Sau gần 10 năm thi hành, bên cạnh những tác động tích cực đối với đời sống xã hội, đảm bảo quyền nhân thân, quyền tài sản của cá nhân, tổ chức; đảm bảo an toàn và sự lành mạnh của các giao dịch dân sự; tạo nên những chuyển biến đáng kể trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu đối với hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền, chưa thể hiện được đầy đủ yêu cầu là nền tảng pháp lý cơ bản của hệ thống luật tư. Đồng thời, BLDS năm 2005 còn chưa thể hiện được sự nhất quán trong tư duy lập pháp và chưa thực sự phù hợp với thông lệ, nguyên lý chung về xây dựng pháp luật dân sự.
Nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, việc nghiên cứu xây dựng BLDS (sửa đổi) đã được triển khai và trải qua nhiều giai đoạn hoàn thiện dự thảo. Ngày 24 tháng 11 năm 2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua BLDS số 91/2015/QH13 (gọi tắt là BLDS năm 2015), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017.
Để BLDS đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng tích cực, việc giới thiệu, thông tin về quá trình xây dựng, những điểm mới của BLDS với xã hội là hết sức cần thiết góp phần thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến và thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Bên cạnh đó, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự cũng cần thực hiện trong thời gian tới ở hai khía cạnh sau: thú nhất, cần tiếp tục nghiên cứu, xác định những vấn đề cần phải hoàn thiện tại các văn bản khác trong hệ thống pháp luật dân sự nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ. Thú hai, BLDS sửa đổi được xây dựng trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình chuyển đổi, nhiều vấn đề đã được đặt ra nhưng chưa được thống nhất quan điểm (như cấu trúc BLDS theo chế định vật quyền, trái quyền; các vật quyền khác; người trợ tá; thiết kế chế định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài...) cũng cần được thông tin cho nhiều người biết và tiếp tục nghiên cứu.
Bởi vậy, Nhóm nghiên cứu đã thực hiện Đề tài về “Những điểm mới cơ bản của Bộ luật dân sự sửa đổi và việc hoàn thiện một số chế định của pháp luật dân sự” nhằm mục tiêu:
-
Góp phần phổ biến sâu rộng nội dung cơ bản và điểm mới của BLDS sửa đổi;
-
Xác định các nhiệm vụ, vấn đề đặt ra giúp các nhà lập pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính thống nhất đồng bộ.
Để đạt được mục tiêu trên, Đề tài tập trung vào các nội dung nghiên cứu sau đây:
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỘ LUẬT DÂN SỰ SỬA ĐỔI
Tại phần này, các tác giả đã nghiên cứu về sự cần thiết xây dựng BLDS (sửa đổi); Quá trình xây dựng, ban hành BLDS năm 2015; Quan điểm chỉ đạo xây dựng BLDS (sửa đổi); Các lý thuyết về pháp luật dân sự đã được nghiên cứu, vận dụng trong quá trình xây dựng BLDS năm 2015; Cấu trúc của BLDS năm 2015. Trong đó có một số nội dung đáng chú ý sau đây:
-
Sự cần thiết xây dựng Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Bước sang giai đoạn phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng và đặc biệt là yêu cầu về bảo vệ quyền con người, quyền công dân và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, BLDS năm 2005 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nổi bật là các vấn đề sau đây: Thứ nhất, một số quy định của BLDS năm 2005 chưa đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải có cơ chế pháp lý để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân về dân sự.
Thứ hai, BLDS năm 2005 chưa thể hiện được đầy đủ vai trò là luật chung của hệ thống luật tư.
Thứ ba, cấu trúc của BLDS năm 2005 có điểm chưa đảm bảo tính đồng bộ, tính hệ thống, tính logic giữa các phần và chế định của Bộ luật.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của BLDS nói riêng, pháp luật dân sự nói chung; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự của người dân, vì vậy cần phải xây dựng Bộ luật dân sự mới để khắc phục những khiếm khuyết của BLDS năm 2005.
-
Quan điểm chỉ đạo xây dựng Bộ luật dân sự (sửa đổi)[1]
BLDS là một đạo luật có ý nghĩa lớn không chỉ về mặt kinh tế - xã hội mà còn cả về mặt xây dựng pháp luật, nhất là đối với hệ thống luật tư. Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật này đã quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, thể chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đã được ghi nhận trong các nghị quyết của Đảng và đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013.
Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành để bảo đảm BLDS thực sự phát huy được ba vai trò cơ bản, đó là: (1) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, nhất là quyền, lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí, ngay tình trong quan hệ dân sự; hạn chế tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự; (2) Tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; (3) Là công cụ pháp lý hữu hiệu để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các thiết chế dân chủ trong xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Ba là, xây dựng BLDS thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.
Bốn là, bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp luật dân sự, cũng như các giá trị văn hóa, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của Việt Nam; có sự tham khảo kinh nghiệm xây dựng BLDS của một số nước, nhất là các nước có truyền thống pháp luật tương đồng với Việt Nam.
-
Các lý thuyết về pháp luật dân sự đã được nghiên cứu, vận dụng trong quá trình xây dựng Bộ luật dân sự năm 2015
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công này của BLDS năm 2015 là sự đổi mới trong tư duy pháp lý của các nhà lập pháp trong việc sử dụng các học thuyết pháp lý có tầm ảnh hưởng đến khoa học pháp lý thế giới vào việc xây dựng BLDS năm 2015. Để làm rõ ảnh hưởng của các học thuyết pháp lý đến việc xây dựng BLDS năm 2015, các tác giả đã nghiên cứu hai nội dung: Thứ nhất, khái niệm học thuyết pháp lý và vai trò của học thuyết pháp lý; Thứ hai, ảnh hưởng của một số học thuyết pháp lý đến việc xây dựng BLDS năm 2015 (học thuyết phân biệt vật quyền và trái quyền; học thuyết vật quyền; học thuyết chiếm hữu; một số học thuyết khác...).
-
Cấu trúc của Bộ luật dân sự năm 2015
BLDS năm 2015 có 689 điều, được bố cục thành 6 phần, 27 chương, trong đó so với BLDS năm 2005, Bộ luật giữ nguyên 81 điều, kế thừa và sửa đổi 573 điều, bổ sung 70 điều, bãi bỏ 123 điều; BLDS năm 2015 ít hơn 1 phần, 9 chương và 88 điều so với BLDS năm 20 052. Trong đó, BLDS năm 2015 có những điểm mới về cấu trúc của từng phần cụ thể như sau:
-
Cấu trúc của Phần thứ nhất
Phần thứ nhất BLDS năm 2015 (Quy định chung) gồm 10 chương và 157 điều quy định về phạm vi điều chỉnh, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, mối quan hệ giữa pháp luật dân sự với luật khác có liên quan và điều ước quốc tế, nguyên tắc về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự, công cụ pháp lý để tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật để áp dụng, địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, tài sản, giao dịch dân sự, đại diện, thời hạn, thời hiệu.
