• Thuộc tính
Tên đề tài Một số căn cứ lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình phạt trong luật hình sự Việt Nam
Nội dung tóm tắt

Bộ luật Hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986, đánh dấu một bước tiến trong lịch sử xây dựng hệ thống pháp luật từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, là Bộ luật Hình sự đầu tiên của Nhà nước ta. Bộ luật Hình sự là một công cụ sắc bén của Nhà nước để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

Để thực hiện những nhiệm vụ nói trên, Bộ luật Hình sự không chỉ quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, mà còn quy định những hình phạt tương ứng áp dụng đối với người thực hiện tội phạm. Nhưng trước tiến trình và yêu cầu của công cuộc đổi mới trên cơ sở những nội dung chủ yếu “của cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” do Đại hội Đảng lần thứ VII đề ra, thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội hiện nay của đất nước, Bộ luật Hình sự 1985 đã bộc lộ một số hạn chế và vướng mắc về nội dung, một số hạn chế và thiếu sót về kỹ thuật lập pháp đòi hỏi phải được tổng kết thực tiễn áp dụng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện kịp thời để nâng cao hiệu lực, phát huy hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó, có các quy định về hình phạt.

Chính vì vậy, Vụ pháp luật Hình sự - Hành chính phối hợp với Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý tổ chức thực hiện đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam”. 

Việc tiến hành nghiên cứu những căn cứ lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, một mặt, góp phần cung cấp những luận cứ khoa học, đánh giá thực tiễn thi hành nhằm tiếp tục hoàn thiện chế định hình phạt nói riêng và pháp luật hình sự nói chung, đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả hình phạt trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Mặt khác, tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật, cũng như kinh nghiệm của các nước để đưa ra những luận cứ khoa học, bài học cho Việt Nam trong việc nhằm hoàn thiện nâng cao hiệu lực, hiệu quả của luật hình sự nói chung, chế định hình phạt trong luật hình sự nói riêng.

Việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của hình phạt trong luật hình sự Việt Nam được thực hiện trong phạm vi sau đây:

1. Trong phạm vi các quan hệ xã hội đang và sẽ tồn tại, phát triển trong xã hội Việt Nam, để từ đó thấy được nhu cầu của xã hội đối với việc điều chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Theo đó, trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tội phạm, nhà làm luật mới xác định trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với hành vi đó. Đặc biệt, các quan hệ xã hội trong thời kỳ đổi mới rất phong phú, đa dạng và phức tạp, thường xuyên biến động, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật hình sự thích hợp, bằng việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và từ đó xác định các hình phạt tương ứng. Có như vậy mới đảm bảo được hiệu lực của pháp luật, mới phát huy được hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Mặt khác, do sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội, có một số hành vi vi phạm pháp luật đã không còn có nhu cầu bảo vệ bằng các biện pháp hình sự, mà có thể thay bằng các biện pháp khác như dân sự, hành chính hoặc các biện pháp tác động xã hội, khi mà việc áp dụng các biện pháp pháp luật khác, không phải bằng hình sự sẽ có hiệu quả hơn và kịp thời hơn.

2. Việc nghiên cứu hiệu quả của hình phạt phải căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước để xác định phạm vi mức độ của các biện pháp hình sự và hình phạt cần phải áp dụng đối với các hành vi phạm tội và người phạm tội. Hình phạt vừa là nội dung vừa là phương tiện của chính sách hình sự.

Để hình phạt có tác dụng trực tiếp, phát huy được hiệu quả của mình, thì việc quy định hình phạt, áp dụng hình phạt cũng phải tính đến diễn biến tình hình phạm tội trong cả nước và đối với từng loại tội phạm cụ thể, từ đó mới xác định được yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm một cách thiết thực.

3. Việc nghiên cứu nhằm nâng cao tính hợp lý và hiệu quả của hình phạt phải được tiến hành trên cơ sở kiểm nghiệm và đánh giá qua thực tiễn xét xử.

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT

1. Mối quan hệ giữa chính sách hình sự và hình phạt

Nghiên cứu các vấn đề về hiệu quả của các chế định hoặc quy phạm pháp luật hình sự nói chung và của hình phạt trong việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta là một trong những hướng nghiên cứu phức tạp nhất, nhưng đồng thời cũng là bức thiết nhất hiện nay.

Mối liên hệ “chính sách hình sự - hình phạt” là mối liên hệ giữa mục đích và phương thức thực hiện mục đích. Chính sách hình sự của Nhà nước ta được thể hiện thông qua toàn bộ các quy định pháp luật, thông qua những chủ trương, biện pháp đối với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, thông qua công tác đào tạo, giáo dục, tuyên truyền phổ biến pháp luật. Hình phạt, với tính cách là công cụ thực hiện chính sách hình sự, phải thể hiện được những mục đích và yêu cầu trên cả ba phạm vi đó của chính sách hình sự.

Trên tất cả ba mức độ - làm luật, áp dụng pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật có một vấn đề chung là nhận thức về vai trò và khả năng của hình phạt trong xã hội đối với việc đấu tranh chống tội phạm. Hình phạt, cũng như toàn bộ các biện pháp pháp luật hình sự nói chung, nếu đặt trong khuôn khổ các biện pháp tích cực khác, chỉ có thể phát huy được tác dụng của nó khi sự tác động của nó vào tội phạm khai thác được đến mức tối đa sự “cộng hưởng” với các biện pháp kinh tế - xã hội, giáo dục… của xã hội. Hiệu quả của việc đấu tranh chống tội phạm, hiệu quả của hình phạt chỉ có thể được tăng cường trong khuôn khổ quan điểm xã hội. Chính vì vậy, chính sách hình sự của Nhà nước ta dựa trên cơ sở chủ yếu là giáo dục, phòng ngừa, xuất phát từ vai trò chủ đạo của các quá trình kinh tế - xã hội, lấy các hoạt động của xã hội làm cơ sở để phòng ngừa tội phạm và để áp dụng hình phạt cũng như giáo dục, cải tạo người đã phạm tội.

