• Thuộc tính
Tên đề tài Nghiên cứu những giải pháp pháp lý về phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế
Nội dung tóm tắt

Trong những năm gần đây, cùng với quá trình hội nhập với thế giới, bên cạnh những thành tựu về phát triển kinh tế, Việt Nam đang phải đối mặt với các thách thức, trong đó có cả các “làn gió độc” ảnh hưởng đến sức khỏe của nền kinh tế, như việc các tổ chức tội phạm quốc tế sử dụng nguồn tiền bất hợp pháp để đầu tư, kinh doanh dưới dạng đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp, thậm chí dưới dạng kiều hối hoặc "xách tay" nhằm mục tiêu rửa tiền[1]…  Ở trong nước, kẻ phạm tội[2] ngày càng sử dụng các biện pháp tinh vi để “làm sạch” đồng tiền của mình như thông qua đầu tư vào các khu sinh thái, nhà hàng, khách sạn, vũ trường, bất động sản, ô tô, biệt thự, chứng khoán ...

Để phòng, chống hành vi rửa tiền, hệ thống pháp luật điều chỉnh về vấn đề này ở Việt Nam đã sớm hình thành. Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập. Đặc biệt là, ngày 13/4/2009, Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền[3] do 01 Phó Thủ tướng làm Trưởng ban đã được thành lập nhằm chỉ đạo xây dựng chiến lược, chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, cơ chế, giải pháp trong công tác phòng, chống rửa tiền. Đồng thời, Việt Nam đã gia nhập một số công ước quốc tế như Công ước Palermo của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, đặc biệt năm 2009 Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, gia nhập Công ước quốc tế về chống tài trợ cho khủng bố năm 1999... Nước ta cũng đã gia nhập một số tổ chức quốc tế và khu vực về chống rửa tiền như: Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FAFT), tổ chức chống rửa tiền Châu Á – Thái Bình Dương (APG). Ngoài ra, Việt Nam cũng đã ký kết rất nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước trên thế giới. Đây được coi là nhưng cơ sở pháp lý và các thiết chế quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống rửa tiền có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.

Tuy nhiên, nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành về phòng, chống hành vi rửa tiền cho thấy vẫn còn có những bất cập nhất định. Đặc biệt là, hệ thống các luật giữ vai trò hỗ trợ việc phòng, chống rửa tiền như: pháp luật về kê khai tài sản, thu nhập; pháp luật về đăng ký tài sản; pháp luật về quản lý thuế, tài sản, thị trường chứng khoán vẫn còn chưa hoành chỉnh và đồng bộ…. Trong khi đó, mặc dù Bộ Luật hình sự đã có quy định về tội rửa tiền nhưng đây là quy định mới vì vậy, nhận thức về việc áp dụng quy định này cũng như ranh giới giữa tội này và các tội có liên quan khác cũng là một trong những vấn đề cần nghiên cứu. Đồng thời, trong xu thế hội nhập, việc hài hoà hoá pháp luật của Việt Nam với pháp luật của thế giới nói chung và trong các văn bản pháp lý mà Việt Nam đã tham gia trong lĩnh vực này trong cũng cần tiếp tục tiến hành.

Với những lý do trên, việc nghiên cứu các giải pháp pháp lý để phòng, chống hành vi rửa tiền trong xu thế hội nhập quốc tế có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.

Mục tiêu của Đề tài đó là:

- Làm rõ khái niệm rửa tiền, các phương thức thực hiện hành vi rửa tiền, cũng như ảnh hưởng của hoạt động đó đối với đời sống kinh tế-xã hội của Việt Nam;

- Đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trong việc đấu tranh phòng, chống rửa tiền trên cơ sở đối chiếu pháp luật quốc tế và kinh nghiệm của  một số nước về vấn đề này;

- Đưa ra một số giải pháp pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động chống rửa tiền ở nước ta trong xu thế hội nhập.

Trên cơ sở các chuyên đề nghiên cứu, các thông tin thu thập được từ quá trình triển khai đề tài, kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, Ban Chủ nhiệm đề tài đã xây dựng Báo cáo phúc trình của Đề tài với kết cấu gồm 3 chương giải quyết các vấn đề lý luận, kinh nghiệm quốc tế, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành và các đề xuất kiến nghị cụ thể như sau:

Chương 1: Một số vấn đề chung về rửa tiền

Chương 2: Pháp luật phòng, chống rửa tiền của Việt Nam

Chương 3: Kiến nghị  hoàn thiện pháp luật về phòng, chống rửa tiền của Việt Nam trong thời gian tới

Dưới đây là các kết quả nghiên cứu chính của đề tài.

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN

I. KHÁI NIỆM VÀ PHƯƠNG THỨC RỬA TIỀN

1. Khái niệm rửa tiền

Qua nghiên cứu về “rửa tiền” trong lịch sử, trong các quy định pháp luật tại nhiều quốc gia và pháp luật quốc tế, đồng thời so sánh với pháp luật Việt Nam, nhóm nghiên cứu nhận định: dù được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng khái niệm rửa tiền có những dấu hiệu cơ bản sau:

- Chủ thể của rửa tiền bao gồm những cá nhân và pháp nhân. Chủ thể rửa tiền có thể là chủ thể tội phạm gốc nhưng cũng có thể là người khác chỉ tham gia vào quá trình rửa tiền. Tại một số nước chủ thể tiến hành rửa tiền không chỉ là cá nhân, pháp nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp, mà cả những người khác (nhân viên các tổ chức tài chính...) vô tình hay cố ý tiếp tay cho hành vi rửa tiền cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

- Mục đích của rửa tiền là làm cho đồng tiền “bẩn” trở nên sạch hơn hay nói cách khác là tạo ra một khoảng “an toàn” nhất giữa tài sản bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Hình thức biểu hiện ban đầu thông thường là “tiền”, nhưng sau các giai đoạn “rửa” đã có các hình thức biểu hiện khác như: ngân phiếu, thẻ tín dụng, bất động sản ... 

- Nguồn gốc của tiền “bẩn”. Tiền bẩn thường có được từ những hành vi vi phạm pháp luật, phổ biến là các hành vi: buôn lậu, buôn bán ma túy và vũ khí, mại dâm và các loại hàng hoá bị cấm mua bán, trao đổi; Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tống tiền, tổ chức đánh bạc; tiền tham nhũng; trốn thuế... Trên thực tế, hệ thống luật pháp phòng, chống rửa tiền ở những nước khác nhau có những quy định khác nhau về loại tội phạm này, chẳng hạn một số quốc gia chỉ rõ những hành vi phạm tội cụ thể như: Pháp luật Malaysia liệt kê 18 tội danh, Thái Lan 24 tội danh, Australia 180 tội danh…

2. Các phương thức, thủ đoạn rửa tiền

Về mặt lý thuyết, để thực hiện rửa tiền, các tổ chức, cá nhân phạm tội tiến hành các bước sau: 1. Nhập tiền bẩn vào hệ thống kinh tế tài chính; 2. Quay vòng tiền; 3. Hòa nhập tiền đã rửa vào hệ thống kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải trong trường hợp nào ba bước này cũng hoàn toàn tách biệt nhau và dễ nhận biết như vậy. Trên cơ sở tổng hợp các tài liệu phản ánh thực tiễn phòng, chống rửa tiền của nhiều nước khác nhau, nhóm nghiên cứu rút ra được những phương thức, thủ đoạn rửa tiền phổ biến như sau:

2.1. Rửa tiền thông qua hệ thống các tổ chức tài chính

Hệ thống các tổ chức tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng thường được lựa chọn làm phương tiện rửa tiền không những vì đó là nơi cung cấp các dịch vụ tài chính và dịch vụ tiền tệ đa dạng (séc, ngân phiếu, lệnh chuyển tiền…), có thể giao dịch với các khoản tiền rất lớn, mà còn vì một khi “tiền bẩn” được đưa vào hệ thống ngân hàng, nó lập tức trở thành “tiền sạch”, từ đó có thể thực hiện các lệnh thanh toán với số lượng lớn đến bất kỳ đâu, mà thường không gây ra nghi ngờ gì về tính hợp pháp của chúng. Hoạt động chuyển tiền giữa các ngân hàng có thể không thuộc phạm vi báo cáo giao dịch đáng ngờ có liên quan đến rửa tiền, do vậy các nhân viên ngân hàng bị mua chuộc tạo điều kiện dễ dàng hơn để che đậy việc chuyển những khoản tiền lớn bất hợp pháp giữa các tài khoản với nhau.

Việc rửa tiền thông qua ngân hàng thể hiện ở các trường hợp sau đây:

(i) Các nguồn tiền được “tẩy rửa” và sử dụng ngay trong nước.

(ii) Tiền “bẩn” có nguồn gốc trong nước, sau đó chuyển ra nước ngoài để rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông trên thị trường trong nước.

(iii) Tiền “bẩn” được tạo ra ở nước ngoài, được tẩy rửa ở đó hay một nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển.

(iv) Số tiền được “rửa” và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một quốc gia đang phát triển, không quay lại đầu tư cho quốc gia đó mà là để sử dụng ở nơi khác.

Hành vi, phương thức, thủ đoạn rửa tiền:

-  Dùng tiền bất chính gửi vào các quỹ tiết kiệm hoặc mua trái phiếu, tín phiếu có kỳ hạn. Cơ chế tiết kiệm này làm cho đồng tiền nằm im trong một khoảng thời gian phù hợp với quy định mỗi nước. Sau thời gian đó, người gửi có thể rút ra toàn bộ gốc và lãi hoặc rút một phần, khi đó họ đã có giấy tờ chứng minh cho nguồn gốc hợp pháp của tổ chức tín dụng.

