CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA CÔNG CHỨNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CÔNG CHỨNG
1.1.1. Khái niệm công chứng
Khái niệm công chứng là một vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ các vấn đề khác liên quan đến công chứng, đặc biệt là việc xây dựng thể chế, xác định mô hình tổ chức đảm bảo phát huy vai trò công chứng và hiệu quả công chứng trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, cho đến nay về mặt lý luận, khái niệm công chứng chưa được làm rõ, quan niệm về công chứng mới chỉ được thể hiện thông qua các văn bản pháp lý về công chứng.
Theo Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp - một thông tư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khai sinh hệ thống công chứng nhà nước ở Việt Nam - công chứng nhà nước được xác định là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Lần đầu tiên kể từ khi thành lập nước (2/9/1945), khái niệm công chứng nhà nước được đưa ra ở Việt Nam, đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý, bước đầu đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi. Tuy nhiên, là văn bản pháp lý đầu tiên về công chứng trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, do đó, văn bản này không thể tránh được các hạn chế, đó là: chưa xác định được chủ thể, đối tượng của hoạt động công chứng cũng như nội dung việc công chứng, chưa phân biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.
Quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm tăng nhanh cả về số lượng và quy mô các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với hoạt động công chứng. Do đó, trong vòng 10 năm (1991 - 2000), Chính phủ đã ban hành ba nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, đó là: Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 45/HĐBT); Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 31/CP) và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực (sau đây gọi tắt là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP).
Theo Nghị định số 45/HĐBT, công chứng nhà nước được xác định như sau:
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ (Điều 1).
Đến Nghị định số 31/CP, công chứng nhà nước được xác định:
Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu (Điều 1).
So với Thông tư số 574/QLTPK, khái niệm công chứng ở hai Nghị định này đã được xác định cụ thể, rõ ràng hơn. Và nếu so sánh Nghị định số 45/HĐBT với Nghị định số 31/CP thì Nghị định số 31/CP đã bước đầu có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của hành vi công chứng và hành vi chứng thực chưa được phân biệt. Quy định "chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giấy tờ" ở cả hai Nghị định này còn quá chung chung, khó hiểu, dễ gây nên sự tùy tiện và các hệ quả khác nhau trong thực tiễn hoạt động công chứng.
Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng mới được tách bạch khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được xác định khoa học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới về công chứng. Theo Nghị định này, "công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này" (khoản 1 Điều 2).
Cùng với việc xác định khái niệm công chứng như trên, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã xác định khái niệm chứng thực "là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này" (khoản 2 Điều 2).
Điểm mới quan trọng nữa của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP là đã thay đổi tên gọi từ "Phòng công chứng nhà nước" ở các văn bản pháp lý trước đó thành "Phòng công chứng". Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo tiền đề để tiến tới chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa và xã hội hóa nghề công chứng ở Việt Nam.
Tuy nhiên, khái niệm công chứng của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP còn có một số điểm chưa phù hợp, đó là:
Thứ nhất, mặc dù Nghị định đã có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực bằng hai khái niệm khác nhau, song xem xét tổng thể Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, có thể thấy, hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực vẫn được đồng nhất cả về chủ thể, đối tượng và ý nghĩa pháp lý.
Thứ hai, nếu Thông tư số 574/QLTPK cũng như Nghị định số 45/CP và Nghị định số 31/CP chưa xác định chủ thể của hoạt động công chứng, thì Nghị định số 75/2000/NĐ-CP lại xác định chủ thể của hoạt động công chứng là Phòng công chứng - "Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận...". Thực tiễn hoạt động công chứng cho thấy, dù được tổ chức như thế nào, công chứng vẫn là hoạt động của công chứng viên, công chứng viên phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình. Quy định như trên đã làm "mờ" đi vai trò của công chứng viên trong hoạt động công chứng.
Thứ ba, xem xét một cách hệ thống các văn bản pháp lý về công chứng ở nước ta từ năm 1987 đến nay cho thấy, dù sử dụng thuật ngữ "Công chứng nhà nước" hay "Công chứng" thì quan niệm về công chứng của Việt Nam vẫn không thay đổi, đó là: công chứng là hoạt động của Nhà nước, do Nhà nước trực tiếp thực hiện. Với quan niệm này, công chứng Việt Nam được tổ chức theo mô hình công chứng nhà nước (phòng công chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, Nhà nước đảm bảo toàn bộ cơ sở vật chất cho hoạt động công chứng). Đây là mô hình công chứng mang tính đặc thù của Liên Xô (cũ) và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa trước đây trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Những điểm chưa phù hợp trên đã dẫn đến các cách hiểu khác nhau (thậm chí trái ngược nhau) không chỉ của xã hội mà cả các nhà quản lý và đội ngũ công chứng viên về công chứng (công chứng là một cơ quan hành chính, cũng có ý kiến cho là cơ quan hành chính - tư pháp, hoạt động công chứng là hoạt động quản lý nhà nước; công chứng là một tổ chức nghề nghiệp, hoạt động công chứng là hoạt động nghề nghiệp, hỗ trợ công dân, hỗ trợ quản lý nhà nước và hỗ trợ tư pháp, do đó, công chứng là một thiết chế bổ trợ tư pháp cũng giống như luật sư).
Sự thiếu thống nhất trong nhận thức về công chứng như trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng, hiệu quả và vai trò công chứng trong đời sống xã hội. Nguyên nhân chính ở đây là do chúng ta chưa có được nhận thức đúng về bản chất công chứng.
Như vậy, để có được nhận thức thống nhất, chuẩn xác về công chứng, tạo tiền đề cho sự phát triển công chứng, phát huy vai trò công chứng trong đời sống xã hội, về mặt lý luận, trước hết cần nghiên cứu làm rõ bản chất công chứng.
Vậy, nên hiểu như thế nào về bản chất công chứng?
Theo Từ điển Luật học của Mỹ, công chứng (Notarial) là hoạt động của công chứng viên… Công chứng viên, theo tiếng Latinh là "Notarius". "Notarius" trong Luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm chứng. Trong Luật La Mã, là người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu [119, tr. 1990].
Theo cách giải thích trên, xét về nguồn gốc, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người (từ thời La Mã cổ đại), với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng.
Nghiên cứu các tài liệu về công chứng cho thấy, trên thế giới có ba hệ thống công chứng: Hệ thống công chứng Latinh tương ứng với hệ thống luật La Mã (còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự - Civil Law); hệ thống công chứng Ănglo - Saxon tương ứng với hệ thống pháp luật Ănglo - Saxon (Common Law) và hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tương ứng với hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa (Sovietique).
So sánh các hệ thống công chứng cho thấy, mặc dù giữa hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo - Saxon có sự khác biệt nhau về cách thức tổ chức, hoạt động, trình tự, thủ tục công chứng, song quan niệm về công chứng ở hai hệ thống này về cơ bản tương đồng. Cả hai hệ thống này đều coi công chứng là một nghề tự do, công chứng viên hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Tuy nhiên, đó là một nghề đặc biệt, đòi hỏi công chứng viên phải có trình độ chuyên môn (luật) và kỹ năng nghiệp vụ được Nhà nước công nhận để có thể đảm bảo tính xác thực cho các hợp đồng vốn rất phức tạp, đa dạng, công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm hoặc công nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định và hoạt động theo chế độ chứng chỉ hành nghề.
Có thể thấy rõ điều đó qua pháp luật thực định về công chứng của một số nước.
Ở Cộng hòa Pháp (một điển hình của trường phái công chứng Latinh), Điều 1 Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ công chứng của Cộng hòa Pháp quy định: "Công chứng viên là viên chức công, được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó, các bên phải hoặc muốn đem lại tính xác thực giống như các văn bản của các cơ quan công quyền và để đảm bảo ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp các bản sao văn bản công chứng" [118, tr. 8]. (Điều 1 Điều lệ công chứng được ban hành kèm theo Lệnh số 48/FR ngày 29/8/1968 của Cộng hòa Bê-nanh cũng chép lại gần như nguyên văn điều luật trên) [118, tr. 125].
Ở Vương quốc Anh (một trong các điển hình của trường phái công chứng Anglo - Saxon), quy chế công chứng năm 1801, 1833, 1834 quy định:
Công chứng viên là viên chức được bổ nhiệm để thực hiện các hành vi công chứng sau: Soạn thảo, chứng nhận hoặc xác lập chứng thư và các giấy tờ khác có liên quan đến việc: chuyển nhượng hoặc xác lập giấy tờ khác có liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản và tài sản cá nhân, giấy ủy quyền liên quan đến bất động sản và tài sản cá nhân ở Anh, xứ Wales, các nước khác thuộc khối cộng đồng Anh hoặc ở nước ngoài; chứng nhận hoặc xác nhận các giấy tờ liên quan đến di chúc, lập kháng nghị hàng hải về sự cố
xảy ra đối với tàu và hàng hóa trên tàu trong thời gian tàu đi trên biển [111, tr. 90].
Hệ thống công chứng Collectiviste lại có quan niệm về công chứng khác với hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo - Saxon. Ở hệ thống công chứng Collectiviste, công chứng chưa được coi là một nghề (công chứng viên là công chức nhà nước, kiêm nhiệm cả việc chứng thực (thị thực hành chính); việc công chứng được giao cho cả các chủ thể không phải là công chứng viên đảm nhiệm; công chứng viên không có chứng chỉ hành nghề, không phải chịu trách nhiệm dân sự trước khách hàng, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước Nhà nước về những sai phạm trong hoạt động của mình).
Tuy nhiên, hiện nay trong hệ thống công chứng Collectiviste, hầu hết các nước đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đều có sự đổi mới trong quan niệm về công chứng phù hợp với quan niệm của hệ thống công chứng Latinh và hệ thống Anglo - Saxon, đó là xác định công chứng là một nghề tự do đặt dưới sự quản lý của Nhà nước và đang từng bước tiến hành cải cách công chứng từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tự do. Ví dụ: ở Ba Lan, Điều 1 Luật số 176 ngày 14/02/1991 về công chứng quy định: "Công chứng viên được bổ nhiệm để lập những văn bản mà trong đó, các bên phải hoặc muốn đem lại một tính đích thực" [118, tr. 99].
So sánh những quy định nêu trên cho thấy, nội dung chi tiết về chức năng, nhiệm vụ của công chứng viên trong pháp luật thực định của các nước có những điểm khác nhau, nhưng quan niệm về công chứng đều có những điểm cơ bản giống nhau:
- Chủ thể của hoạt động công chứng là công chứng viên.
- Công chứng là việc soạn thảo, chứng nhận (xác nhận, chứng thực) các hợp đồng giao dịch.
- Ý nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là đảm bảo giá trị thực hiện cho các hợp đồng giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra (văn bản công chứng là một công chứng thư).
Qua các phân tích trên cho thấy, khởi nguồn, hoạt động công chứng là hoạt động của xã hội, với vai trò làm chứng của quần chúng nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan của các khế ước, văn tự được lập, đề phòng sự tranh chấp, lật lọng. Có thể nói, ở giai đoạn đầu của lịch sử công chứng, công chứng chính là nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ của dân chúng khi họ tham gia các hợp đồng, giao dịch chứ chưa phải nhu cầu của quản lý nhà nước. Như vậy, công chứng là một hoạt động mang tính xã hội sâu sắc.
Mặt khác, với vai trò chủ yếu là hỗ trợ công dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật; hỗ trợ quản lý nhà nước, góp phần đảm bảo ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển và hỗ trợ tư pháp thông qua việc cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử, công chứng là một nghề có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, cộng đồng. Với vai trò quan trọng như trên, công chứng đã trở thành đối tượng quản lý của Nhà nước. Thậm chí, ở một số quốc gia, trong những điều kiện lịch sử nhất định, công chứng còn trở thành một hoạt động thuộc chức năng xã hội của Nhà nước (chức năng cung ứng dịch vụ công).
Như vậy, bản chất công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ công (Service public). Với sự tinh thông nghề nghiệp, bằng việc tư vấn, soạn thảo, chứng nhận các hợp đồng, giấy tờ, công chứng viên đã cung cấp dịch vụ bảo đảm an toàn pháp lý cho công dân và các tổ chức khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại.
Khẳng định bản chất công chứng như trên, cho phép chúng ta thấy rõ: Công chứng là một hoạt động xã hội - nghề nghiệp, không mang đặc trưng quyền lực nhà nước. Về mặt tổ chức, công chứng cần được xác định là một tổ chức nghề nghiệp chứ không phải là cơ quan hành chính hay cơ quan hành chính - tư pháp.
Như vậy, để đảm bảo sự phù hợp, hài hòa, tương thích với quan niệm của thế giới về công chứng, tạo tiền đề cho sự phát triển công chứng và nâng cao hiệu quả công chứng, phát huy vai trò công chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, công chứng nên được hiểu như sau: Công chứng là hành vi của công chứng viên lập, chứng nhận tính xác thực của các giao dịch nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật. Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
1.1.2. Đặc điểm công chứng
Từ khái niệm trên, có thể thấy hoạt động công chứng có các đặc điểm cơ bản:
Đặc điểm thứ nhất: Nội dung cơ bản của hoạt động công chứng là lập hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận các hợp đồng giấy tờ theo quy định của pháp luật.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động công chứng, là căn cứ quan trọng nhất để phân biệt hoạt động công chứng với các hoạt động mang tính chất hành chính của các cơ quan công quyền. Hành vi lập hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận các hợp đồng giấy tờ đó theo quy định của pháp luật chính là hành vi tạo nên các văn bản công chứng. Hay nói cách khác, các hợp đồng giấy tờ đã được công chứng gọi là các văn bản công chứng.
Lập hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự là việc công chứng viên thông qua các tác nghiệp nghề nghiệp của mình, giúp khách hàng thể hiện ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận bằng văn bản, đảm bảo phù hợp với pháp luật, không trái với đạo đức xã hội; hoặc kiểm tra, tư vấn, góp ý để khách hàng thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của chính họ một cách rõ ràng, chính xác trong các văn bản do họ tự lập.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình thực hiện việc công chứng. Công chứng viên, bằng sự tinh thông và kinh nghiệm nghề nghiệp, với sự khách quan, vô tư phải đảm bảo xác định đúng chủ thể, đối tượng, nội dung, tính chất của hợp đồng giao dịch, xác định các quan hệ pháp lý phát sinh xung quanh một yêu cầu công chứng, hậu quả pháp lý có thể xảy ra. Ví dụ, khi tiếp nhận một yêu cầu chứng nhận hợp đồng mua bán nhà ở, công chứng viên, ngoài việc xác định các nội dung cơ bản của hợp đồng theo quy định của pháp luật (tình trạng, chất lượng tài sản; vị trí ranh giới tài sản; giá cả, phương thức thanh toán...); còn phải xác định các quan hệ pháp lý liên quan khác:
- Quan hệ sở hữu (sở hữu chung hay sở hữu riêng).
- Quan hệ thừa kế (tài sản có liên quan đến di sản thừa kế hay không?).
- Quan hệ giao dịch bảo đảm (tài sản có đảm bảo cho việc thực hiện một nghĩa vụ nào hay không như: cầm cố, bảo lãnh, thế chấp...) v.v...
Đồng thời, cần phải giải thích rõ cho khách hàng biết, nếu có sự man trá, không trung thực trong quá trình giao kết hợp đồng, sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý gì khi tranh chấp xảy ra.
Chứng nhận các hợp đồng, giấy tờ theo quy định của pháp luật là việc công chứng viên, trên cơ sở các hợp đồng, giấy tờ đã được lập, công nhận tính đúng đắn, chính xác, có thực, hợp pháp của các hợp đồng, giấy tờ bằng việc ghi lời chứng theo thể thức và nội dung do pháp luật quy định và ký tên vào văn bản, giấy tờ đó.
Khi đã hoàn tất hai giai đoạn trên, hợp đồng, giấy tờ đã trở thành văn bản công chứng - một loại công chứng thư (văn bản có tính chất công, có tính chất như văn bản của cơ quan công quyền, được lập ra do người có thẩm quyền và theo trình tự, thể thức chặt chẽ). Ngược lại, nếu công chứng viên mới lập văn bản, (giai đoạn 1) hoặc kể cả vì lẽ nào đó, công chứng viên đã ghi lời chứng mà chưa ký vào văn bản, thì đó mới chỉ là một tư chứng thư (văn bản có tính chất như hai bên tự lập, không theo thể thức bắt buộc, không có chứng nhận của công chứng viên).