Chính sách hình sự thể hiện trên cả 3 mặt: làm luật (quy định tội phạm và hình phạt), áp dụng pháp luật (quyết định hình phạt) và xây dựng ý thức pháp luật. Trước hết và quan trọng nhất là việc quy định tội phạm và hình phạt. Và trong khuôn khổ này, việc quy định tội (criminalisation) gắn liền với việc xác định hình phạt (penahsation), quyết định việc xác định hình phạt.

Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa chính sách hình sự với hình phạt, các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật và áp dụng các hình phạt hình sự, có thể thấy: nếu xem xét vấn đề hình phạt trong phạm vi các yêu cầu của chính sách hình sự, tức là chính sách sử dụng các biện pháp pháp luật hình sự để đấu tranh phòng chống tội phạm, có thể nêu lên mấy nhận xét chính sau đây:

- Áp dụng hình phạt cần được đặt sát hơn với yêu cầu của các biện pháp kinh tế - xã hội khác. Kịp thời hơn nữa trong việc tính đến các thay đổi kinh tế - xã hội hiện nay.

- Hình phạt phải thể hiện đầy đủ hơn phương hướng cá thể hoá trách nhiệm hình sự và phân hoá tội phạm, chĩa mũi nhọn vào những đối tượng nhất định trong từng giai đoạn, tính được tối đa các yếu tố về nhân thân, hướng các hình phạt vào việc kích thích quá trình nhận thức, lấy cá nhân người phạm tội và nhận thức của họ làm căn cứ xuất phát đầu tiên của việc quy định và quyết định hình phạt.

- Kết hợp các biện pháp hình sự khác để hỗ trợ cho việc áp dụng hình phạt, không để hình phạt tác động vào quá trình cải tạo kẻ phạm tội chỉ bằng “khả năng” của chính nó. Vì vậy, cần mở rộng hơn nữa những cơ sở pháp luật của việc cụ thể hoá trách nhiệm hình sự, thi hành hình phạt. 

2. Khái niệm và mục đích của hình phạt

2.1. Khái niệm hình phạt

Trong tất cả các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm thì hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất được áp dụng phổ biến và có lịch sử lâu đời nhất. Nhà nước coi hình phạt như là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của xã hội, của Nhà nước. “Hình phạt không phải là một cái gì khác ngoài phương tiện để tự bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó”. Trong lịch sử và trong lý luận hình sự có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất, nội dung, mục đích của hình phạt. Quan niệm như thế nào về tội phạm thì sẽ có quan niệm tương ứng như thế về hình phạt. Nhìn chung, có thể chia các quan niệm như thế thành hai loại.

- Loại quan niệm thứ nhất coi hình phạt là công cụ trả thù người phạm tội. Theo quan niệm này hình phạt được coi là biện pháp trừng phạt được Nhà nước cho phép áp dụng để trả thù người đã gây ra hành vi phạm tội. Tính chất trừng trị của các hình phạt theo quan niệm này rất hà khắc, hình phạt phổ biến mang tính nhục hình, đầy đoạ thể xác và chà đạp phẩm giá con người.

- Loại quan niệm thứ hai coi hình phạt là công cụ đấu tranh, phòng chống tội phạm. Đây là quan niệm dân chủ, nhân đạo và tiến bộ nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành công dân lương thiện phòng ngừa sự tái phạm của họ và phòng ngừa người khác phạm tội.

Quan niệm về hình phạt gắn liền với quan niệm về tội phạm. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng nghiêm khắc, sự phong phú, đa dạng về các hành vi phạm tội đòi hỏi sự đa dạng và phong phú về các loại hình phạt và mức hình phạt. Cũng như tội phạm, hình phạt mang tính chất xã hội. Việc quy định nội dung hình phạt phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước ở mỗi giai đoạn. Việc quy định một hình phạt mới hay bỏ bớt một loại hình phạt nào đó, việc tăng nặng hay giảm nhẹ hình phạt trong chế tài của một điều luật cụ thể đối với một loại tội phạm cụ thể, cũng như việc quyết định hình phạt hay đánh giá hiệu quả của hình phạt đều phải đặt trong điều kiện lịch sử của từng giai đoạn cụ thể, gắn liền với tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội ở từng giai đoạn đó.

Qua phân tích các tính chất, đặc trưng của hình phạt, cũng như tìm hiểu kinh nghiệm hệ thống hình phạt của một số nước với tính chất cân đối, uyển chuyển, có khả năng cá thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt như Ba Lan, Bungari, Canada, Pháp, Anh, Thuỵ Điển… Chúng ta có thể đưa ra khái niệm: hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người thực hiện tội phạm theo quy định của Luật hình sự, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm.

2.2. Mục đích của hình phạt

Khi xác định mục đích của hình phạt trước hết cần thấy rõ những chức năng của luật hình sự dưới hai góc độ: Bảo vệ phòng ngừa xã hội và các giá trị xã hội của luật hình sự. Và như vậy, khi xác định mục đích của hình phạt phải xác định kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với cá nhân người phạm tội để thực hiện các chức năng của Luật hình sự. Theo Điều 20 Bộ luật Hình sự nước ta thì “Hình phạt không chỉ nhằm người phạm tội, mà còn nhằm cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm”.

Như vậy, theo Bộ luật Hình sự  nước ta thì hình phạt có mục đích trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự đã có sự tranh luận “trừng trị có phải là mục đích của hình phạt hay không hay là nội dung, là thuộc tính của hình phạt?”

Qua phân tích, chúng tôi cho rằng trừng trị là nội dung, là thuộc tính, là phương thức để thể hiện hình phạt. Vì vậy, trừng trị là nội dung quan trọng nhất của hình phạt. Song hình phạt còn có mục đích ngăn ngừa người bị án phạm tội mới - đây là mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt và hình phạt còn có mục đích phòng ngừa chung.

