Đánh giá hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả thi hành pháp luật nói riêng của các cơ quan hành chính nhà nước là hoạt động quan trọng, thiết yếu trong công tác chỉ đạo, điều hành của bộ máy nhà nước. Hoạt động ấy lại càng có ý nghĩa khi Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành hàng loạt các cuộc cải cách quan trọng, trong đó có việc cải cách hệ thống pháp luật theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 và cải cách nền hành chính quốc gia theo tinh thần các văn kiện Hội nghị trung ương 8 (khóa VII năm 1995), Hội nghị trung ương 3 (khóa VIII năm 1997), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), lần thứ X (năm 2006), lần thứ XI (năm 2011), Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)[1], Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001[2], Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003[3] và các văn bản quy phạm pháp luật về cải cách hành chính nhà nước, về thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước. Các hoạt động cải cách, đổi mới đó, cũng như các hoạt động chỉ đạo, điều hành thường nhật, thường niên sẽ khó hiệu quả, sát thực tiễn nếu việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng không khách quan, không chính xác, không đầy đủ. Điều đó cho thấy, đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng là nhu cầu nội thân của việc vận hành bộ máy nhà nước nói chung và nền hành chính quốc gia nói riêng. Trong thời gian qua, hoạt động này đã được Đảng và Nhà nước tiến hành ở nhiều quy mô, cấp độ khác nhau, bao gồm cả công tác đánh giá cán bộ và đánh giá tổ chức, bộ máy. Những đánh giá như vậy có thể tìm thấy trong các văn kiện của Đảng trong các thời kỳ khác nhau, cũng như trong một số đề án, văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các đánh giá của Đảng và Chính phủ thường mang tính khái quát và định tính, việc xây dựng các bộ chỉ số đánh giá có tính chất định lượng và so sánh còn chưa được quan tâm đúng mức. Các đánh giá đó mới tập trung vào đánh giá tổng thể hệ thống chính trị hoặc tổng thể nền hành chính, mà chưa phải là đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Trên thế giới, đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc sử dụng các bộ tiêu chí, hoặc bộ chỉ số là hoạt động khá phổ biến. Hoạt động đánh giá này thường gắn liền với các phong trào cải cách hành chính và thường phục vụ cho các chương trình cải cách hành chính cụ thể. Những tiêu chí được sử dụng để đánh giá[4] phản ánh các khía cạnh như “hiệu lực”, “hiệu quả”, “mức độ đầy đủ”, “mức độ đáp ứng”, “mức độ phù hợp” của mỗi chính sách đã ban hành. Ngoài ra, cơ quan kiểm toán của nhiều nước còn sử dụng tiêu chí về hiệu quả sử dụng ngân sách để đo lường hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước[5]. Ở nhiều nước, bên cạnh những đánh giá chính thức từ các cơ quan có thẩm quyền, nhiều cơ sở nghiên cứu, nhất là các cơ sở nghiên cứu về chính sách công đã xây dựng những bộ chỉ số của riêng mình để đánh giá hiệu quả hoạt động của không ít cơ quan nhà nước.
Qua nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu tahasy rằng việc đánh giá hiệu quả hoạt động nói chung hoặc hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước nói riêng là hoạt động rất có ý nghĩa. Hoạt động này trước hết xuất phát từ nhu cầu cải cách, đổi mới và quản lý, chỉ đạo, điều hành của nội thân nền hành chính nhà nước. Khi được công chúng thực hiện, đây còn là một hình thức thực hiện quyền dân chủ của công dân. Để việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước được khách quan, toàn diện, có sức thuyết phục, làm cơ sở cho các hoạt động quản lý, điều hành của nhà nước, phục vụ các chương trình cải cách, đổi mới, các chủ thể tiến hành đánh giá cần được trang bị bộ tiêu chí hoặc bộ chỉ số đánh giá được thiết kế một cách khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ tiêu chí hoặc bộ chỉ số như vậy vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền, các viện nghiên cứu hoặc các chủ thể có liên quan khác thiết kế, xây dựng. Xuất phát từ thực tế này, việc triển khai “nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước” ở quy mô đề tài cấp Bộ là rất cần thiết. Hoạt động này cũng góp phần thiết thực phục vụ việc triển khai các chủ trương về đổi mới tổ chức và hoạt động của nền hành chính nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, góp phần thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp theo quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận, và thực tiễn nhằm đề xuất bộ chỉ số có cơ sở khoa học và thực tiễn đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Lý luận về đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
1.1. Khái niệm “thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước”
Trong khoa học và thực tiễn pháp luật ở Việt Nam, “thi hành pháp luật” được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau. Các tài liệu giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam thường cho rằng “thi hành pháp luật” (hoặc “chấp hành pháp luật”) chỉ là một trong 4 hình thức “thực hiện pháp luật”. “Thực hiện pháp luật” được hiểu là hành vi thực tế, hợp pháp có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật[6]. Thi hành pháp luật được hiểu chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật, theo đó, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật được hiện thực hóa thông qua hành động tích cực của chủ thể này (chẳng hạn như: doanh nghiệp nộp tiền thuế, người lao động đóng bảo hiểm xã hội...). Bên cạnh thi hành pháp luật, các hình thức thực hiện pháp luật khác gồm: “tuân thủ pháp luật” (chủ thể pháp luật ứng xử theo hướng không thực hiện các điều cấm của pháp luật), “sử dụng pháp luật” (chủ thể pháp luật thực hiện quyền năng pháp lý của mình), và “áp dụng pháp luật” (cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện quy định của pháp luật, hoặc tự mình ban hành các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể)[7].
Qua phân tích, nhóm nghiên cứu đề tài rút ra nhận định: dù là cơ quan có thẩm quyền chung hay thẩm quyền chuyên môn, đã là cơ quan hành chính thì chức năng cơ bản của cơ quan này phải là thực hiện các biện pháp để đưa pháp luật vào đời sống mà khoa học pháp lý thường gọi đó là hoạt động “chấp hành - điều hành”[8] và trong đề tài này gọi là “thi hành pháp luật”. Pháp luật, nhất là các đạo luật với tư cách là ý chí của các cơ quan dân cử, thường phải thông qua hành vi của các cơ quan hành chính mới có thể tác động trực tiếp tới các đối tượng điều chỉnh của mình. Là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước có đặc điểm chung của cơ quan nhà nước. Đặc điểm chung ấy là cơ sở để phân biệt cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội. Đồng thời, cơ quan hành chính nhà nước có những đặc thù so với cơ quan khác của Nhà nước[9]. Do vậy, hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước cũng có nhiều khác biệt với các chủ thể khác. Cụ thể:
- Các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, nghĩa là thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành. Hoạt động chấp hành và điều hành là hoạt động được tiến hành trên cơ sở Hiến pháp, luật, pháp lệnh và để thực hiện pháp luật. Chính vì vậy, ở góc độ này có thể thấy rằng hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cũng chính là hiệu quả thực hiện pháp luật.
- Khác với hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan lập pháp, tư pháp[10], hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước mang tính thường xuyên, liên tục và là cầu nối trực tiếp nhất đưa đường lối, chính sách, pháp luật vào đời sống xã hội một cách trực tiếp.
- Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có số lượng đầu mối cơ quan và công chức đông đảo nhất; hệ thống cơ quan hành chính có mối liên hệ chặt chẽ, tạo thành một hệ thống thống nhất từ trung ương tới cơ sở, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của một trung tâm thống nhất là Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
- Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp, hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp tương ứng và chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực đó.
- Hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước khác với hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan quyền lực, hoạt động kiểm sát của viện kiểm sát và hoạt động xét xử của toà án. Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là đối tượng giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, của toà án thông qua hoạt động xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế và hành chính. Các cơ quan hành chính nhà nước có nghĩa vụ, trách nhiệm xem xét và trả lời các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của toà án trong những trường hợp nhất định và trong thời hạn do luật định. Ngược lại, các văn bản pháp luật của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thể là căn cứ pháp lý để viện kiểm sát và toà án thực hiện hoạt động kiểm sát và xét xử. Một số văn bản pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp điều chỉnh một số vấn đề về tổ chức nội bộ của viện kiểm sát và toà án.
Khi nhận thức về hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước, cần lưu ý tới vai trò “kép” của các cơ quan hành chính nhà nước trong thi hành pháp luật. Theo đó, cơ quan hành chính nhà nước vừa trực tiếp chấp hành (tuân thủ, triển khai) các nội dung pháp luật yêu cầu, lại vừa phải tổ chức cho các chủ thể khác tuân thủ, chấp hành pháp luật. Với tư cách là một chủ thể trực tiếp thi hành pháp luật, cơ quan hành chính nhà nước thực hiện các hành vi hợp pháp (theo đúng yêu cầu của pháp luật) thông qua các hình thức khác nhau, trong đó có việc áp dụng pháp luật, tức là ra các văn bản, quyết định cá biệt để các chủ thể khác thực hiện. Với tư cách là chủ thể tổ chức thi hành pháp luật, cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện nhiều công việc nhằm tạo ra các cơ sở, điều kiện bảo đảm cho việc thi hành pháp luật của các chủ thể khác trong phạm vi toàn xã hội, bao gồm: tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra, theo dõi việc thi hành pháp luật; ban hành văn bản hướng dẫn thi hành; ban hành kế hoạch và triển khai các biện pháp thực hiện, trong đó có phổ biến văn bản; đảm bảo các điều kiện thi hành như nguồn lực, tài chính, tổ chức bộ máy, cán bộ; kiểm tra, xử lý vi phạm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân; đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; đánh giá tính hợp lý, khả thi của văn bản, tác động của văn bản đối với đời sống xã hội để có kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật nói chung[11]. Như vậy, thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước có thể được hiểu là tất cả các hoạt động mà cơ quan hành chính nhà nước thực hiện đưa các quy định pháp luật thuộc phạm vi, thẩm quyền trách nhiệm thi hành của mình đi vào cuộc sống, nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu của pháp luật.
1.2. Khái niệm “hiệu quả”, “hiệu quả thi hành pháp luật” và “hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước”
Trong ngôn ngữ tiếng Việt phổ thông, “hiệu quả” được hiểu là “kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại”[12]. Theo cách hiểu này, “hiệu quả” là một đại lượng mang tính so sánh (cụ thể ở đây là so sánh giữa kết quả thực tế đạt được với kết quả dự kiến đạt được mà khi tiến hành hoạt động chủ thể của hoạt động đã đặt mục tiêu). Cách giải nghĩa về “hiệu quả” như vừa nêu không thể hiện mối liên quan mật thiết giữa “hiệu quả” với “lãng phí”[13]. Trong khi đó, đối với giới kinh tế, nói tới “hiệu quả” là nói tới tình trạng “không có sự lãng phí”. “Hiệu quả” là thuộc tính của một phương án phân bổ mà ở đó nguồn lực đã được phân bổ một cách tối ưu, không thể làm cho ai có lợi hơn được nữa mà không làm người khác phải chịu thiệt[14]. Điểm qua vài cách hiểu về khái niệm “hiệu quả” như thế trong ngôn ngữ tiếng Việt được sử dụng ở nước ta để thấy tính phức tạp của việc giải mã “hiệu quả thi hành pháp luật” mà các nhà nghiên cứu phải đối mặt. Cá nhân tôi thì cho rằng, khi đánh giá “hiệu quả” của một hoạt động nào đó, để đảm bảo tính toàn diện của công tác đánh giá, rất nên nhìn nhận từ cả 2 góc độ vừa nêu. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả, chúng ta vừa làm công việc so sánh giữa “kết quả thực tế đạt được” với “kết quả dự kiến đạt được”; đồng thời nên đánh giá xem chi phí về nguồn lực (thời gian, công sức, tiền bạc...) đã là tối ưu chưa. Đây cũng là cách quan niệm được chia sẻ phổ biến trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý ở nước ta hiện nay[15]. Theo cách quan niệm này, hiệu quả thi hành pháp luật phải được hiểu là mối tương quan giữa kết quả thực tế đạt được của hoạt động thi hành pháp luật với kết quả dự kiến (thể hiện trong mục tiêu của hoạt động thi hành pháp luật) trong điều kiện chi phí về nguồn lực được Nhà nước và xã hội bỏ ra để tổ chức công tác thi hành pháp luật được tiết kiệm nhất. Nói cách khác, 3 thông số cơ bản: (1) kết quả dự kiến của thi hành pháp luật; (2) kết quả thực tế của công tác thi hành pháp luật và (3) chi phí nguồn lực bỏ ra để tổ chức công tác thi hành pháp luật trở thành 3 thông số định khung khi đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật.
3. Đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các đánh giá của Đảng và Chính phủ thường mang tính chung chung và định tính, chưa được quan tâm đúng mức đến việc xây dựng các bộ chỉ số đánh giá có tính chất định lượng và so sánh. Thêm vào đó, các đánh giá đó mới tập trung vào đánh giá tổng thể hệ thống chính trị hoặc tổng thể nền hành chính, mà chưa phải là đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của mỗi cơ quan hành chính nhà nước cụ thể. Vấn đề này cũng đã được xác nhận bởi các chuyên gia tham gia nghiên cứu Đề tài cấp Nhà nước “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Các chuyên gia trong đề tài này đã có những thành công bước đầu trong việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước. Cụ thể, các chuyên gia của đề tài này đã đưa ra 10 tiêu chí như sau: (1) Thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước phải tuân thủ nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; (2) Tính liêm chính trong khi thi hành pháp luật của các công chức nhà nước; (3) Mức độ tôn trọng và đảm bảo trên thực tế các quyền tự do cơ bản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; (4) Mức độ đảm bảo chữ tín trong thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước; (5) Mức độ kịp thời trong thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước; (6) Mức độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình; (7) Mức độ hiệu quả trong hoạt động của hệ thống tư pháp (hình sự và phi hình sự); (8) Mức độ duy trì trật tự, an toàn xã hội; (9) Mức độ hợp lý, tối ưu hóa và công khai, minh bạch việc huy động, bố trí, sử dụng nguồn lực cho thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước; (10) Khả năng phát hiện và phản hồi những tồn tại, bất cập của pháp luật từ quá trình thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước[16]. Mặc dù vậy, liệu đây đã phải là bộ tiêu chí thích hợp nhất để xây dựng nên bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước chưa thì vẫn còn cần phải bàn thêm. Thêm vào đó, từ công đoạn xác định hệ tiêu chí đến việc thiết kế bộ chỉ số đánh giá còn là một khoảng cách không đơn giản. Sở dĩ như vậy là vì, “chỉ số” không chỉ đơn thuần là hệ các tiêu chí thể hiện “tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật”[17], mà phải là “con số biểu hiện sự biến động của một hiện tượng”,[18] “cái để đo lường mà dựa vào đó đánh giá một sự vật, hiện tượng”[19].