Ngoài ra, sau khi lập, chứng nhận các hợp đồng giấy tờ như đã phân tích ở trên, công chứng viên còn phải cấp văn bản cho khách hàng và có nghĩa vụ lưu giữ văn bản công chứng lâu dài, đảm bảo an toàn và cấp bản sao văn bản công chứng khi có yêu cầu của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch.
Với phân tích trên, có thể thấy, hoạt động công chứng là hoạt động nghề nghiệp có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao, khác với hoạt động chuyên môn thuần túy như hoạt động của các công chức hành chính. Bản thân hoạt động công chứng chứa đựng tính phức tạp, đa dạng của các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có các quy định nghiêm ngặt về điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên.
Đặc điểm thứ hai: Chủ thể của hoạt động công chứng là công chứng viên.
Công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm, chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các loại hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự, bảo đảm tính chính xác về ngày, tháng, năm, địa điểm lập văn bản, hợp đồng; ghi nhận một cách khách quan, trung thực, chính xác ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận của các bên đương sự; đem lại cho các hợp đồng, giấy tờ đó giá trị như văn bản của cơ quan công quyền (công chứng thư - Acte - authentique).
Ở hầu hết các quốc gia, công chứng viên là người hành nghề tự do trong khuôn khổ luật định.
Đặc điểm thứ ba: Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
Văn bản công chứng là văn bản do công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại một cách chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao kết và ý chí, nguyện vọng, giao kết của các bên khi tham gia hợp đồng giao dịch. Văn bản công chứng là một công chứng thư.
Theo Bộ luật Dân sự Pháp, tại Điều 1319: "Văn bản công chứng đem lại sự tin cậy đầy đủ cho hợp đồng"; Điều 1317: "Văn bản công chứng là văn bản được công chứng viên lập để làm chứng, tại một địa điểm và theo những thể thức bắt buộc" [111, tr. 56].
Theo Điều 76 Dụ số 43 (29-11-1954) về Quy chế ngạch chưởng khế (của chính quyền Sài Gòn), chứng thư chưởng khế "có hiệu lực chấp hành trên toàn cõi Việt Nam" [91, tr. 140].
Có thể thấy, văn bản công chứng được tạo lập trước hết không nhằm tạo ra chứng cứ và càng không phải mục đích duy nhất làm chứng cứ. Văn bản công chứng được tạo lập, trước hết đảm bảo giá trị thực hiện đối với các bên giao kết (ràng buộc chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự, là cơ sở pháp lý không thể phản bác để các bên buộc bên kia phải thực hiện đúng các thỏa thuận). Đồng thời, có giá trị đối với cả bên thứ ba. Ví dụ: Ông A và bà B ký kết với nhau một hợp đồng mua bán nhà ở, có chứng nhận của công chứng viên, kể từ ngày được công chứng, trong thời hạn ghi trong hợp đồng, ông A và bà B phải tự nguyện, chủ động thực hiện hợp đồng theo các điều khoản đã thỏa thuận. Đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền liên quan (trước bạ, nhà đất...) cũng buộc phải chấp hành (giải quyết các việc liên quan đến thủ tục mua bán nhà ở) mà không thể từ chối, cản trở. Có thể nói, hiệu lực thực hiện ngay (gần như là tuyệt đối) đó là điểm cốt lõi, chỉ có văn bản công chứng mới có được. Điều này giải thích vì sao ở Pháp, công chứng viên được coi là thẩm phán về hợp đồng.
Giá trị chứng cứ của các hợp đồng giấy tờ đã được công chứng chính là giá trị làm chứng của nó. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, những hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng chính là bằng chứng không thể chối cãi giữa các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Từ đó, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên được bảo vệ và bảo đảm thực hiện.
Tuy nhiên trên thế giới, các hệ thống pháp luật khác nhau có quan điểm khác nhau khi xác định giá trị chứng cứ của văn bản công chứng. Do công chứng của hệ thống Anglo - Saxon là công chứng hình thức (công chứng viên nhận diện đúng khách hàng, ghi đúng ngày, tháng, năm, ghi lại một cách trung thành ý chí, các thỏa thuận của các bên, không quan tâm đến tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết nội dung của hợp đồng, giao dịch có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không, không chịu trách nhiệm nếu có điều khoản nào đó trong hợp đồng bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba), văn bản công chứng mang lại sự an toàn pháp lý thấp nên không có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên như phán quyết của tòa án. Văn bản công chứng cũng có giá trị chứng cứ song không cao hơn các tư chứng thư. Công chứng Latinh là công chứng nội dung, văn bản công chứng được lập theo trình theo tự, thủ tục chặt chẽ do luật định, công chứng viên không chỉ chứng nhận, đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính đích thực của hợp đồng, giao dịch mà còn phải đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các hợp đồng, giao dịch đó, đảm bảo không xâm hại lợi ích của người thứ ba hoặc của Nhà nước. Vì vậy, văn bản công chứng có giá trị chấp hành riêng biệt. Khi được xuất trình trước tòa án với tư cách là chứng cứ, thì tòa án, nói chung không cần phải đánh giá lại tính xác thực của những điều đã được ghi trong văn bản đó và mặc nhiên xem nó là chứng cứ. Vì lý do nào đó, để bác bỏ hiệu lực chứng cứ của một văn bản công chứng, tòa án phải xem xét theo một trình tự tố tụng riêng về chính văn bản công chứng đó (với tư cách là thưa kiện chính vụ), chứ không thể tùy tiện bác bỏ giá trị văn bản công chứng trong một vụ kiện khác.
Ngoài ra, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng ở hệ thống công chứng Latinh còn được bảo đảm ở việc văn bản công chứng được bảo vệ an toàn, lưu giữ lâu dài theo quy định của pháp luật, đồng thời được ghi vào sổ danh mục công chứng theo đúng trình tự luật định. Đó chính là yếu tố đảm bảo cho văn bản công chứng không thể bị thay đổi, sửa chữa, đánh tráo.
Đặc điểm thứ tư: Công chứng là hoạt động hỗ trợ đắc lực cho công dân và các tổ chức khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; hỗ trợ tích cực cho hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động tư pháp nên thường được xếp vào nhóm bổ trợ tư pháp (có thể nói đặc điểm này là hệ quả của các đặc điểm trên).
Các nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn lịch sử cho thấy, Nhà nước pháp quyền chỉ có thể tồn tại trong hiện thực trên nền tảng của một xã hội dân chủ, ở đó hình thành và phát triển mạnh mẽ hệ thống các mối liên hệ đa dạng theo chiều ngang của các cá nhân, các tổ chức và cộng đồng trên cơ sở tự nguyện, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Trong đó, quan hệ cơ bản là quan hệ hợp đồng được điều chỉnh bằng pháp luật trên cơ sở nguyên tắc công dân được làm tất cả, trừ những gì luật cấm; các quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, tự do sở hữu và tự do định đoạt của công dân được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện.
Là hoạt động gắn liền với các hợp đồng, giao dịch; phát sinh, tồn tại, phát triển trên cơ sở nhu cầu về an toàn pháp lý của các hợp đồng, giao dịch, công chứng chính là hoạt động hỗ trợ đắc lực cho công dân và các tổ chức khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại.
Thông qua chức năng này, hoạt động công chứng đã góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các chủ thể khi tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, tạo sự ổn định cho xã hội.
Không chỉ hỗ trợ tích cực công dân khi tham gia các hợp đồng, giao dịch, mà thông qua việc phòng ngừa vi phạm pháp luật, công chứng còn góp phần hỗ trợ quản lý nhà nước một cách thường xuyên, liên tục đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Nếu như hỗ trợ hành pháp được biểu hiện thường xuyên, liên tục, thì trái lại công chứng chỉ có ý nghĩa bổ trợ tư pháp khi có tranh chấp xảy ra. Khi có tranh chấp xảy ra, công chứng cung cấp chứng cứ không thể phản bác.
Cần thấy rằng, tham gia tố tụng với ý nghĩa bổ trợ pháp không phải là mục đích tự thân với ý nghĩa quyết định sự tồn tại của hoạt động công chứng. Sự tham gia của công chứng với ý nghĩa là cung cấp chứng cứ không mang tính chất bắt buộc mà trên cơ sở yêu cầu của một trong các chủ thể tham gia quá trình tố tụng (có thể là tòa án, có thể là các bên đương sự). Song, khi có yêu cầu, công chứng đóng vai trò hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tư pháp bằng việc cung cấp chứng cứ không thể bác bỏ, đảm bảo cho hoạt động xét xử được khách quan, nhanh chóng, chính xác, đảm bảo chất lượng và hiệu quả xét xử.
1.1.3. Vai trò công chứng trong đời sống xã hội
Công chứng là hoạt động có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, thể hiện:
Thứ nhất: Công chứng là một biện pháp tích cực hỗ trợ cho công dân và các tổ chức, để bảo đảm an toàn cho họ trong các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại bằng cách tạo lập văn bản công chứng - một loại công chứng thư - một loại chứng cứ không thể phản bác. Bằng sự tinh thông nghề nghiệp của công chứng viên, với trình tự, thể thức chặt chẽ, nghiêm ngặt trong quá trình lập văn bản công chứng, công chứng đảm bảo sự bình đẳng, tự nguyện, tự do ý chí, khách quan của các bên giao kết hợp đồng, tránh bị lừa dối, đe dọa, nài ép, tránh sự nhầm lẫn về chủ thể, đối tượng và nội dung của các hợp đồng giao dịch.
Không chỉ hỗ trợ cho công dân, tổ chức trong các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, công chứng còn là một biện pháp phòng ngừa có hiệu quả và quan trọng ở cả hai khía cạnh: tạo cho công dân ý thức thận trọng, có trách nhiệm hơn trong việc thể hiện ý chí của mình phù hợp với pháp luật, với đạo đức xã hội khi tham gia các quan hệ giao dịch; đồng thời nếu có xảy ra tranh chấp trong các quan hệ pháp lý đó, thì đã có cơ sở pháp lý chắc chắn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ngoài các vai trò truyền thống nói trên, trong điều kiện kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền, quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự do định đoạt được khẳng định và đảm bảo thực hiện, vai trò công chứng ngày càng được khẳng định. Trong điều kiện này, công chứng còn là một trong các thiết chế bảo đảm quyền dân chủ. Có thể nói, hoàn thiện thể chế công chứng theo hướng xã hội hóa không chỉ là nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, mà còn là nhu cầu của bản thân quá trình dân chủ hóa xã hội, thúc đẩy quyền con người. Hoạt động công chứng góp phần đảm bảo trật tự, ổn định xã hội, làm lành mạnh hóa đời sống dân sự, tạo điều kiện để công dân thực hiện tốt hơn quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự do định đoạt, đảm bảo các nguyên tắc của kinh tế thị trường.
Như vậy, công chứng chính là một trong các phương tiện, công cụ tạo ra khả năng để công dân tự bảo vệ các quyền, tự do và lợi ích của mình; đồng thời góp phần nâng cao dân trí pháp lý, mở rộng dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân trong các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại; tạo môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh để các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thứ hai: Bản thân công chứng không phải là một hoạt động quản lý nhà nước, nhưng nó góp phần hỗ trợ tích cực cho Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật, một yêu cầu cốt lõi của Nhà nước pháp quyền. Mặt khác, bằng cách tạo ra chứng cứ không thể phản bác về các giao dịch, công chứng tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của tòa án nếu có tranh chấp xảy ra.
Mặc dù có vai trò quan trọng như trên, nhưng công chứng chỉ có thể phát huy vai trò, tác dụng khi được tổ chức phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, với bản chất xã hội - nghề nghiệp và với khuynh hướng phát triển công chứng trên thế giới hiện nay.
1.2. XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG VÀ KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, NGUYÊN TẮC, PHẠM VI, Ý NGHĨA CỦA XÃ HỘI HÓA CÔNG CHỨNG
1.2.1. Xã hội hóa dịch vụ công
Ở trên, phần 1.1.1 đã khẳng định, "bản chất công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ công". Dịch vụ công (tiếng Anh là service public; tiếng Pháp là public service) là khái niệm được sử dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay. Ở Việt Nam, khái niệm dịch vụ công mới được bàn đến và sử dụng trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, dịch vụ công không phải là cái gì mới mẻ mà chính là những hoạt động phục vụ cho các lợi ích thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các tổ chức mà Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo.
Nhà nước có hai chức năng cơ bản: Chức năng quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và chức năng phục vụ cho các tổ chức, công dân trong xã hội (chức năng xã hội).
Chức năng quản lý nhà nước bao gồm các hoạt động quản lý và điều tiết đời sống kinh tế - xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật, chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát. Chức năng phục vụ bao gồm các hoạt động nhằm phục vụ cho các lợi ích thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tổ chức (cung ứng dịch vụ công). Việc thực hiện quản lý nhà nước là theo nhu cầu của bản thân bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo trật tự, ổn định, công bằng xã hội; còn việc cung ứng dịch vụ công lại do nhu cầu cụ thể của các tổ chức công dân, ngay cả khi các nhu cầu này có thể phát sinh từ những yêu cầu của Nhà nước. Tuy nhiên, hai chức năng này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo Ph. Ăng-ghen, "ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó" [55, tr. 253].
Thực tế cho thấy, trên ý nghĩa nhất định, mức độ, hiệu quả thực hiện dịch vụ công quy định mức độ, hiệu quả thực hiện chức năng chính trị của giai cấp. Vì vậy, mọi Nhà nước đều dành sự chú ý đặc biệt cho việc cải tiến cung ứng dịch vụ công nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân, đảm bảo sự ổn định chung của xã hội - đó chính là cơ sở để duy trì một Nhà nước vững mạnh. Trong quá trình chuyển từ Nhà nước cai trị sang Nhà nước phục vụ, khả năng cung cấp, đảm bảo dịch vụ công được coi là một trong các tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực của chính phủ. Một chính phủ được coi là có năng lực khi ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ công cho xã hội.
Tuy nhiên, phạm vi dịch vụ công ở mỗi quốc gia khác nhau, hoặc trong mỗi quốc gia, ở mỗi giai đoạn phát triển cũng khác nhau.
Ở một số quốc gia (Thụy Điển, Canada, Cộng hòa Liên bang Đức…), dịch vụ công được xác định theo nghĩa rộng, bao gồm các hoạt động của Nhà nước trong hầu hết các lĩnh vực (từ lập pháp, an ninh, quốc phòng cho đến giáo dục, y tế, thu gom rác thải… đều là hoạt động dịch vụ công). Ví dụ, ở Canada có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ an ninh, quốc phòng đến việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Các nước khác, trong đó có Việt Nam lại phân biệt chức năng hoạch định chính sách với chức năng cung ứng dịch vụ công của Nhà nước. Theo đó, chức năng hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách không phải là dịch vụ công. Chỉ những hoạt động nào của cơ quan nhà nước và viên chức nhà nước phục vụ trực tiếp các nhu cầu của công dân và các tổ chức mới là dịch vụ công.
Xung quanh khái niệm dịch vụ công, ở Việt Nam cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo TS. Chu Văn Thành - Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ:
Dịch vụ công là những hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà nước ủy quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu chung của cộng đồng, công dân theo nguyên tắc không vụ lợi, đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội [85, tr. 15].
Theo PGS.TS. Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia): "Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ trực tiếp các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và người dân do Nhà nước đảm nhận hay ủy quyền cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo trật tự và công bằng xã hội" [85, tr. 35-36].
Theo TS. Nguyễn Văn Thủ (Văn phòng Chính phủ): "Dịch vụ công là các hoạt động thiết yếu, đáp ứng nhu cầu chung của xã hội, do nền hành chính nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm cung cấp, không vì mục tiêu lợi nhuận, bị chi phối bởi cơ chế thị trường nhưng không tuân theo quy luật của thị trường" [34, tr. 84].
So sánh các khái niệm trên cho thấy, tuy các tác giả có các cách diễn đạt khác nhau, song đều có những điểm chung đó là:
- Dịch vụ công là hoạt động phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội, cộng đồng.
- Trách nhiệm bảo đảm thuộc về Nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này cho xã hội, ngay cả khi Nhà nước chuyển giao cho các chủ thể khác thực hiện, thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết đặc biệt nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này.
Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ "ủy quyền" trong các khái niệm của các tác giả nói trên có lẽ là chưa phù hợp, thể hiện sự độc quyền của Nhà nước (Nhà nước cho ai tham gia cung ứng dịch vụ công, thời gian bao lâu, hoặc rút lại sự ủy quyền lúc nào là do Nhà nước quyết định); điều đó đồng nghĩa với vai trò bị động, phụ thuộc của các chủ thể phi nhà nước trong cung ứng dịch vụ công. Trong khi đó, xét về nguồn gốc, dịch vụ công là các hoạt động mang bản chất xã hội sâu sắc, phát sinh và tồn tại tự nhiên trong đời sống dân sự. Với danh nghĩa là một tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt, Nhà nước đảm bảo để các dịch vụ công đó được cung ứng thường xuyên, liên tục, đảm bảo cuộc sống bình thường của mọi người dân, cũng chính là đảm bảo cơ sở xã hội của Nhà nước.