Tóm lại, nhận thức đúng về mục đích của hình phạt là một trong những yêu cầu quan trọng để xác định hiệu quả của hình phạt ngay từ khi xây dựng hệ thống hình phạt cũng như việc áp dụng hình phạt trong thực tiễn xét xử.

3. Khái niệm, tiêu chí và các yếu tố đảm bảo hiệu quả của hình phạt

3.1. Khái niệm hiệu quả hình phạt

Hiệu quả là kết quả đạt được trong việc thực hiện mục đích đặt ra. Hiệu quả càng cao khi kết quả đạt được càng gần với mục đích. Hiệu quả của một số chế định pháp luật nói chung (hay một quy phạm pháp luật nói riêng) là mức độ đạt được của chế định (hay quy phạm) đó trong thực tiễn áp dụng. Khi nói đến hiệu quả hình phạt tức là nói đến mức độ đạt được của hình phạt và chỉ trên cơ sở xác định rõ được mục đích của hình phạt mới có thể đưa ra được các tiêu chí và tìm ra được các giải pháp nâng cao hiệu quả của nó.

Hiệu quả của hình phạt là một đối tượng nghiên cứu, bao gồm tất cả những yếu tố mà trên cơ sở đó có thể đánh giá mức độ đạt được các mục đích đặt ra cho hình phạt. Với những phân tích trên, chúng ta có thể coi khái niệm hiệu quả hình phạt như là mức độ đạt được mục đích của hình phạt, trên cơ sở sử dụng tối thiểu các yếu tố cưỡng chế, hạn chế và loại trừ được các hậu quả tiêu cực. Mức độ đạt được hiệu quả hình phạt càng cao thì hiệu quả đạt được càng lớn.

3.2. Tiêu chí hiệu quả hình phạt

Tiêu chí hiệu quả hình phạt là những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ đạt được mục đích của hình phạt. Việc xác định tiêu chí để đánh giá hình phạt là cần thiết. Hình phạt là một chế định thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội, chịu sự tác động của nhiều yếu tố hạ tầng và các yếu tố thượng tầng khác.

- Mục đích trực tiếp nhất của hình phạt được áp dụng là cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ không phạm tội mới và trở thành người có ích cho xã hội. Cho nên, việc người đã chấp hành xong hình phạt không phạm tội mới, không tái phạm là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả của hình phạt.

- Chỉ số tái phạm là tiêu chí đánh giá tương đối chính xác hiệu quả của hình phạt, nhưng sự đánh giá đó chỉ thể hiện được mức độ đạt được của mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ không phạm tội mới. Để xác định được kết quả hình phạt trong việc thực hiện mục đích giáo dục phòng ngừa riêng cũng như phòng ngừa chung có thể căn cứ vào diễn biến của tội phạm trong từng thời kỳ nhất định trên phạm vi cả nước hay ở từng địa phương. Trong những điều kiện nhất định nếu tội phạm tăng hoặc không thay đổi có nghĩa là hình phạt ít có hiệu quả. Tội phạm diễn biến theo chiều hướng giảm có nghĩa hình phạt được áp dụng đạt được hiệu quả. Tội phạm giảm nhiều hay ít thể hiện hình phạt đạt hiệu quả cao hay thấp.

- Mức độ áp dụng hình phạt cũng được coi là một tiêu chí để đánh giá hiệu quả của hình phạt. Hình phạt có hiệu quả cao thường được áp dụng phổ biến hơn. Vì vậy, tính hiệu quả của hình phạt đã được xác định ngay tại thời điểm quyết định hình phạt.

Ngoài ra, một số tác giả còn cho rằng việc đa dạng hoá các biện pháp hình sự, việc áp dụng các loại hình phạt phong phú với các mức độ cưỡng chế khác nhau, cũng như ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật là tiêu chí đánh giá hiệu quả hình phạt. 

3.3. Những yếu tố đảm bảo hiệu quả hình phạt

Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tuỳ theo cách phân tích hiệu quả có thể có nhiều cách phân loại. Theo chúng tôi, để có cơ sở phân tích so sánh và có những biện pháp giải quyết cụ thể theo một quy trình logic cần phải xem xét các yếu tố tác động đến hiệu quả của hình phạt theo một chu trình như sau: (i) Những yếu tố thuộc về phương diện lập pháp - những điều kiện tác động ở giai đoạn xây dựng hệ thống hình phạt và từng loại hình phạt cũng như việc quy định cho chế tài; (ii) Những yếu tố tác động trong khi quyết định hình phạt (áp dụng hình phạt); (iii) Những yếu tố trong quá trình chấp hành hình phạt; (iv) Những điều kiện xã hội trực tiếp liên quan đến hình phạt. Nghiên cứu tất cả các yếu tố này trong mối liên hệ biện chứng với nhau mới có thể đánh giá được hiệu quả của hình phạt một cách đúng đắn.

a. Đối với công tác lập pháp: Các quy định của pháp luật hình sự về hệ thống hình phạt, từng hình phạt và từng chế tài cụ thể, cũng như những vấn đề liên quan là điều kiện quan trọng, bước đầu, đảm bảo cho hình phạt đạt được hiệu quả cao. Cụ thể:

- Hệ thống hình phạt nói chung, các loại hình phạt cụ thể nói riêng phải được xây dựng trên cơ sở sự phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội.

- Xây dựng hệ thống hình phạt cũng như quy định từng loại hình phạt phải tuân thủ các nguyên tắc của luật hình sự.

- Xây dựng hệ thống hình phạt phải dựa trên chính sách hình sự của Nhà nước.

- Khi quy định hình phạt cho các tội phạm cụ thể phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm đó, thì quy định hình phạt phải đảm bảo sự thống nhất trong toàn bộ các chương, điều, khoản của Bộ luật Hình sự.