- Rửa tiền thông qua hoạt động vay vốn ngân hàng có bảo lãnh. Để thực hiện hoạt động này, kẻ rửa tiền gửi tiền vào một công ty được thành lập ở một nước mà nơi đó thủ tục mở tài khoản rất dễ dàng, không đòi hỏi nhiều thông tin của khách hàng. Sau đó kẻ rửa tiền đến một Ngân hàng để vay tiền mua bất động sản hoặc mua hàng hóa. Khoản tiền vay này được bảo lãnh bởi công ty mà kẻ rửa tiền đã gửi tiền bẩn. Tiếp đó, có hai trường hợp xảy ra. Một là, kẻ rửa tiền không trả khoản vay và đến thời hạn công ty nước ngoài đứng ra bảo lãnh sẽ phải trả nợ cho khách hàng vay. Sau đó, không như các giao dịch có bảo đảm thông thường khác, công ty bảo lãnh không đòi bên được bảo lãnh trả lại tiền cho mình vì chúng là đồng lõa của nhau. Hai là, bên vay sẽ hoàn trả khoản vay trước thời hạn bằng tiền của công ty nước ngoài bảo lãnh và trình bày với ngân hàng là mình có khả năng trả nợ khoản vay và muốn chấm dứt hợp đồng vay trước thời hạn.

- Rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng “ngầm”: Tại một số nước, hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, đắt đỏ nhưng lại quan liêu. Do đó, trong cộng đồng những người nước ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng không chính thức gọi là ngân hàng “ngầm”. Hệ thống ngân hàng ngầm này hoạt động và luân chuyển tài chính như các ngân hàng chính thức nhưng với chi phí dịch vụ rẻ hơn, bí mật hơn các ngân hàng hợp pháp. Các ngân hàng ngầm có đại diện ở nhiều nước khác nhau để thực hiện dịch vụ chuyển tiền từ nước này sang nước khác hoặc từ thành phố này sang thành phố khác trong cùng một quốc gia. Sự hoạt động của ngân hàng này chủ yếu dựa trên niềm tin giữa ngân hàng và khách hàng nên thủ tục giấy tờ gọn nhẹ. Bọn tội phạm lợi dụng nguyên tắc giữ bí mật của những ngân hàng này đã đem tiền đến gửi và yêu cầu nhận lại ở một thành phố khác. Những địa chỉ cần nhận tiền tẩy rửa thông thường là những quốc gia khao khát đầu tư tài chính nhưng ít quan tâm đến nguồn gốc đồng tiền, việc thanh toán qua ngân hàng chưa phải là yêu cầu bắt buộc và phổ biến, hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa nghiêm...

2.2. Rửa tiền qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt

Giao dịch trong nước hoặc giao dịch xuyên quốc gia bằng tiền mặt là phương thức rửa tiền truyền thống và chủ yếu của bọn tội phạm. Vì vậy nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện chặt chẽ biện pháp kiểm soát người qua lại biên giới để tìm ra những người đem theo tiền mặt mà không chứng minh được nguồn gốc của các khoản tiền đó. Các nước cho phép một cách dễ dàng việc quy đổi tiền mặt ra đồng ngoại tệ hoặc sử dụng tiền mặt làm phương tiện thanh toán chủ yếu chính là những “thiên đường” cho bọn tội phạm thực hiện rửa tiền. Lượng tiền sau khi rửa được chuyển vào một quốc gia đang phát triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi. Trước sức ép ngày càng tăng của lực lượng cảnh sát các nước, bọn tội phạm đã đổi cách thức rửa tiền bằng chuyển khoản ngân hàng sang phương thức chuyển tiền mặt trực tiếp qua biên giới.

2.3. Rửa tiền thông qua mua cổ phần, chứng khoán

Việc rửa tiền qua chứng khoán là việc rất dễ dàng do đặc thù của chứng khoán là mọi người đều có quyền mua đi bán lại cổ phiếu và tái đầu tư, giá cổ phiếu thì thường xuyên biến động. Do đó, rất khó kiểm soát tài sản của người chơi chứng khoán. Đôi khi, kẻ phạm tội còn mua cả cổ phần giả tạo do chính các công ty bình phong phát hành mà không cần quan tâm đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

2.4. Rửa tiền bằng cách đánh bạc, tham gia trò chơi có thưởng

Lĩnh vực trò chơi là lĩnh vực đầu tiên mà kẻ tội phạm nước nào cũng nghĩ đến để thực hiện. Ví dụ, ở Pháp hoạt động cá cược đua ngựa xảy ra rất phổ biến. Kẻ phạm tội ở miền Nam nước Pháp đã cùng với các cơ sở tổ chức cá cược, tổ chức ra một hệ thống để tập trung tất cả các phiếu trúng thưởng. Qua hệ thống này, chúng mua các phiếu trúng thưởng với giá cao hơn. Số tiền chênh lệch này có thể người trúng thưởng hoặc tổ chức trúng thưởng được hưởng. Tương tự như vậy, kẻ phạm tội có thể mua vé trúng sổ xố với giá cao hơn từ người mua sổ xổ, hoặc các đại lý bán sổ xố.

Sòng bạc (Casino) được coi là “máy rửa tiền” lý tưởng của bọn tội phạm, vì nguồn gốc tiền sử dụng để đánh bạc không bị kiểm tra, trong khi đó tiền trúng thưởng qua đánh bạc tại nhiều nước được coi là tiền hợp pháp. Nếu thắng, tiền thưởng sẽ được thanh toán vào một tài khoản hợp pháp khác. Việc đánh bạc chỉ là hình thức bên ngoài, bởi bọn tội phạm đã móc ngoặc với các chủ sòng bạc để xác nhận các khoản tiền thắng bạc theo một tỷ lệ ăn chia thoả thuận (tỷ lệ này có thể lên tới 30%, hoặc thậm chí là một nửa số tiền trên tổng giá trị số tiền cần tẩy rửa[4]).

2.5. Rửa tiền thông qua hoạt động đầu tư

Tiền bất hợp pháp thường được đầu tư vào các lĩnh vực nhà hàng, sòng bạc, sàn nhảy, khu du lịch sinh thái... và thậm chí là công ty ma. Sau đó chúng báo cáo khống lợi nhuận qua các hóa đơn chứng từ khống, từ đó “tiền bẩn” sẽ đương nhiên trở thành đồng tiền hợp pháp có được do công sức lao động.

2.6. Rửa tiền thông qua mua bán bất động sản

Trong lĩnh vực mua bán bất động sản có nhiều thủ thuật khác nhau để kẻ rửa tiền lợi dụng. Ví dụ, ở Việt Nam, do truyền thống bố mẹ chăm lo, tạo dựng tài sản rồi chuyển cho con cái dưới hình thức tặng, cho tài sản. Lợi dụng đặc điểm này, kẻ rửa tiền mượn tên bố, mẹ (thậm chí có trường hợp là mượn tên anh, chị, em trong gia đình) để đứng ra mua bất động sản, sau đó làm hợp đồng tặng, cho bất động sản đó cho mình. Trong lĩnh vực mua bán bất động sản ở Pháp, kỹ thuật đơn giản nhất là giá thỏa thuận cao hơn rất nhiều giá ghi trong hợp đồng mua bán bất động sản. Khoản chênh lệch giữa hai loại giá này vừa có lợi cho người bán khi nộp thuế, vừa có lợi cho kẻ rửa tiền. Sau đó người mua bất động sản lại tiếp tục đầu tư, sửa sang vào bất động sản rồi đem bán. Hợp đồng bán nhà do công chứng viên lập sẽ được coi là giấy chứng nhận về nguồn gốc hợp pháp của tiền[5].

2.7. Rửa tiền thông qua hoạt động bán đấu giá

Hoạt động bán đấu giá tài sản là một trong những hoạt động dễ tiếp tay cho kẻ rửa tiền (đặc biệt là bán đấu giá tác phẩm nghệ thuật bởi rất khó xác định giá trị của các tác phẩm này). Vì vậy, chúng có thể đẩy giá lên tới hàng triệu đô la Mỹ. Người mua và người có tài sản bán đấu giá là đồng bọn của nhau. Cũng có trường hợp bán đấu giá tài sản người mua và người bán không phải là đồng bọn, nhưng người có tài sản bán đấu giá thông đồng với người mua và với nhân viên bán đấu giá để đẩy giá trị của hợp đồng lên so với giá trị thực tế của tài sản. Người mua sẽ chỉ phải trả đúng số tiền thực tế, số tiền còn lại là số tiền mà người có tài sản cần hợp thức hóa thành tiền sạch.

2.8. Rửa tiền qua mạng

Cùng với xu thế hội nhập, thế giới ngày càng trở nên “phẳng”, công nghệ thông tin ngày càng phổ biến và tinh vi hơn. Vì lẽ đó, tội phạm qua mạng xuất hiện là sự tất yếu. Hiện nay, tội phạm mạng có nhiều mánh khóe để rửa tiền hoặc tẩu tán "chiến lợi phẩm" trên Internet. FATF cho biết các dịch vụ thanh toán trực tuyến, như PayPal (Mỹ) hay Neteller (Anh) thực sự rất có ích với những ai muốn mua bán qua Internet mà không muốn để lộ thông tin tài chính. Các giao dịch mua bán qua hệ thống internet cho phép khách hàng giao dịch ẩn danh mà không để lại dấu vết như trên giấy tờ.