Do đó, theo tác giả luận văn, dịch vụ công là những hoạt động phục vụ trực tiếp các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các tổ chức do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hoặc chuyển giao cho khu vực tư nhân thực hiện nhằm đảm bảo trật tự và công bằng xã hội.
Dịch vụ công có những đặc trưng cơ bản sau:
- Là những hoạt động có tính chất xã hội, phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã hội để bảo đảm cho cuộc sống được bình thường và an toàn.
- Những hoạt động này do các cơ quan công quyền hay những chủ thể được chính quyền ủy nhiệm đứng ra thực hiện.
- Khi thực hiện cung ứng các dịch vụ công, các cơ quan nhà nước, các tổ chức được ủy nhiệm cung ứng có sự giao tiếp với người dân ở mức độ khác nhau, có nghĩa là những cơ quan này có trách nhiệm giải quyết những công việc hàng ngày của Nhà nước gắn với các lợi ích hợp pháp của nhân dân.
- Việc trao đổi dịch vụ công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông thường, người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền, hay nói đúng hơn đã trả tiền trước dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước. Cũng có những dịch vụ, người sử dụng vẫn phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí; tuy nhiên, Nhà nước cần có trách nhiệm bảo đảm cung ứng các dịch vụ này không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Mọi người dân (bất kể đóng thuế nhiều hay ít, không phải đóng thuế) đều có quyền hưởng sự cung ứng dịch vụ công, với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền.
- Khác với những loại dịch vụ thông thường được hiểu là những hoạt động phục vụ không tạo ra sản phẩm mang hình thái hiện vật, dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các nhu cầu thiết yếu của xã hội, bất kể sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay phi hiện vật.
Dịch vụ công gồm hai loại: Dịch vụ hành chính công và dịch vụ công cộng.
Dịch vụ hành chính công là nhóm các hoạt động thực hiện chức năng quản lý hành chính, có sự giao tiếp với người dân, do các cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp đảm nhận, nhằm cai quản các công việc của xã hội, duy trì kỷ cương xã hội, bảo đảm quyền dân chủ và các quyền hợp pháp khác của công dân (khai sinh, hộ tịch, hộ khẩu...). Các dịch vụ này ít nhiều mang tính bắt buộc, yêu cầu các công dân phải tuân thủ.
Hiện nay, ở nước ta vẫn có ý kiến cho rằng, hoạt động công chứng cũng thuộc nhóm dịch vụ hành chính công. Song, qua phân tích ở tiết 1.1 cho thấy, công chứng không phải là hoạt động quản lý nhà nước, do đó, không thuộc nhóm dịch vụ hành chính công. Sở dĩ có nhận thức như trên là do hiện nay, công chứng nước ta đang được tổ chức như một cơ quan công quyền.
Dịch vụ công cộng là các hoạt động phục vụ trực tiếp lợi ích công cộng, bao gồm các nhu cầu thiết yếu, cơ bản trong đời sống con người (cung cấp điện nước, thu gom rác thải, giáo dục, y tế, tư vấn pháp lý, công chứng...).
Đối với các dịch vụ công cộng, Nhà nước có thể trực tiếp cung ứng hoặc chuyển giao cho tư nhân, tổ chức phi chính phủ cung ứng, Nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng, điều tiết, kiểm soát nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này.
Việc chuyển giao các dịch vụ công cho tư nhân, các tổ chức phi nhà nước cung ứng thực chất là quá trình "phi nhà nước hóa", hay xã hội hóa dịch vụ công, với mục tiêu hoàn thiện bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Như vậy, xã hội hóa dịch vụ công là quá trình Nhà nước chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thực hiện, hoặc huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào việc cung ứng các dịch vụ này.
Cùng với sự đổi mới tư duy về vai trò của Nhà nước, "Nhà nước nhỏ như cần thiết, xã hội lớn như có thể", Nhà nước là người "cầm lái" chứ không "chèo thuyền"..., xã hội hóa dịch vụ công đang là xu thế diễn ra trên toàn cầu.
Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình ngược lại với "nhà nước hóa" dịch vụ công.
"Nhà nước hóa" dịch vụ công thể hiện ở việc Nhà nước mở rộng phạm vi can thiệp, điều chỉnh hoặc trực tiếp cung ứng dịch vụ công.
Nhà nước hóa dịch vụ công diễn ra khi Nhà nước - trong một giai đoạn nhất định - thấy rằng các dịch vụ công đó có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội, với sự tồn tại của Nhà nước, cần được Nhà nước trực tiếp cung ứng hoặc quản lý chặt chẽ; hoặc việc cung ứng các dịch vụ công đó, xã hội chưa thể tự đảm nhiệm được, Nhà nước cần phải can thiệp bằng biện pháp hành chính (biện pháp mang tính chất quyền lực nhà nước với việc sử dụng các nhân viên nhà nước, ngân sách nhà nước để can thiệp các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội). Nhà nước sẽ kiểm soát chặt chẽ hơn, can thiệp sâu hơn, tác động mạnh mẽ hơn, định hướng một cách triệt để hơn, quản lý một cách trực tiếp, cụ thể hơn các dịch vụ công.
Xã hội hóa dịch vụ công được tiến hành khi Nhà nước nhận thấy những vấn đề nhất định, có thể để cho xã hội tự thực hiện và thực hiện có hiệu quả hơn; thu hẹp phạm vi can thiệp của Nhà nước đối với các quá trình xã hội. Xã hội hóa cũng có thể diễn ra khi việc can thiệp quá sâu vào việc cung ứng dịch vụ công vượt quá khả năng của Nhà nước, dẫn đến các hậu quả tiêu cực. Xã hội hóa dịch vụ công là việc Nhà nước giảm dần các biện pháp quản lý trực tiếp mang tính quyền uy, mệnh lệnh để tập trung vào các biện pháp quản lý mang tính vĩ mô, thông qua sử dụng các công cụ: Pháp luật, chính sách, thuế, tài chính...; đồng thời phát triển các hình thức tự quản xã hội, kết hợp quản lý nhà nước với quản lý của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, phát huy tính tích cực, chủ động, năng động của xã hội, làm cho Nhà nước gần với xã hội hơn.
Việc nhà nước hóa dịch vụ công, trong một chừng mực có thể mang lại những lợi ích nhất định: đó là sự bảo đảm bằng sức mạnh quyền lực nhà nước trong cung ứng dịch vụ công, kiểm soát chặt chẽ quá trình cung ứng, khắc phục những tiêu cực như: cạnh tranh không lành mạnh, bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường v.v... Song lại dễ làm phát sinh những tiêu cực khác: tệ quan liêu, cửa quyền, áp đặt, không tôn trọng các quy luật xã hội, bộ máy nhà nước trở nên cồng kềnh, quá tải, trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Xã hội hóa dịch vụ công có khả năng khắc phục những hạn chế này, nhưng lại dễ xuất hiện nguy cơ của tình trạng vô chính phủ, lộn xộn, tùy tiện, vượt ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, gây hậu quả xấu cho kinh tế - xã hội. Có thể thấy rõ điều này ở Vương quốc Anh, Cộng hòa Pháp vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Nhà nước hóa hay xã hội hóa dịch vụ công, thực chất chỉ là các biện pháp, cách thức thực hiện chức năng của Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể. Nhà nước hóa hay xã hội hóa dịch vụ công phải dựa trên các cơ sở khách quan, mà quan trọng nhất là sự phát triển kinh tế - xã hội và năng lực quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, còn phụ thuộc vào mức độ dân chủ hóa trong từng quốc gia; theo đó, bằng pháp luật, Nhà nước xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước vào các quá trình xã hội và mức độ tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, quản lý mọi mặt đời sống xã hội; trình độ dân trí, theo đó, người dân nhận thức được vai trò, quyền, nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.
Phạm vi xã hội hóa dịch vụ công:
Xác định phạm vi xã hội hóa dịch vụ công tức là xem xét phạm vi, mức độ, phương thức Nhà nước can thiệp vào các dịch vụ công. Đây là yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Mỗi quốc gia có phạm vi, mức độ xã hội hóa dịch vụ công khác nhau, tùy thuộc vào năng lực quản lý của Nhà nước, nhu cầu của xã hội về dịch vụ công; khả năng tham gia cung ứng dịch vụ công của xã hội. Một nguyên tắc đặt ra đối với việc xã hội hóa dịch vụ công ở các nước trên thế giới là:
· Những công việc nào mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm thì Nhà nước không nên làm.
· Nhà nước chỉ thực hiện những công việc nào mà khu vực tư nhân không thể đảm nhiệm nổi, hoặc nếu có đảm nhiệm thì sẽ dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong xã hội hoặc cung cấp không đầy đủ cho nhu cầu xã hội.
Với nguyên tắc trên, có thể thấy, về nguyên lý, dịch vụ hành chính công là không thể xã hội hóa. Vì cung ứng dịch vụ hành chính công là chức năng của các cơ quan hành chính nhà nước, là trách nhiệm, nghĩa vụ của bộ máy nhà nước đối với nhân dân, không một tổ chức tư nhân nào có đủ thẩm quyền thực hiện chức năng này.
Ngoài ra, các dịch vụ công cộng đều có thể thực hiện xã hội hóa.
Tuy nhiên, có những loại dịch vụ công cộng tối cần thiết cho cuộc sống vật chất và tinh thần của con người mà tư nhân không muốn, không thể cung ứng (ví dụ dịch vụ tiêm chủng, phòng chống bệnh dịch, cứu hỏa, đắp đê chống lụt…); hoặc cung ứng không đầy đủ, không bảo đảm lợi ích của xã hội (ví dụ dịch vụ y tế, giáo dục, cung cấp điện, nước sinh hoạt…), Nhà nước với tư cách là một tổ chức công quyền có trách nhiệm trực tiếp cung ứng hoặc điều tiết, kiểm soát việc cung ứng nhằm đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả của nền kinh tế.
Dựa trên nguyên tắc chung trên, ở Việt Nam, phạm vi, mức độ xã hội hóa dịch vụ công được thể hiện ở ba nhóm việc:
- Các dịch vụ công Nhà nước nhất thiết phải đảm đương (dịch vụ hành chính công, các dịch vụ về cứu hộ, cứu hỏa, đèn đường, tiêm chủng, phòng chống bệnh dịch...).
- Các dịch vụ công Nhà nước và nhân dân cùng làm (y tế, giáo dục,
văn hóa...).
- Các dịch vụ công hoàn toàn do xã hội đảm đương, Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý vĩ mô: định hướng, điều tiết, kiểm tra (Luật sư).
Tóm lại, xã hội hóa dịch vụ công là giải pháp quan trọng để một mặt, tập trung hoạt động của bộ máy nhà nước vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước - lĩnh vực mà không một tư nhân nào có thể đảm nhận, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, giải phóng Nhà nước khỏi những hoạt động có thể giao cho khu vực tư nhân, từ đó thu hẹp biên chế nhà nước, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước. Mặt khác, nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ công, đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đây là vấn đề được các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi (trong đó có Việt Nam) quan tâm, nhằm cơ cấu lại bộ máy nhà nước phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Xã hội hóa công chứng là một trong các nội dung quan trọng của giải pháp trên.
1.2.2. Khái niệm, đặc trưng, nguyên tắc, phạm vi, ý nghĩa xã hội hóa công chứng
1.2.2.1. Khái niệm xã hội hóa công chứng
Theo phân tích ở tiết 1.1, trên thế giới tồn tại ba hệ thống công chứng, song chung quy lại, chỉ có hai mô hình tổ chức công chứng: Mô hình công chứng tự do (ở hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Ănglo - Saxon) và mô hình công chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste).
Ở mô hình công chứng tự do, các công chứng viên được Nhà nước bổ nhiệm, hành nghề tự do, tự chủ trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và làm nghĩa vụ tài chính (đóng thuế) với Nhà nước. Công chứng viên hoạt động độc lập, chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình. Ở hệ thống công chứng Latinh, công chứng viên phải chịu trách nhiệm dân sự trước khách hàng nếu hành vi công chứng gây thiệt hại cho các bên hoặc người thứ ba.
Trái với mô hình công chứng tự do, ở mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, do Nhà nước bổ nhiệm, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công chứng viên không phải chịu trách nhiệm dân sự trước đương sự nếu hành vi công chứng gây thiệt hại cho các bên hoặc người thứ ba, chỉ chịu trách nhiệm hành chính trước Nhà nước. Lệ phí công chứng được nộp cho ngân sách nhà nước, có trích lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của phòng công chứng.
Có thể nói, với sự bao cấp toàn bộ của Nhà nước, mô hình công chứng nhà nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hóa tập trung và nền kinh tế hiện vật, ở đó các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển; vai trò công chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân.
So sánh hai mô hình công chứng, có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của công chứng viên; tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động, nhiệt tình trong hoạt động của mình; giảm nhẹ sự bao cấp của Nhà nước; bộ máy nhà nước tinh giản, gọn nhẹ; tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng. Mô hình tổ chức này không chỉ tiết kiệm cho ngân sách nhà nước mà còn tăng thu ngân sách thông qua việc đóng thuế của các công chứng viên. Không những vậy, mô hình công chứng tự do còn tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức, kịp thời đáp ứng nhu cầu công chứng của xã hội.
Tóm lại, những ưu điểm của mô hình công chứng tự do là không thể phủ nhận. Công chứng tự do là mô hình phản ánh đúng bản chất công chứng, tạo ra khả năng nâng cao hiệu quả công chứng, phát huy vai trò công chứng trong đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xu thế hội nhập.
Hiện nay, hầu hết các nước trong hệ thống công chứng Collectiviste như Cộng hòa Liên bang Nga, các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu, Trung Quốc, Cu Ba đều đang cải cách công chứng theo xu hướng chuyển dần từ công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tự do, hay nói cách khác đang từng bước xã hội hóa công chứng. Việc đổi mới này nhằm đáp ứng và theo kịp những yêu cầu và biến đổi của nền kinh tế thị trường mà theo đó, quyền sở hữu tư nhân được thừa nhận, quyền tự do kinh doanh của cá nhân và pháp nhân được khẳng định, đồng thời nhằm phục vụ chính sách mở cửa và giao lưu kinh tế quốc tế.
Có thể hiểu, xã hội hóa công chứng là quá trình Nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức, hoạt động công chứng, theo đó, Nhà nước từng bước chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân, tổ chức hành nghề tự do thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công chứng, đáp ứng yêu cầu kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Bản chất xã hội hóa công chứng là việc Nhà nước từng bước chuyển giao công chứng - một hoạt động xã hội nghề nghiệp đang do Nhà nước độc quyền thực hiện cho tư nhân và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện, có nghĩa là từng bước chuyển đổi mô hình công chứng từ công chứng nhà nước sang công chứng tự do, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời, nâng cao hiệu quả công chứng, phát huy vai trò công chứng trong đời sống xã hội.
Như vậy, xã hội hóa công chứng chỉ được đặt ra đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi mà công chứng do Nhà nước trực tiếp độc quyền thực hiện (công chứng nhà nước). Bởi lẽ, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước thực hiện "nhà nước hóa" toàn bộ các quá trình phát triển của xã hội, dẫn đến tập trung mọi hoạt động, trong đó có hoạt động công chứng vào trong tay Nhà nước. Ở các nước này, công chứng - một thiết chế vốn dĩ thuộc về xã hội đã trở thành thiết chế nhà nước. Do đó, hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (Collectiviste) chỉ tồn tại ở các nước xã hội chủ nghĩa (trước đây) và Trung Quốc, Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, mặc dù là một thiết chế nhà nước, song không thể xếp hoạt động công chứng vào loại hoạt động quản lý mang tính chất hành chính. Dù thuộc về thiết chế nhà nước hay là thiết chế xã hội, thì hoạt động công chứng vẫn là hoạt động xã hội nghề nghiệp; bản chất công chứng vẫn không thay đổi: là hoạt động mang tính dịch vụ công (dịch vụ công cộng). Vì vậy, khả năng xã hội hóa là rất cao.