- Việc quy định đúng đắn, đầy đủ và chặt chẽ các biện pháp liên quan đến hành vi phạt như miễn hình phạt, miễn giảm việc chấp hành hình phạt, quyết định hình phạt… cũng là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tính hiệu quả của hình phạt.

- Khi quy định hình phạt phải tính đến mối tương quan giữa cưỡng chế và thuyết phục, giữa nội dung trừng trị và giáo dục của hình phạt.

Như vậy, xây dựng hệ thống hình phạt phải gắn liền với quan niệm về tội phạm. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng nghiêm khắc. Sự phong phú, đa dạng về các hành vi phạm tội đòi hỏi phải có sự đa dạng, phong phú về các loại hình phạt. Những yếu tố quy định của pháp luật về hình phạt có tác dụng rất lớn đến hiệu quả của hình phạt.

b. Những yếu tố khi quyết định hình phạt: Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể, trong phạm vi luật định để áp dụng cho hành vi phạm tội. Quyết định hình phạt và việc nâng cao hiệu quả của hình phạt có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hình phạt có đạt được hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có việc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng là cơ sở quan trọng để có thể nâng cao hiệu quả của hình phạt. Quyết định hình phạt đúng phụ thuộc vào việc Tòa án vận dụng các nguyên tắc luật hình sự khi quyết định hình phạt như thế nào? Tòa án dựa vào những căn cứ gì để quyết định hình phạt? Làm rõ những vấn đề này về mặt lý luận giúp cho việc nâng cao công tác xét xử của Toà án. Quyết định hình phạt là một khâu quan trọng trong quá trình áp dụng Luật hình sự. Do đó, khi quyết hình phạt phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc của Luật hình sự. Những nguyên tắc này đảm bảo cho việc quyết định một hình phạt được công minh, có căn cứ, đúng pháp luật đạt mục đích hình phạt. Đó là các nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nhân đạo xã hội chủ nghĩa; cá thể hoá hình phạt… Trong các nguyên tắc nêu trên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Tuân thủ nguyên tắc pháp chế khi quyết định hình phạt có nghĩa là: Tòa án phải căn cứ vào các quy định của luật hình sự; các quy định liên quan đến hình phạt và quyết định hình phạt. Để cụ thể hoá những nguyên tắc cơ bản đó, Bộ luật Hình sự quy định những căn cứ cụ thể để Tòa án quyết định hình phạt. Đó là :

-  Các quy định của Bộ luật Hình sự;

- Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội;

-  Nhân thân người phạm tội;

-  Những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

c. Những yếu tố trong khi chấp hành hình phạt: Chấp hành hình phạt là đưa những quyết định của Tòa án thực hiện trên thực tế. Đối với mỗi loại hình phạt khác nhau có chế độ chấp hành không giống nhau. Quá trình chấp hành hình phạt tác động lên hiệu quả của hình phạt, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện mục đích của hình phạt. Do vậy, người bị kết án sau khi chấp hành hình phạt thay đổi như thế nào là một trong những tiêu chí để đánh giá hiệu quả của hình phạt.

Hình phạt chủ yếu trong hệ thống hình phạt nước ta hiện nay chủ yếu là hình phạt tù. Để hình phạt tù đạt được hiệu quả cần phải thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc thi hành án phạt tù như nguyên tắc pháp chế dân chủ, nhân đạo, cá thể hoá chấp hành hình phạt, kết hợp thuyết phục với cưỡng chế; thực hiện phân loại trại giam, phân loại phạm nhân, cải tiến tổ chức và quản lý hệ thống trại giam; đảm bảo kinh phí, phương tiện cơ sở vật chất cần thiết; có đội ngũ cán bộ quản lý trại giam được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn và nghiệp vụ.

d. Các điều kiện xã hội trực tiếp liên quan đến hình phạt: Mục đích của hình phạt đạt được hay không còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội liên quan đến hình phạt. Trong số đó, hai nhóm điều kiện quan trọng có tác động trực tiếp đến hiệu quả của hình phạt là:

- Những điều kiện tác động đến ý thức pháp luật của công dân.

- Những biện pháp củng cố kết quả đạt được sau khi chấp hành hình phạt.

II. CÁC HÌNH PHẠT CỤ THỂ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ HIỆU QUẢ CỦA NÓ

Hiệu quả của mỗi loại hình phạt nói riêng hay của cả hệ thống hình phạt nói chung phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng hàng đầu là: Hình phạt được luật hình sự quy định như thế nào? Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hệ thống hình phạt. Các Điều từ 22 đến 32 Bộ luật hình sự lần lượt quy định từng loại hình phạt trong hệ thống hình phạt. Từ quy định của Bộ luật hình sự cho thấy hệ thống hình phạt ở nước ta được cấu thành từ các loại hình phạt chính và các loại hình phạt bổ sung. Hình phạt chính gồm có: cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình. Hình phạt bổ sung gồm có: cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tước danh hiệu quân nhân; tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính.

Nghiên cứu hệ thống hình phạt nhằm mục tiêu đặt ra, đề tài đã tập trung làm sáng tỏ không chỉ nội dung, điều kiện áp dụng, hậu quả pháp lý của từng loại hình phạt, mà còn mở rộng phạm vi những vấn đề có thể đưa lại các giá trị tư liệu - khoa học và thực tiễn lịch sử hình thành và phát triển của một số loại hình phạt, những vấn đề so sánh và thực tiễn áp dụng, thi hành hình phạt. Bằng phương pháp tiếp cận khá toàn diện, đề tài đã cố gắng xây dựng các căn cứ khoa học cho những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả của từng loại hình phạt.