2.9. Rửa tiền thông qua hoạt động bảo hiểm

Bọn tội phạm sử dụng tiền của mình để mua bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Lượng tiền này được nằm trong tài khoản của công ty bảo hiểm trong một thời gian nhất định. Sau đó bọn tội phạm sẽ yêu cầu rút tiền trước thời hạn, hoặc dùng chính giá trị của hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo chi trả cho một nhu cầu giao dịch nào đó như mua bất động sản, hay bảo lãnh cho các giao dịch vay ngân hàng. Đó chỉ là lộ trình bình thường của quá trình rút tiền. Thực tế, bọn tội phạm còn biến hoá để quá trình đó trở nên phức tạp hơn rất nhiều, ví dụ như: bọn tội phạm không trực tiếp rút tiền bảo hiểm, mà chỉ định cho một người khác rút tiền, hay một số công ty bảo hiểm còn cho phép khách hàng của mình được gửi khuyết danh, không phải khai báo tên người được hưởng thụ số tiền. Đây là kẽ hở để bọn tội phạm lợi dụng để che giấu nguồn gốc tiền và là một phương thức rửa tiền cho một lượng tiền lớn.

2.10. Rửa tiền thông qua việc mua các kim loại quý hiếm[6]

Với đặc điểm là các tài sản gọn, nhẹ, có giá trị cao, giá cả ổn định và có thể mua đi bán lại dễ dàng mọi nơi, mọi thời điểm nên các kim loại quý hiếm được bọn tội phạm sử dụng làm phương thức rửa tiền cho mình. Phương thức này được đặc biệt ưa dùng ở những quốc gia, khu vực[7] có tập quán và truyền thống tích luỹ, trao đổi bằng vàng, kim cương…

2.11. Rửa tiền bằng cách sử dụng hoá đơn, chứng từ giả hoặc hóa đơn thật nhưng ghi giá cao hơn giá trị thực của tài sản

Phương thức chủ yếu của bọn tội phạm là lập ra nhiều công ty ở nhiều thành phố, quốc gia khác nhau để làm bình phong cho rửa tiền, ký kết các hợp đồng thương mại “ma”, xuất hoá đơn, chứng từ khống, gây khó khăn cho công tác điều tra. Các cơ quan điều tra không dễ dàng xác minh được một hoá đơn là thật hay giả khi công ty cung cấp dịch vụ nằm ở một nước và công ty trả tiền dịch vụ nằm ở nước khác. Các công ty này chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn, quy mô hoạt động khiêm tốn để ít bị chú ý bởi các cơ quan thuế hay công an. Sau khi một công ty nào đó có nguy cơ bị lộ và tuyên bố giải thể, lập tức một công ty mới lại được thành lập để làm bình phong thay thế.

Khác với phương thức  rửa tiền bằng cách ghi giảm giá trị tiền trong hợp đồng mua bán tài sản để trốn thuế, phương thức ghi giá cao trong các giao dịch mua bán hàng hóa cũng là một phương thức rửa tiền khá phổ biến. Theo phương thức này, kẻ rửa tiền sẵn sàng nộp thuế cao hơn để đạt được mục đích rửa tiền. Phương thức ghi giá cao trên hóa đơn là một phương thức mà kẻ phạm tội thực hiện nhằm trộn lẫn thu nhập bất hợp pháp với thu nhập hợp pháp.

2.12. Rửa tiền thông qua hoạt động xét xử của Tòa án

Kẻ rửa tiền có thể tạo ra một vụ kiện dân sự giả tạo. Ví dụ tạo ra vụ hai công ty tranh chấp với nhau. Công ty A cung cấp thiết bị cho Công ty B theo hợp đồng đã ký kết, nhưng đến thời hạn Công ty B không thanh toán tiền hàng cho bên A và vì thế công ty A kiện Công ty B ra Tòa. Quyết định tất yếu của Tòa án là yêu cầu Công ty B thanh toán đủ tiền cung ứng thiết bị cho Bên A như đúng cam kết trong hợp đồng.

Ngoài các phương thức, thủ đoạn nêu trên, kẻ rửa tiền còn sử dụng rất nhiều phương thức khác, hoặc sử dụng trộn lẫn các phương thức, thủ đoạn với nhau tạo nên các quan hệ giao dịch chằng chịt để tránh nghi vấn từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3. Ảnh hưởng của rửa tiền đến phát triển kinh tế - xã hội

Các ảnh hưởng này thể hiện ở những điểm sau đây:

3.1. Ảnh hưởng của rửa tiền đến nền kinh tế

- Làm sai lệch hướng đầu tư dẫn đến mất ổn định về kinh tế. Đối với bọn tội phạm rửa tiền, cái mà chúng quan tâm là ngành, lĩnh vực nào thuận lợi nhất cho việc che giấu khoản tiền bất chính chứ không phải các ngành lĩnh vực phục vụ nhu cầu lớn của xã hội. Do đó, các lĩnh vực thường được đầu tư là các lĩnh vực phục vụ nhu cầu của những người có nhiều tiền trong xã hội như du lịch, giải trí cao cấp. Điều này làm cho nền kinh tế phát triển lệch lạc, mất ổn định, và gây ra những hậu quả khôn lường. Ngoài những ảnh hưởng về phân bố vốn đầu tư cho nền kinh tế, luồng tiền “bẩn” cũng sẽ làm sai lệch các thống kê kinh tế. Chẳng hạn, Chính phủ khó biết được chính xác khối lượng tiền đang lưu hành, bao nhiêu là của người trong nước, bao nhiêu là của người nước ngoài. Thiếu những con số chính xác, tất nhiên là chính sách kinh tế (đặc biệt là về chính sách tiền tệ) sẽ không đúng và mang lại hiệu quả[8].

- Ảnh hưởng đến uy tín của quốc gia. Đối với các nước đang phát triển trong đó có  Việt Nam, nhu cầu hội nhập, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đưa các ngành kinh tế phát triển vươn ra tầm thế giới là một nhu cầu bức thiết. Nếu hoạt động phòng, chống rửa tiền không hiệu quả, không tạo được niềm tin đối với thị trường tài chính thì không những các nhà đầu tư nước ngoài e ngại mà cánh cửa hội nhập quốc tế đối với nước ta cũng sẽ dần bị thu hẹp. Về mặt kinh tế, sự thâm nhập của tiền “bẩn” vào nền kinh tế của một nước kéo theo những hệ quả tiêu cực đối với sự vận hành của nền kinh tế của nước đó. Ví dụ, gây mất niềm tin của những người muốn gửi tiền vào tổ chức tài chính do các tổ chức này hoạt động thiếu minh bạch.

- Làm suy yếu tổ chức tài chính - tiền tệ. Có những ngân hàng được thành lập bởi những kẻ rửa tiền để tiếp nhận tiền có được từ hoạt động tội phạm. Khi ngân hàng hoặc tổ chức tài chính này bị truy tố, những người có tiền và thu nhập hợp pháp gửi vào các ngân hàng này sẽ bị thiệt hại. Ngoài ra hành vi rửa tiền có thể làm cho ngân hàng bị phá sản hoặc làm rối loạn thị trường tài chính. Kẻ rửa tiền thường gửi tiền vào ngân hàng để đầu tư trong một thời gian rất ngắn. Đến một thời điểm nào đó chúng sẽ nhanh chóng rút toàn bộ tiền, điều đó gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bình thường của ngân hàng, kéo theo nguy cơ là hoạt động kinh tế được đầu tư bằng tiền “bẩn” làm mất ổn định các cơ chế kinh tế điều tiết thông thường. Rửa tiền cũng dễ dẫn đến hành vi tham nhũng, hối lộ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, vì đối với một hệ thống tài chính dễ thâm nhập thì kẻ rửa tiền có thể mua chuộc hệ thống đó để có thể gửi tiền. Như vậy, kẻ rửa tiền không ngần ngại chi ra những khoản tiền lớn để đạt được mục đích rửa tiền.

- Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân: Khi đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân, hành vi kinh doanh hợp pháp chỉ là vỏ bọc, kẻ rửa tiền sẽ không đặt yếu tố lợi nhuận lên mục tiêu hàng đầu bởi nguồn tiền bất chính đã bao cấp toàn bộ hoạt động của công ty ngụy trang. Trong nhiều trường hợp các công ty ngụy trang này có thể đưa ra những sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản phẩm, do vậy, có lợi thế cạnh tranh hơn so với những công ty hợp pháp trong thu hút vốn từ các thị trường tài chính. Điều này làm cho các doanh nghiệp hợp pháp gặp khó khăn, nếu không muốn nói là không thể cạnh tranh lại được với những công ty ngụy trang với nguồn vốn được bao cấp. Thậm chí các doanh nghiệp tội phạm có thể biến những doanh nghiệp sản xuất thành những doanh nghiệp “cằn cỗi” do không sử dụng các doanh nghiệp này để sản xuất, kinh doanh tạo ra lợi nhuận nữa mà chỉ sử dụng làm các doanh nghiệp bình phong. Một doanh nghiệp như vậy không đáp ứng yêu cầu cho người tiêu dùng, không tạo nguồn lực cho nền kinh tế phát triển.

