• Thuộc tính
Tên đề tài Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
Nội dung tóm tắt
Ở Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền tư pháp là một trong ba quyền hợp thành quyền lực nhà nước, được hiểu là hoạt động xét xử của các Toà án và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của Toà án. Hệ thống tư pháp ở Việt Nam hiện nay được hiểu bao gồm Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (như luật sư, công chứng, giám định tư pháp, tư vấn pháp luật ...).
Được thiết lập và hoạt động theo những nguyên tắc dân chủ của một nền tư pháp nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, hệ thống tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong phạm vi, chức năng và nhiệm vụ của mình, các cơ quan tư pháp đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và củng cố chính quyền Cách mạng của nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN, pháp chế XHCN và quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi bộ máy nhà nước trong đó có hệ thống tư pháp phải được đổi mới. Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã có nhiều Nghị quyết về hoàn thiện nhà nước và pháp luật, trong đó có một số nghị quyết về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa VII); Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII), Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa VIII); Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; và gần đầy, ngày 2 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49 – NQ/TW "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Theo đó, vấn đề đổi mới, cải cách hệ thống cơ quan tư pháp đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, thực hiện chủ trương của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Thể chế hoá chủ trương của Đảng, trong 20 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp. Nhờ đó, tư pháp Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được củng cố và phát triển từng bước đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. "Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”.
Cùng với những hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Cụ thể:
- Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng về số vụ, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn tội phạm tinh vi, có tổ chức chặt chẽ và nguy hiểm hơn. Tội phạm tham nhũng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên và người nước ngoài chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Loại tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm trong lĩnh vực tin học… diễn biến phức tạp và có xu hướng ngày càng gia tăng.
- Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, và các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp hơn.
- Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao. Việc xử lý tội phạm, giải quyết các khiếu kiện, bảo vệ quyền công dân phải được thực hiện có hiệu quả, kịp thời, nghiêm minh, bảo đảm công lý. Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.
- Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội của đất nước cũng đặt ra yêu cầu phải đề ra những nội dung cải cách tư pháp sao cho phù hợp, thống nhất, đồng bộ với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách hành chính.
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, việc nghiên cứu thực hiện đề tài KX 04-06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân" là rất cần thiết. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án phù hợp với quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả.
Mục tiêu tổng quát của đề tài KX.04.06 là xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực và hiệu quả xét xử của tòa án phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Cơ sở phương pháp luận thực hiện đề tài là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cơ bản mà đề tài sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh luật học...
Cách tiếp cận của Ban chủ nhiệm đề tài là cách tiếp cận tổng thể: đặt mỗi cơ quan trong một tổng thể các cơ quan tư pháp có mối quan hệ tương tác lẫn nhau và đặt hệ thống các cơ quan tư pháp trong mối tương quan với hệ thống các cơ quan lập pháp và hành pháp.
- Làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn khái niệm, vị trí, vai trò, bản chất, đặc trưng của các cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước;
- Đánh giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp;
- Nêu ra phương hướng cải cách các cơ quan tư pháp; xác định mô hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp theo các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

 

Nội dung toàn văn

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền tư pháp là một trong ba quyền hợp thành quyền lực nhà nước, được hiểu là hoạt động xét xử của các Toà án và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của Toà án.  Hệ thống tư pháp ở Việt Nam hiện nay được hiểu bao gồm Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (như luật sư, công chứng, giám định tư pháp, tư vấn pháp luật ...).

Được thiết lập và hoạt động theo những nguyên tắc dân chủ của một nền tư pháp nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, hệ thống tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong phạm vi, chức năng và nhiệm vụ của mình, các cơ quan tư pháp đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và củng cố chính quyền Cách mạng của nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN, pháp chế XHCN và quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Từ những năm 80 của thế kỷ XX, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi bộ máy nhà nước trong đó có hệ thống tư pháp phải được đổi mới. Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã có nhiều Nghị quyết về hoàn thiện nhà nước và pháp luật, trong đó có một số nghị quyết về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa VII); Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII), Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa VIII); Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; và gần đầy, ngày 2 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49 – NQ/TW "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Theo đó, vấn đề đổi mới, cải cách hệ thống cơ quan tư pháp đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, thực hiện chủ trương của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Thể chế hoá chủ trương của Đảng, trong 20 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp. Nhờ đó, tư pháp Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được củng cố và phát triển từng bước đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.

Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. "Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”.

            Cùng với những hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Cụ thể:

- Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng về số vụ, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn tội phạm tinh vi, có tổ chức chặt chẽ và nguy hiểm hơn. Tội phạm tham nhũng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên và người nước ngoài chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Loại tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm trong lĩnh vực tin học… diễn biến phức tạp và có xu hướng ngày càng gia tăng.

- Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, và các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp hơn.

- Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao. Việc xử lý tội phạm, giải quyết các khiếu kiện, bảo vệ quyền công dân phải được thực hiện có hiệu quả, kịp thời, nghiêm minh, bảo đảm công lý. Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.

- Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội của đất nước cũng đặt ra yêu cầu phải đề ra những nội dung cải cách tư pháp sao cho phù hợp, thống nhất, đồng bộ với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách hành chính.

Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, việc nghiên cứu thực hiện đề tài KX 04-06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân" là rất cần thiết. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án phù hợp với quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả.

2. Tình hình nghiên cứu

2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước

Nhằm góp phần hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, thời gian qua các cơ quan chức năng như Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an... đã có nhiều chương trình trao đổi và hợp tác với các cơ quan của các nước Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada...và các tổ chức quốc tế như WB, ACB, UNDP, SIDA, JICA... về hoạt động tư pháp. Trong đó có nhiều Hội nghị, Hội thảo, Toạ đàm, khảo sát thực tế... trong và ngoài nước đã cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp các nước và một số hạn chế các công trình, kết quả nghiên cứu của các học giả nước ngoài về cải cách tư pháp như: Phương hướng cải cách tư pháp của một số nước của tác giả Lưu Lập Hiến, Tạ Bằng Toàn (Trung Quốc); Quyền tư pháp trong hệ thống phân chia quyền lực - A.P. Phô-côv; Từ việc hình thành hệ thống tư pháp tới việc cải cách tư pháp - X.Vư-sin-xki; Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền - G.I.Ni-ki-phi-ô-rốp (Nga); Hệ thống tư pháp hình sự Italia, Vai trò công tố viên trong hệ thống tư pháp hình sự Hoa Kỳ, Quyền tư pháp ở Cộng hoà Belarus - thực trạng và triển vọng phát triển...

Đây là những tư liệu, thông tin bổ ích giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về hệ thống tư pháp các nước trên thế giới để tham khảo khi xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

 

2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Những định hướng lớn về cải cách tư pháp nói riêng và cải cách bộ máy nhà nước nói chung liên tục được đề cập qua các kỳ Đại hội Đảng VI, VII, VIII và IX là nền tảng tư tưởng cho công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp. Những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp dưới các góc độ khác nhau, điển hình là các đề tài khoa học cấp nhà nước: "Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp ở nước ta gắn với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN" - 1993; "Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam" - 1992; "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của thi hành án Việt Nam trong giai đoạn mới" - 2000; các đề tài khoa học cấp bộ như: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân" - 1990; "Xây dựng mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án" - 1996; "Hoàn thiện chế định hội thẩm nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp" - 1998; "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xã hội hoá một số hoạt động của cơ quan tư pháp" - 1998, v.v. Ngoài ra, còn có một số công trình khoa học liên quan trực tiếp đến cải cách tư pháp như: "Tổng hợp các kiến nghị khoa học góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp" - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý 2000; "Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới" - GS.TSKH. Đào Trí Úc; "Bình luận khoa học Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam", v.v.

Các công trình khoa học này đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp, đáp ứng những yêu cầu bức xúc của cuộc sống. Trong số đó, có nhiều kiến giải, luận điểm khoa học đã được vận dụng vào thực tiễn.

Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên chưa giải quyết một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Thực tế cũng cho thấy, cải cách tư pháp ở nước ta mặc dù đã được các kỳ Đại hội Đảng trong giai đoạn đổi mới (1986 đến nay) luôn đề cập nhưng so với cải cách trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp thì vẫn đang còn rất chậm, kết quả đạt được còn hạn chế, nhiều vấn đề mặc dù đã được Nghị quyết Đảng chỉ rất rõ nhưng đến nay vẫn chưa được thể chế hoá thành pháp luật. Tình hình này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân là do nhiều vấn đề về mặt lý luận về cải cách tư pháp chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy, việc Bộ Khoa học và công nghệ cho triển khai nghiên cứu đề tài "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân" là cần thiết, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài

Mục tiêu tổng quát của đề tài KX.04.06 là xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực và hiệu quả xét xử của tòa án phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

            Để thực hiện được mục tiêu này, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ:

            - Làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn khái niệm, vị trí, vai trò, bản chất, đặc trưng của các cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước;

            - Đánh giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp;

            - Nêu ra phương hướng cải cách các cơ quan tư pháp; xác định mô hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp theo các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Đề tài

Cơ sở phương pháp luận thực hiện đề tài là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật.

Các phương pháp nghiên cứu cơ bản mà đề tài sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh luật học...

Cách tiếp cận của Ban chủ nhiệm đề tài là cách tiếp cận tổng thể: đặt mỗi cơ quan trong một tổng thể các cơ quan tư pháp có mối quan hệ tương tác lẫn nhau và đặt hệ thống các cơ quan tư pháp trong mối tương quan với hệ thống các cơ quan lập pháp và hành pháp.

5. Quá trình triển khai Đề tài

Đề tài KX 04 – 06 đã được triển khai nghiên cứu từ tháng 10/2001, thời gian thực hiện Đề tài là 36 tháng. Cho đến nay, Đề tài đã thực hiện được tất cả các hạng mục công việc được xác định tại Đề cương và Hợp đồng nghiên cứu của Đề tài. Cụ thể là:

- Đã xây dựng được hệ thống tài liệu cho các hoạt động nghiên cứu của Đề tài.

- Tổ chức thành công 6 cuộc Hội thảo khoa học lớn tại Hà Nội và nhiều cuộc toạ đàm khác tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đăklăc, Quảng Bình.

- Tiến hành điều tra, khảo sát thực tiễn ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đăklăc. Điều tra xã hội học theo bảng hỏi và phiếu phỏng vấn sâu.

- Đề tài đã triển khai nghiên cứu hoàn thành 29 chuyên đề nghiên cứu thuộc 5 nội dung được xác định trong Đề cương và 15 chuyên đề nghiên cứu độc lập.

Đề tài đã được thực hiện với sự tham gia của các nhà khoa học và những người làm công tác thực tiễn ở: Bộ Tư pháp; Bộ Công an, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; Toà án Nhân dân Tối cao; Trường Đại học Luật Hà Nội; các Sở Tư pháp Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đăklăc; Học viện Tư pháp.

6. Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu của Đề tài

Thứ nhất, đề tài là công trình chuyên khảo, nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận, chính trị, pháp lý và thực tiễn về cải cách tư pháp ở Việt Nam mà từ trước đến nay chưa được giải quyết triệt để, đề tài đã khái quát được bức tranh toàn cảnh của hệ thống tư pháp; luận giải được cơ sở lý luận và quá trình hình thành quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp từ 1986 đến nay; xác định yêu cầu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có căn cứ khoa học, có tính khả thi, phù hợp với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

Thứ hai, làm rõ và chính xác hơn những nội dung thuộc về nguyên tắc, định chế tư pháp đã được đề cập trước đây, trong đó làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn của nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án, vấn đề tranh tụng trong tố tụng; hiệu quả xét xử của toà án, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp.

Thứ ba, nêu ra được các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong nhà nước pháp quyền, bảo đảm cho một nền tư pháp dân chủ, công khai, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, bảo đảm công lý của chế độ xã hội chủ nghĩa

Thứ tư, đề tài đã đưa ra thiết kế mô hình tổ chức của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp: Toà án, Viện Kiểm sát, cơ quan điều tra, thi hành án, các tổ chức luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp, công chứng... theo các đòi hỏi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với những lộ trình thích hợp từ nay đến năm 2020.

7. Cơ cấu Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu gồm 3 Chương

Chương I: Quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Chương II: Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp thời kỳ đổi mới (từ Đại hội VI đến Đại hội IX)

Chương III. Cải cách t­­ư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

 

CHƯƠNG I

QUYỀN TƯ PHÁP VÀ VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

 

I. QUYỀN TƯ PHÁP THEO QUAN ĐIỂM TỔ CHỨC, THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Tư pháp từ góc độ ngữ nghĩa Hán – Việt, được hiểu là trông coi, bảo vệ pháp luật. Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh giải thích tư pháp là pháp đình y theo pháp luật mà xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật. Tư pháp, dịch từ thuật ngữ Justice có hai nghĩa – theo nghĩa hẹp, tư pháp là xét xử; theo nghĩa rộng, từ góc độ triết lý, tư pháp được coi là ý tưởng cao đẹp về một nền công lý. Từ góc độ tổ chức quyền lực nhà nước, theo học thuyết phân chia quyền lực khá phổ biến ở các nhà nước tư sản, tư pháp là một nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền hành pháp và đồng nghĩa với quyền xét xử (tài phán) do toà án thực hiện. Trong khi đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và hiện nay, trong đó có Việt Nam, quyền tư pháp thường được giao cho các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện.

1. Quyền tư pháp trong tổ chức, phân công lao động quyền lực nhà nước

Lập pháp, hành pháp, tư pháp với tính cách là những phương thức thực thi quyền lực nhà nước là kết quả của sự phân công nội bộ ở từng khâu đoạn của quy trình lao động quyền lực nhà nước. Sự định hình lao động lập pháp, hành pháp, tư pháp không phải là sản phẩm chủ quan, duy ý chí của con người mà bắt nguồn từ đặc trưng, tính khác biệt trong sự vận hành của quyền lực nhà nước ở các khâu đoạn khác nhau. Nếu như lập pháp là chức năng xã hội - chính trị đặc thù của Nhà nước nhằm thể chế hoá nhu cầu xã hội thành các quy tắc xử sự có tính quy phạm, khuôn mẫu, phù hợp với ý chí của chủ thể cầm quyền, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội, thì hành pháp là một phương diện hoạt động khác của Nhà nước, đó là tổ chức thi hành, thực hiện pháp luật. Đặc trưng của hành pháp là thừa hành, căn cứ vào pháp luật để tổ chức thi hành pháp luật trên quy mô toàn xã hội. Còn tư pháp có chức năng bảo vệ pháp luật, với phương thức đặc thù thực hiện chức năng này là tài phán, là đưa các hành vi, tranh chấp pháp lý liên quan đến những con người nhất định áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu, làm sáng tỏ mối tương quan giữa cái cá biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái khuôn chung là quy phạm pháp luật để đánh giá, phán xét tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi, tranh chấp, từ đó đi đến một phán quyết có tính bắt buộc đối với mọi người mà trước hết, đối với những người liên quan. Bằng việc các quyết định, bản án nhân danh Nhà nước được tuyên bố và được thi hành, các giá trị pháp luật bị vi phạm sẽ được khẳng định lại, công lý được duy trì, sự công bằng, lẽ phải của pháp luật được bảo vệ.

2. Thực hiện quyền tư pháp và hệ thống tư pháp

2.1. Thực hiện quyền tư pháp

Việc thực hiện quyền tư pháp có các đặc trưng sau:

Thứ nhất, thực hiện quyền tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật để ra các phán quyết (xét xử) về các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp của các cá nhân, tổ chức.

 Liên quan tới đặc trưng này có 2 vấn đề cần lưu ý, một là, thực hiện quyền tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật để bảo vệ pháp luật; hai là việc thực hiện quyền tư pháp thể hiện chức năng chuyên trách bảo vệ pháp luật của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật được thành lập để thực hiện từng chức năng cụ thể trong quy trình vận hành của quyền tư pháp nên thường được gọi là cơ quan tư pháp. Tính chuyên trách bảo vệ pháp luật, do vậy, là dấu hiệu quan trọng để phân biệt một cơ quan, thiết chế thực hiện quyền tư pháp với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.

Thứ hai, là một bộ phận của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội, quyền tư pháp được thực hiện khi có vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý cần đến sự phán quyết của Nhà nước. Tuy nhiên, không phải mọi vi phạm pháp luật, mọi tranh chấp pháp lý đều phải được phán quyết bởi quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Chỉ những vi phạm pháp luật nghiêm trọng, những tranh chấp mà các bên không tự thương lượng, hoà giải được, đặc biệt là những vi phạm, tranh chấp trong đó có một bên là cơ quan nhà nước mới cần đến sự phán quyết của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Thứ ba, quyền tư pháp được thực hiện bằng nhiều hoạt động độc lập của nhiều cơ quan, tổ chức, diễn ra liên tục theo một quy trình chặt chẽ, tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục nghiêm ngặt dựa trên phương thức đặc thù là tài phán, phục vụ hoạt động trung tâm là xét xử của toà án.

Từ các đặc trưng nói trên có thể thấy các yếu tố hợp thành quá trình thực hiện quyền tư pháp bao gồm pháp luật (luật nội dung, luật tố tụng, luật tổ chức các cơ quan tư pháp); các thiết chế và những con người tham gia thực hiện quyền tư pháp; các thủ tục thực hiện quyền tư pháp.

Tổng hợp của các yếu tố, các nguyên tắc, pháp luật, thiết chế, con người, các hoạt động, quy trình, thủ tục tạo nên sự vận hành của quyền tư pháp trong xã hội.

2.2. Hệ thống tư pháp, các cơ quan tư pháp.

Hiến pháp năm 1946 và các văn bản pháp luật ban hành trong giai đoạn 1946-1959 sử dụng thuật ngữ cơ quan tư pháp để chỉ các toà án.

Tuy nhiên, trong thời gian này, hoạt động của toà án không chỉ là hoạt động xét xử (do thẩm phán xét xử - thực hiện) mà còn gồm hoạt động điều tra và hoạt động công tố do công tố viên thuộc toà án thực hiện.

Nhưng từ khi có Hiến pháp năm 1959, khái niệm cơ quan tư pháp không còn được sử dụng trong các văn bản pháp luật của Nhà nước với ý nghĩa là toà án nữa vì lúc này đã thành lập Viện Công tố trung ương và Toà án tối cao tách khỏi Chính phủ trực thuộc Quốc hội. Từ năm 1981, Bộ Tư pháp được thành lập lại từ trung ương đến các địa phương (Bộ Tư pháp, Sở, Phòng Tư pháp...) nhưng đó là các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp làm chức năng quản lý nhà nước về công tác tư pháp. Khi Đảng ta đưa ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khái niệm quyền tư pháp đã được chính thức khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nhằm thể chế hoá quan điểm của Đảng về tổ chức quyền lực nhà nước “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước xác định rõ các cơ quan thực hiện quyền tư pháp là những cơ quan nào. Còn trong các nghị quyết của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các khái niệm “cơ quan bảo vệ pháp luật” và “cơ quan tư pháp” dường như có thể được dùng thay thế nhau và có phạm vi khá rộng. Cách tiếp cận và sử dụng thuật ngữ “các cơ quan tư pháp” trong các nghị quyết của Đảng thường theo cách liệt kê, ví dụ theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các cơ quan tư pháp được đề cập đến gồm: Cơ quan điều tra; Các Viện kiểm sát nhân dân; Các toà án nhân dân; Cơ quan thi hành án hình sự, dân sự; Cảnh sát tư pháp; Các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (các tổ chức luật sư, giám định tư pháp, cơ quan công chứng, ...).

Điều chung nhất có thể thấy là thuật ngữ các cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay đang được dùng theo nghĩa rộng: ngoài toà án và viện kiểm sát được xếp ở một chương riêng của Hiến pháp còn có những cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành pháp (cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án (hình sự và dân sự), công chứng, giám định tư pháp...), một số tổ chức xã hội - nghề nghiệp nằm ngoài hệ thống quyền lực nhà nước như tổ chức Luật sư.

 Về khái niệm hệ thống tư pháp, Đề tài độc lập cấp nhà nước về Cải cách tư pháp (Mã số 92-98-353) cho rằng hệ thống tư pháp bao gồm các cơ quan, thiết chế (pháp luật) thực hiện chức năng chủ yếu là duy trì và bảo vệ công lý bằng các biện pháp và thủ tục đặc thù dựa trên nguyên tắc tài phán công bằng, công khai. cụ thể gồm cơ quan tài phán (toà án) và các cơ quan khác có chức năng chủ yếu là phục vụ trực tiếp cho hoạt động tài phán. Còn GS. TSKH Đào Trí Úc lại tiếp cận hệ thống tư pháp từ 3 góc độ: là một hệ thống thuộc hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội; là hệ thống các khâu tố tụng dẫn đến xét xử và phán quyết của toà án; là một hệ thống của quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước. Từ góc độ nghiên cứu hệ thống đó, tác giả đã phân tích các mối liên hệ bên ngoài (giữa hệ thống tư pháp với các quá trình kinh tế- xã hội, với đối tượng tác động của chính hệ thống tư pháp là tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm) và các mối liên hệ bên trong giữa các bộ phận hợp thành của hệ thống tư pháp. Theo tác giả, giữa các khâu, các chức năng của hệ thống tư pháp phải có sự phân định và độc lập tương đối đồng thời phải có sự tương tác giữa các khâu vì một mục đích chung và nhằm vào một chức năng trung tâm, khâu trung tâm đó là khâu xét xử của toà án.

Như vậy, cho dù cách tiếp cận khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng hệ thống tư pháp bao gồm các thiết chế - toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, tổ chức luật sư, công chứng, giám định tư pháp và các chức danh tư pháp, trong đó, toà án là cơ quan xét xử giữ vị trí trung tâm.

Hệ thống tư pháp theo quan điểm thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật của quyền tư pháp

Các thiết chế trong hệ thống tư pháp bao gồm:

- Các cơ quan nhà nước có chức năng chuyên trách bảo vệ pháp luật, trực tiếp tham gia thực hiện quyền tư pháp, gồm: cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án và cơ quan thi hành án.

- Các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, đó là các cơ quan, tổ chức có thể thuộc hoặc không thuộc cơ cấu quyền lực nhà nước, có chức năng bằng các hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp hỗ trợ cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp, đồng thời hỗ trợ cho công dân về mặt pháp lý trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp. Cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp gồm luật sư, công chứng, giám định tư pháp, thừa phát lại....

Cả hai loại thiết chế trên đều có mối quan hệ liên quan trực tiếp, phục vụ cho khâu trung tâm của hệ thống tư pháp là toà án. Toà án với hoạt động xét xử là khâu trung tâm,biểu hiện tập trung của quyền tư pháp

Một số vấn đề còn tranh luận liên quan đến phạm vi các thiết chế thuộc hệ thống tư pháp:

Thứ nhất, về cơ quan thi hành án trong giới nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam có hai quan điểm chính về bản chất của hoạt động thi hành án:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của tố tụng tư pháp (hình sự và dân sự). Như vậy, cơ quan thi hành án cũng phải được coi là một cơ quan tố tụng cùng với cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án. Quan điểm thứ hai cho rằng thi hành án là một hoạt động vừa mang tính hành chính vừa mang tính tư pháp. Tính hành chính (chấp hành - điều hành) thể hiện xuyên suốt, có tính chủ đạo quá trình thi hành án, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong giai đoạn thực thi các quyết định, bản án của toà án. Đề tài cho rằng quan điểm thứ hai này hợp lý hơn vì thi hành án tuy gắn liền với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở các giai đoạn trước đó nhưng bản thân hoạt động thi hành án không phải là hoạt động chứng minh, xác định bản chất sự việc, mà là hoạt động chấp hành, thi hành pháp luật, thực hiện phán quyết, quyết định của toà án. Với ý nghĩa đó, cơ quan thi hành án, tuy không phải là cơ quan tố tụng nhưng có thể coi là cơ quan thuộc hệ thống tư pháp.

Thứ hai, về các tổ chức bổ trợ tư pháp

Có ý kiến cho rằng, các tổ chức bổ trợ tư pháp trong hệ thống tư pháp còn phải bao gồm cả các thiết chế xã hội chuyên trách giải quyết tranh chấp như các trung tâm hoà giải, trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, Đề tài quan niệm rằng các thiết chế hoà giải, trọng tài không thuộc hệ thống tư pháp nhưng phải được xem xét đến trong mối quan hệ của hệ thống tư pháp với các thiết chế xã hội có ảnh hưởng, tác động đến hoạt động và hiệu quả hoạt động của hệ thống tư pháp.