1. Đối với hình phạt tù có thời hạn (gọi tắt là phạt tù)

Trong hệ thống hình phạt của nước ta, phạt tù là loại hình phạt phổ biến nhất - nó được quy định trong tất cả các chế tài hình sự ở phần các tội phạm. Nói một cách khác là 100% các điều luật, 100% các khung hình phạt đều có quy định hình phạt tù. Phạt tù được quy định là chế tài lựa chọn với hình phạt không phải tù (ví dụ với phạt tiền hoặc với cải tạo không giam giữ) chiếm 34% tổng số các chế tài có trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Sự quá nghiêng về hình phạt tù trong luật hình sự nước ta dẫn đến mất cân đối trong hệ thống hình phạt giữa hình phạt tù và các hình phạt không phải tù, khó đảm bảo tính thống nhất nội tại giữa tội phạm và hình phạt; dẫn đến tình trạng áp dụng phạt tù phổ biến trong thực tiễn xét xử, làm trầm trọng thêm tình trạng “quá tải” của hệ thống các trại cải tạo và nhà tù, và cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu quả của hình phạt. Sự chật chội trong các trại cải tạo và nhà tù hiện nay đã làm giảm khả năng giáo dục, cải tạo phạm nhân. Do đó cần phải cải thiện tận gốc hệ thống trại cải tạo và nhà tù ở nước ta trên các nguyên tắc cải tạo, giáo dục và nhân đạo.

Khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn trong từng khung được quy định trong Bộ luật hình sự còn quá rộng. Cách quy định này có ưu điểm không “bó tay” Tòa án khi áp dụng hình phạt, nói một cách khác là mở rộng khả năng lựa chọn một hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, phù hợp với những đặc điểm nhân thân của người phạm tội cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chỗng tội phạm. Nhưng mặt khác, khoảng cách quá xa giữa mức tối thiểu và mức tối đa trong từng khung hình phạt tù cũng tạo ra những cơ sở về mặt luật định cho sự tuỳ tiện, không thống nhất trong áp dụng hình phạt tù. Trong khi trình độ xét xử của cán bộ còn rất không đồng đều, hướng dẫn nghiệp vụ và tập huấn chuyên môn còn gặp nhiều khó khăn, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp… thì những căn cứ pháp luật đảm bảo cho phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt càng trở nên quan trọng đối với xây dựng và củng cố một nền pháp chế dân chủ, nhân đạo và công bằng. Xuất phát từ quan điểm đó không thể không chú ý tới việc nghiên cứu xây dựng những khung hình phạt tù có giới hạn tối thiểu và tối đa thích hợp theo hướng rút ngắn khoảng cách giữa chúng. Tuy nhiên, hoàn toàn đây không phải là vấn đề đơn giản, bởi vì xây dựng các khung hình phạt tù theo hướng nêu trên đòi hỏi phải chia nhỏ những khung hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự, kéo theo việc điều chỉnh lại toàn bộ các dấu hiệu cấu thành tội phạm mà trước hết là các dấu hiệu định khung (tăng nặng và giảm nhẹ). Chỉ có như vậy mới có thể đảm bảo tính thống nhất nội tại giữa tội phạm và hình phạt, mới tạo ra những căn cứ pháp lý chặt chẽ cho việc áp dụng pháp luật thống nhất trong đấu tranh xử lý tội phạm. Theo chúng tôi, việc điều chỉnh lại các khung hình phạt tù trong Bộ luật Hình sự là một trong những yêu cầu của cải cách toàn diện và cơ bản luật pháp hình sự trong những năm tới đây.

2. Đối với các loại hình phạt chính không phải phạt tù

Bộ luật Hình sự quy định 3 hình phạt thuộc loại không phải tù, đó là cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo không giam giữ; cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội. Hình phạt cảnh cáo được quy định trong 43 chế tài trong tổng số 391 chế tài hình sự. Nhìn vào quy định các hình phạt không phải tù (là hình phạt chính) cho thấy các hình phạt này chưa có được vị trí xứng đáng trong hệ thống các chế tài  hình sự, hay nói một cách khác, về mặt luật định, tỷ lệ các loại hình phạt chính không phải tù còn thấp, nhất là đối với hình phạt tiền. Bên cạnh đó, các hình phạt chính không phải tù không được quy định độc lập ở chế tài đối với các tội phạm cụ thể mà chỉ ở dạng chế tài lựa chọn với hình phạt tù.

Cách quy định như trên, thực chất chưa mở ra khả năng áp dụng rộng rãi các hình phạt không phải tù, thực tiễn xét xử vẫn phải áp dụng loại biện pháp hình phạt truyền thống là phạt tù đối với cả những trường hợp hoàn toàn có thể áp dụng hình phạt không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội. Chẳng hạn hình phạt cải tạo không giam giữ, cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội là một hình phạt mới có nhiều ưu thế trong việc cải tạo người phạm tội mà vẫn không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội, nhưng trong thực tiễn Tòa án rất ít áp dụng. Trên thực tiễn, việc áp dụng quá nhiều án treo - biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện trong những năm vừa qua, ở một phương diện nào đó đã phản ánh một xu thế của thực tiễn là phải tìm kiếm những biện pháp tác động hình sự đối với người phạm tội, không cần cách ly họ khỏi xã hội mà vẫn đạt được mục đích mong muốn.

Cũng cần phải nhấn mạnh một điểm rằng luật pháp hình sự của nước ta chưa phân định một cách cụ thể những hạn chế (tước bỏ) pháp lý của hình phạt cải tạo không giam giữ và của án treo (không phải là hình phạt) trừ quy định có thể khấu trừ từ 5 đến 20% thu nhập của người bị phạt cải tạo không giam giữ để sung quỹ Nhà nước. Những nội dung về giám sát, giáo dục người bị kết án cải tạo không giam giữ và người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo chưa được phân biệt rõ ràng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến suy giảm hiệu quả của cải tạo không giam giữ và của án treo trong thực tế. Trong nhiều trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ thì thực chất là không cải tạo, không giam giữ; người được hưởng án treo thì coi như không bị phạt.