- Làm cho việc cải tổ nền kinh tế ở các nước đang phát triển không đạt được mục đích. Đối với những nước đang thực hiện việc tư nhân hóa, hay cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức thực hiện rửa tiền có khả năng trả giá cao hơn so với các nhà đầu tư chính đáng để mua lại doanh nghiệp nhà nước. Khi những khoản tiền bất chính được đầu tư theo cách này, những kẻ phạm tội sẽ tăng được tiềm năng của chúng để thực hiện nhiều hoạt động phạm tội hơn và gây ra tham nhũng nhiều hơn, cũng như tước đoạt của người dân những khoản tiền thuế hợp pháp vì khi đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước đang được cổ phần hóa, chúng được ưu tiên miễn giảm một số loại thuế, miễn giảm tiền sử dụng đất…

3.2. Ảnh hưởng của rửa tiền đến xã hội

- Tạo điều kiện cho tình hình tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội phát triển. Rửa tiền thành công tạo điều kiện gia tăng các loại hình tội phạm là nguồn gốc của tiền bẩn (buôn bán ma tuý, buôn lậu...). Chính vì thế, nó làm tăng chi phí của Chính phủ để chống lại và khắc phục những hậu quả nghiêm trọng. Những chi phí phái sinh, ngoại vi này khá lớn như chi phí duy trì hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật, chi phí cho việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng do tác động của ma túy, mại dâm ... Rửa tiền làm cho nạn tham nhũng phát triển, dẫn đến quyền lực kinh tế chuyển giao từ thị trường, từ Chính phủ, từ mọi người dân sang cho bọn tội phạm, dẫn đến quyền lực nhà nước cũng có thể bị tha hóa, trở thành công cụ của Mafia.

- Ảnh hưởng tiêu cực đến phân bố thu nhập (gây nên sự bất công trong xã hội): Rửa tiền đẩy giá trị tài sản cao hơn giá trị thực tế dẫn đến làm rối loại thị trường, tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh, làm cho các cá nhân, tổ chức làm ăn chân chính rơi vào tình trạng khó khăn, tác động trực tiếp đến thu nhập của người dân, làm cho khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc.

II. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

            Nhóm nghiên cứu đã thực hiện nghiên cứu các văn bản pháp lý quốc tế về rửa tiền như: Công ước Viên 1988 của Liên Hợp quốc về đấu tranh chống buôn bán ma tuý và chất hướng thần; Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Viết tắt là Công ước Palecmo)[9]; Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng năm 2003; Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) về chống rửa tiền; Khuyến nghị của FATF về hình sự hoá các hành vi rửa tiền; Một số quy định pháp luật và kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền của một số nước trên thế giới (Liên bang Nga; Úc; Vương quốc Anh; Trung Quốc; Vương quốc Thái Lan).

CHƯƠNG 2

PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỂN CỦA VIỆT NAM

Trong Chương này, nhóm nghiên cứu tập trung phân tích các quy định của Việt Nam về phòng, chống rửa tiền; đánh giá mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế; đánh giá sự phù hợp của các quy định pháp luật vào thực tiễn phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam

I. BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA RỬA TIỀN

1. Các biện pháp phòng ngừa do các định chế tài chính, ngân hàng và các ngành nghề, loại hình kinh doanh chỉ định thực hiện

Những văn bản đầu tiên về lĩnh vực này cần kể đến là Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền, Thông tư số 148/2010/TT-BTC ngày 24/9/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và trò chơi giải trí có thưởng, Thông tư số 12/2011/TT-BXD ngày 01/9/2011 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền đối với hoạt động kinh doanh bất động sản…

Theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP, các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm phòng ngừa rửa tiền phải tuân thủ các quy định sau:

- Đảm bảo sự minh bạch của các chủ thể trong các giao dịch

- Báo cáo các giao dịch đáng ngờ, giao dịch tiền mặt lớn

- Lưu trữ hồ sơ tài liệu nhằm phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền

- Thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin khách hàng theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.

Qua nghiên cứu các quy định pháp luật về các biện pháp phòng, chống rửa tiền do các định chế tài chính, ngân hàng và các ngành nghề, loại hình kinh doanh chỉ định thực hiện, nhóm nghiên cứu cho rằng về cơ bản các quy định pháp luật Việt Nam phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế và thực tiễn của Việt Nam. Tuy nhiên còn có một số bất cập sau:

+ Đối tượng phải thuộc diện nằm trong báo cáo giao dịch đáng ngờ theo pháp luật hiện hành còn hạn chế và chưa báo quát được hết các chủ thể có nghĩa vụ phải báo cáo như: tổ chức hành nghề công chứng, kế toán viên hành nghề độc lập…

+ Các phương pháp thẩm định khách hàng được áp dụng chung mà không có sự khác biệt nào giữa các tổ chức, cá nhân nước ngoài hay các khách hàng có nguy cơ rửa tiền cao.... Các yêu cầu về xác định danh tính đối với khách hàng là pháp nhân chưa rõ ràng, chưa đưa ra các biện pháp thích hợp để hiểu được quyền sở hữu và cơ cấu kiểm soát của khách hàng.

+ Về cập nhật thông tin khách hàng: hiện tại, theo đánh giá của APG, Việt Nam không có quy định pháp lý hoặc các công cụ bắt buộc khác yêu cầu các tổ chức tài chính cập nhật thông tin khách hàng, kể cả đối với các nhóm khách hàng, quan hệ kinh doanh hoặc giao dịch có rủi ro cao hơn. Các tổ chức tài chính chưa cập nhật thông tin khách hàng, rà soát kỹ các giao dịch của khách hàng, trong quan hệ kinh doanh, để đảm bảo rằng các giao dịch phù hợp với hiểu biết của tổ chức này về khách hàng, về hoạt động kinh doanh, về rủi ro và về nguồn vốn của họ.

+ Pháp luật chưa quy định hay hướng dẫn các tổ chức tài chính áp dụng các hình thức nhận biết khách hàng, giảm nhẹ hay tăng cường trong việc xác minh khách hàng.

+ Theo quy định của Nghị định 74/2005/NĐ-CP, phương pháp thẩm định khách hàng được áp dụng cho tất cả các tổ chức tài chính mà không có sự khác biệt nào giữa các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, các tổ chức tài chính Việt Nam cũng không có bất cứ cơ chế nào để áp dụng các phương pháp thẩm tra khách hàng với những khách hàng là công dân của nước khác. Hơn nữa, quy định về thời gian xác minh chứng thực không cụ thể và cũng chưa có những quy định cụ thể đòi hỏi những tổ chức tài chính phải chấm dứt quan hệ kinh doanh với khách hàng khi khách hàng không thể đáp ứng yêu cầu nhận biết khách hàng.

+ Pháp luật chưa quy định cụ thể việc cấm các Ngân hàng thương mại không được giữ các tài khoản vô danh hoặc các tài khoản với các tên giả: Không có yêu cầu rõ ràng đối với các Ngân hàng thương mại về việc xác định, trên cơ sở các chứng từ, dữ liệu hoặc nguồn thông tin gốc, độc lập và tin cậy (bao gồm cả bên thứ ba), các thông tin cá nhân của khách hàng, bao gồm người hành động nhân danh chính mình hay trên cơ sở ủy quyền của người khác.

+ Các yêu cầu về xác định danh tính đối với khách hàng là pháp nhân chưa rõ ràng, chưa đưa ra các biện pháp thích hợp để hiểu được quyền sở hữu và cơ cấu kiểm soát của khách hàng.

+ Quy định về chủ sở hữu hưởng lợi không rõ ràng  do đó các yêu cầu nhận dạng chủ yếu tập trung vào thu thập thông tin của các bên giao dịch trực tiếp, dẫn đến khó khăn trong xác minh các chủ sở hữu hưởng lợi thực sự.

+ Chưa có quy định hoặc công cụ thi hành pháp luật nào yêu cầu các Ngân hàng thương mại thực hiện cập nhật, theo dõi thông tin về khách hàng (“Customer Due Dilligence” viết tắt là CDD) thường xuyên đối với quan hệ kinh doanh và kiểm soát kỹ lưỡng các giao dịch được thực hiện trong quá trình duy trì mối quan hệ đó để đảm bảo rằng các giao dịch đang được tiến hành là nhất quán với những hiểu biết của Ngân hàng về khách hàng, hoạt động kinh doanh và hồ sơ rủi ro, bao gồm, khi cần thiết, nguồn gốc vốn của khách hàng. Các quan hệ kinh doanh và giao dịch có rủi ro cao hơn vì vậy cũng chưa được yêu cầu phải tiến hành CDD kỹ hơn.

+ Không có quy định cụ thể nào về việc yêu cầu các ngân hàng chính áp dụng các yêu cầu CDD trên cơ sở rủi ro hoặc mức độ quan trọng, và thực hiện cập nhật thông tin khách hàng đối với các mối quan hệ hiện tại đó trong các khoảng thời gian hợp lý

Ngoài các hạn chế về việc thực hiện các biện pháp CDD thông thường, Việt Nam chưa quy định các thủ tục CDD cần thiết nhằm nắm bắt thông tin có liên quan đối với người có quan hệ chính trị hay hoạt động ngân hàng đại lý qua biên giới hoặc các quan hệ tương tự để xác định uy tín của ngân hàng đại lý đó qua những thông tin công khai và chất lượng giám sát, bao gồm cả việc liệu ngân hàng đó đã từng bị điều tra do liên quan đến rửa tiền hoặc tài trợ khủng bố hay bị áp dụng các biện pháp quản lý chưa.

+ Hiện tại, pháp luật chưa có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể liên quan đến các mối đe dọa về rửa tiền có thể phát sinh từ việc lợi dụng các công nghệ mới vào việc rửa tiền và tài trợ cho khủng bố, hoặc nhằm tới bất cứ rủi ro cụ thể nào gắn liền với các mối quan hệ kinh doanh hoặc giao dịch không trực tiếp.

+ Quy định về lưu giữ thông tin nhận biết khách hàng chưa đưa ra yêu cầu cụ thể về tính đầy đủ và kịp thời của các dữ liệu nhận dạng có được trong quá trình CDD; chưa yêu cầy các ngân hàng phải chú ý đặc biệt tới các giao dịch lớn hoặc bất thường, phức tạp và tất các các khía cạnh bất thường của các giao dịch không có mục đích hợp pháp hay kinh tế rõ ràng.