Như vậy, với thực tiễn Việt Nam và phân tích kể trên, nhóm nghiên cứu cho rằng việc đẩy mạnh công tác đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay bằng việc hoàn thiện công cụ đánh giá và các trình tự, thủ tục đánh giá là rất cần thiết. Điều này xuất phát từ nhu cầu nội tại của công tác quản lý nhà nước, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương đối với việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước. Điều đó cũng xuất phát từ mối quan tâm ngày càng tăng của người dân vào hiệu quả vận hành của bộ máy nhà nước cùng áp lực đổi mới, nâng cao hiệu quả cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính ở nước ta, trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, cạnh tranh toàn cầu[20]. Điều này cũng xuất phát từ những chủ trương cải cách, đổi mới của đất nước ta trong các văn kiện của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do dân và vì dân, xây dựng nền hành chính dân chủ, hiệu lực, hiệu quả, trong sạch và vững mạnh.
2. Lý luận về bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
2.1. Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức
Các lý thuyết khoa học về thiết kế chỉ số đánh giá chỉ ra rằng, để thực hiện việc theo dõi, đánh giá một đối tượng (một hoạt động, một tổ chức hoặc một quá trình), có 4 loại chỉ số cơ bản sau đây:[21] (1) chỉ số đầu vào; (2) chỉ số đầu ra; (3) chỉ số về kết quả; (4) chỉ số về ảnh hưởng (tác động). Chỉ số đầu vào thể hiện nguồn lực đầu tư để đạt được các mục tiêu đề ra. Chỉ số này bao gồm các chỉ số thành phần như: vốn đầu tư bằng tiền, hiện vật, sức lao động. Các nguồn lực này có thể đầu tư ngay từ đầu hoặc trong suốt quá trình thực hiện mục tiêu. Các chỉ số đầu vào thông thường là các chỉ số mang tính hiện vật. Chỉ số đầu ra thể hiện sản phẩm (hàng hóa, dịch vụ…) được tạo ra từ việc huy động và sử dụng các nguồn lực. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các chỉ số đầu vào và đầu ra chỉ là những công cụ định lượng trong phân tích, đánh giá; ngoài ra, còn có các công cụ định tính cần được sử dụng trong quá trình phân tích như quy trình thực hiện, ý thức và nhận thức của cán bộ, sự thông thoáng của cơ chế, chính sách v.v.. Chỉ số kết quả thể hiện trực tiếp hiệu quả, thực trạng, tiến trình đạt được của các mục tiêu/chỉ tiêu đề ra, phản ánh sản phẩm trực tiếp sau khi có các đầu ra. Đây là loại chỉ số quan trọng nhất trong hệ thống theo dõi, đánh giá vì chúng thể hiện trực tiếp hiệu quả tiến trình thực hiện mục tiêu đề ra. Chỉ số ảnh hưởng/tác động phản ánh tính hiệu quả, đo lường tác động tăng phúc lợi xã hội nói chung do ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong thời gian dài và trên diện rộng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là, các tác động được tạo ra có thể do rất nhiều nguyên nhân. Đồng thời, để có được tác động hay ảnh hưởng mong muốn cần có thời gian dài. Do vậy, chu kỳ thu thập số liệu của các chỉ số ảnh hưởng cũng dài hơn chu kỳ của các chỉ số khác.
Thông thường, trong thực tiễn đánh giá, các nhà đánh giá thường ít khi chỉ sử dụng một chỉ số để đánh giá mà thường sử dụng một tập hợp, một hệ các chỉ số có quan hệ logic nội tại với nhau để đánh giá một sự vật, hiện tượng, một quá trình. Tập hợp, hệ chỉ số có quan hệ logic nội tại với nhau ấy chính là bộ chỉ số đánh giá. Ở chừng mực nhất định, bộ chỉ số đánh giá chính là một chỉ số đánh giá mang tính chất tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ số thành phần. Trong tiếng Anh, bộ chỉ số đánh giá chính là Index.
2. Khái niệm bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
Cũng giống như các loại bộ chỉ số đánh giá hiệu quả khác, bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là công cụ đo lường và do đó, nó cũng là công cụ nhận thức. Bộ chỉ số hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là tập hợp các chỉ số thành phần đo lường 2 mối tương quan cơ bản là: (1) tương quan giữa kết quả thực tế của công tác thi hành pháp luật do cơ quan hành chính ấy thực hiện với kết quả dự kiến của công tác thi hành pháp luật do cơ quan hành chính này thực hiện (đây là tương quan phản ánh hiệu lực hoạt động thực tế của cơ quan hành chính nhà nước); và (2) tương quan giữa kết quả thực tế của công tác thi hành pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước ấy thực hiện với chi phí nguồn lực bỏ ra để tổ chức công tác thi hành pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước này thực hiện (đây là tương quan phản ánh hiệu suất công vụ của cơ quan hành chính nhà nước)
II. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Trong Chương 2, đề tài đã nghiên cứu một số bộ chỉ số đánh giá trên thế giới và kinh nghiệm cụ thể của một số quốc gia trong việc triển khai đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước.
Qua nghiên cứu, đề tài rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ngày càng được các quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm thực hiện với nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Hoạt động đánh giá này có thể do cơ quan nhà nước cấp trên thực hiện để đánh giá cơ quan cấp dưới hoặc được các viện nghiên cứu, các tổ chức độc lập thực hiện để đánh giá hiệu quả hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, các hoạt động đánh giá mang tính chính thống thường do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên tiến hành để đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới hoặc do các cơ quan hành chính nhà nước tự thực hiện. Điều này diễn ra cả ở Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Thứ hai, khi tiến hành các hoạt động đánh giá, các quốc gia khác nhau có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc xác định nội dung đánh giá. Có quốc gia như Hàn Quốc rất quan tâm tới việc đánh giá tổng thể hiệu quả hoạt động thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước (nhất là hiệu quả hoạt động của các Bộ và chính quyền địa phương). Ở Trung Quốc, việc đánh giá hiệu quả quản lý của chính quyền cấp tỉnh lại rất được quan tâm. Trong khi đó, có quốc gia (chẳng hạn Hoa Kỳ) lại đặc biệt quan tâm tới việc đánh giá hiệu quả thực hiện của từng chương trình cụ thể trong các chương trình hoạt động mà mỗi cơ quan hành chính phải thực hiện hàng năm.
Như vậy, cho tới nay, chưa có một khung đánh giá và cách tiếp cận thống nhất trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước hoặc hiệu quả hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở các quốc gia trên thế giới. Điều này cũng có nghĩa rằng, tùy theo yêu cầu nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội, mức độ phát triển của khoa học quản lý hành chính (hành chính công) và khoa học pháp lý mà các quốc gia có thể tự xây dựng, thiết kế khung đánh giá, nội dung đánh giá, phạm vi đánh giá cho phù hợp.
Thứ ba, để tiến hành hoạt động đánh giá, các quốc gia đã rất quan tâm chú ý xây dựng bộ công cụ đánh giá. Tuy nhiên, mỗi quốc gia khác nhau lại sử dụng những bộ công cụ khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của công tác đánh giá và khả năng đo lường, đánh giá trong thực tiễn. Có quốc gia sử dụng các tiêu chí mang tính chất định tính (chẳng hạn Trung Quốc, mặc dù đó là các tiêu chí rất toàn diện), nhưng có quốc gia (chẳng hạn Hoa Kỳ) sử dụng các tiêu chí cùng với các chỉ số mang tính định lượng rất cao.
Mặc dù vậy, cho tới nay, chưa có quốc gia nào xây dựng được bộ chỉ số chung để đo lường toàn diện hiệu quả hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước. Đây là một điều cực kỳ thách thức đối với Nhóm nghiên cứu khi thực hiện đề tài này.
Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc đánh giá hiệu quả hoạt động nói chung hoặc hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước nói riêng là hoạt động rất có ý nghĩa. Hoạt động này trước hết xuất phát từ nhu cầu cải cách, đổi mới và quản lý, chỉ đạo, điều hành của nội thân nền hành chính nhà nước. Khi được công chúng hoặc các tổ chức do dân chúng tự lập thực hiện, đây còn là một hình thức thực hiện quyền dân chủ của công dân. Để việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước được khách quan, toàn diện, có sức thuyết phục, làm cơ sở cho các hoạt động quản lý, điều hành của nhà nước, phục vụ các chương trình cải cách, đổi mới, các chủ thể tiến hành đánh giá cần được trang bị bộ tiêu chí hoặc bộ chỉ số đánh giá được thiết kế một cách khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ tiêu chí hoặc bộ chỉ số như vậy ở Việt Nam vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền, các viện nghiên cứu hoặc các chủ thể có liên quan khác thiết kế, xây dựng. Xuất phát từ thực tế này, việc nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số đánh giá thiết hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là rất cần trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang tích cực triển khai chương trình cải cách hành chính theo Nghị quyết số 30c năm 2011 của Chính phủ. Hoạt động này cũng góp phần thiết thực phục vụ việc triển khai các chủ trương về đổi mới tổ chức và hoạt động của nền hành chính nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định,[22] cũng như góp phần thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp theo Nghị định 22/2023/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp và các văn bản có liên quan.
III. THỰC TRẠNG VIỆC XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA
1. Cơ sở chính trị, pháp lý của việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
Cơ sở chính trị: các đường lối chính sách của Đảng ta thông qua các thời kỳ rất quan tâm đến việc cải cách hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước, trong đó có việc nâng cao chất lượng xây dựng và thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Tuy không đề cập trực tiếp đến việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước, nhưng những quan điểm, chủ trương của Đảng đã đặt cơ sở chính trị quan trọng cho việc thực hiện việc nghiên cứu đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước, để từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động của các cấp ủy đảng, việc chấp hành đường lối chính sách của đảng pháp luật của nhà nước luôn luôn được coi là một tiêu chí quan trọng hàng đầu trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại tổ chức cơ sở đảng và các đảng viên. Những tiêu chí này là cơ sở quan trọng cho việc cụ thể hóa của nhà nước đối với việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính.
Cơ sở pháp lý: ở nước ta, việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước được quy định ở nhiều văn bản khác nhau với những nội dung và tiêu chí, phương pháp đánh giá khác nhau. Hệ thống các văn bản pháp luật có chứa các nội dung liên quan đến việc đánh giá hiệu quả hoạt động nói riêng và đánh giá hoạt động thi hành pháp luật nói chung của cơ quan hành chính nhà nước bao gồm: (1) Hiến pháp năm 2013; (2) Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001[23]; (3) Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003[24]; (4) Luật Thi đua, khen thưởng 2003 (sửa đổi, bổ sung 2005); (5) Luật cán bộ, công chức năm 2008; (6) Luật Viên chức năm 2010; (7) Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 (ban hành theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ); (8) Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (9) Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính; (10) Quyết định số 1953/QĐ-BNV ngày 08/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc triển khai thí điểm Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính tại một số bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (11) Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật; (12) Quyết định số 634/QĐ-BTP ngày 22/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Bộ tiêu chí và quy trình đánh giá hiệu quả thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước,..
2. Thực trạng hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
Trong phần này, đề tài nghiên cứu về thực trạng đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước do các chủ thể khác nhau tiến hành thông qua những cách thức và công cụ khác nhau. Thông qua đó, chỉ ra những ưu điểm và tồn tại của từng phương thức đánh giá, hiệu quả của việc đánh giá. các nội dung đánh giá thực trạng tập trung vào hai góc độ:
-
Hoạt động đánh giá của cơ quan quyền lực nhà nước đối với hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp);
-
Hoạt động tự đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước;
3. Thực trạng các công cụ đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
Đề tài đã nghiên cứu, đánh giá nội dung chính của các Bộ công cụ tham gia vào hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật như sau:
-
Các công cụ đánh giá được sử dụng trong công tác thi đua, khen thưởng
-
Bộ công cụ đánh giá mức độ tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở
-
Bộ chỉ số cải cách hành chính (PAR Index);
-
Bộ chỉ số cải cách hành chính (PAR Index);
-
Chỉ số đánh giá chất lượng hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật của các Bộ (MEI);
-
Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI);
-
Chỉ số năng lực cạnh tranh vĩ mô của Việt Nam;
-
Chỉ số công lý[25]
Qua nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý, thực trạng đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước và thực trạng các bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu rút ra một số kết luận chung như sau:
Thứ nhất, mặc dù đã có những nghiên cứu bước đầu, tuy nhiên cho đến thời điểm nghiên cứu đề tài, ở Việt Nam chưa có một Bộ chỉ số - với tính chất là bộ công cụ được dùng để đánh giá/đo lường hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Do vậy, hoạt động đánh giá hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nói chung và hiệu quả thi hành pháp luật nói riêng còn chưa được tiến hành một cách bài bản và thống nhất áp dụng trong cả nước với những tiêu chí và chỉ số thống nhất.
Thứ hai, các công cụ đánh giá hoạt động của cơ quan nhà nước hiện nay có liên quan đến hiệu quả thi hành pháp luật do các tổ chức, hiệp hội xây dựng và tổ chức đánh giá đã có ảnh hưởng tích cực ban đầu đối với hoạt động của các bộ ngành địa phương. Tuy nhiên, các công cụ này là do các Hiệp hội, tổ chức ngoài nhà nước xây dựng và thực hiện. Kết quả của hoạt động này chỉ mang tính chất tham khảo.
IV. KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG BỘ CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Những yêu cầu về nội dung bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
nhóm nghiên cứu cho rằng, việc thiết kế bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước cũng phải bám sát 6 loại hoạt động cơ bản là: (1) hướng dẫn thi hành pháp luật; (2) phổ biến, giáo dục pháp luật; (3) xây dựng bộ máy và các điều kiện bảo đảm tổ chức thi hành pháp luật; (4) xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai các quy định pháp luật; (5) tổ chức công tác cấp phép, cấp giấy chứng nhận, các loại giấy ưu đãi); (6) thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị trong quá trình thi hành pháp luật. Thêm vào đó, như trong phần lý luận đã phân tích, đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước ở nước ta trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, nên việc thiết kế các chỉ số đánh giá cụ thể phải bám sát vào 4 giá trị cơ bản mà nền hành chính chúng ta đang xây dựng là: (1) tính hiệu lực; (2) tính hiệu suất (hay còn gọi là hiệu quả); (3) tính dân chủ, phục vụ nhân dân; và (4) tính pháp quyền. Như vậy, Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước cần phải đảm bảo các yêu cầu về mặt nội dung sau đây:
1.1. Đánh giá về hiệu quả hoạt động xây dựng văn bản hướng dẫn
Để đánh giá hiệu quả hoạt động xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn hoặc quy định quy định chi tiết (gọi chung là văn bản hướng dẫn) đối với một cơ quan hành chính thì phải đánh giá được những vấn đề sau: (1) Số lượng văn bản hướng dẫn hoặc quy định chi tiết được giao chủ trì soạn thảo để trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phải ban hành theo thẩm quyền trong năm; (2) mức độ kịp thời (đúng tiến độ) của việc ban hành các văn bản hướng dẫn; (3) mức độ đúng nội dung, phạm vi cần hướng dẫn so với yêu cầu của văn bản được hướng dẫn; (4) mức độ tuân thủ về trình tự, thủ tục ban hành văn bản hướng dẫn (chẳng hạn, số lượng văn bản hướng dẫn thi hành tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp); (5) sự bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của văn bản hướng dẫn đối với văn bản được hướng dẫn; (6) sự bảo đảm tính khả thi, minh bạch của văn bản hướng dẫn; (7) việc ban hành văn bản chỉ đạo, đôn đốc, tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và của cơ quan nhà nước cùng cấp có thẩm quyền (Chỉ thị, Công văn, Đề án triển khai, chương trình, kế hoạch…).