Ngoài các tổ chức bổ trợ tư pháp, còn có một số loại hoạt động hỗ trợ khác rất cần thiết đối với các cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp như hoạt động bảo vệ phiên toà, dẫn giải can phạm; tống đạt các loại giấy tờ đến các đương sự, lập văn bằng xác nhận sự kiện pháp lý khi vừa xảy ra... Hiện nay chưa có các tổ chức chuyên trách thực hiện các hoạt động này.

Thứ ba, về các cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính trong lĩnh vực tư pháp

Đề tài cho rằng không thể xếp các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về tư pháp vào hệ thống tư pháp mà phải xem xét chúng trong mối quan hệ bên ngoài của hệ thống - quan hệ giữa các cơ quan hành pháp với hệ thống tư pháp (ví dụ, Bộ Tư pháp quản lý công tác thi hành án dân sự, tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp; Bộ Công an quản lý cơ quan điều tra thuộc lĩnh vực của mình,...).

Thứ tư, về Viện kiểm sát:

Viện kiểm sát có vị trí đặc biệt trong hệ thống tư pháp Việt Nam do được pháp luật hiện hành giao thực hiện chức năng kép - công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Về vấn đề này, cũng có ý kiến cho rằng Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng duy nhất là công tố, còn khi kiểm sát hoạt động tư pháp thì chỉ với tư cách của cơ quan giám sát theo thủ tục không phải là tố tụng và vì vậy kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động nằm ngoài tư pháp. Tuy nhiên, trong điều kiện của Việt Nam trước mắt, Viện Kiểm sát cần thực hiện đồng thời cả hai chức năng là công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Còn về lâu dài, Viện Kiểm sát sẽ chuyển thành Viện Công tố và chỉ thực hiện hoạt động này trong lĩnh vực TTHS.

2.3. Các chức danh tư pháp, chức danh bổ trợ tư pháp

            Xuất phát từ những quan niệm chung về chức danh và từ quan niệm về hệ thống tư pháp (bao gồm các thiết chế tư pháp và bổ trợ tư pháp), cần thiết phải tách riêng hai loại chức danh – chức danh tư pháp và chức danh bổ trợ tư pháp. Chức danh tư pháp, chức danh bổ trợ tư pháp là tên gọi thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nghĩa vụ của một người được Nhà nước bổ nhiệm hay công nhận nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định để thực hiện các hoạt động tư pháp (chức danh tư pháp thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) hoặc các hoạt động bổ trợ tư pháp (chức danh bổ trợ tư pháp thực hiện hoạt động bào chữa, công chứng, giám định tư pháp).

Qua phân tích trên đây có thể nêu ra nội hàm của 4 khái niệm liên quan đến tư pháp như sau:

1/ Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước có chức năng chuyên trách bảo vệ pháp luật, thiết lập và duy trì công lý, công bằng trong xã hội gọi là cơ quan tư pháp, bao gồm cơ quan điều tra, công tố, xét xử, thi hành án. Việc thực hiện quyền tư pháp của các cơ quan tư pháp luôn cần sự hỗ trợ của những hoạt động như giám định, công chứng, bào chữa, bảo vệ phiên toà, dẫn giải can phạm,... Những hoạt động này được gọi là hoạt động bổ trợ tư pháp do các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp thực hiện.

2/ Thủ tục tư pháp là cách thức, trình tự do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động tư pháp.

3/ Chức danh tư pháp và chức danh bổ trợ tư pháp là tên gọi thể hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của những cá nhân đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn nghề nghiệp do pháp luật quy định được Nhà nước bổ nhiệm hay công nhận để thực hiện các hoạt động tư pháp, hoạt động bổ trợ tư pháp.

4/ Hệ thống tư pháp, xét về mặt cấu trúc thiết chế, đó là một hệ thống bao gồm các cơ quan tư pháp (trong đó toà án giữ vị trí trung tâm), các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, vận hành bởi các chức danh tư pháp và chức danh bổ trợ tư pháp, trong đó mỗi thiết chế có chức năng, nhiệm vụ và vị trí độc lập của mình nhưng đều phục vụ nhiệm vụ trung tâm của cả hệ thống là xét xử nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, thiết lập và duy trì công lý của chế độ xã hội chủ nghĩa.

II. CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP

1. Quan niệm

Nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (nói tắt là nguyên tắc tư pháp pháp quyền xã hội chủ nghĩa) chính là những tư tưởng, quan điểm được nâng thành luận điểm, nguyên lý thể hiện bản chất nhân dân, dân chủ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được vận dụng vào lĩnh vực tư pháp - một lĩnh vực đặc thù, có thuộc tính riêng.

Các nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền tư pháp trong một nhà nước không bất biến vì chúng vừa thể hiện bản chất của chế độ (tương đối ổn định) vừa phản ánh trình độ phát triển của cơ sở kinh tế - xã hội và điều kiện lịch sử của đất nước ở từng thời kỳ (tính động tương đối).

Về hình thức thể hiện, các nguyên tắc tư pháp thường trước hết được biểu hiện, thể chế hoá thành quy tắc, điều luật của Hiến pháp - đạo luật cơ bản của một nhà nước, tiếp đó, được ghi nhận, quy định trong các bộ luật tố tụng chuyên ngành và trong các luật về tổ chức bộ máy tư pháp. Các nguyên tắc đó thâm nhập vào đời sống pháp luật, đời sống tư pháp mà trước hết là thâm nhập, chi phối, biến thành tư duy, nhận thức công tác của người cán bộ tư pháp trong vận dụng, thi hành, áp dụng pháp luật, thâm nhập vào tiềm thức, tác phong và trở thành thói quen công tác của họ.

2. Hệ thống các nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền tư pháp

Căn cứ vào việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước và mối tương quan giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp chịu sự chi phối và quy định của ba loại nguyên tắc:

- Thứ nhất, các nguyên tắc có tính chất nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của toàn bộ máy quyền lực nhà nước được vận dụng trong lĩnh vực tư pháp (tính tối thượng của Hiến pháp; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; pháp chế XHCN;...).

- Thứ hai, các nguyên tắc chung chỉ đạo tổ chức và hoạt động thực hiện quyền tư pháp ở tất cả các khâu đoạn, trong việc thực hiện tất cả các nhiệm vụ của quyền tư pháp, làm cơ sở cho việc vận dụng tất cả các phương thức tác nghiệp khác nhau (mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước toà án; bảo đảm sự vô tư và khách quan của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng;...).

- Thứ ba, các nguyên tắc cụ thể, riêng, đặc thù cho từng loại tố tụng (hình sự, dân sự, hành chính), cho từng loại hình nhiệm vụ, công việc, tác nghiệp, phương thức thực hiện ở từng giai đoạn tố tụng, trong đó phải đặc biệt chú ý, quan tâm đến các nguyên tắc ở giai đoạn xét xử của toà án (các nguyên tắc xét xử công khai, suy đoán vô tội; nguyên tắc trách nhiệm nghề nghiệp và bí mật nghề nghiệp của hoạt động bổ trợ tư pháp;...).

III. THỦ TỤC TƯ PHÁP VÀ VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1. Khái niệm, phạm vi và đặc trưng của các thủ tục tư pháp ở Việt Nam

            Thủ tục tư pháp là hình thức thể hiện của hoạt động tư pháp mà trước hết là thủ tục xét xử và các thủ tục tố tụng khác phục vụ cho hoạt động xét xử như: thủ tục điều tra, truy tố, thi hành án... được điều chỉnh chủ yếu bằng các quy phạm pháp luật tố tụng. Thủ tục tư pháp còn được gọi bằng các tên gọi khác như: thủ tục tài phán hay thủ tục tố tụng.

Để xác định phạm vi các thủ tục tư pháp cần phân biệt thủ tục tư pháp với các thủ tục pháp lý khác. Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm sau đây:

- Mục đích hoạt động là xét xử;

- Thủ tục tư pháp được quy định trong các đạo luật riêng về tố tụng.

- Chủ thể thực hiện thủ tục tư pháp là các cơ quan tư pháp, các cơ quan tổ chức bổ trợ tư pháp, các chức danh tư pháp và các chức danh bổ trợ tư pháp.

- Kết quả thực hiện mỗi thủ tục là một quyết định tố tụng có hiệu lực bắt buộc với mỗi đối tượng.

- Việc vi phạm thủ tục tư pháp thường đưa đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng.

2. Các nguyên tắc của thủ tục tư pháp

Xuất phát từ quan niệm cho rằng thủ tục tư pháp bao gồm các thủ tục tố tụng và một số thủ tục hành chính - tư pháp, cho nên các nguyên tắc của thủ tục tư pháp trước tiên cũng chính là nguyên tắc tố tụng. Như trên đã nêu, các nguyên tắc chung chi phối thủ tục xét xử và các thủ tục khác liên quan đến xét xử là: Pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và trước toà án; tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền bào chữa; bảo đảm việc tham gia tố tụng của các tổ chức xã hội và công dân; thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia; thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; toà án xét xử tập thể; toà án xét xử công khai; bảo đảm tranh tụng dân chủ tại phiên toà; bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với các cơ quan tiến hành tố tụng; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng.

Ngoài ra, còn những nguyên tắc đặc trưng của từng loại tố tụng như nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.v.v.

3. Các yêu cầu đổi mới thủ tục tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền

          - Đổi mới thủ tục tư pháp phải được đặt trong tổng thể công cuộc cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đổi mới thủ tục tư pháp vừa là tiền đề, vừa là kết quả của công cuộc cải cách tư pháp nói riêng, cải cách thể chế, phương thức hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung.

-  Đổi mới thủ tục tư pháp phải dựa trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại như công bằng, công khai, dân chủ, đơn giản và pháp chế.

            Công bằng, công khai, dân chủ, đơn giản và pháp chế là các giá trị tinh thần quý báu chung của nhân loại và trở thành nền tảng chủ yếu cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền; đến lượt mình Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ phải bảo vệ chúng bằng việc đưa các tư tưởng này thành các nguyên tắc pháp luật  chỉ đạo hoạt động thực tiễn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp vì mục đích cao quý chung - bảo vệ quyền và lợi ích của con người với tư cáhc cá nhân cũng như của toàn thể nhân dân không có đặc quyền, đặc lợi cho một nhóm người, tổ chức, giai cấp hay tầng lớp xã hội riêng biệt nào.

            - Đổi mới thủ tục tư pháp phải đảm bảo tôn trọng và bảo vệ hiệu quả các quyền và tự do của con người mà nội dung chủ yếu là giải quyết mối quan hệ bình đẳng về quyền và trách nhiệm pháp lý giữa các cơ quan tư pháp -đại diện cho quyền lực nhà nước và  các cá nhân với các quyền và tự do cơ bản của công dân. Bằng các thủ tục pháp lý chặt chẽ phải đạt được yêu cầu  loại trừ xu hướng vô chính phủ từ phía công dân, cũng như nguy cơ tuỳ tiện và độc đoán từ phía các cơ quan, chức danh tư pháp.

- Đổi mới thủ tục tố tụng phải đảm bảo yêu cầu thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng về cải cách tư pháp, làm cho thủ tục tư pháp minh bạch, đơn giản dễ vận dụng, phục vụ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và bảo đảm thuận tiện, an toàn pháp lý cho công dân.

4. Thủ tục tố tụng hình sự và thi hành án hình sự

Thủ tục tố tụng hình sự bắt đầu từ khi có sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cho đến kết thúc giai đoạn xét xử gồm:

- Thủ tục tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố; trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan khác trong việc tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố;

- Thủ tục về các biện pháp ngăn chặn; về các biện pháp điều tra; về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng;

- Thủ tục phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra như: quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét..;

- Thủ tục Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; trả lại hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung; truy tố bị can trước toà, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp;

- Thủ tục đưa vụ án hình sự ra xét xử; thủ tục tiến hành phiên toà ở các cấp xét xử; thủ tục kháng cáo, kháng nghị trong TTHS;-

- Thủ tục khiếu nại, tố cáo và thủ tục bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự v.v. trong TTHS;

- Thủ tục hợp tác quốc tế trong hoạt động TTHS;

Xét xử được xem là khâu trung tâm, quan trọng nhất của hoạt động tư pháp nói chung, tư pháp hình sự nói riêng. Các hoạt động tố tụng diễn ra ở giai đoạn này chủ yếu do toà án thực hiện, thể hiện đặc trưng của hoạt động tư pháp và được pháp luật quy định rất cụ thể, chặt chẽ.

Về thi hành án hình sự mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau về vị trí, tính chất của hoạt động thi hành án hình sự trong việc giải quyết vụ án hình sự, song thi hành án hình sự vẫn được xem là một loại thủ tục tố tụng, nhưng nặng về hành chính tố tụng, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.

Đặc trưng của hoạt động thi hành án hình sự thể hiện ở những điểm sau:

- Trong thi hành án hình sự không có nguyên tắc tự định đoạt;

- Hậu quả phát sinh từ việc thi hành án hình sự là người phạm tội phải chịu “án tích”;

- Không có cơ quan chuyên trách thi hành án hình sự mà trách nhiệm đó thuộc về nhiều cơ quan, tuỳ thuộc vào từng loại hình phạt do toà án tuyên đối với người phạm tội.

Thủ tục thi hành án hình sự được quy định riêng cho từng loại hình phạt do toà án tuyên đối với người phạm tội; bao gồm: thủ tục thi hành án phạt tù, thủ tục thi hành án chung thân, tử hình; thủ tục thi hành các bản án khác như: cải tạo không giam giữ, trục xuất, phạt tù cho hưởng án treo v.v.

5. Thủ tục tố tụng dân sự và thi hành án dân sự (bao gồm cả tố tụng kinh tế, tố tụng lao động)

Thủ tục tố tụng dân sự ngoài tuân thủ các nguyên tắc chung còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc trưng như: nguyên tắc tự định đoạt của đương sự; nguyên tắc về nghĩa vụ cung cấp, thu thập chứng cứ và chứng minh của đương sự; nguyên tắc hoà giải; nguyên tắc xã hội hoá.

            Các thủ tục tố tụng dân sự chủ yếu gồm:khởi kiện, và thủ tục thụ lý vụ án; thu thập, giao nộp, xác định, bảo quản, bảo vệ chứng cứ; thủ tục lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; yêu cầu áp dụng và thủ tục quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng; hoà giải và chuẩn bị xét xử; thủ tục tiến hành phiên toà; thủ tục kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm; thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; giải quyết các yêu cầu dân sự (tuyên bố một người là mất tích hoặc chết); giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự; công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự.

Thi hành án dân sự có một số đặc trưng sau:

- Quyền thoả thuận trong quá trình thi hành án giữa các bên đương sự;

- Trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của toà án thuộc về Chấp hành viên;

- Quá trình thi hành một vụ án dân sự có liên quan chặt chẽ đến hoạt động của Toà án, cụ thể là việc ra các bản án và quyết định;

- Thi hành án dân sự có quan hệ chặt chẽ với thi hành án hình sự;

- Thi hành án dân sự gắn liền với điều kiện về tài sản và nơi có tài sản của người phải thi hành án;

Các thủ tục thi hành án dân sự bao gồm:cấp, giải thích bản án, quyết định của toà án; yêu cầu thi hành án; thủ tục ra quyết định thi hành án; uỷ thác thi hành án; hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; cưỡng chế thi hành án; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kháng nghị thi hành án.

6. Thủ tục tố tụng hành chính và thi hành án hành chính

 Các thủ tục tố tụng hành chính bao gồm:

- Thủ tục khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân, khởi kiện của đương sự;

- Thủ tục yêu cầu áp dụng và thủ tục quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời;

- Thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng;

- Thủ tục chuẩn bị xét xử; thủ tục tiến hành phiên toà; thủ tục kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm; thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Thi hành án hành chính: Thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính; trong trường hợp cần thiết có quyền buộc cơ quan cấp dưới phải chấp hành quyết định của Toà án về vụ án hành chính... Riêng các quyết định về phần tài sản, quyền tài sản trong các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự.

IV. TOÀ ÁN VÀ HIỆU QUẢ XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN

          1. Vị trí, vai trò trung tâm của Toà án trong hệ thống tư pháp

Toà án là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước ta - là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền.

GS.TSKH. Đào Trí Úc cho rằng "hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xét xử, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật. Khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó" [1].

 Hoạt động xét xử của toà án không chỉ thực hiện chức năng trừng trị mà trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân ngày nay, chức năng “kiến tạo” của Tòa án ngày càng thể hiện rõ. Thông qua hoạt động xét xử, bằng các quyết định, bản án nghiêm minh, công bằng, Toà án tác động đến việc xác lập các chuẩn mực mới trong quan hệ xã hội, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp, tạo dựng niềm tin vào nền công lý, vào bộ máy nhà nước. Toà án không phải là phương tiện duy nhất nhưng là phương tiện chủ yếu nhất trong việc giải quyết các trường hợp xung đột giữa các quan hệ pháp luật. Sức mạnh của quyền lực tư pháp xét cho cùng thể hiện ở sự tôn trọng pháp luật của mọi công dân trong xã hội.

            Với chức năng xét xử, Toà án có vị trí đặc biệt so với các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp khác nói riêng, thể hiện ở những điểm sau đây:

- Một là, Toà án xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật của Nhà nước để đưa ra các phán quyết thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với từng vụ án cụ thể. thông qua việc xác định trách nhiệm pháp lý và các chế tài phù hợp với hành vi có lỗi và trái pháp luật của từng chủ thể trong mỗi vụ án. Như vậy hơn bất kỳ một dạng hoạt động nào của Nhà nước, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước. Các phán quyết không thuộc về bản thân một Toà án cụ thể hay một cá nhân có chức, có quyền trong bộ máy toà án mà là nhân danh Nhà nước, thể hiện hiệu lực của một văn kiện Nhà nước. Vì thế Nhà nước phải gánh chịu lấy trách nhiệm về sự không chính xác hoặc sai lầm của những bản án hay quyết định đó gây ra.

- Hai là, bằng hoạt động xét xử,Toà án thực hiện chức năng kiểm tra hành vi pháp lý của các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan tố tụng (điều tra, truy tố.. ) nhằm bảo vệ quyền công dân, quyền con người. Toà án xem xét các hành vi, quyết định của các cơ quan nhà nước để đưa ra phán quyết cuối cùng, khách quan, chính xác đối với những vấn đề liên quan trực tiếp đến tự do, danh dự, tài sản, nhân thân và cả tính mạng của con người. Vì thế, bản án là kết quả của hoạt động xét xử không được để lại một sự nghi ngờ nào cho cá nhân và xã hội.

- Ba là, xét xử có vai trò rất lớn trong việc ổn định xã hội. Sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương của xã hội, sự tự do và an toàn của con người một phần quan trọng phụ thuộc vào hoạt động xét xử của toà án. Việc xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội chẳng những có tác dụng trừng trị các phần tử phạm tội, giáo dục, cải tạo họ, mà đồng thời còn góp phần ngăn chặn, phòng ngừa các ảnh hưởng tiêu cực đối với Nhà nước và xã hội, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân, tạo thuận lợi cho các giao dịch dân sự, phát triển kinh tế - xã hội theo hướng lành mạnh. Quá trình xét xử đồng thời cũng là quá trình giáo dục ý thức pháp luật của nhân dân Hoạt động xét xử tại các phiên toà còn tác động trực tiếp không chỉ lên ý thức và hành vi của người vi phạm pháp luật mà còn của đông đảo người tham dự phiên toà, góp phần định hướng dư luận xã hội vào cuộc đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vai trò của toà án lại càng được khẳng định. vì việc thực thi quyền tư pháp ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam[[2]]. Cải cách toà án phải được coi là khâu đột phá trong cải cách tư pháp ở giai đoạn hiện nay vì toà án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý nước ta, đồng thời thể hiện tập trung chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa[[3]].

2. Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đối với tổ chức và hoạt động của toà án

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra một nhiệm vụ cơ bản là phải xây dựng được nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc.

Những yêu cầu khách quan của việc thực hiện quyền lực tư pháp trong nhà nước pháp quyền phải xuất phát từ chính những yêu cầu và đặc trưng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đồng thời cân nhắc điều kiện thực tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong từng giai đoạn lịch sử. Vì vậy, các yêu cầu cải cách Toà án trong Nhà nước pháp quyền XHCN phải dựa trên hai cơ sở :  một là những chuẩn mực mới, những kiến giải khoa học về vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ của toà án trong nhà nước pháp quyền để tạo nên  khía cạnh đổi mới; hai là  những chuẩn mực có tính phổ biến còn giữ nguyên giá trị đương đại tạo nên tính kế thừa trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền.

Các yêu cầu đó là :

(1)- Bảo đảm tính độc lập của Toà án.

            Một trong những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền là tính độc lập của nền tư pháp. Không thể nói đến Nhà nước pháp quyền nếu không có Toà án độc lập. Các Thẩm phán và Hội thẩm phải thực hiện đúng nguyên tắc Hiến định: Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Thẩm phán độc lập chừng nào thì công lý được bảo đảm đến chừng ấy. Để bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử, cần có nhiều điều kiện về tổ chức, về con người, về chế độ, chính sách cán bộ, về pháp luật, về cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động của Toà án và các thiết chế bổ trợ tư pháp  

           (2)- Bảo đảm quyền cơ bản của công dân trong hoạt động tư pháp.

Trong hoạt động tư pháp, cần thực hiện đầy đủ và chặt chẽ quy định về thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam  để đảm bảo các quyền hiến định của công dân như quyền tự do và bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự;

(3)- Bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và bảo đảm tính khách quan, vô tư trong các phán quyết của Toà án. Quyền lực tư pháp chỉ có ý nghĩa khi nó tạo dựng và bảo vệ được sự công bằng, bình đẳng của mọi công dân, tổ chức trước pháp luật và trước Toà án, tạo cho công dân niềm tin vào sự công bằng và đúng đắn của pháp luật. Các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải công minh, vô tư và khách quan.

(4)- Bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Toà án.

Tính nhân dân của Toà án được thể hiện từ những ngày đầu của chính quyền dân chủ nhân dân. Đó là một hệ thống Toà án gắn bó với dân, gần dân, vì dân. Những giá trị đó phải tiếp tục được củng cố và khẳng định trong Nhà nước pháp quyền. Đại diện cho nhân dân cần phải tham gia vào xét xử, thông qua đó mà giám sát hoạt động của Toà án. Các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân cũng có trách nhiệm giám sát Toà án bằng những cách thức của mình do pháp luật quy định.

Những yêu cầu này được đáp ứng bằng việc thực hiện một loạt nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án như nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc hai cấp xét xử, việc xét xử của toà án có Hội thẩm tham gia, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán; nguyên tắc Toà án xét xử công khai; nguyên tắc quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm; nguyên tắc tranh tụng...

Những yêu cầu trên đây cũng là sự thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về  một nền tư pháp gần dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, hiện đại và văn minh, đủ sức bảo vệ công lý của chế độ xã hội chủ nghĩa.

3. Hiệu quả xét xử của toà án

3.1. Khái niệm hiệu quả xét xử

Trong nhà nước pháp quyền, hệ thống tư pháp trong đó có Toà án phải đạt đến một trình độ tổ chức và văn minh pháp lý cao hơn rất nhiều so với trước đây để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ bảo vệ công lý của mình, tức là đạt được hiệu quả mà xã hội mong muốn.

Hiệu quả xét xử có thể nhìn nhận ở các khía cạnh khác nhau:

1. Hiệu quả xét xử là kết quả hoạt động của Toà án khi áp dụng các quy phạm pháp luật, được đo bằng mức độ đạt được của mục đích hoạt động xét xử.

2. Hiệu quả xét xử từng vụ án cụ thể có thể xác định được, nhưng hiệu quả xét xử chung tất cả các vụ án (tức là hiệu quả xét xử nói chung của hệ thống Toà án) thì lại là một vấn đề trừu tượng, không thể định lượng được. Nó chỉ có thể biểu hiện bằng những đánh giá chung nhất, khái quát nhất về mặt xã hội đối với hoạt động xét xử.

3. Hiệu quả xét xử của mỗi loại án (hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình…) được thể hiện qua các tiêu chí khác nhau.

Tóm lại, Hiệu quả xét xử, nhìn tổng thể, đó chính là mức độ mà Toà án đạt được trong thực tế mục tiêu xét xử công bằng, nghiêm minh, đúng pháp luật, bảo đảm công lý dựa trên viếc sử dụng hợp lý các nguồn lực nhà nước và xã hội.

Các bộ phận hợp thành yếu tố tổng hợp để tính toán hiệu quả xét xử là:

1) Nguồn lực:

- Theo lĩnh vực sử dụng nguồn lực, có thể phân loại nguồn lực ra thành nguồn lực dành cho xét xử, cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua xét xử.