Những điểm mới trong cấu trúc Phần thứ nhất BLDS năm 2015 tập trung chủ yếu ở những điểm sau:
Thứ nhất, Chương II "Những nguyên tắc cơ bản” của BLDS năm 2005 được sửa đổi thành một điều "Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự” (Điều 3).
Thứ hai, bổ sung Chương II "Xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự”.
Thứ ba, các quy định về hộ gia đình, tổ hợp tác không còn chiếm dung lượng một chương nữa mà được gộp vào cùng các chủ thể không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự khác thành một chương - Chương VI: Hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự.
Thứ tư, bổ sung một chương về tư cách của "Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự” (Chương V).
Thứ năm, khác với BLDS năm 2005[2], trong cấu trúc BLDS năm 2015 phần tài sản đã được quy định tại Phần thứ nhất - Những quy định chung của Bộ luật[3]. Quy định như vậy là phù hợp vì đây là những quy định chung có ảnh hưởng tới những phần tiếp theo của BLDS. Theo đó, Chương VII, Phần thứ nhất BLDS năm 2015 quy định về tài sản; đăng ký tài sản; bất động sản và động sản; tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai; hoa lợi, lợi tức; vật chất và vật phụ; vật chia được và vật không chia được; vật tiêu hao và vật không tiêu hao; vật cùng loại và vật đặc định; vật đồng bộ; quyền tài sản.
Thú sáu, các quy định về thời hạn và thời hiệu được thể hiện tại một chương - Chương X. Việc ghép các quy định về thời hạn và thời hiệu vào chung một chương là hợp lý bởi bản chất của thời hiệu chính là thời hạn do pháp luật quy định.
Phần chung của BLDS năm 2015 là phần chứa đựng các quy định chung có tính khái quát lý luận cao, có mối liên hệ logic và chặt chẽ với các quy định trong các phần chế định cụ thể, có vai trò chi phối các phần còn lại của Bộ luật. Cấu trúc này của Bộ luật tạo ra sự thống nhất và kết nối chặt chẽ, logic trong toàn bộ Bộ luật. Quan trọng hơn, cấu trúc này cho phép xác định nhanh chóng, chính xác phạm vi các quy định trong phần cụ thể dựa trên vị trí các quy định trong phần chung. Ngoài ra, phần quy định chung của Bộ luật không chỉ đóng vai trò nền tảng của cả Bộ luật, mà còn là cơ sở nền tảng cho các đạo luật chuyên ngành và luật khác có liên quan. Do vậy có thể nói, bản thân việc xây dựng cấu trúc của Bộ luật do chịu ảnh hưởng của trường phái Pandekten đã ngầm định sự tồn tại tất yếu của các luật chuyên ngành và luật liên quan.
-
Cấu trúc của Phần thứ hai So với BLDS năm 2005, Phần thứ hai của BLDS năm 2015 đã có rất nhiều sự thay đổi, thể hiện ngay tại tên của phần này đổi từ "Tài sản và quyền sở hữu” thành "Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”. Phần này gồm 116 điều tại 4 chương quy định về nguyên tắc xác lập, thực hiện, bảo vệ và giới hạn quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt. Nhìn vào cơ cấu của các chương có thể thấy rõ sự thay đổi từ cấu trúc đến các nội dung, cụ thể như sau:
Thứ nhất, được xây dựng trên cơ sở lý thuyết vật quyền, Phần thứ hai của BLDS năm 2015 ngoài quy định về quyền sở hữu đã bổ sung một chương mới về "quyền khác đối với tài sản” (Chương XIV BLDS). Trong đó ngoài quyền đối với bất động sản liền kề, BLDS năm 2015 bổ sung các quy định về quyền hưởng dụng, quyền bề mặt;
Thứ hai, các quy định về "Chiếm hữu” được tách thành một Chương (Chương XII) bên cạnh chế định "Quyền sở hữu” (Chương XIII).
-
Cấu trúc của Phần thứ ba Phần thứ ba BLDS năm 2015 "Nghĩa vụ và hợp đồng” là phần chiếm dung lượng lớn nhất bao gồm 6 chương, 335 điều quy định về căn cứ phát sinh, đối tượng, thực hiện và chấm dứt nghĩa vụ, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự, chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ, giao kết, thực hiện, sửa đổi và chấm dứt hợp đồng, một số hợp đồng thông dụng, hứa thưởng và có giải, thực hiện công việc không có ủy quyền, nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
So với BLDS năm 2005, Phần thứ ba BLDS năm 2015 không có nhiều sự thay đổi về cấu trúc. Những thay đổi tập trung chủ yếu vào các điểm sau:
Thứ nhất, trong các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, ngoài những biện pháp cũ như BLDS năm 2005[4], Phần thứ ba BLDS năm 2015 đã bổ sung hai hình thức đảm bảo thực hiện nghĩa vụ là: bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản.
Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm trong các hợp đồng thông dụng tại BLDS năm 2005 đã được lược bỏ tại BLDS năm 2015. Bởi vì, hợp đồng này đã được quy định bởi các đạo luật chuyên ngành về bảo hiểm như: Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế...
Thứ ba, hứa thưởng và thi có giải đã được BLDS năm 2015 tách ra thành một chương - Chương XVII - "Hứa thưởng, thi có giải”.
-
Cấu trúc của Phần thứ tư
Phần thứ tư "Thừa kế” gồm 4 chương, 54 điều, quy định về quyền thừa kế, thời điểm, địa điểm mở thừa kế, di sản, người thừa kế, người quản lý di sản, từ chối nhận di sản, thời hiệu thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, thanh toán và phân chia di sản.
So với BLDS năm 2005, chế định về thừa kế nói chung và quy định ở Phần thứ tư BLDS năm 2015 nói riêng có sự ổn định nhất cả về mặt cấu trúc và phần nội dung. Ở BLDS năm 2005, phần thừa kế gồm 57 điều thì ở BLDS năm 2015 là 54 điều. Trong đó, BLDS 2015 giữ nguyên 34 điều, sửa đổi 20 điều và chỉ hủy bỏ 3 điều.
Điểm đáng chú ý nhất về cấu trúc trong Phần thứ tư BLDS năm 2015 là nhà làm luật đã bỏ đi 3 điều quy định về di chúc chung của vợ chồng được quy định trong Phần thứ tư của BLDS năm 2005. Đó là: Điều 663 - Di chúc chung của vợ, chồng; Điều 664 - Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng và Điều 668 - Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng.