1.2. Đánh giá hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật được xác định là khâu quan trọng hàng đầu, là cầu nối giữa hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật. Mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật là nâng cao nhận thức, ý thức và hành động chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Để xác định được hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trên thực tế, chúng ta cần một hệ thống tiêu chí đồng bộ, rõ ràng và thống nhất. Ngày 24/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật, trong 08 tiêu chí được ban hành thì tiêu chí thứ 3 về phổ biến, giáo dục pháp luật, gồm:
- Đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật của xã, phường được bồi dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ trong năm;
- Có mạng lưới truyền thanh cơ sở tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Tỷ lệ văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được phổ biến cho người dân;
- Tủ sách pháp luật có đủ các loại sách, báo theo quy định và được cập nhật, bổ sung hàng năm;
- Có thư viện xã, phường (hoặc Bưu điện văn hóa xã, phường) hoặc địa điểm thuận lợi do Ủy ban nhân dân xã, phường quản lý để phục vụ người dân khai thác; miễn, giảm phí cơ sở dữ liệu pháp luật qua máy vi tính;
- Người dân tra cứu trực tiếp văn bản, tài liệu, sách, báo pháp luật hoặc máy vi tính nối mạng tại các địa điểm Ủy ban nhân dân xã, phường quản lý.
Để đánh giá hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cần lưu ý đánh giá những vấn đề sau: số lượng văn bản thực tế được phổ biến, giáo dục so với số lượng văn bản cần được phổ biến, giáo dục; số lượng đối tượng thực tế được phổ biến, giáo dục so với số lượng đối tượng cần được phổ biến, giáo dục... Bên cạnh đó, cần phải có các hoạt động đánh giá mức độ tác động nhận thức của công tác phổ biến giáo dục pháp luật đối với người dân trên địa bàn trong một khoảng thời gian và nhóm đối tượng nhất định.
1.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động xây dựng bộ máy và các điều kiện bảo đảm tổ chức thi hành pháp luật
Để đánh giá hiệu quả hoạt động xây dựng, kiện toàn bộ máy và các điều kiện bảo đảm tổ chức thi hành pháp luật (nhất là điều kiện về nhân lực, ngân sách, trang thiết bị làm việc...), việc thực hiện đánh giá cần quan tâm tới các nội dung cơ bản như: số lượng biên chế đã thực hiện so với số lượng biên chế được giao; số lượng biên chế được giao so với số lượng biên chế cần và đủ để triển khai nhiệm vụ thi hành pháp luật; số lượng đơn vị được thành lập, duy trì hoạt động so với số lượng đơn vị cần và đủ để triển khai nhiệm vụ thi hành pháp luật; số lượng ngân sách thực tế được giao so với số lượng ngân sách cần và đủ để triển khai nhiệm vụ thi hành pháp luật; số lượng cán bộ, công chức được đào tạo đúng chuyên môn nghiệp vụ khi đảm nhận nhiệm vụ so với số lượng cán bộ, công chức đang đảm nhiệm nhiệm vụ; mức độ đáp ứng về trang thiết bị, điều kiện làm việc so với nhu cầu thực tế để triển khai nhiệm vụ được giao v.v.
Bên cạnh đó, cần có các tiêu chí đánh giá về hiệu quả nâng cao chất lượng hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước với các nội dung như: Chuyển biến về nhận thức, ý thức và trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức; chuyển biến về chất lượng hoạt động công vụ, nhiệm vụ được giao; giảm các vụ việc có sai sót trong quá trình triển khai công vụ; hiệu quả hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước.
1.4. Đánh giá hiệu quả hoạt động xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai các quy định pháp luật
Đánh giá hiệu quả hoạt động xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai các quy định pháp luật cần tập trung đánh giá các khía cạnh như việc xây dựng và triển khai các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực. Cụ thể, việc đánh giá này có thể tập trung vào các nội dung sau: số quy hoạch được ban hành so với số quy hoạch cần được ban hành đúng hạn; số quy hoạch được ban hành một cách chất lượng (thỏa mãn các yêu cầu về tính toàn diện, tính nhất quán, tính đồng bộ, tính khả thi) so với số quy hoạch đã được ban hành v.v.
1.5. Đánh giá hiệu quả hoạt động cấp phép, cấp văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận
Đánh giá hiệu quả hoạt động cấp phép, cấp văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, giấy đăng ký cần tập trung đánh giá các khía cạnh như: việc cấp phép, cấp các loại giấy chứng nhận, văn bằng, chứng chỉ phải đúng đối tượng, đúng thời hạn, đúng trình tự, thủ tục và đúng các yêu cầu khác của pháp luật. Cụ thể, việc đánh giá hiệu quả hoạt động cấp phép, cấp văn bằng, chứng chỉ này có thể được thực hiện thông qua các thông số như: số giấy chứng nhận hoặc giấy phép được cấp đúng hạn so với số giấy chứng nhận, giấy phép cần phải cấp; số giấy chứng nhận hoặc giấy phép được cấp đúng pháp luật so với số giấy chứng nhận hoặc giấy phép đã được cấp; mức độ hài lòng của người dân về việc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan tới cấp phép, cấp giấy chứng nhận; mức độ liêm chính (chí công, vô tư) trong việc thi hành pháp luật, giải quyết việc cấp phép, cấp giấy chứng nhận cho người dân, tổ chức...
1.6. Đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị trong quá trình thi hành pháp luật
Đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị trong quá trình thi hành pháp luật cần tập trung vào các nội dung: số lượng đối tượng thực tế được thanh tra, kiểm tra so với số lượng đối tượng cần được thanh tra, kiểm tra; số vụ vi phạm được xử lý đúng hạn và đúng pháp luật so với số vụ vi phạm được phát hiện; quy mô tồn tại tình trạng vi phạm ẩn chưa được phát hiện; số vụ khiếu nại được giải quyết đúng hạn, đúng pháp luật so với số vụ khiếu nại; số vụ tố cáo được giải quyết đúng hạn, đúng pháp luật so với số vụ tố cáo được tiếp nhận, thụ lý; số kiến nghị được giải quyết đúng hạn so với số kiến nghị cần được giải quyết; mức độ hài lòng của người yêu cầu về việc giải quyết các kiến nghị; số văn bản được kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung so với số văn bản pháp luật được phát hiện có tồn tại, bất cập qua thực tiễn công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị ..
2. Đề xuất bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước
Để phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước ta, trong thời gian tới, Việt Nam chỉ nên thiết kế bộ chỉ số thi hành pháp luật của 2 loại cơ quan hành chính nhà nước cơ bản là các bộ và Ủy ban nhân dân các cấp, mà trước mắt là các bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Nhóm nghiên cứu cho rằng, bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là bộ chỉ số gồm 6 chỉ số thành phần. Cụ thể, đó là các chỉ số sau:
Thứ nhất, chỉ số đánh giá hiệu quả ban hành văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật. Chỉ số này gồm các chỉ số thành phần: (1) Tỷ lệ số văn bản hướng dẫn đã được ban hành/số văn bản hướng dẫn cần được ban hành; (2) Tỷ lệ số văn bản hướng dẫn được ban hành đúng hạn/số văn bản hướng dẫn cần được ban hành; (3) Tỷ lệ số văn bản hướng dẫn thực hiện đầy đủ các yêu cầu trong quy trình ban hành do pháp luật quy định/số văn bản thực tế ban hành; (4) Tỷ lệ số văn bản hướng dẫn bị kiểm tra phát hiện có sai sót/số văn bản hướng dẫn đã ban hành.