- Theo hình thức thể hiện, nguồn lực của Toà án được phân chia thành: nhân lực (Thẩm phán, Hội thẩm, người giám định, người làm chứng, những người tham gia tố tụng khác) mà chi phí dành cho họ có thể đo lường được ; vật lực: bao gồm các phương tiện kỹ thuật, trụ sở, tài liệu chuyên môn, nghiệp vụ, văn phòng phẩm.

2) Chi phí: là tất cả các khoản chi phí cho hệ thống Toà án như: trả thù lao cho công sức của những người tham gia tố tụng; thời gian vật chất làm việc của cán bộ Toà án; các chi phí hữu hình và vô hình, khấu hao tài sản; một số hệ quả phụ như bồi thường thiệt hại do oan, sai...

Theo các quan điểm hiện đại của trường phái kinh tế học pháp luật thì để xem xét hiệu quả xét xử của toà án cần phải tính đầy đủ các chi phí xã hội phát sinh liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử của toà án (chi phí của nhà nước cho bộ máy toà án như đã nêu ở trên và chi phí của cá nhân các đương sự ) cũng như chi phí xã hội phát sinh (gián tiếp) khi toà án nói riêng, hệ thống tư pháp nói chung không thực hiện tốt chức năng xã hội giao[[4]].

3) Các phương pháp chi phí tiết kiệm nhất mà đạt kết quả cao nhất, ví dụ: tổ chức công việc của Toà án hợp lý nhất; đề ra các biện pháp chi phí ít nhất cho phiên toà, nhất là phiên toà lưu động; tiết kiệm mua sắm, sử dụng điện thoại, xe ô tô theo định mức khoán...

Ba yếu tố trên đây là những cơ sở cần thiết cần tham khảo khi đánh giá hiệu quả xét xử của Toà án.

3.2. Các tiêu chí xác định hiệu quả xét xử của toà án

Tiêu chí về số lượng vụ án đã được xét xử bảo đảm án không tồn đọng ở các cấp, bảo đảm thời hạn tố tụng, xét xử kịp thời. tiêu chí này có thể xác định bằng  tỉ lệ giữa số lượng vụ án đã giải quyết so với tổng số vụ án đã thụ lý, có tính đến số lượng thẩm phán và sự phân công lao động cho họ đối với từng loại án.

Tiêu chí về chất lượng xét xử  bao gồm các yếu tố sau:

Thứ nhất, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ở bước chuẩn bị xét xử, tiêu chí này được đánh giá qua khả năng của Toà án phát hiện (hoặc không phát hiện) ra những sai sót của quá trình điều tra, truy tố (trong các vụ án hình sự)

Thứ hai,  mức độ Toà án chấp hành pháp luật trong xét xử;

Thứ ba, tác dụng giáo dục của phiên toà đối với bị cáo, những người tham gia phiên toà và đối với xã hội;

Thứ tư, xác định và bồi thường thiệt hại do tội phạm hay các hành vi vi phạm pháp luật khác gây ra;

Thứ năm, các biện pháp do Toà án kiến nghị áp dụng để ngăn ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm.

Việc đánh giá chất lượng xét xử của Toà án cấp sơ thẩm được thực hiện qua các giai đoạn xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm. Ở các giai đoạn này, có thể nêu ra các tiêu chí sau:

- Số lượng bản án bị sai sót đã được phát hiện.

- Số lượng bản án bị sửa, bị huỷ, số vụ án bị đình chỉ do sai sót chủ quan của cán bộ tư pháp.

Việc đánh giá chất lượng xét xử của Toà án cấp phúc thẩm được thực hiện thông qua giai đoạn xét xử giám đốc thẩm, và tái thẩm, bao gồm:

- Số lượng bản án bị sửa, bị huỷ, bị đình chỉ.

- Số khiếu nại và kháng nghị được Toà án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm chấp nhận.

Như vậy số lượng vụ án bị huỷ, bị sửa là một tiêu chí quan trọng để Toà án cấp trên đánh giá hiệu quả xét xử của Toà án cấp dưới.

Hiệu quả của Toà án còn được xác định bởi số bản án đã mang ra thi hành trên tổng số án đã tuyên (trong đó có cả án không có điều kiện thi hành).

Tiêu chí về thời hạn

Cần xác định rõ số vụ án đưa ra xét xử đúng thời hạn trong một khoảng thời gian nhất định (6 tháng, 1 năm). Ngoài ra cũng cần xác định số lượng bản án tống đạt đúng thời hạn trên tổng số án đã tuyên trong khoảng thời gian đó.

Sự đồng tình của dư luận xã hội.

Đây là một tiêu chí không định lượng được nhưng lại có ý nghĩa tham khảo rất quan trọng.Tuy nhiên ở đây cần phân biệt hai trường hợp: dư luận theo hướng đúng, phù hợp với pháp luật và dư luận sai lệch do không hiểu rõ pháp luật. Đánh giá theo tiêu chí này cần căn cứ vào ý thức pháp luật của người dân và cộng đồng.

Diễn biến của tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm.

Đây có thể coi là một tiêu chí gián tiếp để đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của Toà án. Trong đó cần có sự đánh giá các biện pháp phòng ngừa mà Toà án đã áp dụng hoặc kiến nghị với các cơ quan, tổ chức khắc phục nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật.

Tiêu chí  tuân thủ các quy định của luật tố tụng bao gồm những yếu tố sau:

- Mức độ mà những người tham gia tố tụng được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình; mức độ độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử vụ án; vai trò của Thư ký Toà án.

- Sự chủ động, thái độ tích cực của các bên tham gia tranh tụng tại phiên toà; vai trò của các cơ quan tư pháp bổ trợ, nhất là của Luật sư và giám định viên tư pháp.

- Tác dụng của các phiên toà xét xử lưu động.

     3.3. Những yếu tố quy định và chi phối hiệu quả xét xử của Toà án.

Vai trò quyết định của yếu tố con người đối với chất lượng xét xử.

Các yếu tố về số lượng và chất lượng  và mức độ độc lập  của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có ý nghĩa quyết định chất lượng xét xử.  Bên cạnh đó, chất lượng của điều tra viên, kiểm sát viên, những người tiến hành và tham gia tố tụng khác (giám định viên, Thư ký phiên toà, luật sư) cũng là những yếu tố tác động ở những mức độ khac snhau đến chât slượng xét xử.

Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm lại phụ thuộc vào các yếu tố, điều kiện khác nhau như đã phân tích ở trên, do đó, phải tính đến cả các yếu tố tác động có tính chất gián tiếp đó.

Yếu tố pháp luật.

- Thứ nhất, pháp luật nội dung phải đồng bộ, thống nhất, minh bạch, phải phù hợp với thực tế.

- Thứ hai, pháp luật về tổ chức tư pháp và tố tụng phải chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng, khó bị vi phạm.

Yếu tố cơ sở  vật chất cho hoạt động của toà án cũng có tác động đến hiệu quả xét xử.

          3.4. Mối quan hệ giữa hiệu quả xét xử của toà án với các hoạt động tư pháp có liên quan và hoạt động bổ trợ tư pháp.

Mối quan hệ với kết quả, chất lượng của hoạt động điều tra:

Hiện nay tổ chức tư pháp của Việt Nam vẫn theo mô hình kết hợp tranh tụng và xét hỏi. Tại các phiên toà xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm, Hội đồng xét xử phần lớn và chủ yếu vẫn phải dựa vào những tài liệu do cơ quan điều tra thu thập xây dựng, tập hợp trong hồ sơ vụ án. Do vậy hiệu quả xét xử của Toà án phụ thuộc rất nhiều vào kết quả xây dựng hồ sơ của cơ quan điều tra. Chất lượng hoạt động điều tra sẽ bảo đảm chất lượng và hiệu quả xét xử. Việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hay điều tra lại là một trong những biện pháp bảo đảm chất lượng xét xử của toà án.

Mối quan hệ với hoạt động kiểm sát:

Bản án, quyết định của Toà án được đưa ra trên cơ sở tranh tụng tại toà trong đó Viện Kiểm sát với vai trò buộc tội bằng bản cáo trạng sẽ củng cố lập luận để Toà án xác định đúng sự thật vụ án. Hồ sơ vụ án được kiểm sát điều tra chặt chẽ là cơ sở để Toà án ra một bản án chính xác, đúng pháp luật.Việc thực hành quyền công tố (buộc tội) tại phiên toà giúp Hội đồng xét xử có được những đánh giá đúng đắn về các chứng cứ, đường lối xét xử và áp dụng pháp luật chính xác. Viện Kiểm sát với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ góp phần phát hiện ra những sai phạm trong quá trình tố tụng, bao gồm cả hoạt động xét xử của Toà án, để kịp thời yêu cầu sửa chữa khắc phục, góp phần nâng cao hiệu quả xét xử.

Mối quan hệ với hoạt động thi hành án:

Thi hành án là hoạt động nhằm đưa bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án ra thực thi trên thực tế. Nếu xét xử đúng mà việc thi hành không đặt ra thì việc xét xử cũng không có ý nghĩa. Do đó hiệu quả xét xử của Toà án còn được đánh giá bởi kết quả thực tế của công tác thi hành án.

Mối quan hệ với các hoạt động bổ trợ tư pháp:

Hoạt động bổ trợ tư pháp là hoạt động hỗ trợ cho cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, quyền hạn của mình. Hoạt động giám định, công chứng, luật sư là hoạt động cần thiết, tạo điều kiện cho phán quyết khách quan của Toà án. Kết luận giám định đúng đắn sẽ làm cho toà án quyết định chính xác. Luật sư tham gia tích cực, chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, các đương sự sẽ góp tiếng nói quan trọng cho toà án quyết định vụ việc...

TIỂU KẾT CHƯƠNG I

1/ Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của hệ thống tư pháp

2/ Hệ thống tư pháp, xét về mặt cấu trúc thiết chế, bao gồm các cơ quan tư pháp và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, vận hành bởi các chức danh tư pháp và chức danh bổ trợ tư pháp, trong đó mỗi thiết chế có chức năng, nhiệm vụ và vị trí độc lập của mình nhưng đều phục vụ nhiệm vụ trung tâm của cả hệ thống là xét xử các vi phạm và tranh chấp pháp luật nhằm bảo vệ và duy trì công lý, bảo vệ quyền con người.

3/ Hệ thống tư pháp hoạt động theo phương thức đặc thù là tài phán dựa trên các nguyên tắc và thủ tục dân chủ, minh bạch, công khai, công bằng, dễ tiếp cận qua đó, các cá nhân, tổ chức có thể trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan, chức danh tư pháp độc lập, khách quan và chỉ tuân theo pháp luật. Phán quyết của toà án tư pháp phản ánh sự phán xét của nhà nước và xã hội, được đảm bảo thi hành dưới sự giám sát của nhân dân. Những yếu tố trên làm nên chức năng xã hội thiêng liêng và các giá trị không thể thay thế của quyền tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người với tư cách cá nhân và bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý với tư cách là ý chí và khát vọng của toàn dân.

 

 

 

CHƯƠNG II

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP THỜI KỲ ĐỔI MỚI (TỪ ĐẠI HỘI VI ĐẾN ĐẠI HỘI IX)

            I/ KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP VIỆT NAM TRƯỚC ĐẠI HỘI ĐẢNG VI (1986)

Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời năm 1945, bộ máy tư pháp của chế độ mới đã được thiết lập. Ngày 28 tháng 8 năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà ra tuyên cáo thành lập Nội các thống nhất quốc gia trong đó có Bộ Tư pháp. Sau đó, ngày 13/9/1945, Toà án quân sự đầu tiên ra đời bằng Sắc lệnh số 33/C của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tiếp đó, Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức toà án và các ngạch thẩm phán đã quy định một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về hệ thống tư pháp. Khi Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 được thông qua thì các cơ quan tư pháp bao gồm: toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Như vậy, thời kỳ này, cơ quan tư pháp được hiểu là Toà án. Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ quản lý tư pháp, trong đó có quản lý các toà án, truy tố tội phạm, quản lý các nhà lao,... Sau 5 năm hoạt động, các cơ quan tư pháp đã có những đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Năm 1950, với Sắc lệnh số 85 ngày 22-5-1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, hệ thống tư pháp được thay đổi theo hướng tăng cường tính nhân dân trong tổ chức và hoạt động của mình. (Toà án sơ cấp đổi thành toà án nhân dân huyện; Toà án đệ nhị cấp đổi thành toà án nhân dân tỉnh; phụ thẩm nhân dân đổi thành Hội thẩm nhân dân với thẩm quyền rộng hơn...). Trong thời gian từ năm 1945 đến năm 1953, việc thực hiện quyền công tố và chỉ đạo hoạt động điều tra của các Uỷ viên Tư pháp Công an đều do thẩm phán buộc tội (Chưởng lý, Biện lý) thuộc Toà án đảm nhiệm. Tháng 2/1953, hệ thống cơ quan chấp pháp thuộc Thứ bộ Công an được thành lập làm nhiệm vụ chuyên trách điều tra tư pháp.

Cùng với việc thiết lập các toà án, Tổ chức Đoàn thể luật sư được thành lập theo Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1946 để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong các vụ án hình sự theo quy định của Hiến pháp, sau đó, Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 đã xác lập chế độ bào chữa viên.

Hoạt động công chứng thời kỳ này mới chỉ tập trung ở việc thị thực các giấy tờ và thể lệ trước bạ việc mua bán, cho đổi chác nhà cửa ruộng đất do Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp thực hiện theo các Sắc lệnh số 59 ngày 15/11/1945 và Sắc lệnh số 85 ngày 29/5/1952. Còn hoạt động giám định tư pháp chủ yếu tập trung vào giám định pháp y theo Sắc lệnh số 162 ngày 25/6/1946.

 Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi (1954), miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các cơ quan tư pháp vẫn hoạt động theo mô hình như thời kỳ kháng chiến, phục vụ tích cực các nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới. Tuy nhiên, từ năm 1959, hệ thống tư pháp đã có những thay đổi về cơ cấu tổ chức. Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội khoá I kỳ họp thứ 8, theo Nghị định số 256 ngày 1-7-1959 và Nghị định số 321 ngày 27-8-1959 của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện công tố Trung ương được thành lập (trực thuộc Hội đồng Chính phủ) và sau đó, theo quy định của Hiến pháp 1959, Toà án và Viện công tố (theo Hiến pháp 1959 là Viện Kiểm sát nhân dân) được tách thành hai hệ thống riêng trực thuộc Quốc hội.

Từ năm 1960 đến năm 1981, trong Chính phủ không có Bộ Tư pháp. Các công việc về tư pháp được giao cho nhiều cơ quan khác nhau thực hiện như TANDTC, VKSNDTC, Vụ pháp chế Phủ Thủ tướng, Uỷ ban pháp chế của Chính phủ (tồn tại từ năm 1972 đến năm 1981). Đến khi Bộ Tư pháp được tái lập năm 1981 thì các công việc về tư pháp lại được tập trung về Bộ Tư pháp.

Khái quát về hệ thống các cơ quan tư pháp thời kỳ trước năm 1986 có những điểm đáng nổi bật là các cơ quan tư pháp đã tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trấn áp các lực lượng phản cách mạng, xây dựng và củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nội dung và tố tụng làm cơ sở cho hoạt động của hệ thống tư pháp chậm phát triển. Tổ chức của hệ thống toà án, kiểm sát, điều tra được đổi mới cơ bản từ đầu những năm 60, có vị trí độc lập, được tổ chức từ Trung ương đến địa phương phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta trong giai đoạn lịch sử này. Cụ thể là:

- Hệ thống Toà án được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp thẩm quyền xét xử với đơn vị hành chính lãnh thổ. Chế độ bổ nhiệm thẩm phán được thay thế bằng chế độ bầu thẩm phán sau khi có Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức toà án nhân dân 1960.

- Về nguyên tắc hoạt động của Toà án: Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và các Luật tổ chức Toà án nhân dân 1960, 1981 đều khẳng định các nguyên tắc xét xử theo hướng đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân, công bằng xã hội như xét xử công khai; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; bảo đảm quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, các đương sự...

- Công tác quản lý về mặt tổ chức của các toà án địa phương: trước 1981, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về tổ chức, phân bổ biên chế của các toà án nhân dân địa phương. Sau 1981 nhiệm vụ này chuyển giao sang Bộ Tư pháp; còn chính quyền địa phương có trách nhiệm đảm bảo các điều kiện kinh phí, cơ sở vật chất cho các toà án.

Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân: sau khi tách cơ quan công tố khỏi Toà án và Chính phủ thành hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc Quốc hội, theo Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức năng – công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân các cấp hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Hệ thống cơ quan điều tra: từ năm 1953 đến năm 1988 trong lực lượng Công an nhân dân luôn tồn tại tách biệt hai hệ thống cơ quan điều tra phù hợp với yêu cầu của tình hình đấu tranh chống tội phạm, nhất là các tội phản cách mạng (sau này là các tội xâm phạm an ninh quốc gia), các tội xâm phạm tài sản XHCN.

- Cơ quan điều tra chuyên trách và công khai theo pháp luật tố tụng (trước năm 1973 là cơ quan chấp pháp, từ năm 1973 đến năm 1981 là cơ quan cảnh sát hình sự, từ năm 1981 đến năm 1988 là cơ quan điều tra xét hỏi).

- Các cơ quan trinh sát bí mật về hình sự, kinh tế (cũng có thẩm quyền khởi tố, bắt khẩn cấp, tiến hành điều tra một số vụ án an ninh xã hội, kinh tế cho đến khi kết thúc điều tra mới chuyển sang cho cơ quan điều tra công khai).

Hệ thống cơ quan thi hành án: công tác thi hành án phạt tù, thi hành án tử hình do Bộ Công an và Bộ Quốc phòng thực hiện.

- Công tác quản lý thi hành án hình sự không phải phạt tù được giao cho một số cơ quan, chính quyền địa phương, tổ chức chính trị- xã hội, đoàn thể quần chúng thực hiện hoặc phối hợp thực hiện.

- Công tác thi hành án dân sự thuộc trách nhiệm của Toà án nhân dân. Từ năm 1981 khi Bộ Tư pháp được tái lập và chịu trách nhiệm quản lý toà án nhân dân về mặt tổ chức, nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án dân sự được chuyển sang Bộ Tư pháp nhưng việc thi hành án dân sự vẫn do các cơ quan thi hành án, các chấp hành viên thuộc Toà án thực hiện.

Một thời gian dài, tổ chức luật sư không tồn tại trên thực tế mà chỉ có các Đoàn bào chữa viên nhân dân (năm 1987 ở 30 tỉnh, thành phố có đoàn bào chữa viên nhân dân với gần 400 thành viên). Việc quản lý hoạt động luật sư do Toà án nhân dân tối cao thực hiện từ năm 1959 đến năm 1974 thì chuyển lại cho Uỷ ban pháp chế thuộc Chính phủ và năm 1981 chuyển giao cho Bộ Tư pháp. Tổ chức và hoạt động công chứng không phát triển trong điều kiện kinh tế tập trung quan liêu. Tổ chức và hoạt động giám định tư pháp thời kỳ này vẫn chỉ tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực chính là giám định pháp y và giám định kỹ thuật hình sự.

Nhìn chung, cho đến trước thời kỳ đổi mới, các cơ quan tư pháp Việt Nam đã trải qua 40 năm xây dựng và phát triển trong đó có 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, 10 năm tái kiến thiết đất nước trong điều kiện vừa có chiến tranh vừa có hoà bình; hệ thống pháp luật yếu và thiếu trên nền của một chế độ kinh tế chậm phát triển với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp được điều chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính; pháp luật chưa thực sự trở thành công cụ quản lý của Nhà nước, càng chưa phải là công cụ được người dân sử dụng để tổ chức đời sống và bảo vệ các quyền, lơi ích của mình. Trong bối cảnh từ những năm 60, các cơ quan tư pháp Việt Nam được xây dựng và củng cố dựa trên một số nguyên tắc nền tảng của nhà nước và nền tư pháp xã hội chủ nghĩa theo mô hình của Liên xô (cũ), đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị từng thời kỳ, đặc biệt là các nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước, bảo vệ trật tự, an ninh xã hội, bảo vệ một số quyền tài sản và nhân thân quan trọng nhất của công dân. Tuy nhiên, chưa thể nói rằng tại thời điểm đó, chúng ta đã có một hệ thống tư pháp với các yếu tố hợp thành đầy đủ. Nhiều thiết chế chưa định hình từ nguyên tắc tổ chức đến cơ chế hoạt động (thi hành án, các tổ chức bổ trợ tư pháp), tính hệ thống và các mối liên kết nội bộ trong hệ thống giữa các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp với khâu trung tâm là toà án chưa được xác lập đầy đủ, rõ ràng.

II. SỰ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TỪ KHI THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI (1986) ĐẾN NAY

1. Nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của việc đổi mới các cơ quan tư pháp

Tổng kết 20 năm đổi mới trong đó có đổi mới bộ máy nhà nước, có thể thấy đó là một quá trình nhận thức nhất quán có tính liên tục của Đảng về cải cách tư pháp. Đảng ta coi cải cách tư pháp là một bộ phận trọng yếu của công cuộc đổi mới bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Một số vấn đề lý luận về cải cách tư pháp được nêu ra ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới và được thực tiễn chứng minh, được hoàn thiện qua các văn kiện của Đảng sau này để hình thành nên những luận điểm quan trọng, mang tính định hướng lâu dài cho công cuộc xây dựng một nền tư pháp nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.

2. Những quan điểm, chủ trương cụ thể của Đảng về cải cách tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Qua các văn kiện của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, đặc biệt Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị khoá IX ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, có thể khái quát một số chủ trương chính, có tính xuyên suốt của Đảng trong việc chỉ đạo đổi mới hệ thống tư pháp như sau:

Thứ nhất, khẳng định hoạt động tư pháp phải nhằm ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.

Thứ hai, các cơ quan Tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính độc lập, tính dân chủ, công khai trong hoạt động; là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống hàng ngày.

Thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp lấy toà án là khâu trung tâm của cả hệ thống tư pháp. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp phải đảm bảo giữ vững các nguyên tắc phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp.

Thứ tư, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các trường hợp oan sai do người có thẩm quyền tố tụng gây ra.

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ, các chức danh tư pháp trong sạch, vững mạnh

Thứ sáu, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới chế độ, chính sách đảm bảo điều kiện cho cơ quan, cán bộ tư pháp hoạt động hiệu quả.

Thứ bảy, đổi mới và củng cố mối quan hệ giữa hệ thống tư pháp với nhân dân theo hướng huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của nhân dân vào công tác tư pháp; tăng cường và nâng cao hiệu quả giám sát của các cơ quan đại biểu nhân dân, các tổ chức xã hội và của nhân dân đối với cơ quan, hoạt động tư pháp.

Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống tư pháp, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với cơ quan tư pháp.

Như vậy, Đảng ta đã có một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, cụ thể hóa và thực thi trên thực tế các chủ trương cải cách tư pháp. Các nội dung cải cách tư pháp do Đại hội IX của Đảng và các Nghị quyết 08 và 49 của Bộ Chính trị thể hiện tính liên tục, kế thừa phát triển của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời thể hiện sự tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của thế giới về khoa học tổ chức quyền lực nhà nước và quản lý xã hội được vận dụng từng bước một cách thích hợp vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

III. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP, THỦ TỤC TƯ PHÁP TỪ ĐẠI HỘI ĐẢNG VI ĐẾN NAY

1. Một số thành tựu chung về đổi mới tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp

Về thể chế, từ năm 1986 đến nay, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp được củng cố và phát triển trên một cơ sở pháp lý đang được dần dần hoàn thiện. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực này. Đó là Hiến pháp 1992, các Luật về tổ chức Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh về Luật sư, Pháp lệnh thi hành án dân sự, Pháp lệnh giám định tư pháp, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật tố tụng dân sự... và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành

2. Những kết quả cụ thể

2.1. Cơ quan điều tra:

Trong những năm gần đây, hệ thống tổ chức các cơ quan điều tra bước đầu được sắp xếp lại theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát, điều tra ban đầu với hoạt động của cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra hình sự chuyên trách gồm các cơ quan điều tra thuộc công an nhân dân, các cơ quan điều tra thuộc quân đội nhân dân và cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Còn các cơ quan điều tra không chuyên trách bao gồm hải quan, kiểm lâm, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển. Đã có sự phân công, phân cấp lại thẩm quyền điều tra giữa các tiểu hệ thống và giữa các cơ quan trong từng tiểu hệ thống theo hướng rõ ràng hơn và phù hợp với thẩm quyền xét xử của toà án cùng cấp. Lực lượng điều tra viên ở các cấp được tăng cường hơn về số lượng và chất lượng.

