BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
NHIỆM VỤ MÔI TRƯỜNG
“ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG Ý THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ CƠ SỞ TRONG CÔNG TÁC TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CƠ SỞ”
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ
Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Văn Cương
Phó Viện trưởng Viện khoa học pháp lý
Hà Nội - 2014
MỤC LỤC
MỤC LỤC …………………………………………………………………………3
DANH MỤC VIẾT TẮT ………………………………………………………….4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, ẢNH MINH HỌA …………………………………..5
PHẦN I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ ………….6
I. SỰ CẦN THIẾT THỰC HIỆN NHIỆM VỤ ………………………………..6
II. MỤC TIÊU, PHẠM VI CỦA NHIỆM VỤ …………………………………8
2.1. Mục tiêu của nhiệm vụ ……………………………………………………..8
2.2. Phạm vi của nhiệm vụ ……………………………………………………...9
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU, KHẢO SÁT …………………………………..9
IV. ĐỐI TƯỢNG, QUY MÔ, PHƯƠNG PHÁP CỦA NHIỆM VỤ ………..10
4.1. Về đối tượng khảo sát …………………………………………………….10
4.2. Về địa bàn khảo sát ……………………………………………………….10
4.3. Phương pháp tiến hành khảo sát …………………………………………. 11
V. LỰC LƯỢNG THAM GIA NHIỆM VỤ ……………………………………13
PHẦN II. KẾT QUẢ KHẢO SÁT ……………………………………………14
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH MÔI TRƯỜNG CÁC ĐỊA PHƯƠNG ĐƯỢC KHẢO SÁT ……………………………………………………………………14
1.1. Về điều kiện tự nhiên và xã hội của các địa phương được khảo sát …….. 14
1.2. Về tình hình ô nhiễm môi trường tại các địa phương …………………… 15
II. THỰC TRẠNG VAI TRÒ VÀ Ý THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ CƠ SỞ TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ………………………. 32
2.1. Vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường thông qua hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội …………………………. 32
2.2. Vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường thông qua các hình thức hoạt động khác ……………………………………………… 49
2.3. Thực trạng ý thức của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường …73
2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc nâng cao ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường …………………………………… 79
III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CƠ SỞ ……………………………………… 90
3.1. Về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật ……………………………….. 91
3.2. Về đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật ………………………………92
3.3. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật …………………………………. 93
3.4. Kết quả phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường …………… 100
3.5. Một số hạn chế, bất cập trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường …………………………………………………………………. 101
IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ CƠ SỞ TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ........................................................................................................ 105
4.1. Tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường …………………………………………….. 105
4.2. Hoàn thiện tổ chức, bộ máy và đẩy mạnh công tác tổ chức thi hành pháp luật và bảo vệ môi trưởng ở các địa phương ……………………………………… 109
4.3. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ………………………………………………………………………… 110
4.4. Bố trí hợp lý nguồn lực cho hoạt động bảo vệ môi trường tại các địa phương ……………………………………………………………………….. 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………118
CÁC MẪU PHIẾU KHẢO SÁT …………………………………………… 125
BAN CHỦ NHIỆM VÀ CÁC CỘNG TÁC VIÊN
1. Đ/c Nguyễn Văn Cương, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
2. Đ/c Nguyễn Mạnh Cường, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
3. Đ/c Hoàng Công Dũng, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
4. Đ/c Dương Thu Hương, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
5. Đ/c Trần Thu Trang, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
6. Đ/c Chu Thị Hoa, Cục quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
7. Đ/c Đỗ Đức Minh, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
8. Đ/c Hồ Xuân Hương, Phó giám đốc sở Tư pháp Hà Nội.
9. Đ/c Quách Đình Minh, Giám đốc Sở Tư pháp Hòa Bình.
10.Đ/c Bùi Ngọc Huấn, trưởng phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật sở Tư pháp Bắc Ninh.
11.Đ/c Hồ Nguyên Hồng, Phó Giám đốc Sở Tư pháp Bắc Ninh.
12.Đ/c Nguyễn Đăng Hòa, Trưởng phòng Tuyên truyền, Sở Tư pháp Bắc Ninh.
DANH MỤC VIẾT TẮT
TỪ/ CỤM TỪ VIẾT NÀO
|
TỪ VIẾT TẮT
|
Bảo vệ môi trường
|
BVMT
|
Hội đồng nhân dân
|
HĐND
|
Ủy ban nhân dân
|
UBND
|
Mặt trận tổ quốc
|
MTTQ
|
Đánh giá tác động môi trường
|
ĐTM
|
Tiêu chuẩn Việt Nam
|
TCVN
|
Quy chuẩn Việt Nam
|
QCVN
|
Tổng sản phẩm quốc nội
|
GDP
|
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, ẢNH MINH HỌA
STT
|
NỘI DUNG
|
TRANG
|
Ảnh minh họa 1, 2
|
Hình ảnh ô nhiễm chất rắn tại Hà Nội
|
16
|
Ảnh minh họa 3, 4
|
Rác thải đổ tràn lan tại xã Hà Mẫn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
|
17
|
Ảnh minh họa 5, 6
|
Chợ nông sản Đồng Tâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
|
18
|
Ảnh minh họa 7, 8
|
Hình ảnh ô nhiễm nước tại Hà Nội
|
18
|
Ảnh minh họa 9, 10
|
Ô nhiễm nguồn nước ở làng nghề sản xuất giấy Phong Khê, Bắc Ninh
|
19
|
Ảnh minh họa 11
|
Ô nhiễm nguồn nước từ Công ty TNHH khai thác khoáng sản Hòa Bình THT
|
20
|
Ảnh minh họa 12
|
Ô nhiễm nguồn nước trên sông Đà, tỉnh Hòa Bình
|
20
|
Ảnh minh họa 13, 14
|
Hình ảnh ô nhiễm không khí tại Hà Nội
|
22
|
Ảnh minh họa 15, 16
|
Làng chế nhôm Mẫn Xá, xã Vân Môn, Yên Phong, Bắc Ninh
|
23
|
Ảnh minh họa 17
|
Lò gạch tại xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
|
24
|
Ảnh minh họa 18
|
Xả khỏi thải không qua hệ thống lọc bụi tĩnh điện của nhà máy xi măng Vĩnh Sơn, xã Trung Sơn, Thành Lập (Lương Sơn), tỉnh Hòa Bình
|
24
|
Ảnh minh họa 19
|
Phun khử mùi bằng chế phẩm vi sinh AT – YTB tại bãi rác Đồng Ngo (Bắc Ninh)
|
29
|
Ảnh minh họa 20
|
Bãi rác thải Nam Sơn, Sóc Sơn, Hà Nội đang quá tải
|
29
|
Ảnh minh họa 21
|
Bãi chôn rác thải Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội
|
30
|
Ảnh minh họa 22
|
Khu xử lý và chôn lấp rác thải Yên Mông, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình
|
30
|
Biểu đồ 1
|
Đánh giá của cán bộ cấp xã, cấp huyện về mức độ ô nhiễm tại địa phương
|
36
|
Biểu đồ 2
|
Đánh giá về thành tố của môi trường bị ô nhiễm
|
37
|
Biểu đồ 3
|
Nguồn gây ô nhiễm môi trường
|
51
|
Biểu đồ 4
|
Hình thức phản ánh ô nhiễm môi trường
|
66
|
Biểu đồ 5
|
Đánh giá của cán bộ về hiệu quả giải quyết đơn thư, khiếu nại về môi trường
|
68
|
Biểu đồ 6
|
Đánh giá của người dân về hiệu quả giải quyết đơn thư, khiếu nại về môi trường
|
68
|
PHẦN I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ
I. SỰ CẦN THIẾT THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
Môi trường, như định nghĩa bởi Luật Bảo vệ môi trường hiện hành, bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.[1] Nói tới môi trường tự nhiên, người ta thường đề cập tới các thành tố cấu thành nên môi trường (còn gọi là thành phần môi trường) như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Để tồn tại và phát triển, mọi hoạt động của con người đều không thể diễn ra ở đầu ngoài môi trường và không có hoạt động nào của con người không diễn ra quá trình trao đổi chất với môi trường. Do đó, mọi hoạt động của con người, dù đó là hoạt động sinh hoạt, lao động, sản xuất, vui chơi, giải trí đều là các hoạt động diễn ra trong môi trường sống, đều là quá trình trao đổi chất, tương tác với môi trường, tương tác với các thành phần môi trường. Vì tầm quan trọng đó, khi môi trường bị xâm hại (khi môi trường bị ô nhiễm và không còn trong lành nữa), sức khỏe, các hoạt động sinh hoạt, lao động, sản xuất, vui chơi, giải trí, tiêu dùng của con người sẽ bị ảnh hưởng một cách trực tiếp theo chiều hướng xấu. Chính vì vậy, bảo vệ môi trường, giữ cho môi trường trong lành, thân thiện với con người chính là bảo vệ điều kiện sinh tồn thiết yếu của con người, của mỗi cộng đồng dân cư. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa hoạt động bảo vệ môi trường là “hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học.”[2]
Trong thực tế, có rất nhiều nguồn gây hại cho môi trường bao gồm các nguồn thiên tạo (như bão, lũ, lụt v.v.) và các nguồn nhân tạo hoặc các nguồn kết hợp cả thiên tạo và nhân tạo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những nguồn gây hại nhiều nhất, nguy hiểm nhất nhưng cũng có thể dễ khắc phục hơn cho môi trường nếu con người thực sự muốn thay đổi chính là các nguồn gây hại cho môi trường từ quá trình lao động, sản xuất, sinh hoạt của con người, nhất là từ quá trình sản xuất công nghiệp.
Môi trường trong lành là tài sản chung của mọi người nhưng cũng như nhiều loại tài sản chung khác, chúng rất dễ bị tổn thương, dễ bị xâm hại. Thực trạng môi trường ở nhiều địa phương ở nước ta hiện nay có xu thế xấu đi nhanh chóng trước tác động từ quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, từ quá trình phát triển sản xuất, kinh doanh thiếu thân thiện với môi trường là những minh chứng. Bảo vệ môi trường, giữ gìn thứ tài sản chung quan trọng này, vì thế, đòi hỏi những hành động mang tính tập thể, mang tính cộng đồng và không thể thiếu vắng vai trò của nhà nước. Tuy nhiên, một mình Nhà nước không thể hoàn thành được công việc khó khăn này. Thực tế cho thấy, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động sự tham gia tích cực và nhiều mặt của các tổ chức và cá nhân, của mọi thành phần kinh tế và nhất là các cộng đồng dân cư, trong đó có cộng đồng dân cư cơ sở là điều kiện cần thiết bảo đảm sự thành công của sự nghiệp bảo vệ môi trường.
Cộng đồng dân cư là tập hợp của những con người sinh sống quần tụ với nhau, cùng chung một điều kiện tự nhiên, môi trường sống và có ảnh hưởng tương tác lẫn nhau ở nhiều phương diện. Từ phạm vi thôn, xóm, làng, xã, nói rộng ra là cả một đất nước, đều có thể coi là những cộng đồng dân cư với những phạm vi khác nhau. Trong mối quan hệ với môi trường, cộng đồng dân cư ở những vị thế khá đặc biệt. Môi trường có thể trở thành "nạn nhân" của những hành vi ứng xử kém thân thiện đến từ cộng đồng dân cư. Môi trường cũng chính là thứ tài sản chung mà các cộng đồng dân cư đều có trách nhiệm phải gìn giữ. Các thành viên trong cộng đồng có thể vừa là "thủ phạm" và cũng có thể là "nạn nhân" của tình trạng môi trường bị ô nhiễm, xuống cấp. Cộng đồng dân cư cũng có thể là chủ thể cung cấp các nguồn lực cần thiết, tập hợp thành lực lượng để giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề về môi trường. Vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường không chỉ thể hiện ở các hoạt động chung của cả cộng đồng mà còn thể hiện qua vai trò của từng cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức trong cộng đồng dân cư khi tham gia bảo vệ môi trường.
Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng ý thức, vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường bằng các khảo sát thực tiễn là rất cần thiết. Gắn với chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý đã tổ chức triển khai nghiên cứu, khảo sát để thực hiện nhiệm vụ "Đánh giá thực trạng ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường góp phần nâng cao chất lượng phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở".
II. MỤC TIÊU, PHẠM VI CỦA NHIỆM VỤ
2.1. Mục tiêu của nhiệm vụ
Nhiệm vụ điều tra, khảo sát này được tiến hành nhằm đánh giá đúng thực trạng ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở đối với hoạt động bảo vệ môi trường trên địa bàn họ sinh sống, từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện thể chế, thiết chế và các điều kiện cần thiết nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường; nâng cao chất lượng phổ biến giáo dục pháp luật cho cộng đồng dân cư về công tác bảo vệ môi trường tại cơ sở.
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, việc triển khai nhiệm vụ hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:
- Đánh giá được vai trò, mức độ, phương pháp tham gia của cộng đồng dân cư cơ sở trong việc bảo vệ môi trường.
- Đánh giá đúng thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường cho cộng đồng dân cư cơ sở.
- Làm rõ thực trạng pháp luật về vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong việc bảo vệ môi trường.
- Bước đầu tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế khuyến khích nhằm nâng cao vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong việc bảo vệ môi trường.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở.
2.2. Phạm vi của nhiệm vụ
Nhiệm vụ tập trung làm rõ nhận thức, vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở ở một số tỉnh, thành phố (cụ thể là tại Hà Nội, Bắc Ninh và Hòa Bình) trong công tác bảo vệ môi trường. Nhiệm vụ cũng đánh giá thực trạng, tác dụng của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ môi trường ở cơ sở.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU, KHẢO SÁT
- Tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và các địa phương tiến hành khảo sát có nội dung liên quan đến vai trò của cộng đồng dân cư trong việc bảo vệ môi trường.
- Khảo sát ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư cơ sở.
- Khảo sát thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường đối với đối tượng là cộng đồng dân cư cơ sở.
- Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói chung, trong việc phát huy vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường nói riêng. Xác định cụ thể các điều kiện nâng cao vai trò của cộng đồng dân cư trong hoạt động bảo vệ môi trường cùng các giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở.
IV. ĐỐI TƯỢNG, QUY MÔ, PHƯƠNG PHÁP CỦA NHIỆM VỤ
4.1. Về đối tượng khảo sát
Nhiệm vụ tập trung khảo sát các nhóm đối tượng sau:
- Nhóm 1. Cán bộ chính quyền cấp cơ sở: cán bộ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã (Chủ tịch, Phó chủ tịch, công chức cấp xã);
- Nhóm 2. Cán bộ cấp huyện: cán bộ của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Chủ tịch, Phó chủ tịch, cán bộ các Phòng chuyên môn cấp huyện);
- Nhóm 3. Cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở: Đảng ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, huyện và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp;
- Nhóm 4. Công an cấp huyện, xã;
- Nhóm 5. Trưởng thôn, Tổ trường tổ dân phố;
- Nhóm 6. Cơ sở, doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường và nạn nhân bị ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường gây ra;
- Nhóm 7. Nhân dân thuộc các tầng lớp, dân tộc, giới tính có độ tuổi từ 18 trở lên.
4.2. Về địa bàn khảo sát
Để đảm bảo kết quả khảo sát phản ánh một cách trung thực nhất về tình hình môi trường tại địa phương, cũng như căn cứ vào nguồn kinh phí được cấp.
Ban chủ nhiệm nhiệm vụ chọn địa bàn khảo sát theo các tiêu chí sau:
+ Các địa bàn khảo sát phải phản ánh được tiêu chí địa bàn như: Thành phố, đồng bằng và miền núi.
+ Các địa bàn khảo sát đáp ứng được tiêu chí so sánh về sự phát triển trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội...
Trên cơ sở các tiêu chí trên, Ban chủ nhiệm đã tổ chức khảo sát tại 03 địa phương là thành phố Hà Nội, tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hòa Bình.
Tại Thành phố Hà Nội, Ban chủ nhiệm nhiệm vụ đã tiến hành khảo sát:
(1) Tại Quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì từ ngày 18/9 đến ngày 21/9/2012; 2) Tại Chi Cục bảo vệ môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường ngày 29/9/2012; (3) Làm việc với các Hội Bảo vệ môi trường đóng trên địa bàn Thành phố Hà Nội ngày 30/11/2012.
Tại tỉnh Bắc Ninh, Ban chủ nhiệm nhiệm vụ đã tiến hành khảo sát: (1) Tại huyện Thuận Thành và Thành phố Bắc Ninh từ ngày 08 đến ngày 11/7/2013; (2) Tại Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh ngày 12/7/2013.
Tại tỉnh Hòa Bình, Ban chủ nhiệm nhiệm vụ đã tiến hành khảo sát: (1) Tại Thành phố Hòa Bình và huyện Kỳ Sơn từ ngày 06 đến ngày 09/8/2013; (2) Tại Sở Tư pháp Hòa Bình ngày 10/8/2013.
4.3. Phương pháp tiến hành khảo sát
Các phương pháp cơ bản được sử dụng trong quá trình nghiên cứu, khảo sát (ngoài việc rà soát, hệ thống hóa văn bản), bao gồm phỏng vấn bằng phiếu hỏi đối với các đối tượng có liên quan, tổ chức tọa đàm sâu với các đối tượng có liên quan và lấy số liệu do các cơ quan hữu quan cung cấp. Cụ thể:
4.3.1. Khảo sát bằng phiếu hỏi
Trên cơ sở 7 nhóm đối tượng, Ban chủ nhiệm đã thiết kế 03 mẫu phiếu hỏi và 03 mẫu phiếu sâu, cụ thể:
Loại phiếu
|
Đối tượng hỏi phiếu
|
Số lượng
|
Phiếu số 1
|
Nhân dân từ 18 tuổi trở lên
|
369
|
Phiếu số 2
|
Cán bộ cấp xã (Đảng ủy, Hội đồng nhân dân; UBND và công chức cấp xã, công an xã …)
|
209
|
Phiếu 3
|
Cán bộ cấp huyện (Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, văn phòng UBND, MTTQ, đoàn thể) có thực hiện các nhiệm vụ trực tiếp có liên quan đến vai trò của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường
|
174
|
|
Cán bộ, công chức, viên chức các phòng ban chuyên môn của UBND, HĐND trực tiếp tham mưu, quản lý lĩnh vực bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư (phòng tài nguyên môi trường, chi cục bảo vệ môi trường, phòng tư pháp, phòng nội vụ); công an cấp huyện.
|
|
Phiếu sâu
|
Cán bộ Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố và doanh nghiệp
|
20
|
|
TỔNG CỘNG
|
772
|
4.3.2. Thu thập số liệu thống kê của các cơ quan có thẩm quyền
Thu thập số liệu về việc nhiệm vụ bảo vệ môi trường của UBND 24 xã, phường được khảo sát.
4.3.3. Tổ chức các tọa đàm tại địa bàn được khảo sát
Nhóm nghiên cứu đã tổ chức 21 tọa đàm các loại tại các địa phương được khảo sát, trong đó:
- 12 tọa đàm với UBND xã, phường tại 12 xã, phường được khảo sát.
- 6 tọa đàm với UBND huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh tại 6 huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh được khảo sát.
- 3 tọa đàm tại Sở Tư pháp.
Các tọa đàm đều tập trung vào đánh giá thực trạng ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn được khảo sát.
Thành phần tham dự tọa đàm là người dân, đại diện cộng đồng dân cư ở cơ sở, đại diện doanh nghiệp và các cán bộ công tác tại các cơ quan có liên quan tới công tác bảo vệ môi trường (Phòng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi cục bảo vệ môi trường, đội cảnh sát môi trường ở huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, phòng cảnh sát môi trường công an các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
Ngoài các phương pháp khảo sát đã được áp dụng trên, các phương pháp chuyên ngành như phương pháp thống kê, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh... cũng đã được sử dụng.
V. LỰC LƯỢNG THAM GIA NHIỆM VỤ
- Các chuyên gia thuộc Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp.
- Một số chuyên gia, các nhà quản lý đang công tác tại Bộ Tài nguyên và Môi trường (Vụ Pháp chế); các Sở, ban, ngành của Uỷ ban nhân dân các địa phương khảo sát (Sở Tư pháp, Sở Tài nguyên và môi trường, Công an, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội...), Hội bảo vệ môi trường.
PHẦN II. KẾT QUẢ KHẢO SÁT
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH MÔI TRƯỜNG CÁC ĐỊA PHƯƠNG ĐƯỢC KHẢO SÁT
1.1. Về điều kiện tự nhiên và xã hội của các địa phương được khảo sát
Hà Nội nằm chếch về phía Tây Bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng (có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông), tiếp giáp với 7 tỉnh là các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hòa Bình, Bắc Ninh, Hưng Yên, Phú Thọ. Hà Nội có 29 quận/huyện/thị xã với 557 phường/xã và thị trấn. 10 quận là: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai, Hà Đông; 01 thị xã: Sơn Tây và 18 huyện gồm: Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hoa và Mê Linh[3]. Hà Nội có diện tích tự nhiên là 3.324,92 km2, dân số hơn 6 triệu người (về cơ cấu dân số, người Kinh chiếm 98,73%, người Mường chiếm 0,76%, người Tày chiếm 0,23%), (dân số thành thị là 2.632.087 chiếm 41,1%, và 3.816.750 cư dân nông thôn chiếm 58,1%[4]).
Bắc Ninh là cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, gần sân bay Quốc tế Nội Bài, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Bắc Ninh có các trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các Trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc, Việt Nam: Đường Quốc lộ 1A, Quốc lộ 1B mới, Quốc lộ 18, Quốc lộ 38 Tuyến đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc. Bắc Ninh có đường sông thuận lợi nối với các vùng lân cận, như cảng biển Hải Phòng và các trung tâm kinh tế lớn ở miền Bắc. Bắc Ninh có diện tích tự nhiên là 82,271.2 km2 chiếm 0,2% diện tích tự nhiên của cả nước và là địa phương có diện tích nhỏ nhất trong 64 tỉnh, thành phố. Bắc Ninh có 8 đơn vị hành chính cấp huyện và có 126 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 102 xã, 17 phường và 7 thị trấn. Diện tích tự nhiên là 82.271 ha (Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp 42,941.6 ha chiếm 59,2%; Đất nuôi trồng thủy sản 5,007.9 ha; Đất lâm nghiệp 625.3 ha; Đất chuyên dùng 17,293.2 ha chiếm 21,02%; Đất ở 9,941.2 ha chiếm 12,8%; và đất chưa sử dụng là 579.6 ha). Dân số 1.038.229 triệu người (khu vực thành thị 268,5 nghìn người, chiếm 25,9% và khu vực nông thôn 769,7 nghìn người, chiếm 74,1%).
Hoà Bình nằm giáp ranh giữa 3 khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ gồm các tỉnh Phú Thọ, Hà Nam, Ninh Bình, Sơn La, Thanh Hoá, Hà Nội. Đơn vị hành chính cấp huyện của Hoà Bình bao gồm 01 thành phố và 10 huyện (huyện Lương Sơn, Cao Phong, Đà Bắc, Kim Bôi, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thuỷ, Mai Châu, Tân Lạc, Yên Thuỷ) và gồm 214 xã, phường, thị trấn. Diện tích tự nhiên là 4.662,5 km2 chiếm 1,41% tổng diện tích tự nhiên của cả nước. Dân số 800.000 người (trong đó 70% là dân tộc Mường, còn lại là các dân tộc Kinh, Thái, Dao, Tày, Hmông). Đây là một trong bốn tỉnh của Việt Nam mà người Kinh không chiếm đa số.
1.2. Về tình hình ô nhiễm môi trường tại các địa phương.
1.2.1. Về ô nhiễm chất thải rắn
Tại thành phố Hà Nội, chất thải rắn phát sinh trên địa bàn rất lớn về mặt khối lượng, phức tạp về mặt thành phần, trong đó chất thải rắn sinh hoạt chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại chất thải rắn (vào khoảng 60%), các chất thải rắn công nghiệp chiếm 10%, chất thải nông nghiệp và nông thôn chiếm khoảng 5-8% và chất thải phân bùn bể phốt chiếm khoảng 5-8%. Theo số liệu thống kê, tổng lượng thải trong thành phố là khoảng 8.500 tấn/ngày (một năm 365 ngày x 8.500 tấn/ngày = 3.102.500 tấn/năm). Khối lượng rác thải trung bình giai đoạn hiện nay là 0,7-0,8kg/người/ngày đối với khu vực ngoại thành và 1 kg/người/ngày đối với khu vực nội thành[5].
[6]
Tỉnh Bắc Ninh cũng đang bị ảnh hưởng bởi hai loại chất thải rắn là chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp. Về chất thải sinh hoạt, Bắc Ninh đang bị quá tải do thiếu hụt bãi chứa rác thải và chưa có phương án trong việc xây dựng bãi rác thải mới thay thế. Hiện nay, bãi rác thải Đồng Ngo được đưa vào hoạt động từ năm 1994, có diện tích 2,5 ha nhưng do quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, lượng rác thải sinh hoạt tăng cao và cũng do nhu cầu tập kết, xử lý rác thải tập trung nên bãi rác Đồng Ngo gánh thêm trách nhiệm chứa rác thải của cả bảy huyện, thị xã khác trong tỉnh khiến bãi rác trở nên quá tải.
Năm 2008, tỉnh đã có chủ trương dừng hoạt động bãi rác Đồng Ngo, để xây dựng bãi rác mới ở xã Phù Lãng (huyện Quế Võ) xa trung tâm thành phố hơn. Tuy nhiên, dự án bãi rác Phù Lãng triển khai chậm trễ, kéo dài vì thiếu vốn. Bởi vậy, bãi rác Đồng Ngo vẫn phải duy trì hoạt động. Mỗi ngày trên toàn địa bàn tỉnh Bắc Ninh có khoảng 400 tấn rác, trong khi bãi rác Phù Lãng chỉ chứa được 100 tấn, còn 300 tấn vẫn phải chuyển vào bãi rác Đồng Ngo[7]. Hơn nữa, phương án xử lý rác thải về tổng thể và lâu dài cũng chưa hợp lý vì bãi rác Phù Lãng nhỏ có quy mô khá nhỏ, nếu hoàn thành thì cũng chỉ xử lý được 300 tấn rác/ngày, trong khi thực tế hiện nay mỗi ngày toàn tỉnh thải ra môi trường khoảng 400 tấn rác các loại/ngày[8].
(H3). Rác thải đổ tràn lan tại xã Hà Mẫn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh[9]
(H4). Làng chế nhôm Mẫn Xá, xã Vân Môn (huyện Yên Phong)[10]
Về rác thải công nghiệp, ước tính, mỗi ngày các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề của Bắc Ninh thải ra môi trường khoảng 700 tấn rác thải công nghiệp nhưng các loại rác thải này chưa được thu gom, xử lý triệt để vì không có bãi thải cố định mà được đổ chung vào nơi tập kết của bãi thải sinh hoạt của tỉnh[11].
Tỉnh Hoà Bình hiện nay chưa có bãi chôn lấp, xử lý rác ổn định. Hầu hết các điểm chôn lấp rác đều mang tính tạm thời. Việc chôn lấp, xử lý rác không theo quy định và không hợp vệ sinh đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và cuộc sống của người dân xung quanh. Lượng rác sinh hoạt được thu gom, chôn lấp số lượng khoảng 60.000-70.000m3/năm; lượng rác thải y tế trung bình 0,6kg/giường bệnh/ngày/850 giường bệnh của tỉnh, huyện, số lượng thải ra 360 tấn/năm[12]. Trong đó bãi đổ rác của tỉnh đang bị quá tải. Chẳng hạn bãi rác dốc Búng, thuộc phường Tân Hòa, Thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình là một điểm nóng về môi trường trên toàn tỉnh. Bãi rác này đã được liệt vào danh sách các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của tỉnh[13] và đã nhiều lần bị Bộ Tài nguyên và Môi trường "tuýt còi" vì gây ô nhiễm môi trường. Giải quyết tình trạng quá tải của bãi rác dốc Búng, tỉnh đã tiến hành xây dựng khu xử lý, chôn lấp rác thải tại xã Yên Mông, rộng khoảng 20ha, đã hoàn thành trong tháng 9/2009, tuy nhiên, đến nay, khu xử lý, chôn lấp rác Yên Mông vẫn chưa thể đi vào hoạt động do khiếu kiện của người dân liên quan đến việc phương án di dời các hộ dân bị ảnh hưởng đến khu tái định cư cách bãi rác đúng theo quy định chưa được thực hiện (một số hộ dân nằm trong vùng bị ảnh hưởng đã ngăn cản, không cho xe rác vào tập kết, gây mất trật tự trị an)[14]...
(H5,6). Chợ nông sản Đồng Tâm, thành phố Hoà Bình, tỉnh Hòa Bình[15]
1.2.2. Về ô nhiễm môi trường nước
Thành phố Hà Nội có mạng lưới sông ngòi dày nhất vùng đồng bằng Bắc Bộ với mật độ sông trung bình 0,7 - 1km/km2, độ uốn khúc mạnh, lòng sông rộng, nước mưa sau khi rơi xuống đất nhanh chóng thoát ra sông. Trên địa bàn Hà Nội có nhiều sông liên tỉnh như sông Hồng, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu, sông Công, sông Đáy, và sông Nhuệ. Ở khu vực nội thành có các sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét. Ở ngoại thành có các sông: Tích, Cà Lồ, Ngũ Huyện Khê, Bắc Hưng Hải, Thiếp, Cầu Bây, Hòa Bình, Cái, Giẽ, Triền, Tào Khê, Hà Bắc... Nước sông trên địa bàn Hà Nội chủ yếu dùng cho mục đích nông nghiệp.
(H7,8). Hình ảnh ô nhiễm nước tại Hà Nội[16]
Tại các khu công nghiệp, các nhà máy, các khu đô thị... nước thải chưa qua xử lý đã thải trực tiếp xuống hệ thống sông, hồ gây ô nhiễm nguồn nước trên diện rộng dẫn đến nhiều vùng có nước nhưng không sử dụng được vì bị ô nhiễm. Theo báo cáo tổng thể hiện trạng môi trường thành phố Hà Nội giai đoạn 2006 - 2011 của Sở Tài Nguyên và Môi trường Hà Nội thì lượng và nồng độ các chất ô nhiễm từ nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt, nước thải làng nghề, nước thải nông nghiệp hầu hết đều chưa qua xử lý và đổ thẳng ra sông, hồ với lưu lượng trên 670.000m3 /ngày.
Tại tỉnh Bắc Ninh, ô nhiễm nguồn nước mặt cũng là một vấn đề lớn. Nguồn nước ở một số địa bàn có làng nghề đang bị ô nhiễm một cách nghiêm trọng. Chẳng hạn, nước thải từ các cơ sở sản xuất giấy ở Phong Khê (chủ yếu là nước màu do nhuộm phẩm màu)[17] thải ra khoảng 4.500-5.000m3/ngày chứa lượng độc tố cao gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép như hàm lượng chất rắn lơ lửng cao hơn 4,5-11 lần, hàm lượng COD cao hơn từ 8-500 lần, hàm lượng Pb cao hơn 5,5 lần. Sông Ngũ Huyện Khê với 24km chảy qua địa phận tỉnh Bắc Ninh đang từng ngày, từng giờ bị "bức tử" khi có tới 5 làng nghề (sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, tái chế sắt Đa Hội, sản xuất thép Châu Khê, tái chế giấy Phú Lâm và tái chế giấy Phong Khê) thường xuyên thải nước thải độc hại trực tiếp xuống sông và đổ các chất thải rắn xuống sông hai bên bờ sông[18].
(H9,10) Ô nhiễm nguồn nước ở làng nghề sản xuất giấy Phong Khê (Bắc Ninh)[19]
Tại tỉnh Hòa Bình, nguồn nước tại một số nơi cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Chẳng hạn, nguồn nước ở suối Cái (xã Yên Lương, Đà Bắc) bị ô nhiễm khá nghiêm trọng do một số cơ sở sản xuất giấy, cơ sở sản xuất tinh bột sắn và người dân xả trực tiếp nước thải vào suối Cái. Theo kết quả phân tích mẫu nước tại đập tràn suối Cái trên địa bàn xã Yên Lương do Trung tâm Quan trắc và Bảo vệ môi trường tiến hành so sánh với QCVN 08:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (cột B1) cho thấy: Thông số TSS là 172 mg/l vượt 1,44 lần, thông số NO2-S là 1,101 mg/l vượt 2,53 lần[20]. Tại bãi rác dốc Búng, số liệu quan trắc cho thấy: Hàm lượng các chất thải trong nước thải rỉ từ bãi rác dốc Búng ra sông Đà có những chỉ tiêu vượt mức cho phép hàng chục lần. Cụ thể: Có 11 chi tiêu nước thải vượt tiêu chuẩn, trong đó: COD vượt TCVN 5,8 lần; BOD, vượt TCVN 9,3 lần; TSS vượt TCVN 11,9 lần; Crôm (VI) vượt TCVN 2,1 lần; Mg vượt TCVN 86,5 lần; Xianua vượt TCVN 1,5 lần; Dầu mỡ khoáng vượt TCVN 1,25 lần; Dầu mỡ động vật vượt TCVN 1,13 lần; Tổng P vượt TCVN 1,54 lần; Coliform vượt TCVN 4,3 lần[21].
(H12). Ô nhiễm nguồn nước trên sông Đà, tỉnh Hòa Bình[22]
Bản thân sông Đà (vốn là nguồn cung cấp nước sạch cho thành phố Hà Nội) cũng đang bị đe dọa với vấn đề ô nhiễm. Bên cạnh đó, nước tại một số sông, hồ khác ở Hòa Bình cũng đang trong tình trạng tương tự như: nạn khai thác vàng trái phép tại xã Mỹ Hòa - huyện Kim Bôi cũng đang gây ô nhiễm sông Bôi do sử dụng hóa chất cực độc như thuỷ ngân để thau rửa, chế biến vàng, làm thay đồi dòng chảy của sông dẫn đến nguy cơ xói mòn cao khi mùa nước lớn[23]... Nguồn nước ngầm sinh hoạt của người dân và các ao, hồ phục vụ cho việc tưới tiêu, sản xuất của người dân ở nhiều nơi cũng đang bị ô nhiễm. Chẳng hạn, người dân xóm Rụt, xã Tân Vinh, huyện Lương Sơn, người dân xã Phong Phù, huyện Tân Lạc bị ảnh hưởng bởi nước thải chưa qua xử lý của nhà máy chế biến quặng đá kim và tinh bột sắn đã thải trực tiếp ra môi trường xung quanh gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước sinh hoạt tại địa phương. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh và Công ty cổ phần kỹ thuật và phân tích môi trường đã đến địa bàn lấy mẫu nước, đất để phân tích thì kết quả cho thấy chỉ tiêu về Asen được lấy trong mẫu bùn ao tại đây đã vượt mức cho phép từ 20-30 lần[24].
1.2.3. Về ô nhiễm không khí
Tại thành phố Hà Nội, nguồn gây ô nhiễm không khí rất đa dạng, trong đó, ô nhiễm không khí do các hoạt động giao thông vận tải thải ra các khí CO, VOC, NO2 chiếm tỷ lệ khoảng 70%[25]. Nguồn gây ô nhiễm không khí do hoạt động của các khu công nghiệp như: Vật liệu xây dựng từ đất sét là 670,4 tấn khí thải/năm; sản xuất nhựa là 359,9 tấn khí thải/năm; các hóa chất cơ bản, trừ phân bón và chất nito là 1.586,9 tấn khí thải/năm; giấy, bìa và bao bì từ giấy và bìa là 781,9 tấn khí thải/năm và các hóa chất khác là 1.462 tấn khí thải/năm[26]. Ở ngoại thành, ô nhiễm không khí chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, làng nghề và sinh hoạt thải ra các khí CH4, H2S, NH3 hoặc bụi, khí SO2, NO2, CO hơi axit và kiềm sản sinh từ các quá trình xử lý bề mặt, nung, sấy, tẩy, đục tạo hình các sản phẩm... Tái chế kim loại, sản xuất vật liệu xây dựng (gạch, ngói, nung vôi), sản xuất gốm sứ, chế biến lương thực, thực phẩm (sản xuất bún, bánh, rượu...) và dệt nhuộm là những loại hình sản xuất gây ô nhiễm môi trường không khí nhiều nhất do có nhu cầu nhiên liệu cao và nhiên liệu chủ yếu là than[27].