3. Đối với hình phạt tù chung thân và hình  phạt  tử hình

Tù chung thân và tử hình là những biện pháp hình phạt rất nghiêm khắc, được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân, xâm phạm tính mạng của công dân, một số tội phạm về kinh tế, tội phạm về chức vụ và một số tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Trong Bộ luật Hình sự nước ta có 43 chế tài tù chung thân, với cơ cấu 18 chế tài (tù chung thân) quy định đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia (nhóm 1); 17 chế tài - đối với các tội xâm phạm tính mạng của công dân, xâm phạm sở hữu, các tội về kinh tế và về chức vụ (nhóm 2); số còn lại - đối với các tội trong quân đội, các tội phá hoại hoà bình chống loài người và tội phạm chiến tranh (nhóm 3). Tổng số các chế tài tử hình trong Bộ luật Hình sự của nước ta là 34 (tương ứng với 8,6% trên tổng số các chế tài hình sự), với cơ cấu: 14 chế tài đối với các tội nhóm 1; 12 chế tài - đối với các tội nhóm 2 và 8 chế tài đối với các tội nhóm 3.

Nghiên cứu nội dung pháp lý của các hình phạt tù chung thân, tử hình, điều kiện và phạm vi áp dụng của chúng, cũng như qua cách quy định trong các điều luật về tội phạm cụ thể cho thấy đây là các hình phạt có tính chất nghiêm khắc rất cao và gần gũi nhau. Cả hai hình phạt này đều phản ánh thái độ kiên quyết trừng trị của Nhà nước đối với những người có hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có nhân thân rất xấu, và do vậy cần phải “cách ly” vĩnh viễn (tử hình) hoặc cách ly không thời hạn (tù chung thân) khỏi xã hội.

Việc quy định hình phạt tử hình và tù chung thân trong hệ thống hình phạt của nước ta xuất phát trước hết từ nhu cầu của thực tiễn đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, từ đòi hỏi của sự nghiệp bảo vệ các giá trị xã hội, từ khả năng giáo dục và cải tạo của hệ thống lao cải. Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa nhân đạo trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta, trong đó trực tiếp là chính sách hình sự chỉ cho phép áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình trong những trường hợp người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đã mất khả năng tái hoà nhập với xã hội. Tuy nhiên, đối với người bị phạt tù chung thân có thể áp dụng chế độ giảm thời hạn chấp hành hình phạt và hậu quả là họ thực sự không phải ngồi tù suốt đời, nhưng có được thực tế này, người bị kết án tù chung thân phải tự chứng minh khả năng tái hoà nhập với xã hội với cộng đồng của mình bằng thực tế giáo dục và cải tạo. Đây là một thử thách nghiêm ngặt đối với họ và do vậy, tù chung thân, theo quan điểm của chúng tôi vẫn là loại hình phạt có địa chỉ áp dụng là những phần tử phạm tội đặc biệt nghiêm trọng không còn khả năng tái hoà nhập với xã hội nhưng chưa cần thiết phải áp dụng hình phạt tử hình.

4. Các hình phạt bổ sung

Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được quy định trong Bộ luật Hình sự do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới.

Ưu điểm nổi bật của hình phạt bổ sung thể hiện ở vai trò phòng ngừa tội phạm, củng cố kết quả của hình phạt chính nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Cho nên, kết hợp đúng đắn hình phạt chính và hình phạt bổ sung đối với người phạm tội là một trong những điều kiện đạt được mục đích của hình phạt. Bên cạnh tác dụng phòng ngừa hình phạt bổ sung còn có tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục người bị kết án. Trong một số trường hợp, nếu so sánh một số hình phạt bổ sung với một số hình phạt chính ta thấy mức độ nghiêm khắc của hình phạt bổ sung có khi còn cao hơn hình phạt chính. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì hình phạt bổ sung ít nghiêm khắc hơn hình phạt chính. Chính vì vậy, luật quy định hình phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính. Hình phạt bổ sung thể hiện sự phong phú, cân đối của hệ thống hình phạt giúp cho việc cá thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt được tốt hơn.

- Cấm cư trú là hình phạt bổ sung buộc người bị kết án không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định. Hình phạt này chỉ được áp dụng đối với những bị cáo bị xử phạt tù với thời hạn cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Hình phạt cấm cư trú có một số điểm hạn chế như: sau khi chấp hành xong hình phạt tù Nhà nước rất khó bố trí nơi ở mới cho người bị kết án; người bị kết án gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm để ổn định đời sống. Do vậy, hình phạt này thường ít được áp dụng, hiệu quả thấp. Để nâng cao hơn hiệu quả của hình phạt cấm cư trú đề nghị Nhà nước cần ban hành Quy chế về thi hành hình phạt này, cần phân biệt rõ nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng giữa hình phạt cấm cư trú và hình phạt quản chế; không nên quy định là chế tài bắt buộc trong các điều khoản của phần các tội phạm để thuận tiện cho việc vận dụng.

- Quản chế: là hình phạt buộc người bị kết án phải cư trú làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền địa phương. Hình phạt này thường được áp dụng đối với người thực hiện các tội xâm phạm an ninh quốc gia, phần tử tái phạm nguy hiểm, lưu manh chuyên nghiệp… mà việc áp dụng hình phạt tù chưa đủ để cải tạo, giáo dục họ.

- Tước một số quyền công dân: là hình phạt có tính chất chính trị thường được áp dụng đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia và một số loại tội phạm khác với thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Bản chất và nội dung của hình phạt này là nghiêm khắc như: tước quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước, phục vụ trong các đơn vị của lực lượng vũ trang, quyền đảm đương cương vị phụ trách trong các tổ chức xã hội. Nhưng lại cho phép được áp dụng đối với người phạm các tội mà Tòa án áp dụng các hình phạt chính khác như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo. Quy định như vậy là mâu thuẫn về nội dung, không phù hợp với bản chất của hình phạt này. Bởi lẽ cảnh cáo là hình phạt nhẹ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, còn đối với những người bị phạt tù không quá 5 năm, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tương đối tốt xét không cần cách ly khỏi xã hội thì Tòa án có thể cho hưởng án treo mà lại bị tước một số quyền công dân như theo quy định tại Điều 31 thì hoàn toàn không hợp lý, mâu thuẫn.