Đã xác lập các nguyên tắc của hoạt động điều tra, đó là:

  • Hoạt động điều tra hình sự chỉ do các cơ quan điều tra chuyên trách và một số cơ quan khác theo quy định của pháp luật tiến hành;
  • Hoạt động điều tra phải tuân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự;
  • Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật khách quan, toàn diện và đầy đủ; phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, làm rõ cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, tình tiết tăng nặng và tình tiét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội;
  • Cơ quan điều tra cấp dưới chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của Cơ quan điều tra cấp trên.

Kết quả thực tế cho thấy chất lượng công tác điều tra tội phạm hình sự được nâng cao hơn trước. Trình tự, thủ tục tố tụng trong hoạt động điều tra hình sự được đảm bảo hơn; các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ngày càng được bảo vệ đầy đủ hơn.

Tuy nhiên, hoạt động điều tra hình sự vẫn còn những hạn chế như: tỷ lệ phát hiện, khởi tố, điều tra đưa ra truy tố, xét xử còn thấp, nhất là đối với các tội phạm về ma tuý, tội buôn lậu, vi phạm trật tự an toàn giao thông, các tội phạm tham nhũng, các tội phạm liên quan đến cán bộ chủ chốt ở địa phương hoặc trung ương; công tác điều tra ban đầu của các cơ quan điều tra không chuyên trách (Hải quan, Kiểm lâm...) chưa được quan tâm chỉ đạo, đầu tư đầy đủ nên chất lượng khởi tố, điều tra còn thấp hoặc còn để lọt tội phạm; tình trạng oan sai trong hoạt động điều tra vẫn xảy ra (bắt sai pháp luật, lạm dụng bắt khẩn cấp, tạm giam quá hạn..); việc thu thập chứng cứ trong một số vụ án chưa được đầy đủ, nhất là trong khám nghiệm hiện trường, giám định, thu giữ vật chứng.Tiến độ giải quyết án hình sự ở cả 3 khâu điều tra, truy tố và xét xử đều chậm, nhiều vụ án để quá thời hạn luật định; trong hoạt động điều tra, quyền bào chữa của bị can còn bị vi phạm, một số Cơ quan điều tra còn gây khó khăn cho luật sư bào chữa.

            2.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát

Về chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân, Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 vẫn quy định về hai chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Nhưng từ năm 2001, chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân đã có sự thay đổi. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định "Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do Luật định”. Như vậy, chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân không còn tồn tại. Cũng từ thời điểm này, việc thực hành quyền công tố chỉ có trong tố tụng hình sự, còn kiểm sát hoạt động tư pháp được thực hiện trong các hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng. Đây là những thay đổi lớn trong chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong cải cách bộ máy nhà nước.

Những kết quả cụ thể trong hoạt động của VKSND theo chức năng, nhiệm vụ mới là:

- Chất lượng kiểm sát khởi tố và điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát được nâng lên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quan tâm hơn trước; đã huỷ nhiều quyết định khởi tố vụ án và quyết định không khởi tố vụ án không đúng của Cơ quan điều tra; không phê chuẩn bắt khẩn cấp; không phê chuẩn gia hạn tạm giữ; không phê chuẩn bắt tạm giam; yêu cầu cơ quan điều tra bắt tạm giam hàng trăm trường hợp bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân.

- Tốc độ giải quyết các vụ án đã tiến bộ hơn, khắc phục được tình trạng tồn đọng án do công tác kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử ở cả cấp sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm.

- Hạn chế bước đầu tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm.

- Hoạt động kiểm sát thi hành án đã được tiến hành toàn diện và phát hiện ra nhiều vi phạm pháp luật trong thi hành án. Tình trạng không thi hành các bản án hình sự đã có chiều hướng giảm. Thi hành án dân sự, hành chính, lao động, kinh tế tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng đã có những bước chuyển biến nhất định.

Tuy nhiên, trong công tác kiểm sát vẫn còn những thiếu sót trong khởi tố các vụ án hình sự, hiện tượng hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế vẫn còn, các vụ án hình sự bị toà án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung vẫn cao (8,5% trên phạm vi toàn quốc). Việc thực hiện quyền công tố tại phiên toà chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng, vẫn còn những vụ án hình sự oan. Viện Kiểm sát còn chậm phát hiện ra những sai sót của toà án trong quá trình xét xử. Vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự vẫn xảy ra nhiều, một số hoạt động thi hành án còn bị bỏ ngỏ chưa được kiểm sát (án treo, cải tạo không giam giữ,...).

Hoạt động điều tra đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát chưa được kịp thời, tỷ lệ phát hiện các tội phạm này còn thấp. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp chưa triệt để. Công tác thống kê tội phạm còn ở mức độ thấp.

2.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án

Từ sau khi có Hiến pháp năm 1992, tổ chức và hoạt động của toà án đã có những thay đổi lớn. Việc quản lý các TAND địa phương về tổ chức về cơ bản đã tập trung vào Bộ Tư pháp tạo thuận lợi cho TANDTC thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất trong xét xử. Đã thành lập các toà chuyên trách phù hợp với sự phát triển các quan hệ kinh tế - dân sự, xã hội và quá trình dân chủ hoá nước ta thời kỳ đổi mới như Toà Dân sự, Toà Kinh tế, Toà Lao động và Toà Hành chính. Điều chỉnh phù hợp thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế, lao động và hành chính theo hướng bảo đảm số Thẩm phán nhiều hơn Hội thẩm nhân dân. Mở rộng và phân định lại thẩm quyền xét xử của toà án các cấp theo hướng từng bước tăng thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện. Tiêu chuẩn hoá điều kiện tuyển chọn, bổ nhiệm, nâng ngạch thẩm phán. Thay chế độ Thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu được duy trì từ năm 1960 đến năm 1992 bằng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán.

Về công tác quản lý toà án địa phương, từ năm 1981 Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức; nhiệm vụ này được chuyển cho toà án nhân dân tối cao từ tháng 10/2002.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán, thư ký toà án đã có một bước ngoặt cơ bản về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo hướng tiêu chuẩn hoá các chức danh này. Cơ sở vật chất cho hoạt động của toà án đã có những bước đổi mới mạnh mẽ, tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử có hiệu quả.

 Về hiệu quả xét xử của toà án

Trong điều kiện vừa củng cố tổ chức, đội ngũ cán bộ, vừa khắc phục những khó khăn chung của đất nước và của ngành tư pháp, trong những năm đổi mới, các toà án đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị. Hiệu quả xét xử đã được nâng lên một bước, đáp ứng yêu cầu mới của tình hình đất nước.

Tiêu chí về số lượng vụ án đã xét xử.

Tiêu chí về số lượng dựa trên hai căn cứ chủ yếu sau đây:

- Số lượng án được giải quyết/tổng số án thụ lý/tháng hoặc năm.

- Số lượng án được giải quyết/tổng số án thụ lý/số thẩm phán/tháng hoặc năm.

Theo thống kê của TANDTC, tỷ lệ xét xử các loại án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính từ 2000 đến 2004 đạt khoảng 85% - 90% so với tổng số vụ toà án đã thụ lý. Án tồn đọng không nhiều. Số vụ án của mỗi thẩm phán phải xét xử hàng tháng, hàng năm, nếu tính bình quân trên cả nước chưa phải là cao. Tuy nhiên, ở một số thành phố lớn, Thẩm phán bị quá tải, khó hoàn thành chỉ tiêu xét xử về số lượng. Ví dụ: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh: 1 Thẩm phán xử 9-11 vụ/tháng; Các tỉnh khác: thẩm phán xử 5-6 vụ/tháng. Còn toà án cấp huyện ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh: 1 Thẩm phán xử bình quân 5-6 vụ/tháng, cá biệt có Thẩm phán xử tới 13-15 vụ/tháng; trong khi đó ở các tỉnh đồng bằng: 3-4 vụ/tháng; các tỉnh miền núi: 2-3 vụ/tháng.                Tiêu chí về chất lượng xét xử.

- Về chất lượng phiên toà, thực tế cho thấy việc thực hiện nguyên tắc công khai đã có những tiến bộ rõ rệt. Nhiều phiên toà đã thu hút sự tham dự, quan sát của công chúng, nhất là những phiên toà xét xử lưu động (năm 2004 các Toà án xét xử hơn 2000 vụ lưu động), các phiên toà có truyền hình trực tiếp như vụ án Năm Cam, vụ án Lã Thị Kim Oanh; hoặc thông báo kết quả xét xử nhiều vụ án lớn trên phương tiện thông tin đại chúng đã phát huy tác dụng giáo dục pháp luật của các phiên toà. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận đã thể hiện sự đồng tình với nhiều bản án hình sự của Toà án (riêng án dân sự, nhất là về tranh chấp đất đai, nhà cửa thì chưa có sự đồng tình cao của nhân dân).

- Về tuân thủ thời hạn xét xử, đa số vụ án đã được giải quyết trong thời hạn luật quy định (năm 2005, toàn ngành Toà án đã giải quyết 171.587 vụ án trong tổng số 208.299 vụ án đã thụ lý) nên số vụ án tồn đọng không nhiều. Theo đánh giá của Toà án nhân dân tối cao thì hầu hết các vụ án được đưa ra xét xử đúng thời hạn quy định của pháp luật, đã khắc phục về cơ bản tình trạng để quá thời hạn xét xử mà những năm trước thường diễn ra đối với cả án hình sự và án dân sự, hành chính.

- Về thực hiện nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động của toà án: "Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Nguyên tắc độc lập xét xử đã được thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh hơn. Sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức, của một số cán bộ, cấp uỷ hay chính quyền vào quá trình giải quyết vụ án đã giảm nhiều. Các thẩm phán với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và bản lĩnh của mình đã thể hiện rõ tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, đấu tranh với những biểu hiện can thiệp vào quá trình xét xử vụ án từ nhiều phía.

- Về mức độ thực hiện tranh tụng tại phiên toà, có thể thấy việc tranh tụng tại phiên toà ngày càng được tôn trọng. Các phiên toà mẫu theo hướng dẫn của TANDTC đã được tổ chức nghiêm túc với tinh thần tranh tụng dân chủ.

- Về chất lượng xét xử, việc toà án cấp sơ thẩm phát hiện những sai sót của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát đã có những tiến bộ rõ rệt. Nhiều toà án cấp sơ thẩm đã trả lại hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung nhằm tránh việc bỏ lọt tội phạm hoặc oan, sai. Ví dụ, năm 2002, các Toà án cấp sơ thẩm đã hoàn lại hồ sơ cho Viện Kiểm sát 3961 vụ với 7141 bị cáo để diều tra lại. Toà án cấp phúc thẩm cũng đã phát hiện ra nhiều sai sót của Toà sơ thẩm trong đó có những trường hợp oan, sai, do đó đã sửa hoặc huỷ bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại. Ví dụ, năm 2004, tỷ lệ án sơ thẩm hình sự bị Toà phúc thẩm huỷ là 0,21%, án dân sự là 0,36%.

Toà án cấp giám đốc thẩm: Qua công tác xét xử phần giám đốc thẩm, toà án cấp giám đốc thẩm đã phát hiện ra nhiều sai sót ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm, ví dụ năm 2002 toà án cấp giám đốc thẩm xét xử 474 vụ án hình sự, tuyên vô tội 5 vụ, huỷ để xét xử lại 219 vụ; án dân sự xét xử 614 vụ, trong đó huỷ để xét xử lại 215 vụ.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của toà án vẫn còn bộc lộ nhiều điểm, hạn chế, đó là:

- Duy trì quá lâu tổ chức toà án và các cơ quan tư pháp theo địa giới hành chính. Mô hình tổ chức toà án theo địa giới hành chính - lãnh thổ là không phù hợp nếu tính đến sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền hiện tại và tương lai.

- Thủ tục tố tụng hiện nay còn nhiều điểm chưa hợp lý. Việc tranh tụng chưa trở thành một nguyên tắc mà mới là một cách thức của tố tụng. Cách hiểu về tranh tụng còn rất khác nhau nên việc áp dụng tranh tụng chưa thống nhất.

- Đội ngũ cán bộ toà án nhất là Thẩm phán tuy đã được củng cố, tăng cường nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, nhất là khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế.

- Cơ sở vật chất, phương tiện và kinh phí hoạt động của các toà án vẫn còn thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động và chưa đảm bảo tính tôn nghiêm của cơ quan xét xử... Kinh phí hàng năm cho Toà án vẫn đang thực hiện theo hạn mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp mà chưa tính đầy đủ đến đặc thù của hoạt động xét xử.

Nguyên nhân của những hạn chế này là:

Thứ nhất, về nhận thức, trong một thời gian dài nhà nước và xã hội đều chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp, nhất là vị trí của toà án.

Thứ hai, về tổ chức, Toà án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử nhưng mỗi cấp xét xử lại có nhiều thẩm quyền (cả sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm). Chính vì vậy mà việc giải quyết vụ án phải qua rất nhiều tầng nấc, kéo dài.

Thứ ba, chưa thực sự bảo đảm được sự tham gia giám sát của nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Toà án

Thứ tư, sự lãnh đạo của một số cấp uỷ Đảng đối với toà án còn nhiều bất cập, hạn chế.

2.4. Về tổ chức và hoạt động thi hành án.

Trên cơ sở xây dựng, hoàn thiện và phát triển hệ thống tư pháp hình sự như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, đặc biệt là các văn bản về công tác thi hành án hình sự như Pháp lệnh thi hành án phạt tù, Quy chế trại giam..., công tác thi hành án hình sự dần dần đi vào nề nếp làm thay đổi một bước quan trọng công tác quản lý, giam giữ, giáo dục và cải tạo các đối tượng thi hành án hình sự, từng bước khắc phục tồn tại, thiếu sót của của cơ chế thi hành án hình sự cũ.

Tổ chức bộ máy của các cơ quan thi hành án dân sự từng bước được củng cố, điều chỉnh và đổi mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Công tác thi hành án dân sự được tách ra khỏi Toà án, chuyển giao cho cơ quan Chính phủ và được thành lập thành một hệ thống từ trung ương đến địa phương theo đơn vị hành chính cấp tỉnh và huyện.

Đội ngũ cán bộ thi hành án đã được củng cố và tăng cường, được đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Cơ chế quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ, sự phân cấp quản lý cũng như sự phối hợp quản lý đã tạo ra một cơ chế tương đối thích hợp giúp cho hoạt động thi hành án dân sự được thống nhất trong toàn quốc. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thi hành án được bảo đảm tốt hơn. Tuy vẫn ở mức thấp so với một số lĩnh vực khác, song đó là một bước tiến lớn đáp ứng về cơ bản nhu cầu hoạt động thi hành án. Ngoài ra, Nhà nước đã chi một khoản lớn từ ngân sách để xây dựng trụ sở và đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho các cơ quan thi hành án.

Một số hạn chế trong tổ chức và hoạt động thi hành án

Biểu hiện tập trung của những tồn tại trong công tác thi hành án chính là hiệu quả, hiệu lực của công tác thi hành án chưa cao.

Thứ nhất, Pháp luật về thi hành án đã bộc lộ nhiều tồn tại cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới như: nhiều quy định chưa cụ thể, nhiều vấn đề nảy sinh trong hoạt động thi hành án chưa được pháp luật về thi hành án điều chỉnh. Văn bản được ban hành còn thiếu quy định về cơ chế, điều kiện đảm bảo thực hiện, nên hiệu lực thi hành thấp. Các văn bản do các bộ, ngành ban hành chiếm một tỷ lệ rất lớn trong hệ thống quy phạm pháp luật về thi hành án, điều đó dẫn tới tình trạng các quy định chồng chéo và kém hiệu lực. Thiết chế bảo đảm thi hành án còn thiếu và yếu, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp và cơ quan thi hành án nói riêng chưa được phân định rõ ràng.

Thứ hai, những khó khăn, bất cập trong tổ chức và hoạt động thi hành án hiện nay là công tác quản lý tổ chức thi hành án hiện nay đang trong tình trạng phân tán, không tập trung, có quá nhiều cơ quan nhà nước đảm nhiệm. (Bộ Công an thi hành án phạt tù, án tử hình, án trục xuất; UBND cấp xã, các cơ quan tổ chức, đoàn thể thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ; Cơ quan thi hành án dân sự thi hành các bản án, quyết định dân sự, hành chính phần dân sự trong các bản án hình sự...). Chính tình trạng phân tán, không tập trung về quản lý và tổ chức thi hành án đã dẫn đến sự phối hợp giữa các cơ quan này chưa thật đồng bộ, nhiều khi chồng chéo, dẫn đến tình trạng hiệu lực, hiệu quả thi hành án còn thấp. Về cơ chế và thủ tục tổ chức thi hành án vốn đã được quy định thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ trong các văn bản pháp luật, trên thực tế, lại được thực hiện không chặt chẽ giữa các ngành, các cấp chính quyền và đoàn thể quần chúng.

Thứ ba, lượng án tồn đọng chưa thi hành đang có xu hướng ngày một tăng, kể cả trong thi hành án hình sự lẫn thi hành án dân sự. Đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án hiện nay chưa thực sự đáp ứng được thực tiễn thi hành án.

2.5. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức bổ trợ tư pháp

- Tổ chức và hoạt động luật sư giai đoạn 1987-2001

Tổ chức và hoạt động luật sư là một trong những vấn đề được quan tâm nhất trong tiến trình cải cách tư pháp. Năm 1987, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh luật sư. Sau đó, Chính phủ đã ban hành “Quy chế Đoàn luật sư” (Nghị định số 15/HĐBT ngày 21-2-1989). Từ 1987 đến năm 2001, có 61 Đoàn Luật sư/61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã được thành lập.

Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 quy định người muốn gia nhập Đoàn luật sư phải có bằng cử nhân luật hoặc có trình độ tương đương đại học pháp lý. Luật sư có thể kiêm nhiệm, vừa là công chức vừa tham gia hoạt động luật sư (trừ công chức thuộc các ngành điều tra, toà án, kiểm sát và một số chức danh quản lý ở các cơ quan pháp luật khác). Trước khi có Pháp lệnh luật sư 2001, số luật sư kiêm nhiệm ở các Đoàn luật sư chiếm khoảng 40% tổng số luật sư của cả nước. Số luật sư chuyên trách thời kỳ này đa phần là cán bộ tư pháp đã nghỉ hưu.

Kể từ khi được thành lập, mặc dù còn có khó khăn về nhiều mặt nhưng các Đoàn luật sư đã triển khai nhanh chóng hoạt động nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân và tổ chức. Các Đoàn luật sư hoạt động mạnh và có hiệu quả là Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh và Đoàn luật sư Hà Nội. Hoạt động tích cực của đội ngũ luật sư đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức, đồng thời qua đó cũng nâng cao uy tín nghề nghiệp của luật sư.

Sau hơn 13 năm thực hiện Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987, năm 2001, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh luật sư mới thay thế pháp lệnh luật sư 1987. Pháp lệnh Luật sư 2001 khẳng định luật sư là một nghề trong xã hội và mang tính chuyên nghiệp cao.

Về tiêu chuẩn chuyên môn, Pháp lệnh Luật sư 2001 đưa ra đòi hỏi cao hơn đối với người làm nghề luật sư. Người muốn được công nhận là luật sư thì sau khi tốt nghiệp đại học luật còn phải qua một khoá đào tạo luật sư và qua thời gian tập sự là 24 tháng. Pháp lệnh còn quy định cán bộ, công chức không được hành nghề luật sư. (Đây là điểm khác cơ bản đối với Pháp lệnh luật sư 1987).

Đội ngũ luật sư đã được tăng cường. Nếu như năm 1989, cả nước chỉ có 186 luật sư thì đến tháng 6/2005 đã là 3418 luật sư/không còn luật sư kiêm nhiệm. Luật sư được hành nghề theo hình thức Văn phòng luật sư hoặc Công ty hợp danh. (Tính đến tháng 6/2005, cả nước có 814 Văn phòng luật sư và 5 Công ty hợp danh của luật sư.

Chất lượng tham gia tố tụng của luật sư cũng được nâng cao một bước đặc biệt là từ sau khi Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 08/NQ-TƯ ngày 2/1/2002, trong đó nhấn mạnh yêu cầu mở rộng tranh tụng bình đẳng giữa kiểm sát viên và luật sư. Dư luận xã hội đã đánh giá cao vai trò của luật sư trong nhiều vụ án điển hình như vụ án vườn điều, vụ án đua xe trái phép gây hậu quả nghiêm trọng làm chết 3 học sinh ở đường Láng Hoà Lạc, Hà Nội...

Về số lượng: theo thống kê của 49/62 Đoàn luật sư, tính đến 5/2005, các luật sư đã thực hiện 42.850 vụ việc tư vấn pháp luật, trong đó 16722 vụ việc tư vấn miễn phí thông qua hợp tác với các Trung tâm trợ giúp pháp lý và tại Văn phòng luật sư.

- Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng

 Sự phát triển các quan hệ kinh tế thị trường đã đặt ra những nhu cầu mới đối với hoạt động công chứng, do đó, chỉ trong vòng chưa đến 10 năm (từ 1991-2000), Chính phủ đã ban hành liên tiếp 3 bản Nghị định thay thế nhau về tổ chức và hoạt động Công chứng - Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước; Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 1996 cụ thể hoá một số quy định về công chứng trong Bộ luật Dân sự (29 điều) và gần đây nhất là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực.

Mô hình chung của cơ quan công chứng chuyên trách là các Phòng công chứng nhưng tên gọi có thay đổi: từ Phòng công chứng nhà nước sang Phòng công chứng (Nghị định số 75 năm 2000). Ngoài ra, hệ thống công chứng, chứng thực còn bao gồm Uỷ ban nhân dân các cấp huyện, xã và các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.Theo Nghị định số 75 năm 2000, tính đến đầu năm 2005, số Phòng công chứng đã lên đến 111 với hơn 300 công chứng viên. 100% công chứng viên đã tốt nghiệp Đại học Luật.

Về số lượng việc đã tiến hành công chứng, tính trung bình mỗi ngày một công chứng viên ở thành phố lớn (Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh) phải tiếp nhận từ 15 đến 40 hợp đồng; có Phòng công chứng mỗi ngày tiếp nhận 700-900 khách hàng yêu cầu công chứng. Nhìn chung các Phòng công chứng đã có nhiều cố gắng, khắc phục tình trạng quá tải công việc, điều kiện tài liệu, cơ sở vật chất hạn chế để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động công chứng hiện nay còn nhiều điểm bất cập. Đó là chưa xác định rõ bản chất của văn bản công chứng ở nước ta là công chứng hình thức theo hệ Anh - Mỹ hay là công chứng nội dung theo hệ la-tinh; trình tự, thủ tục công chứng chưa hợp lý, chưa thuận lợi cho người có nhu cầu công chứng; việc đào tạo, bổ nhiệm công chứng viên, tuyển dụng nhân viên nghiệp vụ chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng, chế độ đãi ngộ đối với công chứng viên chưa tương xứng với cường độ làm việc và trách nhiệm; ở các thành phố lớn, kinh tế phát triển thì hoạt động công chứng sôi nổi tấp nập, còn những tỉnh miền núi, kinh tế kém phát triển thì hoạt động công chứng cũng kém phát triển. Những bất cập này đang được nghiên cứu khắc phục trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật công chứng.

- Về tổ chức và hoạt động giám định tư pháp

Sau khi có Bộ luật Tố tụng hình sự, năm 1988, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117-HĐBT về giám định tư pháp. Sau này, Pháp lệnh Giám định tư pháp được ban hành năm 2004 đã xác định rõ hình thức pháp lý của các tổ chức giám định tư pháp. Theo Pháp lệnh, các tổ chức giám định tư pháp được thành lập trong 3 lĩnh vực: pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự.

Hệ thống tổ chức giám định pháp y gồm: Viện pháp y quốc gia; Trung tâm pháp y cấp tỉnh; Viện pháp y quân đội và Trung tâm pháp y thuộc Viện khoa học hình sự Bộ Công an.

Hệ thống tổ chức giám định pháp y tâm thần gồm: Viện giám định pháp y tâm thần trung ương; Trung tâm giám định pháp y tâm thần thuộc Bệnh viện tâm thần cấp tỉnh.

Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự gồm: Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh; Tổ chức kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng.