Xã hội hóa công chứng ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi là một tất yếu khách quan bởi các lý do sau:
Thứ nhất: Sự chuyển đổi cơ chế quản lý từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Nội dung quan trọng của quá trình chuyển đổi là khắc phục chế độ quản lý quan liêu, bao cấp, Nhà nước bao biện, làm thay tất cả, để tạo ra một chế độ quản lý phù hợp: Nhà nước chuyển giao cho xã hội những công việc thuộc về xã hội mà xã hội có thể làm, để tập trung vào quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong quá trình này, Nhà nước có trách nhiệm tạo cơ chế pháp lý để người dân nhận thức được các quyền, nghĩa vụ của mình, chủ động bảo vệ quyền của mình cũng như thực hiện những gì thuộc về trách nhiệm của xã hội, thay vì sự ỷ lại, trông chờ, phó mặc cho Nhà nước. Đây chính là nội dung quan trọng của xã hội hóa dịch vụ công. Xã hội hóa công chứng không nằm ngoài nội dung này.
Thứ hai: Sự phát triển của kinh tế thị trường làm cho nhu cầu về an toàn pháp lý của công dân và các tổ chức ngày càng cao, đồng thời làm tăng khả năng tham gia của xã hội vào hoạt động công chứng.
Kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến sự ra đời và vận hành của các loại thị trường mới: Thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ, thị trường vốn..., kéo theo nó là khối lượng và quy mô các giao dịch ngày càng đa dạng; nhu cầu xã hội về phòng ngừa tranh chấp thông qua hoạt động công chứng ngày càng lớn. Sự phát triển mạnh mẽ nhu cầu về công chứng của công dân và các tổ chức là một trong các tiền đề quan trọng để xã hội hóa công chứng.
Mặt khác, kinh tế thị trường với sự tham gia của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân đã khơi dậy tiềm năng của xã hội trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra khả năng to lớn để xã hội tham gia vào hoạt động công chứng, đó là:
- Khả năng tài chính.
- Nguồn nhân lực được đào tạo, có kiến thức chuyên môn, có kỹ năng, khả năng tổ chức và quản lý cao.
- Một bộ phận không nhỏ các công chứng viên nhà nước tâm huyết, giàu kinh nghiệm, có bản lĩnh, tinh thông nghề nghiệp.
Tóm lại, sự phát triển kinh tế - xã hội đã làm thay đổi cả về chất cũng như về lượng các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại làm tăng nhu cầu của xã hội đối với công chứng, đồng thời, tạo ra khả năng để công dân và các tổ chức tham gia tổ chức và hoạt động công chứng. Đó chính là các tiền đề quan trọng để tiến tới xã hội hóa công chứng.
Thứ ba: Do những hạn chế, bất cập của công chứng nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường.
Do đặc điểm thuần túy hành chính của công chứng nhà nước (cơ quan công chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, hoạt động công chứng trở thành độc quyền của Nhà nước, không phải chịu sức ép cạnh tranh, thu nhập của công chứng viên không phụ thuộc vào số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ mà họ cung ứng cho khách hàng; công chứng viên không phải chịu trách nhiệm vật chất trực tiếp trước khách hàng nếu hành vi công chứng gây thiệt hại cho khách hàng...), tất yếu dẫn tới hệ quả: cửa quyền, quan liêu xa dân, phiền hà, không tạo động lực để công chứng viên phát huy tính chủ động, tích cực. Hoạt động công chứng nặng về tính hành chính, coi nhẹ tính chất phục vụ, làm sai lệch bản chất công chứng. Đặc biệt, ở Việt Nam, thể chế công chứng ra đời và phát triển chịu sự ảnh hưởng sâu sắc, chủ yếu của thể chế công chứng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa và tập trung quan liêu bao cấp, do đó, cơ sở xã hội còn nhỏ hẹp, chưa thực sự đi sâu vào đời sống xã hội; vị trí trong hoạt động tố tụng còn rất khiêm tốn.
Thứ tư: Do yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là xu thế tất yếu. Sự giao lưu, phát triển đan xen giữa các nước, các khu vực ngày càng mạnh mẽ. Ở các nước khác trên thế giới, hoạt động công chứng là một hoạt động xã hội - nghề nghiệp, được thực hiện bởi những người hành nghề tự do. Để tồn tại và phát triển trên cơ sở những chuẩn mực chung trên thế giới, xã hội hóa công chứng nhà nước là một tất yếu.
Tuy nhiên, việc xã hội hóa công chứng ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi đã và sẽ gặp những cản trở không nhỏ, đó là:
- Điều kiện kinh tế - xã hội, năng lực quản lý của Nhà nước chưa cho phép các quốc gia này chuyển giao toàn bộ hoạt động công chứng cho xã hội.
- Tâm lý của các nhà quản lý chưa thật sự yên tâm, tin tưởng vào khả năng tham gia của xã hội vào lĩnh vực công chứng. Mặt khác, "nhà nước hóa" công chứng tạo điều kiện cho Nhà nước quản lý công chứng được dễ dàng, thuận tiện hơn; ngược lại, xã hội hóa công chứng, Nhà nước buộc phải có sự điều chỉnh cơ chế, phương pháp, cách thức quản lý, cần phải có một quá trình để nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Hơn nữa, xóa bỏ độc quyền Nhà nước không thể thực hiện trong một sớm một chiều vì nó động chạm đến lợi ích cục bộ của một bộ phận quan chức nhà nước.
- Người dân đã quen với sự bao cấp của Nhà nước, ỷ lại vào sự bao cấp, bảo vệ, che chở của Nhà nước, sinh ra tâm lý "sính" Nhà nước, chỉ tin vào Nhà nước. Khi công chứng không còn là hoạt động của cơ quan nhà nước, sẽ tạo ra tâm lý e ngại, hoài nghi, thiếu tin tưởng.
- Đội ngũ công chứng viên cũng đã quen với sự bao cấp của Nhà nước, gắn bó với các đặc quyền, đặc lợi của công chức nhà nước; có tâm lý không muốn hoặc chưa sẵn sàng từ bỏ các đặc quyền, đặc lợi để bước vào môi trường hành nghề tự do với sức ép của cạnh tranh, của sự đào thải trong nền kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, với đặc thù của sự hình thành và phát triển pháp luật về công chứng, ngoài các cản trở trên, xã hội hóa công chứng còn gặp những trở ngại không nhỏ khác:
- Kinh tế thị trường Việt Nam được xây dựng và phát triển trên cơ sở một nền sản xuất nhỏ, sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và phát triển không đồng đều giữa các khu vực, vùng miền. Chính vì thế, sau gần 20 năm đổi mới, mặc dù đã thu được không ít thành tựu về kinh tế - xã hội, song nước ta vẫn chưa hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường (thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ...). Hệ quả là mặc dù các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại đã có sự phát triển, song khối lượng, quy mô còn rất hạn chế, có sự chênh lệch lớn giữa các khu vực, vùng miền, gây khó khăn cho việc phát triển đồng bộ của hệ thống công chứng trên toàn quốc.
- Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế thị trường, pháp luật dân sự, pháp luật về bất động sản… chưa thực sự tạo ra các bảo đảm về mặt pháp lý cho các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại.
- Sự thiếu thống nhất trong nhận thức các vấn đề lý luận về công chứng (khái niệm, bản chất, phạm vi công chứng, vai trò công chứng trong nền kinh tế thị trường…).
-Tính chuyên nghiệp hóa trong hoạt động công chứng chưa cao, cho đến nay, hoạt động công chứng, chứng thực còn do nhiều công chức hành chính thực hiện; chất lượng đội ngũ công chứng viên còn hạn chế, các công chứng viên làm việc chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa được đào tạo bài bản về nghề công chứng, do đó, chưa đáp ứng yêu cầu kinh tế thị trường, chưa thật sự phát huy vai trò trong đời sống xã hội.
- Trình độ dân trí, ý thức pháp luật, ý thức về dân chủ của người dân nhìn chung còn thấp, chưa nhận thức đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, xã hội; chưa có thói quen sử dụng các công cụ hợp pháp để bảo vệ mình. Hiện nay, đa số người dân đến công chứng là do yêu cầu của quản lý nhà nước chứ chưa phải là nhu cầu tự giác của công dân, tạo ra hiện tượng "quá tải" giả tạo trong hoạt động công chứng (quá tải những loại việc mà thực chất, không thuộc về phạm vi công chứng).
Có lẽ vì những đặc thù trên, nên trong khi ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi khác trên thế giới đã thực hiện cải cách công chứng từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, và thu được những kết quả nhất định, hiệu quả công chứng được nâng lên rõ rệt, thì ở Việt Nam, cho đến nay, xã hội hóa công chứng vẫn đang là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, song chưa tạo được chuyển biến tích cực trên thực tế.
Để thực hiện được chủ trương này, một mặt phải có sự quyết tâm, đồng thuận của xã hội, có tầm nhìn chiến lược, có giải pháp cải cách mạnh mẽ, với sự tham gia tích cực, chủ động của Nhà nước - xã hội - đội ngũ những người làm công chứng. Mặt khác, phải xác định được lộ trình với các bước đi thích hợp, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm cải cách công chứng ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi.
Tóm lại, xã hội hóa công chứng ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi là một tất yếu khách quan, đảm bảo phát huy hiệu quả, vai trò công chứng trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế.
1.2.2.2. Đặc trưng xã hội hóa công chứng
Đặc trưng thứ nhất: Xã hội hóa công chứng là quá trình Nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động trong lĩnh vực công chứng, từng bước chuyển giao lĩnh vực công chứng cho cá nhân và các tổ chức thực hiện.
Trước hết cần phải thấy, cũng như xã hội hóa dịch vụ công, xã hội hóa công chứng là một quá trình lâu dài với những bước đi phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội; trình độ dân trí; quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội; năng lực quản lý của Nhà nước; khả năng của xã hội và nhu cầu của xã hội đối với công chứng. Vì thế, xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có xã hội hóa công chứng không phải là một cuộc cách mạng xã hội; không tạo sự thay đổi đột ngột làm mất ổn định xã hội..
Quá trình xã hội hóa công chứng là quá trình Nhà nước từng bước chuyển giao lĩnh vực công chứng cho các chủ thể phi nhà nước có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thực hiện. Như vậy, xã hội hóa công chứng chính là sự xóa bỏ độc quyền Nhà nước trong lĩnh vực công chứng. Hoạt động công chứng, từ chỗ chỉ có một chủ thể duy nhất là Nhà nước thực hiện được chuyển giao cho nhiều chủ thể thực hiện. Trong quá trình đó, Nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện. Nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng, phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý nghề công chứng. Nhà nước xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng. Đây là một giải pháp quan trọng làm cho bộ máy nhà nước bớt cồng kềnh, tiết kiệm ngân sách nhà nước. Đồng thời làm cho hệ thống công chứng gần dân hơn, phục vụ kịp thời các nhu cầu về công chứng, tạo điều kiện để mọi người dân, với địa vị xã hội, khả năng kinh tế khác nhau đều bình đẳng, dễ dàng tiếp cận với dịch vụ công chứng, thật sự là khách hàng - đối tượng phục vụ của công chứng, xóa bỏ tâm lý e ngại khi người dân tiếp cận với công chứng. Tuy nhiên, do đặc điểm, tính chất của nghề công chứng quy định, công chứng là một nghề đặc biệt. Công chứng viên - chủ thể của hoạt động công chứng hoạt động vừa với danh nghĩa một viên chức công, được Nhà nước bổ nhiệm theo những điều kiện do luật định, vừa với danh nghĩa là thành viên của nghề tự do. Vì vậy, thực hiện xã hội hóa công chứng, một mặt, Nhà nước khuyến khích, động viên các cá nhân, tổ chức tham gia tổ chức, hoạt động công chứng, mặt khác, sự tham gia này được Nhà nước quản lý chặt chẽ. Không phải tất cả mọi người có đủ điều kiện đều được bổ nhiệm và hành nghề công chứng (còn phụ thuộc vào việc phân bố các phòng công chứng của Nhà nước, do nhu cầu của công dân, vị trí địa lý, sự phân bổ dân cư quyết định). Đây là điểm hoàn toàn khác biệt của xã hội hóa công chứng với xã hội hóa một số dịch vụ công khác.
Đặc trưng thứ hai: Xã hội hóa công chứng không phải Nhà nước buông lỏng quản lý hoặc từ bỏ chức năng quản lý thống nhất đối với lĩnh vực công chứng mà thực chất là tăng cường quản lý nhà nước đối với lĩnh vực công chứng.
Xã hội hóa công chứng không phải là xóa bỏ quản lý nhà nước đối với công chứng mà Nhà nước chỉ thay đổi hình thức, nội dung, mức độ, cơ chế thực hiện sự quản lý. Nhà nước không trực tiếp thực hiện công chứng mà là người hoạch định chính sách, chiến lược, kế hoạch, định hướng phát triển, xây dựng thể chế, điều tiết, giám sát đảm bảo công bằng, trật tự, ổn định xã hội. Xã hội hóa công chứng, Nhà nước tự giải phóng mình khỏi những công việc ở tầm vi mô, tập trung vào hoạt động quản lý vĩ mô với việc phân định rõ ràng ranh giới trách nhiệm của Nhà nước và xã hội. Đó chính là điều kiện để tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với lĩnh vực công chứng, đảm bảo cho hoạt động công chứng phát triển đúng định hướng, thực sự trở thành một hoạt động không thể thiếu vắng trong nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế.
Đặc trưng thứ ba: Xã hội hóa công chứng gắn liền với việc mở rộng dân chủ, phát huy vai trò tự chủ, tự quản, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức, hoạt động công chứng.
Xã hội hóa công chứng là quá trình mở rộng dân chủ trong lĩnh vực công chứng, tạo khả năng để công dân, tổ chức có đủ điều kiện do pháp luật quy định được tham gia tổ chức, hoạt động công chứng. Đồng thời, xã hội hóa công chứng cũng tạo quyền chủ động, tự chủ để các chủ thể tham gia công chứng có quyền tự quyết định trong việc lựa chọn, tuyển dụng, trả công lao động, tổ chức nội bộ, đảm bảo tính độc lập tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của công chứng viên.
Việc mở rộng dân chủ, phát huy vai trò tự quản, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức, hoạt động công chứng có tác dụng lớn, phát huy tính năng động, chủ động, tích cực của công chứng viên, khắc phục tâm lý ỷ lại, thụ động, trông chờ vào Nhà nước; giảm bớt gánh nặng quản lý cho các cơ quan nhà nước đồng thời, góp phần làm cho hoạt động công chứng thực sự là công việc của xã hội.
Đặc trưng thứ tư: Xã hội hóa công chứng là việc phát huy các nguồn lực xã hội để phát triển công chứng.
Xã hội hóa công chứng là biện pháp phát huy nội lực có hiệu quả, mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực trong xã hội; phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Như vậy, xã hội hóa công chứng là quá trình làm cho hoạt động công chứng trở thành hoạt động của xã hội. Đây là chủ trương mang tính chiến lược; Nhà nước có chính sách lâu dài, ổn định, nhằm khuyến khích, động viên các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện do pháp luật quy định tham gia tổ chức, hoạt động công chứng dưới hình thức các văn phòng công chứng tư nhân, đồng thời, có chính sách khuyến khích hỗ trợ các phòng công chứng nhà nước từng bước chuyển đổi thành phòng công chứng tư nhân dưới hình thức cổ phần hóa, tự quản, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động.
Đối với Việt Nam - một nước đang phát triển, khả năng của Nhà nước về mọi mặt (đặc biệt là vốn) hạn hẹp, trong khi đó nguồn vốn tồn đọng trong xã hội rất lớn, việc phát huy nội lực cho phát triển công chứng càng trở nên quan trọng, góp phần thực hiện tiêu chí phát triển xã hội: công bằng, tiến bộ, ổn định.
1.2.2.3. Nguyên tắc xã hội hóa công chứng
Nguyên tắc thứ nhất: Xã hội hóa công chứng phải đảm bảo tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật là một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, dù Nhà nước trực tiếp hay không trực tiếp thực hiện đều phải có sự quản lý bằng pháp luật của Nhà nước.
Pháp luật, một mặt, là công cụ quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho quá trình xã hội hóa công chứng đi đúng định hướng, quỹ đạo của Nhà nước; chống sự tùy tiện, tự do vô chính phủ gây mất ổn định, công bằng xã hội; mặt khác, là "bà đỡ" cho quá trình xã hội hóa, tạo môi trường pháp lý ổn định để các chủ thể yên tâm tham gia vào lĩnh vực công chứng; đồng thời, tránh được sự can thiệp tùy tiện, vô nguyên tắc của Nhà nước vào quá trình hoạt động của các chủ thể. Chỉ trên cơ sở pháp luật, mới đảm bảo quyền tự do hành nghề, quyền được làm những gì pháp luật không cấm của các chủ thể.