- Tịch thu tài sản: là hình phạt bổ sung mang tính chất kinh tế và cũng là hình phạt bổ sung có nội dung nghiêm khắc nhất. Tính nghiêm khắc của hình phạt này thể hiện ở chỗ người bị án có thể bị tịch thu toàn bộ hay một phần tài sản sung quỹ Nhà nước. Hình phạt này nhằm mục đích triệt tiêu cơ sở kinh tế hay toàn bộ các món lợi bất chính của người phạm tội về cho Nhà nước. Do vậy, tịch thu tài sản chỉ áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm trọng. Hình phạt này có tác dụng trừng trị, giáo dục và phòng ngừa rất cao. Tuy nhiên, trong thực tiễn do chưa nhận thức hết ý nghĩa, vai trò và tác dụng của nó nên việc áp dụng cũng chưa đạt được hiệu quả cao.

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn của hình phạt bổ sung cho thấy: hình phạt bổ sung có vai trò tích cực trong việc hỗ trợ cho việc đạt được mục đích của hình phạt có tác dụng phòng ngừa việc tái phạm và loại trừ các điều kiện phạm tội mới. Thực tế, ở nước ta hiện nay hình phạt bổ sung nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Một mặt do luật quy định chưa hợp lý, chưa cụ thể và thuận tiện cho việc áp dụng, chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng đồng bộ và đầy đủ. Một số tội phạm trong Bộ luật hình sự chưa quy định hình phạt bổ sung thích hợp, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm như đối với một số tội phạm về kinh tế, một số tội phạm xâm phạm sở hữu, một số tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, trật tự an toàn công cộng. Thiết nghĩ ngoài hình phạt tù hoặc cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, cần quy định thêm hình phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định là hình phạt bổ sung bắt buộc.

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Qua quá trình nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của hình phạt; đề tài đã đưa ra được nhiều lập luận khoa học mới và những kiến nghị cụ thể. Trên cơ sở phân tích, đánh giá và tổng hợp chung, đề tài xin nêu ra một số kiến nghị cơ bản sau đây nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hình phạt trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

a. Để đảm bảo cân đối giữa các quy định về tội phạm và hình phạt trong phần chung của Bộ luật Hình sự, làm cơ sở pháp lý cho việc quy định các loại hình phạt trong phần chung và phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật Hình sự cần bổ sung một điều về khái niệm hình phạt thể hiện được nội dung và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó tương tự như khái niệm tội phạm. Theo chúng tôi có thể xây dựng khái niệm đó như sau: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự do Tòa án áp dụng đối với người thực hiện tội phạm; tước bỏ những quyền và lợi ích nhất định đối với họ nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng chỗng tội phạm”.

b. Xuất phát từ nội dung của hình phạt là cưỡng chế và trừng trị, trừng trị là thuộc tính của hình phạt, nhờ có thuộc tính này hình phạt có khả năng tác động đến người phạm tội, thông qua đó đạt được mục đích cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Do vậy, cần sửa lại Điều 20 Bộ luật Hình sự về mục đích của hình phạt.

c. Để đảm bảo sự phong phú, cân đối của hệ thống hình phạt, giảm bớt số chế tài quy định hình phạt tù, tạo cơ sở pháp lý cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt, cũng như thuận tiện cho việc áp dụng hình phạt, đề nghị tăng cường các loại hình phạt không phải tù như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ ở dạng độc lập chứ không phải ở dạng lựa chọn với hình phạt tù. Đối với một số tội phạm cụ thể như: tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ (Điều 125); tội từ chối khai báo, từ chối giám định ( Điều 242)… chỉ cần quy định hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hay phạt tiền (tuỳ từng tội cụ thể) cũng đủ nghiêm khắc. Để khắc phục những bất hợp lý và vướng mắc trong việc áp dụng án treo cũng như xoá bỏ áp dụng án treo tràn lan, tránh được những tiêu cực trong thực tiễn xét xử đề nghị bỏ án treo (Điều 44) vì nội dung, và điều kiện áp dụng án treo và cải tạo không giam giữ hiện nay chưa có sự phân định rõ ràng. Do vậy để tồn tại cả hai biện pháp này trong Bộ luật Hình sự là không cần thiết và bất hợp lý.

d. Do không giữ lại án treo trong Bộ luật Hình sự đề nghị sửa đổi Điều 24 về hình phạt cải tạo không giam giữ theo hướng: tăng cường nội dung cưỡng chế của cải tạo không giam giữ bằng cách tăng thời hạn từ 6 tháng đến 5 năm; người bị kết án được giao cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội giám sát giáo dục; trong thời gian chấp hành hình phạt không được tự ý thay đổi nơi cư trú và nơi làm việc; thời gian thi hành án không được tính vào thời hạn công tác liên tục, bị khấu trừ thu nhập từ 5- 20%; chỉ áp dụng đối với người có việc làm và nơi cư trú ổn định; không phải tái phạm nguy hiểm hoặc tái phạm về tội cố ý.