            Trong những năm qua, các tổ chức giám định tư pháp đã phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động tố tụng, giúp cho các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử giải quyết các vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Thực tế cho thấy, phần lớn số lượng vụ việc giám định được thực hiện chủ yếu là theo trưng cầu của cơ quan điều tra, có nghĩa là hoạt động giám định tư pháp chủ yếu phục vụ cho hoạt động tố tụng hình sự. Cùng với sự mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án về giải quyết các tranh chấp kinh tế, lao động và hành chính, các nhu cầu giám định của hoạt động tố tụng dân sự nói chung ngày càng tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ trong số các vụ việc giám định tư pháp được thực hiện hàng năm.

Tổ chức và hoạt động giám định tư pháp hiện nay đang gặp phải những khó khăn, đó là:

Một là, về cơ sở pháp lý, Pháp lệnh giám định tư pháp có một số quy định vẫn chỉ dừng lại ở nguyên tắc mà chưa giải quyết được những vấn đề cụ thể mà thực tiễn đặt ra. (Như giám định cho cá nhân thực hiện; giải quyết trường hợp xung đột kết luận giám định).

Hai là, đội ngũ người làm giám định vừa thiếu và yếu, phần lớn chỉ là cán bộ chuyên môn được bổ nhiệm làm giám định viên mà chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ giám định và kiến thức pháp lý cần thiết.

Ba là, điều kiện vật chất và phương tiện làm việc của các tổ chức giám định tư pháp còn rất thiếu thốn, lạc hậu.

2.6. Về thủ tục tư pháp

Pháp luật về thủ tục tố tụng hình sự và thi hành án hình sự

Năm 1988 là điểm mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của pháp luật tố tụng hình sự nước ta khi Quốc hội ban hành Bộ luật tố tụng hình sự. Trên cơ sở Bộ luật này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như: Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh thi hành án phạt tù, các nghị định của Chính phủ ban hành quy chế tạm giữ, tạm giam, về thi hành các biện pháp tư pháp như giáo dục tại xã phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng; các thông tư liên ngành hướng dẫn công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Sau gần 15 năm thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự, năm 2003, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự mới để thay thế cho Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Đây là một bước hoàn thiện rất cơ bản pháp luật tố tụng hình sự và có thể coi đây là lần pháp điển hoá thứ hai của pháp luật về tố tụng hình sự.

Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã quy định tương đối đầy đủ và chặt chẽ về các thủ tục tố tụng, bảo đảm được yêu cầu đấu tranh chống tội phạm và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, vẫn còn những quy định chưa phù hợp như:

- Về thủ tục rút gọn: quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mới chủ yếu rút ngắn về thời gian và chỉ áp dụng ở thủ tục sơ thẩm. Thủ tục rút gọn cần được nghiên cứu tiếp tục từ góc độ đơn giản hoá thủ tục xét xử, thành phần xét xử và thẩm quyền xét xử.

- Về thủ tục thi hành án: thứ nhất, đối với thi hành hình phạt tử hình: đây là vấn đề rất bức xúc trong thực tiễn, nhưng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 vẫn giữ nguyên nội dung như Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Còn về thi hành hình phạt tù: hiện nay ở nước ta đang tồn tại hai hệ thống nhà tù (trại giam). Một hệ thống do lực lượng Công an quản lý, một hệ thống do Quân đội quản lý.

Về thủ tục tố tụng dân sự (kinh tế, lao động) và thi hành án dân sự (kinh tế, lao động).

            Từ năm 1989 đến giữa những năm 90, Nhà nước đã ban hành các Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; các vụ án kinh tế, các vụ án hành chính và các tranh chấp lao động. Các Pháp lệnh nói trên đã phát huy hiệu lực trong thực tế, đáp ứng được một phần đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.

Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Quốc hội đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005. Bộ luật này đã thể hiện được tinh thần đổi mới thủ tục tố tụng đối với các vụ án dân sự. Bộ luật ghi nhận các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự như quyền tự định đoạt, nghĩa vụ chứng minh, thu thập chứng cứ của các đương sự. Bộ luật có phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm: tố tụng dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh tế, lao động và một số quy định về thi hành án.

            Thẩm quyền của Toà án được quy định rõ ràng và cụ thể theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở toà án nhân dân cấp huyện.

            Về chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự: các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong trường hợp thật cần thiết.

Ngoài ra, Bộ luật tố tụng dân sự cũng quy định rõ hơn và cụ thể hơn về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời về hoà giải trong quá trình tố tụng; về quy trình tố tụng đối với mỗi loại án; về quyền yêu cầu thi hành án; thời hiệu thi hành án v.v...

Về đổi mới thủ tục tố tụng hành chính

Tố tụng hành chính là một vấn đề mới cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn của hoạt động tư pháp ở Việt Nam, được Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định từ năm 1996. Đây là một bước tiến mới trong việc tăng cường dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Theo thủ tục này, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Toà án hành chính giải quyết các vụ án hành chính theo trình tự: khởi kiện, thụ lý; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. (Tuy nhiên, điều kiện để khởi kiện vụ án hành chính có hạn chế hơn so với khởi kiện vụ án dân sự).

Qua phân tích quá trình đổi mới hệ thống tư pháp trong 20 năm đổi mới, bên cạnh những kết quả, thành tựu bước đầu rất có ý nghĩa của tiến trình cải cách tư pháp, vẫn có thể thấy còn nhiều hạn chế và nhược điểm, đó là:

- Việc đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp chậm, chưa theo kịp với tiến trình đổi mới kinh tế - xã hội. Chất lượng hoạt động tư pháp còn nhiều hạn chế, bất cập và chưa thật sự trở thành nhân tố thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển

- Thủ tục tố tụng tư pháp hiện nay còn nhiều điểm chưa hợp lý, quy trình tố tụng vẫn đang bị cắt khúc, thủ tục, quy trình tố tụng còn mang tính bao cấp, chưa thật sự phù hợp với quan hệ kinh tế thị trường.

 - Tính độc lập của các cơ quan tư pháp, các chức danh tư pháp còn nhiều hạn chế.

- Tính chuyên nghiệp của đội ngũ các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp chưa cao,

- Mạng lưới hỗ trợ pháp luật, hỗ trợ nhân dân tiếp cận hệ thống tư pháp còn yếu.

Những hạn chế, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về khách quan:

- Qua 20 năm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong điều kiện tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một thời gian chưa đủ dài để xoá bỏ hẳn tư duy của cơ chế tập trung, quan liêu. Mặt khác cũng chưa phải là một thời gian đủ để đúc rút, tích luỹ những kinh nghiệm xây dựng một khung pháp luật có hiệu lực, hiệu quả, đủ khả năng điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong nền kinh tế thị trường.

- Không có sẵn một mô hình của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, trong khi đó nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế, toàn cầu hoá trong quan hệ kinh tế đang diễn ra một cách nhanh chóng, đòi hỏi nhà nước và pháp luật phải có những thích ứng nhanh chóng. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về tư pháp nói riêng của chúng ta phải xây dựng, hoàn thiện trong điều kiện vừa tìm tòi, vừa rút kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập, thậm chí sai sót.

Về chủ quan:

- Về mặt lịch sử văn hoá, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật của người dân chưa cao, kể cả cán bộ, công chức; những mặt trái của kinh tế thị trường như sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, cùng với xu hướng hội nhập quốc tế và khu vực phát sinh nhiều quan hệ xã hội mới, những yếu tố mới cả tích cực và tiêu cực đan xen, đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của hệ thống tư pháp và sự nhìn nhận của nhân dân về hệ thống đó.

- Từ 2004 trở về trước, chưa có một chiến lược tổng thể xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, chiến lược toàn diện về cải cách tư pháp nói riêng nên chưa xác định được những giải pháp đồng bộ ở tầm dài hạn tạo sự kết nối chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật, giữa cải cách lập pháp và cải cách hành chính tư pháp.

- Nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ và chưa thống nhất về vị trí, vai trò của hệ thống tư pháp trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ngay trong một bộ phận lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các cấp.

- Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu và yếu. Tuy đã từng bước được tăng cường nhưng so với yêu cầu thực tế vẫn còn thiếu hụt về số lượng, năng lực trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ tư pháp còn yếu, một số ít có tiêu cực, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức.

- Nhà nước chưa đầu tư đầy đủ, tương xứng về cơ sở vật chất cho công tác tư pháp; chưa có chính sách phù hợp về đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ tư pháp; chưa đầu tư đúng mức về kinh phí xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động của các cơ quan tư pháp...

- Chưa phát huy được đầy đủ sức mạnh của toàn xã hội trong hoạt động tư pháp theo tinh thần "mỗi người dân không trừ một ai phải tham gia vào quản lý nhà nước, vào hoạt động xét xử".

- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp còn những điểm bất cập. Sự lãnh đạo của một số cấp uỷ Đảng đối với công tác tư pháp chưa chặt chẽ, vừa có tình trạng buông lỏng, thiếu quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, chưa chú ý đúng mức đến đào tạo, bố trí, quản lý đội ngũ cán bộ tư pháp, lại vừa có tình trạng lãnh đạo của một số địa phương hoặc ngành can thiệp không đúng pháp luật vào hoạt động nghiệp vụ cụ thể của các cơ quan tư pháp.

 

CHƯƠNG III

CẢI CÁCH T­­Ư PHÁP TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

 

I. QUAN NIỆM CẢI CÁCH TƯ PHÁP, CÁC TIỀN ĐỀ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN.

1. Quan niệm về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Nhiều công trình nghiên cứu gần đây ở Việt Nam đã thống nhất ở luận điểm rằng Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định mà là một phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền có những nguyên tắc, yêu cầu đặc trưng về phương thức tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước mà tất cả các thiết chế nhà nước và xã hội phải tuân thủ. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp theo các nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam sẽ mang tính chất của các cuộc cải cách.

Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là quá trình đổi mới toàn diện hệ thống tư pháp với trung tâm là hoạt động xét xử nhằm mục tiêu làm cho tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ngày càng thể hiện đầy đủ, đúng đắn bản chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân của quyền tư pháp, phù hợp với các nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và nhà nước Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Cải cách tư pháp ở Việt Nam có những yêu cầu khách quan, đó là:

Thứ nhất: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với những đặc trưng như quyền tự do kinh doanh, tự do bình đẳng trong các giao dịch dân sự, kinh tế, sự cạnh tranh lành mạnh,... đòi hỏi phải được bảo đảm bằng các thiết chế tư pháp, thông qua thủ tục tư pháp. Các cơ quan tư pháp mà toà án là trung tâm không chỉ bảo vệ các quyền sở hữu, tự do kinh doanh mà còn tạo điều kiện cho hoạt động kinh tế phát triển, bảo đảm môi trường kinh doanh ổn định và lành mạnh. Toà án phải là chỗ dựa tin cậy cho người dân để họ có thể thực hiện nguyên tắc được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm.

Thứ hai, trong Nhà nước pháp quyền XHCN, quyền con người, quyền công dân luôn được tôn trọng, đề cao và được bảo vệ. Các cơ quan tư pháp phải là chỗ dựa vững chắc để công dân bảo vệ và thực hiện quyền tự do, dân chủ của mình.

Thứ ba, trong điều kiện tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, các vi phạm pháp luật, các tranh chấp ngày một nhiều, người dân và xã hội đòi hỏi ngày càng cao đối với các cơ quan tư pháp trong việc đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, giải quyết các tranh chấp trong xã hội, bảo đảm công bằng, công lý, bảo đảm cho môi trường xã hội ổn định, lành mạnh để phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội.

Thứ tư, để thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp, việc củng cố và tăng cường các cơ quan, tổ chức hỗ trợ cho hoạt động tư pháp là rất cần thiết nhằm bảo đảm cho các cơ quan tư pháp mà khâu trung tâm là toà án hoạt động tốt hơn và hiệu quả hơn.

Thứ năm, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đòi hỏi phải cải cách các cơ quan tư pháp cho phù hợp. Toà án và các cơ quan tư pháp Việt Nam thông qua hoạt động của mình góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, củng cố và tăng cường hợp tác, đầu tư về kinh tế của các đối tác nước ngoài theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hoà bình, hữu nghị và phát triển.

2. Các tiền đề và thách thức đối với công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

Bước vào thiên niên kỷ mới, công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sảnViệt Nam đã đạt đến bước phát triển mới, tạo nên những tiền đề và cũng là những thách thức lớn về kinh tế, chính trị, xã hội đòi hỏi phải có những điều chỉnh lớn mang tính cải cách đối với thiết kế tổng thể của hệ thống tư pháp. Đó là các tiền đề sau đây:

            Đổi mới (hay cải cách kinh tế) theo các mục tiêu dài hạn trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hộ 2001-2010 tiếp tục giữ vai trò tiên phong tạo tiền đề về vật chất và tư duy cho các cuộc cải cách khác, trong đó có cải cách tư pháp.

            Công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta ở cả 4 cấp độ - toàn cầu, khu vực, song phương và đơn phương đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới, tác động ngày càng rộng và mạnh mẽ lên hệ thống pháp luật và tư pháp.

            Đổi mới văn hoá, xã hội, giáo dục đã từng bước tạo lập môi trường và các giá trị tinh thần, nguồn nhân lực cho các cuộc cải cách trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có cải cách tư pháp.

Đổi mới hệ thống chính trị mà mục tiêu là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã đặt trọng tâm vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong đó tư pháp bao gồm các thiết chế có nhiệm vụ bảo vệ công lý.

Qua bốn năm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã tạo ra nhiều tiền đề quan trọng cho việc xây dựng một chiến lược dài hạn về cải cách tư pháp. Và chiến lược cải cách tư pháp đã được Bộ Chính trị thông qua ngày 02/6/2005.

            Có thể thấy, công cuộc đổi mới toàn diện đã tạo ra những tiền đề đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn cho cải cách tư pháp nhìn từ góc độ ba bộ phận trụ cột của đổi mới - đổi mới kinh tế, đổi mới văn hoá, xã hội và đổi mới hệ thống chính trị.

II/ MỤC TIÊU, CÁC QUAN ĐIỂM KHOA HỌC VỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

1. Phương pháp luận và các cách tiếp cận để hình thành các quan điểm khoa học về cải cách tư pháp

 Với phép biện chứng duy vật là phương pháp luận, các quan điểm khoa học chi phối việc nghiên cứu cải cách tư pháp cần được hình thành từ các cách tiếp cận sau:

- Cách tiếp cận thực tiễn: Cải cách tư pháp nói riêng, cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị được nghiên cứu không tách rời với thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Cách tiếp cận hệ thống và toàn diện: Cải cách tư pháp là cải cách một bộ phận của cơ cấu quyền lực nhà nước nằm trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị đang diễn ra cùng với đổi mới kinh tế, văn hoá, giáo dục...

 - Cách tiếp cận cải cách tư pháp trong trạng thái động: Việc cải cách tư pháp (cái bộ phận, cái riêng) diễn ra trong điều kiện bản thân nhà nước (cái tổng thể, cái chung) cũng đang trong quá trình cải cách, hoàn thiện để tiệm cận tới các giá trị đích thực của nhà nước pháp quyền XHCN, nghĩa là cả tiểu hệ thống và hệ thống đều ở trong trạng thái động. Vì chưa có mô hình ổn định, nên các thiết kế trong cải cách tương lai phải mang tính dự báo khoa học phản ánh xu thế vận động khách quan của đối tượng nghiên cứu từ quá khứ, hiện tại đến tương lai.

2. Mục tiêu cải cách tư pháp

Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam XHCN. Hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

Nội dung cơ bản của cải cách tư pháp là xác định lại đúng vị trí, chức năng, thẩm quyền của mỗi cơ quan tư pháp, tổ chức bổ trợ tư pháp trong mối quan hệ với vai trò và vị trí trung tâm của toà án, từ đó đưa ra các giải pháp đổi mới cơ bản, đồng bộ về thể chế tổ chức, phương thức hoạt động của từng cơ quan, tổ chức và của cả hệ thống tư pháp theo các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trước tiên là yêu cầu về tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân, tính dân chủ, minh bạch, công khai và hiệu quả trong hoạt động của toàn bộ hệ thống tư pháp.

3. Các quan điểm cải cách tư pháp

Thứ nhất, cải cách tư pháp phải xuất phát từ nhu cầu và điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ hai, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN phải đảm bảo giữ vững và phát huy bản chất dân chủ, vì con người và bảo vệ quyền con người của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Thứ ba, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN phải được tiến hành đồng bộ với cải cách lập pháp, hành pháp theo hướng đảm bảo tính độc lập tương đối và sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực trên cơ sở quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

 Thứ tư, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền phải đảm bảo tính tối cao của luật trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đảm bảo cải cách đồng bộ cả hệ thống tư pháp với Toà án và hoạt động xét xử là trung tâm.

Thứ năm, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp phải dựa trên việc khai thác, phát huy các giá trị văn hoá pháp luật truyền thống của Việt Nam đồng thời tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá pháp luật thế giới trong lĩnh vực tư pháp nói riêng, trong tổ chức lao động quyền lực nói chung theo các nguyên tắc pháp quyền.

III/ CÁC YÊU CẦU CƠ BẢN ĐỐI VỚI CẢI CÁCH HỆ THỐNG TƯ PHÁP

            Các yêu cầu đặt ra cho cải cách tư pháp được coi là những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN.

          1. Yêu cầu tư pháp dân chủ, gần dân, hiểu dân, giúp dân

Bản chất dân chủ của nền tư pháp thể hiện ở tính nhân dân của nền tư pháp được thiết kế theo tư tưởng Hồ Chí Minh về một nền tư pháp của dân, do dân, vì dân như đã phân tích ở phần quan điểm.

Yêu cầu tư pháp gần dân đòi hỏi cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng ngày một công khai, minh bạch, giản tiện, dễ tiếp cận hơn đối với người dân khi họ cần đến sự bảo hộ hay can thiệp của hệ thống tư pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Yêu cầu tư pháp hiểu dân đòi hỏi các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp đặc biệt là thẩm phán, phải có đủ năng lực hiểu và giải quyết những việc của người dân trong điều kiện mới- điều kiện của nền kinh tế thị trường đang chuyển đổi và bắt đầu phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Yêu cầu tư pháp giúp dân đòi hỏi tính hiệu quả của hệ thống tư pháp phải được cải thiện cơ bản. Hệ thống tư pháp chỉ giúp được dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi mọi việc của người dân trong lĩnh vực tư pháp đều phải được các cơ quan tư pháp phát hiện hoặc tiếp nhận, xem xét, xử lý, giải quyết kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật và hiệu quả,

            Như vậy, yêu cầu tư pháp dân chủ, gần dân, hiểu dân, giúp dân thực chất là làm cho hệ thống tư pháp giản tiện, dễ tiếp cận, hoạt động theo đúng pháp luật, nhanh chóng và hiệu quả.

2. Yêu cầu tư pháp công khai, nghiêm minh, công bằng, nhân đạo, thể hiện trách nhiệm trước nhân dân, trước nhà nước

Tư pháp là biểu hiện của công lý, lẽ phải. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, yêu cầu này đòi hỏi:

- Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp với khâu đột phá là nâng cao chất lượng tranh tụng công khai, dân chủ, công bằng tại các phiên toà, bảo đảm cho mọi cá nhân, tổ chức có cơ hội bình đẳng thực sự trước toà án đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

- Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp, đặc biệt là hoạt động bào chữa, tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý cho một số đối tượng đặc biệt trong xã hội như người nghèo, người thuộc diện chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm cho họ có được khả năng tối thiểu để tiếp cận hệ thống tư pháp.

3. Yêu cầu đảm bảo nguyên tắc độc lập, khách quan của các cơ quan và chức danh tư pháp trong khi thực hiện quyền tư pháp

Phương thức đặc thù để thực hiện quyền tư pháp là tài phán theo quy trình - phán đoán, phán xét và phán quyết. Yêu cầu tiên quyết để thực hiện đúng đắn phương thức này là tính độc lập, khách quan của những người chịu trách nhiệm tiến hành các hoạt động tư pháp, bổ trợ tư pháp. Trong đó tính độc lập của toà án với tư cách là cơ quan giữ lại vị trí trung tâm của toàn bộ hệ thống tư pháp cần được bảo đảm ở mức cao nhất.

Giới hạn duy nhất đối với tính độc lập, khách quan của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp là sự ràng buộc phải tuân thủ pháp luật trong khi thực hiện các hoạt động tư pháp, bổ trợ tư pháp. Vì vậy, yêu cầu về tính độc lập, khách quan phải được cụ thể hoá thành các quy định pháp luật, đặc biệt là quy định rõ ràng về vị trí, thẩm quyền của từng cơ quan tư pháp; về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của từng chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp trong các quan hệ tố tụng.

IV/ NHỮNG NỘI DUNG CỦA CÁCH TƯ PHÁP

          1. Hoàn thiện thể chế về tư pháp

1.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự - Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự theo hướng đề cao tính nhân đạo trong xử lý tội phạm. Cần tiếp tục sửa đổi BLHS năm 1999 theo hướng phi tội phạm hoá một số hành vi như kinh doanh trái phép, vô ý gây thiệt hại đến tài sản,... thay thế bằng biện pháp xử lý hành chính hay các biện pháp khác. Điều chỉnh việc áp dụng các hình phạt tù giam với các hình phạt không phải là tù giam theo hướng giảm áp dụng hình phạt tù và tăng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số hành vi như các tội phạm về môi trường, các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Áp dụng hạn chế hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Bổ sung thêm đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc không phải thi hành án tử hình. Khắc phục tình trạng hình sự hoá các quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự. Nhưng cũng cần thiết phải tội phạm hoá một số hành vi nguy hiểm cho xã hội mới phát hiện như tội phạm công nghệ cao, tội phạm liên quan đến trật tự quản lý kinh tế,... Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với các loại tội phạm mà chủ thể là những người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.

- Hoàn thiện chính sách, pháp luật dân sự theo hướng phải xác định rõ, cụ thể quyền và nghĩa vụ về tài sản của Nhà nước, cá nhân, tổ chức. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chế định sở hữu, quyền tự do kinh doanh, hợp đồng. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác. Tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tài chính công, về tài nguyên và môi trường. Xây dựng và hoàn thiện chế định bồi thường và bồi hoàn, nhất là việc bồi thường của nhà nước cho các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do lỗi của nhân viên trong các cơ quan nhà nước.

 1.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng tư pháp:

+ Các quy định của pháp luật TTHS cần được hoàn thiện theo hướng mở rộng quyền hạn cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp. Trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cần xác định rõ hơn những căn cứ tạm giam; hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo. Đồng thời quy định chặt chẽ hơn nữa những căn cứ kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với các vụ án có đủ một số điều kiện nhất định.

+ Hoàn thiện các quy định về pháp luật TTDS theo hướng đề cao trách nhiệm và quyền tự định đoạt, chứng minh của các đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp và yêu cầu của họ trước toà án. Tiến tới thực hiện cơ chế toà án không xác minh, thu thập chứng cứ trong các vụ án dân sự mà chỉ trực tiếp giải quyết vụ việc trên cơ sở những chứng cứ các bên đương sự đưa ra và kết quả tranh tụng tại phiên toà. Nhà nước phải phát triển các loại hình dịch vụ công để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật tố tụng dân sự cũng cần đi theo hướng khuyến khích cơ chế tự thoả thuận của các bên trong giải quyết vụ án dân sự hoặc thông qua các hình thức giải quyết tranh chấp ngoài toà án, phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế.

+ Các quy định về tố tụng hành chính cần mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với các khiếu kiện hành chính tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân với cơ quan nhà nước trước toà án.   

2. Cải cách tổ chức và hoạt động của toà án, nâng cao hiệu quả xét xử

2.1. Xác định lại thẩm quyền của toà án và thiết kế mới mô hình tổ chức của các toà án

Thứ nhất, mở rộng thẩm quyền xét xử chung của toà án , đảm bảo toà án có thẩm quyền xét xử các hành vi phạm tội, các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội khi người dân có yêu cầu. Bởi vì công dân có quyền và được khuyến khích lựa chọn các phương thức khác nhau (thương lượng, trung gian hoà giải, trọng tài, khiếu nại hành chính...) để giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành chính chứ không phải toà án là cơ quan duy nhất giải quyết các tranh chấp. Nhưng khi công dân đã có yêu cầu toà án giải quyết thì toà án không được khứớc từ nếu thấy đúng thẩm quyền. Trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, yêu cầu này về thẩm quyền xét xử của toà án đã được bảo đảm. Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp lao động, cần mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án theo hướng, trong các vụ tranh chấp tập thể các bên có quyền nhưng không bắt buộc phải qua hoà giải, trọng tài rồi mới được khởi kiện ra toà án. Trong lĩnh vực hành chính, thẩm quyền xét xử hành chính của toà án phải được mở rộng theo hướng mọi khiếu nại đối với các quyết định, hành vi hành chính đều có thể được toà án xem xét bằng thủ tục tố tụng.