+ Nghị định số 74/2005/NĐ-CP tuy đã quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện trách nhiệm báo cáo hoặc cung cấp thông tin về các giao dịch đáng ngờ không bị coi là vi phạm các quy định liên quan của pháp luật song nội dung quy định chưa rõ ràng, chưa đảm bảo miễn trừ mọi loại trách nhiệm của những người đó khi báo cáo các giao dịch đáng ngờ, dẫn tới không khuyến khích việc báo cáo các giao dịch tiền mặt nghi vấn liên quan tới rửa tiền. Điều này không phù hợp với các khuyến nghị của FAFT và thông lệ quốc tế. Đồng thời, việc thu thập thông tin trong trường hợp có nghi ngờ về thông tin do khách hàng cung cấp thông qua các cơ quan có thẩm quyền nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ không thực sự hiệu quả và chưa có biện pháp chế tài đối với việc không cung cấp thông tin theo quy định.

+ Các hành vi bị cấm được quy định tại Nghị định 74/2005/NĐ-CP còn chưa phù hợp với Khuyến nghị số 5 của FATF và các khuyến nghị của Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG). Một số hành vi chưa được quy định cấm như: (i) Thiết lập hoặc duy trì tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên giả; (ii) Thành lập ngân hàng vỏ bọc trên lãnh thổ Việt Nam; (iii) Tham gia hoặc thiết lập quan hệ kinh doanh với ngân hàng vỏ bọc; (iv) Thiết lập, sử dụng dịch vụ chuyển tiền thay thế.

2. Biện pháp phòng ngừa rửa tiền trong khu vực công

Những kẻ phạm tội, doanh nghiệp luôn tìm cách lợi dụng và tranh thủ “lòng tham” của các quan chức để họ có thể làm ngơ cho hoạt động rửa tiền. Vậy nên, nếu muốn ngăn chặn rửa tiền cũng như ngăn chặn những hậu quả của hành vi tham nhũng gây ra, trước hết cần có những cơ chế kiểm soát chặt chẽ nguồn thu nhập của cá nhân và tổ chức, cũng như kiểm soát nguồn gốc của những tài sản có giá trị, để tăng cường hơn nữa khả năng phát hiện và khắc phục hậu quả tham nhũng. Để phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng, Việt Nam đã hình thành được hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh[10], trong đó việc phòng ngừa hành vi tham nhũng được quy định khá đầy đủ và toàn diện. Bộ luật Hình sự, Luật phòng chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng thông qua việc quy định điều cấm đối với người có chức vụ quyền hạn; kê khai tài sản, công khai hóa thủ tục hành chính... Cụ thể: quy định các điều cấm đối với người có chức vụ, quyền hạn nhằm hạn chế những cơ hội điều kiện phát sinh tham nhũng; quy định về kê khai tài sản; quy định về công khai hóa các thủ tục hành chính; quy định về biện pháp xử lý tài sản tham nhũng.

Tháng 6/2009 Việt Nam phê duyệt Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng và cam kết tôn trọng, thực thi các quy định của Công ước trên cơ sở phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật trong nước, thúc đẩy nghiên cứu một số quy định mang tính bắt buộc cũng như những quy định mang tính tuỳ nghi để nội luật hoá: quy định pháp nhân là chủ thể của hành vi tham nhũng; quy định hối lộ trong khu vực tư; về dẫn độ, hợp tác quốc tế... Tuy nhiên, việc gia nhập Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng cũng đã đặt ra cho Việt Nam những yêu cầu về việc hoàn thiện pháp luật trong nước, cụ thể là:

- Trước tiên, việc bảo lưu khoản 2 Điều 66 Công ước về thủ tục giải quyết tranh chấp và tuyên bố không bị giàng buộc bởi Điều 20 Công ước về hình sự hoá hành vi làm giàu bất hợp pháp; và việc chưa quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật hình sự theo yêu cầu của Điều 26 Công ước cũng là một trong những cản trở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.

- Pháp luật Việt Nam còn chưa đảm bảo tính tương thích đối với chế định thu hồi tài sản có tham nhũng có yếu tố nước ngoài, cụ thể là: (1) thiếu những quy định cụ thể, trực tiếp về vấn đề thu hồi tài sản phạm tội, tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài. (2) Chưa xác lập được cơ chế phối hợp trong nước trong việc thực hiện thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài. (3) Ngoài Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với các nước ASEAN và các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ với Hàn Quốc, hầu hết các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước (14/16 Hiệp định) không có quy định về thu hồi tài sản phạm tội.

 - Định nghĩa về “tài sản do tham nhũng mà có” theo quy định của pháp luật Việt Nam tuy không trái, nhưng cũng chưa hoàn toàn phù hợp với định nghĩa theo quy định của Công ước.

3. Biện pháp phòng ngừa rửa tiền thông qua việc hạn chế giao dịch tiền mặt

Qua phân tích các văn bản pháp luật hiện hành, nhóm nghiên cứu nhận định: hành lang pháp lý của việc hạn chế giao dịch bằng tiền mặt mới chỉ dừng lại ở việc hạn chế thanh toán bằng tiền mặt qua hệ thống kho bạc nhà nước, mà chưa tác động đến việc thanh toán bằng tiền mặt trong các giao dịch của các tổ chức, cá nhân. Trên thực tế, các giao dịch tiền mặt giữa các tổ chức, cá nhân để thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn vẫn diễn ra thường xuyên. Ví dụ, việc thanh toán đối với các giao dịch liên quan đến bất động sản tại Việt Nam có thể được xem là điển hình cho việc rửa tiền.

Một số điểm bất cập đó là:

- Luật các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006 nhưng đến nay Chính phủ chưa ban hành Nghị định quy định thi hành, tuy ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 44/2006/QĐ-NHNN ngày 5/9/2006 quy định về thủ tục nhờ thu hối phiếu qua người thu hộ, đến nay trên thực tế, hối phiếu chưa được các tổ chức kinh tế sử dụng trong giao dịch thương mại và chiết khấu tại các ngân hàng; Ngày 11/7/2006, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 30/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế cung ứng và sử dụng séc, nhưng đến nay, séc vẫn chưa được nhiều người sử dụng vì Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa thành lập được các trung tâm bù trừ séc, qua đây có thể thấy Luật các công cụ chuyển nhượng đã ban hành từ hơn 5 năm nhưng chưa đi vào cuộc sống.

- Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù Luật giao dịch điện tử năm 2005 đã được Quốc hội thông qua, tạo hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các hoạt động thương mại điện tử, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để Luật này đi vào cuộc sống không chỉ của riêng ngành ngân hàng mà của toàn xã hội, hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục được chỉnh sửa, thay thế để có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của người sử dụng, để cả các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ chức công nghệ thông tin cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng, các tổ chức làm dịch vụ thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung cấp giải pháp công nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên làm dịch vụ thanh toán bù trừ[11].

4. Biện pháp tạm thời và kê biên tài sản

Để phòng, chống rửa tiền một cách hiệu quả thì bên cạnh các biện pháp mang tính chuyên môn, nghiệp vụ đòi hỏi phải có những biện pháp mang tính cưỡng chế của Nhà nước đối với các đối tượng vi phạm quy định về phòng, chống rửa tiền. Trong đó, việc xây dựng biện pháp nhằm ngăn chặn kịp thời các hành vi rửa tiền như các biện pháp tạm thời (phong tỏa tài khoản, tạm giữ,..) và kê biên tài sản. Các biện pháp này góp phần không nhỏ trong việc ngăn chặn những kẻ phạm tội tẩu tán tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp cũng như tránh được những thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và cho nhà nước.

Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 74/2005/NĐ-CP các biện pháp tạm thời gồm: (i) Không thực hiện giao dịch; (ii) Phong toả tài khoản; (iii) Niêm phong hoặc tạm giữ tài sản; (iv) Tạm giữ người vi phạm; (v) Áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của pháp luật.

Việc tịch thu tiền, tài sản do phạm tội mà có, cũng như công cụ, phương tiện phạm tội, tiền, tài sản đã bị tẩy rửa được thực hiện theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, so với các tiêu chí nêu trong Khuyến nghị 3 của FATF thì những quy định này còn một số điểm hạn chế:

Một là, Điều 41 Bộ luật hình sự mới chỉ đề cập đến tiền, tài sản do “mua bán, đổi chác” tài sản do phạm tội mà có. Thuật ngữ mua bán, đổi chác chưa bao trùm được tất cả các hành vi rửa tiền, do vậy, quy định này chưa bao trùm được tất cả mọi loại tài sản bị tẩy rửa, chẳng hạn như tài sản có được do việc đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp tiền, tài sản do phạm tội mà có;

 Hai là, pháp luật chưa quy định việc tịch thu tài sản có giá trị tương đương với tài sản do phạm tội mà có;

Ba là, pháp luật còn thiếu hướng dẫn cụ thể về việc tịch thu tài sản trong trường hợp tài sản đã được gộp với những tài sản có nguồn gốc hợp pháp.

II. BIỆN PHÁP XỦ LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI RỬA TIỀN

1. Xử lý hành chính

Qua nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam nhóm nghiên cứu cho rằng các văn bản pháp luật chuyên ngành về phòng, chống rửa tiền cũng như các lĩnh vực khác của Việt Nam mới chỉ quy định hình thức xử lý vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức có trách nhiệm hoặc thẩm quyền phòng, chống rửa tiền mà hầu như không có quy định về xử phạt này đối với đối tượng mang tiền tài sản đi tẩy rửa.