Để đảm bảo tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực công chứng khi thực hiện xã hội hóa, Nhà nước phải xây dựng và thường xuyên hoàn thiện thể chế công chứng, đồng thời xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường đảm bảo cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường (thị trường bất động sản, vốn, khoa học - công nghệ, lao động, chứng khoán...), thúc đẩy các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển làm tiền đề cho sự phát triển công chứng. Đồng thời, Nhà nước phải có cơ chế hữu hiệu đưa pháp luật đi vào cuộc sống, đảm bảo cho quá trình xã hội hóa công chứng được thực hiện có kết quả, đáp ứng các yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật không phải là sự bóp nghẹt, hạn chế hành nghề công chứng tư nhân, mà trên cơ sở pháp luật, đảm bảo cho hoạt động đó phát triển đúng định hướng.
Đối với Việt Nam, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện xã hội hóa công chứng.
Nguyên tắc thứ hai: Mức độ xã hội hóa công chứng phải phù hợp với năng lực quản lý của Nhà nước và sự phát triển kinh tế - xã hội.
Xã hội hóa công chứng là một nội dung của cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi, nếu tiến hành một cách nóng vội, đốt cháy giai đoạn, sẽ trở nên phản tác dụng.
Xác định mức độ xã hội hóa cần thấy rõ tính phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau giữa xã hội hóa công chứng với năng lực quản lý nhà nước.
Xã hội hóa công chứng là giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, chính là nâng cao năng lực quản lý nhà nước, mặt khác năng lực quản lý nhà nước lại quyết định mức độ xã hội hóa công chứng.
Xã hội hóa công chứng mang lại các lợi ích to lớn, là một nội dung quan trọng của cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả Nhà nước, hiệu quả hoạt động công chứng, góp phần nâng cao hiệu quả xét xử. Tuy nhiên, bản thân việc xã hội hóa cũng tiềm ẩn các nguy cơ: tự phát, tự do, vô chính phủ, chệch hướng, làm mất ổn định, công bằng xã hội. Chính vì thế, mức độ xã hội hóa phải phụ thuộc vào năng lực quản lý nhà nước, nhằm đảm bảo quá trình phát triển đúng định hướng, trong khuôn khổ pháp luật, đồng thời, phát huy tính chủ động, tích cực năng động nghề nghiệp của các chủ thể trong xã hội. Để đẩy nhanh tiến trình xã hội hóa, kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế, một mặt, Nhà nước phải xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, minh bạch, khả thi; mặt khác phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức vừa có trình độ, vừa có đạo đức phẩm chất, bản lĩnh chính trị, ngang tầm với nhiệm vụ quản lý nhà nước mọi mặt đời sống xã hội; đồng thời, hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ đắc lực cho tác nghiệp quản lý.
Mức độ xã hội hóa công chứng còn phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển kinh tế - xã hội sẽ tạo ra tác động kép, một mặt, nâng cao khả năng của xã hội (nhân lực, vật lực, tài lực). Mặt khác, tạo ra nhu cầu của xã hội đối với công chứng thông qua sự phát triển mạnh mẽ của các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại.
Tuy nhiên, cần phân biệt nhu cầu thực tế của xã hội đối với công chứng với nhu cầu quản lý thông qua hoạt động công chứng.
Nhu cầu thực tế của xã hội đối với công chứng là sự yêu cầu, đòi hỏi của chính công dân, tổ chức được hỗ trợ thông qua hoạt động công chứng, mang lại sự an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch mà họ tham gia. Nhu cầu này phụ thuộc vào sự phát triển của các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại; đồng thời phụ thuộc vào nhận thức của người dân về ý nghĩa, vai trò công chứng; ý thức tự bảo vệ thông qua biện pháp công chứng khi tham gia giao dịch.
Nhu cầu quản lý thông qua hoạt động công chứng là yêu cầu của các cơ quan, công chức nhà nước, buộc công dân và các tổ chức phải công chứng để đảm bảo an toàn, tạo thuận lợi cho hoạt động quản lý. Nếu như nhu cầu đích thực của xã hội đối với công chứng là động lực để công chứng phát triển, thì nhu cầu quản lý thông qua hoạt động công chứng, nếu bị lạm dụng, sẽ biến công chứng thành "người lính gác cổng" cho các cơ quan công quyền, làm nặng thêm căn bệnh quan liêu, giấy tờ, gây phiền hà cho dân, đồng thời gây nên hiện tượng "quá tải" giả tạo cho công chứng như ở Việt Nam hiện nay.
Như vậy, xã hội hóa công chứng không thể tiến hành một cách nóng vội, đốt cháy giai đoạn, mà là một quá trình đồng thời với việc nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra khả năng của xã hội tham gia vào lĩnh vực công chứng, làm cho công chứng thực sự là công việc của xã hội, đồng thời, tạo ra nhu cầu đích thực của xã hội đối với hoạt động công chứng.
Nguyên tắc thứ ba: Xã hội hóa công chứng phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do hành nghề của các chủ thể và tính chuyên môn, chuyên nghiệp hóa nghề công chứng.
Quyền tự do kinh doanh được thể hiện ở nguyên tắc: Công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Đây là một nguyên tắc của kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền. Nguyên tắc này thể hiện mọi công dân, tổ chức có đủ các điều kiện do pháp luật quy định, có nhu cầu tham gia hoạt động công chứng đều có thể được hành nghề công chứng. Chống mọi can thiệp tùy tiện từ phía cơ quan công quyền đối với tổ chức, hoạt động công chứng.
Đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân trong lĩnh vực công chứng còn được thể hiện ở khía cạnh: trong quá trình hành nghề, các chủ thể được bình đẳng trên cơ sở pháp luật. Trong cùng một hoàn cảnh, mọi chủ thể được hưởng những khả năng, điều kiện, cơ hội như nhau, ngang quyền với nhau trong quan hệ, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế.
Đặc biệt, trong thời kỳ trung gian quá độ, pháp luật phải thừa nhận sự bình đẳng về địa vị pháp lý giữa các phòng công chứng tư nhân với phòng công chứng nhà nước; giữa công chứng viên hành nghề tự do, với công chứng viên nhà nước; sự ngang nhau về giá trị pháp lý của văn bản công chứng do công chứng viên tư nhân và công chứng viên nhà nước thực hiện; đồng thời, hạn chế dần sự bao cấp đối với các phòng công chứng nhà nước, tạo tâm lý ỷ lại, không muốn chuyển đổi hình thức hoạt động của các công chứng viên nhà nước.
Để sự bình đẳng được thực hiện trên thực tế, Nhà nước cần có cơ chế đưa pháp luật đi vào cuộc sống, đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về công chứng, đồng thời, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm về quyền tự do hành nghề công chứng. Chống mọi sự can thiệp tùy tiện và phân biệt đối xử từ phía cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Trên cơ sở đó, tạo ra sự thay đổi về nhận thức, tư duy của toàn xã hội về nội dung, mục đích, ý nghĩa của xã hội hóa công chứng.
Tuy nhiên, như đã phân tích, nghề công chứng là một nghề đặc biệt, nghề tự do chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, vì thế, tự do kinh doanh, tự do hành nghề trong lĩnh vực công chứng vẫn phải chịu những hạn chế nhất định (thu lệ phí theo quy định của Nhà nước; không được kiêm nhiệm các chức vụ, các nghề nghiệp khác, phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều cấm của pháp luật đối với công chứng viên). Đây là do đặc điểm nghề nghiệp và bản chất hoạt động công chứng quy định, đảm bảo sự khách quan, vô tư của công chứng viên trong hoạt động nghề nghiệp của mình.
Mặt khác, để xã hội hóa công chứng, đòi hỏi Nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa nghề công chứng. Trên cơ sở xác định đúng phạm vi công chứng, xác định rõ chủ thể của hoạt động công chứng chỉ có thể là công chứng viên (ở Việt Nam hiện nay, việc công chứng đang được giao cho nhiều chủ thể khác không phải là công chứng viên thực hiện), đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, quy trình bổ nhiệm công chứng viên chặt chẽ; đồng thời, quy định về tổ chức hành nghề, hình thức hành nghề phù hợp; quy định cụ thể, rõ ràng chế độ trách nhiệm của công chứng viên, quỹ bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên.
Nguyên tắc thứ tư: Xã hội hóa công chứng phải bảo đảm kết hợp vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Thực hiện xã hội hóa công chứng, Nhà nước không can thiệp trực tiếp, cụ thể vào hoạt động nghề nghiệp mà chỉ thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng. Vì vậy, cần thiết phải lập ra tổ chức tự quản nghề công chứng bên cạnh hệ thống cơ quan quản lý nhà nước để thực hiện quản lý nghề công chứng.
Trên cơ sở pháp luật, cần tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý nghề công chứng; xây dựng mô hình tổ chức tự quản phù hợp, đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tự quản.
Nhà nước, với tư cách là chủ thể mang quyền lực, thực hiện các biện pháp quản lý, giám sát ở tầm vĩ mô, xây dựng cơ chế pháp lý phù hợp, đồng thời có chế độ, chính sách để định hướng phát triển; đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên, hoạch định việc phân bổ các phòng công chứng trên phạm vi toàn quốc; cho phép thành lập, giải thể các phòng công chứng, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực công chứng.
Hệ thống tổ chức tự quản trực tiếp quản lý hoạt động của công chứng viên, liên kết các thành viên, bảo vệ lợi ích của các công chứng viên; bồi dưỡng nghiệp vụ, đại diện trong quan hệ với công chứng các nước.
Kết hợp vai trò quản lý nhà nước với vai trò tự quản là điều kiện quan trọng để đảm bảo vừa nâng cao hiệu quả quản lý đối với lĩnh vực công chứng, vừa nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động công chứng.
Nguyên tắc thứ năm: Xã hội hóa công chứng phải được tiến hành trên cơ sở xác định lộ trình phù hợp, có nội dung, mục tiêu cụ thể cho từng bước đi, đảm bảo ổn định, công bằng xã hội.
Xác định lộ trình phù hợp là một trong các điều kiện quan trọng đảm bảo có những bước đi phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, với năng lực quản lý của Nhà nước, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, bền vững của hoạt động công chứng.
Trước mắt, cần giữ ổn định cho các phòng công chứng nhà nước hiện có, chuyển dần sang tự trang trải về tài chính; đồng thời có chính sách khuyến khích, hỗ trợ để các công chứng viên nhà nước tự giác chuyển dần sang hình thức hành nghề tự do. Thí điểm thành lập các phòng công chứng tư nhân, chú trọng tổng kết thực tiễn, nhân rộng các phòng công chứng tư nhân trên cơ sở đánh giá khả năng quản lý nhà nước, nhu cầu đích thực của xã hội đối với hoạt động công chứng, khả năng của xã hội tham gia cung ứng dịch vụ công chứng ở từng địa phương, vùng, miền.
Quá trình xã hội hóa công chứng, chuyển giao dần lĩnh vực công chứng cho tư nhân thực hiện không được làm tăng sự phân hóa giàu nghèo, mất ổn định xã hội mà phải được coi là một giải pháp quan trọng để thực hiện công bằng xã hội. Đây là một trong các yêu cầu quan trọng của quá trình xã hội hóa công chứng.
Công bằng xã hội, một mặt biểu hiện ở sự hưởng thụ. Mọi người dân có nhu cầu đều tiếp cận được với dịch vụ công chứng (không phân biệt điều kiện, hoàn cảnh xã hội, khả năng kinh tế), được nhận những "hàng hóa" với chất lượng dịch vụ như nhau, theo mức giá chung do Nhà nước quy định. Ai sử dụng nhiều hơn thì phải trả tiền nhiều hơn, (tuyệt đối không phải là ai trả tiền nhiều hơn thì được nhận những dịch vụ tốt hơn).
Mặt khác, Nhà nước thực hiện các nguyên tắc điều chỉnh và ưu tiên, có chính sách trợ giúp người nghèo, và những người thuộc diện chính sách xã hội khác.
(Ở Việt Nam đây cũng là một trong các nguyên tắc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa).
1.2.2.4. Phạm vi xã hội hóa công chứng
Xét về bản chất, công chứng là hoạt động xã hội - nghề nghiệp không mang đặc trưng quyền lực nhà nước, một hoạt động mang tính dịch vụ công (dịch vụ công cộng) với các đặc tính:
- Là dịch vụ mang tính pháp lý dân sự.
- Có thể xác định được mức tiêu dùng cụ thể của các cá nhân khi có nhu cầu.
- Là dịch vụ thu tiền trực tiếp từ người tiêu dùng.
Vì thế, khả năng tham gia của xã hội là rất lớn, có thể chuyển giao hoàn toàn việc cung ứng dịch vụ công chứng cho xã hội (xã hội hóa hoàn toàn lĩnh vực công chứng).
Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài với những bước đi thích hợp, được tiến hành theo từng góc độ, cấp độ khác nhau:
- Góc độ tài chính: Tạo cơ sở pháp lý để các phòng công chứng nhà nước hiện nay chuyển sang chế độ tự trang trải với tiêu chí hoàn toàn tự chịu trách nhiệm tài chính như mọi tổ chức nghề nghiệp khác.
- Góc độ nhân sự: Tạo cơ chế pháp lý phù hợp để chuyển dần từ chế độ công chức sang chế độ viên chức được bổ nhiệm, hoạt động độc lập.
- Góc độ tổ chức: Từng bước hình thành hệ thống các phòng công chứng tư nhân với các công chứng viên hành nghề tự do song song tồn tại bên cạnh các phòng công chứng nhà nước với các công chứng viên nhà nước hiện có. Tiến tới chuyển hẳn sang mô hình công chứng tự do, hoạt động công chứng hoàn toàn do các công chứng viên hành nghề tự do đảm nhiệm với các hình thức tổ chức thích hợp. Nhà nước - với tư cách là một tổ chức công quyền, có trách nhiệm quản lý, điều tiết, kiểm soát nhằm đảm bảo ổn định, trật tự, công bằng xã hội.
1.2.2.5. Ý nghĩa của xã hội hóa công chứng
Xã hội hóa công chứng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi.
Thứ nhất: Là biện pháp tích cực để khắc phục các nhược điểm của mô hình công chứng nhà nước, trả công chứng về đúng với bản chất đích thực của nó. Làm cho hệ thống công chứng gần dân, sát với nhu cầu của dân, phục vụ kịp thời nhu cầu của công dân và các tổ chức. Khắc phục bệnh quan liêu, giấy tờ, cửa quyền gây phiền hà cho dân. Tạo ra sự cạnh tranh, phát huy tính chủ động, tích cực của công chứng viên, nâng cao trách nhiệm phục vụ nhân dân; tạo điều kiện để người dân có quyền lựa chọn cho mình nơi cung ứng và người cung ứng dịch vụ công chứng tốt nhất cho mình. Xã hội hóa công chứng là một trong những điều kiện quan trọng để chuyên nghiệp hóa hoạt động công chứng, tạo điều kiện cho sự hội nhập trong lĩnh vực công chứng, đáp ứng chuẩn mực chung của nghề công chứng trên thế giới; đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, nâng cao vai trò và hiệu quả công chứng trong đời sống xã hội.
Thứ hai: Xã hội hóa công chứng góp phần tích cực vào cải cách hành chính, cải cách tư pháp, góp phần tinh giản bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước gọn nhẹ, tiết kiệm chi ngân sách, đồng thời bổ sung cho nguồn thu ngân sách bằng thuế. Tạo điều kiện để Nhà nước tập trung vào những lĩnh vực quan trọng không thể thiếu được vai trò của Nhà nước, tập trung vào quản lý vĩ mô nền kinh tế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Thứ ba: Xã hội hóa công chứng góp phần phát huy dân chủ, tính tự chủ, tự quản của nhân dân, nâng cao ý thức của người dân đối với Nhà nước, với xã hội, với chính bản thân họ, khắc phục tính ỷ lại, thờ ơ, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước; tạo ra sự năng động cho xã hội. Xã hội hóa công chứng là biện pháp tích cực để phát huy nội lực, huy động các nguồn lực của xã hội (nhân lực, tài lực, trí lực) tham gia phát triển, hiện đại hóa công chứng.
Đặc biệt, ở Việt Nam, xã hội hóa công chứng sẽ góp phần làm đậm thêm tính dân chủ, tính nhân dân trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời thể hiện sự đối xử bình đẳng của Nhà nước, của xã hội đối với các thành phần kinh tế, đảm bảo các thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tóm lại, sự biến đổi về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi đã đặt ra yêu cầu khách quan phải xã hội hóa công chứng nhà nước.