Đối với toà án quân sự, cần tiếp tục nghiên cứu xác định lại thẩm quyền và vị trí, tổ chức của toà án quân sự theo hướng đây là các toà chuyên trách của toà án nhân dân (từ Toà tối cao đến Toà sơ thẩm khu vực) với thẩm quyền xét xử hạn chế. (Chỉ xét xử đối với những hành vi liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ thể đặc biệt là quân nhân và khách thể đặc biệt là bí mật quân sự).

Thứ hai, trên cơ sở nguyên tắc hai cấp xét xử, phân định lại thẩm quyền xét xử trên cơ sở tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền, không phụ thuộc vào địa giới hành chính.

Việc phân định lại thẩm quyền xét xử giữa toà án các cấp hiện nay phải tiếp tục theo hướng đảm bảo toà án mỗi cấp chủ yếu thực hiện một loại thẩm quyền xét xử (theo việc) sơ thẩm hoặc phúc thẩm, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng một toà án thực hiện cả thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Việc phân định thẩm quyền như vậy vừa xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp toà án, vừa bảo đảm được nguyên tắc độc lập xét xử. Theo tinh thần đó, mô hình tổ chức hệ thống Tòa án được thiết kế theo các bước như sau:

Phương án trước mắt (bước 1), theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện hiện nay, hệ thống toà án bao gồm:

- Tòa án sơ thẩm khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính. Các Toà án sơ thẩm được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện.

- Tòa phúc thẩm (hay có thể gọi là tòa án cấp tỉnh, tương đương tòa án cấp tỉnh hiện nay), ở mỗi tỉnh có một toà án này, có thẩm quyền chủ yếu là xét xử phúc thẩm các bản án do Toà án khu vực xử sơ thẩm nhưng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; đồng thời Toà phúc thẩm (tòa án cấp tỉnh) cũng có thẩm quyền xử sơ thẩm một số ít vụ án đặc biệt phức tạp, nghiêm trọng.

- Tòa thượng thẩm khu vực/miền (thay cho các Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao hiện nay) thực hiện chức năng xét xử phúc thẩm các vụ án do Toà phúc thẩm (tòa án cấp tỉnh) xử theo trình tự sơ thẩm nhưng bị kháng cáo, kháng nghị. Các Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực/ miền không phụ thuộc vào đơn vị hành chính- lãnh thổ.

- Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ, là toà duy nhất có thẩm quyền xét xử theo thủ tục đặc biệt giám đốc thẩm, tái thẩm đối với số ít bản án do các Tòa án cấp dưới xử đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị.

Phương án 1 này phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam trong 10 đến 15 năm tới. Trong điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống pháp luật, đội ngũ các chức danh tư pháp như hiện nay thì việc tổ chức lại hệ thống toà án như vậy là thích hợp. Tuy nhiên, việc tổ chức lại hệ thống toà án không thể thực hiện cục bộ mà phải đồng bộ với việc thiết kế lại cơ quan công tố, điều tra, thi hành án và một số thiết chế bổ trợ tư pháp khác. Đồng thời cũng phải giải quyết hợp lý vấn đề khác như quản lý các TAND địa phương về tổ chức, vấn đề lãnh đạo của Đảng đối với toà án, vấn đề luân chuyển thẩm phán và cán bộ toà án khi hệ thống toà án có thay đổi.

Nếu thực hiện tốt bước 1 sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc tổ chức mô hình toà án trong tương lai (bước 2). 

Phương án lâu dài (bước 2), hệ thống toà án sẽ được tổ chức theo mô hình tố tụng tranh tụng, cả trong TTHS và TTDS, đặc biệt là trong TTHS. Bởi lẽ hiệu quả của TTHS phải được xem xét trên các khía cạnh: đấu tranh có hiệu quả với tội phạm; bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền con người, phát huy dân chủ, bảo vệ pháp chế XHCN. Các mục tiêu trên đây có thể đạt được ở mức cao nhất trong tố tụng tranh tụng. bởi vì tố tụng tranh tụng là một nguyên tắc rất cơ bản của tư pháp, khẳng định ở đâu có buộc tội thì ở đó phải có gỡ tội, đó là phương pháp khoa học để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Căn cứ vào thẩm quyền xét xử của toà án, có thể thiết kế mô hình tương lai của toà án nước ta sau năm 2020 như sau:

- Toà án sơ thẩm: Xét xử sơ thẩm toàn bộ các vụ án

- Toà án Phúc thẩm: Xét xử phúc thẩm toàn bộ các vụ án

- Toà án Tối cao: Giám đốc thẩm, tái thẩm, hướng dẫn đường lối xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật. Ở toà án tối cao cần thành lập các Hội đồng Giám đốc thẩm chuyên ngành (hình sự, dân sự, kinh tế…) do các Thẩm phán chuyên sâu về từng lĩnh vực đảm nhận việc xét xử.

Phương án lâu dài (bước 2) này đòi hỏi phải có các điều kiện rất hoàn chỉnh về cơ sở vật chất, về sự hoàn thiện pháp luật ở mức cao, văn hoá pháp lý và ý thức pháp luật của nhân dân phải ở trình độ tiên tiến. Đội ngũ thẩm phán và các chức danh tư pháp có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao, thể hiện bản lĩnh và tính độc lập của mình. Các cơ quan tư pháp và các tổ chức bổ trợ tư pháp phải cùng chia sẻ quyền năng trong giải quyết vụ án.

MÔ HÌNH TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN

 

PHƯƠNG ÁN TRƯỚC MẮT

 

 

PHƯƠNG ÁN LÂU DÀI

đến sau năm 2020

 

 

Toà án tối cao

 

 


Toà án tối cao

Giám đốc thẩm, tái thẩm,

hướng dẫn đường lối xét xử

và áp dụng thống nhất pháp luật

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Tòa thượng thẩm

khu vực/miền

 

 

 

 


Tòa phúc thẩm

Xét xử phúc thẩm toàn bộ

 

 

 

 

 

 


Tòa phúc thẩm khu vực

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Tòa án sơ thẩm khu vực 

 

 


Tòa án sơ thẩm

Xét xử sơ thẩm toàn bộ các vụ án (khu vực)

 

 

 

Thứ ba, xác định lại thẩm quyền các toà chuyên trách và tổ chức các toà chuyên trách trong hệ thống toà án nhân dân. Nguyên lý chung là không hình thành các hệ thống toà độc lập ở các cấp để làm nhiệm vụ chuyên trách xét xử hành vi phạm tội theo chủ thể (ví dụ người chưa thành niên) hay theo lĩnh vực (ví dụ kinh tế, lao động,...) mà chỉ thành lập các toà chuyên trách hoặc phân công các thẩm phán chuyên trách ngay trong cơ cấu của mỗi toà án thẩm quyền chung.

Cần có các giải pháp cải cách thủ tục hành chính trong các toà án nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, đảm bảo mọi yêu cầu hợp pháp của người dân, doanh nghiệp đều phải được toà án tiếp nhận để giải quyết.

2.2. Nâng cao tính độc lập, nghiêm minh của hoạt động xét xử

Tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải được xem xét trong 3 mối quan hệ:

- Độc lập của toà án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân trước các tác động từ bên ngoài hệ thống toà án như tác động của các cơ quan nhà nước, tác động của các cơ quan Đảng , các tổ chức xã hội; tác động của các cơ quan, những người tiến hành tố tụng khác  hoặc tác động của những người tham gia tố tụng (bị cáo và gia đình, các đương sự, các luật sư ..).

- Độc lập của mỗi toà án, mỗi thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong các mối quan hệ nội bộ hệ thống toà án. Đó là sự độc lập giữa các cấp toà án, độc lập trong một toà án - giữa thẩm phán, hội thẩm được phân công xét xử vụ án với Chánh án, Chánh toà (theo nguyên tắc quan hệ hành chính không được can thiệp, lấn sân của quan hệ tố tụng) và cuối cùng là độc lập giữa các thành viên của một Hội đồng xét xử, nhất là giữa thẩm phán với các hội thẩm nhân dân.

- Độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân với chính bản thân mình, đây là cấp độ độc lập tinh tế và sâu xa nhất khi mỗi người làm công tác xét xử phải đối mặt với những xung đột giữa tri thức, trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp và những vấn đề thuộc cuộc sống riêng tư (lợi ích vật chất, tinh thần, tình cảm...).

Để nâng cao tính độc lập của toà án trong nhà nước pháp quyền, cần thực hiện các biện pháp nhằm loại trừ những yếu tố tác động đến tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong cả 3 mối quan hệ trên. Đó là các biện pháp:

(1). Tổ chức toà án theo thẩm quyền (sơ thẩm, phúc thẩm, thương thẩm - và toà án nhân dân tối cao) như đã nêu ở phần mô hình là điều kiện rất quan trọng bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử. Với mô hình toà án như vậy, sẽ hạn chế được sự can thiệp trái pháp luật của một số cán bộ cơ quan Đảng, đoàn thể hay chính quyền địa phương.

(2). Tổ chức toà án theo thẩm quyền phải đảm bảo mối quan hệ giữa toà án cấp trên và toà án cấp dưới chủ yếu là quan hệ tố tụng, .

Việc xác định lại thẩm quyền của từng cấp toà án theo hướng tiến tới mỗi cấp toà chỉ có một thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hay giám đốc thẩm, tái thẩm là tiền đề về tổ chức đảm bảo cho quan hệ giữa các cấp toà án sẽ chủ yếu là quan hệ tố tụng. Toà án tối cao tập trung vào nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xét xử, phát triển án lệ và hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử.  Việc hướng dẫn xét xử của Toà án tối cao phải được thể hiện bằng hình thức các văn bản quy phạm có tính áp dụng chung và bằng các án lệ được công nhận như một nguồn luật bổ sung. Đồng thời nghiên cứu việc trao cho Toà án tối cao thẩm quyền giải thích luật và xác lập hiệu lực thi hành của sự giải thích đó, ít nhất là trong hệ thống toà án. Mọi hình thức hướng dẫn, chỉ đạo xét xử không chính thức khác của toà án cấp trên đối với toà án cấp dưới trong từng vụ án cụ thể hiện nay thường được coi là “lề lối làm việc nội bộ” cần chấm dứt càng sớm càng tốt. để nâng cao tính độc lập của thẩm phán

Yêu cầu phi hành chính hoá quan hệ tố tụng giữa chánh án hoặc chức danh lãnh đạo khác và các thẩm phán trong một cơ quan toà án là một bảo đảm cho tính độc lập trong hoạt động xét xử. Chánh án, chánh toà chuyên trách hay bất cứ một chức danh lãnh đạo hành chính nào ngoài việc quản lý nội bộ cơ quan toà án đều không được can thiệp, chỉ đạo các thẩm phán, hội thẩm nhân dân về nội dung, đường lối xét xử, áp dụng pháp luật của từng vụ án cụ thể, không được yêu cầu thẩm phán phải báo cáo, thỉnh thị, chấp hành sự chỉ đạo của mình dù vì bất cứ lý do, động cơ nào. Chánh án khi hành động với tư cách là một thẩm phán cũng có các quyền và nghĩa vụ bình đẳng như mọi thành viên Hội đồng xét xử

(3). Nâng cao năng lực của thẩm phán trong việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử và hoàn toàn chịu trách nhiệm về các phán quyết của mình.

Cùng với việc tạo lập, hoàn thiện các cơ chế nhằm loại trừ các yếu tố tổ chức - hành chính bên ngoài hệ thống và ngay trong hệ thống toà án có thể tác động đến tính độc lập của hoạt động xét xử, vấn đề trọng tâm và cấp thiết hiện nay, theo chúng tôi là nghiên cứu trình Quốc hội ban hành Luật về Quy chế độc lập của thẩm phán. Địa vị pháp lý độc lập và những bảo đảm pháp lý khác đối với thẩm phán không phải là một đặc quyền cho thẩm phán, vì lợi ích của thẩm phán mà thực chất đó là công cụ cơ bản để bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người dân và để khẳng định vị trí tối cao của luật trong nhà nước pháp quyền. Luật/Quy chế độc lập của thẩm phán cần có những nội dung mới cơ bản so với quy định hiện hành về cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, sử dụng và chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán,

Mặt khác, một vấn đề có tính lý luận đang còn để ngỏ cho việc nghiên cứu được đặt ra từ thực tiễn, đó là việc xác định trách nhiệm cá nhân của thẩm phán về án oan sai  trong điều kiện của Việt Nam khi mà tính độc lập tự quyết, tự chịu trách nhiệm của thẩm phán chưa thật sự được bảo đảm trên thực tế. Một kết quả khảo sát gần đây về thực tiễn thi hành Nghị quyết số 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho thấy rõ các thẩm phán, công tố viên, điều tra viên và cả luật sư đều cho rằng, khi chưa có những quy định rõ ràng và cơ chế bảo đảm thực thi chế độ trách nhiệm độc lập của từng chức danh tư pháp thì về nguyên tắc, chỉ nên quy định Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường cho công dân về những oan sai mà họ phải gánh chịu trong hoạt động tố tụng mà chưa đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm bồi hoàn của cá nhân “người có thẩm quyền gây oan sai” trừ khi người đó có lỗi cố ý vi phạm pháp luật dẫn đến oan sai.

         (4). Tiếp tục đổi mới chế định Hội thẩm tham gia xét xử

Hội thẩm là một chế định tồn tại với truyền thống hơn 60 năm trong nền tư pháp dân chủ ở Việt Nam. Trong cải cách tư pháp, chế định Hội thẩm - một chế định đại diện của nhân dân tham gia xét xử được đặt ra. Có nhiều ý kiến về việc bỏ chế độ Hội thẩm hoặc thay chế độ Hội thẩm bằng hình thức khác mà vẫn bảo đảm cho tính nhân dân trong xét xử. Tuy nhiên, với đặc điểm của Việt Nam  hiện nay vẫn  cần tiếp tục duy trì chế độ Hội thẩm tham gia xét xử nhưng có những thay đổi về vị trí và vai trò của họ trong Hội đồng xét xử.

Trước tiên, hội thẩm nhân dân chỉ nên là thành phần số ít trong Hội đồng xét xử tất cả các vụ án chứ không chỉ trong tố tụng hành chính như hiện nay vửa bảo đảm tính chuyên nghiệp của hoạt động xét xử, vừa bảo đảm có đại diện của nhân dân tham gia xét xử. Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến việc hội thẩm nhân dân không cần tham gia xét xử các vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn (sẽ trình bày kỹ ở phần cải cách thủ tục tư pháp).        

Thứ hai, cách thức lựa chọn hội thẩm nhân dân cũng cần thay đổi để phù hợp với mô hình tổ chức toà án theo hai cấp xét xử. Trước mắt, đối với các toà án khu vực, trên cơ sở cân nhắc nhu cầu thực tiễn, Chánh án Toà án khu vực sẽ kiến nghị với Chánh án Toà án tối cao việc phân bổ số lượng hội thẩm hợp lý cho từng địa phương thuộc quản hạt của mình để trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định. Hội thẩm ở địa phương nào (huyện, tỉnh) vẫn do Hội đồng nhân dân cấp đó bầu, giám sát và cùng chịu sự quản lý của Chánh án Toà án khu vực. Còn về lâu dài, nên tập trung thẩm quyền bầu hoặc giới thiệu hội thẩm nhân dân về một cấp - đó là Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, điều đó sẽ góp phần đảm bảo tính độc lập của các hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử, nhất là xét xử các vụ án có liên quan đến các cơ quan công quyền hay các quan chức trên địa bàn các huyện thuộc quản hạt của toà án khu vực.

Thứ ba, cần nghiên cứu về vai trò, thẩm quyền của hội thẩm nhân dân trong khi tham gia xét xử. Cải cách tư pháp sẽ không đi theo hướng "chuyên môn hoá", "thẩm phán hoá" Hội thẩm mà trái lại, tiếp tục duy trì và củng cố chế định này theo hướng lựa chọn những người có khả năng, kiến thức và kinh nghiệm xã hội cần thiết với hiểu biết pháp luật ở mức "đại chúng" của các tầng lớp nhân dân. Khi hội thẩm nhân dân còn ngang quyền với thẩm phán trong việc ra phán quyết thì họ cần được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức độ rất cơ bản để có thể tham gia xét xử có hiệu quả, tránh hiện tượng hình thức hay chủ quan, cảm tính trong khi xét xử. Còn nếu Hội thẩm tham gia quá trình xét xử chủ yếu để phản ánh thái độ, phản ứng, cách nhìn nhận của người dân đối với các hành vi vi phạm pháp luật, các tranh chấp thì họ không nhất thiết phải đóng vai trò của thẩm phán, tức là cũng phải  áp dụng luật  để ra bản án.

(5) Về đổi mới mối quan hệ lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với Toà án các cấp. Theo tinh thần cải cách, khi toà án được tổ chức không hoàn toàn theo địa giới hành chính thì phương án hợp lý là giao trách nhiệm cho một cấp uỷ đảng địa phương duy nhất - đó là cơ quan đảng cấp tỉnh lãnh đạo tất cả các toà án đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cả toà sơ thẩm khu vực và toà phúc thẩm). Nội dung lãnh đạo của các cấp uỷ đảng tập trung chủ yếu vào công tác giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn để cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm vào các chức danh chủ chốt của toà án các cấp và kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện điều lệ Đảng. Tổ chức Đảng, cấp uỷ Đảng và đảng viên trong từng cơ quan toà án, đặc biệt là đảng viên giữ chức danh lãnh đạo, chức danh tư pháp phải tự chịu trách nhiệm độc lập trước Đảng, trước Nhà nước và nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ xét xử theo đúng đường lối của Đảng đã được thể chế hoá thành pháp luật của Nhà nước. Nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với toà án phải được quy chế hoá một cách minh bạch phù hợp với hiến pháp, luật, phù hợp với đặc thù lãnh đạo đối với toà án và phải công khai thực hiện dưới sự giám sát của nhân dân.

2.4. Mô hình cơ quan bảo hiến và mối liên quan với hệ thống toà án tư pháp trong tiến trình cải cách tư pháp

Hiện nay, ở nước ta, việc bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm để Hiến pháp được tôn trọng và thực thi đang được giao cho nhiều cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền. Các quy định pháp luật về giám sát và bảo vệ Hiến pháp vừa thiếu, vừa rải rác ở nhiều văn bản khác nhau. Toà án thì không có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, nhu cầu thực tế của bảo vệ Hiến pháp – xét cho cùng là bảo vệ cơ sở pháp lý cao nhất để bảo vệ quyền dân chủ của công dân – lại đang đặt ra bức xúc. Vì vậy, cần thiết phải có cơ chế bảo vệ Hiến pháp.  

Hoạt động bảo hiến phải được xác định là hoạt động tài phán đặc biệt do tính chất đặc biệt của đối tượng tài phán – đó là các hành vi và kết quả của hành vi quyền lực có dấu hiệu vi phạm hiến pháp (vi hiến) do các cơ quan, công chức đại diện cho quyền lâp pháp, hành pháp, tư pháp thực hiện. Đồng thời cũng do tính chất đặc biệt của khách thể được bảo vệ - đó là các quy định của Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước. Do tính chất tài phán của hoạt động bảo hiến, do vị trí độc lập cần có của cơ quan bảo hiến và thẩm phán bảo hiến nên cơ quan bảo hiến phải là cơ quan chuyên trách và có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước. Tên gọi phù hợp của cơ quan bảo hiến trong tương lai của nước ta có thể là Toà án Hiến pháp. Toà án Hiến pháp không thuộc hệ thống toà án tư pháp hiện nay, hoạt động theo một quy trình và thủ tục riêng.

3. Cải cách tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

3.1. Xác định lại chức năng của Viện kiểm sát

Trong khi thực hiện các bước của cải cách toà án thì chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát nhân dân cũng cần định hướng xây dựng theo hai bước. Trước mắt, giữ nguyên chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành.

Về lâu dài, Viện Kiểm sát phải chuyển thành Viện công tố thuộc Chính phủ, chỉ thực hiện một chức năng là thực hành quyền công tố đồng thời tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra. Có thể coi đây là bước cải cách tất yếu tiếp theo để đưa mô hình tổ chức và hoạt động công tố của nước ta hội nhập với mô hình công tố phổ biến trên thế giới với các lý do sau:

Thứ nhất, công tố là một chức năng không tách rời của Chính phủ vì Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng, chịu trách nhiệm trước nhân dân về tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm. Do đó, . mô hình chung có tính phổ biến ở nhiều nước là Viện công tố trực thuộc Chính phủ  hoặc trực thuộc Bộ trưởng Bộ Tư pháp  [[5]]  chịu trách nhiệm thay mặt Chính phủ  truy tố tội phạm và buộc tội trước toà  (dù là trong hệ thống tố tụng tranh tụng (Vương quốc Anh, Úc) hay hệ thống tố tụng thẩm vấn (Pháp, Đức)).

 Thứ hai, với vị trí là trung tâm của chức năng truy tố, buộc tội, tại các nước theo tố tụng thẩm vấn, Viện Công tố phải đồng thời là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra: cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra theo yêu cầu của Viện công tố; mọi kết luận điều tra đều phải có phê chuẩn của Viện Công tố mới có giá trị pháp lý. Tại phiên toà, công tố viên thực hiện chức năng buộc tội, tham gia tranh tụng và chịu trách nhiệm hoàn toàn về những chứng cứ buộc tội thu thập được trong quá trình điều tra. Cơ chế này bảo đảm tính hiệu quả, thống nhất và liên tục của quy trình tố tụng tư pháp, nâng cao chất lượng truy tố và tranh tụng của công tố viên tại phiên toà.

Thứ ba, từ chức năng, vị trí của Viện Công tố trong Chính phủ như đã phân tích ở trên, ở nhiều nước, phạm vi công tố chỉ giới hạn trong lĩnh vực hình sự nghĩa là trong việc đại diện cho quyền lực công truy tố tội phạm và buộc tội người có hành vi phạm tội trước toà. Cần nghiên cứu mở rộng phạm vi tư tố theo nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ tối đa quyền tự định đoạt của các bên trong các vụ án phi hình sự; quyền thoả thuận “chuộc tội” của công dân trong các vụ án hình sự [[6]].. Trong các vụ án phi hình sự, Viện công tố chỉ thực hiện chức năng của luật sư công để đại diện và bảo vệ quyền lợi của nhà nước khi nhà nước là một bên trong vụ án.và cung cấp dịch vụ pháp lý cho các chính quyền địa phương và các cơ quan Nhà nước.

3.2. Mô hình của Viện Kiểm sát (bước 1)

Hoạt động truy tố và buộc tội gắn liền với hoạt động xét xử của toà án, do vậy, tổ chức của Viện kiểm sát trước mắt và Viện Công tố về lâu dài phải phù hợp với mô hình tổ chức toà án trong tiến trình cải cách tư pháp.

Mô hình của Viện Kiểm sát (bước 1)

Khi toà án chuyển sang mô hình tổ chức theo nguyên tắc hai cấp xét xử thì Viện Kiểm sát sẽ được tổ chức tương ứng với các cấp toà án, thực hiện hai nhiệm vụ là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án:

            - Viện Kiểm sát sơ thẩm khu vực;

            - Viện Kiểm sát phúc thẩm khu vực;

            - Viện Kiểm sát thượng thẩm khu vực;

            - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Khi thực hiện bước 2 của cải cách toà án thì Viện Kiểm sát các cấp sẽ chuyển thành Viện Công tố trực thuộc Chính phủ và lúc đó Viện Công tố chỉ thực hiện chức năng công tố trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Hệ thống Viện Công tố sẽ được thiết kế phù hợp với mô hình hệ thống toà án: Viện công tố sơ thẩm, Viện công tố phúc thẩm, Viện công tố Trung ương

MÔ HÌNH TỔ CHỨC HỆ THỐNG CƠ QUAN CÔNG TỐ

PHƯƠNG ÁN TRƯỚC MẮT

 

 

PHƯƠNG ÁN LÂU DÀI ĐẾN SAU NĂM 2020
(Viện Công tố trực thuộc Chính phủ chỉ thực hiện chức năng công tố trong lĩnh vực TTHS)

 

 

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

 


Viện Công tố trung ương

 

 

 

 

 

 

 

Viện Kiểm sát thượng thẩm
khu vực/miền

 

 

 

 


Viện Công tố phúc thẩm

 

 

 

 

 

Viện Kiểm sát phúc thẩm
khu vực

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Viện Kiểm sát sơ thẩm khu vực

 


Viện Công tố sơ thẩm

 

 

          4. Cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra

4.1. Xác định lại vị trí và phạm vi thẩm quyền của các cơ quan điều tra:

Công tác phòng chống vi phạm pháp luật, tội phạm, hoạt động điều tra phát hiện hành vi phạm tội để đưa ra xét xử tại toà án là một trong các nhiệm vụ thuộc chức năng tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh của các cơ quan hành pháp. Do vậy, cơ quan điều tra là một bộ phận của hệ thống hành pháp, tham gia thực hiện quyền tư pháp thông qua vai trò hỗ trợ, phục vụ cho chức năng công tố của Viện kiểm sát. Tính chất hành chính và tư pháp của hoạt động điều tra đòi hỏi tổ chức hệ thống cơ quan điều tra phải đáp ứng yêu cầu hoạt động độc lập, trách nhiệm rõ ràng, chỉ tuân thủ pháp luật, bộ máy gọn nhẹ, chỉ đạo thông suốt.