đ. Do có điểm bất hợp lý giữa hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, hơn nữa trong thực tế là không áp dụng hình phạt này, để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, tuân thủ nguyên tắc công bằng của Luật hình sự đề nghị bỏ hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội. Cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với mọi trường hợp có đủ điều kiện luật định. Riêng đối với quân nhân phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ thì giao cho đơn vị nơi người đó phục vụ trước khi phạm tội giám sát, giáo dục.

e. Để tránh được sự tuỳ tiện khi quyết định hình phạt tù đề nghị rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa của từng khung hình phạt tù trong các điều luật phần các tội phạm đồng thời nâng mức tối thiểu của hình phạt tù từ 3 lên 6 tháng.

f. Cần quy định phạt tiền là hình phạt chính đối với một số tội chiếm đoạt, tội phạm kinh tế, tội xâm phạm trật tự an toàn công cộng, trật tự quản lý hành chính. Đồng thời, cần quy định mức phạt tiền phù hợp với tình hình kinh tế xã hội. Trong chế tài cùa từng điều luật phần các tội phạm cụ thể phải quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền; không nên quy định khoảng cách quá rộng giữa mức tối thiểu và mức tối đa. Đối với các tội mà luật quy định phạt tiền theo giá trị của số lượng hàng phạm pháp, mức lãi bất chính hay mức độ thiệt hại nên xác định mức phạt tiền trên cơ sở giá trị một tài sản nào đó có tính ổn định (như gạo hoặc vàng) tại thời điểm xảy ra tội phạm.

g. Trong tình hình xã hội hiện tại, để bảo vệ an ninh quốc gia, tăng cường trật tự kỷ cương và pháp chế việc duy trì các hình phạt nghiêm khắc như chung thân và tử hình là rất cần thiết. Có thể quy định thêm hình phạt tử hình và chung thân cho một số loại tội phạm như: tội cưỡng đoạt tài sản XHCN hoặc cưỡng đoạt tài sản công dân (Điều 130); tội trộm cắp tài sản của công dân; tội gây rối trật tự công cộng và tội chống người thi hành công vụ trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

h. Để đảm bảo tính nghiêm khắc của hình phạt chung thân và tử hình, tránh sự tùy tiện khi quyết định hình phạt, đề nghị xây dựng các khung riêng quy định hình phạt chung thân hoặc tử hình. Hướng hoàn thiện này đòi hỏi nghiên cứu việc quy định lại các tình tiết định khung trong những trường hợp có thể áp dụng chung thân hoặc tử hình.

i. Việc quy định các hình phạt bổ sung ở phần chung và phần các tội phạm cụ thể cần phải chính xác, rõ ràng và thuận tiện cho việc vận dụng. Đối với hình phạt bổ sung nên xây dựng chế tài tuỳ nghi chứ không nên xây dựng chế tài bắt buộc. Cần quy định hình phạt bổ sung riêng cho từng tội trong chế tài của từng điều, khoản cụ thể trong Bộ luật Hình sự. Để đảm bảo tính thống nhất của hình phạt bổ sung đề nghị sửa lại Điều 31 về hình phạt này nên chỉ áp dụng đối với người bị xử phạt tù.

k. Cần sửa đổi, bổ sung và khẩn trương ban hành các quy chế về thi hành các loại hình phạt. Trước mắt cần ban hành Pháp lệnh về thi hành án phạt tù, làm cơ sở để sau này ban hành Bộ luật về thi hành án.

 

Nội dung toàn văn

Phần I: Tổng thuật kết quả nghiên cứu của đề tài

 

A. Những vấn đề chung

I. Một số quan điểm thuộc phương pháp luận nghiên cứu hiệu quả hình phạt.

II. Khái niệm và mục đích của hình phạt

III. Khái niệm, tiêu chí và các yếu tố đảm bảo hiệu quả của hình phạt.

B. Một số nội dung cụ thể.

1. Đối với hình phạt tù có thời hạn.

2. Đối với các loại hình phạt chính không phải phạt tù

3. Đối với hình phạt tù chung thân và tử hình.

4. Hình phạt bổ sung

C. Một số kiến nghị cụ thể.

Phần II: Các chuyên đề

1. Chính sách hình sự và hình phạt.

TS. Đào Trí Úc.

Viện trưởng Viện Nhà nước và pháp luật.

2. Hiệu quả hình phạt- Khái niệm, tiêu chí và điều kiện.

PTS. Trần Văn Độ.

Chuyên viên Toà án quân sự cấp cao.

3. Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.

PTS. Nguyễn Ngọc Hoà.

Chủ nhiệm khoa Tư pháp trường ĐHPL Hà Nội

4. Các hình phạt không phải tù.

PTS. Trần Văn Độ.

Chuyên viên Toà án quân sự cấp cao.

5. Hình phạt tiền - Những vấn đề lý luận và thực tiễn.

PTS. Nguyễn Đức Tuấn

Phó Viện trưởng viện nghiên cứu KHPL Bộ Tư pháp.

6. Về hình phạt tù có thời hạn.

PTS. Đặng Quang Phương.

Phó Vụ trưởng Vụ nghiên cứu pháp luật Toà án nhân dân tối cao.

7. Một số suy nghĩ về chế định án treo.

Nguyễn Khắc Công

Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu pháp luật Toà án nhân dân tối cao.

8. Hình phạt tử hình và chung thân.

Đặng Minh Ngọc.

Chánh án Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội .

Phạm Minh Quý

Chuyên viên Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

9. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình phạt bổ sung.

PTS. Uông Chu Lưu

Q. Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự- Hành chính Nhà nước - Bộ Tư pháp

10. Một số biện pháp tăng cường hiệu lực của công tác thi hành án phạt tù.

PTS. Trần Đình Nhã.

Trưởng phòng Vụ pháp chế Bộ Nội vụ.

Phần III: Khảo sát - Điều tra - Thông tin- Tư liệu.

 

1. Lược thuật lịch sử hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.

Trần Mạnh Đạt.

Chuyên viên Viện nghiên cứu KHPL- Bộ Tư pháp

2. Báo cáo kết quả khảo sát ở Hà Nam Ninh.

Trần Mạnh Đạt.

3. Kết quả phiếu điều tra ở một số tỉnh.

4. Phụ lục.

(Nội dung chi tiết xem tệp đính kèm)

File đính kèm downloadTải về