Trước đòi hỏi khách quan đó, như trên đã phân tích, một loạt các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Cộng hòa Liên bang Nga, Ba Lan, Trung Quốc, Bungari, Hunggari, Cộng hòa Séc...), đã tiến hành cải cách tổ chức, hoạt động công chứng phù hợp với những biến đổi nhanh chóng của cơ cấu kinh tế, xã hội và pháp luật.
Luận văn này đề cập đến kinh nghiệm cải cách công chứng ở Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa - hai điển hình về cải cách công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tự do.
1.2.3. Kinh nghiệm xã hội hóa công chứng ở Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
1.2.3.1. Kinh nghiệm xã hội hóa công chứng ở Cộng hòa Ba Lan
Ban Lan là một trong những nước xã hội chủ nghĩa trước đây ở Đông Âu, thuộc hệ thống công chứng Collectiviste, tổ chức công chứng theo mô hình công chứng nhà nước và có ảnh hưởng quan trọng đối với cách thức tổ chức, hoạt động công chứng ở Việt Nam.
Trong bước chuyển đổi cơ chế kinh tế, Cộng hòa Ba Lan xác định, nhiệm vụ trọng tâm là tập trung sửa đổi, bổ sung và xây dựng hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Công chứng phù hợp không chỉ với yêu cầu chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường mà cả với pháp luật của Cộng đồng châu Âu. Quá trình xây dựng pháp luật, trong đó có Luật Công chứng, phục vụ việc chuyển đổi cơ chế kinh tế, phải đảm bảo các tiêu chí:
- Đảm bảo quyền tự do kinh doanh của công dân và sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp được thực hiện trên thực tế.
- Bảo đảm sự quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
- Bảo đảm sự hài hòa giữa hệ thống pháp luật của Ba Lan với pháp luật của Cộng đồng châu Âu [113, tr. 118].
Nghiên cứu kinh nghiệm của Ba Lan cho thấy, cải cách công chứng ở Ba Lan tiến hành theo một lộ trình được xác định rõ ràng, cụ thể, có nội dung, mục tiêu phù hợp. Quá trình cải cách được tiến hành theo hai giai đoạn: Giai đoạn chuyển tiếp và giai đoạn tự do hóa công chứng.
Giai đoạn chuyển tiếp được tiến hành trong hai năm (1989 - 1991), trên cơ sở Luật số 176 ngày 24-5-1989 về "cải cách công chứng trong giai đoạn chuyển tiếp". Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của công chứng Ba Lan được chiểu theo mô hình công chứng của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Liên bang Đức, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, tập quán truyền thống của Ba Lan.
Mục tiêu quan trọng nhất của giai đoạn này là, tạo ra một hệ thống công chứng tư nhân, đồng thời sử dụng có hiệu quả số phòng công chứng nhà nước hiện có, với xu hướng dần dần tư nhân hóa, chuyển các công chứng viên nhà nước thành công chứng viên hành nghề tự do; nâng cao hiểu biết pháp luật và trình độ chuyên môn cho các công chứng viên đang hành nghề, bên cạnh đổi mới phương thức đào tạo công chứng viên và thư ký công chứng theo những tiêu chuẩn quốc tế.
Trong giai đoạn chuyển tiếp ở Ba Lan tồn tại hai loại công chứng viên:
- Công chứng viên nhà nước, được bổ nhiệm từ trước 1989, đang làm việc tại các phòng công chứng nhà nước, hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước; được Nhà nước đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động trên cơ sở ngân sách nhà nước cấp. Toàn bộ lệ phí thu được đều nộp ngân sách nhà nước.
- Công chứng viên tư nhân: là những người mới được bổ nhiệm từ 1989 (theo Luật 176 hoặc là công chứng viên nhà nước chuyển sang hành nghề tự do). Công chứng viên tư nhân có trụ sở, tài khoản và kinh phí hoạt động riêng, là chủ doanh nghiệp quản lý các phòng công chứng của mình, thuê nhân công, trả lương, đảm bảo các điều kiện làm việc, thu lệ phí theo bảng giá do Nhà nước ấn định, nộp thuế theo pháp luật hiện hành; bồi thường thiệt hại do chính mình hoặc các nhân viên gây ra cho khách hàng hoặc người thứ ba.
Mục tiêu quan trọng thứ hai của giai đoạn này là xác định quản lý về mặt Nhà nước đối với hoạt động công chứng trên cả nước, thông qua vai trò của Bộ Tư pháp và quản lý nghề nghiệp thông qua vai trò của tổ chức tự quản.
Quản lý nhà nước hoạt động công chứng được thực hiện theo ba cấp độ:
- Bộ Tư pháp: Ở cấp quốc gia.
- Các tòa án khu vực (cấp vùng).
- Tòa án huyện (cấp cơ sở).
Tất cả những quy định đối với phòng công chứng tư nhân đều được ấn định đối với các phòng công chứng nhà nước, trừ khi pháp luật có quy định khác.
Bên cạnh các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, cho phép thành lập các cơ quan tự quản công chứng ở ba cấp độ tương ứng:
- Hội đồng tự quản công chứng ở cấp quốc gia.
- Nghiệp đoàn công chứng khu vực.
- Nghiệp đoàn công chứng cấp huyện.
Sơ đồ tổ chức, quản lý hệ thống công chứng ở Ba Lan trong giai đoạn quá độ
Nguồn: [105].
Giai đoạn tự do hóa công chứng được tiến hành theo Luật về tổ chức công chứng hành nghề tự do ban hành ngày 14/2/1991. Văn bản này quy định hoàn chỉnh, đầy đủ về bản chất công chứng Ba Lan trong nền kinh tế thị trường, mô hình tổ chức, quản lý và những nguyên tắc cơ bản về trình tự, thủ tục thực hiện công chứng. Mục đích của giai đoạn này là hoàn thành việc cải cách thể chế công chứng của Ba Lan theo mô hình công chứng Latinh.
Trong giai đoạn này không còn tồn tại các phòng công chứng nhà nước và các công chứng viên nhà nước, song các công chứng viên được hưởng sự bảo hộ của Nhà nước như những công chức khác.
Mỗi công chứng viên chỉ được đứng ra thành lập một phòng công chứng. Nhiều công chứng viên có thể hợp thành một công ty nghề nghiệp dân sự với tư cách là cổ đông và mỗi thành viên hoạt động độc lập, chỉ chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình.
Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên Ba Lan được quy định rõ ràng, chặt chẽ với nguyên tắc: Công chứng viên không được kiêm nhiệm những công việc khác (kinh doanh, thương mại, môi giới...)... gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng công chứng; phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra trong quá trình thực hiện công chứng; được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội; được hưởng chế độ hưu trí như các công chức khác.
Quản lý nhà nước được thực hiện theo hai cấp: Bộ Tư pháp và Tòa Thượng thẩm.
Cơ quan đại diện của công chứng viên được tổ chức theo hai cấp: Hội đồng công chứng quốc gia và Hội đồng công chứng cấp tỉnh (các cơ quan đại diện có tư cách pháp nhân).
Sơ đồ tổ chức, quản lý hệ thống công chứng hiện nay của Ba Lan
Nguồn: [105].
1.2.3.2. Kinh nghiệm xã hội hóa công chứng ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Có thể nói Trung Quốc là một trong số ít quốc gia ở châu Á có điều kiện lịch sử, chính trị, pháp luật, truyền thống, tập quán gần gũi và tương đồng với Việt Nam.
Trước năm 1982, ở Trung Quốc không tồn tại thể chế công chứng, các việc mang tính chất công chứng đều do các cơ quan hành chính đảm nhiệm (do những đặc thù của lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, suốt một thời gian dài, ngoài Hiến pháp và Luật Hôn nhân, ở Trung Quốc không có Bộ luật Dân sự và Hình sự, mà chỉ có những điều lệ tạm thời có thể thay đổi linh hoạt [102, tr. 24]. Đến năm 1982 Hội đồng Quốc vụ mới ban hành quy chế tạm thời về công chứng nhà nước, khẳng định mô hình công chứng Trung Quốc theo mô hình công chứng Collectiviste do Nhà nước bao cấp. Có thể nói, mặc dù ra đời muộn và theo thể chế Collectiviste song, ngay từ đầu, thể chế công chứng của Trung Quốc đã đạt được những tiến bộ đáng kể so với thể chế công chứng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu. Ví dụ, công chứng Trung Quốc đã tuân theo những nguyên tắc cơ bản của công chứng Latinh như phòng ngừa và giảm thiểu tranh chấp; chứng nhận tính đích thực của những văn bản và sự kiện pháp lý; bảo vệ lợi ích chính đáng của tất cả các bên; giữ bí mật nghề nghiệp; nguyên tắc kết hợp giữa quản lý nhà nước và tự quản… Đồng thời phạm vi công chứng được xác định mang tính mở, bao trùm hầu hết các lĩnh vực đời sống của xã hội chứ không quy định theo kiểu liệt kê như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu. Đây chính là điều kiện quan trọng để hoạt động công chứng ở Trung Quốc phát triển nhanh chóng, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách của Trung Quốc.
Nghiên cứu quá trình cải cách công chứng ở Trung Quốc cho thấy, từ chỗ nhận thức rõ vai trò công chứng trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, cải cách công chứng được coi là một nhiệm vụ quan trọng và đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của Đảng cộng sản và Nhà nước với các giải pháp cụ thể thiết thực.
Giải pháp thứ nhất: Xác định những quan điểm chủ đạo và mục tiêu của cải cách công chứng:
Quan điểm chủ đạo xã hội hóa công chứng ở Trung Quốc là trên cơ sở các nghị quyết của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thực hiện cải cách công chứng cần phải giải quyết các quan niệm, nỗ lực hiện thực hóa để đến 2010 thiết lập một thể chế công chứng phù hợp với kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc.
Các mục tiêu cơ bản là: Hoàn thiện thể chế công chứng (sớm ban hành Luật Công chứng) và hoàn thiện các luật liên quan. Hoàn thiện chế độ quản lý công chứng, kết hợp quản lý vĩ mô của cơ quan hành chính tư pháp và quản lý nghề nghiệp của hiệp hội công chứng viên; xây dựng quy chế pháp lý ngành công chứng; xác định phạm vi công chứng; chấn chỉnh, cải thiện phong cách và phương pháp làm việc nâng cao chất lượng hoạt động đảm bảo cung ứng dịch vụ công chứng tốt nhất cho xã hội; phát triển đội ngũ công chứng viên đảm bảo nâng cao chất lượng và tăng nhanh về số lượng (đến năm 2010 tăng gấp 4 lần số lượng công chứng viên của năm 2000).
Giải pháp thứ hai: Xây dựng các phòng công chứng có khả năng thích nghi với chế độ kinh tế thị trường với các nội dung cơ bản: Khẩn trương chuyển các phòng công chứng nhà nước sang hình thức các cơ quan dân sự; không thành lập mới các phòng công chứng nhà nước; có chính sách thích hợp với các phòng công chứng ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn chưa đủ điều kiện chuyển đổi; xác định trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc hỗ trợ quá trình cải cách công chứng (cơ quan về nhân sự, thuế, tài chính).
Giải pháp thứ ba: Thành lập một ngành công chứng chuyên nghiệp chất lượng cao với nội dung: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên cả về chính trị, đạo đức, kiến thức pháp lý, kinh nghiệm xã hội. Xác định chế độ thi tuyển và kiểm tra đối với công chứng viên, khuyến khích nguồn nhân tài tham gia ngành công chứng và thực hiện chế độ giấy phép hành nghề của công chứng viên, chế độ đào tạo tại chỗ (40 giờ/năm).
Giải pháp thứ tư: Hoàn thiện cơ chế quản lý công chứng theo hai kênh quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính tư pháp và tự quản của Hiệp hội công chứng viên. Nỗ lực để Luật Công chứng được trình Quốc hội trong thời gian sớm nhất. Hoàn thiện chế độ giám sát và kiểm tra đối với hoạt động hành nghề. Xây dựng, hoàn thiện chế độ chế tài kỷ luật ngành công chứng và xử lý nghiêm những phòng công chứng và công chứng viên vi phạm pháp luật hay quy định về kỷ luật.
Những giải pháp trên là những định hướng chiến lược rất quan trọng trong chương trình về cải cách ngành công chứng ở Trung Quốc và đã được thực hiện ở đa số các tỉnh của Trung Quốc theo xu hướng công chứng là một nghề tự do. Các phòng công chứng nhà nước chuyển dần sang phòng công chứng tư nhân (công ty nghề nghiệp dân sự). Hàng nghìn phòng công chứng tư nhân mới được thành lập ở hầu hết các thành phố, tỉnh của Trung Quốc. Đặc biệt là ở Thượng Hải, Bắc Kinh và ở một số thành phố lớn khác.
Sơ đồ tổ chức, quản lý hệ thống công chứng ở Trung Quốc
Nguồn: [105].
Qua nghiên cứu kinh nghiệm xã hội hóa công chứng ở Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, có thể rút ra một số bài học sau:
Thứ nhất: Quá trình cải cách công chứng theo hướng xã hội hóa phải trên cơ sở pháp luật để đảm bảo đúng định hướng, đảm bảo chất lượng, hiệu quả của quá trình cải cách, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành công chứng.
Thứ hai: Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, phải xác định nội dung, phạm vi xã hội hóa công chứng phù hợp. Đồng thời phải đảm bảo các chuẩn mực chung về tổ chức, hoạt động công chứng như: mô hình tổ chức, công chứng viên, trình tự thủ tục công chứng, văn bản công chứng, chế độ quản lý công chứng...
Thứ ba: Xã hội hóa công chứng là một quá trình tạo sự chuyển biến nhận thức, tư duy của Nhà nước, xã hội về công chứng, từ đó tạo sự đổi mới trong quản lý, tổ chức, hoạt động công chứng, do đó, không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn, tách rời cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội. Cần thiết phải có những bước trung gian quá độ, thí điểm với những cơ chế, chính sách phù hợp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, đòi hỏi phải có sự nỗ lực với những biện pháp, cách thức vừa cương quyết, vừa mềm dẻo mới có thể đảm bảo tiến trình xã hội hóa theo đúng lộ trình đã định.
Thứ tư: Mặc dù dựa trên những nguyên tắc, chuẩn mực chung, song ở mỗi quốc gia khi tiến hành xã hội hóa công chứng, cần thiết kế tổ chức công chứng phù hợp nhất, tránh sự sao chép, dập khuôn máy móc, đảm bảo xây dựng, phát triển ngành công chứng vừa hiện đại, vừa mang bản sắc dân tộc.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Phân tích khái niệm công chứng cho thấy, bản chất công chứng là một hoạt động xã hội nghề nghiệp mang tính dịch vụ công.
Dịch vụ công là những hoạt động nhằm phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các tổ chức. Như vậy, cung ứng dịch vụ công là một chức năng - chức năng xã hội của Nhà nước, là yếu tố quan trọng đảm bảo duy trì, củng cố chức năng cai trị (chức năng quản lý) của Nhà nước.
Xác định vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công đang là vấn đề được quan tâm ở tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Quá trình chuyển từ Nhà nước cai trị sang Nhà nước phục vụ, xã hội hóa dịch vụ công chính là một nội dung quan trọng để các chính phủ giảm bớt sự can thiệp vào các quá trình xã hội, tập trung vào chức năng chủ yếu, quan trọng là quản lý vĩ mô mọi mặt đời sống xã hội.
Xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có xã hội hóa công chứng chính là sự xác định lại vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước để phân định ra những hoạt động chỉ có thể do Nhà nước đảm nhiệm và những hoạt động mà tư nhân có thể đảm nhiệm, cần chuyển giao cho khu vực tư nhân nhằm giảm tải cho bộ máy nhà nước, tiết kiệm ngân sách, làm cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Xã hội hóa công chứng là một xu hướng có tính tất yếu khách quan đối với các quốc gia trong hệ thống công chứng Collectiviste có mô hình công chứng nhà nước.
Đây là một quá trình có định hướng, dựa trên những nguyên tắc nhất định, đồng thời, được thực hiện theo các bước đi với phạm vi, mức độ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể từng quốc gia.
Hiện nay, hầu hết các nước trong hệ thống công chứng Collectiviste đã và đang từng bước xã hội hóa công chứng nhằm đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Là một nước có nền kinh tế chuyển đổi, có tổ chức công chứng theo mô hình công chứng nhà nước, Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế trên.