-
Cấu trúc của Phần thứ năm
Phần thứ bảy về "Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” tại BLDS năm 2005 đã được đổi thành Phần thứ năm với tên gọi "Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” và kết cấu thành các chương: quy định chung, pháp luật áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân, pháp luật áp dụng đối với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân.
-
Một số điểm mới khác về cấu trúc của Bộ luật dân sự năm 2015
Ngoài những điểm mới đã được nêu trên, cấu trúc của BLDS năm 2015 còn một số điểm mới đáng chú ý nữa là:
Thứ nhất, BLDS năm 2015 đã được lược bỏ quy định tại Phần thứ năm - Những quy định về chuyển quyền sử dụng đất, Phần thứ sáu - Quyền sở hữu trí tuệ và quyền chuyển giao công nghệ quy định tại BLDS năm 2005. Do các quy định về đất đai, những quy định về quyền sở hữu trí tuệ đã được quy định trong đạo luật chuyên ngành như Luật Đất đai, Luật Sở hữu trí tuệ, vì vậy, BLDS năm 2015 đã lược bỏ những quy định này để tránh tình trạng trùng, lặp, chồng chéo trong hệ thống pháp luật của nước ta.
Thứ hai, BLDS năm 2015 đã dành nguyên một phần - Phần thứ sáu để quy định về điều khoản chuyển tiếp và hiệu lực thi hành (gồm Điều 688 và Điều 689).
Tóm lại, so với BLDS các nước, BLDS năm 2015 (kể cả BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005) cơ bản được kết cấu thành các phần, chương theo hướng khái quát lý luận (tinh thần trường phái Pandekten) đã được áp dụng trong BLDS của nhiều nước trên thế giới (Đức, Thụy Sỹ, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan...). Tuy nhiên, khác với nhiều BLDS của các nước này, BLDS của Việt Nam không có phần "Gia đình” (do đã có luật riêng về hôn nhân và gia đình ban hành vào các năm 1959, 1986, 2000 và 2014) và có phần "Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” (ở BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, phần này gọi là "quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”)[5]. Bên cạnh đó, trong BLDS năm 2015 có nhiều nội dung đã được cắt bỏ hoặc giản lược và được thể hiện cụ thể trong những đạo luật chuyên ngành, có những nội dung được bổ sung để phù hợp với bản chất của sự vật, sự việc, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và xu hướng phát triển của nước ta.
-
NỘI DUNG NHỮNG ĐIÈM MỚI CƠ BẢN CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ (SỬA ĐỔI)
-
Quy định chung
-
Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự (Điều 1)
BLDS năm 2015 xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS là quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử, quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của chủ thể trong các quan hệ dân sự. Để phù hợp hơn với vị trí, vai trò là luật chung, nền tảng pháp lý của pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, bảo đảm bao quát, dự báo toàn diện, đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ dân sự, phạm vi điều chỉnh của BLDS năm 2015 được quy định về phạm vi điều chỉnh một cách khái quát hơn so với BLDS năm 2005.
-
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 3)
So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 có một số sửa đổi về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự trong BLDS năm 2005 như sau:
-
Không ghi nhận lại quy định mang tính chung chung "tuân thủ pháp luật' bởi đây không phải là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, thay vào đó BLDS năm 2015 bổ sung các quy định cụ thể về các trường hợp chủ thể bị giới hạn quyền dân sự hoặc phải tuân thủ quy định của pháp luật trong BLDS hoặc luật khác có liên quan;
-
Tương tự, BLDS năm 2015 cũng không quy định "tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp”, "hòa giải”... là những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Về vấn đề hòa giải, bao gồm cả hòa giải trong tố tụng và hòa giải tự nguyện, thì về mặt ý chí của chủ thể đã thuộc nội dung của các nguyên tắc bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận và thiện chí, trung thực. Về nội dung tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp và hòa giải trong quan hệ dân sự thì Bộ luật quy định với mục đích thể hiện chính sách của Nhà nước đối với quan hệ dân sự (Điều 7), bên cạnh đó, những quy định về quyền nhân thân của cá nhân, giám hộ, đại diện, thừa kế... cũng có sự cân nhắc, ghi nhận về khía cạnh đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
-
Áp dụng Bộ luật dân sự (Điều 4)
BLDS năm 2015 quy định BLDS là luật
chung điều chỉnh các quan hệ dân sự, đồng thời làm rõ hơn về mối quan hệ giữa BLDS với các luật khác có liên quan (luật có quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự cụ thể) theo hướng: Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định trong BLDS, trường hợp quy định của luật khác có liên quan vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự hoặc những luật này không có quy định, thì quy định của BLDS được áp dụng.
-
Áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự (Điều 5, 6)
Để bảo đảm tính khả thi trong quy định của BLDS và luật khác có liên quan, tạo cơ chế pháp lý đầy đủ hơn trong giải quyết vụ việc dân sự, trên cơ sở kế thừa quy định của BLDS năm 1995, BLDS năm 2005, quy định của Luật Thương mại, Luật Hôn nhân và gia đình... và thông lệ quốc tế, BLDS năm 2015 quy định cụ thể hơn về việc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật.
Trong đó, tập quán và án lệ là 2 phương thức đã có những quy định pháp luật cụ thể và bước đầu hướng dẫn về cách thức áp dụng, còn các phương thức khác thì vẫn còn đang “bỏ ngỏ”.
Về tập quán, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tập quán tại Điều 5, theo đó : “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.
Về án lệ, Nghị quyết số 03/2015/NQ- HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ đã chính thức quy định án lệ là "những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án về một vu việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Tính đến tháng 10 năm 2016, Tòa án nhân dân tối cao đã công bố 5 án lệ trong lĩnh vực dân sự để Tòa án nhân dân các cấp áp dụng.
Các phương thức khác: áp dụng tương tự pháp luật (Điều 6 BLDS năm 2015), áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và áp dụng lẽ công bằng chỉ được "nhắc tới” chứ chưa có quy định hướng dẫn cụ thể. Thực tế, để có quy định hướng dẫn cụ thể và chi tiết áp dụng các phương thức này cũng là một điều rất khó khăn bởi một số khái niệm vẫn còn gây nhiều tranh cãi, như thế nào là "tương tự pháp luật”, thế nào là "lẽ công bằng”. Việc áp dụng hiệu quả các phương thức này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của các thẩm phán.
-
Bảo vệ quyền dân sự
Thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013[6], BLDS năm 2015 khẳng định sự tôn trọng và bảo đảm quyền dân sự, thể hiện ở các nội dung sau:
Quyền dân sự chỉ thực sự được tôn trọng và bảo vệ khi có được sự công nhận một cách chính thức. Từ sự công nhận, tôn trọng và bảo vệ thì sự bảo đảm mới được phát huy một cách đầy đủ nhất. Khoản
-
Điều 2 BLDS năm 2015 đã khẳng định quan điểm của Nhà nước đối với việc đảm bảo quyền dân sự cho nhân dân "ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình, việc cá nhân, pháp nhân không thực hiện quyền dân sự của mình không phải là căn cứ làm chấm dứt quyền, trừ trường hợp luật có quy định khác.