Thứ hai, chỉ số đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Chỉ số này gồm các chỉ số thành phần sau: (1) tỷ lệ số lượng văn bản thực tế được phổ biến, giáo dục/số lượng văn bản thực tế cần phải phổ biến, giáo dục; (2) tỷ lệ số lượng đối tượng thực tế được phổ biến, giáo dục/số lượng đối tượng cần được phổ biến, giáo dục; (3) chỉ số về chất lượng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Thứ ba, chỉ số đánh giá hiệu quả công tác tổ chức bộ máy, quản lý biên chế, nhân sự, quản lý ngân sách và tài sản công. Đây là các điều kiện đầu vào thiết yếu để bảo đảm thực hiện các công việc thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Chỉ số này có thể bao gồm các tiểu chỉ số thành phần sau: (1) Tỷ lệ số lượng biên chế đã thực hiện/số lượng biên chế được giao; (2) Tỷ lệ số lượng biên chế được giao/số lượng biên chế cần và đủ để triển khai nhiệm vụ thi hành pháp luật; (3) Tỷ lệ số lượng đơn vị được thành lập, duy trì hoạt động/số lượng đơn vị cần và đủ để triển khai nhiệm vụ thi hành pháp luật; (4) Tỷ lệ số lượng ngân sách thực tế được giao/số lượng ngân sách cần và đủ để triển khai nhiệm vụ thi hành pháp luật; (5) Tỷ lệ số lượng cán bộ, công chức được đào tạo đúng chuyên môn, nghiệp vụ/số lượng cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ; (6) Tỷ lệ số lượng cán bộ, công chức bị xử lý vì vi phạm đạo đức và công vụ so với tổng số cán bộ, công chức...
Thứ tư, chỉ số đánh giá hiệu quả xây dựng và thực hiện các chương trình, quy hoạch, kế hoạch triển khai các quy định pháp luật cụ thể. Chỉ số này bao gồm: xây dựng, triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực; tổ chức công tác cấp phép, cấp giấy chứng nhận, các loại giấy ưu đãi. Những chỉ số có thể được sử dụng để đánh giá gồm: (1) tỷ lệ số quy hoạch được ban hành/số quy hoạch cần được ban hành đúng hạn; (2) tỷ lệ số quy hoạch được ban hành một cách chất lượng (thỏa mãn các yêu cầu về tính toàn diện, tính nhất quán, tính đồng bộ, tính khả thi)/số quy hoạch đã được ban hành;
Thứ năm, chỉ số đánh giá hiệu quả cấp giấy chứng nhận, giấy phép. Chỉ số này có thể bao gồm: (1) tỷ lệ số giấy chứng nhận hoặc giấy phép được cấp đúng hạn/số giấy chứng nhận, giấy phép cần phải cấp; (2) tỷ lệ số giấy chứng nhận hoặc giấy phép được cấp đúng pháp luật/số giấy chứng nhận hoặc giấy phép đã được cấp; (3) chỉ số về mức độ hài lòng của người dân về việc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan tới cấp phép, cấp giấy chứng nhận...; (4) chỉ số đo lường tính liêm chính trong việc thi hành pháp luật.
Thứ sáu, chỉ số đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân và tổ chức. Chỉ số này bao gồm: (1) tỷ lệ số lượng đối tượng thực tế được thanh tra, kiểm tra/số lượng đối tượng cần được thanh tra, kiểm tra; (2) tỷ lệ số vụ vi phạm được xử lý đúng hạn/số vụ vi phạm được phát hiện; (3) chỉ số về vi phạm ẩn chưa được phát hiện (có thể chỉ đo lường được bằng điều tra xã hội học và chỉ số này chỉ mang tính cảm nhận); (4) tỷ lệ số vụ khiếu nại được giải quyết đúng hạn, đúng pháp luật/số vụ khiếu nại; (5) tỷ lệ số vụ tố cáo được giải quyết đúng hạn, đúng pháp luật/số vụ tố cáo; (6) tỷ lệ số kiến nghị được giải quyết đúng hạn/số kiến nghị cần được giải quyết; (7) mức độ hài lòng của người yêu cầu về việc giải quyết các kiến nghị; (8) tỷ lệ số văn bản được kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung/số văn bản pháp luật được phát hiện có tồn tại, bất cập qua thực tiễn công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị...
Xuất phát từ tầm quan trọng của từng loại hoạt động trong tổng thể hoạt động quản lý nhà nước nói chung, của mỗi cơ quan hành chính nhà nước (có tính tới sự khác biệt trong tính chất quản lý nhà nước của bộ với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), nhóm nghiên cứu cho rằng có thể phân định các trọng số (chẳng hạn, theo thang điểm 100) như sau:
- Bộ chỉ số dành cho các bộ gồm 6 chỉ số thành phần và được phân bổ trọng số cho mỗi chỉ số như sau: Chỉ số ”ban hành văn bản hướng dẫn” được 25 điểm; Chỉ số ”phổ biến, giáo dục pháp luật” được 10 điểm; Chỉ số ”tổ chức bộ máy, ngân sách, tài sản” được 20 điểm; Chỉ số ”chương trình, quy hoạch, kế hoạch triển khai” được 20 điểm; Chỉ số ”cấp phép, cấp giấy chứng nhận” được 10 điểm; Chỉ số ”thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, xử lý vi phạm” được 15 điểm.
- Bộ chỉ số dành cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng gồm 6 chỉ số thành phần nhưng được phân bổ trọng số của mỗi chỉ số thành phần như sau: Chỉ số ”ban hành văn bản hướng dẫn” được 15 điểm; Chỉ số ”phổ biến, giáo dục pháp luật” được 10 điểm; Chỉ số ”tổ chức bộ máy, ngân sách, tài sản” được 20 điểm; Chỉ số ”chương trình, quy hoạch, kế hoạch triển khai” được 15 điểm; Chỉ số ”cấp phép, cấp giấy chứng nhận” được 20 điểm; Chỉ số ”thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, xử lý vi phạm” được 20 điểm.
Cũng có thể sử dụng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để áp dụng một cách tương tự cho việc đo lường hiệu quả thi hành pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, càng đi xuống cấp cơ sở thì công tác ban hành văn bản hướng dẫn càng giảm đi và công tác trực tiếp tổ chức thi hành pháp luật lại càng tăng lên nên trọng số của từng chỉ số có thể cần được thay đổi cho phù hợp.
Trên cơ sở thang điểm đánh giá kể trên, có thể xếp loại kết quả đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước được đánh giá thành 4 loại như sau: Loại TỐT, với điểm số trung bình đạt từ 80 điểm trở lên. Loại KHÁ, với điểm số trung bình đạt từ 70 đến 79,9 điểm. Loại TRUNG BÌNH, với điểm số trung bình đạt từ 50 đến 69,9 điểm. Loại YẾU KÉM, với điểm số trung bình đạt dưới 50 điểm.
3. Đề xuất quy trình và điều kiện áp dụng bộ chỉ số
Trên cơ sở tổng kết tham khảo kinh nghiệm đánh giá hiệu quả hoạt động công vụ được nhiều nhà khoa học trên thế giới, nhóm nghiên cứu cho rằng, việc sử dụng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam nên theo quy trình 6 bước cơ bản sau:[26]
Bước 1: xác định nội dung và đối tượng được đánh giá.