[28]
Tại tỉnh Bắc Ninh, không khí tại một số địa bàn (nhất là ở một số làng nghề đúc đồng, thép, luyện kim, cụm công nghiệp) đang ô nhiễm nghiêm trọng. Kết quả quan trắc môi trường không khí tại làng nghề Châu Khê của Trung tâm Quan trắc Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh cho thấy, chỉ số SO2, tại làng nghề Châu Khê cao hơn tiêu chuẩn cho phép tới 3,8 lần; Chỉ số NO2 cao hơn tiêu chuẩn cho phép tới 3 lần[29]. Làng nghề đúc cán thép Đa Hội Từ Sơn) có khoảng 220 lò đúc và lò nung dạng hộp, mỗi ngày sử dụng khoảng 35.000 tấn than, 26 tần dầu FO,... lưu lượng khí thải phát tán ra môi trường từ hoạt động sản xuất khoảng 6 triệu m3/ngày. Hàm lượng các khí thải CO2, SO2 đều cao hơn ngưỡng mà TCVN cho phép. Làng nghề Mẫn Xá (Văn Môn, Yên Phong) có khoảng 250 hộ sản xuất, trong đó có gần 50 hộ đúc nhôm, sản phẩm nhôm đúc 400-500 tấn/năm, 200 hộ luyện nhôm với sản lượng 4.000- 5000 tấn/năm, sử dụng nhiên liệu là than kíp lê 1.200-1.500 tấn/năm. Kết quả quan trắc môi trường tại khu vực này cho thấy, hàm lượng khí CO2 và SO2 tăng dần qua các năm và đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Tại các xưởng nấu nhôm, hàm lượng khí SO2 vượt tiêu chuẩn từ 3 - 6 lần, CO vượt từ 1,5 - 2 lần. Đối với làng nghề sản xuất giấy Phong Khê và Phú Lâm, công nghệ sản xuất thủ công chiếm ưu thế, các lò hơi phục vụ cho quá trình xeo giấy sử dụng khoảng gần 50.000 tấn than xả vào môi trường các loại khí thải độc hại như bụi, COX, NOX, SO2...[30]
(H15,16). Làng chế nhôm Mẫn Xá, xã Vân Môn (huyện Yên Phong)[31]
Tại tỉnh Hòa Bình, quá trình đô thị hoá đi cùng với sự gia tăng hoạt động giao thông ở khu vực trung tâm đang làm cho không khí ở những khu vực này bị ô nhiễm. Kết quả quan trắc tại một số địa điểm như Thành phố Hòa Bình, trung tâm các huyện, khu vực gần cơ sở sản xuất, trục đường giao thông..., các chỉ tiêu về môi trường ở một số nơi đã vượt giới hạn cho phép[32]. Ngoài ra, hoạt động khai thác khoáng sản cũng góp phần gây ra ô nhiễm tiếng ồn và ô nhiễm không khí. Chẳng hạn, tại huyện Kim Bồi, có 13 cơ sở được cấp phép khai thác khoáng sản, trong đó có 3 cơ sở khai thác đá vôi làm vật liệu xây dựng, diện tích 6,35ha; 5 cơ sở khai thác quặng vàng; 5 cơ sở khai thác cao lanh, sắt, đồng[33]. Các cơ sở này đều có quy mô nhỏ lẻ, hoạt động không đều, theo mùa vụ, trung bình 20 công nhân/mỏ và hầu hết chưa thực hiện đầy đủ cam kết bảo vệ môi trường. Theo người dân phản ánh, tình trạng nổ mìn khiến cho đá bắn vào nhà dân thường xuyên xảy ra, mỗi khi công ty hoạt động, bật ti vi trong nhà không nghe thấy gì, có khi ngồi trong nhà mà vẫn phải đeo khẩu trang[34]. Tại huyện Lương Sơn, từ năm 2004 đến nay, nhân dân và chính quyền 3 xóm Rụt, Vé, Nước Vài đã gần 130 lần gửi đơn thư phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại về vấn đề ô nhiễm khói bụi bởi các doanh nghiệp khai thác đá, nhưng hiện tại những ảnh hưởng do khai thác, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển đá đến đời sống của gần 370 hộ dân ở đây vẫn chưa được giải quyết dứt điểm[35].
(H17). Lò gạch tại xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình[36]
(H18). Xả khói thải không qua hệ thống lọc bụi tĩnh điện của nhà máy xi măng Vĩnh Sơn, xã Trung Sơn, Thành Lập (Lương Sơn), tỉnh Hòa Bình[37]
Bên cạnh các cơ sở khai thác khoáng sản, thì tại tỉnh Hòa Bình hiện nay còn tồn tại hơn 80 lò gạch thủ công hoạt động[38], bất chấp việc Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 115/2001/QĐ-TTg theo đó đến ngày 31/12/2010 tất cả các lò gạch thủ công phải đóng cửa. Các lò gạch thủ công này đang là nỗi bức xúc của nhiều người dân xung quanh mỗi khi các lò nhả khói. Các lò gạch này sử dụng nguyên liệu chủ yếu là than củi, than đá và than trộn bùn, mỗi khi hoạt động, những lò gạch này nhả khói trắng đục, mùi hồi nồng nặc. Chi hội phụ nữ xóm Đồi I, xã Kim Tiến, huyện Kim Bôi (nơi hiện có khoảng 25 lò nung đang hoạt động) cho biết: "Từ khi các lò gạch thủ công mọc lên, số trẻ em bị nhiễm bệnh đường hô hấp, viêm phế quản, viêm phổi tăng, nhiều trường hợp phải đưa đi cấp cứu". Xóm Đồi I có hơn 130 hộ thì có đến hơn 70 hộ bị ảnh hưởng trực tiếp từ khói của các lò gạch thủ công gây ra[39].
Qua những dữ liệu được thu thập từ quá trình nghiên cứu, khảo sát kể trên, chúng ta có thể nhận thấy:
Thứ nhất, chất lượng môi trường của các địa phương được khảo sát có xu hướng đi xuống (ô nhiễm chất thải rắn, không khí, nước) và chưa có dấu hiệu cải thiện một cách đáng kể.
Tại các buổi toạ đàm và kết quả xử lý phiếu khảo sát cho thấy gần như 100%[40] cán bộ cấp xã, huyện cho rằng địa phương nơi họ sinh sống và công tác đang bị ô nhiễm môi trường với các mức độ khác nhau, cụ thể:
- Đối với cán bộ cấp xã: Có 99/195 người được hỏi (chiếm 50,8%) cho rằng mức độ ô nhiễm môi trường tại địa phương họ công tác, sinh sống là nghiêm trọng (trong đó có một số ít - 04/195 người được hỏi (chiếm 2,1%) thậm chí cho rằng mức độ ô nhiễm môi trường tại địa phương là đặc biệt nghiêm trọng). 96/195 người được hỏi (chiếm 49,2%) còn lại tuy cũng cho rằng môi trường ở địa phương họ đang sinh sống, công tác có ô nhiễm nhưng mức độ ô nhiễm môi trường tại các địa phương này là không nghiêm trọng[41].
- Đối với cán bộ cấp huyện: Có 85/169 người được hỏi (chiếm 50,3%) cho rằng mức độ ô nhiễm môi trường tại địa phương họ sinh sống, công tác là nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng (trong đó có một số ít 07/169 người được hỏi (chiếm 4,1%) thậm chí cho rằng mức độ ô nhiễm môi trường tại địa phương họ đang sinh sống và công tác là đặc biệt nghiêm trọng). 84/169 người được hỏi (chiếm 49,7%) còn lại tuy cũng cho rằng môi trường ở địa phương họ đang sinh sống, công tác có ô nhiễm nhưng mức độ ô nhiễm môi trường tại các địa phương này là không nghiêm trọng[42].
Không nghiêm Nghiêm trọng Đặc biệt nghiêm
trọng trọng
Biểu đồ 1. Đánh giá của cán bộ cấp xã, cấp huyện về mức độ ô nhiễm tại địa phương
Như vậy, tuy không phải là tuyệt đối nhưng đa số ý kiến của cán bộ được phỏng vấn bày tỏ lo ngại về mức độ ô nhiễm môi trường ở các địa phương được khảo sát. Điều này là một thực tế cần được các cấp chính quyền vào cuộc nghiên cứu, xem xét và có giải pháp giải quyết phù hợp.
Về thành tố môi trường bị ô nhiễm và nguồn gây ô nhiễm môi trường: Kết quả khảo sát về cảm nhận của người dân, cán bộ cấp xã, cấp huyện về thực trạng môi trường tại địa phương cho thấy, đa số ý kiến người được khảo sát cho rằng trong 3 thành tố môi trường quan trọng hàng đầu là đất, nước và không khí thì ở các địa phương được khảo sát, nước và không khí đang được coi là hai thành tố môi trường bị ô nhiễm (có trên 70% người được hỏi cho là như vậy - xem sơ đồ dưới đây)[43]:
Nước Không khí
Biểu đồ 2. Đánh giá về thành tố của môi trường bị ô nhiễm
Thứ hai, nguồn gây ô nhiễm như để cập ở trên khá đa dạng gồm chất thải rắn, nước thải và khí thải. Cụ thể, ở cả 3 tỉnh, thành phố được khảo sát đều gặp các vấn đề về rác thải, nước thải và khí thải. Đối với rác thải, ngoài rác thải từ sinh hoạt đô thị với lượng xả thải trung bình của một người dân đô thị vào khoảng 1kg/1 người/1 ngày, rác thải công nghiệp từ các khu, cụm công nghiệp, rác thải y tế tại các bệnh viện lớn (Bệnh viện Bạch Mai, Việt Đức, Xanh Pôn, Ung Bướu ở Hà Nội, Bệnh viện Đa Khoa Bắc Ninh, Bệnh viện Đa Khoa Hòa Bình...) đều tạo ra những thách thức lớn. Việc thu gom đến khâu xử lý các loại rác thải gặp rất nhiều khó khăn vì thiếu nhân lực, phương tiện (xe thu gom rác, xe chở rác), bảo hộ lao động cho người thu gom (quần áo, giày, mũ, găng tay, khẩu trang) và bãi chôn lấp chất thải. Ở một số nơi chẳng hạn như Bắc Ninh, bãi rác trung tâm đã trở nên quá tải và chính quyền tỉnh vẫn chưa tìm ra được hướng giải quyết thật sự hiệu quả. Ở Hòa Bình, đã có tình trạng dân ngăn không cho xe chở rác tiếp cận với bãi rác. Đối với nguồn gây ô nhiễm nước, nước thải của các hộ gia đình, tổ chức, bệnh viện, làng nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp không qua xử lý mà được thải trực tiếp ra kênh, mương, sông hồ như sông Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Kim Ngưu, sông Hồng, sông Đuống (TP. Hà Nội); sông Ngũ Huyện Khê và sông Cầu (tỉnh Bắc Ninh, sông Đà (tỉnh Hòa Bình), ao hồ ở các địa phương đang là những vấn đề lớn. Đối với khí thải, nguồn gây ô nhiễm không khí chủ yếu từ hoạt động giao thông tại các thành phố nơi có lưu lượng xe lưu thông lớn (Hà Nội, Bắc Ninh, Hòa Bình); từ hoạt động sinh hoạt của các hộ gia đình, cơ sở buôn bán nhỏ như sử dụng bếp than trong đun nấu; từ khai thác khoáng sản và các cơ sở sản xuất gạch ngói gây khói bụi cho khu dân cư. Tại các khu dân cư, do ảnh hưởng của khói bụi nên người dân ở một số nơi thường bị các bệnh về phổi, lao, hô hấp, ung thư... làm giảm tuổi thọ trung bình, gây hoang mang và bức xúc cho người dân nơi bị ô nhiễm.
Tình trạng môi trường của các tỉnh, thành phố được khảo sát ngày càng bị ô nhiễm xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, do một thời gian khá dài, chính sách phát triển của không ít địa phương quá thiên vào việc thu hút đầu tư để phát triển kinh tế mà chưa coi trọng đúng mức yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc thực hiện các dự án đầu tư, các chương trình phát triển kinh tế. Theo phản ánh của không ít cán bộ tham dự các cuộc tọa đàm ở Bắc Ninh[44], một thời gian chính quyền các cấp đã trải thảm đỏ mời gọi các nhà đầu tư đầu tư vào địa phương và chưa quan tâm đến công nghệ của họ (mới hay cũ), không tính đến sản phẩm, quy trình sản xuất thân thiện với môi trường, dẫn đến không ít nhà máy, xí nghiệp đầu tư trên địa bàn tỉnh sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, khả năng xử lý chất thải rắn, nước thải trước hạn chế, gây ô nhiễm môi trường cho cộng đồng dân cư xung quanh, gây bất bình trong nhân dân.
[45]
)[46] Thứ hai, sự thiếu đồng bộ và chưa theo kịp yêu cầu phát triển của quy hoạch và hạ tầng môi trường. Thực tế khảo sát cho thấy, quy hoạch phát triển công nghiệp của một số địa phương không theo kịp nhu cầu phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, làng nghề của chính cư dân địa phương và của các nhà đầu tư. Điều đáng nói là hạ tầng bảo vệ môi trường không được coi trọng đúng mức, không đủ sức giải quyết được các bài toán môi trường từ quá trình phát triển. Chẳng hạn, thực tiễn khảo sát tại một số địa bàn ở Bắc Ninh, Hòa Bình và Hà Nội cho thấy không ít cụm công nghiệp nhỏ, cơ sở sản xuất trong các làng nghề phát triển khá tự phát, thiếu hạ tầng bảo vệ môi trường cần thiết (hệ thống thu gom rác thải, nước thải v.v.). Không ít hoạt động sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường diễn ra ngay tại các thôn, làng hoặc tại các địa điểm gần nơi dân cư sinh sống gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, tiếng ồn... Ngoài ra, ở không ít địa bàn được khảo sát (nhất là ở các khu vực có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh), quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội không theo kịp quá trình phát triển công nghiệp và quá trình đô thị hóa, gây ra tình trạng quy hoạch mang tính đối phó, tạm thời, ngắn hạn thay cho những quy hoạch bài bản, đồng bộ, dài hạn.
[47] (H22). Khu xử lý và chôn lấp rác thải Yên Mông, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình[48]
Riêng với việc thu gom rác thải sinh hoạt ở nông thôn, thực tiễn khảo sát
tại Bắc Ninh và Hoà Bình cho thấy, vẫn còn không ít nơi quy hoạch địa điểm tập kết, thu gom rác thải sinh hoạt chưa thực sự hợp lý. Điều đó làm giảm hiệu quả sử dụng các địa điểm thu gom, tập kết rác thải đã được quy hoạch. Chẳng hạn, thôn Hưng Ngôn, xã An Bình, huyện Thuận Thành, tinh Bắc Ninh được đầu tư 6 điểm tập kết rác thải sinh hoạt, mỗi điểm tập kết có kinh phí xây dựng 200 triệu đồng nhưng theo đánh giá của chính cán bộ ở xã công suất sử dụng các điểm tập kết này rất nhỏ, không hiệu quả, có dấu hiệu gây lãng phí ngân sách địa phương[49].
Thực tế khảo sát tại Hoa Bình và Bắc Ninh cũng cho thấy chất lượng kiểm soát môi trường ở các cụm công nghiệp không đồng đều. Có không ít trường hợp cơ sở sản xuất nằm trong cụm công nghiệp nhỏ và vừa gây ô nhiễm môi trường bị khiếu nại của người dân hoặc bị xử lý. Tuy nhiên, không lâu sau đó, để tránh sự bức xúc của người dân, chủ đầu tư di chuyển sang cụm công nghiệp khác để sản xuất. Mặc dù tại nơi sản xuất mới, chủ đầu tư không đưa ra các phương án làm giảm thiểu ô nhiễm nhưng vẫn được phép tồn tại và hoạt động[50]. Có thể thấy đây chính là một lỗ hổng trong quản lý nhà nước khi các cơ quan có thẩm quyền còn sử dụng tiêu chuẩn kép trong quá trình quản lý nhà nước và khi các cơ quan quản lý chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường để chính quyền các địa phương biết và có biện pháp ứng xử phù hợp trong việc cấp phép hoạt động đối với các doanh nghiệp đã từng gây ô nhiễm khi họ tiến hành đầu tư cơ sở mới.
Thứ ba, những nỗ lực của chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh, các làng nghề, các cụm công nghiệp có vấn đề về ô nhiễm môi trường chưa phúc đáp được yêu cầu bảo vệ môi trường. Mặc dù một số địa phương, chính quyền đã quan tâm hơn tới công tác bảo vệ môi trường nhưng hầu hết các địa phương đều không đưa ra được các phương án xử lý ô nhiễm môi trường một cách hiệu quả do thiếu nguồn lực cần thiết. Chẳng hạn, việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư ở không ít địa phương là điều rất khó khăn vì chính quyền không có đủ nguồn lực hỗ trợ cho việc di dời này của các cơ sở sản xuất, kinh doanh (nhất là các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ). Nguồn nhân lực dành cho các cơ quan chức năng để kiểm tra, thanh tra, phát hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường còn mỏng. Qua các buổi tọa đàm, các cơ quan chức năng như các phòng Tài nguyên và Môi trường, cơ quan cảnh sát môi trường, chính quyền cấp xã, phường đều phản ánh về sự thiếu hụt nhân lực làm việc trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhất là sự thiếu hụt về cán bộ có chuyên môn phù hợp. Hiện nay, ở cấp huyện, Phòng Tài nguyên và Môi trường chỉ có từ 7-10 người nhưng phải quản lý nhiều mảng khác nhau. Số lượng nhân lực dành cho công tác bảo vệ môi trường thường chỉ là 02 người (bao gồm một lãnh đạo cấp phòng phụ trách và 01 chuyên viên). Đối với lực lượng cảnh sát môi trường, do mới được thành lập nên quân số được biên chế trong các đội, phòng cảnh sát môi trường chủ yếu từ các cán bộ chưa được đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu về bảo vệ môi trường, về phòng, chống vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Chẳng hạn, Đội cảnh sát môi trường huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và Đội cảnh sát môi trường huyện Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình có hơn 50% quân số của đội là lính mới tốt nghiệp từ các đơn vị đào tạo về cảnh sát, số còn lại đều chuyển từ các đơn vị khác về và hầu hết đều chưa qua đào tạo nghiệp vụ về bảo vệ môi trường[51]. Ở cấp xã, hầu hết UBND cấp xã nơi được khảo sát chưa có cán bộ chuyên trách về bảo vệ môi trường. Nhiệm vụ bảo vệ môi trường chủ yếu được giao cho cán bộ địa chính hoặc nông nghiệp của xã kiêm nhiệm[52].
Thứ tư, ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường của một bộ phận nhân dân và doanh nghiệp chưa tốt. Các tham luận của chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước và công an ở địa phương cho thấy vi phạm về xả rác thải sinh hoạt, nước thải trực tiếp ra môi trường diễn ra phổ biến. Người dân và doanh nghiệp chưa chấp hành đúng quy định về bảo vệ môi trường khi được nhắc nhở hoặc khi có đoàn kiểm tra. Thậm chí, có những cá nhân, tổ chức khi bị nhắc nhở vẫn không chấp hành, chây ỳ, chấp nhận chịu phạt nhiều lần buộc chính quyền địa phương phải đưa ra những biện pháp cứng rắn như cắt điện, cắt nước mới chấp hành hoặc tìm biện pháp khắc phục. Nhiều doanh nghiệp thường vi phạm các cam kết trong báo cáo ĐTM hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường như không xây dựng hệ thống xử lý nước thải hoặc có xây dựng song không vận hành; xả trộm nước thải chưa qua xử lý ra môi trường; chưa đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại; không có nơi lưu giữ chất thải nguy hại theo quy định, không có báo cáo quản lý và phát sinh chất thải nguy hại; ký hợp đồng thu gom và xử lý chất thải nguy hại với đơn vị không có chức năng về thu gom và xử lý chất thải nguy hại...[53]
Bên cạnh những nguyên nhân chính kể trên, còn có một số nguyên nhân khác của tình trạng ô nhiễm môi trường tại các địa phương được khảo sát. Chẳng hạn, kết quả khảo sát cho thấy có 31,8%[54] người dân, 41,3%[55] cán bộ cấp xã và 51,9%[56] cán bộ cấp huyện được phỏng vấn cho rằng ô nhiễm môi trường ở địa phương mình, nhất là ô nhiễm môi trường nước sông là do dòng sông chảy qua địa phương mang ô nhiễm từ địa phương khác về. Khảo sát thực địa ở một số địa phương, chúng tôi cũng thấy tình trạng ô nhiễm môi trường không khí từ các làng nghề (đúc đồng, sắt, làm giấy, sản xuất thức ăn gia súc, các cơ sở, doanh nghiệp khai thác khoáng sản)... không chỉ tác động trực tiếp tới các làng nghề mà lan tỏa cả ra các địa phương lân cận[57].
II. THỰC TRẠNG VAI TRÒ VÀ Ý THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ CƠ SỞ TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
2.1. Vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường thông qua hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội
Thực tiễn lịch sử chính trị, xã hội của nước ta cho thấy hoạt động của cộng đồng dân cư cơ sở thường gắn chặt với vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (hội phụ nữ), Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt Nam. Đây là các tổ chức nằm trong hệ thống chính trị, có vai trò rất quan trọng trong việc chuyển tải chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân và cũng là cầu nối, diễn đàn để người dân thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của mình[58]. Với tầm quan trọng của môi trường sống, với tính chất cộng đồng của công tác bảo vệ môi trường, sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào công tác bảo vệ môi trường là điều hoàn toàn hợp quy luật. Điều 124 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định rõ "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các thành viên của tổ chức và nhân dân tham gia bảo vệ môi trường; giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường" và "Cơ quan quản lý nhà nước các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia bảo vệ môi trường:" Tinh thần kể trên về cơ bản được kế thừa đồng thời có sự phát triển trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014[59]. Cụ thể, theo quy định tại Điều 144 và 145 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, vai trò, trách nhiệm của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác được quy định như sau: Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các tổ chức thành viên và nhân dân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường. Mặt trận tổ quốc Việt Nam thực hiện tư vấn, phản biện, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận tổ quốc Việt Nam tham gia bảo vệ môi trường. Tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có trách nhiệm tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường và tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường. Tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội - nghề nghiệp có những quyền như sau: a) được cung cấp và yêu cầu cung cấp thông tin về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; b) tham vấn đối với dự án có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; c) tư vấn, phản biện về bảo vệ môi trường với cơ quan quản lý nhà nước và chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có liên quan theo quy định của pháp luật; d) tham gia hoạt động kiểm tra về bảo vệ môi trường tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; đ) kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Cơ quan quản lý môi trường các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện cho tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện các quyền năng vừa nêu.
Thực tiễn nghiên cứu và khảo sát của Nhóm nghiên cứu cho thấy, trong những năm gần đây, các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều hoạt động cụ thể để huy động sự tham gia của người dân, phát huy vai trò và nâng cao ý thức của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường. Cụ thể:
2.1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, chuyển tải những ý kiến của dân đến cấp ủy, các cấp chính quyền và truyền đạt nhanh chóng các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến tận cơ sở, người dân. Chính vì vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một trong những chỗ dựa tin cậy của người dân trong việc tham gia xây dựng và thực thi pháp luật nói chung và tham gia xây dựng, thực thi pháp luật bảo vệ môi trường nói riêng. Ở Trung ương, từ năm 2004, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ký Nghị quyết liên tịch về công tác bảo vệ môi trường (Nghị quyết liên tịch số 01/2004/NQLT-MTTQ-TNMT ngày 28/10/2004). Ngày 1/6/2012, Ban thưởng trực Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Chương trình số 18/CT PH-MTTW-BTNMT phối hợp thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường giai đoạn 2012-2016 (trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị quyết liên tịch số 01/2004/NQLT-MTTQ-TNMT ngày 28/10/2004 giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Bộ Tài nguyên và Môi trường về phối hợp thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia). Chương trình được ban hành nhằm huy động sức mạnh toàn dân tham gia quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững đất nước; nâng cao hiệu quả phối hợp thực hiện các nội dung, giải pháp tuyên truyền, vận động, giám sát nhiệm vụ quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và cơ quan tài nguyên và môi trường các cấp trong cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư". Theo Chương trình này, các tổ chức Mặt trận sẽ tiếp tục triển khai Chương trình toàn dân tham gia bảo vệ môi trường với yêu cầu thực hiện các nội dung, giải pháp quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu ở các khu dân cư thành một trong những tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; xây dựng các mô hình thí điểm khu dân cư quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu để nhân rộng; Ban Thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng cam kết sẽ nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, biên soạn tài liệu, ấn phẩm phục vụ công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân; tổ chức tập huấn cho cán bộ Mặt trận các cấp về vai trò, trách nhiệm của uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; kỹ năng tổ chức, hướng dẫn cộng đồng dân cư xây dựng ý thức chủ động, tích cực trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu tại các khu dân cư; hướng dẫn Mặt trận các cấp, đặc biệt là ở cơ sở, thường xuyên thu thập ý kiến nhân dân; phát huy sức mạnh cộng đồng trong thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; phối hợp với các tổ chức thành viên và các cơ quan chức năng tổ chức lấy ý kiến nhân dân về báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến cộng đồng dân cư; xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản, đoàn kết trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; đồng thời tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức, viên chức, chính quyền trong việc thực thi các chức năng, nhiệm vụ quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; phát hiện, kiến nghị xử lý những tồn tại, vướng mắc phát sinh và tuyên dương, khen thưởng gương người tốt việc tốt trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị càng củng cố thêm cơ sở chính trị, cơ sở về thể chế cho việc phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc thực hiện hoạt động giám sát xã hội đối với công tác bảo vệ môi trường.
Từ khi ký Nghị quyết liên tịch số 01 năm 2004, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã triển khai xây dựng Khung chiến lược Chương trình "Toàn dân tham gia bảo vệ môi trường" và đã triển khai hướng dẫn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành xây dựng một số mô hình điểm về bảo vệ môi trường, như: Mô hình "Lồng ghép nhiệm vụ bảo vệ môi trường vào cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; Mô hình: "Khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường"; Mô hình: "Khu dân cư thực hiện hài hòa xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường" trong đó có tỉnh Bắc Ninh, Hòa Bình và Thành phố Hà Nội[60].
Ngoài việc triển khai các mô hình bảo vệ môi trường như trên, riêng với 3 tỉnh, thành phố được khảo sát, hàng năm Mặt trận tổ quốc Việt Nam của các tỉnh Bắc Ninh, Hòa Bình và Thành phố Hà Nội còn phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức tập huấn kiến thức bảo vệ môi trường cho cán bộ Mặt trận các cấp[61]. Cụ thể, từ năm 2005 đến nay, Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hòa Bình đã tổ chức được 08 lớp tập huấn cho 2.000 lượt cán bộ Mặt trận các cấp; chỉ đạo xây dựng mô hình "Khu dân cư tự bảo quản bảo vệ môi trường" tại các khu dân cư có nhiều bức xúc về ô nhiễm môi trường như Bản Văn, Bản Poom Coọng của thị trấn Mai Châu huyện Mai Châu và đến nay toàn tỉnh đã thành lập, nhân rộng ra 74 mô hình tại các huyện Yên Thuỷ, Cao Phong, Đà Bắc...; cùng với nhân dân tổ chức dọn vệ sinh dọc 2 bờ kè sông Đà (02 đợt) huy động được 2.000 học sinh, sinh viên, người lao động tham gia hưởng ứng, làm vệ sinh toàn tuyến dài 4km; cùng với nhân dân cải tạo nâng cấp hệ thống thoát nước, các điểm thu gom, xử lý rác thải, trồng cây xanh, không lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, không đổ rác thải sai quy định, duy trì các hoạt động giữ gìn vệ sinh phố phường, đường làng, ngõ xóm[62]...
Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh Bắc Ninh cũng trực tiếp chỉ đạo Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp chọn lựa và xây dựng các điểm khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường. Chẳng hạn, năm 2011, khu phố Trang Liệt, phường Trang Hạ (thị xã Từ Sơn) với hơn 900 hộ và gần 4000 khẩu được Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh Bắc Ninh chọn làm điểm khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường. Hoạt động này được sự quan tâm, tham gia của cấp ủy và tiểu hệ thống chính trị tại khu phố với việc đặt trọng tâm vào công tác tuyên truyền (thông qua hệ thống truyền thanh, băng rôn, pano trên các trục đường, tổ chức hội nghị tập huấn, triển khai thực hiện mô hình khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường v.v.) để các tầng lớp nhân dân hiểu rõ được tác hại của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe của nhân dân và ảnh hưởng đến sản xuất tạo sự đồng thuận trong cộng đồng. Thôn Trang Liệt cũng đã tổ chức cho các tổ chức, đoàn thể và gia đình ký cam kết bảo vệ môi trường trong đó đề cập đến những nghĩa vụ, công việc cụ thể mà tổ chức và gia đình phải thực hiện để bảo vệ môi trường. Để đôn đốc và đánh giá đúng sự đóng góp của từng người, Ban công tác Mặt trận phối hợp với trưởng thôn thành lập tổ kiểm tra bảo vệ môi trường đối với những điểm công cộng chưa bảo đảm vệ sinh, các hộ chăn nuôi chưa có hệ thống xử lý chất thải... để nhắc nhở mọi người thực hiện theo cam kết. Công tác bảo đảm vệ sinh môi trường ở Trang Liệt nhờ đó đã có chuyển biến tích cực, thu được nhiều kết quả: xây dựng được bãi rác thải trung chuyển với diện tích 500 m2 (dưới sự hỗ trợ của UBND phường), huy động được 45 triệu đồng để xử lý hệ thống thoát nước ao mới, san ủi đất, gạch ngói do các gia đình tự ý đổ ra đường làm cản trở giao thông, giải tỏa bãi tập kết vật liệu trước cổng trường Tiểu học, tu sửa khu vực cây đa, cây đề, giếng nước ở đầu làng làm sạch đẹp cảnh quan cổ kính.... Huy động sức dân để đổ bê tông trên 4.000 mét đường giao thông trong làng và vành đai. Hệ thống thoát nước trục đường chính đều có nắp đậy. Ban vệ sinh môi trường do trưởng khu phố làm trưởng ban, cán bộ y tế là phó ban cùng 6 thành viên hoạt động đều đặn, thu gom rác thải ở các xóm, các gia đình chuyển về bãi rác thải tập trung. Hàng tháng Ban vệ sinh môi trường họp với lãnh đạo khu phố để rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục kịp thời. Sau gần hai năm thực hiện mô hình điểm khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường, khu phố Trang Liệt đã có chuyển biến về nhận thức và hành động. Các xóm ngõ, trục đường của khu phố luôn sạch sẽ, không còn hiện tượng đổ rác bừa bãi. Các điểm công cộng có cảnh quan môi trường sạch đẹp hơn. Các hộ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nghiêm chỉnh thực hiện theo cam kết, không gây ô nhiễm như trước đây[63]. Kết quả tương tự cũng có được tại Thôn Ngô Khê (thành phố Bắc Ninh) khi thôn được uỷ ban Mặt trận tổ quốc tỉnh Bắc Ninh chọn (năm 2012) là thôn làm điểm về mô hình khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường. Thôn có 212 hộ, 458 khẩu và 25 ha canh tác. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với sản xuất nông nghiệp, Ngô Khê có một số hộ thành lập doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công, có nhiều lao động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, có nhiều hộ gia đình làm nghề truyền thống như thợ mộc, thợ nề, nhiều hộ làm dịch vụ.v.v. Do ý thức người dân chưa cao nên vấn đề ô nhiễm môi trường ở thôn ngày càng gia tăng: Trong phun thuốc bảo vệ thực vật, bà con tuỳ tiện, vứt bỏ bao bì chứa thuốc trừ sâu không đúng nơi quy định; Hầu hết các hộ trong thôn đều chăn nuôi gia súc, gia cầm, có nhiều hộ nuôi từ 10 con lợn trở lên đã thải các chất thải của chăn nuôi ra hệ thống cống rãnh trong thôn làm ô nhiễm cảnh quan môi trường; Nhiều hộ sản xuất thủ công nghiệp không tuân thủ quy định bảo vệ môi trường đã đổ chất thải rắn và nước thải làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường gia tăng. Uỷ ban MTTQ tỉnh phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức tập huấn cho bà con thấy được tác hại của ô nhiễm môi trường, từ đó cùng nhau góp sức để giữ gìn làng xóm xanh, sạch, đẹp. Tại buổi phát động thi đua, nhân dân thôn Ngô Khê quyết tâm xây dựng mô hình điểm khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường. Mọi người nhất trí bổ sung quy ước làng văn hóa có nội dung bảo vệ môi trường và phổ biến cho nhân dân biết nội dung này để thực hiện, đồng thời tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi trường tới đông đảo bà con. Lãnh đạo thôn, các đoàn thể đã ký cam kết với Ban công tác Mặt trận thực hiện đầy đủ các quy định của khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường, đồng thời mỗi cán bộ, đoàn viên, hội viên là những nhân tố đi đầu trong việc thực hiện và tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân làm tốt công tác vệ sinh môi trường. Các hộ gia đình cũng ký cam kết thực hiện các quy định của một gia đình văn hóa, trong đó có nội dung tự quản bảo vệ môi trường như không xả chất thải ra hệ thống cống rãnh của xóm ngõ, các hộ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nghiêm chỉnh thực hiện quy ước làng văn hoá và Luật bảo vệ môi trường, tổ chức thu gom rác thải đúng thời gian và chuyển về nơi quy định, tích cực tham gia vệ sinh đường làng, ngõ xóm, nộp đủ và đúng thời hạn phí bảo vệ môi trường v.v. Sau một thời gian thực hiện, công tác tự quản bảo vệ môi trường ở Ngô Khê có nhiều chuyển biến: Nhân dân đã có ý thức bảo vệ môi trường cao hơn, xóm ngõ được bà con thường xuyên làm vệ sinh sạch sẽ, không còn hiện tượng đổ rác thải bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường như trước đây. Các hộ kinh doanh dịch vụ, sản xuất hàng thủ công nghiêm chỉnh thực hiện đúng với quy ước làng văn hóa và bản cam kết bảo vệ môi trường. Nhiều gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm đã đưa chuồng trại ra xa khu dân cư. Cây xanh tiếp tục được trồng thêm trên đường làng, tạo cảnh đẹp và không khí trong lành. Đặc biệt là 100% hộ gia đình đã nộp đủ, đúng thời gian phí bảo vệ môi trường theo quy định nhờ đó có chi phí cho tổ bảo vệ môi trường và mua sắm thêm dụng cụ bảo vệ môi trường bên cạnh đó ý thức đấu tranh đối với những người vi phạm về bảo vệ môi trường đươc nâng cao, trường hợp gây ô nhiễm môi trường đều được bà con nhắc nhở kịp thời. Cứ vào ngày Chủ nhật hàng tuần là thanh, thiếu niên thôn Ngô Khê (thành phố Bắc Ninh) lại làm vệ sinh xóm ngõ, cống rãnh được khơi thông, đường làng được quét dọn, chất thải được thu gom về nơi quy định làm cho làng xóm phong quang, sạch đẹp[64].
2.1.2. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và là một tổ chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường. Từ năm 2005, Trung ương Hội đã ký Nghị quyết liên tịch với Bộ Tài nguyên và Môi trường về Phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững. 100% tỉnh, thành Hội ký văn bản liên tịch với Sở Tài nguyên và Môi trường nhằm cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết liên tịch cấp trung ương. Đến nay, các văn bản liên tịch này đã đi vào cuộc sống và tạo nên một hình thức hợp tác mới giữa Hội liên hiệp phụ nữ các cấp với ngành tài nguyên và môi trường. Ở trung ương và cấp tỉnh, Trung ương Hội và 63 tỉnh, thành Hội đều phân công một lãnh đạo Hội phụ trách và Ban Tuyên giáo là đầu mối tham mưu, chịu trách nhiệm phối hợp với ngành tài nguyên và môi trường triển khai công tác bảo vệ môi trường trong hệ thống Hội. Công tác bảo vệ môi trường đã được Ban chấp hành trung ương Hội đưa vào Nghị quyết về nhiệm vụ, công tác hàng năm và cuối năm đánh giá tổng kết, chỉ đạo lồng ghép với các phong trào thi đua yêu nước, các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quốc tế có nội dung bảo vệ môi trường. Các cấp Hội đã tổ chức tập huấn cho cán bộ chủ chốt của cơ quan trung ương Hội và các tỉnh/thành Hội, các đơn vị trực thuộc về chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Hội đã đào tạo được 9.000 tuyên truyền viên có khả năng tuyên truyền, thuyết phục, vận động hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường. Các tuyên truyền viên này đã tổ chức hàng nghìn cuộc họp nhóm, lồng ghép sinh hoạt hội viên, sinh hoạt câu lạc bộ phụ nữ tuyên truyền vận động thực hiện vệ sinh môi trường; sinh hoạt các nhóm phụ nữ tín dụng - tiết kiệm hỗ trợ, giúp nhau xây dựng và sử dụng các công trình nước sạch và vệ sinh. Hội đã xây dựng in ấn và phân phối 5.000 sổ tay tuyên truyền viên, 50.000 tờ gấp "Bạn làm gì để chăm sóc môi trường xung quanh" làm tài liệu hỗ trợ tích cực cho đội ngũ tuyên truyền viên, hội viên trong các buổi sinh hoạt nhóm, tổ phụ nữ và là tài liệu tuyên truyền rất có hiệu quả cho các hộ gia đình. Các cấp Hội phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, thực trạng môi trường, hoạt động của Hội và các tập thể, cá nhân phụ nữ làm tốt công tác bảo vệ môi trường. Hàng năm, xây dựng tờ thông tin chuyên đề "Phụ nữ tham gia bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững" phát hành đến 63 tỉnh/thành Hội. Các cấp Hội đã tổ chức hơn 10.000 lễ mít tỉnh hưởng ứng "Tháng hành động BVMT"; Tuần lễ quốc gia Nước sạch - Vệ sinh môi trường (29/4 - 6/5); Ngày Môi trường thế giới (5/6); Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn (trung tuần tháng 9) với sự tham gia của hàng triệu lượt người. Các cấp Hội cũng đã xây dựng được nhiều mô hình bảo vệ môi trường có hiệu quả tại các địa phương như: Mô hình "Quỹ quay vòng vốn vệ sinh" (với số vốn huy động được và cho quay vòng khoảng 130 tỷ đồng trong 10.500 nhóm phụ nữ tín dụng - tiết kiệm để xây mới và cải tạo hố xí tự hoại, làm bể phốt nhà tiêu tự hoại, khoan đào giếng v.v.); Mô hình "Bếp cải tiến tiết kiệm năng lượng bảo vệ môi trường" được triển khai ở 11 xã của 10 tỉnh miền Bắc và miền Trung với hơn 30.000 hộ sử dụng bếp cải tiến; Mô hình Tổ phụ nữ tự quản thu gom rác thải được tổ chức có hiệu quả ở nhiều địa phương trong cả nước (trong đó có Hà Nội); Mô hình "Hùn vốn trả góp mua bình lọc nước" tại một số tỉnh; Mô hình "Hầm Biogas" ở một số tỉnh (trong đó có tỉnh Bắc Ninh); Mô hình "Vì môi trường trong sạch, phụ nữ và nhân dân Thủ đô không đổ rác, phế thải ra đường, nơi công cộng" (tại Hà Nội)[65].