Về quan hệ giữa cơ quan điều tra và cơ quan công tố: Tại các nước theo mô hình tranh tụng và nguyên tắc truy tố tuỳ nghi, cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra khá rộng rãi và giữ vai trò khá độc lập với công tố nhưng lại chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của toà án và luật về chứng cứ. Tại các nước theo truyền thống luật thành văn với nguyên tắc truy tố bắt buộc, quá trình điều tra do cảnh sát tư pháp và cơ quan công tố cùng tiến hành từ ngay sau khi nhận được tin báo tội phạm, trong đó, công tố viên nắm vai trò chỉ đạo quá trình điều tra ( Pháp, Italia, Đức..), đưa ra các chỉ dẫn mang tính chất chuyên môn, phương hướng điều tra; việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là do công tố viên đề nghị và thẩm phán quyết định. Yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam là thừa nhận vai trò, trách nhiệm chỉ đạo của công tố đối với hoạt động điều tra là phù hợp với mô hình tố tụng thẩm vấn kết hợp mở rộng tranh tụng nhằm khắc phục tình trạng phân tán, manh mún về thẩm quyền, cắt khúc trong tố tụng..

Vê trách nhiệm của cơ quan điều tra chuyên trách và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra: các cơ quan điều tra chuyên trách có thẩm quyền điều tra hầu hết các loại tội phạm (trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của toà án quân sự và những tội phạm do Viện kiểm sát trực tiếp điều tra); các cơ quan khác như kiểm lâm, biên phòng, cảnh sát giao thông, cảnh sát phòng cháy chữa cháy... chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ.

4.2. Mô hình tổ chức của các cơ quan điều tra

 Trong những năm trước mắt, các cơ quan điều tra vẫn giữ như hiện nay cho phù hợp với bước 1 của cải cách Toà án và Viện Kiểm sát. Còn về lâu dài, khi bước 2 của cải cách Toà án và Viện Kiểm sát được thực hiện sẽ tổ chức cơ quan điều tra theo hướng hiện đại, tập trung và có tính độc lập cao, phản ứng nhanh nhạy trong đấu tranh chống tội phạm. Cơ quan điều tra sẽ được tổ chức theo hệ thống riêng, không bắt buộc gắn với đơn vị hành chính (Tổng cục điều tra hình sự thuộc Chính phủ, cục điều tra ở cấp tỉnh và phòng điều tra ở cấp huyện).

5. Cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án

          5.1. Xác định đúng bản chất và các nguyên tắc cơ bản của từng loại thi hành án:

(i) Thi hành án hình sự phải thể hiện đầy đủ, sâu sắc tính chuyên chính của nhà nước (mục đích trừng trị) và tính nhân đạo (mục đích giáo dục) trong đó, mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội hoàn lương phải được coi là mục đích cao nhất và cuối cùng của toàn bộ hệ thống tư pháp hình sự

Để tăng cường mục đích giáo dục của thi hành án hình sự, đặc biệt là thi hành án phạt tù cần đặc biệt nhấn mạnh hai nội dung: dân sự hoá môi trường giáo dục - cải tạo trong trại giam và tái hoà nhập cộng đồng đối với người chấp hành án phạt tù.

Thứ nhất, dân sự hoá môi trường giáo dục -cải tạo phạm nhân trong trại giam trước tiên bằng việc phân biệt 2 lực lượng quản giáo thuần tuý dân sự và công an bảo vệ trong các trại giam, không nên tiếp tục tình trạng quản giáo đồng thời là công an bảo vệ dẫn đến khép kín quy trình cải tạo, giáo dục phạm nhân. Đồng thời tăng cường rà soát, đánh giá thực trạng cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của lực lượng bảo vệ và quản lý giam giữ, điều kiện giam giữ, ăn, ở, sinh hoạt của người bị tạm giữ, tạm giam và phạm nhân ở các nhà tạm giữ, trại tạm giam, các trại giam. Trên cơ sở kết quả rà soát, tiến hành xây dựng Đề án trang bị phương tiện, cải tạo, nâng cấp các nhà giam giữ, trại tạm giam và các trại giam.

Thứ hai,  thực hiện các giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình tái hoà nhập cộng đồng của các phạm nhân trong các trại giam, học viên là người chưa thành niên trong các trường giáo dưỡng. Quá trình tài hoà nhập cộng đồng phải bắt đầu ngay trong các hoạt động giáo dục văn hoá, giáo dục nghề cho phạm nhân tại trại giam và tiếp tục sau khi họ đã chấp hành xong hình phạt

(ii) Trong thi hành án dân sự đề cao nguyên tắc thi hành án là việc của đôi bên, cơ chế chính là các bên tự nguyện thi hành, Nhà nước chỉ can thiệp khi các bên không tự nguyện, tránh tình trạng án dân sự vốn là việc của hai bên với nhau lại chuyển thành nợ của nhà nước. không thể khoán trắng cho nhà nước toàn bộ. Từ đó, một trong những hướng cải cách quan trọng là thực hiện xã hội hoá một số hoạt động thi hành án.

Về phạm vi xã hội hóa: trước mắt, xã hội hóa một số hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự. Cụ thể là việc tống đạt các văn bản, giấy tờ thi hành án dân sự và xác minh tài sản của người phải thi hành án.

Trong tương lai, giải pháp lâu dài và căn bản là cần xã hội hóa tất cả các việc thi hành án dân sự theo yêu cầu. Đây sẽ 1à phương án tối ưu nhất, cho phép giải quyết cơ bản việc xã hội hóa công tác thi hành án dân sự, giảm đáng kể gánh nặng công việc cho bộ máy Nhà nước

Ngoài ra cũng cần nghiên cứu xem xét phương án xã hội hoá thi hành án theo mô hình bán công đang được áp dụng thành công ở một số nước như Cộng hoà liên Bang Đức, Nhật Bản... ưu điểm của mô hình này là vừa thực hiện xã hội hoá một phần lớn hoạt động thi hành án, nhưng mặt khác vẫn đảm bảo việc Nhà nước chủ động thi hành trong một số trường hợp thu cho Ngân sách Nhà nước hoặc nhằm thực hiện một số chính sách xã hội như: thi hành án đối với đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa..v..v

Ngoài ra cũng cần nghiên cứu xem xét phương án xã hội hoá thi hành án theo mô hình bán công đang được áp dụng thành công ở một số nước như Cộng hoà liên Bang Đức, Nhật Bản... ưu điểm của mô hình này là vừa thực hiện xã hội hoá một phần lớn hoạt động thi hành án, nhưng mặt khác vẫn đảm bảo việc Nhà nước chủ động thi hành trong một số trường hợp thu cho Ngân sách Nhà nước hoặc nhằm thực hiện một số chính sách xã hội như: thi hành án đối với đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa..v..v

5.1. Xác định rõ thi hành án là hoạt động hành chính – tư pháp

Thi hành án không phải là hoạt động tố tụng mà là hoạt động hành chính tư pháp, do vậy tổ chức và hoạt động thi hành án phải thể hiện được đặc điểm này.

Cần phân biệt rõ các loại thủ tục thi hành án cơ bản: thủ tục thi hành án hình sự (phạt tù, tử hình); thủ tục thi hành án dân sự (cả án thương mại, kinh tế); thủ tục thi hành án.

5.2. Về mô hình tổ chức cơ quan thi hành án

Trước tiên cần nhận thức rõ việc tập trung quản lý nhà nước về công tác thi hành án về một đầu mối nhằm khắc phục tình trạng tản mạn, thiếu tập trung, thống nhất, thậm chí “bỏ sót” trách nhiệm trong công tác quản lý thi hành án, đảm bảo tốt hơn tính gắn kết, liên thông giữa các loại thi hành án với nhau (ví dụ thi hành án dân sự trong án hình sự, án dân sự trong án hành chính; chuyển từ biện pháp tư pháp sang hình phạt tù hoặc ngược lại....); tạo điều kiện bảo đảm quy hoạch tổng thể đầu tư cho công tác thi hành án

Theo tinh thần đó, mô hình cơ quan thi hành án cần được thiết kế theo hướng sau đây:

Bộ Tư pháp quản lý thống nhất công tác thi hành án (bao gồm thi hành án dân sự, hình sự, hành chính, kinh tế, lao động, trọng tài...) bao gồm cả quản lý tổ chức và nghiệp vụ thi hành án. Hệ thống cơ quan thi hành án được thành lập từ Trung ương đến địa phương. Ở Trung ương có Tổng cục thi hành án thuộc Bộ Tư pháp, trong đó có Cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án hình sự. Ở các địa phương có cơ quan thi hành án cấp tỉnh (hay Cục thi hành án) trực thuộc Tổng cục thi hành án; cơ quan thi hành án cấp huyện (hay Chi cục thi hành án) trực thuộc Cục thi hành án. Các cơ quan này giúp Chủ tịch UBND cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án theo thẩm quyền.  

 Mô hình tổ chức này có ưu điểm là tạo được sự quản lý Nhà nước tập trung, thống nhất, giảm bớt các đầu mối cơ quan có chức năng quản lý, tránh được hiện tượng chồng chéo giữa các cơ quan có chức năng quản lý thi hành án; tăng cường được hiệu lực và hiệu quả quản lý; bảo đảm sự chỉ đạo hướng dẫn kịp thời và kiểm tra chặt chẽ; giải quyết nhanh chóng những khó khăn, vướng mắc trong thi hành án. Và điều quan trọng hơn là việc tập trung thi hành án hình sự về cơ quan dân sự quản lý tạo ra một tâm lý không nặng nề ở những người phải thi hành án hình sự.

 

MÔ HÌNH TỔ CHỨC HỆ THỐNG CƠ QUAN THI HÀNH ÁN

         

          6. Cải cách tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

6.1. Các yêu cầu chung của cải cách cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp:

          Thứ nhất, cần nhận thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn về vị trí của các hoạt động bổ trợ tư pháp. Đây chính là một thiết chế xã hội - nghề nghiệp đặc biệt mà thông qua đó nhân dân có khả năng tự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ hai, do tính chất đặc biệt của bổ trợ tư pháp, tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp cần được điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, đó là các đạo luật.

Thứ ba, nâng cao tính chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá, độc lập chịu trách nhiệm của đội ngũ chức danh bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng viên, giám định viên);

Thứ tư, đổi mới nội dung và phương thức quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp theo hướng kết hợp chặt chẽ quản lý nhà nước với tự quản của các hiệp hội nghề nghiệp, vừa phát huy tính tự quản, vừa bảo đảm sự quản lý Nhà nước ở mức độ cần thiết đối với các cơ quan, tổ chức này.

6.2. Về tổ chức và hoạt động luật sư

- Phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, giữ vững bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư.

- Tiến tới khẳng định rõ tính chất hoạt động dịch vụ và kinh doanh của các tổ chức hành nghề luật sư gần như là một doanh nghiệp, để các tổ chức này được hưởng các quyền lợi như doanh nghiệp.

- Mở rộng phạm vi hành nghề của luật sư, ngoài phạm vi của hoạt động luật sư trong tố tụng. Tăng cường vai trò của luật sư trong tư vấn pháp luật về kinh doanh, thương mại.

- Hoàn thiện cơ chế tranh tụng dân chủ, có cơ chế pháp lý bảo đảm quyền của luật sư trong thực tế bào chữa cho bị can bị cáo, bảo vệ quyền lợi của đương sự. Phấn đấu về lâu dài, trong các vụ án, về cơ bản có luật sư.

Hình thức hành nghề luật sư có thể là: hành nghề trong tổ chức luật sư; hành nghề với tư cách cá nhân; làm việc cho các cơ quan nhà nước, tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước, doanh nghiệp hay tổ chức khác. Còn hình thức tổ chức hành nghề của luật sư là: 1) Văn phòng luật sư; 2) Công ty luật. Trong việc quản lý luật sư, cần xác định rõ hơn vai trò của các Đoàn luật sư đối với luật sư thành viên của mình.

Về mô hình tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, cần thành lập tổ chức luật sư toàn quốc để đại diện cho giới luật sư toàn quốc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các luật sư và tổ chức thành viên; thực hiện chức năng quản lý luật sư và hành nghề luật sư nhằm hỗ trợ phát triển nghề luật sư, nâng cao vị thế và vai trò cao quý của luật sư trong xã hội. Tổ chức đó có thể là Hiệp hội Luật sư Việt Nam hoặc Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

6.3. Tổ chức và hoạt động công chứng

Tổ chức và hoạt động công chứng cần được cải cách theo các định hướng xây dựng một hệ thống tổ chức công chứng chuyên nghiệp, rộng rãi, chất lượng cao, hoạt động theo hướng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về an toàn pháp lý trong giao dịch dân sự - kinh tế, phục vụ đắc lực công cuộc phát triển kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, nhà nước cần sớm ban hành Luật Công chứng. Trong Luật này cần thể hiện được tinh thần cải cách hoạt động công chứng theo hướng xã hội hoá nhằm huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển nghề công chứng mang tính chất là tổ chức dịch vụ công. Đồng thời minh bạch hoá trình tự, thủ tục công chứng, tạo thuận lợi để người dân có nhiều sự lựa chọn, bảo đảm chất lượng dịch vụ tốt hơn. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ công chứng viên chuyên nghiệp, chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về việc thực hiện công chứng. Bảo đảm sự quản lý chặt chẽ, tác động kịp thời, có hiệu quả của Nhà nước đối với tổ chức và hoạt động công chứng, kết hợp với tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp công chứng.

Mô hình tổ chức hành nghề công chứng sẽ được thiết kế như sau:

- Phòng Công chứng do Nhà nước thành lập, là tổ chức dịch vụ công hoạt động theo nguyên tắc của đơn vị sự nghiệp có thu, tự chủ về tài chính; việc thành lập Phòng công chứng do UBND cấp tỉnh quyết định.

- Văn phòng công chứng là tổ chức hành nghề công chứng do một công chứng viên hoặc một số công chứng viên thành lập. Văn phòng công chứng cũng là một tổ chức dịch vụ công, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.

Trước mắt, ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn phải tiếp tục thành lập các Phòng công chứng nhà nước. Ở các đô thị lớn có thể từng bước lập Văn phòng công chứng.

6.4. Về tổ chức và hoạt động giám định tư pháp

Để tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động giám định tư pháp, Nhà nước cần ban hành Luật về giám định tư pháp để điều chỉnh toàn diện và đồng bộ các vấn đề liên quan đến giám định tư pháp;

Đối với những lĩnh vực giám định có nhu cầu lớn Nhà nước cần đầu tư để đáp ứng kịp thời và thường xuyên cho hoạt động tố tụng (giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự). Cần tổ chức theo hướng chuyên trách, chuyên nghiệp hoá tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự từ Trung ương đến địa phương. Đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên (môi trường, văn hoá nghệ thuật, xây dựng) thì cần xã hội hóa bằng cơ chế thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong và ngoài khu vực Nhà nước tham gia hoạt động giám định tư pháp.

Cần quy định rõ về trình tự, thời hạn, thủ tục trưng cầu và thực hiện giám định; xác định rõ cơ chế giải quyết xung đột kết luận giám định..., thực hiện từng bước quyền tự yêu cầu giám định của các bên đương sự.

Về lâu dài, cần thành lập Viện giám định tư pháp quốc gia, tách giám định pháp y và giám định kỹ thuật hình sự ra khỏi Bộ Công an.

6.5. Về tổ chức và hoạt động thừa phát lại

Việc thành lập tổ chức thừa phát lại là cần thiết và có thể đi theo hướng hoạt động với tính chất là tổ chức làm dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Thừa phát lại có nhiệm vụ hỗ trợ các hoạt động tố tụng của cơ quan tư pháp, giúp công dân trong việc tạo lập các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; hỗ trợ cho hoạt động thi hành án. Hoạt động thừa phát lại vừa mang tính chất nhà nước, vừa mang tính chất xã hội nghề nghiệp.

Chức danh thừa phát lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm với những điều kiện, tiêu chuẩn nhất định.

Tổ chức hành nghề của thừa phát lại có thể được tổ chức dưới hình thức Văn phòng đặt ở các khu vực cùng cấp với toà án sơ thẩm. Mỗi thừa phát lại được phép mở một văn phòng trong phạm vi địa phương mà thừa phát lại được hoạt động.

Về bước đi, trước mắt, cho thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Sau đó tổng kết nếu đạt hiệu quả sẽ nhân rộng ra cả nước.

Trong quá trình hoạt động, thừa phát lại được thu lệ phí và các chi phí khác phục vụ cho hoạt động của mình; Nhà nước không cấp kinh phí cho hoạt động của thừa phát lại. Tuy nhiên, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thích hợp để tổ chức Thừa phát lại được thành lập và hoạt động có hiệu quả, tạo điều kiện về cơ sở vật chất để thành lập Văn phòng thừa phát lại; có chế độ thuế ưu đãi đối với hoạt động dịch vụ này; tạo cơ chế bảo đảm hiệu lực hoạt động của tổ chức thừa phát lại....

          7. Cải cách các thủ tục tư pháp:

Cải cách các thủ tục tư pháp. để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu công bằng, công khai, dân chủ, đơn giản và pháp chế của hệ thống tư pháp. Thủ tục tư pháp có nhiều loại, mỗi loại có những nguyên tắc đặc thù riêng, trong phạm vi đề tài tập trung vào luận giải nội dung cải cách một số thủ tục tư pháp có ý nghĩa then chốt, còn nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập.

          7.1.  Về thủ tục tranh tụng:

Pháp luật tố tụng Việt Nam từ trước đến nay được xây dựng dựa trên các nguyên tắc của tố tụng thẩm vấn. Tranh tụng chưa được ghi nhận thành một nguyên tắc riêng của tố tụng hình sự hay tố tụng dân sự ở nước ta.

 Tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn đều có những mặt mạnh và hạn chế nhất định. Việc áp dụng tố tụng thẩm vấn ở nước ta trong suốt thời gian qua đã cho phép chúng ta kiểm soát được tình hình tội phạm, đảm bảo được trật tự, an toàn xã hội trong những điều kiện khó khăn và đáp ứng được yêu cầu đảm bảo dân chủ, quyền, lợi ích của con người trong điều kiện trình độ dân trí cũng như trình độ phát triển kinh tế còn thấp. Tranh tụng có nhiều yếu tố phù hợp với sự phát triển dân chủ trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, vì vậy, tiếp nhận các yếu tố tranh tụng là hướng phát triển đúng đắn trong cải cách tư pháp ở nước ta. Do đó, Nghị quyết số 08 và Nghị quyết số 49/ NQ-TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đều xác định việc mở rộng tranh tụng tại phiên toà phải được coi là khâu đột phá của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao tính công bằng, dân chủ, khách quan của hệ thống tư pháp. Yêu cầu mở rộng tranh tụng đòi hỏi việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiển của kiểm sát viên, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có lợi ích hợp pháp liên quan để ra các bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định.

Yêu cầu mở rộng yếu tố tranh tụng trên nền tảng của tố tụng thẩm vấn ở Việt Nam cần theo các hướng sau đây:

Một là, xem xét, nghiên cứu mở rộng phạm vi các vụ việc tư tố. Tương quan giữa công tố và tư tố sẽ phát triển theo xu hướng ngày càng mở rộng phạm vi tư tố. Điều này phù hợp với định hướng chung là quyền và lợi ích của con người ngày càng được tôn trọng và bảo vệ. Trong các vụ việc tư tố, phương thức tố tụng tranh tụng sẽ là chủ yếu .

Hai là, mở rộng quyền và phạm vi tham gia, tăng cường nghĩa vụ của luật sư bào chữa..

Ba là, phân định rõ hơn chức năng tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và chức năng bào chữa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi phải định rõ các chức năng tố tụng của các chủ thể.

Bốn là, nghiên cứu kỹ lưỡng để tiếp thu hoặc củng cố các nguyên tắc của hệ tranh tụng phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp ở nước ta. .

Mở rộng tranh tụng với yêu cầu phát triển dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và kiểm soát tội phạm đòi hỏi phải có các bảo đảm sau:

Trước hết, yêu cầu đầu tiên để đảm bảo hiệu quả tranh tụng trong tương quan giữa lợi ích nhà nước, xã hội với lợi ích của cá nhân là Nhà nước phải có khả năng kiểm soát tội phạm thực tế đủ để khắc phục tình trạng nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội không được giải quyết theo trình tự tố tụng hình sự khi mở rộng phạm vi tư tố.

Thứ hai, Nhà nước và xã hội đảm bảo  để cá nhân thực sự có thể lựa chọn trình tự giải quyết tranh chấp theo ý muốn của mình. Còn bản thân các cá nhân đủ điều kiện để  hiểu đúng và làm thế nào sẽ có lợi cho họ và có những ứng xử thích hợp.

Thứ ba, phải có hệ thống pháp luật, nhất là luật tố tụng và luật về tổ chức và hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, chính xác và chặt chẽ.

Thứ tư, phải có một đội ngũ cán bộ tư pháp (điều tra viên, công tố viên, thẩm phán) và tương ứng là đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn cao và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, được rèn luyện kỹ năng và bản lĩnh tranh tụng một cách bình đẳng.

7.2. Về thủ tục rút gọn:

 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã dành chương XXXIV quy định về thủ tục rút gọn với tính chất là một thủ tục tố tụng đặc biệt trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. áp dụng  đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng.  Việc xây dựng thủ tục rút gọn là một giải pháp phù hợp, một mặt nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng tập trung thời gian, nguồn lực, công sức vào việc giải quyết các vụ án phức tạp, khó khăn. Mặt khác, thủ tục rút gọn khắc phục đáng kể tình trạng vi phạm thời hạn tố tụng, kéo dài thời hạn giải quyết các vụ án ít phức tạp, góp phần khắc phục tình trạng ùn tắc, quá tải trong việc giải quyết các vụ án hình sự, tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức của Nhà nước và nhân dân.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đặt ra, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi thủ tục rút gọn theo các hướng sau:

  1. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn:

Ngoài 4 điều kiện được quy định tại Điều 319 BLTTHS 2003, Nhóm nghiên cứu đề nghị nên bổ sung thêm điều kiện người thực hiện hành vi phạm tội đồng ý lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn. để bảo đảm quyền bào chữa của họ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

b) Về thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn vẫn được tiến hành với thành phần Hội đồng xét xử thông thường gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân tham gia. Theo nhóm nghiên cứu, đối với những vụ án đã có đủ điều kiện và bản thân bị can đã đồng ý áp dụng thủ tục rút gọn thì việc xét xử theo thủ tục rút gọn chỉ cần do một thẩm phán tiến hành. Đây là mô hình xét xử rút gọn khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới [7]. Mô hình một thẩm phán xét xử có ưu điểm là việc giải quyết các vụ án được tiến hành nhanh chóng, dứt điểm mà vẫn bảo đảm tính chính xác, đúng pháp luật. Tuy nhiên, để thực hiện sự cải cách này, trước hết cần sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp liên quan đến việc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử. Một yếu tố quan trọng nữa là phải nâng cao chất lượng, bản lĩnh, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức của Thẩm phán.

          7.3. Đổi mới một số thủ tục thi hành án:

            (i). Thủ tục thi hành án dân sự:

Nhằm giải quyết những hạn chế, bất cập về thủ tục thi hành án dân sự cần đổi mới một số thủ tục cụ thể theo hướng sau đây:

- Mở rộng phạm vi các bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự,  bổ sung cho Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền cưỡng chế thi hành bản án hành chính huỷ quyết định hành chính trái pháp luật của cơ quan nhà nước và cưỡng chế thi hành các quyết định hành chính về giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật; thi hành các cam kết, thoả thuận hợp pháp giữa các bên trong giao lưu dân sự.

- Quy định thủ tục uỷ quyền trong thi hành án dân sự: ví dụ như uỷ quyền xác minh điều kiện thi hành án, uỷ quyền tiến hành kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án. Đây là những bước đi đầu trong hướng xã hội hoá hoạt động thi hành án.