So với BLDS năm 2005, nội dung này đã được khái quát lên thành quy định chung của pháp luật dân sự. Về mặt nội dung, so sánh giữa khoản 1 Điều 9 BLDS năm 2005 với khoản 1 Điều 2 BLDS năm 2015 thì BLDS năm 2015 bao quát và hợp lý hơn với việc bổ sung nguyên tắc "công nhận” và "bảo đảm”.
Xét về khía cạnh "bảo đảm” quyền dân sự, đây có thể coi như một "lời hứa” của
Nhà nước trong việc quan tâm, thúc đẩy phát triển nhân quyền ở thời đại mới. Việc bảo đảm thực hiện ngoài việc tạo cơ chế thực thi quyền cho cá nhân, còn là trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong bảo vệ quyền dân sự của cá nhân. Trong Chương II - Xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự, BLDS năm 2015 đã bổ sung 5 điều thể hiện rõ quan điểm này, bao gồm: các phương thức bảo vệ quyền dân sự (Điều 11), tự bảo vệ quyền dân sự (Điều 12), bồi thường thiệt hại (Điều 13), bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền (Điều 14) và hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền (Điều 15).
Bên cạnh mục tiêu nâng cao hiệu quả đảm bảo thi hành quyền dân sự, BLDS năm 2015 lần đầu tiên quy định về hạn chế và giới hạn của quyền dân sự. Theo đó, BLDS năm 2015 quy định quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 2). Bộ luật quy định minh bạch các trường hợp cá nhân, pháp nhân bị giới hạn quyền khi xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự (khoản
-
Điều 2, Điều 10, điểm c khoản 1 Điều 117, Điều 431...).
Việc bổ sung quy định này nhằm nội luật hóa các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước ICCPR 1966 và thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013[7]; bên cạnh đó, các quy định mới này của BLDS năm 2015 được ban hành nhằm khắc phục khoảng trống của BLDS năm 2005 về các phương thức bảo vệ quyền dân sự, việc bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền.
-
Trách nhiệm của tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền dân sự
Một trong những quy định mới và quan trọng thể hiện trách nhiệm của tòa án trong việc bảo về quyền dân sự chính là quy định tại khoản 2 Điều 14 BLDS năm 2015 "Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”. Quy định này gồm có 2 nội dung quan trọng như sau:
Thứ nhất, bác bỏ quyền từ chối thụ lý vụ việc dân sự của tòa án trong trường hợp tòa án viện dẫn chưa có điều luật để áp dụng giải quyết vụ việc dân sự. Trong đó vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng (khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Tòa không được quyền từ chối thụ lý đồng nghĩa với việc quyền yêu cầu tòa giải quyết vụ việc của cá nhân và tổ chức nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp được nâng cao và đảm bảo thực hiện.
-
Cá nhân
-
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân (Điều 19 - Điều 24)
BLDS năm 2015 cơ bản kế thừa quy định của BLDS năm 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, nhưng có sửa đổi, bổ sung quan trọng để cụ thể hóa hoặc tạo cơ chế pháp lý để thực hiện, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân của người yếu thế về năng lực hành vi dân sự trong các quan hệ dân sự, trong đó:
-
Không quy định người chưa đủ 06 tuổi thuộc diện không có năng lực hành vi dân sự là một mức độ của người chưa thành niên; giao dịch dân sự của người chưa đủ 06 tuổi do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện; người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi; người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý (Điều 21);
-
Bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, theo đó, người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự, thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ (Điều 23).
-
Quyền nhân thân của cá nhân (Điều 25 - Điều 39)
BLDS năm 2015 chỉ quy định các quyền nhân thân liên quan đến việc xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong các quan hệ dân sự và những quyền nhân thân gắn liền với lợi ích tinh thần của cá nhân, nhưng chưa được quy định cụ thể trong Hiến pháp. BLDS năm 2015 không quy định lại một số quyền nhân thân trong BLDS năm 2005 do các quyền này có phạm vi, nội dung rất rộng và đa dạng, không chỉ là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, mà còn là quan hệ giữa Nhà nước và công dân, không chỉ gắn với lợi ích tinh thần, mà còn gắn với những lợi ích khác về tài sản, bao gồm: quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền lao động; quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
Có thể thấy rằng, các quy định trong phần nhân thân của BLDS năm 2015 đã diễn giải các quy định trong Hiến pháp năm 2013. Trong đó, BLDS năm 2015 đã có quy định mới về chuyển đổi giới tính. Đây là quy định hoàn toàn mới. Cụ thể, Điều 37 BLDS năm 2015 quy định “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Việc cá nhân đã chuyển đổi giới tính sẽ có các quyền và thực hiện các nghĩa vụ theo giới tính đã được chuyển đổi. Quy định này không những mới về nội dung, mà còn cho thấy sự đổi mới trong tư tưởng nhà lập pháp.
Đây là vấn đề rất mới, do vậy quy định về việc chuyển đổi giới tính tại BLDS năm 2015 chỉ là bước khởi đầu. Để việc chuyển đổi giới tính được thực thi trong thực tế cần phải có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn. Vì vậy, cần có một đạo luật riêng quy định về việc chuyển đổi giới tính. Minh chứng điển hình cho lập luận này có thể xem xét vấn đề "chuyển đổi giới tính” từng gây nhiều bàn luận và tranh cãi trước khi BLDS năm 2015 được thông qua.
-
Giám hộ (Điều 46 - Điều 63)
BLDS năm 2015 đã kế thừa quy định của BLDS năm 2005 về chế độ giám hộ đương nhiên, đồng thời cũng có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng để bảo đảm mục đích của việc giám hộ là thực hiện, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của người được giám hộ.
-
Pháp nhân (Điều 74 - Điều 96)
BLDS năm 2015 về cơ bản kế thừa quy định của BLDS năm 2005 về pháp nhân, nhưng có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng. Trong đó, quy định phân loại pháp nhân không dựa trên tiêu chí chủ thể như trong BLDS năm 2005, mà dựa trên mục đích thành lập, hoạt động của pháp nhân để bảo đảm giữa các pháp nhân bình đẳng về tư cách chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự, bảo đảm tính bao quát, dự báo được sự đa dạng của pháp nhân trong giao lưu dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho luật khác có liên quan quy định cụ thể. Theo đó, Bộ luật quy định 2 loại pháp nhân cơ bản, đó là: (1) Pháp nhân thương mại (pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên, bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác); (2) Pháp nhân phi thương mại (pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên, bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác).