Tại địa phương khảo sát là Hà Nội, Hội Liên hiệp phụ nữ duy trì tổ chức Phong trào "Vì môi trường trong sạch, phụ nữ và nhân dân không đổ rác, phế thải ra đường và nơi công cộng”[66]; xây dựng mô hình đoạn đường phụ nữ tự quản: Gắn trách nhiệm của cán bộ hội viên phụ nữ với việc trực tiếp quản lý các đoạn đường tại nơi mình cư trú, huy động được sự tham gia tích cực của mọi thành viên trong gia đình và xã hội[67]; xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch (sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ)[68]. Từ 228 đoạn đường tự quản của hội phụ nữ cơ sở năm 2006 đến nay các chi, tổ phụ nữ toàn thành phố Hà Nội đã đăng ký quản lý 6.618 đoạn đường, dãy nhà sạch đẹp, 115 tuyến phố vệ sinh - văn minh đô thị. Qua kiểm tra, đánh giá của quận, huyện và thành phố 80% các đoạn đường do phụ nữ tự quản đạt tiêu chuẩn sạch đẹp[69]. Mô hình nhóm liên gia tự quản, cầu thang, số nhà tự quản thu hút sự tham gia và đề cao tinh thần trách nhiệm của tất cả các thành viên trong gia đình giữ gìn trật tự vệ sinh tại nơi mình sinh sống. Mô hình phân loại, xử lý rác thải tại gia đình đang được thực hiện tại 4 phường thuộc các quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa thực hiện dự án thí điểm sáng kiến 3R về giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế rác thải. Các huyện ngoại thành chủ động phối hợp với xí nghiệp môi trường tập huấn, hướng dẫn quy trình phân loại rác thải, cung cấp chế phẩm EM, Bokasi để các gia đình xử lý rác hữu cơ làm phân bón[70].
Tại Hòa Bình, Hội phụ nữ tỉnh đã đôn đốc, chỉ đạo các cấp Hội phụ nữ tập trung thực hiện cuộc vận động "5 không, 3 sạch" gắn với xây dựng nông thôn mới ("5 không" gồm: không đói nghèo; không vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; không có bạo lực gia đình; không sinh con thứ 3 trở lên và không có trẻ suy dinh dưỡng; "3 sạch" gồm: sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ...). Đây là hoạt động mang tính "điểm nhấn" trong các phong trào "Phụ nữ chung sức xây dựng nông thôn mới". Cuộc vận động đã thực hiện các phần việc cụ thể như: duy trì, nhân rộng mô hình "Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch"; tuyên truyền đến 100% hội viên về mô hình; dán tranh cổ động có in các tiêu chí "5 không, 3 sạch" trong bếp gia đình để chị em dễ nhìn, dễ nhớ; ký cam kết thực hiện mô hình... Các cấp Hội thực hiện hiệu quả mô mình và có sức lan tỏa mạnh như Hội phụ nữ thành phố Hòa Bình, huyện Lương Sơn, Kim Bôi, Tân Lạc... Theo các tiêu chí trên, nếu mỗi gia đình thực hiện được đầy đủ các tiêu chí cũng có nghĩa là các cấp Hội đã bám sát, thực hiện hiệu quả cuộc vận động và góp phần cùng các cấp, ngành, địa phương xây dựng nông thôn mới bền vững[71].
2.1.3. Hội Nông dân Việt Nam
Hội nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội đại diện và bảo vệ quyền lợi của giai cấp nông dân Việt Nam. Với số lượng thành viên tham gia hội lên tới hàng triệu người ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước cùng bộ máy tổ chức khá chặt chẽ, Hội nông dân Việt Nam có nhiều thế mạnh trong việc tham gia công tác bảo vệ môi trường. Trong thực tế, nhiều cấp hội đã xây dựng các mô hình bảo vệ môi trường như mô hình trình diễn về sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả đất đai, môi trường, phòng ngừa ô nhiễm; xây dựng các câu lạc bộ nông dân tự quản, chi hội nông dân thu gom, phân loại, xử lý tái chế chất thải; thi tìm hiểu các chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh các phong trào "sạch từ nhà ra ngõ, sạch từ ngõ vào nhà", "nông dân chỉ sản xuất, chế biến và sử dụng các sản phẩm bảo đảm an toàn vệ sinh"; tham gia các chiến dịch truyền thồng hưởng ứng Tuần lễ quốc gia Nước sạch - Vệ sinh môi trường nông thôn; Tuần lễ an toàn vệ sinh lao động; Ngày môi trường thế giới... Hội Nông dân các địa phương được khảo sát đã tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, quản lý sử dụng đất đai tại địa phương. Tổ chức các lớp truyền thông về vệ sinh môi trường, Luật Bảo vệ môi trường, quản lý môi trường nông thôn, thu gom, phân loại, xử lý rác thải, sử dụng nguồn nước sạch cho cán bộ, hội viên nông dân. Các cơ sở Hội duy trì, phát triển các câu lạc bộ nông dân tự quản, phát động Hội viên nông dân thu gom, phân loại, xử lý, tái chế chất thải, khơi thông cống rãnh quét dọn vệ sinh đường làng, ngõ xóm, khu phố vào thứ 7 hàng tuần, thực hiện cuộc vận động "Toàn dân không vứt, đổ rác, phế thải ra đường và nơi công cộng". Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Vì môi trường trong sạch, vì sức khoẻ cộng đồng, nông dân Hà Nội chỉ sản xuất, chế biến, sử dụng và bán ra thị trường các sản phẩm nông nghiệp an toàn[72]. Cụ thể:
Hội Nông dân Thành phố Hà Nội đã tổ chức triển khai các dự án mô hình điểm như: Mô hình "Xử lý chất thải, nước thải trong chăn nuôi và làng nghề" tại thôn Lưu Thượng xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên, xã Phù Đồng huyện Gia Lâm xã Thanh Mai huyện Thanh Oai, xã Minh Khai huyện Hoài Đức; Mô hình "Thu gom, phân loại, chế biến rác thải tại các thị trấn và khu vực ngoại thành" ở xã Duyên Thái huyện Thường Tín, xã Tây Tựu huyện Từ Liêm. Kịp thời khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong làng nghề và nâng cao nhận thức cho cán bộ, Hội viên nông dân tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường; Phát triển các mô hình hầm ủ khí sinh biogas. Đến nay Thành phố Hà Nội hiện có trên 30.500 hầm ủ khí sinh học biogas, trong đó các cấp Hội nông dân thành phố phối hợp với trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn hỗ trợ, hướng dẫn Hội viên nông dân xây dựng trên 10.000 hầm biogas[73].
Hội Nông dân tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Ngân hàng chính sách xã hội tạo vốn giúp nông dân xây dựng các công trình nước sạch trong sinh hoạt, nhà vệ sinh đảm bảo quy trình. Phối hợp với Trung tâm dạy nghề mở 175 lớp dạy nghề ngắn hạn cho nông dân các nghề chăn nuôi - thú y, trồng trọt, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cảnh, hoa cao cấp, may công nghiệp, khôi phục các làng nghề truyền thống gắn với bảo vệ môi trường cho 5.255 lượt hội viên... Phối hợp với Hội làm vườn tổ chức 6 lớp tập huấn khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp cho trên 700 lượt người. Phối hợp với phòng kinh tế, trạm khuyến nông, trạm bảo vệ thực vật mỗi năm tổ chức khoảng 45 lớp về phương pháp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, cách phòng chống các loại dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi cho trên 2.500 lượt hội viên[74]...
Tại Hòa Bình, thực hiện Kết luận số 61-KL/TW ngày 03/12/2009 Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đề án "Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010- 2020" (gọi tắt là Đề án 61), Tỉnh ủy Hòa Bình đã ban hành Kế hoạch số 03-KH/BCĐ ngày 29/3/2012 thực hiện Đề án 61 và thành lập Ban chỉ đạo, Tổ công tác giúp việc thực hiện Đề án 61, trong đó có giao cho Hội nông dân tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể. Để triển khai nhiệm vụ, Hội nông dân tỉnh đã tổ chức thực hiện có hiệu quả phong trào "Chung sức xây dựng nông thôn mới", phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư"... Hội nông dân tỉnh Hòa Bình đã chủ động phối hợp với các sở ngành (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Công thương, Công an tỉnh...) ký văn bản liên tịch để phối hợp thực hiện. Hội Nông dân tỉnh đã xây dựng Đề án: "Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động Quỹ Hồ trợ nông dân tỉnh Hòa Bình"; "Đào tạo đội ngũ cán bộ Hội Nông dân cơ sở giai đoạn 2011-2020" và "Dạy nghề cho hội viên nông dân giai đoạn 2012-2020"... Hội cũng đã đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động Quỹ hỗ trợ nông dân tỉnh, đến nay tổng nguồn vốn Quỹ là 9,845 tỷ đồng hỗ trợ nông dân sản xuất kinh doanh, giảm nghèo và bảo vệ môi trường bền vững[75].
2.1.4. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam, giữ vai trò nòng cốt trong phong trào thanh niên; tổ chức, hướng dẫn hoạt động của thiếu niên, nhi đồng. Là tổ chức có lượng thành viên lên tới hàng triệu người cùng cơ cấu tổ chức bộ máy khá chặt chẽ từ trung ương tới cơ sở, các cấp bộ Đoàn có nhiều lợi thế trong việc tham gia bảo vệ môi trường. Trong những năm qua, các cấp bộ Đoàn đã tham gia khá tích cực trong công tác bảo vệ môi trưởng. Cụ thể, tại 3 tỉnh, thành phố được khảo sát, Đoàn Thanh niên các địa phương này đã có nhiều hoạt động bảo vệ môi trường như đã khởi động chiến dịch "Vì thành phố tôi yêu" với hơn 1000 tình nguyện viên trẻ đã đi thu gom rác thải sinh hoạt, rác thải xây dựng; nạo vét mương, sông Kim Ngưu, Tô Lịch (thành phố Hà Nội); sông Ngũ Huyện Khê, sông Tào Khê (tỉnh Bắc Ninh)[76]. Thành đoàn Hà Nội đã tổ chức 14 đội tình nguyện gần 1.000 thanh niên xóa biển quảng cáo trên các địa bàn, tuyên truyền bảo vệ môi trường; trồng trên 25.000 cây xanh các loại tại các khu di tích, các tuyến đường thanh niên tình nguyện, các khu đô thị mới, các trường học trên địa bàn các quận, huyện; ra quân quét vôi 4.500 gốc cây, chân cột điện; tham gia vệ sinh môi trường tại 150 điểm đến về rác thải và thu gom trên 27 tấn rác thải[77]. Tổ chức chiến dịch "Nghĩ xanh - sống xanh", "Hành trình xanh", phát động các cơ sở đoàn để mỗi đoàn viên từ bậc Trung học cơ sở lựa chọn, trồng một cây xanh... Các phong trào này đã kêu gọi xây dựng ý thức công dân về bảo vệ môi trường[78]. Tại Bắc Ninh, vào thứ 7 hàng tuần, thành đoàn Bắc Ninh đã huy động các đoàn viên của mình tham gia thu gom rác thải, quét dọn vệ sinh môi trường trên địa bàn. Trong quá trình tham gia bảo vệ môi trường, các đoàn viên tích cực thu gom rác thải có thể tái chế để bán lấy kinh phí hỗ trợ cho quỹ trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và gia đình khó khăn. Hình thức hoạt động này được nhân dân địa phương đồng tình ủng hộ[79]. Tại tỉnh Hòa Bình, thời gian qua Đoàn thanh niên và Hội Liên hiệp thanh niên đã xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện các phong trào thanh niên như "Chung sức trẻ hành động vì an sinh xã hội" đã được các cấp Hội triển khai thực hiện bám sát mục tiêu đề ra; chủ động phối hợp triển khai lồng ghép với các hoạt động của Đoàn đạt nhiều kết quả. Cụ thể, các cấp Hội đã triển khai hiệu quả các cuộc vận động, chương trình như: "Thanh niên sống đẹp, sống có ích"; "Thanh niên vì an sinh xã hội và bảo vệ môi trường": "Xây dựng, phát triển tổ chức Hội, mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên"... trong đó, đã có 60 hội viên, thanh niên được tuyên dương "Thanh niên làm theo lới Bác - sống đẹp vì cộng đồng"; 9.756 hội viên, thanh niên được tư vấn nghề nghiệp, giới thiệu việc làm, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp và lập nghiệp; kết nạp 816 hội viên mới[80]…
2.1.5. Một số tổ chức xã hội khác tham gia bảo vệ môi trường
Thực tiễn khảo sát cho thấy, bên cạnh các tổ chức chính trị - xã hội vừa nêu, ở một số địa phương, nhất là tại Hà Nội, nhiều tổ chức xã hội, trong đó có các tổ chức phi chính phủ cũng tham gia bảo vệ môi trường khá tích cực. Trong số đó phải kể tới Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Hà Nội và Trung tâm hành động vì sự phát triển đô thị.
Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Hà Nội (gọi tắt là Liên hiệp hội Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 16/QĐ-TCCQ ngày 06/01/1983 của UBND Thành phố Hà Nội là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức Thủ đô. Liên hiệp hội Hà Nội là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hà Nội và là hội thành viên của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam. Liên hiệp hội Hà Nội tổ chức và hoạt động theo quy chế của một đoàn thể quần chúng, được sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và sự chỉ đạo của Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, thời gian qua, Liên hiệp hội Hà Nội và các tổ chức thành viên đã triển khai một số hoạt động bảo vệ môi trường cụ thể như sau: Tuyên truyền phổ biến kiến thức, chính sách pháp luật, nâng cao dân trí, nghĩa vụ quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng về bảo vệ môi trường; Tổ chức các cuộc hội thảo về môi trường; Thực hiện các đề tài khoa học, các đề án và chuyển giao công nghệ về môi trường và xử lý ô nhiễm môi trường ở đô thị và môi trường nông thôn; Tư vấn phản biện và giám định xã hội về xây dựng các văn bản pháp luật, quy chế về bảo vệ môi trường, các đề án, dự án, công trình xử lý chất thải rắn, nước thải. Cụ thể, Hội đã phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố tổ chức Hội thảo khoa học "Cải tạo môi trường nước hồ Hà Nội". Sau Hội thảo, Thành phố đã chấp nhận và giao cho Hội trực tiếp xử lý Hồ Thiền Quang và Hồ Thanh Nhàn bằng công nghệ vi sinh hữu hiệu EM[81]...
Trung tâm hành động vì sự phát triển đô thị (là trung tâm hoạt động phi Chính phủ) được thành lập năm 2006, hoạt động từ nguồn viện trợ của Đại sứ quán AiLen. Mục tiêu của trung tâm là thực hiện các hoạt động truyền thông và các hoạt động cụ thể để góp phần thay đổi nhận thức, hành vi của người dân tại một số cụm dân cư của thành phố Hà Nội về môi trường theo chiều hướng tích cực. Trong thực tế, Trung tâm đã chọn một số phường của Quận Ba Đình, 05 phường của Quận Thanh Xuân, 03 trường học của Quận Cầu Giấy và trường thực nghiệm của Quận Ba Đình làm địa bàn thực hiện các hoạt động của mình. Trung tâm đã liên hệ, huy động Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh hoặc đoàn thanh niên tham gia làm đầu mối để củng tổ chức thực hiện các hoạt động nhằm xây dựng các lối sống xanh, lối sống thân thiện với môi trường.[82] Cụ thể: Đối với các khu dân cư, Trung tâm tư vấn, hỗ trợ kinh phí cho nhân dân dọn dẹp nhà văn hóa nơi sinh sống để nhân dân có nơi vui chơi giải trí, sinh hoạt được thông thoáng và sạch sẽ, chống tái lấn chiếm nhà văn hóa để làm nơi để xe hoặc bán hàng rong... Trung tâm cũng tổ chức nhóm gia đình phổ biến về việc tái sử dụng các vật dụng trong nhà, tiết kiệm điện, rác thải sinh hoạt và sử dụng nước để bảo vệ tốt nhất môi trường sống của cộng đồng. Đối với các trường học, Trung tâm lồng ghép các hoạt động tuyên truyền bảo vệ môi trường cho các em vào các giờ giảng của lớp hoặc tuyên truyền vào sáng thứ 2 đầu tuần nhằm thay đổi hành vi của các em về bảo vệ môi trường bằng hình thức đo lường rác thải tại trường, làm các bài tập, các trò chơi liên quan đến môi trường...
2.2. Vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường thông qua các hình thức hoạt động khác
Ngoài việc phát huy vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ gắn liền với hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội như đã nêu ở trên, thực tiễn khảo sát cho thấy, cộng đồng dân cư cơ sở còn thể hiện vai trò của mình từ nhiều góc độ khác nhau trong công tác bảo vệ môi trường. Các thông tin thu thập được từ khảo sát thực địa và các cuộc tọa đàm tại địa phương cho thấy cộng đồng dân cư cơ sở đóng rất nhiều vai khác nhau trong công tác môi trường. Họ có thể (i) vừa là thủ phạm gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường vừa là nạn nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường; (ii) đồng thời có thể là chủ thể giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường, giám sát việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp ở địa phương.
2.2.1. Thành viên cộng đồng dân cư cơ sở vừa là thủ phạm gây ra ô nhiễm môi trường vừa là nạn nhân của ô nhiễm môi trường
Nguồn gây ô nhiễm môi trường thì có nhiều nhưng theo ý kiến của người dân, cán bộ cấp xã và cấp huyện tại các địa bàn được khảo sát, có 2 nguồn gây ô nhiễm chủ yếu là: (1) chính người dân ở địa phương và doanh nghiệp đóng tại địa phương (tức là chính từ các thành viên cộng đồng dân cư cơ sở) tự gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, (2) nguồn gây ô nhiễm từ hoạt động của doanh nghiệp ở nơi khác mang lại (như sơ đồ biểu diễn dưới đây về tỷ lệ % ý kiến người được phỏng vấn trả lời về nguồn gây ô nhiễm môi trường chủ yếu tại địa phương). Cụ thể, có khoảng trên 64% số người được hỏi cho rằng nguồn gây ô nhiễm môi trường ở địa phương chính là người dân địa phương hoặc doanh nghiệp đang hoạt động ở địa phương[83]. Chỉ có dưới 50% số người được hỏi đề cập tới nguồn gây ô nhiễm môi trường tại địa phương là do doanh nghiệp đóng trên địa bàn khác mang lại (chẳng hạn thông qua hệ thống sông, ngòi).
Biểu đồ 3. Nguồn gây ô nhiễm môi trường
Thêm vào đó, mặc dù có nhiều địa phương, cộng đồng dân cư ở cơ sở đã xây dựng được các hương ước, quy ước và tuyệt đại đa số người được phỏng vấn cho biết (276/291 người trả lời phiếu hỏi - chiếm 94,8%)[84] các hương ước, quy ước đã lồng ghép những quy định xử lý hành vi gây hại cho môi trường và được thông báo trên loa đài, thông báo tại các cuộc họp tuy nhiên đa số các đối tượng được hỏi (221/352 người được hỏi, chiếm 63,6%)[85] cho rằng nhiều cá nhân, tổ chức vẫn chưa chấp hành nghiêm chỉnh, làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường tại cộng đồng dân cư cơ sở vẫn diễn ra phức tạp. Cụ thể:
- Đối với đời sống thường nhật, chính rác thải sinh hoạt của các hộ gia đình, cá nhân sinh sống trên địa bàn là nguồn gây ô nhiễm cho môi trường địa phương. Như đã trình bày ở trên phần tình hình ô nhiễm môi trường, lượng rác thải sinh hoạt của người dân ngày càng tăng lên nhưng việc thu gom, xử lý rác cũng đang có vấn đề. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ người dân chưa thực sự có ý thức tốt trong việc thực hiện quy định xả rác đúng nơi quy định, từ đó gây ô nhiễm cho môi trường sống. Qua tọa đàm, Nhóm nghiên cứu được biết hành vi gây ô nhiễm chủ yếu là xả thải không đúng nơi quy định, không có biện pháp bao bọc rác thải hoặc thu gom rác thải của gia đình để đưa ra điểm tập kết. Các chợ dân sinh cũng là những địa điểm có nhiều vấn đề về môi trường. Không ít người bán hàng thiếu ý thức giữ gìn vệ sinh chung, xả rác thải bừa bãi ở nhiều nơi trong khu vực chợ. Mặc dù vậy, tỷ lệ người dân có ý thức trong việc đổ rác thải đúng giờ và đúng nơi quy định ở các địa bàn được khảo sát đã khá cao. Cụ thể, đối với rác thải sinh hoạt, kết quả phỏng vấn đại diện 575 hộ gia đình ở các địa bàn được khảo sát cho thấy có tới 461/575 người được hỏi (chiếm 80,1%) cho rằng việc thu gom rác thải sinh hoạt tại gia đình được đổ khi có công nhân vệ sinh đến thu gom rác và có 156/575 người được hỏi (chiếm 27%) cho rằng việc đổ rác sinh hoạt của gia đình sẽ được đổ ra nơi mà tổ dân phố/thôn/xóm quy định. Số người dân được hỏi thừa nhận việc tự chôn lấp, đốt rác hoặc xả rác chưa đúng quy định khá nhỏ. Cụ thể, chỉ có 31/575 người được hỏi (chiếm tỷ lệ 5,4%) cho rằng gia đình mình tự thu gom rồi chôn tại vườn nhà. Một số người được phỏng vấn thừa nhận có tự ý đổ rác thải ra sông, rạch hoặc bãi đất hoang gần nhà[86].
- Đối với hoạt động nông nghiệp, cả trong trồng trọt và chăn nuôi đều có hiện tượng người dân gây ô nhiễm môi trường. Thực tế khảo sát cho thấy, đa số ý kiến của các cán bộ xã và huyện tại các cuộc tọa đàm đều cho rằng việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón của nông dân còn mang khá tùy tiện. Các bao gói, chai lọ dựng các loại thuốc bảo vệ thực vật qua sử dụng còn vứt tràn lan ở bờ ruộng, đường đi, vệ đường, mương ngòi ở không ít địa phương được khảo sát. Thậm chí, có cả những lọ thuốc bảo vệ thực vật chưa dùng hết cũng được ném ra đồng ruộng. Thêm vào đó, chính quyền địa phương cũng cho rằng họ chưa kiểm soát được việc sử dụng quá liều, sử dụng những sản phẩm bảo vệ thực vật không rõ nguồn gốc của một bộ phận nông dân. Kết quả xử lý phiếu khảo sát cũng cho thấy có tới 168/235 người dân (ở địa bàn nông thôn) được phỏng vấn (chiếm 71,5%) cho rằng có sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp khi thấy cần thiết; chỉ có 67/235 người dân (ở địa bàn nông thôn) được phỏng vấn (chiếm 28,5%) cho rằng họ rất ít khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù người dân cho rằng việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật là rất cần thiết trong sản xuất, tuy nhiên, có tới 142/227 người dân được phỏng vấn (chiếm 62,6%) cho rằng việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đảm bảo cho sức khỏe của người dân, cho nông phẩm và môi trường sống vì việc sử dụng thuốc chưa đúng hướng dẫn, quy trình; còn lại 21/227 người dân được hỏi chiếm 9,3% không biết tác hại của thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất nông nghiệp[87].
Hoạt động chăn nuôi cũng là nguồn gây ô nhiễm lớn vì ảnh hưởng đến nhiều yếu tố của môi trường, chất thải của vật nuôi nếu không được xử lý và thải trực tiếp ra môi trường sẽ gây ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Ở các địa bàn khảo sát, chẳng hạn tại huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh) và thành phố Bắc Ninh, Nhóm nghiên cứu ghi nhận được những phản ánh về ô nhiễm do chăn nuôi gây ra. Tại huyện Thuận Thành, chất thải của hoạt động chăn nuôi gây bức xúc ở nhiều nơi cho cộng đồng dân cư (nhất là các hộ gia đình láng giềng). Do tập quán chăn nuôi truyền thống, nhiều hộ gia đình ở nông thôn vẫn nuôi gia cầm, lợn, hoặc cả gia súc lớn như trâu, bò trong khu dân cư. Thậm chí không ít hộ gia đình chăn nuôi gia súc, gia cẩm ở quy mô khá lớn cũng vẫn đặt cơ sở chăn nuôi của mình ở trong khu dân cư. Chất thải của vật nuôi không qua xử lý xả thẳng vào cống rãnh của thôn xóm, chảy ra kênh rạch, xả vào đồng ruộng gây ô nhiễm nguồn nước. Hơn nữa, hệ thống thoát nước của nhiều xã thuộc huyện Thuận Thành chưa được bê tông hóa, chưa có nắp đậy dẫn đến mùi xú uế bốc lên và gây mất mỹ quan môi trường. Đặc biệt những ngày mưa gió, lụt lội, chất thải càng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi sinh và đời sống người dân. Ở huyện Thanh Trì (thành phố Hà Nội) và ở một số địa bàn thuộc tỉnh Hòa Bình được khảo sát, tuy hiện tượng ô nhiễm do chăn nuôi được phản ảnh ít bức xúc hơn hơn so với tình hình Nhóm nghiên cứu thu thập được ở tỉnh Bắc Ninh, nhưng việc chăn nuôi trong các gia đình tại khu dân cư gây bức xúc cho người dân xung quanh về mùi hôi, tiếng ồn không phải là không có[88].
- Đối với khu công nghiệp tập trung: Theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, trước khi đi vào sản xuất, các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tập trung phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), có quan trắc môi trường định kỳ, có nơi lưu trữ chất thải rắn, có hệ thống xử lý nước thải, phải ký hợp đồng với các đơn vị chức năng thu gom và xử lý chất thải rắn thông thường và nộp phí bảo vệ môi trường theo quy định. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, nhiều doanh nghiệp vẫn vi phạm các quy định trên. Các hình thức vi phạm chủ yếu được phản ánh gồm: không thực hiện đúng và đầy đủ theo các cam kết trong báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM); không xây dựng hệ thống nước thải hoặc có xây dựng song không vận hành, xả thải trộm nước thải chưa qua xử lý ra môi trường; chưa đăng ký chủ nguồn chất thải nguy hại; không có nơi lưu giữ chất thải nguy hại theo quy định; không có báo cáo quản lý và phát sinh chất thải nguy hại; ký hợp đồng thu gom và xử lý chất thải nguy hại với đơn vị không có chức năng về thu gom và xử lý chất thải nguy hại[89]. Có trường hợp vi phạm đã bị các cơ quan chức năng phát hiện và xử lý. Chẳng hạn, ngày 27/01/2012, lực lượng công an đã phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, chính quyền địa phương kiểm tra Công ty TNHH Bảo Lâm ở Yên Phúc, Biên Giang (Hà Đông) đang hoạt động xi mạ phốt phát kim loại tại 8 bể có dung tích khoảng 3m/hồ nhưng không xây dựng hệ thống xử lý nước thải, không có giấy phép xả thải, không có giấy phép khai thác nước ngầm, sử dụng hóa chất không đúng quy định[90].
- Đối với các cụm công nghiệp, các làng nghề: Hiện nay, tại Bắc Ninh trên 90% các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các cụm công nghiệp, làng nghề tổ chức sản xuất quy mô nhỏ, máy móc tương đối thủ công, số lượng nhân công không nhiều và đặc biệt việc sử dụng các biện pháp xử lý chất thải còn rất hạn chế. Các cụm công nghiệp, làng nghề đều không có đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hoặc cam kết bảo vệ môi trường, không thực hiện việc quan trắc môi trường định kỳ, nước thải chưa qua xử lý thải trực tiếp ra sông hoặc ra mương như Cụm công nghiệp Phong Kê (Thành phố Bắc Ninh), cụm công nghiệp Xuân Lâm (huyện Thuận Thành), làng nghề thép Đa Hội (Thị xã Từ Sơn), làng nghề giấy Phú Lâm (huyện Tiên Du). Tình trạng làng nghề gây ô nhiễm nghiêm trọng, doanh nghiệp ở một số cụm công nghiệp gây ô nhiễm môi trường cũng diễn ra ở cả Hà Nội và Hòa Bình. Thực tiễn khảo sát cho thấy, tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đang diễn ra ở làng nghề Triều Khúc (Tân Triều - Thanh Trì - Hà Nội), khu giết mổ gia súc tại Quận Hoàng Mai (thành phố Hà Nội); Công ty bia Hoà Bình, trạm trộn bê tông nhựa của Công ty đường bộ 222, Công ty chế biến rau, củ quả PASIPIC (tỉnh Hòa Bình)... Điều đáng nói là nước ô nhiễm từ các làng nghề, cụm công nghiệp ở Hà Nội và Hòa Bình được xả thải trực tiếp ra một số con sông quan trọng, tiếp tục tạo ra thêm các vấn đề môi trường cho các Sông Tô Lịch, Sông Nhuệ, Sông Đuống, Sông Đà[91]…
- Đối với lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản, đa dạng sinh học: Nhiều cá nhân, doanh nghiệp tham gia hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản (cát, sỏi, vàng, than, đá...) không chấp hành nghiêm túc quy định của pháp luật về môi trường như không có giấy phép khai thác, khai thác không đúng nơi quy định, không có biện pháp bảo vệ môi trường khi khai thác, không nộp phí khai thác khoáng sản, khai thác bừa bãi với số lượng lớn gây sạt lở bờ sông, bờ kè, làm biến đổi dòng chảy ảnh hưởng đến môi trường sinh thái tại các Sông Đuống, Sông Cầu, Sông Hồng, tại các địa bàn như Lạc Sơn, Kim Bôi, Lương Sơn, Lạc Sơn, Tân Lạc, Mai Châu, Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình, làm mất an toàn lao động và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn... Tình trạng sử dụng mìn, kích điện đánh bắt cá ở lòng hồ Sông Đà, Sông Hồng, Sông Đuống, Sông Cầu vẫn thường xuyên xảy ra, làm hủy diệt hàng loạt nguồn lợi thủy sản[92]...
- Đối với lĩnh vực buôn bán, vận chuyển, tàng trữ lâm sản trái phép: Tình hình giết mổ, buôn bán, vận chuyển, nuôi nhốt động vật hoang dã quý hiếm trái phép vẫn xảy ra nhiều. Động vật hoang dã chủ yếu là rắn hổ mang chúa, rắn hổ mang thường, rắn ráo trâu, tê tê, rùa, hổ... tập trung nhiều ở thị trấn Lim (Tiên Du), Gia Đông (Thuận Thành), Nam Sơn (Thành phố Bắc Ninh), Quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì (Hà Nội) và tỉnh Hòa Bình. Năm 2012, Công an Quận Hoàng Mai đã bắt, thu giữ và đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý vụ buôn bán động vật hoang dã với 05 cá thể tê tê với trọng lượng 12kg, 28 cá thể cầy vòi hương với trọng lượng 87,5kg, 26 cá thể hon với trọng lượng 59,5kg, 35 cá thể tắc kè nặng 2,5kg[93]... Cùng với việc buôn bán trái phép động vật hoang dã thì việc buôn bán vận chuyển gỗ không có nguồn gốc, không có hóa đơn chứng từ (gỗ lậu) cũng diễn biến phức tạp, chủ yếu là gỗ sưa, mun, trắc, hương, gụ, nghiến được vận chuyển từ Lào, Tây Nguyên về các điểm tập kết như Đồng Ky, Đồng Quan, Hương Mạc, Đồng Nguyên, Tam Sơn (thị xã Từ Sơn), Đông Thọ, Văn Môn (huyện Yên Phong), Phù Đồng (Gia Lâm), tỉnh Hoà Bình... Việc khai thác, vận chuyển lâm sản, động vật hoang dã trái phép diễn ra hết sức tinh vi, dưới nhiều thủ đoạn như dùng hóa chất chặt, đốt cho cây chết dần; dùng giấy tờ hợp pháp để vận chuyển quay vòng nhiều lần, vận chuyển nhỏ lẻ... gây khó khăn cho việc kiểm tra, bắt giữ, xử lý của các lực lượng chức năng[94].
- Đối với lĩnh vục y tế: Qua thực tiễn khảo sát, Nhóm nghiên cứu nhận được phản ánh từ phía các cơ quan chức năng rằng nhiều cơ sở y tế khám chữa bệnh (của Nhà nước và tư nhân) có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và an toàn bức xạ như không đăng ký chủ nguồn thải chất thải y tế nguy hại, tự thu gom và tự xử lý chất thải nguy hại không đúng quy định, không có hệ thống xử lý nước thải y tế đạt tiêu chuẩn, rác thải do tráng rửa phim không có hợp đồng với đơn vị có chức năng xử lý; nhân viên chụp X-quang không có chứng chỉ hành nghề gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân và môi trường xung quanh[95].
Có thể khẳng định cộng đồng dân cư cơ sở cũng là nạn nhân trực tiếp của ô nhiễm môi trường tại địa phương nơi họ sinh sống. Cuộc sống của mỗi người dân, của mỗi gia đình, của cộng đồng dân cư gắn chặt với địa bàn nơi họ sinh sống, từ sinh hoạt, học tập, lao động. Những hoạt động sống được diễn ra trong mối tương tác trực tiếp với các yếu tố môi trường từ không khí, nguồn nước, thực phẩm. Nếu những yếu tố này bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm môi trường làm thay đổi chất lượng sống, mang theo tác nhân xấu gây ảnh hưởng tới sinh hoạt của nhân dân. Nguy hại hơn ô nhiễm môi trường có thể gây hại đến sức khỏe của người dân, thậm chí ảnh hưởng đến sức khỏe của các thế hệ sau. Quá trình nghiên cứu, khảo sát tại Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh, Nhóm nghiên cứu nhận được nhiều phản ánh bức xúc của người dân với tư cách là nạn nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường. Chẳng hạn, tại xã Khắc Niệm (thành phố Bắc Ninh), một đồng chí bí thư chi bộ cho biết "Khắc Niệm là xã có làng nghề làm bún và đại đa số dân sống vẫn làm nông nghiệp nhưng có hiện tượng nông sản làm ra một số người dân địa phương không dám sử dụng cho bản thân mà dùng để bán do lo ngại nguồn nước ô nhiễm ảnh hưởng đến nông sản có khả năng ảnh hưởng sức khỏe.” Tại huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh), huyện Thanh Trì (thành phố Hà Nội), thị trấn Kỳ Sơn (thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình), Nhóm nghiên cứu cũng nhận được phản ánh về ảnh hưởng của ô nhiễm các nguồn nước mặt như ao chuôm, sông hồ khi cá chết hàng loạt hoặc cá đánh bắt được khi chế biến có mùi lạ. Tại các tọa đàm, Nhóm nghiên cứu cũng nhận được phản ánh của người dân và các cơ quan chức năng về sự xuất hiện nhiều hơn của các bệnh từ bệnh đơn giản như bệnh ngoài da, bệnh viêm mắt cho đến những bệnh hiểm nghèo như vô sinh, ung thư được cho là hậu quả của tình trạng môi trường bị ô nhiễm. Điều này cho thấy, khi môi trường ô nhiễm, người dân, thành viên của các cộng đồng dân cư hứng chịu trực tiếp các hậu quả không chỉ về kinh tế mà cả về sức khỏe.