- Quy định thủ tục hoà giải trong thi hành án dân sự: Hoà giải trong thi hành án dân sự thể hiện sự tôn trọng ý chí của các bên trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của mình theo nguyên tắc việc dân sự là của đôi bên. Thủ tục hoà giải trong thi hành án dân sự cần được quy định là thủ tục có tính bắt buộc, với những bước tiến hành cụ thể và xác định giá trị bắt buộc thi hành của văn bản hoà giải thi hành án dân sự đối với các đương sự và các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân liên quan. Nếu đương sự không tự nguyện thi hành nội dung đã hoà giải thì Cơ quan thi hành án cưỡng chế buộc thi hành.

            - Sửa đổi, bổ sung quy định về cưỡng chế thi hành án:

+ Mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án theo hướng áp dụng đối với tất cả các trường hợp thi hành án.

+ Sửa đổi quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án theo hướng quy định thời hiệu thi hành án.

+ Bổ sung quy định về thủ tục kê biên, định giá và bán đấu giá tài sản của cơ quan nhà nước để thi hành án dân sự.

+ Cụ thể hoá thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự đặc thù cho từng loại hình doanh nghiệp.

            - Bổ sung thủ tục phối hợp thi hành phần dân sự với thi hành hình phạt trong bản án, quyết định về hình sự. , ví dụ cần quy định việc thi hành xong trách nhiệm dân sự mới đủ điều kiện xét giảm án, đặc xá, miễn thi hành hình phạt tù để gắn trách nhiệm thi hành án dân sự của gia đình người bị kết án đối với thân nhân của họ. Trong thực tế, nhiều trường hợp gia đình người bị kết án tự nguyện thi hành phần trách nhiệm dân sự cho thân nhân của họ để thân nhân của họ được hưởng đặc xá.

            - Giảm bớt một số thủ tục không cần thiết theo hướng đơn giản, dễ thực hiện đối với dân, giảm bớt sự can thiệp của nhà nước

            (ii) Thủ tục thi hành hình phạt tử hình:

            - Về hình thức thi hành hình phạt tử hình:

Qua nghiên cứu thực tiễn thi hành hình phạt tử hình trong thời gian qua, chúng tôi cho rằng trong điều kiện hiện nay chưa nên bỏ hình thức thi hành án bằng xử bắn, mà bên cạnh hình thức đó nên bổ sung hình thức thi hành hình phạt tử hình bằng tiêm thuốc độc:

            - Cần xây dựng các cơ sở pháp luật cho việc phạm nhânbị kết án tử hình xin hiến xác cho khoa học:

- Vấn đề mai táng, chôn cất tử thi:

Trong tình hình hiện nay Nhóm nghiên cứu ủng hộ quan điểm xem xét và quy định cụ thể việc cho phép gia đình người bị tử hình nhận xác về mai táng trong một số trường hợp nhất định phù hợp với mục đích nhân đạo và tập quán truyền thống của xã hội Việt Nam.

8. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh

8.1. Định hướng chung

Theo các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN đối với hệ thống tư pháp, cần xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh, tính chuyên nghiệp cao, có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng và đạo đức nghề nghiệp chuẩn mực theo hướng tiêu chuẩn hoá cụ thể đối với từng loại cán bộ về chính trị, đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm xã hội.

Các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, nâng ngạch, thăng chức, thuyên chuyển, kỷ luật các chức danh tư pháp đều phải theo hướng một mặt nâng cao tính chuyên nghiệp, nhanh nhạy, tinh thông nghề và liêm khiết, trong sạch của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, nghĩa là làm cho họ đủ mạnh để có sức đề kháng trước những ảnh hưởng của ngoại cảnh; mặt khác, đảm bảo tạo ra những cơ chế loại trừ tối đa những khả năng tác động trái pháp luật đến sự độc lập của các chức danh tư pháp. Tăng nhiệm kỳ của các chức danh tư pháp, tiến tới thực hiện chế độ bổ nhiệm không kỳ hạn một số chức danh tư pháp như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên,...

 Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp bằng việc đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo nghề của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng tiến dần đến các chuẩn mực của khu vực

Xây dựng và đảm bảo thực hiện chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, tôn vinh cán bộ tư pháp giỏi, lập nhiều thành tích trong hoạt động tư pháp.-

8.2. Nâng cao năng lực đội ngũ thẩm phán trên cơ sở đối mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán, hoàn thiện hệ tiêu chuẩn chức danh cán bộ toà án

+ Mở rộng nguồn tuyển chọn thẩm phán: Để có được những thẩm phán thật sự có năng lực, cần mở rộng nguồn tuyển chọn thẩm phán không chỉ từ đội ngũ cán bộ toà án mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác như điều tra viên, công tố viên, luật sư và kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề thẩm phán mặc dù chưa thực hành nghề thẩm phán.

+ Chuyển từ cơ chế tuyển chọn sang cơ chế thi tuyển quốc gia: Để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa những ứng viên cho chức danh thẩm phán, cần nghiên cứu từng bước chuyển từ chế độ xét tuyển thẩm phán ở từng cấp toà án hiện hành sang chế độ thi tuyển cấp quốc gia. Tất cả các ứng viên sẽ phải qua kỳ thi quốc gia tuyển chọn thẩm phán một cách bình đẳng. Những người trúng tuyển ở kì thi này sẽ được Chủ tịch nước xem xét và ra quyết định bổ nhiệm làm thẩm phán nếu có đủ các tiêu chuẩn khác. Chức danh thẩm phán khi đó sẽ là thẩm phán của quốc gia, không gắn với một toà án cụ thể nơi họ được xét tuyển để bổ nhiệm như hiện nay. Đây cũng sẽ là điều kiện tốt cho việc bổ nhiệm, điều động thẩm phán theo nguyên tắc “quan bất sở tại”, đảm bảo tốt hơn tính độc lập của thẩm phán, giảm bớt sự phụ thuộc của thẩm phán vào các thiết chế quyền lực địa phương.

  • Cơ chế bổ nhiệm thẩm phán các cấp cần cải cách theo hướng:

+ Cải cách chế độ bổ nhiệm thẩm phán theo ngạch, bậc trên cơ sở tiếp tục hoàn thiện hệ tiêu chuẩn chức danh thẩm phán và phân loại ngạch, bậc thẩm phán.

Chuyển đổi tương ứng việc phân ngạch thẩm phán theo cấp hành chính sang phân ngạch thẩm phán theo cấp xét xử - thẩm phán sơ thẩm, thẩm phán phúc thẩm, thẩm phán TANDTC; trong mỗi ngạch lại phân định thành nhiều bậc thẩm phán theo mức độ tinh thông nghề nghiệp, năng lực xét xử và độ dày tích luỹ kinh nghiệm xét xử. Không thẩm phán nào được bổ nhiệm ở ngạch cao hơn nếu chưa có đủ số năm nhất định giữ chức danh thẩm phán ở ngạch thấp hơn hoặc giữ các chức danh tư pháp khác (công tố viên, luật sư, giáo sư, phó giáo sư luật học….). Đội ngũ thẩm phán xếp theo ngạch bậc giống như hình tháp: phía đáy là thẩm phán sơ cấp với số lượng lớn nhất, tiêu chuẩn bổ nhiệm thấp hơn; ở tầng trung gian là thẩm phán toà án phúc thẩm, thượng thẩm và ở tầng chóp là số lượng rất ít thẩm phán Toà án tối cao với tiêu chuẩn bổ nhiệm vào ngạch rất cao.

Hai là, kéo dài nhiệm kỳ tiến tới chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời. Quy định nhiệm kỳ quá ngắn (5 năm) cùng với cơ chế xét tuyển mang nhiều tính chủ quan như hiện nay dẫn đến tình trạng thẩm phán luôn chịu sức ép rất lớn trong suốt nhiệm kỳ, không thực sự yên tâm, gắn bó với nghề; đặc biệt là để có thể được tiếp tục xét tuyển và bổ nhiệm ở nhiệm kỳ sau, không loại trừ một số thẩm phán sẽ không giữ được tính độc lập khi xét xử trước tác động của những cá nhân, tổ chức có tiếng nói quyết định đối với việc xét tuyển để bổ nhiệm thẩm phán. Do tiêu chuẩn và cách thức bổ nhiệm thẩm phán ở các cấp toà án khác nhau nên nhiệm kỳ của thẩm phán ở các cấp toà án cũng cần có sự khác biệt hợp lý theo hướng: càng lên toà án cấp cao hơn thì nhiệm kỳ thẩm phán càng phải dài hơn và không giới hạn nhiệm kỳ thẩm phán của toà án tối cao.

Ba là, - Cải cách chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ và chế độ giám sát, kỷ luật đối với thẩm phán

Thứ nhất, chế độ sử dụng và đãi ngộ cần đảm bảo cho thẩm phán không phải lo mưu sinh, đảm bảo để họ và gia đình có thể sống đầy đủ bằng chính đồng lương, không bị phụ thuộc vào những tác động vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến công vụ của họ. Mặt khác, cần thiết lập một chế độ giám sát chặt chẽ để kịp thời phát hiện, cảnh báo, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những thẩm phán hành động không xứng đáng với chức danh cao quý của mình.

Về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, các thẩm phán sau khi được bổ nhiệm phải tham gia bắt buộc vào các khoá bồi dưỡng định kỳ và phải trải qua các kỳ sát hạch, kiểm tra về kiến thức, kỹ năng xét xử, tác phong làm việc.

Thẩm phán phải thực hiện chế độ công khai tài sản và tài chính cá nhân trong suốt thời kỳ giữ chức danh và một thời gian sau khi bãi nhiệm hoặc về hưu.

Để đảm bảo tính độc lập của thẩm phán trong hoạt động xét xử, căn cứ, trình tự, thủ tục giải quyết những khiếu nại, tố cáo khác liên quan đến tư cách, ứng xử của thẩm phán cần được quy định tại Luật/Quy chế thẩm phán theo hướng không khép kín trong nội bộ từng cơ quan toà án để loại trừ khả năng can thiệp, ảnh hưởng của các chức danh lãnh đạo hành chính trong toà án đến việc đánh giá, kỷ luật thẩm phán. Việc này phải được giao cho một tổ chức độc lập chuyên trách (có thể tham khảo mô hình các Hội đồng/ Uỷ ban tư pháp tối cao hoặc cấp tỉnh của một số nước) với thành phần gồm những đại diện có am hiểu, uy tín đạo đức nghề nghiệp của giới thẩm phán, luật sư, công tố viên và đại diện nhân dân. Các thẩm phán có quyền và cơ hội bình đẳng, công khai trình bày và bảo vệ mình trước hội đồng/ uỷ ban. Tổ chức này cũng đảm nhiệm luôn các nhiệm vụ hiện nay được coi là thuộc “chức năng quản lý tổ chức và cán bộ” do toà án tối cao thực hiện như xét nâng lương, thuyên chuyển, điều động, khen thưởng thẩm phán. Đây là giải pháp hợp lý cho việc phân giải cuộc tranh luận đã nhiều năm này về việc toà án tối cao có chức năng quản lý hay chỉ có chức năng xét xử và hướng dẫn xét xử.

8.3. Tăng cường năng lực và trách nhiệm độc lập của kiểm sát viên trong việc thực hành quyền công tố theo tinh thần cải cách tư pháp

            Cũng giống như đối với thẩm phán, kiểm sát viên phải được tiếp tục chuẩn hoá theo hệ tiêu chuẩn chức danh mới phù hợp với sự điều chỉnh chức năng và thẩm quyền hoạt động của Viện kiểm sát.

            Thứ nhất, mở rộng nguồn tuyển chọn kiểm sát viên và chuyển sang chế độ thi tuyển quốc gia đối với ứng viên chức danh kiểm sát viên, thực hiện đào tạo chung với các chức danh thẩm phán, luật sư, tạo khả năng thực hiện luân chuyển giữa các chức danh này trong quá trình hoạt động.

            Thứ hai, bổ nhiệm kiểm sát viên theo các ngạch tương ứng với thẩm quyền công tố (sơ thẩm, phúc thẩm, tối cao); trước mắt, tăng thời hạn bổ nhiệm kiểm sát viên và về lâu dài, áp dụng chế độ bổ nhiệm không kỳ hạn đối với công tố viên, đặc biệt là công tố viên của Viện công tố trung ương.

Thứ ba, phi hành chính hoá các quan hệ tố tụng trong hoạt động của viện kiểm sát; nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đáp ứng yêu cầu mở rộng tranh tụng tại phiên toà.

Ví dụ: cần sửa đổi điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng kiểm sát viên, dựa trên các diễn biến tranh tụng tại phiên toà, có quyền phát biểu ý kiến riêng của mình khác với tội danh trong cáo trạng và chịu trách nhiệm độc lập về kết luận vụ án mà không nhất thiết phải đề nghị hoãn phiên toà để về xin ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát; sửa đổi điều 104 Bộ luật TTHS theo hướng chuyển chức năng của Hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên toà sang cho kiểm sát viên giữ quyền công tố tại toà - điều này vừa đảm bảo toà án không “lấn sân” của công tố vừa nâng cao vị thế độc lập và khả năng ứng phó kịp thời của kiểm sát viên trước diễn biến hành vi phạm tội tại phiên toà.

Mặc dù mô hình tổ chức Viện công tố ở các nước có thể khác nhau  nhưng người đứng đầu về mặt hành chính là Thủ tướng, Bộ trưởng Tư pháp đều không có quyền can thiệp, chỉ đạo đối với Tổng công tố hay các công tố viên trong các hoạt động điều tra, truy tố cụ thể.  

 Để bảo đảm tính độc lập của công tố viên, việc quản lý nhân sự trong cơ quan Công tố ở nhiều nước cũng khác so với các cơ quan khác thuộc hệ hành pháp. Cụ thể là việc đề bạt, bổ nhiệm, thuyên chuyển và kỷ luật công tố viên thuộc thẩm quyền của Hội đồng Công tố được bầu ra từ các công tố viên lâu năm hoặc đã nghỉ hưu; Tổng công tố là thành viên đương nhiên của Hội đồng công tố.

            8. 4. Nâng cao địa vị pháp lý và năng lực của các chức danh điều tra

            Cùng với việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan điều tra, cần nghiên cứu để sớm xây dựng chế định pháp lý về các chức danh Điều tra viên, Thủ trưởng Cơ quan điều tra... theo hướng nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của điều tra viên đối với kết quả điều tra. Theo đó, quy định cụ thể tiêu chuẩn về đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ pháp luật, chuyên môn nghiệp vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của các chức danh này. Đồng thời xác định rõ chế độ đãi ngộ, cách thức tuyển chọn, phong (bổ nhiệm), bãi nhiệm các chức danh, từ đó xác định mô hình, chương trình đào tạo phù hợp.

 

            8.5. Xây dựng và phát triển đội ngũ các chức danh bổ trợ tư pháp

Trước tiên cần xây dựng đội ngũ luật sư đủ về số lượng, chuẩn hoá về chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ, bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp cao, độc lập và hoàn toàn chịu trách nhiệm về các dịch vụ pháp lý đã cung cấp cho cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước. Việc quy định luật sư phải có bằng cử nhân luật là cần thiết để đảm bảo trình độ của luật sư ít nhất là ngang bằng với trình độ của thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên (để có thể luân chuyển vị trí giữa các chức danh này) và phù hợp với trình độ luật sư của các nước trên thế giới. Do đặc điểm, yêu cầu của nghề nghiệp nên tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với luật sư đặc biệt được coi trọng. Luật sư phải tuân thủ các nguyên tắc như không được bảo vệ cho nhiều khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong một vụ việc, bảo đảm bí mật nghề nghiệp, tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng, không kiêm nhiệm. Hành nghề luật sư là hoạt động đòi hỏi trách nhiệm rất cao. Luật sư phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất gây ra cho khách hàng do lỗi của mình trong việc tư vấn pháp luật và có nghĩa vụ mua bảo hiểm nghề nghiệp để bảo đảm thực hiện trách nhiệm đó.

Xây dựng và chuẩn hoá đội ngũ Công chứng viên chuyên nghiệp, đủ về số lượng, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp. Công chứng viên không chỉ được đào tạo luật, có kinh nghiệm công tác pháp luật mà còn phải được đào tạo kỹ năng nghề công chứng và phải trải qua thời kỳ tập sự nghề công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng.

Công chứng viên độc lập hành nghề và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về việc thực hiện hành vi công chứng đồng thời phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi của công chứng viên gây ra cho người yêu cầu công chứng. Xây dựng chế độ bảo hiểm nghề nghiệp bắt buộc đối với công chứng viên

 Xây dựng đội ngũ giám định viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, xác định rõ địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của giám định viên khi tham gia tố tụng. Quy định rõ điều kiện và thủ tục bổ nhiệm giám định viên, tạo cơ chế khuyến khích thu hút các chuyên gia giỏi của nhiều lĩnh vực tham gia hoạt động giám định, nâng cao chất lượng giám định.

8.6. Xây dựng cơ chế thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ tư pháp. Trước hết cần tăng cường kiểm tra, thanh tra trong nội bộ các cơ quan tư pháp để bảo đảm nội bộ trong sạch, vững mạnh, phát hiện sớm những sai sót, những hàn vi vi phạm pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp tư pháp để ngăn chặn và xử lý kịp thời. Đồng thời tạo lập cơ chế kiểm tra từ bên ngoài đối với các c ơquan tư pháp thông qua việc thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội đối với các cơ quan và cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp.

 

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHUNG

Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là quá trình đổi mới toàn diện hệ thống tư pháp với trung tâm là hoạt động xét xử nhằm mục tiêu làm cho tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ngày càng thể hiện đầy đủ, đúng đắn bản chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân của quyền tư pháp, phù hợp với các nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN trong từng giai đoạn phát triển, đáp ứng ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và nhà nước Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Mục tiêu của đề tài KX.04.06 là xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực và hiệu quả xét xử của tòa án phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

            Kết quả của đề tài là bản thiết kế mô hình tổ chức, hoạt động chung của cả hệ thống tư pháp (mô hình lý thuyết ở chương I) và mô hình cụ thể của từng cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp với trung tâm là hiệu quả hoạt động xét xử của toà án (chương III) sau khi đã đánh giá khách quan thực tiễn tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới (chương II). Các mô hình này được xây dựng trên cơ sở các quan điểm khoa học về cải cách tư pháp trong điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội, chính trị- pháp lý của Việt Nam cho giai đoạn từ nay đến năm 2020, phù hợp với các nguyên tắc và phương thức vận hành đặc thù của quyền tư pháp đặt trong mối quan hệ thống nhất với cải cách lập pháp, hành pháp, Đó là mô hình của một hệ thống tư pháp dân chủ, gần dân, hiểu dân, giúp dân, nghiêm minh, công bằng và nhân đạo với các cơ quan và chức danh tư pháp độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước nhà nước. Nhìn từ góc độ nhu cầu của người dân, dó là một hệ thống tư pháp công khai, dễ tiếp cận, đúng pháp luật, nhanh chóng và hiệu quả.

Để hiện thực hoá mô hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp trong từng giai đoạn của công cuộc cải cách tư pháp nói riêng, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cần có những điều kiện bảo đảm chung, đó là:

1. Xây dựng một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về tư pháp, quyền tư pháp và các nguyên tắc, thiết chế thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Hệ thống lý luận này thể hiện được những luận điểm cơ bản của học thuyết Mác - Lê nin về nhà nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh về một nền tư pháp nhân dân; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng và củng cố quyền lực tư pháp, trên cơ sở tổng kết thành tựu 60 năm xây dựng hệ thống tư pháp của nhà nước ta

Hệ thống lý luận này cần làm rõ vị trí, vai trò của các thiết chế quyền lực tư pháp theo nguyên tắc phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, phù hợp với đặc điểm của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện nhất nguyên chính trị và sự đậm nét của tính nhân dân trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp.

Hệ thống lý luận này cũng phải giải đáp được những vấn đề cơ bản của cải cách tư pháp còn đang vướng mắc như: mối quan hệ giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong sự thống nhất bảo đảm sự giám sát và chế ước lẫn nhau giữa ba thiết chế quyền lực này; mô hình tư pháp hình sự theo hưóng tranh tụng hay thẩm vấn; sự tham gia của đại diện nhân dân vào xét xử của toà án; về mối quan hệ giữa các thiết chế trong hệ thống tư pháp và của hệ thống tư pháp với các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị, xã hội dân sư...Hệ thống lí luận này là một bộ phận quan trọng của chủ thuyết về nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và tố tụng tư pháp nói riêng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công cuộc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp

               Hoạt động tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật để phát hiện, xử lý các vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Pháp luật vừa là cơ sở, là công cụ, là phương tiện vừa là mục tiêu bảo vệ của hoạt động tư pháp. Cải cách tư pháp, do vậy, không thể thực hiện thành công nếu không được bảo đảm đồng thời với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

               Tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật đảm bảo có đủ pháp luật nội dung để các cơ quan tư pháp áp dụng khi xem xét, đánh giá, phán xử các hành vi phạm pháp luật, và giải quyết các tranh chấp pháp lý; pháp luật về tố tụng quy định các nguyên tắc, quy trình, thủ tục, thao tác nghiệp vụ trong quá trình giải quyết các vụ án; pháp luật về chức năng, thẩm quyền và tổ chức của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp, đảm bảo các cơ quan, tư pháp, các chức danh tư pháp tuân thủ và chỉ hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

               Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự, dân sự và pháp luật tố tụng tư pháp phải được coi là bọ phận không tách rời của cải cách tư pháp với những định hướng như đã phân tích tại chương III ccủa đề tài.

               3. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực pháp luật trình độ cao, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghia nói chung, cải cách tư pháp nói riêng, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có một tầm nhìn chiến lược về phát triển nguồn nhân lực pháp luật trình độ cao hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội nói chung, trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp nói riêng. Mọi công cuộc cải cách bộ máy nhà nước cùng vơi những mô hình tổ chức được thiết kế khoa học, đúng đắn cũng sẽ không thể trở thành hiện thực nếu thiếu những con người cụ thể được đặt vào những vị trí cụ thể để vận hành hoạt động của từng cơ quan, tổ chức theo đúng các nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.. Riêng trong lĩnh vực cải cách tư pháp, chiến lược phát triển nguồn nhân lực cần hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao, có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng và đạo đức nghề nghiệp chuẩn mực. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải bao quat toàn bộ quy trình tạo nguồn, đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm, sử dung, đãi ngộ trên cơ sở tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, các chức dnah tư pháp, bổ trợ tư pháp nói riêng. Một trong những điểm nhấn quan trọng là việc kết hợp chương trình đào tạo chung về những kiến thức, kỹ năng cơ bản với đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ cụ thể của từng lĩnh vực, đảm bảo khả năng khai thác sử dung và, luân chuyển thích hợp giữa các chức danh tư pháp, tạo nên một đọi ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp có khả năng thích ứng linh hoạt cao đối với những đòi hỏi khác nhau của công cuộc cải cách tư pháp.

 



[1] GS. TSKH. Đào Trí Úc (chủ biên), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội - 2002, tr. 34.

3 GS. VS. Nguyễn Duy Quý, Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 1/2003, trang 5.

[3] Trần Đức Lương, Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Tạp chí Cộng sản 10/2002, trang 5.

[4] Toà án -Sự công bằng và hiệu quả - Nxb Mexico city- tài liệu dịch của Viện khoa học pháp lý

[5] Xem chuyên đề Viện Công tố một số nước trên thế giới – TS.Đỗ Văn Đương

[6] Xem Lê Cảm – Bàn về tổ chức quyền tư pháp, Tạp chí Kiểm sát 12//2006, tr.8-16;Phạm Hồng Hải- Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thựchiện chức năng thực hành quyền công tố đpa ứng yêu cầu cải cách tư pháp- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 3/2006, trang 61-65.

 

[7] Xem Luận văn thạc sĩ luật học “Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự- những vấn đề lý luận và thực tiễn”- Nguyễn Minh Quang, Trường Đại học luật Hà Nội, 2001; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2001 “Thủ tục tố tụng hình sự rút gọn: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”- Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp; “Về thủ tục rút ngắn trong tố tụng hình sự”- Thạc sĩ Nguyễn Đức Mai- Tạp chí TAND số 9/1997; “Một số vấn đề liên quan đến việc quy định thủ tục rút gọn trong dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (ửa đổi)”- Thạc sĩ Nguyễn Duy Giảng, Tạp chí Kiểm sát số 7, 2003…..

 

File đính kèm downloadTải về