2. Xử lý hình sự đối với tội phạm rửa tiền

Năm 2009, khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 37/2009/QH12, tội rửa tiền mới chính thức được ghi nhận, nhưng bản chất của tội phạm này đã được ghi nhận ngay trong Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta (năm 1985) tại Điều 201 về “tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Đến Bộ luật hình sự năm 1999 tiếp tục kế thừa, sửa đổi thành “tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 và bổ sung thêm “tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có” tại Điều 251 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, so với các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế và thực tế áp dụng các quy định này cho thấy còn bộc lộ những bất cập sau:

- Thứ nhất, theo Bộ luật hình sự năm 1999, chủ thể của tội phạm nói chung và tội rửa tiền nói riêng là những cá nhân đáp ứng các điều kiện luật định. Quy định này là không thích hợp với các khuyến nghị của FAFT và xu thế hội nhập quốc tế. Đồng thời, các quy định này đã không còn đáp ứng được thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và đối với tội phạm rửa tiền nói riêng. Bởi vì, trên thực tiễn những vụ phạm tội với thủ đoạn lợi dụng danh nghĩa pháp nhân không còn là cá biệt và đã trở thành tương đối phổ biến. Vì vậy, nếu pháp nhân không được coi là chủ thể của tội phạm tức là mọi hành vi rửa tiền của pháp nhân cho dù có nguy hiểm cho xã hội đến đâu cũng không được coi là tội phạm và không bị xử lí bằng các biện pháp nghiêm khắc nhất là hình phạt.

Thứ hai, theo quy định của tội rửa tiền thì người phạm tội phải biết rõ tiền, tài sản “do phạm tội mà có” tức là khi xử lý một người nào đó về tội rửa tiền thì phải chứng minh tội phạm cụ thể (tội phạm nguồn) đã thực hiện để có được tiền, tài sản đó. Quy định này đã vô tình bỏ lọt một lượng lớn tội phạm, bởi trên thực tế nhiều trường hợp không chứng minh được tội phạm đã thực hiện trước đó, có thể do tội phạm thực hiện ở nước ngoài, người phạm tội đã bị chết, hoặc tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng có thể khi hợp pháp hóa tiền, tài sản người phạm tội chỉ biết đó là tiền, tài sản bất minh chứ không thể nhận biết được đó là tiền, tài sản do phạm tội mà có. Để tăng cường đấu tranh, phòng ngừa tội rửa tiền và học tập kinh nghiệm lập pháp của một số nước, thì đa số các nhà nghiên cứu cho rằng: trong cấu thành tội phạm cơ bản không nhất thiết buộc người phạm tội phải nhận thức được tài sản do phạm tội mà có, mà chỉ cần họ biết tài sản đó có được là do thu nhập bất hợp pháp mà có và các cơ quan tư pháp chỉ cần chứng minh tài sản do thu nhập bất hợp pháp mà có chứ không buộc phải chứng minh là tài sản do phạm tội mà có[12].

Thứ ba, trong Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 có quy định ba tội danh riêng biệt, đó là tội che giấu tội phạm (Điều 313), tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 250), tội rửa tiền (Điều 251). Tuy nhiên, khi áp dụng gặp nhiều vướng mắc bất cập trong việc phân biệt ranh giới giữa tội rửa tiền với hai tội danh trên. Cụ thể, xét về hành vi khách quan thì đều là hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản có được do phạm tội, đối tượng tác động của tội phạm đều là tiền, tài sản bất hợp pháp. Xét về mặt cấu thành tội phạm hai tội phạm này chỉ khác nhau về mục đích phạm tội. Đối với tội rửa tiền, mục đích là nhằm hợp pháp hóa (tạo nguồn gốc sạch) cho đồng tiền, tài sản bất hợp pháp, còn đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, người phạm tội chỉ sử dụng, mua bán, trao đổi, dùng tài sản để thanh toán nợ nần, cầm cố, thế chấp, cũng có thể sử dụng vào việc kinh doanh để kiếm lợi nhuận nhưng không có mục đích hợp pháp hóa nguồn của tiền, tài sản đó. Do vậy, các cơ quan tố tụng cần phải chứng minh mục đích của người phạm tội để xác định tội danh chính xác. Tuy nhiên, để làm rõ được mục đích phạm tội là một vấn đề nan giải, nên trong nhiều trường hợp người phạm tội nhằm hợp pháp hóa tiền, tài sản đó nhưng khi bị bắt họ lại khai là vì hám lợi.

III. TỔ CHỨC BỘ MÁY PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN[13]

1. Đơn vị tình báo tài chính (FIU) - Cục Phòng, chống rửa tiền thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Theo Quyết định số 83/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và Quyết định số 1654/QĐ-NHNN ngày 14/7/2009 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Cục Phòng, chống rửa tiền thì chức năng, quyền hạn của Cục Phòng, chống rửa tiền đó là: làm đầu mối trong các hoạt động phòng, chống rửa tiền.

Tuy nhiên, so với những chuẩn mực quốc tế đặt ra cho một FIU thì Cục phòng, chống rửa tiền còn chưa đáp ứng được với những lý do: chưa có sự độc lập về tài chính, chưa có tính độc lập trong việc quyết định về nhân sự, chưa có sự độc lập trong việc thu thập thông tin, phân tích và chuyển giao các giao dịch có dấu hiệu rửa tiền và cũng chưa đáp ứng được những yêu cầu về kỹ thuật, về phương thức hoạt động. So với quy định tại Nghị định số 74/2005/NĐ-CP, chức năng, nhiệm vụ được giao cho Cục Phòng, chống rửa tiền không đảm bảo. Hơn nữa, phạm vi hoạt động của Cục Phòng, chống rửa tiền chỉ trong các giao dịch ngân hàng, do vậy chỉ kiểm soát được một kênh của rửa tiền, trong khi đó rửa tiền được thực hiện qua nhiều kênh, nhiều phương thức khác nhau. Do đó, trong thời gian tới cần có những nghiên cứu nhằm hoàn thiện và mở rộng phạm vi kiểm soát của Cục Phòng, chống rửa tiền cho phù hợp với những chuẩn mực quốc tế đặt ra cho một Đơn vị tình báo tài chính (FIU).

2. Tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền

Để đảm bảo tính khả thi của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP và đảm bảo sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Chính phủ, các Bộ, ban, ngành trong công tác phòng, chống rửa tiền, Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền được thành lập với các thành viên do Phó Thủ tướng Thường trực làm Trưởng Ban và lãnh đạo các cơ quan có liên quan.

3. Phòng, chống rửa tiền trong các cơ quan, bộ, ngành

Bên cạnh các cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng phòng, chống rửa tiền, Nghị định số 74/2005/NĐ-CP còn quy định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Điều 15) trách nhiệm của Bộ Công an (Điều 16), các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (Điều 17), tổ chức Thanh tra Bộ (Điều 18), của UBND các cấp (Điều 19).

4. Phòng, chống rửa tiền trong các định chế tài chính và các tổ chức, cá nhân kinh doanh chỉ định

Trên thực tế, chính sách phòng, chống rửa tiền hầu hết mới chỉ hoàn thiện ở các chi nhánh ngân hàng nước ngoài do được thực hiện theo chính sách chung của ngân hàng mẹ, hoặc tập đoàn trên toàn cầu. Đối với các ngân hàng trong nước, nội dung chính sách, quy trình nội bộ được quy định một cách chiếu lệ, đối phó với nội dung hầu như được sao chép từ Nghị định số 74/2005/NĐ-CP. Chỉ sau khi Thông tư số 22/2009/NHNN-TT ngày 17/11/2009 được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành nhằm hướng dẫn cho các tổ chức tín dụng thực hiện Nghị định số 74/2005/NĐ-CP thì các tổ chức tín dụng mới ban hành mới hoặc chỉnh sửa, bổ sung quy định nội bộ cho phù hợp hơn với tình hình mới. Mặc dù vậy, những quy định nội bộ của các định chế tài chính trong nước vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do chưa phản ánh được đặc điểm riêng của từng tổ chức cả về cơ cấu, cả về hoạt động.

Ở các định chế phi tài chính thuộc loại hình kinh doanh chỉ định khác, thì hoạt động phòng, chống rửa tiền còn gặp nhiều khó khăn và khó đảm bảo tính khả thi hơn. Ví dụ, trong lĩnh vực bất động sản, pháp luật quy định các tổ chức kinh doanh bất động sản phải bố trí cán bộ hoặc thành lập bộ phận chuyên trách chịu trách nhiệm về phòng, chống rửa tiền; thường xuyên rà soát thông tin về khách hàng, đặc biệt là các khách hàng đã có nghi vấn tiến hành rửa tiền hoặc khách hàng có tên trong danh sách cảnh báo của Bộ Công an và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền[14]. Tuy nhiên, theo một số ý kiến của các giám đốc sàn bất động sản lớn thì quy định này khó khả thi vì hiện nay rất nhiều giao dịch bất động sản không diễn ra tại sàn mà chủ yếu qua kênh ngầm. Mặt khác, họ cũng đặt ra câu hỏi “các sàn bất động sản khi lập bộ phận chuyên trách về phòng, chống rửa tiền thì họ được lợi gì, nếu không nói là nhiều khi còn làm mất khách”[15]...

Về việc đào tạo nhân viên của mình về công tác phòng, chống rửa tiền, các tổ chức tín dụng đã bước đầu lên kế hoạch đào tạo cho nhân viên các cấp của mình, tuy nhiên, việc đào tạo của các tổ chức vẫn chỉ dừng ở bước sơ đẳng nhất là tuyên truyền về pháp luật phòng, chống rửa tiền và giới thiệu một số dấu hiệu đáng ngờ của các giao dịch tài chính, ngân hàng. Việc đào tạo theo cấp bậc, theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ từng bộ phận, từng nhân viên, theo mức độ rủi ro của sản phẩm mà tổ chức tín dụng cung cấp cho khách hàng, theo mức độ rủi ro của từng loại khách hàng, từng địa điểm kinh doanh,... tức là đào tạo có sự phân tích, xem xét tới các khía cạnh trong chính hoạt động của mình thì các tổ chức tín dụng chưa làm được. Đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh chỉ định, thì việc đào tạo kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn trên từng lĩnh vực thì có, nhưng việc đào tạo về biện pháp phòng, chống rửa tiền thì chưa thực hiện được.