2.2.2. Vai trò tham gia bảo vệ môi trường của thành viên cộng đồng dân cư cơ sở
Mỗi người dân của cộng đồng dân cư có thể đóng vai trò là một "thanh tra viên" về môi trường, giám sát việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của cá nhân, tổ chức tại địa phương mình. Người dân, thành viên của cộng đồng dân cư sinh sống tại địa phương có lợi thế là lực lượng đông đảo nhất, có mặt ở khắp mọi nơi, có quyền lợi và cuộc sống gắn chặt với môi trường, môi sinh ở khu vực mình sinh sống nên có khả năng giám sát môi trường khá hiệu quả. Pháp luật hiện hành đề cao, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường tại khu dân cư, theo dõi, giám sát việc tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp trên địa bàn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hầu hết các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh đều phải được lấy ý kiến của người dân địa phương, phải có ý kiến của cơ quan, tổ chức đánh giá về tác động môi trường. Mọi hành vi vi phạm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ảnh hưởng đến môi trường phải được phát hiện kịp thời, tố cáo và lên án. Các cơ quan chức năng của tỉnh và huyện ở những địa bàn được khảo sát[96] đã bước đầu coi trọng vai trò giám sát, phát hiện vi phạm môi trường của cộng đồng dân cư. Cơ quan cảnh sát môi trường nhận định thông tin do quần chúng nhân dân cung cấp thường chính xác và là cơ sở để cảnh sát bắt tay theo dõi, tìm chứng cứ vi phạm của các cá nhân, tổ chức[97]. Tuy nhiên, trong thực tế, vai trò giám sát xã hội của người dân đối với công tác bảo vệ môi trường còn nhiều rào cản để phát huy hiệu quả. Cụ thể:
Thứ nhất, về việc thực hiện yêu cầu bắt buộc phải có ý kiến của đại diện cộng đồng dân cư đối với dự án phải tiến hành đánh giá tác động môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Thực tế khảo sát cho thấy, nhiều địa phương còn chưa thực sự coi trọng việc phát huy vai trò của cộng đồng dân cư trong việc cho ý kiến trong quá trình đánh giá tác động môi trường. Việc lấy ý kiến của đại diện cộng đồng dân cư về những tác động môi trường mà dự án mang lại được tiến hành khá hình thức. Đại diện cộng đồng dân cư đưa ra ý kiến thường là những cá nhân tổ trưởng dân phố, trưởng thôn và không được cung cấp đầy đủ thông tin hoặc không có khả năng đưa ra ý kiến có lợi nhất cho môi trường, cho cộng đồng. Thực tiễn khảo sát của Nhóm nghiên cứu tại Thị trấn Hồ ghi nhận phản ánh của một vị cán bộ ủy ban rằng "đánh giá tác động môi trường thì cấp địa phương chỉ kí vào cho đủ thủ tục do chủ trương từ trên xuống, chúng tôi chỉ tham gia góp ý."[98] Việc lấy ý kiến của đại diện người dân không được tổ chức thành các cuộc họp để dân biết, góp ý, thậm chí nhiều người không biết gì về việc sắp có một dự án được xây dựng tại địa phương.
Thứ hai, việc niêm yết công khai tại địa điểm thực hiện dự án, thông tin về các loại chất thải, công nghệ xử lý, thông số tiêu chuẩn về chất thải, các giải pháp bảo vệ môi trường sau khi dự án được phê duyệt ở cộng đồng dân cư biết, kiểm tra, giám sát cũng chưa được thực hiện nghiêm túc. Đại diện một số xã cho biết, việc niêm yết được thực hiện một lần theo quy định nhưng với thời gian ngắn nên rất ít người dân được tiếp xúc với các bản niêm yết đó. Trong nhiều trường hợp, sau thời hạn niêm yết, các thông tin niêm yết được các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thu lại và không chuyển cho uỷ ban nhân dân xã lưu trữ nên xã nhiều lúc xã không có cơ sở để thanh kiểm tra, cũng như việc cung cấp thông tin cho người dân (nếu như họ có yêu cầu).
Thứ ba, hiện nay hoạt động của các hộ kinh doanh nhỏ lẻ, sản xuất tại làng nghề không cần thực hiện việc đánh giá tác động môi trường mà chỉ phải thực hiện bản cam kết bảo vệ môi trường. Tuy nhiên pháp luật hiện cũng chưa có quy định về việc niêm yết bản cam kết bảo vệ môi trường để người dân biết và chưa quy định quyền giám sát của cộng đồng dân cư đối với việc thực hiện các cam kết của các hộ kinh doanh này.
Như vậy, pháp luật hiện hành ghi nhận vai trò của cộng đồng dân cư trong việc giám sát bảo vệ môi trường nhưng mức độ quy định còn chưa phù hợp. Đối với việc giám sát việc thực hiện các nội dung về bảo vệ môi trường trong đánh giá tác động môi trường của các dự án đã được luật quy định nhưng thực hiện mang tính hình thức, kém hiệu quả.
Ngoài việc tham gia giám sát, người dân trong các cộng đồng dân cư còn có thể tham gia nhiều hình thức hoạt động khác nhau để bảo vệ môi trường từ việc người dân tự mình bảo vệ môi trường, nhắc nhở nhau giữ gìn vệ sinh, kiểm tra giám sát các việc thực hiện bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân, đến phát hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường và đấu tranh chống lại các hành vi gây ô nhiễm. Có thể coi mỗi người dân, mỗi thành viên cộng đồng dân cư cơ sở là một nhân tố bảo vệ môi trường. Từ trong sinh hoạt thường ngày đến hoạt động sản xuất, buôn bán, nếu mỗi người có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, sử dụng tiết kiệm điện, nước, giấy hoặc sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường thì lợi ích mang lại (không chỉ cho chính bản thân người dân mà cả cho cộng đồng) là rất lớn. Tại các địa phương được khảo sát, nhiều người dân khá hăng hái, tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường do địa phương tổ chức. Tại các địa bàn được khảo sát chúng tôi ghi nhận một số cách làm hay của Hội phụ nữ, đoàn thanh niên, người dân như tổ chức trồng nhiều cây xanh nhân dịp các ngày lễ lớn của đất nước; đưa ra các sáng kiến bảo vệ môi trường như hoạt động thu gom, phân loại rác thải của Đoàn thanh niên phường Tiền An, chương trình xử lý rác thải, nước thải bằng công nghệ vi sinh, biến rác thải thành phân vi sinh của tỉnh Đoàn Bắc Ninh; Hội phụ nữ hưởng ứng phong trào cuộc vận động xây dựng Gia đình 5 không 3 sạch; sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ thành việc làm thường xuyên liên tục; Người dân tham gia vào các câu lạc bộ bảo vệ môi trường như mô hình tại thôn An Động, xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du; hoặc Đề án "Tự quản về công tác vệ sinh môi trường tại các khu dân cư" của Phường Tân Thịnh, thành phố Hoà Bình, tỉnh Hòa Bình)[99]. Cụ thể:
- Đoàn thanh niên phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh đã có sáng kiến tổ chức các khu phố phân loại rác. Các đoàn viên chia nhau đến phổ biến cho các hộ dân về cách thức phân loại rác thành rác có thể tái chế và rác không tái chế, kết hợp với việc thu gom các loại rác phế liệu bán lấy tiền gây quỹ "Nâng bước trẻ em nghèo" giúp các em nghèo vượt khó. Cách phân loại rác được các đoàn viên phổ biến tới người dân, theo đó người dân thu gom các rác thải có thể tái chế như chai lọ, nhựa, hộp sắt sau đó một ngày định kỳ trong tuần có đoàn viên đi thu lại đem bán. Người dân nhận thấy đây là hoạt động làm vừa nhằm bảo vệ môi trường vừa có ý nghĩa xã hội nên tích cực hưởng ứng[100].
- Tại xã Khắc Niệm, thành phố Bắc Ninh, hội phụ nữ xã đã có sáng kiến thành lập nhóm tư vấn cộng đồng về công tác bảo vệ môi trường. Nhóm Tư vấn được thành lập nhằm nâng cao nhận thức và sự đóng góp của nhân dân địa phương đối với công tác bảo vệ môi trường. Nhóm Tư vấn có 10 thành viên với mỗi thành viên phụ trách một địa bàn nhất định của xã để tuyên truyền đến mọi người kiến thức về môi trường và cách thức bảo vệ môi trường. Nhóm cũng kết hợp với đài truyền thông xã phát các bài viết về môi trường. Hàng năm nhóm tư vấn đã vận động người dân khơi thông cống rãnh, giữ gìn vệ sinh môi trường và hưởng ứng các phong trào bảo vệ môi trường. Mô hình này đã hoạt động có hiệu quả và nhận được sự ủng hộ của nhân dân và chính quyền xã[101].
- Tại Phường Tân Thịnh, thành phố Hoà Bình, chính quyền phường đã vào thành phố Đà Nẵng học hỏi kinh nghiệm về công tác bảo vệ môi trường. Sau khi tham khảo, nghiên cứu, Uỷ ban nhân dân Phường đã xây dựng Đề án "Tự quản về công tác vệ sinh môi trường tại các khu dân cư" phường Tân Thịnh. Mục tiêu của Đề án là đẩy mạnh việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường; tăng cường công tác quản lý Nhà nước về vệ sinh môi trường gắn với các hoạt động tự quản tại khu dân cư; nâng cao nhận thức và đề cao trách nhiệm của từng cá nhân, gia đình và toàn xã hội trong việc triển khai các hoạt động vệ sinh môi trường một cách bền vững, dựa vào dân và do nhân dân thực hiện; tăng cường sự tham gia, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các ban, ngành đoàn thể và các tầng lớp nhân dân. Đề án được tổ chức thường xuyên trong ngày, trong tuần nhằm hình thành ý thức, thói quen cho mọi người dân giữ gìn vệ sinh môi trường nơi ở, khu dân cư sạch đẹp, thoáng mát. Thành phần Ban chỉ đạo: Phó Chủ tịch Phường (Phụ trách khối kinh tế) làm trưởng ban; Chủ tịch Mặt trận, công chức địa chính, chỉ huy trưởng quân sự làm Phó ban; Các ủy viên đại diện các tổ chức thuộc ủy ban. Nguồn kinh phí thực hiện Đề án được huy động từ 3 nguồn chính, đó là: Nguồn hỗ trợ từ ngân sách Phường, nguồn đóng góp của nhân dân (từ việc thu gom và bán phế thải) và nguồn ủng hộ của các cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp[102].
Một yếu tố quan trọng nữa là cộng đồng dân cư có khả năng huy động sức mạnh tập thể để giải quyết các vấn đề môi trường như đóng góp kinh phí, nhân lực, sáng kiến bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, khi có các vấn đề môi trường như sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường, chính quyền địa phương nếu kêu gọi được sự ủng hộ của cộng đồng thì việc khắc phục hậu quả nhiều khả năng được giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả. Chẳng hạn tại thị trấn Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh), Nhóm nghiên cứu được phản ánh rắng dưới sức ép của cộng đồng dân cư, sự ủng hộ của chính quyền địa phương, hai cơ sở sản xuất giấy và xí nghiệp chăn nuôi trên địa bàn đã được di dời đi nơi khác, qua đó hạn chế ô nhiễm tại địa phương. Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận một thực tế là việc di chuyển hai cơ sở sản xuất từ thị trấn Hồ sang địa phương khác thì hậu quả địa phương tiếp nhận các cơ sở này lại bị ảnh hưởng nên vòng luẩn quẩn về ô nhiễm môi trường chưa được giải quyết triệt để, vẫn gây bức xúc cho người dân, làm ảnh hưởng đến đời sống dân sinh tại địa phương nơi cơ sở sản xuất đặt trụ sở[103]. Đối với khu rác thải Yên Mông với diện tích 23ha thuộc xã Yên Mông, thành phố Hoa Bình, tỉnh Hoa Bình, tuy đã được đầu tư (23 tỷ đồng trong giai đoạn 2007-2009 và đã sẵn sàng tiếp nhận rác thải) và với kỳ vọng sẽ là điểm chôn lấp, xử lý rác thải thay thế cho bãi rác tạm Dốc Búng thuộc phường Tân Hoa, thành phố Hòa Bình nhưng bãi rác mới vẫn đang trong tình
trạng bị bỏ hoang và đang bị xuống cấp do người dân địa phương phản ứng không cho xử lý, chôn lấp. Lý do mà các hộ dân có phản ứng như vậy là vì họ chưa được chủ đầu tư di dời đến khu tái định cư. Hiện tại họ vẫn ở gần khu vực bãi rác không phù hợp với quy định của pháp luật theo đó các hộ dân phải ở cách bãi rác tối thiểu 500m[104].
2.2.3. Phản ứng của cộng đồng dân cư và cách giải quyết của chính quyền địa phương đối với vấn đề ô nhiễm môi trường
Trước thực trạng là nạn nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường, không ít cộng đồng dân cư đã có những phản ứng mang tính chất phòng vệ để yêu cầu chủ thể gây ô nhiễm môi trường hoặc yêu cầu chính quyền các cấp vào cuộc để giải quyết các vấn đề môi trường. Sự phản ứng trở lại của cộng đồng dân cư cơ sở như thể cũng là một cách thức thể hiện vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường.
Thực tiễn khảo sát tại 3 tỉnh, thành phố trong Nghiên cứu này, khi làm việc với các cơ quan có thẩm quyền ở địa bàn được khảo sát, Nhóm nghiên cứu thường được các cơ quan chức năng thông tin rằng trong những năm gần đây, chính quyền các cấp nơi được khảo sát đã có sự quan tâm ngày càng nhiều hơn tới công tác bảo vệ môi trường. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố khảo sát đã chỉ đạo chính quyền các quận, huyện giao cho các cơ quan có thẩm quyền lập kế hoạch và thường xuyên tổ chức kiểm tra định kỳ, đôn đốc nhắc nhở các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường. Các cơ quan chức năng (như Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện, Sở Tài nguyên và Môi trường, lực lượng cảnh sát môi trường) đã quan tâm nắm bắt danh sách các cơ sở sản xuất, kinh doanh có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đóng trên địa bàn, hướng dẫn các cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng trên địa bàn làm bản cam kết bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ môi trường. Mặc dù vậy, tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tại các địa phương vẫn thường xuyên xảy ra. Khi những vụ việc gây ô nhiễm môi trường xảy ra, thông thường người dân sống ở xung quanh khu vực bị ô nhiễm sẽ có những phản ứng nhất định, có những phản ứng hợp pháp, đúng quy định của pháp luật nhưng cũng có những phản ứng mang tính tự phát, thậm chí là quá khích. Tại các buổi toạ đàm, khi trao đổi về những vụ việc gây ô nhiễm môi trường tại địa phương bị người dân lên án và có những phản ứng thì Nhóm nghiên cứu nhận được sự hồi đáp từ phía chính quyền địa phương tương đối khác nhau. Có nơi chỉ rõ các vấn đề bức xúc mà họ gặp phải, những vấn đề nổi cộm và cách thức phản ứng của người dân, ngược lại có những địa phương chưa thật sự cởi mở chia sẻ với Nhóm nghiên cứu về những vấn đề này.
Kết quả xử lý phiếu phỏng vấn đối với 369 người dân ở một số địa bàn được khảo sát cho thấy, có 299/369 người được hỏi chiếm 81% cho rằng họ rất bức xúc về tình hình ô nhiễm môi trường ở địa phương của họ và mong muốn các cá nhân, tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường phải bị cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm khắc; có 91/369 người được hỏi (chiếm 24,7%) cho rằng để phản ứng trước hành vi gây ô nhiễm môi trường của tổ chức, cá nhân có hành vi gây ô nhiễm môi trường, họ sẽ tẩy chay, không mua sản phẩm của các cơ sở sản xuất kinh doanh này. Cũng có một tỷ lệ không lớn (18/369 số người được hỏi chiếm 4,9%) cho rằng họ không quan tâm đến việc ô nhiễm môi trường tại địa phương và cho rằng việc xử lý ô nhiễm môi trường tại địa phương là do trách nhiệm của các cơ quan chức năng của chính quyền[105].
Về hình thức phản ánh hành vi gây ô nhiễm môi trường, có tới 329/349 người dân được hỏi (chiếm 94,3%) cho biết họ đã từng phản ánh, kiến nghị về hành vi gây ô nhiễm với chủ thể gây ô nhiễm hoặc với các cơ quan chức năng thông qua nhiều kênh khác nhau. Cụ thể, có 69,3% số người dân được phỏng vấn cho rằng họ sẽ phản ánh với Tổ trưởng tổ dân phố, với trưởng thôn, trưởng bản. Có 57,4% số người dân được phỏng vấn cho rằng họ sẽ phản ánh trực tiếp với chính quyền địa phương (Ủy ban nhân dân cấp xã). Có 50,5% số người dân được phỏng vấn cho biết họ sẽ phản ánh trực tiếp với chủ thể gây ô nhiễm. Có 48% số người dân được phỏng vấn cho biết họ sẽ phản ánh thông qua các tổ chức chính trị - xã hội mà họ là thành viên. Chỉ có 10,3% số người dân được hỏi trả lời là họ sẽ phản ánh với báo chí, truyền thông, 6,7% số người dân được hỏi trả lời là họ sẽ phản ánh với lực lượng cảnh sát môi trường và chỉ có 2,7% số người dân được hỏi trả lời rằng họ nghĩ tới chuyện khởi kiện ra tòa án.
Hình thức phản ánh ô nhiễm môi trường
Các hình thức phản ảnh
Biểu đồ 4. Hình thức phản ánh ô nhiễm môi trường
Kết quả trên cho thấy, người dân đang có sự tin tưởng khá cao đối với Tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, bản khi phản ánh những vấn đề môi trường với kỳ vọng qua tổ trưởng tổ dân phố, qua trưởng thôn, trưởng bản, vấn đề môi trường sẽ được phản ánh với chính quyền địa phương. Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền cấp xã cũng là những địa chỉ khá tin cậy mà người dân mong muốn phản ánh của mình được ghi nhận và giải quyết. Tuy nhiên, tỷ lệ không cao của việc phản ánh các hành vi gây ô nhiễm đến cơ quan báo chí hoặc cảnh sát môi trường có lẽ thể hiện tình trạng người dân khó tiếp cận với các cơ quan này hoặc chưa có thói quen phản ánh ô nhiễm môi trường trực tiếp đến các cơ quan, tổ chức, thiết chế này. Hình thức khởi kiện ra tòa án hầu như chưa được người dân nghĩ đến khi họ vướng vào các tranh chấp môi trường. Nguyên nhân của tình trạng này theo chúng tôi quan sát có lẽ xuất phát từ việc nhân dân còn tâm lý ngại chốn pháp đình hoặc không biết mình có quyền khởi kiện ra tòa, không biết cách thức khởi kiện ra tòa.
Theo lực lượng cảnh sát môi trường và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh, Hòa Bình và Thành phố Hà Nội, thực tế, họ vẫn chưa huy động được đông đảo các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, tổ chức, các ban ngành và các cấp chính quyền tham gia tích cực vào công tác bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy đa số các vụ vi phạm pháp luật về môi trường đều do lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường trực tiếp phát hiện hoặc do Sở Tài nguyên và Môi trường qua thanh tra và kiểm tra phát hiện. Cơ quan này đánh giá số vụ vi phạm pháp luật về môi trường do quần chúng nhân dân phát hiện cung cấp chưa nhiều[106].
Về cách thức, biện pháp xử lý các phản ánh, kiến nghị của người dân về hành vi gây ô nhiễm môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn: Kết quả phỏng vấn đối với cán bộ chính quyền cấp xã, huyện cho thấy khi nhận được phản ánh, kiến nghị của người dân về hành vi gây ô nhiễm môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn có 228/383 người được hỏi (chiếm 59,5%) cho rằng chính quyền sẽ tổ chức trao đổi, đối thoại, hoà giải giữa người dân với các cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm; 11,2% số người được phỏng vấn (43/383) cho biết khi nhận được phản ánh, kiến nghị của người dân,
có thể chính quyền sẽ thông báo và cung cấp cho cơ quan báo chí để cơ quan ngôn luận can thiệp; Có 219/383 người được hỏi (chiếm 57,2%) cho rằng chính quyền địa phương sẽ báo cáo, kiến nghị với cơ quan cấp trên trong trường hợp các vụ vi phạm môi trường vượt quá thẩm quyền giải quyết của mình[107]. Có 93/209 cán bộ cấp xã được phỏng vấn (chiếm 44,5%) cho biết khi nhận được phản ánh, kiến nghị của người dân về hành vi gây ô nhiễm môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, chính quyền xã sẽ gửi yêu cầu thông báo chấm dứt hành vi gây ô nhiễm tới các cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm, yêu cầu cơ sở sản xuất, kinh doanh xem xét cải tiến, thay đổi kỹ thuật. Chỉ sau khi cơ sở sản xuất, kinh doanh tiếp tục vi phạm thì chính quyền cấp xã mới đề nghị cơ sở sản xuất, kinh doanh yêu cầu dừng hoạt động[108].
Về hiệu quả giải quyết các đơn thu, khiếu nại của người dân về hành vi gây ô nhiễm môi trường, kết quả khảo sát cho thấy: Chỉ có 70/411 cán bộ cấp xã được phỏng vấn (chiếm 17%) cho rằng việc giải quyết các vụ việc vi phạm môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh do người dân phản ánh, kiến nghị được giải quyết triệt để trong khi có tới 339/411 người được hỏi (chiếm 82,5%) cho rằng các vụ việc được giải quyết nhưng không triệt để. Cũng có 2/411 người được phỏng vấn (chiếm 0,5%) cho rằng các vụ việc không được giải quyết vì nhiều vụ việc vượt quá thẩm quyền giải quyết hoặc có trường hợp đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan nhất là vấn đề đào đãi vàng trái phép ở các mỏ vàng tại tỉnh Hòa Bình[109]. Đánh giá về hiệu quả xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo về hành vi gây ô nhiễm môi trường kể trên cũng khá phù hợp với kết quả phỏng vấn người dân về nội dung tương tự. Cụ thể, có tới 91/315 người dân được phỏng vấn (chiếm 28,9%) cho rằng chính địa phương giải quyết các phản ánh, kiến nghị của người dân về hành vi gây ô nhiễm môi trường kịp thời, thoả đáng và có 138/315 người được hỏi chiếm 43,8% cho rằng chính quyền địa phương giải quyết các phản ánh, kiến nghị của người dân về hành vi gây ô nhiễm môi trường kịp thời nhưng chưa thỏa đáng[110]. Như vậy, qua kết quả trên, chúng ta có thể nhận thấy trong số các vụ việc vi phạm môi trường tại các tỉnh, thành phố được khảo sát thì nhiều vụ việc giải quyết còn mang tính nửa vời, không triệt để, gây bức xúc cho người dân tại các địa phương đó.
Nhận định của cán bộ cấp xã, huyện Nhận định của người dân
Biểu đồ 5. Đánh giá của cán bộ về hiệu quả giải quyết đơn thư, khiếu nại về môi trường
Biểu đồ 6. Đánh giá của người dân về hiệu quả giải quyết đơn thư, khiếu nại về môi trường
Sau đây là một số vụ việc điển hình mà Nhóm nghiên cứu đã thu thập được tại các địa phương phản ánh cách phản ứng của người dân đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường ở địa phương và cách tiếp nhận, xử lý của chính quyền các cấp:
(1) Từ cuối năm 2009, Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội ký hợp đồng cho Công ty Hoàng Kim thuê hơn 3ha đất ở khu vực xã Thạch Đà (huyện Mê Linh, Hà Nội). Khu đất này là nơi cung cấp nước tưới tiêu cho người dân địa phương canh tác. Sau khi thuê đất, công ty đã san lấp mặt bằng và xây dựng lò gạch. Thời điểm đó, người dân địa phương đã phản đối vì sợ quá trình đốt gạch sẽ làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Lúc đó, công ty cho biết sẽ đốt gạch bằng điện nên không ô nhiễm môi trường. Nhưng thực tế thì sau khi đi vào hoạt động, công ty đã sử dụng than để đốt gạch chứ không phải điện. Điều đó đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho cư dân địa phương. Sau nhiều lần người dân địa phương kiến nghị, UBND huyện Mê Linh đã có văn bản trả lời cho các hộ dân và khẳng định sẽ báo cáo sự việc này với thành phố để giải quyết theo quy định. Chính quyền xã Thạch Đà cũng cho rằng việc người dân địa phương phản ánh về việc Công ty Hoàng Kim đốt gạch bằng than gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến cuộc sống và gây thiệt hại cho người dân là có cơ sở. Ngoài ra, kể từ khi hoạt động đến nay, công ty cũng chưa xây hệ thống cổng thoát nước như cam kết trước đó nên ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống tưới tiêu và thoát nước ở khu vực này. Thực tế, UBND xã Thạch Đà đã nhiều lần yêu cầu công ty có biện pháp khắc phục hậu quả như kiến nghị của người dân địa phương nhưng phía công ty không hợp tác thực hiện[111].
(2) Gần 10 năm nay, hàng ngàn người dân xã Cự Khê (huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội) liên tục kêu than về những làn khí độc ngày đêm bủa vây nhà cửa, làng mạc của họ phát ra từ hai cơ sở sản xuất, tái chế nhựa Đồng Thành và Quang Quân. Theo ông Phạm Văn Giáp, trưởng thôn Cầu, xã Cự Khê, "các cơ sở này xả khí thải gây ô nhiễm môi trường là rất nghiêm trọng. Gần 10 năm nay, ở làng Khê Tang, số người già và trung niên bị mắc ung thư, trẻ nhỏ thì bị các bệnh đường hô hấp ngày một tăng. Chúng tôi đã kiến nghị nhiều lần lên các buổi họp HĐND, UBND xã và huyện, nhưng không hiểu tại sao tình trạng ô nhiễm không những không giảm mà ngày một tăng lên". Ông Đặng Anh Phương, Phó Chủ tịch UBND xã Cự Khê cũng cho rằng: "Các cơ sở sản xuất, tái chế nhựa gây ô nhiễm và đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của nhân dân Khê Tang với mùi hôi rất khó chịu. Trong các kỳ họp của xã với lãnh đạo UBND huyện, UBND xã đều có ý kiến, nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn không giảm. Cái khó của xã ở đây là do các cơ sở nằm trên địa bàn xã Bích Hòa, nhưng khí thải phát ra thì lại ảnh hưởng đến nhân dân Cự Khê. Chính quyền xã mong cơ quan chức năng vào cuộc mạnh mẽ để giải quyết dứt điểm tình trạng này." Trong khi nhân dân và chính quyền xã Cự Khê đang rất bức xúc về chuyện ô nhiễm môi trường không khí do hoạt động nấu nhựa gây ra, thì UBND huyện Thanh Oai lại có văn bản khẳng định cả hai cơ sở trên đều tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường (văn bản số 96/UBND-TNMT ngày 26/2/2013 do ông Lê Tuấn Anh, Phó Chủ tịch UBND huyện Thanh Oai ký). Cụ thể, văn bản kể trên khẳng định cơ sở sản xuất nhựa Đồng Thành "qua kiểm tra và báo cáo của chủ cơ sở sản xuất thì trong quá trình hoạt động, cơ sở đã thực hiện nghiêm túc các giải pháp bảo vệ môi trường và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường phê duyệt báo cáo giải pháp bảo vệ môi trường...; đồng thời đã thực hiện chương trình giám sát môi trường". Còn đối với cơ sở Quang Quân, văn bản kể trên cũng cho biết cơ sở này "đã thực hiện đầy đủ việc đăng ký đề án bảo vệ môi trường và đã đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại... Đồng thời cơ sở cũng thực hiện chương trình giám sát môi trường đầy đủ."[112]
(3) Nhà máy chế biến quặng đá kim loại của Công ty trách nhiệm hữu hạn khai thác khoáng sản Hòa Bình HTH được Uỷ ban nhân dân tỉnh Hoa Bình cấp phép đầu tư xây dựng từ năm 2007, địa điểm tại xóm Rụt, xã Tân Vinh, huyện Lương Sơn. Sau khi được cấp phép, Công ty đã triển khai xây dựng và bắt đầu đi vào vận hành thử nghiệm hoạt động của dây chuyền, máy móc tuyển quặng từ năm 2009. Tuy nhiên đến tháng 9/2011, nhà máy buộc phải dừng hoạt động vì sự cố tràn nước thải ra bên ngoài môi trường xung quanh, gây chết cá trước ao của Công ty. Nguồn nước ngầm của người dân khu vực bị ảnh hưởng nên người dân phải mua nước sạch về dùng. Trước thực trạng đó, Sở Tài nguyên và môi trường và Công ty phân tích môi trường đã đến địa bàn lấy mẫu nước, đất để phân tích đánh giá làm cơ sở kết luận. Theo đó, chỉ tiêu về Asen được lấy trong bùn tại ao và khu vực để vỏ đựng hóa chất mà Công ty được phép sử dụng vượt quá giới hạn cho phép khoảng 30 lần. Ngoài ra, Công ty cũng đã vi phạm trong việc đưa công trình vào vận hành chạy thử nghiệm khi chưa được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra. Do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hòa Bình đã đình chỉ hoạt động của Công ty và yêu cầu khắc phục hậu quả và hoàn thiện quy trình vận hành thử nghiệm dây chuyền tuyển quặng và các hạng mục xử lý môi trường theo quy định thì mới được vận hành tiếp[113].
(4) Tại xã Mỵ Hòa (Kim Bôi, Hòa Bình) đang diễn ra tình trạng khai thác vàng sa khoáng trái phép. Những người khai thác vàng đã đưa hàng chục thiết bị máy móc đến để đào đất, khai thác vàng. Họ đào sâu hơn mười mét để tìm vàng, làm thay đổi môi trường sinh thái, ô nhiễm nguồn nước, gây bức xúc cho người dân địa phương. Từ năm 2008 đến nay, những người khai thác vàng khai thác ở các thôn Cành, Đồng Hòa II, Ba Giang. Khi đầu họ khai thác ở các gò đồi ven sông và sát núi đá nhưng sau đó họ thuê cả máy xúc và một số công cụ hiện đại về khai thác vàng. Ông Bùi Văn Tét, Trưởng thôn Cành, xã Mỵ Hòa cho rằng thôn Cành chủ yếu sống dựa vào những đồi ngô và nếu chính quyền xã và chính quyền huyện không kịp thời ngăn chặn được tình trạng khai thác vàng ở trên thì 36 ha đất trồng ngô của thôn chẳng mấy sẽ biến thành những cái hố lớn (hiện khoảng 10ha đất ở đây đã bị xâm hại như vậy). Từ khi những người khai thác vàng chuyển sang khai thác cả ở đất trồng ngô đã xảy ra nhiều cuộc tranh cãi mất đoàn kết trong dân. Từ năm 2008, người dân bức xúc nhưng không biết kêu ai vì nhiều lần báo lên UBND xã thì chính quyền xã đến lập biên bản thu tiền phạt xong những người khai thác vàng lại tiếp tục khai thác và chỉ tạm dừng khai thác khi chính quyền xã, huyện về kiểm tra. Ông Bạch Văn Tiền (thôn Cành có một phần đất ngô bị người ta khai thác vàng) cho rằng do những người khai thác vàng cũng là người ở làng nên gia đình ông có phản đối cũng không được, nhất là khi việc khai thác được tiến hành trộm vào ban đêm. Phó Chủ tịch UBND xã Mỵ Hòa Bùi Văn Thiệng cho biết: Quan điểm của chính quyền xã là nghiêm cấm việc khai thác vàng và UBND xã đã nhiều lần phối hợp với UBND huyện Kim Bôi lập tổ công tác kiểm tra bất thường để xử lý những trường hợp vi phạm. Đến nay, xã đã xử phạt hành chính một số trường hợp với các hình thức xử lý như tạm thu các phương tiện khai thác vàng và phạt hai triệu đồng... Tuy nhiên, theo ông Thiệng, mức xử phạt cao nhất thuộc thẩm quyền của xã chỉ là vài triệu đồng là không đủ sức răn đe. Còn các phương tiện khai thác vàng đều là các máy cỡ lớn, nên chính quyền xã chỉ yêu cầu những đối tượng vi phạm tạm dừng hoạt động chứ không thể tháo dỡ mang đi được. Theo Sở Tài nguyên và Môi trường Hòa Bình do UBND tỉnh chưa cấp một giấy phép khai thác vàng nào cho bất kỳ một đơn vị, địa phương nên việc khai thác vàng sa khoáng ở Kim Bôi là trái phép. Trong thời gian tới, Sở sẽ phối hợp với chính quyền địa phương xem xét, xử lý dứt điểm tình trạng này mặc dù việc xử lý dứt điểm sẽ rất khó khi dân khai thác chủ yếu là người địa phương. Việc khai thác vàng bừa bãi ở Kim Bôi đã diễn ra nhiều năm nay dẫn đến thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp; phá vỡ dòng chảy và gây ô nhiễm sông Bôi do sử dụng hóa chất cực độc như thủy ngân để thau rửa, chế biến vàng. Hậu quả là từ khi người dân khai thác vàng rồi xả các chất độc ra sông nên trâu, bò chết nhiều, thi thoảng lại có con trâu hoặc con bò chết mà người dân không biết chết vì bệnh gì[114].
(5) Qua kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực tế của Sở Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ra quyết định xử lí tình trạng vi phạm qui định về đun đốt gạch ngói thủ công ở các xã Đình Tổ, Đại Đồng Thành và Song Hồ (huyện Thuận Thành). Tuy vậy, một số chủ lò gạch cố tình không chấp hành quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và vẫn tiếp tục có hành vi vi phạm, gây hậu quả tiêu cực đối với đời sống và môi trường sản xuất của nhân dân địa phương. Theo quyết định này, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh yêu cầu Chủ tịch UBND huyện Thuận Thành xử phạt hành chính ở mức cao nhất đối với các chủ lò vi phạm, đình chỉ công tác của Chủ tịch UBND các xã để xảy ra tình trạng vi phạm và chuyển hồ sơ đề nghị cơ quan Đảng xem xét, xử lí theo điều lệ Đảng. Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị đồng chí Bí thư Huyện ủy huyện Thuận Thành chỉ đạo, giải quyết dứt điểm các vụ vi phạm, các cán bộ có liên quan dẫn đến tình trạng vi phạm nghiêm trọng và kéo dài này. Từ vụ việc sai phạm về đun đốt gạch ngói thủ công ở huyện Thuận Thành, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh cũng giao nhiệm vụ cho ngành Công an, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố tiến hành ngay công tác kiểm tra, đôn đốc xử lí, giải quyết những vụ việc vi phạm ở các địa phương khác, hạn chế những tác hại đối với đời sống và môi trường sản xuất hiện tại và trong thời gian tới, đồng thời công khai hoá trên các phương tiện thông tin đại chúng để quần chúng nhân dân được biết[115].
(6) Tỉnh Bắc Ninh có 3 khu công nghiệp tập trung Quế Võ, Tiền Sơn, Đại Đồng - Hoàn Sơn, 9 cụm công nghiệp làng nghề và 62 làng nghề truyền thống. Nhiều làng nghề nổi tiếng cả nước như thêu Đa Hội (Châu Khê), mộc Đồng Kị (Đồng Quang), giấy Phong Khê, nhôm Văn Môn (Yên Phong), đồng Đại Bác, gốm Phù Lãng v.v... Mỗi năm, doanh thu sản xuất công nghiệp ở các làng nghề truyền thống ở tỉnh Bắc Ninh đạt trên 2.000 tỷ đồng, tạo công ăn việc làm cho trên 20 nghìn lao động ở địa phương và các tỉnh lân cận. Sản xuất công nghiệp ở các làng nghề phát triển mạnh, song việc các làng nghề chưa quan tâm đến đời sống của người lao động với những vấn đề cơ bản là: cha có chế độ bảo hộ lao động, chưa có chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thân thể. Trong tổng số 1.092 doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn toàn tỉnh mới chỉ có khoản dưới 10% doanh nghiệp tham gia bảo hiểm tài sản, bảo hiểm xây dựng, bảo hiểm cháy nổ. Trên 90% doanh nghiệp cố ý thờ ơ đến công tác bảo hiểm. Qua điều tra ở làng thép Đa Hội và làng giấy Phong Khê, trên 90% doanh nghiệp của các làng nghề là mua sắm thiết bị máy móc công nghệ của Trung Quốc (giá trị thấp, hoặc mua thiết bị, vật tư phế liệu và tự lắp ráp, giá thành rẻ, từ đó sự cố kỹ thuật xảy ra là điều khó tránh khỏi). Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh đã đến mức báo động cao, điển hình như ở làng nghề sắt thép Đa Hội (Châu Khê) các lò nung sắt thép nhiệt lượng cao hoạt động suốt ngày đêm, lượng khí thải CO2, SO4,... làm cho bầu không khí đến mức nghẹt thở vì khí độc, lượng nước thải công nghiệp, phế thải công nghiệp, xi than, xi sắt thép, đổ dồn cả ra ao, hồ, sông nguồn... làm cho các loại thủy sinh bị tiêu diệt vì lượng độc tố cao. Nguồn nước sinh hoạt của nhân dân địa phương đang bị ô nhiễm nặng... Các làng nghề khác như đúc nhôm Văn Môn, Quãng Bố, đúc đồng Đại Bái cũng tương tự vì còn ô nhiễm nặng bởi khí độc Silic, lưu huỳnh, suyn phát nhôm, cácbonic v.v. làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người lao động trong các doanh nghiệp và nhân dân trong vùng. Những căn bệnh về thận, đường hô hấp, tim mạch và cả bệnh ung thư... đã và đang xuất hiện trực tiếp đối với người lao động tại các doanh nghiệp và nhân dân tại các làng nghề trong tỉnh, đe doạ tính mạng của người lao động và người dân làng nghề. Tuy nhiên, các giải pháp của tỉnh đưa ra về công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề vẫn chỉ mang tính chất tuyên truyền vì điều kiện sản xuất của các làng nghề vẫn mang tính chất thủ công hoặc nếu đầu tư trang thiết bị thì chủ yếu nhập từ Trung Quốc, do đó, tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề đang được cảnh báo ở mức độ nghiêm trọng từ ô nhiễm không khí, nước, đất, chất thải rắn, chất thải sinh hoạt... làm ảnh hưởng đến sức khỏe người dân tại các làng nghề[116].