-
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự (Điều 97 - Điều 100)
BLDS năm 2015 bổ sung quy định về việc Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương là chủ thể trong quan hệ dân sự. Theo đó, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương có địa vị pháp lý là pháp nhân khi tham gia quan hệ dân sự, bình đẳng với chủ thể khác và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này. Ngoài ra, Bộ luật cũng quy định những nội dung cơ bản về địa vị pháp lý, đại diện tham gia quan hệ dân sự, trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự và về trách nhiệm dân sự trong quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài. Bộ luật cũng loại bỏ những quy định tạo ra đặc quyền riêng cho Nhà nước trong quan hệ dân sự, dẫn tới sự không bình đẳng.
-
Hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự (Điều 101 - Điều 104)
BLDS năm 2015 quy định về hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân theo cách tiếp cận mới một nhóm cá nhân tham gia quan hệ dân sự. Theo đó, khi hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Các thành viên có thể trực tiếp tham gia hoặc thỏa thuận cử người đại diện tham gia, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự vì lợi ích chung.
Đối với hộ gia đình sử dụng đất, việc xác định địa vị pháp lý của hộ gia đình sử dụng đất được áp dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về việc xác định hộ gia đình sử dụng đất, do đó, cần được cụ thể hóa bằng chính các văn bản pháp luật quy định chi tiết các quy định của Luật Đất đai về vấn đề này. BLDS với vị trí, vai trò là luật chung thì không nên cụ thể hóa đối với hộ gia đình sử dụng đất trong các quan hệ pháp luật về đất đai, vì đây là những quan hệ pháp luật có nhiều biến động trong giao lưu dân sự và trong điều chỉnh pháp luật. Luật Đất đai năm 2013 cũng không có quy định viện dẫn về việc xác định hộ gia đình sử dụng đất theo quy định về hộ gia đình của BLDS.
-
Tài sản (Điều 105 - Điều 115)
BLDS năm 2015 có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng so với BLDS năm 2005 về tài sản như sau: quy định tài sản trong quan hệ dân sự có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai; quy định quyền sử dụng đất là một quyền tài sản (Điều 115); quy định về đăng ký tài sản.
Để điều chỉnh các quan hệ dân sự, tài sản là một chế định không thể thiếu trong BLDS nước ta. Nhìn lại BLDS năm 2005, chế định tài sản đã được quy định rất rõ ràng. Tuy nhiên, vị trí của chế định này có sự dịch chuyển từ mục "tài sản” quy định trong "Phần thứ hai - Tài sản và quyền sở hữu” sang "Phần thứ nhất - Quy định chung”. Sự dịch chuyển vị trí của chế định này nhằm đảm bảo tính khái quát, dự báo, minh bạch và công khai về tài sản. Hơn nữa, các quy định về tài sản được dùng phổ biến để điều chỉnh các quan hệ khác như hợp đồng, thừa kế... Chính vì vậy, BLDS sửa đổi quy định chế định tài sản tại Phần thứ nhất Chương VII từ Điều 105 - Điều 115.
-
Giao dịch dân sự (Điều 116 - Điều 133)
BLDS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung so với quy định của BLDS năm 2005 về giao dịch dân sự theo hướng, bao quát hơn, bảo đảm tốt hơn về tự do ý chí, sự an toàn pháp lý và ổn định trong giao dịch dân sự, quyền, lợi ích của bên thiện chí, bên ngay tình.
BLDS năm 2015 có sự kế thừa và ghi nhận các nguyên tắc và quy định của BLDS năm 2005 về giao dịch dân sự. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 đã có một số thay đổi cơ bản so với BLDS năm 2005 để làm rõ hơn điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, bảo đảm tôn trọng ý chí của các bên trong việc xác lập giao dịch; bảo đảm sự an toàn pháp lý và ổn định trong giao dịch dân sự, quyền, lợi ích hợp pháp của bên thiện chí, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình.
-
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình (Điều 133)
BLDS năm 2015 quy định giao dịch của người thứ ba ngay tình không bị vô hiệu trong trường hợp tham gia vào giao dịch tài sản phải đăng ký mà giao dịch trước đó đã thực hiện việc đăng ký. Trong đó, BLDS năm 2015 quy định chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình. Đây là quy định hoàn toàn mới của BLDS năm 2015. Về nguyên tắc, quy định này đồng thời bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu thực sự của tài sản và của cả người thứ ba ngay tình khi tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến đối tượng giao dịch cùng là một tài sản. Tuy nhiên, trên thực tiễn, quy định này rõ ràng có lợi hơn cho người thứ ba ngay tình và làm hạn chế đi quyền lợi của chủ sở hữu thực sự của tài sản. Bởi nếu chủ sở hữu thực sự của tài sản khởi kiện và thắng kiện thì việc thi hành án để đòi bồi thường là không dễ dàng. Các bên cần thận trọng hơn nữa trong việc xác lập các giao dịch dân sự, nhất là các hợp đồng liên quan đến bất động sản và động sản có giá trị lớn.
-
Đại diện (Điều 134 - Điều 143)
Bộ luật có nhiều sửa đổi, bổ sung so với quy định BLDS năm 2005 về đại diện để chế định này thực sự là cơ chế pháp lý thuận lợi, minh bạch cho các cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ tốt hơn các quyền dân sự của mình, hạn chế được các rủi ro pháp lý, bảo vệ bên thiện chí, ngay tình trong quan hệ đại diện.
-
Thời hạn và thời hiệu (Điều 149 - Điều 157)
BLDS năm 2015 cơ bản kế thừa các loại thời hiệu được quy định trong BLDS năm 2005, tuy nhiên, Bộ luật đã tiếp cận khác khi quy định về thời hiệu, thể hiện đúng bản chất pháp lý của thời hiệu trong quan hệ dân sự, đó là công cụ pháp lý để chủ thể quan hệ dân sự sử dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong đó, điểm mới của BLDS năm 2015 là về thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện.
BLDS năm 2015 đã điều chỉnh về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu. Điều 154 quy định: “1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định này là hợp lý, nó giúp người có quyền, lợi ích hợp pháp chủ động trong việc yêu cầu tòa án bảo vệ trong trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp đó bị xâm hại. "Thời hiệu chỉ nên bắt đầu từ khi chủ thể liên quan nhận thức được quyền, lợi ích của họ bị xâm phạm, bởi vì trong nhiều trường hợp thời điểm chủ thể "biết” và thời điểm quyền, lợi ích bị "xâm phạm” là không trùng nhau nên nếu theo hướng thời hiệu bắt đầu từ khi chủ thể "biết” thì sẽ thuận lợi hơn cho chính chủ thể đó vì thời hiệu bắt đầu chậm hơn”[8].