IV. HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN

1. Trợ giúp pháp lý đa phương

Pháp luật Việt Nam cũng như các Hiệp định tương trợ tư pháp song phương mà Việt Nam đã ký kết với các nước đã quy định một cách đầy đủ, rõ ràng về các nguyên tắc cũng như các thủ tục, trình tự thực hiện tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự. Các quy định này hoàn toàn phù hợp với nội dung các Khuyến nghị 36 và 37 của FATF (Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền). Tuy nhiên, riêng đối với Khuyến nghị 38 của FATF, nhóm nghiên cứu thấy rằng, pháp luật Việt Nam còn thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục phản hồi một cách nhanh chóng hơn đối với những yêu cầu trợ giúp pháp lý của các nước về nhận dạng, phong toả, niêm phong hay tịch thu tài sản hoặc công cụ thu được từ tội phạm rửa tiền hoặc các tội phạm nguồn của các tội phạm này.

2. Dẫn độ

Luật tương trợ tư pháp, Bộ luật tố tụng hình sự của Việt Nam và các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước đã quy định tương đối đầy đủ về dẫn độ phù hợp với các Khuyến nghị của FATF.

3. Các hình thức hợp tác quốc tế khác

Việt Nam đã có một số cơ sở pháp lý nhất định để hợp tác với các quốc gia trong lĩnh vực trao đổi thông tin nhằm phòng, chống tội phạm nói chung và tội rửa tiền nói riêng (Việt Nam đã ký Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia tại Lễ ký kết ở Palecmo, Italia và đang xem xét khả năng phê chuẩn Công ước này; Chính thức gia nhập 03 Công ước của Liên Hợp Quốc về phòng, chống ma tuý (các Công ước 1961, 1971 và 1988).

Việc hợp tác quốc tế trong trao đổi thông tin giữa các nước được Luật tương trợ tư pháp của Việt Nam điều chỉnh và thuộc phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và nước ngoài (Điều 17, 26, Luật tương trợ tư pháp; các hiệp định cũng như thoả thuận song phương đã ký với một số nước, thông qua các tổ chức INTERPOL và ASEANPOL; 14 Hiệp định về tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước; Hiệp định ký với Trung Quốc về hợp tác phòng, chống tội phạm và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; Hiệp định hợp tác phòng, chống tội phạm giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ Nội vụ Campuchia).

CHƯƠNG  3

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật phòng, chống rửa tiền

Việc ban hành Luật phòng, chống rửa tiền phải đảm bảo được các yêu cầu sau đây:

- Phải đảm bảo sự đồng bộ với các Luật khác có liên quan (nhất là Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật các tổ chức tín dụng, Luật tương trợ tư pháp...) và phải tham khảo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, các cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế (Công ước của Liên hợp quốc năm 1988 về chống vận chuyển trái phép ma túy và các chất hướng thần, Công ước của Liên hợp quốc về ngăn chặn tài trợ cho khủng bố năm 1999 và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palecmo).

- Cần xây dựng các cơ chế, biện pháp phòng, chống rửa tiền áp dụng đối với tất cả các tổ chức tài chính; cá nhân tổ chức kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bất động sản... để bảo đảm cơ chế đồng bộ, có hiệu quả trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi rửa tiền.

- Cần phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là các khuyến nghị của FATF, khuyến nghị của APG đánh giá về cơ chế phòng, chống rửa tiền của Việt Nam, nhưng phải bảo đảm chủ quyền quốc gia, không gây cản trở hoạt động kinh doanh hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 

- Cần quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng về các biện pháp phòng, chống rửa tiền, đặc biệt,  các biện pháp về nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng, báo cáo giao dịch đáng ngờ, lưu giữ thông tin[16]...

2. Sửa đổi Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền

Việc xây dựng các văn bản luật phải tuân theo các trình tự, thủ tục nhất định nên cần đầu tư nhiều thời gian và công sức. Vì vậy, trước hết cần nghiên cứu để trình Chính phủ cho chỉnh sửa, bổ sung Nghị định số 74/2005/NĐ-CP sẽ là bước cần thiết để đáp ứng được yêu cầu của FATF trong thời gian sớm nhất. Những nội dung cần bổ sung chỉnh sửa sẽ bao gồm:

(1) Cân nhắc đưa kế toán viên, kiểm toán viên, công chứng viên vào danh sách các đối tượng chịu sự điều chỉnh của Nghị định. Với quy định này sẽ buộc những đối tượng trên phải báo cáo khi họ thực hiện giao dịch thay cho khách hàng.

(2) Cân nhắc điều chỉnh và thống nhất mức giao dịch tiền mặt phải báo cáo, không phân biệt giao dịch tiết kiệm hay thông thường. FATF khuyến cáo mức giá trị phải báo cáo chung đến nay khoảng 15.000 đô-la (tức là khoảng 300 triệu đồng Việt Nam).

(3) Bổ sung các quy định nhận dạng đối với những người có ảnh hưởng về chính trị. Trước kia, các quốc gia chỉ quy định các định chế tài chính phải có quy trình nhận dạng chặt chẽ hơn đối với những người có ảnh hưởng về chính trị nước ngoài, nhưng những năm gần đây, FATF có đề cập tới việc các định chế tài chính phải nhận dạng chặt chẽ hơn ngay cả đối với những người có ảnh hưởng về chính trị trong nước. Việc này bao gồm cả nhận dạng những người thân trong gia đình những người có ảnh hưởng về chính trị. Thông thường, các quốc gia công bố danh sách những người có ảnh hưởng về chính trị của các nước khác và những người có ảnh hưởng về chính trị trong nước trợ giúp cho các định chế tài chính có căn cứ thực hiện.

(4) Bổ sung các quy định về việc nhận dạng đối với chủ sở hữu hưởng lợi đằng sau các pháp nhân và các thoả thuận pháp lý. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn khi vẫn còn tồn tại những bất cập trong công tác quản lý, cấp phép cùng với những khó khăn trong việc xác định tính pháp lý của các chứng từ giao dịch. Tuy nhiên, việc nhận dạng các chủ sở hữu hưởng lợi đằng sau các giao dịch, các pháp nhân và các thoả thuận pháp lý là hết sức cần thiết cho việc làm minh bạch hoá các giao dịch tài chính tại Việt Nam.

(5) Đối với pháp luật xử lý hành chính: theo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, Nghị định số 74/2005/NĐ-CP và pháp luật chuyên ngành, mức xử phạt vi phạm hành chính là rất thấp, mức tối đa là 70.000.000 đồng. Do đó, không phát huy được tác dụng răn đe đối với kẻ phạm tội. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu nâng mức tối đa xử phạt vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến phòng, chống rửa tiền nói riêng. Đặc biệt ở Việt Nam trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là Nghị định số 74/2005/NĐ-CP mới chỉ quy định xử lý vi phạm hành chính đối với bên tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng tẩy rửa tiền mà chưa có quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với người mang tiền, tài sản bất hợp pháp đi tẩy rửa. Bởi vậy, cần phải nghiên cứu và bổ sung ngay hình thức xử lý này nhằm nâng cao hiệu quả phòng, ngừa rửa tiền. Xem xét các điều khoản trong Bộ luật hình sự, nhiều điều khoản có quy định hình thức phạt bổ sung như: phạt tiền khi không phải là hình phạt chính; tịch thu tài sản. Nhưng những hình phạt này gần như không được áp dụng trong thực tiễn. Thực tế cho thấy, việc truy tìm tận gốc tài sản phạm tội như một tang vật của vụ án để tịch thu không ngăn chặn được những hành vi phạm tội một cách triệt để do các khoản tiền bất hợp pháp vẫn được tồn tại dưới các hình thức khác nhau, mà người ta không chứng minh được mối liên hệ của khối tài sản bất hợp pháp với những hành vi phạm tội. Trong khi các quốc gia có thể sử dụng biện pháp tịch thu dân sự (tức là không cần xử vụ án hình sự về tội phạm nguồn trước đó) để tịch thu tiền, tài sản bất hợp pháp thì ở Việt Nam có thể áp dụng các hình thức phạt bổ sung cho phù hợp. Tuy nhiên, mức phạt cần phải được xem xét. Việc này đòi hỏi phải chỉnh sửa cả một hệt thống văn bản liên quan tới việc xử phạt vi phạm hành chính, mà trước hết là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Phương án dự phòng là có thể xem xét, tính đến tính đặc thù của ngành tài chính, ngân hàng cũng như trong công tác phòng, chống rửa tiền để xác định được những mức phạt hợp lý.

3. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự

Một là, nghiên cứu, sửa đổi Điều 41 Bộ luật hình sự để cho phép tịch thu không chỉ tiền, tài sản do phạm tội, hoặc do mua bán, đổi chác tài sản do phạm tội mà có, mà bất cứ tiền, tài sản nào là kết quả của rửa tiền. Trong trường hợp tài sản do phạm tội mà có đã bị tiêu huỷ hoặc vì một lý do nào đó không thu hồi được thì cho phép tịch thu tiền hoặc tài sản có giá trị tương đương.