2.3. Thực trạng ý thức của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường
Thực tiễn khảo sát tại các địa bàn tại Hoà Bình, Hà Nội và Bắc Ninh cho thấy, trong những năm qua, với sự quan tâm ngày càng cao hơn của các cấp chính quyền đối với công tác bảo vệ môi trường, sự vào cuộc khá tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư cơ sở đã có những bước chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Những mô hình huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường ở Bắc Ninh, Hà Nội và Hòa Bình mà phần trên của báo cáo đã mô tả sẽ khó bền vững nếu không đi kèm với mặt bằng nhận thức phù hợp về tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường. Kết quả khảo sát đối tượng là cán bộ cấp xã, huyện thì có tới 347/383 người được hỏi (chiếm 90,6%) cho rằng địa phương đã tổ chức các phong trào giữ gìn môi trường trong lành, sạch đẹp. Kết quả phỏng vấn 350 người dân ở các địa bàn được khảo sát cho thấy có 347/350 người được hỏi (chiếm 99,1%) cho biết chính quyền địa phương đã tổ chức các hoạt động bảo vệ môi trường như tổ chức dọn dẹp vệ sinh tại khu dân cư, khơi thông hệ thống thoát nước, các cuộc thi tìm hiểu kiến thức môi trường, tuyên tuyền về việc sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường... Trong đó, có 289/329 người được phỏng vấn (chiểm 87,8%) cho rằng người dân hưởng ứng tham gia một cách tích cực các hoạt động kể trên. Bản thân việc một số cộng đồng dân cư đã lên tiếng phản ánh, tố cáo, khiếu nại các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường với chính chủ thể có hành vi gây ô nhiễm, với các tổ chức đoàn thể, với chính quyền sở tại cũng cho thấy sự quan tâm của cộng đồng dân cư cơ sở đối với công tác bảo vệ môi trường. Điều đó cũng là bằng chứng phản ánh rằng ý thức bảo vệ môi trường của người dân đang có bước chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nhất là khi việc bảo vệ môi trường gắn với quyền lợi thiết thân của những thành viên trong cộng đồng dân cư.
Mặc dù vậy, theo đánh giá của bản thân các cán bộ trong chính quyền cấp cơ sở, chính quyền cấp huyện và một số lực lượng chức năng về bảo vệ môi trường tại các cuộc toạ đàm trong quá trình thực hiện nghiên cứu này cũng như từ kết quả phỏng vấn người dân và các đối tượng có liên quan, có thể thấy, ý thức của người dân ở trong các cộng đồng dân cư cơ sở cũng còn những điểm hạn chế cụ thể như sau:
Một là, nhận thức về vai trò, trách nhiệm của người dân, cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường còn có sự thiên lệch. Tại các cuộc khảo sát và tọa đàm, Nhóm nghiên cứu nhận thấy đa số người dân tham gia tọa đàm và chính quyền cấp cơ sở có thiên hướng nhấn mạnh vai trò "nạn nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường" chứ chưa coi trọng thoả đáng tới vai trò "chủ thể gây ra ô nhiễm" của cộng đồng dân cư cơ sở được khảo sát. Ở một số địa phương được khảo sát, vẫn còn có người dân coi việc xả rác bừa bãi, xả nước thải bừa bãi, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong canh tác chưa phải là hành vi gây ô nhiễm môi trường cần được khắc phục và xử lý. Với nhiều người dân, việc xả thải nước sinh hoạt ra môi trường mà không cần xử lý chỉ được xem như những hành vi bình thường, truyền thống, bao nhiều đời nay vẫn vậy, chứ không được xem như một loại hành vi trực tiếp gây hại cho môi trường và do đó đáng lẽ ra người dân xả thải cũng phải có trách nhiệm chịu phí tồn cho việc xử lý nước thải sinh hoạt. Ở nhiều địa phương, tuy mức phí vệ sinh môi trường khá thấp (khoảng 3.000 đến 5000 đồng/1 người/1 tháng hoặc 15 ngàn đồng/1 hộ gia đình/1 tháng, với mức phí này, tổng phí thu được chỉ đủ trang trải khoảng 15 đến 20% chi phí thực tế để tiến hành công việc thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt) nhưng nhiều hộ gia đình vẫn không muốn đóng phí và hầu hết các hộ gia đình đều cho rằng việc tăng phí vệ sinh môi trường lên cao hơn mức hiện tại sẽ tạo ra phản ứng tiêu cực từ phía người dân. Thêm vào đó, nhiều người dân và cán bộ cấp xã còn cho rằng, việc xử lý các vấn đề môi trường tại địa phương là việc của ngành tài nguyên và môi trường cấp trên hoặc là việc của cơ quan nhà nước cấp trên chứ không phải là trách nhiệm của chính cộng đồng dân cư, của chính những chủ thể đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, trách nhiệm tham gia bảo vệ môi trường của một bộ phận dân chúng nên khi do điều kiện khách quan hoặc do nguồn lực của chính quyền cơ sở hạn chế, chưa đủ sức xử lý kịp thời các điểm nóng về ô nhiễm môi trường (quá tải tại bãi rác thải, ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, nguồn nước sản xuất...), người dân có tâm lý kêu ca, quy trách nhiệm hết cho chính quyền cơ sở mà không chủ động, phối hợp khắc phục[117].
Hai là, vẫn còn tình trạng một bộ phận người dân chưa có ý thức cao trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Khi được hỏi về đánh giá của bản thân về ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư nơi sinh sống, có 272/361 người được hỏi chiếm 75,3% cho rằng ý thức của cộng đồng dân cư nơi mình sinh sống chưa tốt trong khi chỉ có 84/361 người được hỏi chiếm 23,3% đánh giá ý thức tốt[118]. Sự thiếu ý thức hoặc ý thức thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường chưa cao được bộc lộ trực tiếp thông qua các hành vi xả rác bừa bãi, cố tình vi phạm pháp luật, lẩn tránh các cơ quan chức năng, che dấu hành vi vi phạm pháp luật; không tham gia dọn vệ sinh cùng cộng đồng, không tuân thủ việc đóng tiền phí vệ sinh, phí nước thải,... Khảo sát thực địa cho thấy, tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, chưa có ý thức thu gom, xử lý các loại bao bì, chai lọ thuốc bảo vệ thực vật ở một số địa bản sản xuất nông nghiệp thuộc 3 tỉnh, thành phố được khảo sát đều diễn ra. Tình trạng xả thải rác bừa bãi, đồ rác thải, phế thải (nhất là vật liệu xây dựng) cũng diễn ra ở không ít đường làng, ngõ xóm, khu phố mà Nhóm nghiên cứu đã khảo sát thực địa tại Phường Mai Động, Lĩnh Nam (Quận Hoàng Mai), xã Tân Triều, Đông Mỹ (huyện Thanh Trì) của TP. Hà Nội; Thị trấn Hồ TP. Bắc Ninh), xã An Bình, Khắc Niệm (huyện Thuận Thành) của tỉnh Bắc Ninh và Phường Tân Thịnh, Thái Bình (TP. Hoà Bình), xã Mông Hoa, thị trấn Kỳ Sơn (huyện Kỳ Sơn) của tỉnh Hoà Bình[119]. Ở nhiều địa bàn được khảo sát đã xuất hiện tình trạng có các bãi rác tự phát, không đảm bảo quy định về môi trường như bãi rác thải Đồng Ngo (tỉnh Bắc Ninh), bãi rác thải Dốc Búng, Yên Mông (tỉnh Hòa Bình) và các điểm đổ rác thải rắn tự phát dọc theo đê sông Hồng, cầu Thanh Trì (TP. Hà Nội), sông Đà (tỉnh Hoà Bình)... Không ít người dân còn duy trì thói quen sinh hoạt chưa hợp vệ sinh (vứt rác bừa bãi, khạc nhổ, hút thuốc cũng như vứt mẩu thuốc lá nơi công cộng, nước sinh hoạt...). Một số người dân do di chuyển từ nông thôn ra thành phố tạm trú, cư trú tại thành phố để làm ăn, sinh sống nhưng vẫn chưa bỏ được thói quen, sinh hoạt tùy tiện. Một số nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp mang tính tự phát, tự mày mò sử dụng mà không có hướng dẫn cụ thể của các khuyến nông, các hợp tác xã nên dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm nông nghiệp còn cao làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sản xuất và người tiêu dùng, gây bức xúc trong nhân dân. Nguyên nhân của tình trạng người dân ở một số nơi chưa quan tâm đầy đủ đến công tác bảo vệ môi trường có một phần là do nhiều người dân mải dành nhiều thời gian cho vấn đề mưu sinh, chăm sóc gia đình, con cái thay vì tham gia thực hiện các công việc bảo vệ môi trường chung của cộng đồng. Thêm vào đó, ý thức bảo vệ môi trường chưa cao của một bộ phận người dân còn thể hiện ở thực tế một bộ phận người dân chỉ quan tâm giữ gìn vệ sinh sạch sẽ trong nhà mình nhưng không quan tâm và không có ý thức giữ gìn vệ sinh chung. Hiện tượng này được phản ánh ở nhiều địa phương, biểu hiện như việc ném rác sang nhà hàng xóm, xả thải ra nơi công cộng hoặc một số hộ trồng rau còn trồng những luống rau riêng cho gia đình sử dụng không phun thuốc hoặc phun thuốc theo hướng dẫn, còn các luống rau để bán thì lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật. Đây là một thói quen xấu cần được lên án và loại bỏ, có lẽ những người hành xử như vậy cho rằng mình chỉ có trách nhiệm giữ gìn nhà mình sạch sẽ, bảo vệ sức khỏe riêng cho thành viên của gia đình mình còn việc bảo vệ môi trường chung là việc của người khác, của chính quyền, của xã hội. Những hành vi như vậy còn thể hiện tính ích kỷ, hẹp hòi và thiếu trách nhiệm đối với sức khỏe của mọi người[120].
Ba là, ý thức chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường tại nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa cao. Điều đó thể hiện ở tình trạng các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong cộng đồng dân cư hoặc ở ngay sát địa bàn sinh sống của cộng đồng dân cư cơ sở nhưng chưa thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống xử lý môi trường theo cam kết, không thực hiện đầy đủ các cam kết của báo cáo đánh giá tác động môi trường. Một số cơ sở nằm trong khu, cụm công nghiệp tập trung do ỷ lại việc xử lý nước thải cho Ban quản lý khu, cụm công nghiệp nên cũng không quan tâm thoả đáng tới công tác bảo vệ môi trường. Tình trạng các làng nghề xả nước thải, rác thải chưa qua xử lý trực tiếp ra sông hoặc ra mương diễn ra ở nhiều nơi như ở Cụm công nghiệp Phong Khê (TP. Bắc Ninh); cụm công nghiệp Xuân Lâm (huyện Thuận Thành); làng thép Đa Hội, Châu Khê (Thị xã Từ Sơn); làng nghề giấy Phú Lâm (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)[121]. Các cơ sở sản xuất giấy ở Mai Châu, Đà Bắc, thành phố Hoà Bình; sản xuất xi măng ở Lương Sơn, Yên Thủy; các nhà máy chế biến tinh bột sắn ở Lạc Sơn, Tân Lạc[122] cũng đều có dấu hiệu chưa tuân thủ đúng các yêu cầu bảo vệ môi trường trong Luật Bảo vệ môi trường. Ngoài rác thải sinh hoạt, tình trạng đổ rác thải nguy hại ở Đa Hội, Châu Khê (thị xã Từ Sơn - tỉnh Bắc Ninh) cũng rất đáng báo động vì khi chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh mua các trang thiết bị về để tái chế thành sắt xây dựng, sắt dân dụng thì những rác thải, hoá chất liên quan (dầu, mỡ, chất độc hại...) được tách ra và đồ ra bãi rác thải sinh hoạt chung của người dân (vì các địa phương này không có bãi rác thải nguy hại riêng).
Bốn là, đa số người dân chưa coi tố tụng là một phương thức hiệu quả để giải quyết các vấn đề về môi trường của địa phương. Mặc dù ở nhiều địa bàn được khảo sát người dân khá bức xúc với tình trạng ô nhiễm môi trường tại cộng đồng dân cư mình sinh sống nhưng trong số 349 người dân được phỏng vấn, chỉ 2,7% số người được phỏng vấn này cho rằng họ nghĩ tới khả năng sẽ đưa vụ việc ra tòa án nếu như họ là nạn nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường. Trong điều kiện chúng ta đề cao chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền, tạo điều kiện để người dân tiếp cận với hệ thống pháp luật, tiếp cận công lý, sự ngần ngại trong việc sử dụng phương thức tố tụng để giải quyết các vấn đề môi trường là một điều rất đáng lưu ý để có giải pháp khắc phục.
2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc nâng cao ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường
Thực tiễn cho thấy, để nâng cao ý thức của người dân, cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường thì nếu chỉ thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về môi trường, về pháp luật bảo vệ môi trường (mà phần kế tiếp của báo cáo này sẽ phân tích và đề cập) sẽ là không đủ. Việc kịp thời xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm đồng thời công khai các trường hợp xử lý để người dân biết, từ đó xây dựng niềm tin vào tính nghiêm minh của pháp luật là một yếu tố rất quan trọng. Nói cách khác, việc nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo đảm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm là một trong những yếu tố then chốt để nâng cao ý thức của người dân, cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để phát huy vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường. Mặc dù vậy, thực tế khảo sát tại Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh cho thấy, cho tới nay, công tác tổ chức thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó có công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn không ít tồn tại, bất cập. Bên cạnh đó, bản thân pháp luật về bảo vệ môi trường cũng còn không ít quy định chưa thực sự phù hợp. Phần phân tích dưới đây sẽ đề cập sâu hơn về các khía cạnh này:
2.4.1. Những tồn tại, bất cập trong công tác tổ chức thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường
Thứ nhất, công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay còn chưa đủ sức kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm. Hiện tại, hoạt động thanh tra môi trường (với tư cách là thanh tra chuyên ngành) được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 35/2009/NĐ-CP ngày 07/4/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tài nguyên và Môi trường. Điều 21 của Nghị định 35/2009/NĐ-CP quy định hoạt động thanh tra được thực hiện dưới hình thức thanh tra theo chương trình, kế hoạch và thanh tra đột xuất. Thanh tra theo chương trình kế hoạch được tiến hành theo chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt còn thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao. Theo quy định trên, trừ trường hợp thanh tra đột xuất, khi tiến hành thanh tra theo chương trình, kế hoạch, cơ quan tiến hành hoạt động thanh tra phải báo trước cho cơ sở sản xuất, kinh doanh trong một thời hạn nhất định. Theo ý kiến của nhiều cán bộ ngành Tài nguyên và Môi trường thì hình thức thanh tra theo kế hoạch không có tác dụng nhiều bởi lẽ việc thông báo trước thời gian thanh tra sẽ tạo điều kiện cho các đối tượng bị thanh tra có thời gian thực hiện các biện pháp đối phó. Bên cạnh đó, cơ chế tổ chức bộ máy các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường hiện nay còn nhiều chồng lấn về thẩm quyền giữa các cấp (giữa Bộ với tỉnh, giữa tỉnh với huyện), các ngành (Môi trường, quản lý đô thị và cảnh sát môi trường v.v.) nên thực tế có trường hợp nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra cùng tiến hành thanh tra, kiểm tra một đơn vị về một vụ việc cụ thể. Việc này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Ở thái cực khác, với lực lượng cán bộ thanh tra môi trường tại Sở Tài nguyên và Môi trường còn mỏng, số lượng doanh nghiệp thuộc phạm vi theo dõi, quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường lớn nên việc bỏ lọt các cơ sở sản xuất, kinh doanh không bị thanh tra việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường là điều thực tế. Ở nhiều cuộc tọa đàm trong quá trình khảo sát, nhất là tại các tọa đàm cấp huyện, nhiều cán bộ cấp huyện phản ánh với Nhóm nghiên cứu rằng hiện nay việc thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với nhiều cơ sở gây ô nhiễm còn chưa kịp thời, việc kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm đối với các cơ sở, các dự án đã đi vào hoạt động chưa được tiến hành thường xuyên.
Thứ hai, việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa nghiêm. Thực tế khảo sát cho thấy Nhóm nghiên cứu nhận được nhiều phản ánh của người dân và cán bộ cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh cho rằng nhiều quy định của pháp luật bảo vệ môi trường rất đúng và phù hợp nhưng trong thực tế các cơ sở sản xuất, kinh doanh hoặc người dân thực hiện không nghiêm nhưng chính quyền các cấp, nhất là các cơ quan chức năng vẫn chưa kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm. Chẳng hạn, các quy định về đánh giá tác động môi trường, thẩm định báo cáo đánh giá môi trường và cam kết bảo vệ môi trường là những quy định rất cần thiết trong bảo vệ môi trường. Đây cũng chính là những công cụ hiệu quả để bảo vệ môi trường, bảo đảm các hoạt động sản xuất, đầu tư, kinh doanh được tiến hành theo hướng thân thiện với môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có quy định yêu cầu một số dự án đầu tư, kinh doanh nhất định phải làm thủ tục đánh giá tác động môi trường và phải lấy ý kiến của Uỷ ban nhân dân cấp xã, đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án; các ý kiến không tán thành việc đặt dự án tại địa phương hoặc không tán thành đối với các giải pháp bảo vệ môi trường phải được nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường (khoản 8 Điều 20 Luật Bảo vệ môi trường). Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng quy định yêu cầu cam kết bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quy mô hộ gia đình. Mặc dù vậy, số lượng dự án hoặc cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa thực hiện nghiêm túc các quy định kể trên mà vẫn không bị xử lý vẫn còn nhiều. Một ví dụ khác: theo quy định về các quy định về thực hiện lập, xác nhận phê duyệt Đề án bảo vệ môi trường đối với các cơ sở đã hoạt động trước khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu lực (ngày 1.7.2006) cũng đang nảy sinh những vướng mắc nhất định. Cụ thể, đối tượng lập Đề án phải trình UBND quận, huyện xác nhận quy định rộng, yêu cầu tất cả các cơ sở kinh doanh và dịch vụ hoạt động trên địa bàn như: kinh doanh rượu, điện thoại, văn phòng phẩm, tạp hóa, kinh doanh nhỏ lẻ phải lập đề án là không khả thi... Trong khi đó, việc kiểm tra, giám sát sau khi đề án bảo vệ môi trường được xác nhận, mức độ tuân thủ của các cơ sở là thấp do thiếu chế tài, biện pháp cưỡng chế cũng như nhân lực, vật lực trong việc kiểm tra sự tuân thủ của các cơ sở trong việc thực hiện cam kết bảo vệ môi trường. Ngoài ra, theo đánh giá của cán bộ chính quyền cơ sở, thẩm quyền của chính quyền xã, phường, thị trấn trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn hạn chế nên khi chính quyền nhận được những phản ánh về ô nhiễm môi trường của người dân thì chủ yếu các vụ việc này được chuyển lên chính quyền cấp trên để giải quyết (có tới 118/209 cán bộ cấp xã được phỏng vấn, chiếm 56,5% số người được phỏng vấn có ý kiến như vậy). Đa số các cán bộ cấp xã được phỏng vấn cho rằng, kết quả giải quyết các vụ việc về môi trường không cao. Cách thức xử lý chủ yếu là tiến hành hoá giải và đối thoại giữa người dân với cơ sở gây ô nhiễm. Việc áp dụng biện pháp chế tài hành chính còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe nên tình trạng tái phạm khá phổ biến hậu thanh, kiểm tra và xử lý vi phạm[123].
Thứ ba, nhận thức của một số cấp lãnh đạo ở địa phương vẫn chưa thực sự theo kịp yêu cầu phát triển bền vững. Tại nhiều cuộc tọa đàm trong quá trình nghiên cứu, khảo sát tại Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh, nhiều đại biểu tham dự tọa đàm cho rằng có một thời gian dài lãnh đạo một số địa phương chưa có quan niệm thật đúng về công tác bảo vệ môi trường. Tư duy coi trọng tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ bảo vệ môi trường là khá phổ biến trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở không ít địa phương. Điều này ảnh hưởng tới việc chỉ đạo, điều hành trong phát triển kinh tế. Tại không ít địa phương, tư duy chỉ đạo việc phát triển kinh tế vẫn thiên về phát triển theo chiều rộng, dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ, chấp nhận cả những ngành, lĩnh vực sản xuất sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Bên cạnh đó, việc phân bổ ngân sách đầu tư cho hạ tầng bảo vệ môi trường ở các khu đô thị không theo kịp với áp lực gia tăng dân số, đô thị hóa nhanh. Chính vì thế, ở nhiều địa phương, tuy kinh tế phát triển nhưng các vấn đề môi trường được tích tụ trong nhiều năm đang rất khó giải quyết. Tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như làng nghề tái chế giấy Phong Khê, sắt thép Đa Hội, đúc nhôm chì Văn Môn, Cụm công nghiệp Mả ông, Châu Khê, Đại Bái, Phú Lâm (tỉnh Bắc Ninh); khu vực sản xuất của công ty bia Đông , công ty sản xuất đũa Hữu Nghị, các công ty thác chế biến quặng a kim (vàng), đá vi, đá Bazan, chì, kẽm, angtimo ở Hòa Bình; công ty sản xuất thuốc lá Vinataba, công ty sản xuất bia Hà Nội thành phố Hà Nội là những ví dụ như vậy[124]. Ngoài ra, riêng với thành phố Hà Nội, việc mở rộng địa giới hành chính mà trong đó phần lớn là khu vực nông thôn vào Thủ đô Hà Nội cũng là một phần nguyên nhân dẫn tới sự không đồng đều về công tác quản lý nói chung về môi trường[125].
Thứ tư, đội ngũ cán bộ chuyên ngành về môi trường còn mỏng, đặc biệt là cấp huyện và cấp xã. Hiện tại, ở hầu hết các quận, huyện của Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh chỉ có 2 hoặc 3 cán bộ được đào tạo chuyên ngành về bảo vệ môi trường công tác tại các Phòng Tài nguyên và Môi trường của huyện. Lượng cán bộ chuyên ngành ít như vậy gây nhiều khó khăn cho công tác tham mưu quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn. Ở cấp xã, theo điểm d khoản 2 Điều 3 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã quy định 1 chức danh công chức địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã). Theo quy định này, cấp xã, phường, thị trấn không có biên chế cho cán bộ môi trường riêng mà thường cán bộ địa chính sẽ kiêm nhiệm[126]. Bên cạnh đó, việc tập huấn, đào tạo để nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ chuyên ngành môi trường tại địa phương vẫn chưa thường xuyên; công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng về bảo vệ môi trường chưa thực sự chặt chẽ. Thực tế ấy làm cho công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường như ở phần trên đã đề cập gặp nhiều khó khăn. Điều ấy cũng góp phần làm cho nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường[127].
Thứ năm, một số tổ chức phi chính phủ hoạt động liên quan đến môi trường chưa được các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện để hoạt động vì chính quyền ở không ít địa phương vẫn e ngại các tổ chức này ngoài việc hoạt động môi trường có thể còn có các hoạt động khác không có lợi cho tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Điều này làm cho các tổ chức bảo vệ môi trường phi chính phủ gặp những trở ngại nhất định khi làm việc với các ban, ngành, đoàn thể và người dân địa phương để tiến hành các hoạt động bảo vệ môi trường[128].
2.4.2. Những tồn tại, bất cập trong quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
Mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đã được quan tâm xây dựng, hoàn thiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, thực tiễn khảo sát ở Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh cho thấy các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường có liên quan cũng còn không ít tồn tại, bất cập, làm giảm hiệu quả điều chỉnh pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các quy định về các biện pháp chế tài và cơ chế áp dụng. Cụ thể:
Thứ nhất, các quy định chế tài về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường: Bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (và từ ngày 1/1/2015 tới đây sẽ là Luật Bảo vệ môi trường năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó phải kể tới các quy định trong Nghị định 113/2010/NĐ-CP. Thực tiễn khảo sát cho thấy, các quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường rất ít được các cán bộ chính quyền xã và huyện biết tới. Mặc dù Nghị định số 113/2010/NĐ-CP có quy định trách nhiệm của UBND cấp xã và UBND cấp huyện trong việc đứng ra khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại về môi trường trong những trường hợp nhất định nhưng sau nhiều năm văn bản này được ban hành, khi đi khảo sát thực tiễn tại Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh (cuối năm 2012 và năm 2013), chính quyền cấp huyện và cấp xã vẫn hầu như chưa biết tới sự tồn tại của Nghị định này và thực tiễn chưa áp dụng được vụ việc nào bằng cách sử dụng cơ chế do Nghị định này quy định. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 113/2010/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình (trong trường hợp này, Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức thu thập và thẩm định dữ liệu, chứng cứ để xác định thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra); Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra trên địa bàn từ hai xã, thị trấn, thị tứ trở lên. Theo quy định này, trách nhiệm thu thập dữ liệu, chứng cứ để xác định thiệt hại đối với môi trường trong trường hợp UBND cấp xã hoặc UBND cấp huyện yêu cầu bồi thường thiệt hại thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Tuy nhiên, việc xác định thiệt hại theo các quy định trên để làm căn cứ cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại gặp nhiều khó khăn vì hiện nay các cơ quan chuyên môn về môi trường rất thiếu các phương tiện, kỹ thuật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, các quy định về chế tài hành chính: Trước khi có Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013, việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trong đó, hình thức xử phạt là phạt cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng các loại giấy phép về môi trường, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính và mức phạt tối thiếu là 500.000 đồng và tối đa là 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, thực tế áp dụng này chưa đủ sức răn đe, do đó, Nghị định 179/2013/ NĐ-CP ban hành đã quy định bổ sung biện pháp cưỡng chế, từ 05 biện pháp theo Nghị định 117/2009/NĐ-CP (Điều 3) lên 21 biện pháp cưỡng chế theo Nghị định số 179/2013/NĐ-CP... Đặc biệt, Nghị định 179/2013/NĐ-CP đã nâng mức phạt tối đa đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân và 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức (Điều 4). Những quy định của Nghị định 179/2013/NĐ-CP đã tạo thuận lợi cho các cơ quan quản lý môi trường, lực lượng canh sát môi trường khi thực thi nhiệm vụ ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, thực tiễn khảo sát ở các địa phương cho thấy việc xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay vẫn còn một số bất cập, cụ thể:
- Một số hình thức xử lý không có tính khả thi, khó áp dụng: Chẳng hạn, theo quy định tại Điểm m Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 179/2013/NĐ-CP, thì cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như buộc di dời ra khỏi khu vực cấm, thực hiện đúng quy định về khoảng cách an toàn về bảo vệ môi trường đối với khu dân cư. Tuy nhiên, trong thực tế, các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương (nhất là cấp xã, cấp huyện) rất ngần ngại áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như vậy bởi nếu áp dụng sẽ nảy sinh hàng loạt vấn đề có liên quan như vấn đề bảo đảm lao động, việc làm, điều kiện về trụ sở làm việc cho người lao động... Một ví dụ khác, Điều 17 và Điều 18 Nghị định số 179/2013/NĐ-CP quy định về việc xử lý đối với hành vi vi phạm các quy định về tiếng ồn và độ rung. Tuy nhiên, do trang thiết bị để xác định các vi phạm này không đầy đủ, mặt khác tại thời điểm các cơ quan có thẩm quyền đến xử lý, thì các doanh nghiệp không hoạt động hoặc không gây tiếng ồn và độ rung quá mức cho phép nên trên thực tế, các cơ quan có thẩm quyền rất khó khăn trong việc xử lý đối với các hành vi này. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 50 Nghị định số 179/2013/NĐ-CP, thì mức phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã được tăng cao hơn so với trước kia nhưng thẩm quyền xử phạt của người có thẩm quyền xử phạt lại chưa được sửa đổi, bổ sung tương ứng làm quá trình xử lý phải trải qua nhiều thủ tục phức tạp. Chẳng hạn, khi phát hiện hành vi vi phạm, các cơ quan ở xã, huyện thường trước tiên chỉ lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật rồi làm Công văn báo cáo lên cấp có thẩm quyền xử phạt. Theo quy định hiện hành, hầu hết các hành vi vi phạm đều thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND tỉnh, cấp huyện. Thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã còn rất thấp (5.000.000 đồng) chưa tương xứng với năng lực xử lý ở nhiều địa phương và khiến cho việc xử lý các hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức gây ra ô nhiễm môi trường tại địa phương (sản xuất sắt thép, giấy, đúc đồng ở tỉnh Bắc Ninh, khai thác than, cao lanh, sắt, vàng ở tỉnh Hòa Bình trái phép) không kịp thời.
- Về chế tài: Mặc dù Nghị định 179/2013/NĐ-CP thay thế Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã bổ sung từ 6 nhóm hành vi vi phạm lên 8 nhóm hành vi vi phạm và các biện pháp xử lý cũng có sự tăng lên khá nhiều so với Nghị định 117/2009/NĐ-CP trước đó, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số biện pháp chế tài được coi là quá nhẹ, không đủ sức răn đe. Chẳng hạn, "Hành vi vi phạm quy định về thực hiện cam kết bảo vệ môi trường của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không thuộc đối tượng phải lập dự án đầu tư" có mức phạt tối đa chỉ là 2.500.000 đồng (khoản 1 Điều 8 Nghị định 179/2013/NĐ-CP); "Hành vi vi phạm quy định về thực hiện cam kết bảo vệ môi trường đối với đối tượng phải lập dự án đầu tư" có mức tối đa chỉ là 30.000.000 đồng (khoản 2 Điều 8 Nghị định 179/2013/NĐ-CP). Trong bối cảnh việc áp dụng trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự đối với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn nhiều khó khăn, vướng mắc (nhất là khi các quy định về trách nhiệm xác định, giám định, đền bù thiệt hại còn chưa rõ ràng và không khả thi), trên thực tế không ít doanh nghiệp, hộ kinh doanh hoặc cá nhân sản xuất, kinh doanh thay bằng việc đầu tư trang thiết bị xử lý chất thải theo đúng quy định của pháp luật đã không chấp hành và chấp nhận bị áp dụng các hình thức xử lý vi phạm khi bị phát hiện.
Thứ ba, các quy định về hình sự cũng còn không ít tồn tại, bất cập. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã giải quyết được một số bức xúc trong việc xử lý đối với các tội phạm về môi trường bằng việc quy định bổ sung một số tội phạm như: Tội vi phạm các quy định về quản lý chất thải nguy hại (Điều 182a); Tội vi phạm về phòng ngừa sự cố môi trường (Điều 182b); Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 185); Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Điều 190); Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191) và Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 191a). Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng vẫn xảy ra nhiều vướng mắc liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội phạm về môi trường mà chưa được giải quyết triệt để vì hầu hết các tội phạm về môi trường cấu thành cơ bản đều có tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" là yếu tố bắt buộc, nhưng để chứng minh hành vi thế nào là hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường thì chưa có quy định hướng dẫn. Thực tế cho thấy dấu hiệu hậu quả (nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) là dấu hiệu khó xác định, bởi vì dấu hiệu hậu quả ở đây rất đa dạng, có thể hậu quả về môi trường, sinh thái, những thiệt hại về vật chất... và đối với mỗi thành phần môi trường bị xâm hại lại có tiêu chí khác nhau để đánh giá mức độ thiệt hại khác nhau. Bên cạnh đó, việc pháp luật hình sự hiện hành không quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân cũng làm cho việc đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật môi trường của các doanh nghiệp chưa đủ sức răn đe. Thực tế cho thấy, Bộ luật hình sự quy định các tội phạm về môi trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm nhưng trong thực tế nhiều doanh nghiệp, tổ chức có hành vi vi phạm nghiêm trọng môi trường nhưng không thể xử lý trách nhiệm hình sự được vì pháp luật hình sự chỉ quy định việc xử lý hình sự gây ô nhiễm môi trường đối với "...cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến sức khỏe... những lĩnh vực khác của trật tự xã hội chủ nghĩa" (khoản 1 Điều 8 BLHS sửa đổi, bổ sung 2009), còn đối với pháp nhân thì không phải là chủ thể của trách nhiệm hình sự.
Ngoài những tồn tại, bất cập trong các quy định về biện pháp chế tài, liên quan tới công tác xây dựng văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, khảo sát ở Hà Nội, Hòa Bình, Bắc Ninh cho thấy công tác chỉ đạo ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường chưa được kịp thời. Không ít chính sách, cơ chế ưu đãi, khuyến khích hỗ trợ trong lĩnh vực môi trường, nhất là cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước để di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng còn thiếu. Nguồn lực đầu tư và thu hút đầu tư cho bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế trong khi khả năng tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ từ các tổ chức, quỹ môi trường còn gặp nhiều khó khăn. Cho tới nay, mặc dù một số địa phương đã cân nhắc việc thành lập Quỹ bảo vệ môi trường ở địa phương nhưng các bộ, ngành có liên quan (nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính) vẫn chưa có quy định chi tiết về mô hình, cơ chế tổ chức và hoạt động của Quỹ, các định mức chi tiêu, cho vay, bảo đảm tài sản tiền vay của Quỹ bảo vệ môi trường địa phương, vì vậy, việc thực hiện các quy định liên quan tới Quỹ bảo vệ môi trường gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc.
2.4.3. Về nguồn lực thực hiện hoạt động bảo vệ môi trường
Thực tiễn khảo sát ở Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh cho thấy việc huy động các nguồn lực của xã hội cho đầu tư bảo vệ môi trường chưa đạt kết quả cao mặc dù hầu hết các địa phương đều thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường ở địa phương mới chỉ tập trung cho việc thu gom và xử lý rác thải, phế thải trong sinh hoạt, xây dựng mà chưa chú trọng tới xử lý ô nhiễm môi trường hoặc triển khai các dự án ở mức thí điểm như xử lý nước thải sinh hoạt, y tế, xử lý ô nhiễm các sông hồ; xử lý chất thải rắn bằng công nghệ hiện đại; xử lý chất thải khu vực tại các thôn, làng, các làng nghề, các khu khai thác khoáng sản... Về phía nhà nước, mặc dù Nhà nước đã dành nguồn chi thường xuyên riêng cho hoạt động bảo vệ môi trường (chi sự nghiệp môi trường), nhưng do đây là nguồn chi thường xuyên nên kinh phí từ nguồn này không thể bố trí để đầu tư giải quyết triệt để các vấn đề môi trường bức xúc đang ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, kinh phí chi sự nghiệp môi trường ở các bộ, ngành và địa phương chưa được bố trí đủ, đúng với nội dung chi, tập trung vào các vấn đề môi trường trọng tâm, trọng điểm (hầu hết các địa phương đã bố trí tới 80-90% tổng chi sự nghiệp môi trường cho thu gom, vận chuyển chất thải sinh hoạt; dẫn tới không còn kinh phí để thực hiện các nội dung quản lý môi trường khác theo quy định của Luật). Không ít địa phương (nhất là những địa phương có nguồn thu không đủ bù chi) chưa bố trí đủ 1% chi ngân sách cho bảo vệ môi trường; nhiều địa phương bố trí một số nội dung chi không đúng theo hướng dẫn của Luật Bảo vệ môi trường và Thông tư liên tịch số 114/2006/TTLT-BTC-BTNMT (nay là Thông tư liên tịch số 45/2010/TTLT-BTC-BTNMT). Kinh phí dành cho công tác bảo vệ môi trường của các địa phương còn hạn hẹp do ngân sách địa phương chủ yếu phục vụ mục đích phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết các công ăn, việc làm cho người dân[129]. Tại TP. Hà Nội, mặc dù kinh phí sự nghiệp môi trường của Thành phố đến nay đã được nâng lên (chiếm khoảng 3% tổng mức chi ngân sách) nhưng số kinh phí này vẫn chưa đủ để đáp ứng cho các nhiệm vụ bảo vệ môi trường của Thành phố[130]. Bên cạnh đó, việc đầu tư xây dựng cơ bản chưa chú trọng lĩnh vực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về bảo vệ môi trường (chẳng hạn, đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải chưa tương xứng với mức độ gia tăng chất thải) dẫn đến sự quá tải của hạ tầng bảo vệ môi trường trước sự gia tăng mức độ ô nhiễm môi trường ở các địa phương. Nguồn chi thường xuyên của ngân sách nhà nước cho hoạt động sự nghiệp môi trường còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế, các doanh nghiệp chưa chú ý đầu tư thay đổi công nghệ, thiết bị, công trình xử lý chất thải nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Thêm vào đó, kinh nghiệm, trình độ, năng lực của lực lượng làm công tác bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế (hiện nay theo quy định của pháp luật mỗi xã, phường được tăng cường một cán bộ làm công tác môi trường nhưng được hưởng phụ cấp 1,0 mức lương tối thiểu nên cán bộ môi trường cũng không mặn mà với nhiệm vụ được giao) theo hướng dẫn tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn[131].
III. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI CƠ SỞ
Thực tiễn khảo sát, nghiên cứu cho thấy để góp phần nâng cao ý thức của người dân ở cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường, cơ quan Tài nguyên và Môi trường các cấp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, chính quyền cấp xã, các tổ chức chính trị - xã hội đã thực hiện hoạt động truyền thông về môi trường, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường cho người dân ở các địa phương và cho các đối tượng có liên quan. Ở cấp chính quyền cơ sở, theo báo cáo của UBND các xã, phường, thị trấn được khảo sát trong nghiên cứu này, chính quyền cấp cơ sở cũng thường xuyên phối hợp với tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, trưởng bản để thực hiện các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường nói riêng. Kết quả phỏng vấn 209 người dân ở các địa bàn khảo sát cũng cho kết quả tương tự khi có 149 người được phỏng vấn (tương đương 72,7% số người dân trả lời phỏng vấn) cho rằng chính quyền cơ sở đã thường xuyên phối hợp với tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, trưởng bản thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường đến người dân[132].
Hoạt động truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật này được tiến hành khá đa dạng về nội dung và hình thức thực hiện. Cụ thể:
3.1. Về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
Theo báo cáo của các Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp các địa bàn được khảo sát, từ năm 2005 đến nay, trên cơ sở các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành như Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường, Nghị định 21/2008/NĐ-CP ngày 28/2/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 80/2006/NĐ-CP, Uỷ ban nhân dân các địa phương được khảo sát đã yêu cầu các các Sở, ngành lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về môi trường vào trong Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Sở, ngành mình. Các cơ quan tài nguyên và môi trường, các tổ chức chính trị - xã hội các địa phương đã xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động hưởng ứng ngày môi trường thế giới, phối hợp với các cơ quan thông tin, đại chúng (báo chí, đài phát thanh, truyền hình) để thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi trường. Sở Tư pháp Hà Nội, Sở Tư pháp Hòa Bình, Sở Tư pháp Bắc Ninh đã chủ động phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, các cơ quan, tổ chức liên quan như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc... tổ chức các hoạt động, các lớp tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác môi trường các cấp với các nội dung như: quản lý chất lượng không khí, xử lý nước thải, rác thải, quan trắc môi trường, các cơ sở sản xuất,...; đưa nội dung về bảo vệ môi trường vào tài liệu sinh hoạt chi bộ; tổ chức tập huấn Báo cáo viên cho các ngành, các Ban Tuyên giáo quận, huyện, thị xã; tổ chức giao ban với báo chí về ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức có liên quan (nhất là Sở Tài nguyên và Môi trường, các tổ chức chính trị - xã hội) đã tiến hành truyền thông khác về bảo vệ môi trường. Kết quả phỏng vấn đội ngũ cán bộ cấp huyện và cấp xã tại các địa bàn được khảo sát cho thấy có 248/383 người được hỏi (chiếm 65%) cho rằng chính quyền địa phương thường tổ chức các hoạt động tuyên truyền việc sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường và có 166/383 người được hỏi (chiếm 43,3%) cho rằng chính quyền địa phương đã tổ chức phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường[133].
3.2. Về đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật
Xác định rõ bảo vệ môi trường là vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với mọi người dân, là sự nghiệp của toàn xã hội, là quyền và trách nhiệm của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo vệ môi trường được các cấp, các ngành quan tâm triển khai tới đông đảo nhân dân trong tỉnh, thành phố, hướng về cơ sở cho các đối tượng như: Người dân làm nông nghiệp, người dân sống ở các khu dân cư thành thị, thành phố; Cán bộ, công chức của cơ quan, cán bộ Ủy ban nhân dân các cấp đóng trên địa bàn; Các em học sinh, sinh viên, giáo viên thuộc địa phương phụ trách; Công nhân, các chủ các cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng trên địa bàn; Các cán bộ thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp đóng trên địa bàn... Mặc dù vậy, kết quả khảo sát cũng cho thấy, có 113/209 người dân được phỏng vấn (chiếm 54,1%) cho rằng người dân vẫn chưa thực sự tích cực tham gia các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật[134]. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng theo nhiều đại biểu tham dự tại các tọa đàm có thể thực tế ấy là do người dân còn bận với công việc mưu sinh hàng ngày hoặc do các hình thức tuyên truyền của các cơ quan, tổ chức chưa phù hợp như tuyên truyền vào các ngày người dân đi làm mà không vào các ngày nghỉ...
3.3. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tư pháp và các tổ chức chính trị - xã hội đã sử dụng nhiều hình thức khác nhau để phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường cho người dân và các đối tượng có liên quan. Các hình thức tiến hành phổ biến nhất bao gồm: thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (như báo, đài, tivi, Internet); phát hành tờ rơi, tờ gấp, dựng pano, biểu ngữ, phát hành ấn phẩm về bảo vệ môi trường tới các đối tượng có liên quan; thông qua việc khai thác tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn; thông qua các hội nghị phổ biến, tuyên truyền v.v. Cụ thể:
- Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như (báo, đài, ti vi, Internet): Đây là hình thức tuyên truyền có tính lan truyền nhanh, tác động sâu rộng đến nhiều đối tượng khác nhau. Nhận thức được thế mạnh của hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật này, Uỷ ban nhân dân các tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành phối hợp với các cơ quan truyền thông, báo chí, xây dựng trang Web để cung cấp thông tin truyền thông về bảo vệ môi trường, truyền thông về pháp luật bảo vệ môi trường. Trong thực tế, ngoài việc đưa các thông tin liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và các hoạt động của cơ quan trên trang web, các cơ quan còn đăng tải các văn bản thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân biết về vấn đề giải quyết các thủ tục hành chính, các văn bản quy phạm pháp luật, các thông tin về điều kiện kinh tế xã hội hàng ngày và đặc biệt là các vụ việc liên quan đến môi trường tại địa phương. Chẳng hạn, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp với Báo Bắc Ninh duy trì chuyên mục Pháp luật và đời sống hàng tháng trong nhiều năm qua. Trên các số báo thường kỳ có chuyên mục giới thiệu văn bản mới, Bạn đọc với báo, Báo với bạn đọc, ngoài ra còn có những bài viết lồng ghép nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Năm 2012, Báo Bắc Ninh đã tuyên truyền được 12 chuyên mục Pháp luật và đời sống, thực hiện 75 bài, 150 tin, 146 ảnh. Từ cuối năm 2010 đến nay, website của Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh Bắc Ninh (địa chỉ: phapluatbacninh.gov.vn) đã được xây dựng, nâng cấp và duy trì. Theo thống kê, đã có gần 1.500.000 lượt người truy cập website. Website cập nhật, giới thiệu các văn bản pháp luật mới, đăng tải các câu chuyện về bảo vệ môi trường[135]. Tại Hòa Bình, Đài phát thanh - truyền hình tỉnh đã phối hợp với ngành tài nguyên - môi trường, các cơ quan liên quan xây dựng nhiều phóng sự tuyên truyền những tấm gương điển hình của các tập thể, cá nhân có thành tích, đóng góp cho hoạt động bảo vệ môi trường trong toàn tỉnh. UBND thành phố Hòa Bình cũng đã chỉ đạo Đài phát thanh - truyền hình thành phố đẩy mạnh tuyên truyền công tác bảo vệ môi trường tại địa phương, huy động các phương tiện thông tin truyền thông để phổ biến những thông tin về môi trường, kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường trong phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư, đồng thời phê phán những hành vi, những biểu hiện gây ô nhiễm và kết quả xử phạt đối với các tổ chức, cá nhân.
Có thể nói, việc sử dụng Internet, các cơ quan truyền thông để thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường là hướng đi đúng, phù hợp với xu hướng tiếp cận thông tin của người dân hiện nay. Kết quả phỏng vấn người dân trong nghiên cứu này cũng cho thấy có 263/337 người dân được hỏi (chiếm 78%) cho rằng thường xuyên tiếp cận thông tin về bảo vệ môi trường thông qua các phương tiện như: Báo, đài, tivi, internet. Trong các loại hình thông tin này thì loại hình phương tiện thông tin được người dân yêu thích nhất là tivi (có 169/304 người được hỏi chiếm 55,6%), sau đó là đài (63/304 người được hỏi chiếm 20,7%), báo (58/304 người được hỏi chiếm 19,1%).
Tuy nhiên, việc truyền thông bằng các phương tiện mang tính chất đại trà, thiếu tính tương tác giữa chủ thể truyền thông và đối tượng tiếp nhận cũng có những hạn chế nhất định. Bởi vậy, nếu chỉ dựa vào các phương tiện truyền thông kể trên thì công tác nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường cũng khó hiệu quả. Thực tế phỏng vấn người dân trong nghiên cứu này cũng cho thấy, có tới 74,4% (233/313) người dân được phỏng vấn cho rằng các loại hình phương tiện trên có hiệu quả nhất định nhưng chưa cao và chỉ có 24% (75/313) người dân được phỏng vấn cho rằng các loại hình phương tiện truyền thông trên đạt hiệu quả cao[136].
- Việc tuyên truyền, phổ biển, giáo dục pháp luật thông qua việc phát hành tờ gấp, pa nô, bản tin, các ấn phẩm về bảo vệ môi trường: Hằng năm, Uỷ ban nhân dân 3 tỉnh, thành phố được khảo sát đã chỉ đạo các huyện, xã, các cơ sở sản xuất kinh doanh đóng trên địa bàn hưởng ứng ngày tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường, ngày môi trường thế giới (05/6 hàng năm), tham gia chiến dịch thế giới sạch hơn... bằng nhiều hình thức như phát hành tờ gấp, panô, bản tin, các ấn phẩm về bảo vệ môi trường. Cụ thể: Tại tỉnh Bắc Ninh, chỉ trong năm 2013 đã Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tư pháp đã phát khoảng 30.000 tờ gấp phổ biến các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường chuyển đến người dân. Sở Tư pháp biên tập và phát hành đều đặn Bản tin Tư pháp (1 tháng 1 số với số lượng phát hành gần 2000 cuốn mỗi số đến với các bạn đọc ở tận tổ hòa giải cơ sở, phổ biến các quy định pháp luật mới, các tình huống và câu chuyện pháp luật. Đặc biệt, những quy định pháp luật về môi trường của Chính phủ và của tỉnh đã được giới thiệu, đăng tải kịp thời trên Bản tin, không chỉ dưới dạng tóm tắt văn bản mà còn dưới nhiều hình thức khác, sinh động, thu hút hơn như: câu chuyện về hòa giải, hỏi đáp pháp luật, chuyện làng chuyện phố. Tại tỉnh Hòa Bình, hưởng ứng ngày Môi trường thế giới năm 2013, Ủy ban nhân dân thành phố Hòa Bình đã chỉ đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các phòng, ban có liên quan treo các Pa nô tuyên truyền về chủ đề ngày môi trường thế giới tại nơi công cộng, phát 15.000 tờ rơi tuyên truyền về Luật bảo vệ môi trường...
- Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua việc quản lý, khai thác tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn: Hàng năm, các xã, phường, thị trấn ở các địa phương khảo sát được bổ sung từ 20 đến 30 đầu sách pháp luật, trị giá khoảng 2 triệu đồng (trong đó có cả các đầu sách pháp luật về bảo vệ môi trường) vào Tủ sách pháp luật. Ngoài việc bổ sung các đầu sách, Tủ sách pháp luật còn được cung cấp miễn phí Công báo của Chính phủ và các loại sách báo liên quan đến công việc của Uỷ ban. Với khá nhiều loại hình sách, báo thì Tủ sách pháp luật cũng là nơi cung cấp các thông tin cho người dân, cán bộ ủy ban tìm hiểu pháp luật nói chung và pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường nói riêng. Sách pháp luật còn được uỷ ban nhân dân luân chuyển giữa điểm bưu điện văn hóa và tủ sách của xã, phường, thị trấn mỗi quý một lần, mỗi lần từ 20-30 đầu sách[137].
- Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hội nghị tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý lưu động, lồng ghép trong các sự kiện quan trọng: Chẳng hạn, tại tỉnh Hòa Bình, thời gian qua, các cấp chính quyền đã tổ chức các chương trình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường, thu hút người dân, doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể tham gia. Ban tuyên giáo tỉnh Ủy, Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh và các tổ chức đoàn thể triển khai công tác phổ biến, nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường trong địa bàn toàn tỉnh: tổ chức được trên 35 lớp tập huấn các kiến thức về bảo vệ môi trường, các văn bản, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường cho các đối tượng như: cựu chiến binh, đoàn viên thanh niên, nông dân, phụ nữ, người cao tuổi v.v.. Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Hòa Bình phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý, Ban Tư pháp các xã tổ chức các buổi tập huấn (05 buổi, thu hút 175 người tham gia) tại cơ sở với nội dung xoay quanh pháp luật bảo vệ môi trường. Năm 2013, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hòa Bình đã tham mưu cho UBND thành phố tổ chức lễ mít tinh hưởng ứng ngày môi trường thế giới, huy động hơn 1000 người tham gia, phát động nhân dân trên địa bàn các khu dân cư cùng tham gia hưởng ứng với số lượng trên 10.000 lượt người). Tại Thành phố Hà Nội, nhận thức rõ vai trò trách nhiệm của mình đối với hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi trường nói riêng, trong những năm qua chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội đã chú trọng trong việc tuyên truyền vận động hội viên tham gia công tác bảo vệ môi trường tại địa phương. Hàng năm, khi xây dựng kế hoạch hoạt động, chính quyền địa phương đã yêu cầu các tổ chức chính trị - xã hội khi xây dựng chương trình công tác hàng năm của tổ chức mình phải lồng ghép chương trình bảo vệ môi trường vào chương trình và coi việc bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ chính của tổ chức mình, gắn với việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường và thực hiện cuộc vận động "Vì môi trường trong sạch, vì sức khỏe cộng đồng, Nông dân Hà Nội chỉ sản xuất, chế biến tiêu dùng và bán ra thị trường sản phẩm nông nghiệp an toàn”[138] do Hội Nông dân thành phố phát động. Thông qua các hình thức như: Ký kết chương trình phối hợp hoạt động giữa Hội Nông dân và Phòng Tư pháp, Phòng Tài nguyên và môi trường, Phòng y tế theo từng năm với chương trình, kế hoạch cụ thể để tạo sự thống nhất giữa cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội theo các nội dung bảo vệ môi trường gắn với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội mà địa phương đề ra; tổ chức các buổi tuyên truyền nâng cao nhận thức thay đổi hành vi cho nông dân trong việc bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ môi trường ngõ phố xanh - sạch - đẹp; Hội thảo đầu bờ về sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật đúng quy định, triển khai thu gom chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật tại các phường còn sản xuất nông nghiệp; phối hợp với phòng y tế thanh kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm tra việc sử dụng hóa chất và phụ gia thực phẩm tại các hộ gia đình sản xuất, chế biển kinh doanh thực phẩm[139]... Trong 5 năm (từ năm 2007 - 2012), Hội Nông dân quận Hoàng Mai đã phối hợp với Phòng Tài nguyên và môi trường của Quận phát động phong trào "Hoàng Mai, ngày Chủ nhật không túi Nilon" và tổ chức Hội thi "Nông dân bảo vệ môi trường"; Hội thi "Nhà nông đua tài" theo hình thức sân khấu hóa thu hút đông đảo Hội viên tham gia, góp phần chuyền tải các nội dung kiến thức về bảo vệ môi trường đến với Hội viên dễ hiểu, dễ nhớ. Ngoài ra, Hội nông dân quận Hoàng Mai đã tổ chức hàng trăm buổi tuyên truyền với các nội dung phong phú thu hút được hàng ngàn Hội viên tham dự, 18 lớp tập huấn về pháp luật bảo vệ môi trường được tổ chức ở cơ sở và Quận; hơn 5.000 túi giấy và túi vải thân thiện với môi trường được phát đến các Hội viên, đều đặn các sáng thứ 7 hàng tuần Hội viên nhiệt tình tham gia vệ sinh đường ngõ phố và các nơi công cộng, gần 1.000 cây xanh đã được Hội viên trồng. Phòng Tư pháp huyện Thanh Trì đã tham mưu Ủy ban nhân dân huyện kịp thời, chỉ đạo việc kiện toàn Hội đồng phối hợp công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật tại các xã, thị trấn đã có 16/16 xã, thị trấn của huyện đã thực hiện việc kiện toàn, bổ sung xong, trong đó có cán bộ Tư pháp - Hộ tịch là thường trực của Hội đồng. Thường xuyên kiện toàn báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và Hoà giải viên trên địa bàn huyện, kết quả: Năm 2010 tổ chức 355 hội nghị, trong đó có 56 hội nghị tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường cho hơn 3.100 cán bộ và nhân dân; Năm 2011 tổ chức 318 hội nghị chuyên đề và lồng ghép 58 hội nghị tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường cho hơn 3.200 cán bộ và nhân dân; Năm 2012 tổ chức 212 hội nghị trong đó có 32 hội nghị tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường cho hơn 2.700 cán bộ và nhân dân. Tổ chức tuyên truyền pháp luật thông qua việc hòa giải ở các xã, thị trấn. Đến nay, trên địa bàn toàn huyện đã có 128 tổ hòa giải với 856 hòa giải viên, 45 tổ hòa giải "5 tốt" đặc biệt Phòng Tư pháp huyện Thanh Trì đã tham mưu Hội đồng phối hợp công tác Phổ biển giáo dục pháp luật huyện mua báo pháp luật và xã hội trang bị cho 20 thành viên Hội đồng huyện và 128 tổ hòa giải. Công tác hoà giải được duy trì nề nếp, có hiệu quả đã góp phần ổn định tình hình an ninh nông thôn cũng như giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ngay từ cơ sở. Tỷ lệ hoà giải thành hàng năm của huyện đều đạt trên 85%. Đài phát thanh huyện và Đài phát thanh các xã, thị trấn tiếp tục duy trì tuyên truyền trong chuyên mục "Tìm hiểu pháp luật" được phát đều đặn hàng ngày với thời lượng từ 15 - 20 phút; duy trì bản tin An ninh vào 21 giờ hàng ngày đề nhắc nhở, nâng cao ý thức cảnh giác của nhân dân, phòng ngừa trộm cắp và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường[140]. Tại Bắc Ninh, trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thường xuyên tổ chức tuyên truyền và trợ giúp pháp lý lưu động tại các xã, phường, thị trấn tại tỉnh, thành phố. Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật của Sở Tư pháp Bắc Ninh cũng chủ động và tham gia phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện tuyên truyền pháp luật. Trong 5 năm (2008 - 2012), Sở Tư pháp Bắc Ninh đã tuyên truyền và trợ giúp pháp lý lưu động tại 488 điểm, mỗi điểm từ 1-2 hội nghị, thu hút gần 50.000 lượt người tham gia. Thông qua hình thức tuyên truền này, người dân được tuyên truyền, phổ biến trực tiếp, cặn kẽ về các quy định pháp luật, trong đó quy định về môi trường luôn luôn được chú trọng giới thiệu, giải thích. Công tác phổ biến giáo dục pháp luật đã cung cấp kiến thức pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường cho cán bộ và nhân dân trong tỉnh, góp phần vào kết quả chung đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tổng kết tại Đề án đánh giá hiện trạng môi trường tỉnh Bắc Ninh từ 2006 - 2013, đó là: "Nhận thức về bảo vệ môi trường của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư được nâng lên đáng kể, hệ thống cơ chế, chính sách từng bước được xây dựng và hoàn thiện góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường cũng như cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường ở một số nơi được hạn chế". Theo đánh giá của người dân thì hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về môi trường thông qua hội nghị tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý lưu động được đánh giá cao vì người dân có thể nghe, trao đổi những vấn đề bức xúc về môi trường mà người dân đang gánh chịu và tìm hiểu vai trò của người dân đối với những quy định của pháp luật về vấn đề này[141].
3.4. Kết quả phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường
Qua các buổi toạ đàm, phiếu khảo sát đối với các đối tượng là người dân, cán bộ cấp xã, huyện, có thể thấy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường của các địa phương được tổ chức thường xuyên, theo kế hoạch hàng năm được địa phương phê duyệt nên đã đạt được những kết quả nhất định về phạm vi đối tượng được tuyên truyền, phổ biến và những tác động tích cực đối với ý thức của người được tuyên truyền, phổ biến. Kết quả xử lý phiếu phỏng vấn người dân cho biết có 352/352 người dân được phỏng vấn (chiếm 100%) cho biết họ đã từng được phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường thông qua nhiều các kênh khác nhau như: Có 256/352 người dân được phỏng vấn (chiếm 72,7%) cho rằng họ được phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường thông qua loa đài ở thôn, xóm, đài phát thanh của tỉnh hoặc của nhà nước, thông qua băng rôn, biểu ngữ; có 217/352 người dân được phỏng vấn (chiếm 61,6%) cho rằng họ được phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường thông qua các cuộc họp, toạ đàm tại thôn, xóm, bản, tổ dân phố; có 151/352 người dân được phòng vấn (chiếm 42,9%) cho rằng họ được phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường thông qua các đoàn thể mà mình là thành viên như Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh. Trong các hình thức phổ biến trên thì hình thức "phổ biến thông qua loa đài, đài phát thanh, băng rôn, biểu ngữ" và hình thức "tổ chức các cuộc họp, toạ đàm tại thôn, xóm, bản, tổ dân phố" được đa số người dân trả lời phòng vấn cho là loại hình thức có hiệu quả và phù hợp nhất (có 233/369 người dân được phỏng vấn chiếm 63,1% số người được phỏng vấn đánh giá như vậy về hình thức phổ biến thông qua loa đài, đài phát thanh, băng rôn, biểu ngữ và 261/369 người dân được phỏng vấn chiếm 70,7% số người được phòng vấn đánh giá như vậy về hình thức tổ chức các cuộc họp, tọa đàm tại thôn, xóm, bản, tổ dân phố). Tuy nhiên, có hai hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật mà người dân cho là không đạt hiệu quả là: Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật qua tờ rơi, tờ gấp (chỉ có 79/352 người được phỏng vấn, chiếm 22,4% số người được phỏng vấn đánh giá hình thức này là hiệu quả) và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật (chỉ có 70/352 người dân được phỏng vấn, chiếm 19,9% số người được phỏng vấn đánh giá hình thức này là hiệu quả)[142].
3.5. Một số hạn chế, bất cập trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tế khảo sát tại Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh cho thấy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn còn có những hạn chế, bất cập nhất định. Cụ thể:
Thứ nhất, theo thông lệ về phổ biến văn bản pháp luật hiện nay, một văn bản pháp luật sau khi được ban hành sẽ chỉ được ngành Tư pháp tổ chức phổ biến một lần chứ không có điều kiện để phổ biến đi phổ biến lại văn bản ấy. Cách làm đó khiến cho đối tượng tiếp nhận thông tin pháp luật khó nắm bắt được nội dung văn bản một cách sâu sắc. Thực tế cho thấy việc tuyên truyền một lần đối với một văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường chỉ có khả năng cung cấp thông tin cho dân chúng biết hiện đang có văn bản quy định về vấn đề môi trường mà người dân quan tâm còn nội dung cụ thể của văn bản ấy, những yêu cầu cơ bản về cách hành xử của người dân với môi trường trong các tình huống cụ thể thường rất khó nắm bắt. Cách làm như vậy khó làm người dân kịp thời thay đổi nhận thức để từ đó thay đổi hành vi theo hướng thân thiện hơn với môi trường. Điều này cũng có nghĩa rằng, hoạt động phổ biến pháp luật của chúng ta hiện nay về cơ bản mới hướng tới việc cung cấp thông tin cho người dân chứ chưa thể kỳ vọng sự thay đổi nhận thức của người dân và thay đổi hành vi của người dân.
Thứ hai, có sự chồng chéo, không đồng bộ trong các chương trình, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan. Thực tế khảo sát ở Hà Nội, Hoà Bình và Bắc Ninh cho thấy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường được giao cho không chỉ ngành Tư pháp, ngành Tài nguyên và Môi trường mà cả các tổ chức chính trị - xã hội như Hội nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh v.v. thực hiện. Do các chương trình phổ biến cụ thể của các chủ thể này còn thiếu sự thông tin, phối hợp với nhau nên thực tế xảy ra tình trạng chồng chéo về chương trình tuyên truyền, phổ biến, đồng thời tạo ra sự phân tán trong việc phân bổ nguồn lực ngân sách đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong thực tế, các cơ quan, tổ chức nào mạnh thì cơ quan, tổ chức đó đứng ra phổ biến cho các hội viên của mình, do đó, hiệu quả không cao, dàn trải, lãng phí về kinh phí và nguồn lực[143]. Thêm vào đó, một số loại đối tượng khá đặc thù, rất cần được tiếp cận để thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường như các doanh nghiệp, các nhà máy, các hộ kinh doanh ở các làng nghề, các khu dân cư lấn chiếm bờ sông, mương... thì vẫn chưa được quan tâm thực hiện hoặc chính quyền cấp cơ sở gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận các đối tượng này. Thực tế thông tin thu được từ các buổi tọa đàm tại Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh cho thấy, cán bộ chính quyền huyện và tỉnh, thành phố cho rằng, công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường và pháp luật bảo vệ môi trường hiện nay vẫn còn được thực hiện theo kiểu phong trào và mới chủ yếu chỉ tập trung vào vài ba sự kiện trong một năm như hưởng ứng vào ngày môi trường thế giới (5/6), ngày làm cho thế giới sạch hơn (27/9), ngày đa dạng sinh học (22/4)... Thêm vào đó, việc phổ biến mang tính đại trà thông qua hội nghị, băng rôn, khẩu hiệu, loa phát thanh, tờ rơi, tờ gấp[144] cũng chưa đánh trúng nhu cầu tìm hiểu pháp luật mang tính chuyên sâu của từng nhóm đối tượng cụ thể, của từng cộng đồng dân cư ở cơ sở. Điều đó cũng làm cho hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao.
Thứ ba, có sự thiếu hụt, hạn chế khá lớn về điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường ở hầu hết các địa phương được khảo sát. Phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể tuyên truyền lên đối tượng, là một trong những cách thức để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Tuy nhiên để công tác này được thực hiện một cách khoa học, bài bản và đạt hiệu quả thì các cấp, các ngành có thẩm quyền hàng năm phải xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong đó có lĩnh vực bảo vệ môi trường và các điều kiện đảm bảo khác đi kèm như nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện truyền thông, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Theo kết quả khảo sát đối với cán bộ cấp xã, huyện trong nghiên cứu này, có 228/376 cán bộ cấp xã và cấp huyện (chiếm 60,6% số cán bộ cấp xã, cấp huyện được phỏng vấn) cho rằng các điều kiện đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (như nguồn nhân lực, trang thiết bị, nguồn kinh phí) hiện nay chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu mà thực tế đặt ra. Một tỷ lệ rất đáng kể (117/376 cán bộ cấp xã, cấp huyện được phỏng vấn, chiếm 31,1% số cán bộ cấp xã và cấp huyện được phỏng vấn) cho rằng các điều kiện đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay hoàn toàn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế đặt ra. Thực tế làm việc với các cơ quan có thẩm quyền ở Hà Nội, Hòa Bình và Bắc Ninh cũng cho thấy kinh phí cho hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu và chủ yếu là tập trung ở cấp tỉnh, huyện, còn cấp xã thì rất ít[145]. Đơn cử, kinh phí của một đơn vị cấp xã của tỉnh Bắc Ninh được cấp cho hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật nói chung (mà trong đó pháp luật bảo vệ môi trường chỉ là một lĩnh vực) chỉ xấp xỉ 10 triệu đồng/năm[146]. Lượng kinh phí như vậy làm cho các cán bộ có trách nhiệm thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật không có nhiều điều kiện và động lực để nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, đa dạng hóa nội dung và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường và tăng tần suất thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến. Ngoài ra, nguồn nhân lực tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở các địa bàn được khảo sát (bao gồm cả đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên làm việc cho cơ quan môi trường, cơ quan tư pháp hoặc các tổ chức chính trị - xã hội[147]) đều thiếu về số lượng và chưa được đào tạo, tập huấn nhiều về kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật. Có hiện tượng một số báo cáo viên pháp luật thiếu kỹ năng hoặc thậm chí không có chuyên môn sâu trong lĩnh vực môi trường nhưng cũng được mời tham gia công việc truyền thông pháp luật về bảo vệ môi trường làm cho các buổi truyền thông pháp luật về bảo vệ môi trường kém hấp dẫn. Trong khi đó các báo cáo viên đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn thì lại thường chỉ hoạt động kiêm nhiệm và rất thiếu thời gian để dành cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, các địa phương đều gặp khó khăn trong việc mời các báo cáo viên có chất lượng khi định mức kinh phí chi trả cho các báo cáo viên hiện nay rất thấp, không thu hút được sự tham gia của những người có năng lực, trình độ.
Từ thực trạng kể trên, khi được hỏi về đề xuất để nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông pháp luật về bảo vệ môi trường trong thời gian tới, có 214/383 cán bộ cấp xã và cấp huyện được hỏi (chiếm 56%) cho rằng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; trong khi đó có 268/383 cán bộ cấp xã và cấp huyện được hỏi (chiếm 69,9%) cho rằng cần đa dạng hóa các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường; có 295/383 cán bộ cấp xã và cấp huyện được hỏi (chiếm 77%) cho rằng cần đầu tư tài chính, điều kiện cơ sở vật chất để công tác truyền thông pháp luật về bảo vệ môi trường được thực hiện ngày càng hiệu quả hơn[148].
IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ CƠ SỞ TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
4.1. Tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường, đầu tư thỏa đáng nguồn lực cho công tác truyền thông pháp luật về bảo vệ môi trường. Công tác truyền thông này cần được tiến hành kiên trì, liên tục, với sự lồng ghép một cách hợp lý vào các chương trình, hoạt động kinh tế - xã hội, các sự kiện chính trị - văn hóa, xã hội, kinh tế của địa phương. Chẳng hạn, với cư dân nông thôn, truyền thông ý thức bảo vệ môi trường cho nông dân cần được lồng ghép hợp lý vào các buổi tập huấn kỹ thuật canh tác nông nghiệp (hướng dẫn trồng lúa, hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách an toàn v.v.). Đối với cư dân đô thị, cần sử dụng đa dạng các kênh truyền thông, trong đó, cần coi trọng việc truyền thông qua Internet, truyền thông qua báo chí, tờ rơi, tờ gấp.
Việc truyền thông về bảo vệ môi trường cần đưa ra các thông điệp rõ ràng, dễ nhớ, dễ thực hiện, đưa ra các yêu cầu thay đổi hành vi cụ thể như bỏ rác đúng nơi quy định, thực hiện việc phân loại rác, hợp tác với các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc nộp phí vệ sinh môi trường v.v.
Khi tiến hành truyền thông, rất cần phân loại các tầng lớp dân cư để có sự truyền thông cho phù hợp. Nên ưu tiên truyền thông bảo vệ môi trường cho trẻ em và thanh thiếu niên vì đây là đối tượng dễ tiếp nhận thông tin và dễ thay đổi thói quen theo chiều hướng tích cực, đồng thời, đối với những đối tượng này, khi đã hình thành được thói quen sinh hoạt, ứng xử thân thiện và có trách nhiệm với môi trường thì thời gian mà họ làm lợi cho môi trường cũng là lớn nhất.
- Việc truyền thông cũng cần lưu ý không chỉ truyền thông việc tham gia bảo vệ môi trường của mỗi người dân chỉ như là một nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc, mà cần truyền thông đầy đủ những quyền năng của tổ chức, cá nhân, nhất là quyền của người dân trong việc được tiếp cận với các thông tin về hiện trạng môi trường mình đang sống, quyền của người dân được thực hiện và tham gia thực hiện các hoạt động giám sát xã hội trong bảo vệ môi trường, truyền thông về cách thức thực hiện quyền của người dân khi gặp vấn đề về môi trường (chẳng hạn quyền khiếu nại, khởi kiện, quyền tố cáo, quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vấn đề môi trường mà người dân, cộng đồng dân cư đang gặp phải). Làm tốt việc truyền thông như vậy, cách ứng xử của người dân sẽ mang tính hợp pháp và trật tự hơn. Cách làm truyền thông như thế cũng có thể góp phần phòng ngừa được những loại phản ứng tiêu cực mà trong thực tế người dân ở một số địa phương đã thực hiện (kiểu tụ tập đông người, lập chốt chặn không cho xe rác tiếp cận vào bãi rác, lập chốt chặn không cho xe cộ ra vào từ nhà máy gây ô nhiễm v.v.).
- Tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia công tác bảo vệ môi trường, biểu dương khuyến khích kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành tích cao trong công tác bảo vệ môi trường. Những sáng kiến của Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Liên đoàn lao động và của Hội cựu chiến binh trong công tác bảo vệ môi trường các cấp (nhất là cấp cơ sở) rất nên được khuyến khích và phát huy.
- Cơ quan môi trường các cấp (nhất là cơ quan môi trường các huyện, cơ quan môi trường các thành phố, thị xã thuộc tỉnh và cơ quan môi trường cấp tỉnh) cần chủ động phối hợp với các phòng, Sở Tư pháp và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị (nhất là với Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh) xây dựng các chương trình, kế hoạch hàng năm để truyền thông, nâng cao nhận thức của người dân, của cộng đồng về công tác bảo vệ môi trường ở địa phương. Có giải pháp hợp lý khắc phục tình trạng chồng chéo trong công tác truyền thông nâng cao nhận thức của người dân, cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường. Xây dựng lực lượng nòng cốt về truyền thông bảo vệ môi trường trong tất cả các cơ quan, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể, thiết lập và vận hành có hiệu quả mạng lưới tuyên truyền viên Trung ương và địa phương về công tác bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tấn báo chí trong công tác truyền thông bảo vệ môi trường.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc xã hội hóa công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của người dân, cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường, huy động có hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước cho lĩnh vực này.
- Đa dạng hóa các phương tiện truyền thông về bảo vệ môi trường như hệ thống báo chí, áp phích, tờ rơi, kết hợp với các hình thức tuyên truyền khác như tập huấn, hội thi, văn nghệ... Đổi mới phương pháp tiếp cận trong truyền thông từ việc truyền thông những gì mà cơ quan nhà nước có sang truyền thông những gì mà cộng đồng, người dân thực sự cần. Bảo đảm nội dung và hình thức truyền thông ngắn gọn, dễ hiểu, thiết thực với cộng đồng, thúc đẩy sự thay đổi hành vi trong cộng đồng theo hướng thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên trong đời sống hàng ngày.
- Đẩy mạnh việc cung cấp thông tin về hiện trạng môi trường cho người dân, tăng cường các hình thức đối thoại giữa cộng đồng dân cư cơ sở với các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường, với các cơ quan nhà nước về bảo vệ môi trường. Việc đối thoại này không chỉ giúp cho người dân được bổ sung kiến thức, tiếp cận các thông tin cần thiết mà còn giúp chính quyền các cấp (tỉnh, huyện, xã) nắm bắt được nhu cầu, nguyện vọng thực tế của người dân đối với công tác bảo vệ môi trường.
- Tiếp tục thực hiện việc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường ở cộng đồng dân cư cơ sở vào Hương ước, Quy ước của thôn, làng, tổ dân phố để Hương ước, quy ước không những góp phần bảo tồn và phát huy thuần phong mỹ tục, các chuẩn mực đạo lý truyền thống của dân tộc mà còn là công cụ đắc lực trong việc vận động, giữ gìn vệ sinh môi trường cho cộng đồng, phòng ngừa và kiểm soát có hiệu quả các tranh chấp thường ngày liên quan tới môi trường trong nhân dân.
- Nhân rộng các mô hình bảo vệ môi trường đã chứng minh được tính hiệu quả (như mô hình ở phường Tiền An, Bắc Ninh, mô hình ở phường trung tâm của thành phố Hoà Bình, các mô hình tự quản bảo vệ môi trường) nhằm tạo ra phong trào rộng lớn phát huy vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường mà trước hết là việc thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt (chẳng hạn, tổ chức các tổ, đội thu gom rác thải sinh hoạt), làm sạch đường làng, ngõ xóm, đường phố (hàng tuần, hàng tháng) trên cơ sở nhu cầu thực tiễn của cộng đồng. Phát huy các phong trào tình nguyện để tập hợp, thu hút người dân hưởng ứng tham gia công tác bảo vệ môi trường tại cộng đồng, đem lại cho cộng đồng môi trường sống trong lành, văn minh, hiện đại.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người dân trong sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp cần phải áp dụng các phương pháp, cách thức sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (phun thuốc, cách chăm bón, thời hạn thu hoạch sau phun thuốc) theo đúng quy định để tạo ra nguồn rau, củ, quả an toàn cho người sử dụng. Trong chăn nuôi cần tạo nguồn cung cấp thức ăn cho gia súc, gia cầm sạch; áp dụng khoa học kỹ thuật về trong chăn nuôi, giết mổ, bảo quản thực phẩm... để tạo ra nguồn thực phẩm sạch cho người dân.