-
Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Từ trước đến nay, sở hữu luôn luôn được xem là vấn đề quan trọng khi xây dựng pháp luật dân sự. Do vậy, các quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản trong BLDS năm 2015 có ảnh hưởng quan trọng đến việc điều chỉnh các quan hệ dân sự ở nước ta. Trước đây, BLDS năm 2005 quy định Phần thứ hai có tên gọi là "Tài sản và quyền sở hữu”. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần trên, nội dung về tài sản đã chuyển sang phần quy định chung. Do vậy, Phần thứ hai BLDS năm 2015 có tên gọi "Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”. Các quy định của Phần thứ hai BLDS năm 2015 đã đưa ra một bức tranh chung về luật vật quyền Việt Nam và chỉ rõ bên cạnh quyền sở hữu
-
một vật quyền quan trọng và đầy đủ nhất còn tồn tại các vật quyền khác (quyền khác đối với tài sản) là phân nhánh của quyền sở hữu hay còn được xem là các vật quyền hạn chế. Các quyền này bao gồm: quyền đối với bất động sản liền kề hay còn gọi là quyền địa dịch, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt và các vật quyền bảo đảm hay còn gọi là vật quyền phụ thuộc. Đây là điều mà các BLDS trước đây chưa quy định cụ thể, rõ ràng.
Hiện nay, BLDS năm 2015 không sử dụng thuật ngữ "vật quyền” nhưng đã đưa ra thuật ngữ chung để chỉ đến các vật quyền khác với quyền sở hữu là "quyền khác đối với tài sản”. Điều này nhằm nhận dạng quyền sở hữu với tính cách là vật quyền chính - vật quyền đầy đủ, trọng tâm và được biết đến nhiều nhất hiện nay với các vật quyền còn lại là các phân nhánh của quyền sở hữu. Điều này góp phần tạo nên sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ không chỉ trong lĩnh vực lý luận mà còn trong lĩnh vực hoạt động thực tiễn[9].
Với kết cấu 4 chương, Phần thứ hai quy định các chương bao gồm: những quy định chung; chiếm hữu; quyền sở hữu; quyền khác đối với tài sản. Trong đó, Chương XI Quy định chung bao gồm những nội dung sau: (1) Nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; (2) Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; (3) Giới hạn quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Chương XII Chiếm hữu quy định khái niệm chiếm hữu, cách phân loại chiếm hữu, suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu cũng như bảo vệ chiếm hữu. Chương XIII Quyền sở hữu quy định nội dung quyền sở hữu, các hình thức sở hữu và việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu. Chương XIV Quyền khác đối với tài sản quy định ba quyền cụ thể là quyền đối với bất động sản liền kề, quyền địa dịch và quyền bề mặt. Trong đó, nổi bật có các nội dung mới như sau:
-
Chiếm hữu - tình trạng pháp lý được quy định trong Bộ luật dân sự
Khác với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 không chỉ nhìn nhận chiếm hữu là một quyền năng của quyền sở hữu, mà còn nhìn nhận chiếm hữu với tính cách là một tình trạng pháp lý. Điều này thể hiện ở việc BLDS năm 2015 quy định một chương riêng về chiếm hữu độc lập với quyền sở hữu (Chương XII, Phần thứ hai với 7 điều, từ Điều 179 đến Điều 185). Việc nhìn nhận chiếm hữu là một tình trạng nhằm hạn chế tối đa những hành xử mang tính vũ lực để đòi lại tài sản. Những thay đổi này không chỉ giữ gìn sự bình ổn hay duy trì trật tự xã hội, mà còn là cơ sở để mọi chủ thể có thể yên tâm đầu tư khai thác tài sản một cách hiệu quả và không lãng phí.
-
Nội dung mới về hình thức sở hữu
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm
2013 và khắc phục các nhược điểm của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 xác định lại các hình thức sở hữu ở nước ta theo hướng chỉ có ba hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.
Việc xác định ba hình thức sở hữu như vậy là kết quả của việc vận dụng quan điểm mới về căn cứ phân loại quyền sở hữu, theo đó, khi xác định các hình thức sở hữu thì nhà làm luật cần căn cứ vào các đặc thù trong việc thực hiện các quyền của chủ sở hữu, chứ không phải căn cứ vào tính chất, chức năng, nhiệm vu của các chủ sở hữu. Theo quan điểm này thì khi một người (cá nhân, pháp nhân) có toàn quyền chi phối đối với một tài sản nhất định thì xuất hiện hình thức sở hữu là sở hữu riêng; khi có từ hai người (cá nhân, pháp nhân) trở lên cùng có quyền trong việc thực hiện các hành vi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với một tài sản xuất hiện sở hữu chung; khi toàn thể nhân dân thông qua Nhà nước của mình thực hiện các quyền của chủ sở hữu thì có sở hữu toàn dân. Tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân là tài sản đặc biệt được quy định tại Hiến pháp, BLDS và các luật chuyên ngành; còn tài sản thuộc hình thức sở hữu chung hay hình thức sở hữu riêng là bất kỳ tài sản hợp pháp nào được quy định tại Điều 105 BLDS. Cách thức xác lập và thực hiện quyền sở hữu của mỗi hình thức sở hữu là khác nhau.
-
Các vật quyền khác trong Bộ luật dân sự
Chịu ảnh hưởng của học thuyết Numerus clausus, BLDS năm 2015 bên cạnh việc ghi nhận một danh sách các vật quyền bao gồm quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản gồm: quyền đối với bất động sản liền kề; quyền hưởng dụng; quyền bề mặt; còn khẳng định "Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập, thực hiện trong trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”. Điều này có nghĩa là ngoài các vật quyền được quy định tại khoản 2 Điều 159, còn có các vật quyền khác nếu như BLDS năm 2015 hoặc luật khác có liên quan quy định và các chủ thể của luật dân sự không thể tự do tạo ra các quyền khác đối với tài sản (vật quyền hạn chế) với các quyền đã được pháp luật đã công nhận.
-
Nghĩa vụ và hợp đồng
Phần nghĩa vụ và hợp đồng được quy định tại Phần thứ ba BLDS năm 2015 gồm 335 điều (từ Điều 274 đến Điều 608). So với các nội dung khác, những vấn đề về nghĩa vụ và hợp đồng chiếm một số lượng điều khoản rất lớn, được kết cấu thành 6 Chương. So với BLDS năm 2005, thì phần nghĩa vụ và hợp đồng tại BLDS năm 2015 ít hơn 16 điều. Về kết cấu, BLDS năm 2015 đã tách nội dung Hứa thưởng và thi có giải thành một chương riêng (Chương XVII).