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG CHỨNG NHÀ NƯỚC
VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP XÃ HỘI HÓA CÔNG CHỨNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG CÔNG CHỨNG NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hệ thống công chứng nhà nước của Việt Nam được hình thành trên cơ sở Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác công chứng nhà nước và Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện các việc công chứng; Quyết định số 90/HĐBT ngày 19/7/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về con dấu của phòng công chứng nhà nước. Tính đến thời điểm 27/2/1991 - thời điểm ban hành Nghị định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, trên cả nước đã thí điểm thành lập 29 phòng công chứng nhà nước ở 29 tỉnh, thành phố. Trước khi có các phòng công chứng, mọi việc có tính chất công chứng đều do Ủy ban nhân dân thực hiện theo sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 về "ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ" và sắc lệnh số 85/SL ngày 29/2/1952 "Ban hành thể lệ trước bạ về các việc mua bán, cho và đổi nhà cửa, ruộng đất" do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành.
Như vậy, suốt thời gian dài hơn 40 năm kể từ khi thành lập nước, người dân Việt Nam chỉ biết đến hoạt động thị thực của các cấp chính quyền và hình thành ý thức cho đó là hoạt động của Nhà nước, chỉ có thể do Nhà nước thực hiện.
Điều này có các nguyên nhân lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta trong thời gian này, đó là:
- Chiến tranh kéo dài.
- Kinh tế nghèo nàn, lạc hậu (trên 80% dân số là nông dân).
- Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, do đó đa số nhân dân (kể cả một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên) ý thức dân chủ chưa cao, tập quán pháp lý chậm được hình thành.
- Trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, không thừa nhận các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không thừa nhận quan hệ tiền - hàng; Nhà nước duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung với nền kinh tế hiện vật, Nhà nước can thiệp vào các quá trình xã hội bằng biện pháp hành chính; "nhà nước hóa" hầu hết các lĩnh vực hoạt động xã hội. Trong điều kiện trên, xã hội chủ yếu tồn tại các quan hệ hành chính, hình sự. Các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại hầu như chậm phát triển.
- Trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người dân thấp, không có thói quen sử dụng pháp luật như một công cụ hợp pháp để bảo vệ mình.
- Nhà nước chưa chú trọng đào tạo cán bộ pháp lý.
Với các nguyên nhân cơ bản trên, một mặt không đặt ra nhu cầu của xã hội về thể chế, thiết chế công chứng, mặt khác, tạo cho người dân tâm lý ỷ lại, trông chờ, phụ thuộc vào Nhà nước; chưa nhận thức hết được các quyền, nghĩa vụ của mình; do đó, chưa phát huy được tính chủ động, năng động, sáng tạo để vươn lên làm chủ thực sự cuộc sống của mình.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xóa bỏ triệt để cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường với việc thừa nhận sự tồn tại của đa hình thức sở hữu, đa thành phần kinh tế, đặc biệt là việc thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân đã khơi dậy mọi tiềm năng của xã hội. Kinh tế xã hội đã có nhiều biến đổi sâu sắc, các nhu cầu, lợi ích hợp pháp của cá nhân, của xã hội được tôn trọng. Trong điều kiện đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng trở nên sống động và phát triển mạnh mẽ, đặt ra nhu cầu về một thiết chế công chứng phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Thiết chế công chứng của Việt Nam ra đời chính thức trong bối cảnh trên.
Kể từ khi ban hành Nghị định số 45/HĐ-BT ngày 27/2/1991 đến nay, thể chế công chứng đã hai lần được sửa đổi, với sự ra đời của Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực. Hiện nay, tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam đang chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực.
Theo cả ba Nghị định trên, công chứng nước ta được tổ chức theo mô hình công chứng nhà nước bao cấp. Phòng công chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Ở những nơi chưa thành lập phòng công chứng, những việc mang tính chất công chứng được giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện. Ở nước ngoài, việc công chứng được giao cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện.
Trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế, hoạt động công chứng đã đạt được những kết quả quan trọng biểu hiện ở các mặt sau:
- Về tổ chức: Mặc dù bị bó hẹp về mặt biên chế, song do nhu cầu của xã hội, số lượng các phòng công chứng, số lượng công chứng viên đều tăng không ngừng qua các năm. Có thể thấy rõ qua các biểu sau:
Nguồn: [54].
Trình độ pháp lý của công chứng viên tương đối đồng đều (100% có bằng cử nhân luật, trong đó có 6 cao học luật). Chất lượng chung ngày càng được nâng lên, đa số các công chứng viên đều có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức tốt.
Cơ sở vật chất ngày càng được nâng lên rõ rệt. Cho đến nay, hầu hết các phòng công chứng đã có trụ sở riêng, trang thiết bị về cơ bản đáp ứng được yêu cầu hoạt động. Bộ Tư pháp đã bước đầu triển khai dự án tin học, trang bị máy vi tính cho các phòng công chứng.
- Về hoạt động: Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, hoạt động công chứng cũng phát triển không ngừng, chất lượng dịch vụ được nâng lên rõ rệt; khả năng thích ứng với kinh tế thị trường ngày càng được nâng cao.
Thủ tục công chứng đã được cải tiến đáng kể, giảm bớt phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công dân và các tổ chức.
Lượng việc công chứng tăng không ngừng. Ở những nơi kinh tế - xã hội phát triển, dân trí cao, lượng việc khá ổn định. Ở những địa phương khác, lượng việc công chứng, đặc biệt là công chứng hợp đồng giao dịch phát triển mạnh mẽ. Có thể thấy rõ điều này qua số liệu hợp đồng giao dịch được chứng nhận từ năm 2001 - 2004 của một số phòng công chứng ở biểu dưới đây:
Năm
Tên phòng
công chứng
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
Phòng công chứng số 1 Thành phố Hồ Chí Minh
|
35.764
|
43.311
|
41.517
|
35.382
|
Phòng công chứng số 3 thành phố Hà Nội
|
801
|
1836
(tăng 132,5%
so với năm 2001)
|
5528
(tăng 196,7%
so với năm 2002)
|
6.358
(tăng 15%
so với năm 2003)
|
Phòng công chứng số 1 tỉnh Vĩnh Phúc
|
96
|
233
(tăng 192%
so với 2001)
|
238
(tăng 0,2%
so với năm 2002)
|
400
(tăng 68%
so với năm 2003)
|
Phòng công chứng số 1 tỉnh Hải Dương
|
2.463
|
3.132
(tăng 27,1%
so với năm 2001)
|
3..285
(tăng 4,8%
so với năm 2002)
|
5.527
(tăng 68,2%
so với năm 2003)
|
Phòng công chứng số 3 thành phố Hải Phòng
|
635
|
1285
(tăng 102%
so với 2001)
|
2159
(tăng 68%
so với 2002)
|
2405
(tăng 11%
so với 2003)
|
Bình quân mỗi năm, các phòng công chứng trên toàn quốc thu nộp vào ngân sách gần 70 tỷ đồng.
- Về hiệu quả kinh tế - xã hội: Thông qua hoạt động công chứng đặc biệt là công chứng các hợp đồng giao dịch, công chứng đã góp phần tích cực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, làm giảm đáng kể các tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp nhà đất; đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; đảm bảo ổn định, trật tự xã hội, làm lành mạnh hóa các giao dịch, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời, góp phần giúp cho Nhà nước quản lý tốt các hợp đồng, giao dịch, cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử khi có tranh chấp xảy ra, tạo điều kiện để tòa án xét xử khách quan, nhanh chóng, nâng cao hiệu quả xét xử.
Điều quan trọng hơn là hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí pháp lý, ý thức pháp luật của người dân, tạo cho người dân có ý thức, trách nhiệm tốt hơn khi tham gia các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Đồng thời, góp phần mở rộng dân chủ, giúp cho người dân hình thành ý thức, thói quen sử dụng các công cụ hợp pháp để bảo vệ mình khi tham gia hợp đồng, giao dịch.
Với các kết quả quan trọng trên, có thể nói, vai trò công chứng trong đời sống xã hội ngày càng được khẳng định; công chứng đã trở thành thiết chế không thể thiếu trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước xu thế hội nhập và yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay, mô hình công chứng nhà nước đã không còn phù hợp và bộc lộ những bất cập đòi hỏi phải cải cách, đó là:
Thứ nhất: Tổ chức, hoạt động công chứng mang nặng tính hành chính bao cấp, tính phục vụ chưa được coi trọng.
Theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, phòng công chứng là một thiết chế nhà nước, phòng công chứng có tư cách pháp nhân, có trụ sở riêng, có tài khoản riêng và có con dấu theo quy định của pháp luật về con dấu (con dấu mang hình quốc huy).
Phòng công chứng được thành lập, giải thể theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
Phòng công chứng có trưởng phòng, phó trưởng phòng, công chứng viên, chuyên viên nghiệp vụ và các nhân viên khác. Phòng công chứng có ít nhất ba công chứng viên, trưởng phòng, phó trưởng phòng phải là công chứng viên. Công chứng viên là công chức nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, hưởng lương theo ngạch chuyên viên. Công chứng viên có thể được điều động, biệt phái, tạm đình chỉ hoặc miễn nhiệm trong các trường hợp cụ thể do pháp luật quy định, như các công chức nhà nước khác.
Chuyên viên giúp việc công chứng là công chức nhà nước, các nhân viên khác của phòng công chứng gồm: kế toán, thủ quỹ, văn thư lưu trữ, lái xe, bảo vệ, một số nằm trong biên chế nhà nước, một số là nhân viên hợp đồng.
Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở công chứng, trừ trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định.
Như vậy, cơ cấu tổ chức của phòng công chứng hoàn toàn mang tính chất một cơ quan công quyền. Điều này làm mất tính chủ động, tự chủ của cơ quan công chứng do sự phụ thuộc vào biên chế, ngân sách nhà nước; không khuyến khích sắp xếp bộ máy gọn nhẹ để sử dụng lao động có hiệu quả, tiết kiệm kinh phí được cấp. Mặt khác, biến hoạt động dịch vụ công thành hoạt động công vụ thuần túy của các công chức nhà nước, khó đáp ứng được các yêu cầu thuận lợi, nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật của dịch vụ công chứng. Công chứng viên là công chức nhà nước, chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh công chức, chỉ chịu trách nhiệm hành chính, không phải chịu trách nhiệm dân sự trước khách hàng khi hành vi công chứng gây thiệt hại cho khách hàng hoặc người thứ ba; do đó không khuyến khích tính tích cực, chủ động, nhiệt tình, không đề cao trách nhiệm công chứng viên khi thực hiện nhiệm vụ. Không những vậy còn tạo môi trường thuận lợi cho tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân.
Là thiết chế nhà nước, trước sức ép tinh giản biên chế nhà nước, việc mở rộng mạng lưới công chứng để tổ chức công chứng sát với nhu cầu của xã hội là khó có thể thực hiện được.
Hiện nay, trên cả nước chỉ có 115 phòng công chứng với trên 350 công chứng viên, gần 500 chuyên viên giúp việc công chứng [61]. Song trên thực tế, việc mang tính chất công chứng còn đang được giao cho 617 Ủy ban nhân dân cấp huyện và 10.476 Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện. Nếu giữ nguyên mô hình tổ chức như hiện nay, để thực hiện phương châm tách bạch phạm vi công chứng, phạm vi chứng thực, thẩm quyền công chứng, thẩm quyền chứng thực, nhằm tách bạch hoạt động quản lý nhà nước với hoạt động dịch vụ công, nhu cầu thực tế về biên chế công chứng là rất lớn, Nhà nước khó có khả năng đáp ứng.
Tóm lại, mô hình tổ chức công chứng như hiện nay vừa chưa đảm bảo phù hợp với bản chất xã hội nghề nghiệp của hoạt động công chứng, vừa chưa phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, vừa khó có khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của xã hội; hiệu quả công chứng thấp, gây lãng phí cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai: Chưa có sự phân định rõ ràng phạm vi công chứng và phạm vi chứng thực.
Theo các điều 21, 22, 24 của Nghị định 75/2000/NĐ-CP; hoạt động công chứng bao gồm:
- Chứng nhận bản sao giấy tờ tài liệu.
- Chứng nhận hợp đồng giao dịch do Nhà nước quy định hoặc do công dân, tổ chức yêu cầu (trừ những yêu cầu công chứng có nội dung trái pháp luật và đạo đức xã hội).
- Chứng nhận bản dịch.
- Chứng nhận chữ ký của người Việt Nam và người nước ngoài trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch ở trong nước và nước ngoài.
Hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm:
- Chứng thực sao giấy tờ tài liệu.
- Chứng thực các giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng.
- Chứng thực giao dịch liên quan đến bất động sản thuộc thẩm quyền địa hạt.
- Chứng thực chữ ký của công dân Việt Nam trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch dân sự ở trong nước.
Hoạt động chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã bao gồm:
- Chứng thực di chúc, văn bản từ chối nhận di sản.
- Chứng thực chữ ký của công dân Việt nam trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch dân sự ở trong nước.
- Chứng thực các việc khác theo quy định của pháp luật (chứng thực các hợp đồng giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình và cá nhân theo quy định của Luật Đất đai 2003 và Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003)
Qua các điều luật trên có thể thấy, công chứng và chứng thực chỉ khác nhau ở chủ thể thực hiện. Cùng một loại việc, nếu được thực hiện ở Phòng công chứng thì gọi là việc công chứng; còn nếu được thực hiện ở Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc cấp xã thì được gọi là việc chứng thực.
Quy định như trên dẫn tới các hệ quả:
- Các việc thuộc phạm vi công chứng được giao cho nhiều chủ thể khác nhau, với trình độ pháp lý, khả năng chuyên môn, tiêu chuẩn công chức khác nhau, hoạt động chuyên trách và hoạt động kiêm nhiệm cùng thực hiện: Công chứng viên (ở các phòng công chứng); Trưởng phòng tư pháp (ở cấp huyện); Chủ tịch hoặc phó chủ tịch phụ trách tư pháp (ở cấp xã). Một hệ quả tất yếu là các cấp chính quyền, với tư cách là cơ quan công quyền có nghĩa vụ phục vụ công dân, không thu phí (người dân đã trả trước thông qua đóng thuế), lại trở thành cơ quan làm dịch vụ thu phí (người dân phải đóng thuế hai lần). Không những vậy khi có nguồn thu dễ sinh ra đặc quyền, đặc lợi, tạo nếp quen khó thay đổi, gây cản trở cho việc cải cách công chứng.
- Việc chứng nhận bản sao (theo lý luận, không thuộc phạm vi công chứng) hiện đang là loại việc chính, phổ biến ở các phòng công chứng; (thực chất đây là việc thị thực hành chính, thuộc trách nhiệm của cơ quan cấp ra bản chính và cơ quan tiếp nhận hồ sơ).
Theo số liệu của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội, trong vòng 10 năm (1991 - 2002), các phòng công chứng của thành phố Hà Nội đã thực hiện được 6.017.360 việc công chứng, trong đó, chứng nhận hợp đồng giao dịch: 27.905 việc (chiếm trên 0,46%); chứng nhận bản sao giấy tờ tài liệu: 5. 676.126 việc (chiếm trên 94%) [78].
Theo bảng tổng hợp kết quả hoạt động công chứng 4 năm (2001 - 2004), Phòng công chứng số 1 Vĩnh Phúc thực hiện được 144.586 việc, trong đó chứng nhận bản sao là 143.233 việc (xấp xỉ 99%); chứng nhận hợp đồng giao dịch là 967 việc (xấp xỉ 0,6%); còn lại là các loại việc khác.
Theo báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực (2001-2003), Phòng công chứng số 2 Vĩnh Phúc (đóng tại thị xã Phúc Yên - giáp Thủ đô Hà Nội) thực hiện 65. 681 việc, trong đó, chứng nhận bản sao: 65.030 việc (xấp xỉ 99%); còn lại là chứng nhận hợp đồng giao dịch, chứng nhận bản dịch và chứng nhận chữ ký.
Từ tháng 5/2002 đến 31/10/2003, Phòng công chứng số 3 Hà Nội thực hiện 1.389.961 việc, trong đó, chứng nhận bản sao là 1.297.728 việc (xấp xỉ 93,4%); chứng nhận hợp đồng giao dịch là 5.890 việc (xấp xỉ 0,4%). Còn lại là các việc khác [73].
Tỷ lệ giữa việc sao giấy tờ tài liệu và chứng nhận hợp đồng giao dịch ở Phòng công chứng số 2 Hải Phòng trong 2 năm (2001 - 2003) là: 128.930/767 việc; ở Phòng công chứng số 4 Hải Phòng là 100.087/518 việc [32].
Theo tác giả Nguyễn Văn Tam (Trà Vinh), 6 tháng đầu năm 2005, Phòng công chứng số 1 tỉnh Trà Vinh chứng nhận 33.855 việc, trong đó, 93% là sao giấy tờ tài liệu và dịch giấy tờ tài liệu (khoảng 31.468 việc) [81].