- Sớm triển khai đầy đủ và nghiêm túc các quy định tại Điều 83 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 về tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường. Cụ thể, theo quy định tại Điều 83 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Nhà nước khuyến khích cộng đồng dân cư thành lập tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường nơi mình sinh sống. Tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường được thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng trách nhiệm, tuân theo quy định của pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ sau: a) Kiểm tra, đôn đốc hộ gia đình, cá nhân thực hiện quy định về giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường; b) Tổ chức thu gom, tập kết và xử lý chất thải; c) Giữ gìn vệ sinh môi trường tại khu dân cư và nơi công cộng; d) Xây dựng và tổ chức thực hiện hương ước về bảo vệ môi trường; tuyên truyền, vận động nhân dân xóa bỏ hủ tục, thói quen mất vệ sinh, có hại cho sức khỏe và môi trường; đ) Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn. Ủy ban nhân dân cấp xã quy định về tổ chức, hoạt động và tạo điều kiện để tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường hoạt động có hiệu quả.
- Thực hiện nghiêm các quy định tại Điều 82 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 về yêu cầu bảo vệ môi trường đối với hộ gia đình, theo đó, hộ gia đình bao gồm: (1) Giảm thiểu, phân loại tại nguồn, thu gom và chuyển rác thải sinh hoạt đến đúng nơi quy định; (2) Giảm thiểu, xử lý và xả nước thải sinh hoạt đúng nơi quy định; (3) Không được phát tán khí thải, gây tiếng ồn, độ rung và tác động khác vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư xung quanh; (4) Nộp đủ và đúng thời hạn phí bảo vệ môi trường; chi trả cho dịch vụ thu gom, xử lý chất thải theo quy định của pháp luật; (5) Tham gia hoạt động bảo vệ môi trường công cộng và tại khu dân cư; (6) Có công trình vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm bảo đảm vệ sinh, an toàn.
4.2. Hoàn thiện tổ chức, bộ máy và đẩy mạnh công tác tổ chức thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường ở các địa phương
- Rà soát, đánh giá, xác định rõ trách nhiệm của các Ban, ngành, trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trưởng theo hướng, tăng cường trách nhiệm của cơ quan Tài nguyên và Môi trường từ tỉnh đến cơ sở, đảm bảo tính thống nhất trong công tác quản lý, đồng thời bảo đảm tính độc lập tương đối của bộ máy kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật với các ngành kinh tế, xã hội khác; hạn chế việc phân tán chức năng quản lý nhà nước theo các ngành quản lý kinh tế - xã hội. Nghiên cứu việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Tài nguyên và Môi trường cũng như các Ban, ngành có liên quan, nhằm khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ thuộc một số lĩnh vực quản lý như: quản lý chất thải rắn, bảo vệ môi trường trong hoạt động nông nghiệp và nông thôn, quản lý môi trường trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và quản lý thị trường nội địa, bảo tồn đa dạng sinh học, thanh tra, kiểm tra chuyên ngành về môi trường, bảo vệ môi trường lưu vực sông...
- Xây dựng cơ chế và quy định trách nhiệm phối hợp, phân công, phân cấp hợp lý nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường giữa các ngành, các cấp.
- Kiến nghị Bộ Công an, Công an các tỉnh/thành sớm thành lập đội Cảnh sát môi trường tại Công an cấp huyện vì hiện nay đội Cảnh sát môi trường chỉ có ở cấp Quận, còn các huyện chưa có biên chế mà do đội Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế kiêm nhiệm nên đội thường thiếu quân số, làm việc chưa được chuyên sâu, nên hiệu quả công tác còn nhiều hạn chế[149].
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt đối với các nhà máy, khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật về môi trường. Áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm khắc và kiên quyết đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.
- Tăng cường công tác phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử; rà soát, lập danh mục các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng để tham mưu cho các cấp có thẩm quyền đề ra kế hoạch xử lý nghiêm khắc, triệt để đối với các vi phạm pháp luật về môi trường.
4.3. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo hướng ghi nhận đầy đủ vai trò và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng dân cư phát huy vai trò của mình trong công tác bảo vệ môi trường. Cụ thể:
- Trên cơ sở quy định về tham vấn cộng đồng dân cư cơ sở khi chủ dự án thực hiện đánh giá tác động môi trường mà Luật Bảo vệ môi trường trước đây cũng như Luật Bảo vệ môi trường mới, cần quy định chi tiết quy trình thực hiện, bảo đảm sự tham gia thực chất của cộng đồng dân cư ở cơ sở. Hiện tại, theo quy định tại Điều 21 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, chủ dự án có trách nhiệm "Tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường nhằm hoàn thiện báo cáo đánh giá tác động môi trường, hạn chế thấp nhất các tác động xấu đến môi trường và con người, bảo đảm sự phát triển bền vững của dự án". Việc tham vấn ấy phải được thực hiện không chỉ với cơ quan, tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án mà phải tham vấn "cộng đồng chịu tác động trực tiếp bởi dự án". Trong thực tế đi khảo sát, như chúng tôi đã trình bày ở phần trước, việc tham vấn chủ yếu được thực hiện bằng cách lấy ý kiến của Mặt trận tổ quốc xã nơi triển khai dự án và việc tham vấn rất thiếu thực chất. Chính vì thế, để triển khai quy định tại Điều 21 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, khắc phục những bất cập trong công tác tham vấn ý kiến cộng đồng dân cư cơ sở trong việc triển khai các dự án tiềm ẩn tác động xấu tới môi trường, quy trình tham vấn cần được đối mới theo hướng tham vấn trực tiếp người dân sinh sống trong cộng đồng dân cư nơi có dự án được dự kiến triển khai. Việc tham vấn phải được tiến hành công khai, minh bạch. Người dân cần được cung cấp thông tin đầy đủ về những tác động tới môi trường của dự án và phải có thời gian nghiên cứu, trao đổi ý kiến thực chất trước khi các buổi họp tham vấn ý kiến của người dân được bắt đầu. Ngoài ra, cần sửa đổi các quy định về đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường theo hướng, tạo cơ chế, lộ trình và giải pháp hợp lý để giải quyết đối với các cá thể, làng nghề và doanh nghiệp đã được thành lập và đi vào hoạt động ổn định trước khi Luật Bảo vệ môi trường được ban hành; quy định chế tài đối với Hội đồng thẩm định đánh giá tác động môi trường.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về thông tin môi trường trên cơ sở các quy định về thông tin môi trường trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014. Theo quy định tại Điều 128 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, thông tin môi trường gồm số liệu, dữ liệu về thành phần môi trường, các tác động đối với môi trường, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường. Cơ sở dữ liệu môi trường là tập hợp thông tin về môi trường được xây dựng, cập nhật và duy trì đáp ứng yêu cầu truy nhập, sử dụng thông tin cho công tác bảo vệ môi trường và phục vụ lợi ích công cộng. Điều 129 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia (do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì thực hiện), cơ sở dữ liệu môi trường của các ngành và của các địa phương (do các Bộ, ngành và địa phương thực hiện). Như vậy, trong cả nước sẽ có khoảng hơn 12 ngàn cơ sở dữ liệu môi trường các loại (bao gồm khoảng 11 ngàn cơ sở dữ liệu môi trường cấp xã, 700 cơ sở dữ liệu môi trường cấp huyện, 63 cơ sở dữ liệu môi trường cấp tỉnh và trên 20 cơ sở dữ liệu môi trưởng của bộ, ngành cùng với 1 cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia). Đây là hệ thống kho dữ liệu khổng lồ về thực trạng môi trường ở Việt Nam mà việc xây dựng, vận hành hệ thống kho dữ liệu này không hề đơn giản, phải đi kèm với các quy định về mô hình tổ chức, quy chế hoạt động, các chế độ tài chính có liên quan. Do vậy, để triển khai các quy định này, trong thời gian tới, Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và các bộ, ngành có liên quan phải vào cuộc để xây dựng các văn bản hướng dẫn chi tiết, tạo dựng hành lang pháp lý phù hợp để các bộ, ngành, địa phương triển khai công việc của mình một cách thuận lợi, tạo điều kiện để mọi người dân, các cộng đồng dân cư tiếp cận được với các thông tin về hiện trạng môi trường, các thông tin về chính sách, pháp luật bảo vệ môi trường cần thiết để phát huy vai trò của mình trong bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Điều 130[150] và 131 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng có các quy định về công bố, cung cấp thông tin môi trường, công khai thông tin về môi trường rất có ý nghĩa đối với việc phát huy vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong bảo vệ môi trường. Quy trình, thủ tục thực hiện các hoạt động về công bố, cung cấp thông tin, công khai thông tin về môi trường theo đúng tinh thần của Điều 130, 131 cũng rất nên sớm được ban hành để triển khai thực hiện trong thực tế[151].
- Các quy định của Bộ luật hình sự liên quan tới tội phạm trong lĩnh vực môi trường cũng rất nên tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi hoặc hướng dẫn thực hiện. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1999, trong chương các tội phạm về môi trường đã không quy định dấu hiệu "đã bị xử phạt vi phạm hành chính" làm dấu hiệu bắt buộc để định tội. Tuy nhiên, các dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" vẫn là các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng của phần lớn các tội danh. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi, tránh sự tùy tiện, không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật trong thực tế cần được quy định trong các văn bản liên ngành Trung ương hướng dẫn thi hành, định lượng hóa các dấu hiệu nêu trên. Ngoài ra, trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự lần này, vấn đề quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trường rất nên được đặt ra.
- Đối với pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nên tăng thẩm quyền xử phạt của UBND cấp xã và cấp huyện để việc áp dụng quy định tại Nghị định số 179/2013/NĐ-CP được thuận lợi hơn, tránh tình trạng có khoảng cách quá xa giữa cơ quan phát hiện hành vi vi phạm với chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm.
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về giải quyết bồi thường thiệt hại trong Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 113/2010/NĐ-CP đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường gây ra. Bên cạnh đó, cần có hướng dẫn rõ ràng để người dân, những nạn nhân của ô nhiễm môi trường có thể bảo vệ quyền lợi của mình thông qua việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, khởi kiện ra tòa án.
- Tiếp tục hoàn thiện các chính sách, pháp luật về phí, lệ phí môi trường, các chính sách hỗ trợ và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xử lý môi trường trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề, các chính sách về tiết kiệm và sử dụng hợp lý tài nguyên. Có chính sách khuyến khích việc áp dụng các giải pháp khoa học công nghệ, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng hợp lý cho nông dân để tiết kiệm nguồn nước, tiết kiệm chi phí giống, thuốc bảo vệ thực vật. Ban hành các văn bản về tăng cường công tác thu gom và xử lý chất thải rắn, nâng dần tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt, công nghiệp, y tế nguy hại được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; không để tồn đọng các loại rác nói trên chưa qua xử lý mà xả trực tiếp ra ngoài môi trường, gây ô nhiễm môi trường. Có chính sách cụ thể hơn về việc xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài để tranh thủ vốn, công nghệ, cách thức tổ chức triển khai các nhiệm vụ liên quan đến công tác bảo vệ môi trường. Nâng mức thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn[152], khai thác khoáng sản[153], sớm ban hành các văn bản hướng dẫn để các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng một cách thuận lợi và thống nhất. Nghiên cứu, xây dựng và ban hành chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (chính sách đất đai, cơ chế miễn giảm thuế, cơ chế giao thầu cho các tổ chức tư nhân tham gia cung ứng dịch vụ bảo vệ môi trường, chính sách lao động v.v.) nhất là đối với các công ty thu gom rác thải về môi trường; các công ty xây dựng các bãi chôn lấp chất thải; huy động các nguồn lực xã hội tham gia công tác bảo vệ môi trường. Cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, ban hành các cơ chế, chính sách tạo điều kiện để các cá nhân, doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi để thành lập các công ty xử lý môi trường như (xây dựng các bãi rác thải, xử lý nguồn nước, không khí...) hoặc mua các phương tiện, kỹ thuật để xử lý ô nhiễm môi trường. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường theo hướng phân biệt rõ việc áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường giữa các dự án mới đầu tư với các cơ sở đang hoạt động; ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn áp dụng cho từng lĩnh vực đặc thù.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm phân định và phân công, phân cấp rõ ràng về trách nhiệm quản lý nhà nước giữa các cơ quan từ Trung ương đến cơ sở; giữa trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và trách nhiệm quản lý nhà nước về khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên giữa các cơ quan có thẩm quyền chung và các cơ quan quản lý chuyên ngành. Quy định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan, ngành cũng như từng đơn vị chuyên môn, chuyên trách quản lý nhà nước về môi trường ở các cơ quan này; bổ sung các quy định phân cấp trong thanh tra, kiểm tra, tránh tình trạng nhiều đoàn thanh tra cùng thanh tra, kiểm tra một đơn vị hoặc một doanh nghiệp về một vụ việc cụ thể, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp.
4.4. Bố trí hợp lý nguồn lực cho hoạt động bảo vệ môi trường tại các địa phương
- Tăng nguồn chi cho sự nghiệp môi trường từ 1% tổng chi ngân sách hàng năm (việc trích này mới áp dụng từ năm 2006 đến nay) lên khoảng 2% thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường đặt ra (Ví dụ, ở Trung Quốc và các nước ASEAN đầu tư cho môi trường trung bình hàng năm chiếm khoảng 1% GDP, ở các nước phát triển thường chiếm từ 3- 4% GDP)[154].
- Nâng cao vai trò điều phối của cơ quan quản lý môi trường các cấp trong quản lý, sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường từ tỉnh tới cơ sở; tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát các ban, ngành để thực hiện đúng chức năng là cơ quan chịu trách nhiệm về chuyên môn, điều phối hoạt động bảo vệ môi trường và quản lý, sử dụng có hiệu quả ngân sách chi sự nghiệp môi trường. Tăng kinh phí cho đầu tư cơ bản để xây dựng các công trình xử lý chất thải mang tính chất công ích, thực hiện các dự án đầu tư về cải thiện môi trường, về cơ sở hạ tầng bảo vệ môi trường. Xây dựng và ban hành các chính sách cụ thể nhằm đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường, đặc biệt là các hướng dẫn cụ thể nhằm thực hiện các ưu đãi về huy động vốn đầu tư, về thuế, phí đã được quy định tại Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/01/2009 của Chính phủ về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường...
- Ưu tiên đầu tư kinh phí nhằm tăng cường năng lực cho lực lượng Cảnh sát môi trường theo tinh thần của Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 12/6/2009 của Chính phủ. Trong kinh phí sự nghiệp môi trường hàng năm theo Luật Bảo vệ môi trường, cần bổ sung mục chi cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về vi phạm pháp luật môi trường. Bổ sung ngân sách để đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị chuyên dùng và biên chế cho Bộ Công an để tăng cường cho lực lượng Cảnh sát môi trường đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Đầu tư trang thiết bị cần thiết cho Phòng tài nguyên và môi trường, Sở Tài nguyên và môi trường, lực lượng cảnh sát môi trường nhằm tăng cường năng lực phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chẳng hạn, các Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường cần được trang bị các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ ghi lại hình ảnh, các phương tiện xét nghiệm nhanh tình trạng ô nhiễm, xác định kịp thời mức độ gây ô nhiễm do các cá nhân, tổ chức vi phạm gây ra làm căn cứ xác dịnh hành vi vi phạm và mức xử lý phù hợp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường[155]. Đối với lực lượng cảnh sát môi trường, cần đầu tư các phương tiện, thiết bị kỹ thuật về môi trường của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là các thiết bị đo; kiểm; thu, bảo quản và vận chuyển mẫu; phân tích môi trường về đất, nước, khí, chất rắn, phóng xạ, điện từ trường, vi khí hậu, thủy văn, biển và các yếu tố môi trường khác được sản xuất, nhập khẩu phù hợp với các quy định của pháp luật như: (1) Thiết bị đo nhanh khí; (2) Thiết bị đo nhanh nước; (3) Thiết bị đo bụi; (4) Thiết bị đo độ rung; (5) Thiết bị đo độ ồn; (6) Thiết bị đo phóng xạ; (7) Thiết bị đo cường độ ánh sáng; (8) Thiết bị đo sóng viba; (9) Thiết bị đo bức xạ; (10) Thiết bị đo điện từ trường; (11) Thiết bị phân tích khí; (12) Thiết bị phân tích nước và chất lỏng; (13) Thiết bị phân tích đất; (14) Thiết bị phân tích chất rắn; (15) Thiết bị phân tích các yếu tố vi sinh vật; (16) Thiết bị đo vi khí hậu; (17) Thiết bị đo lưu tốc dòng; (18) Trạm kiểm định môi trường di động; (19) Thiết bị định vị vệ tinh GPS; (20) Thiết bị thu mẫu môi trường; (21) Thiết bị bảo quản mẫu môi trường; (22) Thiết bị ghi âm và ghi hình.[156]
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT TÊN VĂN BẢN
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI.
3. Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Chỉ thị số 32/CT/TW ngày 09/12/2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
5. Nghị quyết số 41-NQ-TW ngày 25/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
6. Bộ luật dân sự 2005.
7. Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
8. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.
9. Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVH11 ngày 20/4/2007 quy định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
10. Nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 của Chính phủ quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
11. Nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 28/11/2007 của Chính phủ quy định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn.
12. Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007 của Chính phủ quy định về quản lý chất thải rắn.
13. Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường.
14. Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
15. Nghị định số 113/2010/NĐ-CP ngày 03/12/2010 của Chính phủ quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường.
16. Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường.
17. Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
18. Quyết định 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 - 2010.
19. Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của TTgCP về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng.
20. Thông tư liên tịch 03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBTUMTTOVN 30/10/2000 Hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư.
21. Thông tư liên tịch số 04/2006/ TTLT- KH&ĐT - UBTUMTTQVN-TC ngày 04/12/2006 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của TT/P về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng.
22. Thông tư số 70/2007/TT-BNN ngày 20/4/2007 của Bộ Nội vụ hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn.
23. Nghị quyết liên tịch 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
24. Thông tư 04/2008/TT-BTNMT ngày 18/9/2008 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn lập, phê duyệt hoặc xác nhận đề án bảo vệ môi trường và kiểm tra, thanh tra việc thực hiện đề án bảo vệ môi trường.
25. Thông tư 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công nghiệp.
26. Thông tư liên tịch 73/2010/TTLT-BTC-BTP 14/05/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
27. Thông tư số 18/2010/TT-BTP 15/11/2010 của Bộ Tư pháp quy định về Báo cáo viên pháp luật.
28. Thông tư 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại.
29. Thông tư số 01/2012/TT-BTNMT ngày 07/5/2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về lập, thẩm định, phê duyệt và kiểm tra xác nhận việc thực hiện Đề án Bảo vệ môi trường chi tiết.
30. Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT ngày 28/11/2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về bảo vệ môi trường làng nghề.
31. Thông tư số 48/2011/TT-BTNMT 28/12/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT.
32. Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV ngày 06/12/2002 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố.
33. Tài liệu khảo sát tại TP. Hà Nội
33.1. Khảo sát tại xã, phường
Báo cáo của Phường Mai Động, Quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Phường Lĩnh Nam, Quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
Báo cáo của xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
Báo cáo của xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
33.2. Khảo sát tại quận, huyện
- Tại quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội, bao gồm:
Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Cảnh sát môi trường quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Hội nông dân quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Hội liên hiệp phụ nữ quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
- Tại huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội, bao gồm:
Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Hội nông dân huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Phòng Tư pháp huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
Báo cáo của Hội liên hiệp Phụ nữ huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
34. Tài liệu khảo sát tại tỉnh Bắc Ninh
34.1. Khảo sát tại xã, phường
Báo cáo của xã An Bình, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của thị trấn Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của xã Khắc Niệm, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Đoàn thanh niên Cộng săn Hồ Chí Minh, Phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
34.2. Khảo sát tại thành phố, huyện
- Tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, bao gồm:
Báo cáo của Mặt trận tổ quốc, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Hội nông dân, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Công an, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Hội Phụ nữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
- Tại Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, bao gồm:
Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Hội Phụ nữ, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Công ty môi trường đô thị, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
34.3. Khảo sát tại Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh
Báo cáo của Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Bắc Ninh.
Báo cáo của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tỉnh Bắc Ninh.
Báo cáo của Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bắc Ninh.
Báo cáo của Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh.
Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh.
Báo cáo của Phòng Cảnh sát môi trường tỉnh Bắc Ninh.
35. Tài liệu khảo sát tại tỉnh Hòa Bình
35.1. Khảo sát tại xã, phường
Báo cáo của xã Mông hoa, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của thị trấn Kỳ Sơn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo Phường Tân Thịnh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hoa Bình.
Báo cáo Phường Thái Bình, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
35.2. Khảo sát tại thành phố, huyện
- Tại thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, bao gồm:
Báo cáo của xã Thống nhất, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo Phường Phúc Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
Báo cáo của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Cảnh sát môi trường, công an thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Hội nông dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Mặt trận tổ quốc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
- Tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình, bao gồm:
Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của công an huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Hội nông dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Hội phụ nữ huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.
35.3. Khảo sát tại Sở Tư pháp tỉnh Hòa Bình
Báo cáo của Phòng cảnh sát môi trường tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Mặt trận tố quốc Việt Nam tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Hội nông dân tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Hòa Bình.
Báo cáo của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Hòa Bình.
* Tài liệu từ Website
36. Diachiso.vn/tin-bai/bai-viet-ha-noi/van-hoa-va-cuoc-song/dan-so-va-dien-tich-thanh-pho-ha-noi.htm.
37. http://www.nhandan.com.vn/phongsu/dieu-tra/item/20690502.html
38. http://thanhtravietnam.vn/vi-VN/News/thanhtravaxahoi/2013/06/30537.aspx
39. http://www.thanhtra.com.vn/kien-quyet-dung-hoat-dong-neu-khong-vao-cum-cong-nghiep_ t221c1143n58028tn.aspx
40. http://phapluatxahoi.vn/20120828094052208p1001c1017/vi-sao-bai-rac-moi-duoc-dau-tu-hang-chuc-ty-dong-bi-bo-hoang.htm
41. http://m.nguoiduatin.vn/lang-nghe-ha-doc-moi-truong-a86872.html
42. http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_phapluat/_mobile_thoisu/item/15315202.html
43. http://www.tinmoitruong.vn/nuoc/hoa-binh--nha-may-che-bien-quang-gay-o-nhiem-moi-truong 6_11044_1.html
44. http://moitruong.xaydung.gov.vn/moitruong/module/news/viewcontent.asp?ID=2239&langid=1
45. www.vietnamplus.vn/Home/Day-lui-o-nhiem-lang-nghe-o-Bac-Ninh-Can-manh-tay/201212/ 172544. vnplus
46. http://www.urenco.com.vn/default.asp?tab=detailnews&zone=130&id=212&tin=221
47. http://www.baohoabinh.com.vn/28/79065/Nang_cao_hieu_luc_QLNN_ve_bao_ve_moi_truong.htm
48. http://www.baohoabinh.com.vn/28/78895/Kim_Boi_Tai_dien_vi_pham_tr11ing khai thac khoang san.htm
49. http://www.baohoabinh.com.vn/28/19672/Tan_Vinh_Dan_song_chung_voi_khoi_bui_.htm
50. http://baotintuc.vn/phap-luat/hoa-binh-quyet-tam-xoa-lo-gach-gay-o-nhiem-20120213232725166.htm
51. http://www.mattran.org.vn/Home/TapChi/so%2064/ptcvd.htm
52. http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module=News&Id=66
53. http://cect.gov.vn/index.php?m=news&p=detailNews&newid=203
54. http://chaobuoisang.net/vu-gan-2000-nguoi-hit-khi-doc-vuong-san-can-bo-dia-phuong-1603132.htm
55. http:/tinmoitruong.vn/nuoc/hoa-binh-nha-may-che-bien-quang-gay-o-nhiem-moi-truong 6-11044-1.html
56. http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_phapluat/_mobile_thoisu/item/15315202.html
57. http://www.monre.gov.vn/v35/default.aspx?tabid=428&CateID=24&ID=67162&Code=9CQNW67162
58. http://www.baoviet.com.vn/nhantho/newsdetail.asp?websiteld=1&newsId=176&catId=33&lang=VN
59. http://vea.gov.vn/vn/truyenthong/sukiengayle/hoinghimttq/phientoanthe/Pages/B%C3%Aloc%C3%1oc%E1%BB%A7aB%E1%BB%99T%C3%AOinguy%C3%AAnv%C3%0M%C3%B4¡tr%C6%B0%E1%BB%9Dng.aspx
60. http://ibla.org.vn/?cate=f&id=28294
61. http://cpv.org.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=10008&en id=594561
62. http://m.nguoiduatin.vn/lang-nghe-ha-doc-moi-truong-a86872.html
63. http://www.baomoi.com/Hoa-Binh-Cho-nong-san-Dong-Tam-ngap-trong-rac/144/7260050.epi
64. http://www.pcijsc.com/xu-ly-o-nhiem-moi-truong-bang-che-pham-vi-sinh-at--ytb_c11_p24.html
65. http://baotintuc.vn/phap-luat/hoa-binh-quyet-tam-xoa-lo-gach-gay-o-nhiem-20120213232725166.htm
66. http://www.baohoabinh.com.vn/28/81122/Tinh_trang_o_nhiem_moi_truong_o_ Nha may_xi _mang_Vinh_Son_.htm
67. http://www.pcijsc.com/xu-ly-o-nhiem-moi-truong-bang-che-pham-vi-sinh-at--ytb_c11_p24.html
68. http://thuylucmay.com.vn/print.asp?id=354&catid=300
69. http://baohoabinh.com.vn/28/54547/Buc_xuc_rac_thai_thanh_pho_Hoa_Binh.htm
CÁC MẪU PHIẾU KHẢO SÁT
BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
Kính thưa: Ông/Bà
Để có cơ sở cho việc đánh giá ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường góp phần nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở, xin Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách đánh dấu (x) vào ô phù hợp nhất với ý kiến của Ông/Bà, hoặc trả lời vào khoảng trống dưới câu hỏi. Các thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học và các thông tin cá nhân được giữ bí mật.
Câu 1. Theo quan sát củaÔng/Bà, môi trường (tự nhiên) ở địa phương nơi Ông/Bà đang sinh sông có bị ô nhiễm hay không? (Chỉ chọn một phương án trả lời)
-
Có (Trả lời tiếp câu 2)
-
Không biết (Bỏ qua câu 2, 3 chuyển sang câu 4)
Câu 2. Yếu tố/thành phần môi trường bị ô nhiễm là yếu tố/thành phần môi trường nào dưới đây? (Có thể chọn nhiều phương án trả lời)
-
Đất
-
Nước
-
Không khí
-
Yếu tố môi trường khác.....................................................................
Câu 3. Theo Ông/Bà, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng ô nhiễm môi trường trên là do đâu? (Có thể chọn nhiều phương án)
-
Do người dân địa phương gây ra
-
Do hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đóng trên địa bàn gây ra
-
Do người dân, doanh nghiệp ở địa phương khác gây ra
-
Nguyên nhân khác (nếu có)…………………………………………
Câu 4. Theo Ông/Bà, ý thức bảo vệ môi trường của người dân địa phương đã tốt chưa?
-
Chưa tốt
-
Tốt
-
Rất tốt
-
Không biết
Câu 5. Địa phương Ông/Bà đã xây dựng hương ước, quy ước chưa?
Nếu đã xây dựng thì nội dung của hương ước, quy ước đó có nội dung về bảo vệ môi trường không?
-
Có
-
Không
-
Chưa xây dựng
-
Không biết
Câu 6. Theo Ông/Bà, người dân địa phương nơi Ông/Bà sinh sống có thực hiện nghiêm chỉnh những quy định về bảo vệ môi trường trong hương ước, quy ước không?
-
Chấp hành nghiêm chỉnh
-
Chưa chấp hành nghiêm chỉnh
-
Không biết
Câu 7. Gia đình Ông/Bà thường đổ rác thải sinh hoạt như thế nào?
-
Khi có công nhân vệ sinh đến thu gom rác thải
-
Thu gom rác rồi tự đốt hoặc chôn tại vườn nhà
-
Đổ rác ra nơi quy định
-
Đổ rác ra sông, rạch, bãi đất hoang…
-
Ý kiến khác………………………………………………………….
Câu 8. Trong sản xuất nông nghiệp, Ông/Bà thường sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không? (Dành cho người dân sống ở nông thôn và có hoạt động nông nghiệp)
Nếu có sử dụng thì sử dụng như thế nào?
-
Sử dụng khi nào thấy cần
-
Rất ít khi sử dụng
-
Không sử dụng
Câu 9. Theo Ông/Bà, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp của người dân nơi Ông/Bà sinh sống đã đảm bảo an toàn cho người, nông phẩm và môi trường sống hay chưa? (Dành cho người dân sống ở nông thôn và có hoạt động nông nghiệp)
-
Hoàn toàn đảm bảo
-
Chưa đảm bảo
-
Không biết
Câu 10. Ông/Bà phản ứng thế nào khi dư luận hoặc phương tiện truyền thông phản ánh về các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường tại địa phương (Có thể lựa chọn nhiều phương án)?
-
Bức xúc, mong muốn cá nhân, tổ chức gây ô nhiễm môi trường phải bị xử lý nghiêm khắc
-
Không mua sản phẩm do các cơ sở sản xuất, kinh doanh này sản xuất ra nữa
-
Không quan tâm lắm vì đó là việc của cơ quan chức năng và người bị hại
-
Ý kiến khác………………………………………………………….
Câu 11. Nếu Ông/Bà phát hiện ra tổ chức, cá nhân, cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nơi Ông/Bà sinh sống có hành vi gây ô nhiễm môi trường gây thiệt hại cho gia đình thì Ông/Bà sẽ làm gì? (Có thể lựa chọn nhiều phương án):
-
Phản ánh trực tiếp với cá nhân/ tổ chức gây ô nhiễm yêu cầu khắc phục.
-
Phản ánh thông qua các tổ chức chính trị - xã hội (Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Hội nông dân, Đoàn thanh niên...)
-
Phản ánh tới Tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, trưởng bản
-
Phản ánh với chính quyền địa phương (xã, huyện, tỉnh)
-
Phản ánh với báo chí, truyền thông
-
Phản ánh tới Cảnh sát môi trường
-
Khởi kiện ra Tòa án
-
Không làm gì cả
Câu 12. Trong thực tế, dân cư nơi Ông/Bà đang ở đã bao giờ phản ánh, kiến nghị với các cơ quan chức năng về tình trạng ô nhiễm môi trường tại địa phương chưa?
Nếu đã từng phản ánh thì cộng đồng dân cư của Ông/Bà sử dụng phương thức nào dưới đây (có thể lựa chọn nhiều phương án):
-
Phản ánh trực tiếp với cá nhân/tổ chức gây ô nhiễm yêu cầu khắc phục.
-
Phản ánh thông qua các tổ chức chính trị - xã hội (Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Hội nông dân, Đoàn thanh niên...)
-
Phản ánh tới Tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, trưởng bản
-
Phản ánh với chính quyền địa phương (xã, huyện, tỉnh)
-
Phản ánh với báo chí, truyền thông
-
Phản ánh tới Cảnh sát môi trường
-
Khởi kiện ra Tòa án
-
Chưa từng
Câu 13. Theo Ông/Bà việc chính quyền địa phương giải quyết các phản ánh, kiến nghị của cộng đồng dân cư về hành vi gây ô nhiễm môi trường được thực hiện như thế nào?
-
Kịp thời, thoả đáng
-
Thỏa đáng, nhưng chưa kịp thời
-
Kịp thời nhưng chưa thỏa đáng
Câu 14. Ông/Bà có biết đến sản phẩm hay nguồn nhiên liệu - nguyên liệu thân thiện với môi trường không? (ví dụ: bao bì tự phân hủy, đun nấu bằng khí biogas, bóng đèn tiết kiệm năng lượng)
Nếu có thì Ông/Bà có sử dụng các sản phẩm đó không?
-
Thường xuyên sử dụng
-
Thỉnh thoảng sử dụng
-
Có thể cân nhắc sử dụng nếu nhà nước hỗ trợ về giá
-
Không sử dụng vì giá thành cao
Câu 15. Ông/Bà có biết đến các hoạt động bảo vệ môi trường mà địa phương tổ chức không? (tổ chức dọn dẹp vệ sinh tại khu dân cư, khơi thông hệ thống thoát nước, các cuộc thi tìm hiểu kiến thức môi trường, tuyên truyền về việc sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường, hoạt động mít tinh kỉ niệm ngày môi trường...)
Nếu có thì Ông/Bà có tham gia vào các hoạt động đó không?
-
Tích cực tham gia
-
Thỉnh thoảng có tham gia
-
Chưa bao giờ tham gia
-
Không
Câu 16. Theo Ông/Bà các hoạt động bảo vệ môi trường được tổ chức ở địa phương với tần suất như thế nào?
-
Được tổ chức thường xuyên
-
Thỉnh thoảng mới tổ chức
-
Không tổ chức
Câu 17. Theo Ông/Bà, các hoạt động này mang lại hiệu quả như thế nào đối với việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong hoạt động bảo vệ môi trường?
-
Hiệu quả cao
-
Có hiệu quả nhưng thấp
-
Không có hiệu quả
-
Không biết
Câu 18. Ông/Bà đã bao giờ được tuyên truyền về pháp luật bảo vệ môi trường chưa?
Nếu đã được tuyên truyền thì thông qua hình thức nào? (có thể lựa chọn nhiều phương án):
-
Thông qua loa, đài phát thanh, băng rôn, biểu ngữ
-
Tổ chức các cuộc họp, tọa đàm tại thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố
-
Phát tờ rơi, tờ gấp
-
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về bảo vệ môi trường
-
Thông qua các đoàn thể mà Ông/Bà là thành viên như: Hội phụ nữ, Hội nông dân, đoàn thanh niên...
-
Bằng các hình thức khác (nếu có)………………………………….
Câu 19. Trong các hình thức tuyên truyền đó, Ông/Bà thích hình thức nào nhất? (Chọn 3 phương án)
-
Thông qua loa, đài phát thanh, băng rôn, biểu ngữ
-
Tổ chức các cuộc họp, tọa đàm tại thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố
-
Phát tờ rơi, tờ gấp
-
Tổ chức các cuộc thi tim hiểu về bảo vệ môi trường
-
Thông qua các đoàn thể mà Ông/Bà là thành viên như: Hội phụ nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên…
-
Bằng các hình thức khác (nếu có)………………………………..
Câu 20. Ông/Bà có thường xuyên tiếp cận thông tin về bảo vệ môi trường thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như: Báo, đài, tivi, internet... không?
-
Thường xuyên
-
Thỉnh thoảng
-
Chưa bao giờ (Bỏ qua câu 21, 22)
Câu 21. Ông/Bà đánh giá về hiệu quả tuyên truyền của các phương tiện thông tin đại chúng này như thế nào?
-
Có hiệu quả nhất định nhưng thấp
-
Hiệu quả cao
-
Không hiệu quả
Câu 22. Ông/Bà thích phương tiện truyền thông nào nhất trong số các phương tiện sau?
-
Báo
-
Đài
-
Tivi
-
Intemet
-
Ý kiến khác (nếu có)……………………………………………….
THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI PHIẾU
1. Tuổi:………..;
2. Giới tính:
3. Nghề nghiệp:…………………………………………………………..
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà!
-------------------------------------------------------------
BỘ TƯ PHÁP
VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ
Kính thưa: Ông /Bà
Để có cơ sở cho việc đánh giá ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường góp phần nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở, xin Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách đánh dấu (x) vào ô phù hợp nhất với ý kiến của ông/bà, hoặc trả lời vào khoảng trống dưới câu hỏi. Các thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học và các thông tin cá nhân được giữ bí mật.
Câu 1. Môi trường ở địa phương nơi Ông/Bà đang quản lý có bị ô nhiễm hay không? (Chỉ chọn một phương án trả lời)
Nếu có thì ô nhiễm ở mức độ nào
-
Không nghiêm trọng
-
Nghiêm trọng
-
Đặc biệt nghiêm trọng
-
Không (Bỏ qua câu 2, 3)
Câu 2. Yếu tố/thành phần môi trường bị ô nhiễm là yếu tố/thành phần môi trường nào? (Có thể chọn nhiều phương án trả lời)
-
Đất
-
Nước
-
Không khí
-
Yếu tố môi trường khác……………………………………………...
………………………………………………………………………………...
Câu 3. Theo Ông/Bà, đối tượng nào dưới đây là chủ thể gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường tại địa phương? (Có thể chọn nhiều phương án)
-
Do người dân địa phương
-
Do các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đang hoạt động trên địa bàn
-
Do người dân, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh ở địa phương khác gây ra
-
Đối tượng khác (xin nêu cụ thể)……………………………………..
-
Không biết
Câu 4. Địa phương nơi Ông/Bà quản lý, người dân thường đổ rác thải sinh hoạt như thế nào?
-
Khi có công nhân vệ sinh đến thu gom rác thải
-
Thu gom rác rồi tự đốt hoặc chôn tại vườn nhà
-
Đổ rác ra nơi quy định
-
Đổ rác ra sông, rạch, bãi đất hoang…
-
Ý kiến khác………………………………………………………….
Câu 5. Người dân địa phương nơi Ông/Bà quản lý có sử dụng các nguyên, nhiên liệu, sản phâm thân thiện với môi trường như (bóng đèn tiết kiệm điện, đun nấu bằng khí bi-ô-ga, bao bì tự phân hủy,..) không?
