mà Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đã quy định. Người Thẩm phán được Chủ tịch nước bổ nhiệm phải nhận thức được vị trí xã hội cao quý của mình liên tục thường xuyên phấn đấu, nâng cao trình độ bản lĩnh, trau dồi phẩm chất đạo đức thể hiện sự mẫu mực của người giữ cán cân công lý.

Trong quy trình lựa chọn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán việc giới thiệu, lấy phiếu tín nhiệm là rất cần thiết nhưng chưa đủ mà còn cần phải có sự thẩm tra một cách thận trọng, khách quan. Sở dĩ tổ chức Đảng phát triển vững mạnh và trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta là do Đảng ta có một quy trình kết nạp đảng viên khá chặt chẽ. Thiết nghĩ việc lựa chọn bổ nhiệm Thẩm phán có thể cũng phải theo một quy trình như thế, người được phân công theo dõi giúp đỡ cán bộ để bổ nhiệm Thẩm phán phải có báo cáo và cam đoan về sự giới thiệu đó, phải lấy ý kiến đóng góp của cá nhân, tập thể, tổ dân phố nơi sinh sống; phải thẩm tra xác minh những vấn đề về phẩm chất đạo đức, khả năng chuyên môn tại cơ quan làm việc và nơi cư trú của cán bộ.v.v...

Khi cán bộ được bổ nhiệm Thẩm phán tham gia công tác xét xử phải tuân thủ quy chế hoạt động của ngành, quy chế do Bộ Tư pháp - Toà án nhân dân tối cao ban hành, có hiệu lực pháp luật áp dụng thống nhất cho tất cả các Toà án địa phương trong cả nước trong đó cần quy định rõ:

- Chỉ tiêu, định mức số vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân - gia đình.v.v... Thẩm phán phải xét xử trong 1 tháng, 1 năm ở Toà án nhân dân tỉnh, thành phố loại I, loại II; ở Toà án nhân dân quận, huyện loại I, loại II.

- Hình thức khen thưởng, kỷ luật đối với thẩm phán xét xử vượt chỉ tiêu; Thẩm phán xét xử không đạt chỉ tiêu, xét xử sai, án bị huỷ.

Hình thức kỷ luật đối với Thẩm phán xét xử án bị huỷ 1-2 vụ/năm, 3-5 vụ/năm; án bị huỷ do nguyên nhân khách quan như buộc phải tuyên theo đa số biểu quyết của Hội thẩm nhân dân nhưng không có báo cáo để Toà án cấp trên xem xét lại bản án; hướng dẫn đường lối xét xử của Toà án cấp trên không thống nhất, ổn định; án huỷ do nguyên nhân chủ quan như tiêu cực, vi phạm pháp luật thì quy trách nhiệm cho thẩm phán đó phải chịu.

- Chế độ bồi dưỡng đào tạo thẩm phán hàng năm cần được thực hiện thường xuyên và có quy định rõ ràng. Việc bồi dưỡng, đào tạo thẩm phán được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau sẽ giúp người làm công tác xét xủ nắm bắt được kịp thời những vấn đề, quy định mới của pháp luật để áp dụng vào thực tiễn.

- Để đánh giá được chính xác chất lượng của Thẩm phán qua hoạt động xét xử, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao cần triển khi xây dựng quy chế về xác định lỗi của Thẩm phán trong các vụ án bị huỷ do có kháng cáo, kháng nghị. Cơ chế này dựa trên cơ sở của hoạt động thực tiễn và những quy định của pháp luật hiện hành.

Cuối cùng là vấn đề thành phần của Hội đồng xét xử: Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao trong chương trình xây dựng pháp luật nên trình Quốc hội sửa đổi điều luật theo hướng thành phần của Hội đồng xét xử các vụ án hình sự, gồm 2 thẩm phán và 1 hội thẩm nhân dân như hội đồng xét xử các vụ án kinh tế, hành chính.

- Cần xây dựng và ban hành một quy chế thẩm phán giỏi theo hướng thẩm phán xét xử không những chỉ có phẩm chất đạo đức trong sáng, nếp sống lành mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng; xét xử đạt và vượt chỉ tiêu mà còn phải xét xử được các loại án khác nhau, bảo đảm chất lượng đúng pháp luật; có những nghiên cứu tổng kết đúc rút kinh nghiệm về công tác xét xử. Các chỉ tiêu trên được đánh giá theo thang điểm 10 và theo định kỳ 6 tháng, 1 năm. Xây dựng và thực hiện được quy chế này sẽ khích thích, động viên thẩm thi đua công tác giành nhiều thành tích.

- Hoạt động xét xử là một dạng lao động đặc biệt sức lực và trí tuệ của người thẩm phán không chỉ hao tổn trong khi xét xử ngồi phiên toà mà còn bị hao tổn ở giai đoạn nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ, đi điều tra xác minh trước khi xét xử và hoàn tất hồ sơ sau khi xét xử. Do vậy chế độ bồi dưỡng đãi ngộ đối với thẩm phán cũng phải cần được quan tâm đặc biệt. Hiện nay ngoài lương và phần phụ cấp rất ít khi ngồi xét xử thẩm phán không còn khoản thu nào khác, ở nhà thẩm phán cũng không được làm dịch vụ, tư vấn, kinh doanh. Về thang bảng lương của thẩm phán so với một số ngành khác là thấp. Đề nghị Nhà nước có chế độ lương ưu đãi đặc biệt đối với thẩm phán, giúp họ yên tâm công tác gắn bó với nghề nghiệp, trân trọng giữ gìn danh hiệu nghề nghiệp cao quý mà Chủ tịch nước bổ nhiệm./.

 

 

 

 

 

File đính kèm downloadTải về