Nhìn tổng thể, BLDS năm 2015 đã kế thừa các quy định mang tính nguyên tắc của BLDS năm 2005 là đề cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong các quan hệ dân sự, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 đã sửa đổi và bổ sung một quy định của BLDS năm 2005, đó là:
-
Trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự
BLDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ nhằm bảo đảm sự an toàn, thông thoáng, lẽ công bằng trong các quan hệ dân sự cũng như trong giải quyết vu việc dân sự, cụ thể là:
-
Cá nhân, pháp nhân không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp chủ thể này có căn cứ được miễn trừ trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ theo quy định.
-
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để hạn chế thiệt hại có thể gây ra cho mình. Trong trường hợp người bị thiệt hại chậm trễ trong việc áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để giảm thiểu thiệt hại cho mình thì người gây thiệt hại có quyền yêu cầu giảm mức bồi thường tương ứng với mức thiệt hại mà lẽ ra người bị thiệt hại có thể hạn chế được.
-
Quy định về trách nhiệm chứng minh về việc miễn trừ nghĩa vụ bồi thường của bên vi phạm, nghĩa vụ của bên bị vi phạm trong việc hạn chế thiệt hại. Trường hợp việc không thực hiện đúng nghĩa vụ và thiệt hại gây ra là do một phần lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại có quyền yêu cầu giảm mức bồi thường tuỳ theo mức độ lỗi của người bị thiệt hại. Trong trường hợp bên vi phạm chứng minh được việc không thực hiện đúng nghĩa vụ là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc luật có quy định khác.
-
Về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
BLDS năm 2015 ghi nhận đầy đủ, rõ ràng và hợp lý hơn về những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sau đây: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp.
So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung hai biện pháp bảo đảm mới, đó là "cầm giữ tài sản” và "bảo lưu quyền sở hữu”, tại BLDS năm 2005 hai biện pháp này đã được ghi nhận và thể hiện nhưng không phải ở giác độ biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong đó cầm giữ tài sản là một biện pháp bảo đảm duy nhất trong số các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng mà không dựa trên sự thoả thuận của các bên liên quan.
-
Quy định chung về hợp đồng
BLDS năm 2015 quy định các điều khoản
chung về hợp đồng, định hướng cho việc xây dựng các quy định về hợp đồng trong các luật khác có liên quan và đủ để áp dụng trong trường hợp các luật chuyên ngành thiếu quy định về hợp đồng.
Bộ luật thừa nhận về điều kiện giao dịch chung theo hướng, đó là những quy định do bên đề nghị giao kết hợp đồng công bố áp dụng chung cho các bên tham gia hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận toàn bộ quy định đã được bên đề nghị đưa ra. Nếu trong điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi của bên kia thì quy định này không có hiệu lực.
Bổ sung một số quy định mới phù hợp với thông lệ quốc tế, thực tiễn Việt Nam, đặc biệt là các quy định về điều kiện giao dịch chung, điều chỉnh hợp đồng khi có thay đổi hoàn cảnh thay đổi dẫn đến quyền, lợi ích của một trong các bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng theo những điều kiện được quy định, hủy bỏ và hậu quả của hủy bỏ hợp đồng - một bên chỉ có thể hủy bỏ hợp đồng nếu bên kia vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật quy định khác.
-
Các hợp đồng thông dụng
BLDS năm 2015 chỉ quy định về những hợp đồng mang tính đặc trưng và đại diện cho quan hệ pháp luật dân sự. So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 không quy định về hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng bảo hiểm. Những hợp đồng này đã được quy định trong luật chuyên ngành.
Bên cạnh đó, Bộ luật cũng bổ sung một loại hợp đồng mới là hợp đồng hợp tác để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về hợp tác trong sản xuất, kinh doanh. Đối với một số hợp đồng cơ bản như hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản... thì Bộ luật bổ sung nhiều quy định để bảo đảm các quy định này có thể áp dụng cho các hợp đồng có liên quan và cũng bao quát được những dạng thức hợp đồng phái sinh, đặc thù có thể phát sinh trong tương lai, cụ thể:
Về mua bán tài sản, tài sản được quy định tại Bộ luật này đều có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán. Trong trường hợp theo quy định của luật, tài sản bị cấm hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thì tài sản bán phải phù hợp với các quy định đó. Tài sản bán phải thuộc sở hữu của người bán hoặc người bán có quyền bán tài sản đó. Khi các bên không có thoả thuận, thỏa thuận không rõ ràng về chất lượng tài sản mua bán thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn đã được công bố theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo tiêu chuẩn ngành nghề. Trong trường hợp không có các tiêu chuẩn này thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn thông thường hoặc theo tiêu chuẩn riêng phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng và theo quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng... ;
Về vay tài sản, lãi suất trong hợp đồng vay do các bên thỏa thuận hoặc do luật định. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất thì lãi suất được xác định theo lãi suất luật định, nếu không có lãi suất luật định thì coi như hợp đồng vay không có lãi, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.
-
Về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
BLDS năm 2015 cũng hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo đó, người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại. Bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về bồi thường thiệt hại cho cộng đồng, góp phần bảo vệ môi trường, tính mạng, sức khỏe của người dân. Ngoài ra, Bộ luật có sửa đổi, bổ sung quan trọng về căn cứ phát sinh, nguyên tắc, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại, mức bồi thường, thời hạn hưởng quyền bồi thường thiệt hại.
-
Thừa kế
Thừa kế là một chế định ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi nét văn hóa truyền thống của mỗi quốc gia, do đó, so với các chế định khác trong BLDS, thừa kế là một chế định tương đối ổn định. So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Quy định mới này vừa tạo cơ sở pháp lý cho toà án trong giải quyết các tranh chấp về di sản thừa kế, vừa nhằm quy định rõ về mặt pháp lý quyền sở hữu tài sản để bảo đảm công dụng của tài sản được khai thác hiệu quả. Chế định thừa kế có hai nội dung quan trọng được sửa đổi, bổ sung sau:
-
Thời hiệu thừa kế Điều 236 BLDS năm 2015 đã quy định: nếu sau thời hạn 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế mà những người thừa kế không yêu cầu chia di sản thì di sản thừa kế sẽ được xử lý theo hướng như sau: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Sửa đổi, bổ sung này là xuất phát từ nguyên lý tránh lãng phí của cải của xã hội. Cụ thể: khi những người thừa kế được hưởng di sản thì đồng nghĩa là họ có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế đó nhưng nếu trong thời gian 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản mà những người thừa kế không yêu cầu chia di sản và họ không thực hiện những quyền mà pháp luật trao cho họ, thì đồng nghĩa với việc họ không quan tâm đến tài sản của mình và đã để lãng phí của cải của xã hội. Trong trường hợp này, họ sẽ mất đi quyền sở hữu đối với di sản mà đáng ra họ được hưởng. Quy định như vậy nhằm đảm bảo ổn định phát triển xã hội. Quy định bổ sung mới này đã giải quyết được vấn đề vướng mắc hiện nay đối với di sản hết thời hiệu thừa kế. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống vô cùng đa dạng và pháp luật trong nhiều trường hợp, không thể tiên liệu hết được. Ví dụ: di sản thừa kế là một ngôi nhà và do người thừa kế A quản lý. Người thừa kế A quản lý di sản trong 27 năm, sau đó chuyển sang người thừa kế
-
Trong trường hợp này, theo quy định của BLDS năm 2015 thì ngôi nhà sẽ thuộc quyền sở hữu của người thừa kế A hay B?