Bước 2: xây dựng các tiêu chí (hoặc chỉ số) đánh giá phù hợp với nội dung đánh giá.
Bước 3: thu thập và tổng hợp dữ liệu/dữ kiện (thông tin cần thiết để đánh giá).
Bước 4: phân tích dữ liệu, dữ kiện thu thập được để rút ra kết luận về hiệu quả của nội dung, đối tượng được đánh giá.
Bước 5: tìm hiểu, phân tích nguyên nhân của việc đạt được các mức độ hiệu quả/hay không hiệu quả và kiến nghị, đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả.
Bước 6: tổng kết, rút kinh nghiệm công tác đánh giá và đề xuất các biện pháp hoàn thiện phương pháp, công tác đánh giá.
Trong thời gian tới, để công tác đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các bộ quản lý ngành và các Ủy ban nhân dân đi vào nề nếp, Chính phủ nên ban hành 1 Nghị định về thí điểm tổ chức công tác đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nghị định này bao gồm một số nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể tiến hành công việc đánh giá. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Chính phủ, có thể xác định rằng Thủ tướng Chính phủ là người có đủ thẩm quyền để tổ chức công tác đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (theo khoản 2 Điều 98 Hiến pháp năm 2013). Tuy nhiên, do việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là hoạt động mang tính chuyên môn cao nên để giúp việc cho Thủ tướng Chính phủ thực hiện hoạt động này, Thủ tướng Chính phủ có thể thành lập Hội đồng đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật với tư cách là cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ để triển khai nhiệm vụ này.
Thứ hai, về đối tượng tiến hành hoạt động đánh giá sẽ bao gồm 1 số bộ (các bộ, cơ quan ngang bộ có chức năng quản lý nhà nước ngoại trừ Văn phòng Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao) và tất cả các Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Thứ ba, về hình thức tiến hành đánh giá. Cần quy định cả 2 loại hình thức đánh giá là hình thức tự đánh giá và hình thức đánh giá của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới. Đối với các bộ, ngoài việc tự đánh giá (với cách thức do Bộ trưởng tự quyết định) việc đánh giá sẽ được tiến hành bởi một Hội đồng do Thủ tướng Chính phủ thành lập. Thành phần của Hội đồng này gồm 1 Lãnh đạo của Chính phủ làm chủ tịch Hội đồng, cùng đại diện lãnh đạo của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ và các chuyên gia có uy tín. Trong thành phần của Hội đồng cũng nên mời thêm đại diện của Kiểm toán nhà nước. Bộ Tư pháp hoặc Bộ Nội vụ sẽ là cơ quan thường trực của Hội đồng đánh giá.
Đối với việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, việc đánh giá này cũng do Hội đồng kể trên tiến hành. Khi hoạt động đánh giá đã đi vào nề nếp, Thủ tướng Chính phủ có thể phân cấp cho Bộ Tư pháp hoặc Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và Thanh tra Chính phủ thực hiện.
Thứ tư, về bộ công cụ đánh giá. Khối các Bộ nên có bộ chỉ số đánh giá riêng và khối Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nên có bộ chỉ số đánh giá riêng trên cơ sở bộ chỉ số khung đánh giá 6 loại hoạt động thi hành pháp luật.
Thứ năm, về quy trình đánh giá: nên đánh giá theo quy trình 6 bước như sau:
Bước 1: Hội đồng đánh giá của Thủ tướng Chính phủ sẽ xác định nội dung đánh giá đối với mỗi bộ đó sẽ là "hiệu quả thi hành pháp luật của các bộ", trong đó tập trung vào đánh giá hiệu quả triển khai các hoạt động thi hành pháp luật cụ thể mà bộ đã tiến hành bao gồm: (1) hoạt động xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành (chỉ nên tập trung vào hoạt động mà Bộ là cơ quan chủ trì soạn thảo hoặc cơ quan trực tiếp ban hành); (2) hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; (3) hoạt động tổ chức bộ máy, điều kiện bảo đảm thi hành pháp luật; (4) hoạt động xây dựng và thực hiện các loại quy hoạch, chương trình, kế hoạch thi hành pháp luật (trong đó có cả các hoạt động cấp phép, cấp giấy chứng nhận, giải quyết các yêu cầu của người dân, doanh nghiệp, các chủ thể có liên quan); (5) hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ, hoạt động xử lý vi phạm pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của bộ, hoạt động phát hiện những tồn tại, bất cập trong công tác thi hành pháp luật và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền khắc phục.
Bước 2: Hội đồng đánh giá xây dựng bộ chỉ số đánh giá. Bộ chỉ số đánh giá này nên có tính chất kế thừa để từng bước có bộ chỉ số đánh giá áp dụng trong nhiều năm liền, làm công cụ phục vụ việc so sánh, đánh giá giữa các năm đối với kết quả hoạt động thi hành pháp luật của các bộ.
Bước 3: Thu thập các thông tin, số liệu, dữ kiện phục vụ cho việc đánh giá. Các dữ kiện thu được phải bảo đảm tính trung thực, tin cậy, có thể kiểm chứng, đối chiếu được. Các dữ liệu được thu thập bao gồm: (1) dữ liệu về kết quả thực tế của hoạt động thi hành pháp luật; (2) dữ liệu về kết quả dự kiến của hoạt động thi hành pháp luật; (3) chi phí về nhân lực.
Bước 4: Phân tích dữ liệu thu được để rút ra kết luận về mức độ hiệu quả của hoạt động thi hành pháp luật, trong đó làm rõ 2 tỷ lệ: (1) tỷ lệ kết quả thực tế so với kết quả dự kiến và (2) tỷ lệ tổng chi phí/kết quả thực tế đạt được.
Bước 5: Xác định nguyên nhân của những tồn tại, bất cập, nhất là nguyên nhân mà tỷ lệ kết quả thực tế so với kết quả dự kiến không đạt được yêu cầu, mức độ tăng giảm về hiệu suất làm việc, đồng thời tìm ra các kiến nghị cải thiện hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan được đánh giá.
Bước 6: Tổng kết công tác đánh giá, rút ra các bài học để lần đánh giá sau hiệu quả hơn.
Việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng được triển khai tương tự theo quy trình 6 bước kể trên. Tuy nhiên, điều quan trọng đầu tiên phải tính được khối lượng công việc mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã triển khai hàng năm, trong đó phải trừ đi các công việc thuộc thẩm quyền của chính quyền trung ương (mà Ủy ban nhân dân tỉnh được ủy quyền thực hiện) và các công việc thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã. Đây là công việc không hề giản đơn, nhất là trong bối cảnh, việc thực hiện nhiệm vụ và sự phản ánh việc thực hiện nhiệm vụ đó trên sổ sách, giấy tờ kế toán, tài chính chưa thực sự ăn khớp nhau.
Thứ sáu, về thời hạn và niên độ đánh giá: việc tự đánh giá của các bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nên được lồng ghép với quá trình xây dựng Báo cáo công tác năm và phương hướng triển khai công tác trong năm tới. Việc đánh giá do Hội đồng đánh giá tiến hành nên được tiến hành hàng năm trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến hết tháng 3 (khi các Bộ, Ngành và địa phương đã thực hiện xong công việc triển khai công tác hàng năm). Kết quả của việc đánh giá sẽ là một trong những thông tin quan trọng phục vụ công việc xây dựng báo cáo phục vụ kỳ họp Quốc hội vào tháng 5 hàng năm cũng như việc xây dựng dự toán ngân sách cho năm kế tiếp.