-
Chỉ một số ít người sử dụng
-
Đa số người dân sử dụng
-
Người dân có thể cân nhắc sử dụng nếu nhà nước hỗ trợ về giá
-
Không sử dụng
Câu 6. Người dân địa phương Ông/Bà đang quản lý đã bao giờ phản ánh tới các cơ quan chức năng về tình trạng ô nhiễm môi trường không?
Nếu đã từng phản ánh thì họ thực hiện theo phương thức nào dưới đây? (Có thể lựa chọn nhiều phương án):
-
Gián tiếp thông qua trưởng thôn, trưởng bản
-
Trực tiếp nộp đơn kiến nghị tới chính quyền địa phương (UBND xã)
-
Gián tiếp thông qua các tổ chức chính trị - xã hội (Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Hội nông dân, Đoàn thanh niên...)
-
Người dân cùng nhau tập trung ngăn cản các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm môi trường.
-
Phản ánh tới cơ quan báo chí, truyền thông.
-
Phản ánh tới Cảnh sát môi trường.
-
Hình thức khác (nếu có)…………………………………………….
………………………………………………………………………………...
Câu 7. Khi chính quyền địa phương nhận được những phản ánh đó của người dân thì địa phương đã giải quyết như thế nào? (Có thể lựa chọn nhiều phương án)
-
Trao đổi, đối thoại, hòa giải giữa người dân với đối tượng vi phạm
-
Cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí
-
Gửi yêu cầu thông báo chấm dứt vi phạm tới đối tượng vi phạm
-
Báo cáo, kiến nghị tới cơ quan cấp trên có thẩm quyền giải quyết
-
Cách thức khác (nếu có)……………………………………………...
………………………………………………………………………………...
Câu 8. Theo Ông/Bà, hiệu quả giải quyết của chính quyền đối với các vụ việc về môi trường hiện nay như thế nào?
-
Các vụ việc đều được giải quyết triệt để
-
Các vụ việc được giải quyết nhưng chưa triệt để
-
Không giải quyết
-
Ý kiến khác (đề nghị nêu rõ):...
Câu 9. Theo Ông/Bà, hiệu quả giải quyết của chính quyền cấp trên đối với các vụ việc về môi trường trên địa bàn của Ông/bà như thế nào?
-
Các vụ việc đều được giải quyết triệt để
-
Các vụ việc được giải quyết nhưng chưa triệt để
-
Không giải quyết
-
Ý kiến khác (đề nghị nêu rõ):):……………………………………….
………………………………………………………………………………...
Câu 10. Theo Ông/Bà, chất lượng hoạt động của các Ban giám sát đầu tư cộng đồng trên địa bàn trong công tác bảo vệ môi trường có thực sự hiệu quả không?
-
Có hiệu quả
-
Không hiệu quả
-
Không hoạt động gì
-
Không biết
Câu 11. Địa phương Ông/Bà đã tổ chức các hoạt động về bảo vệ môi trường dưới đây (Có thể lựa chọn nhiều phương án)
-
Tổ chức phong trào giữ gìn môi trường trong lành, sạch đẹp
-
Tuyên truyền về việc sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường
-
Tổ chức phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường
-
Các hình thức khác (nếu có)………………………………………….
Câu 12. Chính quyền địa phương hoặc cộng đồng dân cư nơi Ông/Bà công tác và sinh sống có thường xuyên tổ chức các hoạt động về bảo vệ môi trường cho người dân không?
-
Thường xuyên tổ chức
-
Thỉnh thoảng mới tổ chức
-
Chưa tổ chức bao giờ
-
Không biết
Câu 13. Người dân địa phương nơi Ông/Bà quản lý có tham gia tích cực vào các hoạt động đó không?
-
Rất tích cực tham gia
-
Chưa tích cực tham gia
-
Không biết
Câu 14. Địa phương Ông/Bà quản lý đã xây dựng hương ước, quy ước chưa?
Nếu đã xây dựng thì nội dung của hương ước, quy ước đó có nội dung về bảo vệ môi trường không?
-
Có
-
Không
-
Chưa xây dựng
-
Không biết
Câu 15. Địa phương Ông/Bà đã thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường đến người dân như thế nào?
-
Định kỳ
-
Thực hiện hàng ngày theo giờ cố định
-
Thực hiện hàng tuần theo ngày cố định
-
Thực hiện hàng tháng theo tuần cố định
-
Không định kỳ
-
Không thực hiện
Câu 16. Nếu đã thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục thì chính quyền thực hiện thông qua hình thức nào dưới đây? (Có thể lựa chọn theo nhiều phương án)
-
Thông qua loa, đài phát thanh, băng rôn, biểu ngữ
-
Tổ chức các cuộc họp, tọa đàm tại thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố
-
Phát tờ rơi, tờ gấp
-
Tổ chức các hội thi
-
Thông qua các đoàn thể mà Ông/bà là thành viên như: Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên...
-
Các hình thức khác (nếu có)………………………………………….
………………………………………………………………………………...
Câu 17. Với các hình thức phổ biển, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường như vậy, Ông/Bà thấy những hình thức nào hiệu quả nhất lựa chọn tối đa 3 phương án)?
-
Thông qua loa, đài phát thanh, băng rôn, biểu ngữ
-
Tổ chức các cuộc họp, tọa đàm tại thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố
-
Phát tờ rơi, tờ gấp
-
Tổ chức các cuộc thi
-
Thông qua các đoàn thể mà Ông/Bà là thành viên như: Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên.....
-
Tuyên truyền bằng các hình thức khác (nếu có)……………………
………………………………………………………………………………..
Câu 18. Địa phương Ông/Bà có phối hợp với tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, trưởng bản... thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường đến người dân không?
-
Phối hợp thường xuyên
-
Không phối hợp thường xuyên
-
Không phối hợp mà tự tổ chức
Câu 19. Theo Ông/Bà, các điều kiện bảo đảm (nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện truyền thông) cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường cho người dân địa phương hiện nay đã đáp ứng yêu cầu nâng cao nhận thức, vai trò của người dân trong bảo vệ môi trường chưa?
-
Đáp ứng đầy đủ
-
Đáp ứng một phần
-
Chưa đáp ứng được
-
Không biết
Câu 20. Theo Ông/Bà, để hoạt động truyền thông trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường bền vững hơn, những yếu tố nào cần được đầu tư nhiều hơn nữa?
-
Nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật
-
Đa dạng hóa các hoạt động phổ biển, giáo dục pháp luật
-
Đầu tư tài chính, điều kiện cơ sở vật chất
-
Ý kiến khác (nếu có)…………………………………………………
………………………………………………………………………………..
THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI PHIẾU
1. Tuổi:……………;
2. Giới tính:
3. Nghề nghiệp:……………………………………………………………………
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà!
BỘ TƯ PHÁP
Kính thưa: Ông (Bà)
Để có cơ sở cho việc đánh giá ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường góp phần nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở, xin Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách đánh dấu (x) vào ô phù hợp nhất với ý kiến của Ông/Bà, hoặc trả lời vào khoảng trống dưới câu hỏi. Các thông tin Ông/Bà cung cấp chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học và các thông tin cá nhân được giữ bí mật.
Câu 1. Môi trường ở địa phương nơi Ông/Bà đang quản lý có bị ô nhiễm hay không? (Chỉ chọn một phương án trả lời)
Nếu có thì ô nhiễm ở mức độ nào?
-
Không nghiêm trọng
-
Nghiêm trọng
-
Đặc biệt nghiêm trọng
-
Không (Bỏ qua câu 2, 3)
Câu 2. Yếu tố/thành phần môi trường bị ô nhiễm là yếu tố/thành phần môi trường nào? (Có thể chọn nhiều phương án trả lời)
-
Đất
-
Nước
-
Không khí
-
Yếu tố môi trường khác………………………………………………
………………………………………………………………………………...
Câu 3. Theo Ông/Bà, đối tượng nào dưới đây là chủ thể gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường tại địa phương? (Có thể chọn nhiều phương án)
-
Người dân địa phương
-
Do các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đang hoạt động trên địa bàn
-
Do người dân, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh ở địa phương khác gây ra
-
Đối tượng khác (xin nêu cụ thể)...
-
Không biết
Câu 4. Chính quyền địa phương nơi Ông/Bà công tác có tiến hành các chương trình hướng dẫn, khuyến khích người dân sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường không? (bóng đèn tiết kiệm điện, đun nấu bằng khí bi-ô-ga, bao bì tự phân hủy, ...)
-
Đã hướng dẫn (trả lời câu 5)
Nếu đã hướng dẫn thì mức độ sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường đó như thể nào?
-
Sử dụng phổ biến hơn
-
Sử dụng không phổ biến
-
Không hướng dẫn
-
Không biết
Câu 5. Việc tổ chức đăng ký cam kết bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện nơi Ông/Bà quản lý được thực hiện như thế nào?
-
Huyện trực tiếp tổ chức đăng ký cam kết bảo vệ môi trường
-
Ủy quyền cho UBND cấp xã thực hiện một phần
-
Không biết
Câu 6. Sau khi tổ chức đăng ký cam kết bảo vệ môi trường, Chính quyền đã tiến hành kiểm tra như thế nào? (Chọn nhiều phương án)
-
Kiểm tra việc thực hiện nội dung của cam kết và kiểm tra việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường
-
Phối hợp với các đơn vị có thẩm quyền kiểm tra và xử lý các sự cố môi trường
-
Không kiểm tra
Câu 7. Thái độ của người dân thế nào khi biết về các vụ việc gây ô nhiễm môi trường?
-
Không quan tâm
-
Quan tâm nhưng không có hành động cụ thể gì
-
Quan tâm và thực hiện những hành động cụ thể (gửi đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị v.v.)
-
Không tỏ thái độ gì
Câu 8. Hành động của người dân trước các vụ việc gây ô nhiễm môi trường thể hiện ở những hình thức chủ yếu nào? (Có thể lựa chọn nhiều phương án):
-
Phản ánh gián tiếp thông qua trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc các tổ chức chính trị - xã hội (Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh)
-
Phản ánh trực tiếp tới UBND các cấp: xã, huyện, tỉnh
-
Phản ánh tới các cơ quan chuyên trách như: Phòng tài nguyên môi trường, Cảnh sát môi trường
-
Phản ánh tới các cơ quan thông tấn, báo chí, phương tiện truyền thông
-
Người dân tự phát ngăn chặn hành vi gây ô nhiễm (cùng nhau tập trung ngăn cản các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm v.v.)
-
Khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra
-
Phương thức khác (nếu có)...................................................................
………………………………………………………………………………...
Câu 9. Khi nhận được phản ánh về việc doanh nghiệp hoặc tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, chính quyền địa phương thường thực hiện biện pháp gì?
-
Gửi thông báo yêu cầu chấm dứt vi phạm tới đối tượng vi phạm
-
Thông báo tới cơ quan có thẩm quyền giải quyết
-
Tổ chức đối thoại giữa người dân, cộng đồng dân cư với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm để tìm phương án xử lý phù hợp.
-
Thông báo tới cơ quan báo chí, truyền thông
-
Không quan tâm
-
Không làm gì cả
-
Khác (đề nghị ghi rõ)……………………………………………..
……………………………………………………………………………..
Câu 10. Địa phương Ông/Bà thường tổ chức các hoạt động về bảo vệ môi trường dưới các hình thức nào dưới đây? (Có thể lựa chọn nhiều phương án)
-
Tổ chức phong trào giữ gìn môi trường trong lành, sạch đẹp
-
Tuyên truyền về việc sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường
-
Tổ chức phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường
-
Hình thức khác (nếu có)
Câu 11. Hàng năm, chính quyền nơi Ông/Bà công tác thường tổ chức các hoạt động về bảo vệ môi trường kể trên với tần suất như thế nào?
-
Được tổ chức thường xuyên
-
Thỉnh thoảng mới tổ chức
-
Không tổ chức
-
Không biết
Câu 12. Hàng năm, chính quyền nơi Ông/Bà công tác thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ môi trường đến người dân địa phương với tần suất như thế nào?
-
Thực hiện thường xuyên
-
Thỉnh thoảng mới thực hiện
-
Không thực hiện
-
Không biết
Câu 13. Nếu đã thực hiện việc phổ biến, giáo dục thì tổ chức thông qua hình thức nào dưới đây? (có thể chọn nhiều phương án)
Hình thức phổ biến, giáo dục
|
Đã sử dụng
|
Hiệu quả
|
Không hiệu quả
|
Phát động ngày bảo vệ môi trường
|
|
|
|
Qua loa, đài phát thanh
|
|
|
|
Băng rôn, biểu ngữ
|
|
|
|
Tổ chức các cuộc họp, tọa đàm tại thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố
|
|
|
|
Phát tờ rơi
|
|
|
|
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về bảo vệ môi trường
|
|
|
|
Thông qua các đoàn thể như: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh,…
|
|
|
|
Bằng các hình thức khác (nếu có) …………………………………………………
……………………………………………………………………………………..
|
Câu 14. Theo Ông/Bà, các điều kiện bảo đảm như (nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện truyền thông) cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại địa phương đã đáp ứng được yêu cầu của công tác này chưa?
-
Đã đáp ứng đầy đủ
-
Đáp ứng một phần
-
Chưa đáp ứng được
-
Không biết
Câu 15. Theo Ông/Bà để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường có hiệu quả bền vững hơn, những yếu tố nào dưới đây cần được đầu tư nhiều hơn nữa?
-
Nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật về bảo vệ môi trường
-
Đa dạng hóa các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
-
Đầu tư thêm nguồn kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất
-
Ý kiến khác: ………………………………………………………….
………………………………………………………………………………...
THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI PHIẾU
1. Tuổi:…………..;
2. Giới tính:
3.Nghề nghiệp:……………………………………………………………………….
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà!
--------------------------------------------------------------
BỘ TƯ PHÁP
Kính thưa: Ông/Bà:
Để có cơ sở cho việc đánh giá ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường góp phần nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở, xin Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách đánh dấu (x) vào ô phù hợp nhất với ý kiến của ông/bà, hoặc trả lời vào khoảng trống dưới câu hỏi. Các thông tin Ông/Bà cung cấp sẽ chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học và các thông tin cá nhân được giữ bí mật.
Câu 1. Vấn đề môi trường ông bà gặp phải là vấn đề gi? (xảy ra ở đâu? Từ bao giờ? Mức độ như thế nào?...)
-
Vấn đề môi trường xảy ra ở đâu? Từ bao giờ?
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
Câu 2. Nguyên nhân của những vấn đề đó là gì? (Ai hay cái gì là tác nhân gây nên những vấn đề đó? Họ gây ra những vấn đề đó như thế nào?
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 3. Ông bà đã làm gì để giải quyết những vấn đề trên? (Phản ánh bằng các phương thức nào? Đến ai? Lúc nào?)
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 4. Vấn đề của Ông/Bà được giải quyết như thế nào sau khi được phản ánh? (Yêu cầu của Ông/Bà có được giải quyết thỏa đáng, kịp thời hay không? Cách thức giải quyết của các đối tượng được Ông/Bà phản ánh đến như thế nào?)
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 5. Hiện nay vấn đề môi trường xảy ra với Ông/Bà đã chấm dứt hay chưa?
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 6. Ông bà có kiến nghị gì để bảo vệ tốt hơn môi trường ở địa phương?
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
BỘ TƯ PHÁP
Kính thưa: Ông/Bà:
Để có cơ sở cho việc đánh giá ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường góp phần nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở, xin Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách đánh dấu (x) vào ô phù hợp nhất với ý kiến của ông/bà, hoăc trả lời vào khoảng trống dưới câu hỏi. Các thông tin Ông/Bà cung cấp sẽ chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học và các thông tin cá nhân được giữ bí mật.
Câu 1. Vấn đề môi trường ông bà gặp phải là vấn đề gì? (Xảy ra ở đâu? Từ bao giờ? Mức độ như thế nào?...)
-
Vấn đề môi trường xảy ra ở đâu? Từ bao giờ?
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
Câu 2. Nguyên nhân của những vấn đề đó là gì? (Ai hay cái gì là tác nhân gây nên những vấn đề đó? Họ gây ra những vấn đề đó như thế nào?
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 3. Ông bà đã làm gì để giải quyết những vấn đề trên? (Phản ánh bằng các phương thức nào? Đến ai? Lúc nào?)
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 4. Vấn đề của Ông/Bà được giải quyết như thế nào sau khi được phản ánh? (Yêu cầu của Ông/Bà có được giải quyết thỏa đáng, kịp thời hay không? Cách thức giải quyết của các đối tượng được Ông/Bà phản ánh đến như thế nào?)
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 5. Hiện nay vấn đề môi trường xảy ra với Ông/Bà đã chấm dứt hay chưa?
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 6. Ông bà có kiến nghị gì để bảo vệ tốt hơn môi trường ở địa phương?
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
BỘ TƯ PHÁP
Kính thưa: Ông/Bà:
Để có cơ sở cho việc đánh giá ý thức và vai trò của cộng đồng dân cư cơ sở trong công tác bảo vệ môi trường góp phần nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường tại cơ sở, xin Ông/Bà vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách đánh dấu (x) vào ô phù hợp nhất với ý kiến của ông/bà, hoặc trả lời vào khoảng trống dưới câu hỏi. Các thông tin Ông/Bà cung cấp sẽ chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học và các thông tin cá nhân được giữ bí mật.
Câu 1: Ông/bà cho biết ở địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động đã có doanh nghiệp nào gặp phải các vấn đề về môi trường chưa?
Nếu đã từng, ông/bà cho biết vụ việc cụ thể là gì? Thời gian xảy ra? Mức độ?
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Câu 2: Nếu đã từng gặp, những phản ứng của người dân xung quanh theo hình thức nào sau đây (có thể chọn nhiều phương án)
-
Họ phản ánh trực tiếp tới UBND các cấp: xã, huyện, tỉnh
-
Họ phản ánh tới các cơ quan chuyên trách như ngành tài nguyên, môi trường, Cảnh sát môi trường
-
Họ phản ánh gián tiếp thông qua trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc các tổ chức chính trị - xã hội (Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh)
-
Họ phản ánh tới các cơ quan thông tấn, báo chí, phương tiện truyền thông
-
Người dân tự phát ngăn chặn hành vi gây ô nhiễm (cùng nhau tập trung ngăn cản các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm)
-
Khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra
Phương thức khác: …………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
………………………………………………………………………………………...
Câu 3: Doanh nghiệp nơi Ông/Bà làm việc có dành một khoản ngân sách cho hoạt động bảo vệ môi trường không?
-
Không có
-
Dưới 5% chi phí sản xuất
-
Từ 5% đến dưới 10% chi phí sản xuất
-
Từ 10% đến dưới 20%
-
Không biết
-
Tỷ lệ khác: …………………………………………………………...
[1] Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Tinh thần này về cơ bản cũng được kế thừa trong định nghĩa về môi trường của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 (Khoản 1 Điều 3) theo đó mỗi trường là “hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.”
[2] Tinh thần đó tiếp tục được kế thừa trong quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 (Khoản 3 Điều 3), theo đó, bảo vệ môi trường được quy định là “hoạt động giữ gìn, phòng ngừa, hạn chế các tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành”.
[3] Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà Nội năm 2011, tr 1-1.
[4] Diachiso.vn/tin-bai/bai-viet-ha-noi/van-hoa-va-cuoc-song/dan-so-va-dien-tich-thanh-pho-ha-noi.htm.
[5] Nguồn: Thông tấn xã 3R, URENCO Hà Nội, 2011.
[6] http://ibla.org.vn/?cate=f&id=2829
[7] http://www.nhandan.com.vn/phongsu/dieu-tra/item/20690502.html
[8] http://thanhtravietnam.vn/vi-VN/News/thanhtravaxahoi/2013/06/30537.aspx
[9] http://p.org.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.asp?coid=10008&cn_id=594561
[10] http://m.nguoiduatin.vn/lang-nghe-ha-doc-moi-truong-a86872.html
[11] http://www.thanhtra.com.vn/kien-quyet-dung-hoat-dong-neu-khong-vao-cum-cong-nghiep_t221c1143n58028t.aspx
[12] Báo cáo của Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Hoà Bình.
[13] Quyết định số 393/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hòa Bình ngày 04 tháng 4 năm 2012 về việc phê duyệt danh sách các cơ sở gây ô nhiễm môi trường, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bản tỉnh Hòa Bình năm 2011 cần xử lý (Phụ lục 02).
[14] http://phapluatxahoi.vn/20120828094052208p1001c1017/vi-sao-bai-rac-moi-duoc-dau-tu-hang-chuc-ty-dong-bi-bo-hoang.htm
[15] http://www.baomoi.com/Hoa-Binh-Cho-nong-san-Dong-Tam-ngap-trong-rac/144/7260050.epi
[16]https://www.google.com.vn/images?q%C3%94+nhi%E1%BB%85m+ch%E1%BA%ASt+th%E1%BA%A3¡+т%1%BA%AFn+%E1%BB%9F+%E1%BB%89nh+H%C3%B2a+B%C3%ACnh&hI=vi&gby=28tbm=isch&eiFlayU-m/8erlAW09YDoBg&start-60&sa=N
[17] Theo số liệu quan trắc mức độ ô nhiễm môi trường năm 2011 của tỉnh Bắc Ninh.
[18] http://m.nguoiduatin.vn/lang-nghe-ha-doc-moi-truong-a86872.html
[19] http://m.nguoiduatin.vn/lang-nghe-ha-doc-moi-truong-a86872.html
[21]http://www.tinmoitruong.vn/nuoc/hoa-binh--nha-may-che-bien-quang-gay-o-nhiem-moi-trong_6_11044_1.html
[22]http://www.baohoabinh.com.vn/28/81122/Tinh_trang_o_nhiem_moi_truong_o_Nha_may_xi_ mang_Vinh_Son_htm
[23] http://www.nhandan.com.vn/mobile/ mobile phapluat/mobile thoisu/item/15315202.html
[24] http://www.tinmoitruong.vn/nuoc/hoa-binh--nha-may-che-bien-quang-gay-o-nhiem-moi-truong_6_11044_1.html
[26] Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà Nội năm 2011, tr3
[27] Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà nội năm 2011, tr 3-3
[28]https://www.google.com.vn/images?q=%C3%94+nhi%E1%BB%85m+ch%E1%BA%A5th%E1%BA%A3¡+ґ%El%BA%AFn+%E1%BB%9F+t%E1%BB%89nh+H%C3%B2a+B%C3%ACnh&hl-vi&gbv=2&bm=isch&ei=FlqyU-_mJ8erlAW09YDoBg&start=60&sa=N
[29] www.vietnamplus.vn/Home/Day-lui-o-nhiem-lang-nghe-o-Bac-Ninh-Can-manh-tay/201212/172544. vnplus
[30] http://www.urenco.com.vn/default.asp?tab-detailnews&zone=130&id=212&tin=221
[31] http://m.nguoiduatin.vn/lang-nghe-ha-doc-moi-truong-a86872.html
[32]http://www.baohoabinh.com.vn/28/79065/Nang_cao_hieu_luc_QLNN_ve_bao_ve_moi_truong.htm
[33] http://www.baohoabinh.com.vn/28/78895/Kim_Boi_Tai_dien_vi_pham_tr111ng_khai_thac_khoang_san.htm
[34] http://www.baohoabinh.com.vn/28/78895/Kim_Boi_Tai_dien_vi_pham_tr111ng_khai_thac_khoang_san.htm
[35] http://ww.baohoabinh.com.vn/28/19672/Tan_Vinh Dan song_chung_voi khoi_bui_.htm
[36] http://baotintuc.vn/phap-luat/hoa-binh-quyet-tam-xoa-lo-gach-gay-o-nhiem-20120213232725166.htm
[37]http://www.baohoabinh.com.vn/28/81122/Tinh_trang_o_niem_moi_truong_o_Nha_may_xi_mang_Vinh_Son _htm
[38] http://baotintuc.vn/phap-luat/hoa-binh-quyet-tam-xoa-lo-gach-gay-o-nhiem-200120213232725166.htm
[39] http://baotintuc.vn/phap-luat/hoa-binh-quyet-tam-xoa-lo-gach-gay-o-nhiem-20120213232725166.htm
[40] Kết quả xử lý phiếu số 2,3 (câu 1).
[41] Theo Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 1).
[42] Theo Kết quả xử lý phiếu số 3 (câu 1).
[43] Kết quả xử lý phiếu số 1, 2, 3 (câu 2)
[44] Báo cáo tham luận về vai trò của Sở Tư pháp trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường tại tỉnh Bắc Ninh
[45] http://www.pcijsc.com/xu-ly-o-nhiem-moi-truong-bang-che-pham-vi-sinh-at--ytb_cl1_p24.html
[46] http://laodong.com.vn/phong-su/am-anh-ve-nhung-hai-nhi-bi-vut-bo-o-bai-rac-nam-son-171441.bld
[47] http://thuylucmay.com.vn/print.asp?id=354&catid-300
[48] http://baohoabinh.com.vn/28/54547/Buc_xuc_rac_thai_thanh_pho_Hoa_Binh.htm
[49] Toạ đàm tại xã An Bình, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
[50] Toạ đàm tại xã An Bình, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
[51] Toạ đàm tại huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và thị trấn Kỳ Sơn tỉnh Hòa Bình
[52] Toạ đàm tại Phường Mai Động, Lĩnh Nam Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội: xã Đông Mỹ huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội; xã An Bình, thị trấn Hồ huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh; Phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh; Phường Tân Thịnh, Thái Bình thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình.
[53] Tọa đàm tại Quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội; huyện Thuận Thành, Thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh; Thành phố Hòa Bình và huyện Kỳ Sơn tỉnh Hoà Bình.
[54] Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 3)
[55] Kết quả xử lý phiếu số 3 (câu 3)
[56] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 3)
[57] Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thanh Trì (Hà Nội), Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bác Ninh, tỉnh Hòa Bình.
[58] Vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. Chẳng hạn, Điều 9 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính nghĩa của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội: tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc." "Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam."
[59] Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được đề cao hơn.
[60] http://www.mattran.org.vn/Home/TapChi/so%2064/ptcvd.htm
[61] Báo cáo của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hòa Bình, Quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì về công tác bảo vệ môi trường.
[62] Báo cáo của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tỉnh Hoa Bình về công tác bảo vệ môi trường.
[63] http://baobacninh.com.vn/news_detail/79642/diem-sang-o-khu-dan-cu-tu-quan-bao-ve-moi- truong-html>
[64] http://baobacninh.com.vn/news_detail/79843/thon-ngo-khe-lam-diem-khu-dan-cu-tu-quan-bao-ve- moi-truong.html>
[65] http://vea.gov.vn/vn/truyenthong/tapchimt/trenkhainghiquyetso41-NQTWcuabochinhtri>
[66] Báo cáo của Hội phụ nữ tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hòa Bình và Quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì của Thành phố Hà Nội về công tác bảo vệ môi trường
[67] http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module=News&ld=66
[68] Báo cáo của Hội liên hiệp phụ nữ Quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội.
[69] http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module=News&ld=66; Báo cáo toạ đàm tại Phường Thái Bình, TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
[70] http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module=News&ld=66.
[71] http://hoiphunu.hoabinh.gov.vn/index.php/tuyen-truy-n-giao-d/c/77-ph-n-hoa-binh-chung-s-c-xay-d-ng-nong-thon-m-i
[72] http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module-News&ld=66; Báo cáo của Hội nông dân tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hòa Bình trong công tác bảo vệ môi trường.
[73] http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module=News&ld=66.
[74] Báo cáo của Hội nông dân tỉnh Bắc Ninh.
[75]http://hoinongdan.hoabinh.gov.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=183:nang-cao-vai-tro-trach-nhim-ca-hi-nong-dan-cac-cp-tnh-hoa-binh-trong-phat-trin-nong-nghip-xay-dng-nong-thon-midcatia 45:tin-ni-bt
[76] http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module=News&Id=66; Báo cáo của Đoàn thanh niên tỉnh Bắc Ninh về công tác bảo vệ môi trường.
[77] http://doanthanhnien.vn/newsdetail/Nam_TN_Tinh_nguyen/22102/tuoi-tre-thu-do-voi-nhieu-hoat-dong-thiet-thuc-trong-thang-thanh-nien-trong-2014.htm.
[78] http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module=News&Id=66; Báo cáo của đoàn thanh niên tỉnh Bắc Ninh về công tác bảo vệ môi trường.
[79] Toạ đàm tại thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
[80] http://huyendoanluongson.org.vn/?page=news&code=detail&id=388&idc=175.
[81] http://husta.org.vn/Husta.aspx?Module=News&Id=66.
[82] Kết quả buổi làm việc với Trung tâm vì sự phát triển đô thị ngày 30/11/2012
[83] Kết quả xử lý phiếu số 1, 2, 3 (câu 3).
[84] Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 5).
[85] Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 6).
[86] Kết quả xử lý phiếu số 1 (Câu 7), số 2 (câu 4).
[87] Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 8,9).
[88] Toạ đàm tại huyện Thanh trì, Thành Phố Hà Nội; thị trấn Kỳ Sơn, thành phố Hòa Bình tỉnh Hoà Bình.
[89] Báo cáo của Phòng cảnh sát môi trường công an tỉnh Bắc Ninh, Hoà Bình.
[90] http://cect.gov.vn/index.php?m=news&p=detailNews&newid=203.
[91] Báo cáo của Phòng cảnh sắt môi trường Công an tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hoà Bình, Quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì (Hà Nội).
[92] Báo cáo của Phòng cảnh sát môi trưởng Công an tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hòa Bình, Quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì (Hà Nội).
[93] Báo cáo của Đội cảnh sát môi trường Công an Quận Hoàng Mai.
[94] Báo cáo của Phòng cảnh sát môi trường Công an tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hòa Bình, Quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì (Hà Nội).
[95] Báo cáo của Phòng cảnh sát môi trường Công an tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hoà Bình; http://cect.gov.vn/index.php?m=news&p=detailNews&newid=203.
[96] Toạ đàm tại Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh, Hoà Bình.
[97] Tọa đàm cấp Quận, huyện của tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hòa Bình và TP. Hà Nội.
[98] Toạ đàm tại thị trần Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
[99] Toạ đàm tại Phường Mai Động, Lĩnh Nam Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; xã Đông Mỹ huyện Thanh Tri, Thành phố Hà Nội; xã An Bình, thị trấn Hồ huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh; Phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh; Phường Tân Thịnh, Thái Bình thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình.
[100] Báo cáo của Đoàn thanh niên Phường Tiến An, thành phố Bắc Ninh.
[101] Báo cáo của UBND xã Khắc Niệm, thành phố Bắc Ninh.
[102] Đề án "Tự quản về công tác vệ sinh môi trường tại các khu dân cư" phường Tân Thịnh.
[103] Toạ đàm tại thị trấn Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
[104] Toạ đàm tại huyện Kỳ Sơn, thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình.
[105] Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 10).
[106] Tham luận của Cảnh sát môi trường, Phòng Tài nguyên và môi trường tỉnh Bắc Ninh, Hoà Bình và Thành phố Hà Nội.
[107] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 7) phiếu số 3 (câu 9).
[108] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 7).
[109] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 8,9).
[110] Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 13).
[111] Theo Nguyễn Phương/CAND Online, 23/02/2013.
[112] http://chaobuoisang.net/vu-gan-2000-nguoi-hit-khi-doc-vuong-san-can-bo-dia-phuong-1603132.htm.
[113] http:/inmoitruong.vn/nuoc/hoa-binh-nha-may-che-bien-quang-gay-o-nhiem-moi-truong6-11044-1.html.
[114] http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_phapluat/_mobile_thoisu/item/15315202.html.
[115]http://www.monre.gov.vn/v35/default.aspx?tabid=428&CateID=24&ID=67162&Codc=9CQNW67162.
[116] http://www.baoviet.com.vn/nhantho/newsdetail.asp?websiteld=1&newsld=176&catld=33&lang=VN
[117] Báo cáo của UBND Quận Hoàng Mai TP. Hà Nội); UBND thành phố Bắc Ninh (tỉnh Bắc Ninh) và UBND thành phố Hòa Bình (tỉnh Hoà Bình).
[118] Theo Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 4).
[119] Theo Báo cáo của các địa phương được nêu như trên.
[120] Toạ đàm tại Phường Mai Động, Lĩnh Nam Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; xã Đông Mỹ huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội; xã An Bình, thị trấn Hồ huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh; Phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh; Phường Tân Thịnh, Thái Bình thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
[121] Báo cáo tham luận của Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm công an tỉnh Bắc Ninh.
[122] Báo cáo tham luận của Sở Tài nguyên và Môi trường Hòa Bình.
[123] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 7).
[124] Toạ đàm tại các tỉnh Bắc Ninh, Hoà Bình và TP. Hà Nội.
[125] Theo kết quả khảo sát tại Thành phố Hà Nội.
[126] Toạ đàm tại Quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội; huyện Thuận Thành, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Thành phố Hòa Bình và huyện Kỳ Sơn tỉnh Hoa Bình.
[127] Toạ đàm tại Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh, Hoà Bình và Hà Nội.
[128] Kết quả buổi làm việc giữa Nhóm nghiên cứu với Trung tâm vì sự phát triển đô thị ngày 30/11/2012.
[129] Toạ đàm tại các Quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì (TP. Hà Nội) và tọa đảm tại Sở Tư pháp Hoà Bình, Bắc Ninh
[130] Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội.
[131] Báo cáo của Uỷ ban nhân dân Quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì (TP. Hà Nội).
[132] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 18).
[133] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 11), phiếu số 3 (câu 10).
[134] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 12,13).
[135] Báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh.
[136] Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 20, 21,22).
[137] Báo cáo của Sở Tư pháp tỉnh Hòa Bình, Bắc Ninh và Phòng Tư pháp huyện Thanh Trì (thành phố Hà Nội).
[138] Báo cáo của Hội Nông dân quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì.
[139] Báo cáo của Hội Nông dân Quận Hoàng Mai.
[140] Báo cáo của Phòng Tư pháp huyện Thanh Trì.
[141] Báo cáo của Sở Tư pháp Bắc Ninh và Hoà Bình
[142] Kết quả xử lý phiếu số 1 (câu 18, 19).
[143] Toạ đàm tại Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh.
[144] Tọa đàm tại quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội; Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh; Sở Tư pháp tỉnh Hòa Bình.
[145] Toạ đàm tại tỉnh Bắc Ninh, Hòa Bình và TP. Hà Nội.
[146] Số liệu căn cứ từ mẫu cung cấp số liệu do địa phương cung cấp.
[147] Báo cáo của Mặt trận tổ quốc tỉnh Bắc Ninh; tỉnh Hoa Bình và huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.
[148] Kết quả xử lý phiếu số 2 (câu 19,20) phiếu số 3 (câu 14,15).
[149] Báo cáo tham luận của Công an huyện Thanh Trì (thành phố Hà Nội).
[150] Theo quy định tại Điều 130 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, tổ chức, cá nhân quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường có trách nhiệm báo cáo thông tin môi trường trong phạm vi quản lý của mình với cơ quan quản lý về môi trường thuộc UBND cấp tỉnh. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác có trách nhiệm cung cấp thông tin môi trường liên quan đến hoạt động của mình cho UBND cấp huyện, cấp xã.
[151] Theo quy định tại Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thông tin môi trường phải được công khai (trừ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước) gồm: a) Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường; b) Thông tin về nguồn thải, chất thải, xử lý chất thải; c) Khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái ở mức nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trộng, khu vực có nguy cơ xảy ra sự cố môi trường; d) Các báo cáo về môi trường: đ) Kết quả thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường. Các thông tin quy định tại khoản này mà thuộc danh mục bí mật nhà nước thì không được công khai.
[152] Điều 5 của Nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 quy định mức thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn: (1) Đối với chất thải rắn thông thường phát thải từ hoạt động cơ quan, cơ sở kinh doanh, dịch vụ, cơ sở sản xuất công nghiệp, làng nghề: không quá 40.000 đồng/tấn; (2) Đối với chất thải rắn nguy hại: không quá 6.000.000 đồng/tấn.
[153] Điều 4 của Nghị định 74/2011/NĐ-CP ngày 25/8/2011 quy định mức thu phí khai thác khoáng sản: (1) Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với dầu thô: 100.000 đồng/tấn; đối với khí thiên nhiên, khí than: 50 đồng/m3. Riêng khí thiên nhiên thu được trong quá trình khai thác dầu thô (khí đồng hành): 35 đồng/m3. (2). Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản: Quặng sắt mức thu tối thiểu 40,000 đồng/tấn và tối đa là 60.000 đồng/tấn; Quặng chì, quặng kẽm mức thu tối thiểu 180.000 đồng/tấn và tối đa là 270.000 đồng/tấn.
[154]http://vea.cov.v/w/truventhona/sukieneavlc/hoinchimtta/phientoanthe/Pages/B%C3%Aloc%C3%Aloc%E1%BB%A7aB%E1%BB%99T%C3%A0inguy%C3%AAnvC3%A0M%C3%B4¡tr%C6%B0%E1%BB%9Dng.aspx.
[155] Khoản 3 Điều 7 Nghị định 179/2013/ND-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
[156] Quyết định số 20/2009/QĐ-TTg ngày 10/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định việc trang bị sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật trong công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của lực lượng Cảnh sát nhân dân