-
Bỏ những quy định liên quan đến di chúc chung của vợ chồng
BLDS năm 2005 có ba quy định liên quan đến di chúc chung của vợ chồng đó là: Điều 663: di chúc chung của vợ, chồng; Điều 664: sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng; Điều 668: hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng. Về bản chất, việc lập di chúc là nhằm thể hiện ý chí của người có tài sản. Việc quy định di chúc chung của vợ chồng là vi phạm quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cũng như vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong việc lập di chúc. Ý chí của người lập di chúc chung không thể độc lập trong việc định đoạt tài sản - kể cả phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng không đồng ý[10]. Do đó, hình thức di chúc này không tiếp tục được ghi nhận trong BLDS năm 2015. Đây là điểm mới nổi bật trong Phần thừa kế của BLDS năm 2015.
-
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Các quy định điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được BLDS năm 2015 quy định tại Phần thứ năm với 3 chương và 25 điều, trong đó có nhiều điểm mới cơ bản so với BLDS năm 2005, cụ thể:
Về phạm vi, BLDS năm 2015 đã "thu hẹp” hơn so với BLDS năm 2005, thay vì bao quát hết các vấn đề liên quan đến "quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” như Phần thứ bảy của BLDS năm 2005, Phần thứ năm BLDS năm 2015 chỉ tập trung vào vấn đề "xác định pháp luật áp dụng” đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh hội nhập, theo đó BLDS thể hiện đúng vai trò "dẫn chiếu” pháp luật của mình trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Về mặt nội dung, do phạm vi điều chỉnh thay đổi dẫn đến nội dung cũng được điều chỉnh tương ứng. Theo đó, toàn bộ các quy định trong phần này chỉ tập trung vào vấn đề "dẫn chiếu pháp luật áp dụng”, các quy định trước đây trong Phần thứ bảy của BLDS năm 2005 không phù hợp với vấn đề này đều được loại bỏ, quy định chưa rõ để xác định pháp luật áp dụng thì được sửa đổi rõ hơn, một số quy định khác được bổ sung cho những vấn đề pháp lý phát sinh mà BLDS năm 2005 trước đó chưa đề cập đến.
-
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT Về cơ bản, hệ thống pháp luật nước ta (pháp luật thương mại, giao dịch bảo đảm, các quy định pháp luật về sở hữu, hợp đồng trong các văn bản pháp luật chuyên ngành...) đã có sự tương thích, đồng bộ, thống nhất với quy định của BLDS năm 2015. Bên cạnh đó, nhiều nội dung pháp lý trong BLDS năm 2015 vẫn cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới để kịp thời triển khai BLDS vào cuộc sống, bảo đảm sự thống nhất về nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự. Tuy nhiên, để bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự, BLDS năm 2015 cần được hoàn thiện hơn nữa các quy định trong việc áp dụng BLDS, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự, cụ thể như sau:
Về mối quan hệ giữa BLDS và luật khác có liên quan, BLDS năm 2015 bên cạnh đưa ra chuẩn mực ứng xử chung cho các quan hệ dân sự thì trong một số quy định cụ thể, để bảo đảm phù hợp với mục tiêu điều chỉnh các quan hệ dân sự đặc thù, Bộ luật đã dẫn chiếu theo quy định của luật khác có liên quan. Trong trường hợp luật khác có liên quan không quy định, hoặc có quy định nhưng vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì quy định của BLDS được áp dụng. Do đó, các luật liên quan cần được rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm thống nhất trong xây dựng và áp dụng pháp luật đối với quan hệ dân sự đặc thù. Căn cứ vào quy định của BLDS năm 2015 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các luật khác có liên quan không quy định lại các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đã được quy định tại BLDS năm 2015, chỉ quy định những nguyên tắc đặc thù trong xác lập, thực hiện, chấm dứt quan hệ dân sự cụ thể.
Về các vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm pháp luật các nước: việc vận dụng lý thuyết vật quyền mang lại những lợi ích to lớn cho hệ thống pháp luật dân sự ở nhiều nước, từ phương diện bảo đảm tính trong sáng, logic trong cấu trúc lập pháp, đến việc thiết kế nội dung các quy phạm và bảo đảm hiệu quả thực thi.
[1] Xem Tờ trình số 287/TTr ngày 15/S/2014 của Chính phủ về dự án BLDS (sửa đổi).
[2] Tại BLDS năm 2005, các quy định chung về tài sản được quy định tại Phần thứ hai.
[3] Chương VII gồm 11 điều (từ Điều 105 đến Điều 115).
[4] Theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLDS năm 2005 có 07 hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự gồm: cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lãnh; tín chấp.
[5] BLDS năm 2015 không chịu ảnh hưởng duy nhất của trường phái Pandekten mà còn chịu ảnh hưởng của các trường phái pháp lý khác như Pháp, Nhật Bản, Nga nên cấu trúc cũng như nội dung của Bộ luật không hoàn toàn giống như BLDS Đức hay Bộ luật của các quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của trường phái Pandekten. Như vậy, có thể nói BLDS năm 2015 đã có cách tiếp cận thể hiện tinh thần trường phái Pandekten với sự pha trộn nhiều nguồn học thuyết luật khác nhau.
[6] Khoản 1 Điều 14 quy định: "... các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật’’.
[7] Khoản 4 Điều 15 Hiến pháp 2013 quy định: “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
[8] Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr. 203.
[9] Bùi Thị Thanh Hằng, Nguyễn Anh Thư, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên đề 1 của Đề tài: Ảnh hưởng của một số học thuyết pháp lý đến việc xây dựng BLDS năm 2015.
[10] Thông báo kết quả tổng kết thi hành BLDS năm 2005 trong công tác xét xử các vụ, việc dân sự của ngành tòa án nhân dân (ngày 12/4/2013) của Tòa án nhân dân tối cao.