IV. KẾT LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta, nhóm nghiên cứu rút ra một số kết luận cơ bản sau đây:
1. Đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước chính là việc đo lường, xác định mức độ đáp ứng mục tiêu thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước. Đây là hoạt động mang tính chuyên môn, kỹ thuật và khoa học rất cao nhưng cũng là hoạt động mang đậm yếu tố chính trị và nhiều khi khá đụng chạm và nhạy cảm.
2. Đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là hoạt động rất có ý nghĩa trong việc xây dựng nền hành chính dân chủ, hiệu lực, hiệu quả, trong sạch và vững mạnh. Hoạt động này cho tới nay ở Việt Nam đã được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều góc độ, cung bậc khác nhau, tuy nhiên, còn thiếu tính chuyên nghiệp, bài bản, chưa thực sự được chuẩn hóa.
3. Thời gian qua, việc đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước đã được Đảng và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam quan tâm thực hiện. Những tiền đề ban đầu về cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý (thể chế) cho hoạt động này đã được hình thành.
4. Nâng cao chất lượng hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta đang là một đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn cuộc sống và là yêu cầu nội thân của công cuộc cải cách, đổi mới ở nước ta hiện nay.
5. Để nâng cao chất lượng hoạt động đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước, việc hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực này cùng với việc xây dựng, thiết kế bộ công cụ đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là rất quan trọng và có ý nghĩa then chốt.
6. Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam nếu xây dựng được thành công phải là bộ chỉ số mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ số thành phần và các tiểu chỉ số ở cấp thấp hơn. Trong đó phải kể đến 6 chỉ số thành phần sau đây: (1) chỉ số đánh giá hiệu quả ban hành văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật; (2) chỉ số đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; (3) chỉ số đánh giá hiệu quả công tác tổ chức bộ máy, quản lý biên chế, nhân sự, quản lý ngân sách và tài sản công; (4) chỉ số đánh giá hiệu quả xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai các quy định pháp luật; (5) chỉ số đánh giá hiệu quả công tác cấp phép, cấp giấy chứng nhận; (6) chỉ số đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân và tổ chức.
Khi xây dựng thang điểm đo lường, đánh giá 6 chỉ số thành phần này, tùy theo quan niệm của người đánh giá mà có thể gắn trọng số cho mỗi chỉ số thành phần khác nhau trong thang điểm chung của bộ chỉ số (chẳng hạn thang điểm 100 hoặc 1000). Tuy nhiên, trọng số của mỗi chỉ số thành phần khi sử dụng để đánh giá các bộ có thể không giống với đánh giá Ủy ban nhân dân các cấp.
7. Để có thể thiết kế được bộ chỉ số mang tính sát hợp, toàn diện và khả thi để đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước, việc phân định thẩm quyền, phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa các cơ quan hành chính nhà nước cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng rõ ràng, dứt khoát và ổn định hơn; hệ thống thông tin thống kê của các bộ, ngành, địa phương cũng cần tiếp tục được hoàn thiện.
8. Thiết kế bộ công cụ đo lường, đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam là lĩnh vực còn rất mới mẻ, phức tạp, đòi hỏi sự đầu tư, công sức trí tuệ của nhiều chuyên gia, nhà khoa học và cần được hoàn thiện qua thực tiễn áp dụng. Do vậy, kết quả công trình nghiên cứu này rất mong nhận được sự quan tâm, theo dõi, góp ý, hoàn thiện của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn ở nước ta.
[1] Nay là Hiến pháp năm 2013.
[2] Nay là Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
[3] Nay là Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
[4] William N. Dunn, Public Policy Analysis: An Introduction, 4th ed. International Edition, 2010, at 308.
[5] Office of the General Auditor of Canada, Performance Audit Manual, 2004 <http://www.oag-bvg.gc.ca/internet/docs/pam_e.pdf> at 13.
[6] PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội, 2013, tr. 396.
[7] PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật. Tlđd, tr. 397.
[8] PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội, 2008, tr. 128.
[9] Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân.
[10] Quốc hội, Hội đồng nhân dân (hoạt động chính thông qua các kỳ họp, giữa các kỳ họp chỉ có bộ phận nhất định thực hiện một số nhiệm vụ được giao); hay khác với hoạt động của cơ quan tòa án (chức năng chính thực hiện thông qua hoạt động xét xử tại các phiên tòa).
[11] PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật”; TS.Lê Thành Long “Các quan niệm về thi hành pháp luật từ khảo sát thực tiễn và nghiên cứu xây dựng đề án triển khai công tác theo dõi thi hành pháp luật”, Hội thảo khởi động của Đề tài “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Hà Nội. 4/2010.
[12] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng. Đà Nẵng, 2004, tr. 440. Cũng lưu ý rằng, tại trang này, các tác giả của cuốn từ điển có đưa ra định nghĩa rằng “hiệu lực = (1) tác dụng thực tế, đúng như yêu cầu; (2) giá trị thi hành.”
[13] “Lãng phí = “làm tốn kém, hao tổn một cách vô ích”. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt.. Tlđd, tr. 543.
[14] Paul A. Samuelson và William D. Nordhaus, Kinh tế học. Nxb. Thống kê. Hà Nội, 2002, tr. 31; cũng xem David Begg, et.al, Kinh tế học, ấn bản lần thứ 8. Nxb. Thống kê. Hà Nội, 2007, tr.9.
[15] PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan, Hiệu quả của pháp luật: Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội, 2012, tr. 28.
[16] TS. Dương Thị Thanh Mai, TS. Nguyễn Văn Cương, ThS. Trần Thị Quang Hồng. “Phác thảo Hệ tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bài thuyết trình tại Hội thảo “Hiệu quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước - Nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” – TP Hồ Chí Minh ngày 12/11/2011.
[17] Hoàng Phê (chủ biên). Từ điển Tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng. Hà Nội, 2004, tr. 990.
[18] Hoàng Phê (chủ biên). Từ điển Tiếng Việt . Tlđd, tr. 153.
[19] A S Hornby, Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current English, 6th ed. Oxford University Press. Oxford, 2000, at 660.
[20] Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu (của Diễn đàn kinh tế thế giới WEF) năm 2014 - 2015 (trang 384-385), Việt Nam chỉ đứng thứ hạng 68/144 nền kinh tế. Trong số đó, chỉ số về chất lượng thể chế chỉ đạt điểm 3,5/7 (đứng thứ 92/144 quốc gia). Những yếu tố rào cản quan trọng nhất đối với sự phát triển của doanh nghiệp bao gồm tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng, tình trạng tham nhũng, lực lượng lao động có trình độ được đào tạo phù hợp, sự không ổn định của chính sách, sự phức tạp trong các quy định về thuế, nền hành chính kém hiệu năng đều là các yếu tố liên quan tới chất lượng, hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính. Đây đều là những vấn đề Việt Nam rất cần có sự cải thiện nhanh chóng nếu muốn nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. <http://www3.weforum.org/docs/WEF_GlobalCompetitivenessReport_2014-15.pdf>
[21] PGS.TS. Ngô Thắng Lợi, Hoạch định phát triển kinh tế-xã hội: Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội, 2011, tr. 272-274.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2011) tr. 249-250.
[23] Nay là Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
[24] Nay là Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
[25] Chỉ số về công bằng và bình đẳng dựa trên ý kiến của người dân. Chỉ số này do Hội Luật gia Việt Nam phối hợp với UNDP thực hiện và đã thực hiện đánh giá tại 21 tỉnh/thành phố năm 2012.
[26] PGS.TS. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên), Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước: Những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt Nam. Nxb. Lao động. Hà Nội, 2012, tr. 118.