Hai là, tiếp tục nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự của tổ chức (pháp nhân) nói chung, trong đó có trách nhiệm hình sự của tổ chức (pháp nhân) đối với tội phạm rửa tiền trong quá trình hoàn thiện Bộ luật hình sự.

Cùng với việc hoàn thiện Bộ luật hình sự thì cần nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến vấn đề chứng cứ, thu giữ, khám xét, xử lý vật chứng,... để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chứng minh tội phạm rửa tiền cũng như truy tìm, thu giữ tiền, tài sản là kết quả của rửa tiền.

4. Sửa đổi chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của cơ quan chức năng về phòng, chống rửa tiền

4.1. Đối với hoạt động của Cục Phòng, chống rửa tiền. Trước mắt, cần giữ nguyên tính hiệu lực của Quyết định thành lập Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền với tư cách là một đơn vị độc lập thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với phương án này, sẽ không cần một sự thay đổi nào đối với Nghị định số 74/2005/NĐ-CP của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền, đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của FIU.

4.2. Cần nghiên cứu, điều chỉnh các văn bản pháp luật hành chính liên quan về tổ chức và hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm cả Ngân hàng Nhà nước với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, để đảm bảo những cơ quan này có đủ chức năng, quyền hạn trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền. Pháp luật Việt Nam đã có bước tiến đáng kể khi giao nhiệm vụ thanh tra, giám sát cho các Bộ, ngành (Điều 17 Nghị  định số 74/2005/NĐ-CP). Tuy nhiên, trong các văn bản khác quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý lại không hề có quy định cụ thể về chức năng này. 

Xuất phát từ thực tiễn này, nhóm nghiên cứu đề xuất:

- Bổ sung vào các văn bản quy phạm hiện hành, mà trước mắt là Điều 14 của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP, sau này là Luật về phòng, chống rửa tiền quyền lực, chứ không phải là chức năng hay nhiệm vụ, kiểm tra (không phải thanh tra) đối với các định chế tài chính cho FIU để đảm bảo quyền lực của cơ quan này khi cần thiết phải phản ứng nhanh với yêu cầu của các cấp và trong mối quan hệ quốc tế trong những trường hợp, vụ việc cụ thể.

- Chỉnh sửa quy định tại khoản 3 Điều 18 Nghị định số 74/2005/NĐ-CP theo hướng: các tổ chức thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm thanh tra tuân thủ về phòng, chống rửa tiền và phải gửi một bản biên bản kết luận thanh tra, nếu như trong cuộc thanh tra đó có nội dung thanh tra về hoạt động phòng, chống rửa tiền tại các định chế tài chính.

- Bổ sung vào các văn bản (Nghị định, Quyết định) quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra, bao gồm cả các cơ quan thanh tra hành chính tại các tỉnh, thành phố về thanh tra tuân thủ pháp luật về chống rửa tiền. Thực tế, Luật thanh tra đã nêu rõ: các cơ quan thanh tra có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật nói chung nên trong các văn bản quy phạm khác, không cần nhắc tới điều này. Tuy nhiên, theo tập quán pháp luật Việt Nam (trong giai đoạn mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế), những nội dung này cần được nhắc lại cụ thể trong các văn bản quy phạm dưới luật và các văn bản áp dụng pháp luật khác.

- Đẩy mạnh cơ chế xử lý hành chính đối với các cơ quan chức năng nếu không làm hết trách nhiệm của mình, nhất là trong việc không hướng dẫn các định chế tài chính thực hiện các quy định của pháp luật một cách kịp thời hoặc không thanh tra, kiểm tra, không xử lý khi các định chế không tuân thủ các quy định của pháp luật.

4.3. Cần phải rà soát một cách đồng bộ các quy định hiện hành so với các chuẩn mực quốc tế trong việc giao quyền và thực hiện quyền của các cơ quan thi hành pháp luật.  Nhóm nghiên cứu đề xuất:

- Cần phải thể chế hoá cụ thể trong các văn bản dưới luật, trong các văn bản hướng dẫn nội bộ sao cho đảm bảo việc thực hiện được nhanh chóng, hiệu quả. Bên cạnh đó, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ (dưới hình thức văn bản quy phạm) để những quyền này không bị lạm dụng hoặc bị bỏ qua khi cần áp dụng.

- Cần gấp rút nghiên cứu để có văn bản hướng dẫn chung cho các cơ quan hành pháp, cơ quan công tố và cơ quan tư pháp trong việc áp dụng các điều khoản về rửa tiền trong quá tình điều tra, truy tố, xét xử. Việc này liên hệ mật thiết với quá trình mở rộng điều tra tội phạm rửa tiền sau khi đã điều tra tội phạm nguồn hoặc theo hướng chỉ điều tra tội phạm rửa tiền mà không cần hoặc chưa thể đủ chứng cứ truy tố, xét xử tội phạm nguồn, truy tìm tài sản và tịch thu dân sự.

5. Cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Luật tương trợ tư pháp liên quan đến cơ chế phản hồi thông tin trong hợp tác quốc tế về việc xác định, phong tỏa, tạm giữ và tịch thu tiền, tài sản bị rửa, đồng thời, tiếp tục đàm phán, ký kết thêm các Hiệp định về tương trợ tư pháp cũng như dẫn độ với các nước để thực hiện tương trợ tư pháp nói chung và phong tỏa, tạm giữ, tịch thu tiền, tài sản bị đem rửa nói riêng, đồng thời, trong các Hiệp định đó cần quy định rõ ràng, cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện yêu cầu dẫn độ của nước ngoài để tạo sự thống nhất trong việc thực hiện dẫn độ theo quy định của Luật tương trợ tư pháp.

6. Bên cạnh việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản nêu trên thì cũng cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể việc áp dụng biện pháp tịch thu tài sản, trong đó hướng dẫn cụ thể việc tịch thu tài sản trong trường hợp tài sản đó đã bị nhập chung vào khối tài sản có nguồn gốc hợp pháp cũng như về đối tượng người thụ hưởng của các giao dịch tài chính để thuận lợi cho các định chế tài chính trong việc nhận dạng các đối tượng này./.



[1] Điển hình như vụ Nguyễn Đức Chi đầu tư vào các dự án tại Khánh Hòa thông qua Công ty Russaka - Invest để rửa tiền từ hoạt động phạm tội tại Nga, lợi dụng danh nghĩa công ty để lừa đảo, đưa hối lộ; Vụ Lê Thị Mai đầu tư tiền từ hoạt động ma túy vào các dự án của Công ty Viet Can Resorts & Plannation; Vụ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã nhận được email từ một số doanh nhân Nigeria yêu cầu mở tài khoản 28 triệu USD, hứa hẹn sẽ chi lại 15% tổng số tiền… Tháng 10-2008, Cảnh sát Việt Nam phát hiện bọn tội phạm đánh cắp tiền từ tài khoản nước ngoài rồi chuyển vào Việt Nam thông qua tài khoản tại hai ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa - Vũng Tàu tổng giá trị quy đổi là 7,44 tỷ đồng. Lực lượng công an đã bắt giữ hai đối tượng người Mozambique…

[2] Điển hình như các vụ án Trịnh Nguyên Thuỷ, vụ án Năm Cam và đồng bọn…

[3] Quyết định số 470/QĐ-TTg ngày 13/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền

[4] PGS.TS Nguyễn Hoà Bình: Đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền ở Việt Nam. Nxb Công an nhân dân-2004, tr 47. Tập huấn về đấu tranh phòng, chống tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có. Tlđd, tr 17.

[5] Những chiêu thức kiếm tiền và “rửa tiền” ở Trung Quốc. Tlđd. Chú thích 4.

[6] Kim loại quý hiếm như: vàng, bạc, kim cương, đá quý…

[7] Khu vực: Châu Mỹ La Tinh, Vùng Tam giác vàng…

[8] “Rửa tiền” và toàn cầu hóa. Xem http://www.viet-studies.info/THDung/RuaTien_THDung.htm

[9] Xem “Nội dung cơ bản của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các Nghị định thư bổ sung Công ước”.

http://biengioilanhtho.gov.vn/vie/noidungcobancuacong-nd-d4ed200e.aspx.

UNITED Nations convention against transnational organized crime and the protocols thereto. United Nations New York, 2004.

[10] Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005; Bộ luật hình sự năm 1999; Luật cán bộ, công chức năm 2008; Luật viên chức năm 2010...

[11] Thanh toán không dùng tiền mặt - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp.

http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/10/21/3994-2/

[12] Xem TS. Lê Đăng Doanh, Trần Thị Hồng Nhạn, Tlđd, trang 4

[13] Nguyễn Thị Thuý Ngọc, Cục Phòng, chống rửa tiền. Chuyên đề: “Thực tiễn áp dụng quy định Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền và những vấn đề pháp lý đặt ra để tăng cường hoạt động phòng, chống rửa tiền và những vấn dề pháp lý đặt ra để tăng cường hoạt động phòng, chông rửa tiền trong giai đoạn hiện nay”

[14] Thông tư số 12/2011/TT-BXD ngày 01/9/2011 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền đối với hoạt động kinh doanh bất động sản

[15] Theo Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, các sàn giao dịch, công ty địa ốc cũng có những lợi ích riêng nên chưa hẳn họ sẽ tuân thủ nghiêm việc báo cáo, phát hiện trong phòng, chống rửa tiền qua bất động sản. Do đó, cơ quan chức năng phải chủ động thu thập thông tin để phát hiện các giao dịch có dấu hiệu rửa tiền, điều tra nguồn gốc tiền, không nên trông chờ quá nhiều từ các sàn giao dịch bất động sản hay các công ty địa ốc.

[16] Luật phòng, chống rửa tiền đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012.

 

Nội dung toàn văn
File đính kèm downloadTải về