(Tuy nhiên, cần phải khẳng định một điều là không phải xã hội không có nhu cầu về công chứng hợp đồng giao dịch, mà hiện nay theo quy định của pháp luật hiện hành, việc công chứng được giao cho nhiều chủ thể khác nhau thực hiện, do đó một số lượng không nhỏ các hợp đồng giao dịch được thực hiện ở cấp huyện và cấp xã. Ngoài ra, không loại trừ những bất cập trong quy định về trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện công chứng và sự phối hợp thiếu chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức liên quan có thể làm mất cơ hội đầu tư, kinh doanh của công dân nên công dân đã thực hiện các giao dịch "ngầm" ở các hiệu cầm đồ, hiệu vàng bạc (cầm cố, thế chấp tài sản để vay vốn) [79].
- Việc thuộc phạm vi công chứng lại không thuộc thẩm quyền công chứng do giới hạn bởi các quy định về thẩm quyền địa hạt.
Theo khoản 2, Điều 23, Nghị định 75/2000/NĐ-CP, những hợp đồng giao dịch liên quan đến bất động sản trong phạm vi địa hạt của huyện, quận, thị xã, do Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã chứng thực. Theo khoản 2, Điều 21, Nghị định 75/2000/NĐ-CP, phòng công chứng được công chứng các việc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện, trừ hợp đồng giao dịch liên quan đến bất động sản thuộc thẩm quyền địa hạt của Ủy ban nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2, Điều 23, Nghị định 75/2000/NĐ-CP.
Với sự bất cập trong xác định phạm vi công chứng, phạm vi chứng thực, đặc biệt quy định việc chứng nhận bản sao thuộc phạm vi công chứng đã làm cho chức năng công chứng hầu như bị "méo mó, biến dạng". Cơ quan công chứng trở thành "người lính gác cổng", đảm bảo sự an toàn cho các nhà quản lý lười, làm trầm trọng thêm căn bệnh quan liêu giấy tờ. Mặt khác, tạo nên sự ùn tắc, "quá tải" giả tạo ở các phòng công chứng, vừa gây căng thẳng cho công chứng viên, vừa gây phiền hà cho nhân dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến các việc công chứng đích thực.
Đặc biệt, lượng bản sao chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động công chứng (trên 90%), là một cản trở lớn trong việc xác định nhu cầu công chứng thực tế của xã hội để phục vụ cho việc đánh giá, sắp xếp, đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong giai đoạn hiện nay.
Vừa qua, trước tình trạng "quá tải", ùn tắc ở các phòng công chứng (chủ yếu là việc sao giấy tờ tài liệu); thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép thí điểm tại các xã, phường, thị trấn ở Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện chứng thực các bản sao giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ bằng tiếng Việt (Công văn số 6546/VPCP-CP ngày 30/11/2004 của Văn phòng Chính phủ); Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có Quyết định số 55/2005/QĐ-UB ngày 01/4/2005 thí điểm giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã, phường ở Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện chứng thực bản sao.
Loại trừ việc bàn đến thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có thể xem đây chỉ là một giải pháp tình thế, bởi lẽ: Việc cấp, chứng nhận bản sao phải thuộc trách nhiệm chính của cơ quan cấp ra bản chính và cơ quan tiếp nhận hồ sơ nhằm nâng cao trách nhiệm công chức, khắc phục căn bệnh quan liêu, giấy tờ trong hoạt động quản lý; giảm bớt phiền hà cho dân (pháp luật cần có quy định, chế tài rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ về vấn đề này). (Đây là một trong các nội dung đã được quán triệt tại Chỉ thị số 01/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/3/2001 về việc triển khai thực hiện Nghị định 75/2000/NĐ-CP. Lẽ ra nên tiếp tục quán triệt tinh thần này, đồng thời, thường xuyên rà soát, kiểm tra, có các chế tài cụ thể với những biện pháp mạnh để xử lý nghiêm cán bộ công chức vi phạm vấn đề này).
Xét về chức năng, Ủy ban nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở (Điều 2 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003); không có chức năng thực hiện các dịch vụ thu phí. Cùng với các quy định của Luật Đất đai năm 2003 giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền chứng thực tất cả các hợp đồng giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, việc "phân cấp" thêm thẩm quyền chứng thực bản sao cho Ủy ban nhân dân cấp xã là vượt quá khả năng của cấp xã, phường. Vì đây là cấp cơ sở gần dân nhất, liên quan trực tiếp mọi mặt đời sống hàng ngày của nhân dân, sẽ không đủ điều kiện về thời gian, biên chế, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực để đảm đương thêm việc này một cách có chất lượng. Vô hình dung, chúng ta đang đẩy dần khối "quá tải" từ phòng công chứng về Ủy ban nhân dân cấp xã, phường.
Như vậy có thể nói, trong lĩnh vực công chứng, càng phân cấp mạnh về chính quyền cấp huyện, cấp xã trực tiếp thực hiện, càng đi ngược lại chủ trương cải cách hành chính là tách các cơ quan hành chính công quyền với các tổ chức dịch vụ công, tổ chức, sắp xếp bộ máy nhà nước theo hướng gọn nhẹ, giảm bớt đầu mối. Thực chất, chỉ có thể phân cấp quản lý nhà nước, chứ không thể phân cấp một loại hoạt động xã hội nghề nghiệp cho các cấp chính quyền địa phương, cơ sở thực hiện.
Thứ ba: Trình tự thủ tục công chứng chưa được quy định cụ thể, chặt chẽ, còn mang nặng tính chất thị thực, chưa khẳng định được công chứng của Việt Nam là công chứng nội dung hay công chứng hình thức.
Công chứng là hoạt động liên tục, thường xuyên liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ dân sự, lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức. Vì vậy, trình tự, thủ tục công chứng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định chất lượng của hoạt động công chứng, giá trị của văn bản công chứng. Hầu hết các nước theo hệ thống luật viết, có tổ chức công chứng kiểu Latinh (Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Bê Nanh …) đều có quy định chặt chẽ, cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục công chứng.
Là một nước theo hệ thống luật viết, song pháp luật nước ta lại quy định về trình tự, thủ tục công chứng khá đơn giản, chung chung. Có thể thấy rõ điều này qua các quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP (Điều 41: thủ tục và thời hạn công chứng, chứng thực hợp đồng đã được soạn thảo sẵn; Điều 42: công chứng, chứng thực hợp đồng do người thực hiện công chứng, chứng thực soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, chứng thực hoặc theo mẫu; khoản 3 Điều 7: nghĩa vụ của người yêu cầu công chứng, chứng thực).
Qua các qui định này, có thể nhận thấy vai trò của công chứng viên hoàn toàn mang tính chất thụ động, phụ thuộc vào đề nghị của đương sự, hồ sơ giấy tờ do đương sự xuất trình và lời cam đoan của đương sự. Pháp luật cũng không quy định về nghĩa vụ tư vấn - một nghĩa vụ quan trọng của công chứng viên. Khi thực hiện công chứng, công chứng viên chỉ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ do đương sự xuất trình, ghi lại nguyện vọng, thỏa thuận của các bên hoặc kiểm tra hợp đồng đã được soạn thảo sẵn. Như vậy việc công chứng thực chất mang tính hình thức, ở mức độ "thị thực hơi kỹ", các chủ thể, với trình độ pháp lý khác nhau, khả năng chuyên môn, nghề nghiệp khác nhau, hoạt động chuyên trách hay kiêm nhiệm đều có thể thực hiện được.
Tuy nhiên, pháp luật lại có quy định về các trường hợp không được thực hiện công chứng: "Biết hoặc phải biết yêu cầu công chứng, chứng thực hoặc nội dung công chứng, chứng thực trái pháp luật, đạo đức xã hội" (khoản 1 Điều 39 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP); quy định về nguyên tắc thực hiện công chứng, chứng thực: "Khi thực hiện công chứng, chứng thực người thực hiện công chứng, chứng thực phải khách quan, trung thực và phải chịu trách nhiệm về việc công chứng, chứng thực của mình; trong trường hợp biết hoặc phải biết việc công chứng, chứng thực hoặc nội dung công chứng, chứng thực là trái pháp luật, đạo đức xã hội, thì không được thực hiện công chứng, chứng thực" (khoản 2 Điều 6 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP).
Nếu theo các điều luật này, thì công chứng nước ta lại mang tính chất công chứng nội dung. Yêu cầu đảm bảo tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các hợp đồng, giao dịch là rất phức tạp, đòi hỏi người thực hiện công chứng phải có trình độ pháp lý, hiểu biết toàn diện về các lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại, tinh thông nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện việc công chứng được giao cho nhiều chủ thể có trình độ pháp lý, khả năng chuyên môn nghề nghiệp khác nhau, phụ thuộc vào hồ sơ, giấy tờ, cam đoan của đương sự; yêu cầu đảm bảo công chứng nội dung là không khả thi.
Việc chưa quy định chặt chẽ, cụ thể rõ ràng trình tự, thủ tục công chứng, chưa khẳng định nhất quán công chứng Việt Nam là công chứng nội dung hay công chứng hình thức rất dễ dẫn tới tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất trong thực hiện trình tự, thủ tục công chứng. Trên thực tế, cùng một yêu cầu công chứng, nhưng cơ quan này từ chối, cơ quan khác lại giải quyết được; ngay trong một phòng công chứng, công chứng viên này từ chối, công chứng viên khác lại giải quyết, hoặc cùng một công chứng viên, lúc trước từ chối, lúc sau lại giải quyết được, dẫn đến sự phiền hà, tâm lý nghi hoặc, ngờ vực, thiếu tin cậy của người dân đối với công chứng. Không những vậy còn dẫn tới sự mâu thuẫn trong chính những người thực hiện công chứng, chứng thực. Đáng ngại hơn là sự phiền hà, máy móc trong việc thực hiện trình tự, thủ tục công chứng còn có thể làm mất cơ hội đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như cá nhân công dân.
Tình trạng chưa quy định chặt chẽ, cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục công chứng, chưa khẳng định công chứng Việt Nam là công chứng nội dung hay công chứng hình thức còn là nguyên nhân dẫn tới không đảm bảo giá trị của văn bản công chứng trên thực tế.
Mặc dù Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành (khoản 2, 3 Điều 4); song trên thực tế, việc thừa nhận hay bác bỏ giá trị pháp lý của văn bản công chứng rất tùy tiện (việc bác bỏ giá trị văn bản công chứng cũng không theo trình tự, thủ tục nào, do pháp luật không quy định). Có thể nói, cho đến nay, các cơ quan có thẩm quyền chưa bao giờ phải chịu trách nhiệm về việc tùy tiện bác bỏ giá trị của văn bản công chứng, chứng thực.
Thứ tư: Chưa đảm bảo tính nghề nghiệp, chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa trong hoạt động công chứng.
Công chứng là hoạt động nghề nghiệp, mang tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao. Vai trò công chứng chỉ có thể được phát huy khi nó thực sự được coi là một nghề trong xã hội. Tính nghề nghiệp của hoạt động công chứng đòi hỏi sự chủ động, độc lập trong hoạt động của công chứng viên; công chứng viên - chủ thể duy nhất của hoạt động công chứng phải đạt các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, phải được đào tạo nghề công chứng; công chứng viên phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính bản thân khi việc công chứng do họ thực hiện gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng hoặc người thứ ba. Đồng thời, pháp luật cần phải quy định rõ hậu quả pháp lý của việc công chứng trái pháp luật. Công chứng viên phải tuân theo các quy tắc đạo đức nghề nghiệp; phải chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời, chịu sự quản lý nghề nghiệp của các tổ chức tự quản nghề công chứng; công chứng viên, các phòng công chứng phải tồn tại trong sự cạnh tranh lành mạnh, lấy nhu cầu công chứng của công dân, các tổ chức là điều kiện tồn tại của mình; văn bản công chứng - sản phẩm duy nhất của hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên, thước đo năng lực, trình độ, khả năng nghề nghiệp của công chứng viên phải được phân biệt với các loại văn bản khác.
Với mô hình tổ chức công chứng như hiện nay cùng với việc đồng nhất phạm vi công chứng, phạm vi chứng thực, chủ thể công chứng, chủ thể chứng thực, các điều kiện đảm bảo tính nghề nghiệp của hoạt động công chứng khó có thể được đáp ứng. Như trên đã phân tích, hoạt động công chứng hiện nay không mang tính chất dịch vụ mà mang tính chất công vụ, do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện; văn bản công chứng - sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên không được tạo ra theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ; giá trị của nó đang được đồng nhất với giá trị của văn bản chứng thực - sản phẩm của các công chức hành chính kiêm nhiệm việc công chứng.
Chính vì chưa được coi là một nghề thực sự, chưa được xây dựng phát triển theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa nên vai trò của công chứng chưa thực sự được phát huy trong đời sống xã hội, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn bị xem nhẹ, hạ thấp.
Thứ năm: Chưa có cơ chế quản lý phù hợp.
Công chứng là hoạt động xã hội nghề nghiệp, là dịch vụ vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính dân sự; liên quan trực tiếp đến quyền - nghĩa vụ dân sự, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Chính vì vậy, cần có sự quản lý chặt chẽ không chỉ của Nhà nước mà còn của cả tổ chức tự quản nghề nghiệp, đảm bảo sự phát triển đúng định hướng, trong khuôn khổ luật định, đồng thời, đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động. Hiện nay, ở các nước có tổ chức công chứng kiểu Latinh và các nước có nền kinh tế chuyển đổi đang thực hiện cải cách công chứng, đều thành lập hệ thống tổ chức tự quản nghề công chứng bên cạnh hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công chứng.
Ở Việt Nam hiện nay, đối với hoạt động công chứng, mới chỉ thực hiện quản lý nhà nước (theo Điều 17, 18, 19 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP); chưa có hệ thống tổ chức tự quản nghề công chứng. Song, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng còn nhiều bất cập.
Mặc dù quản lý nhà nước về công chứng được thực hiện theo hai cấp: Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất về công chứng trong cả nước và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công chứng trong địa phương mình (Bộ Ngoại giao thực hiện quản lý nhà nước về công chứng của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài); song việc quản lý nhà nước ở ngành và cấp dường như bị cắt khúc, tạo ra sự biệt lập, thiếu cơ chế phối hợp giữa cấp và ngành, chức năng quản lý được quy định chung chung, chồng chéo, ví dụ:
+ Bộ Tư pháp hướng dẫn, chỉ đạo về tổ chức và hoạt động công chứng (trên phạm vi toàn quốc) (khoản 2 Điều 17 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP).
+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo hoạt động công chứng (trên phạm vi của tỉnh) (khoản 1 Điều 19).
Việc "chỉ đạo hoạt động công chứng" được quy định rất chung chung, không có nội dung cụ thể. Trên thực tế, mặc dù cả Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đều có chức năng chỉ đạo hoạt động công chứng, nhưng vai trò được thể hiện rất mờ nhạt. Thực chất các phòng công chứng ở các tỉnh, thành phố vẫn đang trong tình trạng "tự xoay xở" là chính trước những biến động của thực tế do sự thay đổi, thiếu nhất quán của các văn bản quy phạm pháp luật. Trên thực tế công chứng ở mỗi tỉnh có phát triển hay không (lượng việc hợp đồng, giao dịch đến công chứng nhiều hay ít) chủ yếu phụ thuộc vào mối quan hệ giữa Phòng công chứng - Sở Tư pháp - Ủy ban nhân dân tỉnh chứ không phải trên cơ sở có sự chỉ đạo chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất giữa ngành và cấp.
Do chưa nắm bắt được chất lượng thực chất của công chứng viên cũng như nhu cầu đào tạo, đào tạo lại để kịp thời củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên nên công tác bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng của Bộ Tư pháp chưa được chú trọng, chưa được tiến hành thường xuyên, trong khi nghề công chứng đòi hỏi công chứng viên phải thường xuyên cập nhật một cách hệ thống với sự đổi mới của hệ thống pháp luật; phải được đào tạo, đào tạo lại để tránh bệnh kinh nghiệm, chủ quan trong hoạt động; phải được trang bị kiến thức một cách toàn diện để theo kịp sự vận động, phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu trong nước cũng như quốc tế. Nếu công tác này được tổ chức tự quản nghề công chứng đảm nhiệm thì chắc chắn sẽ đảm bảo chất lượng, hiệu quả hơn.
Công tác đào tạo nghề công chứng mới được tiến hành trong một số năm gần đây (do Học viện Tư pháp đảm nhiệm), song còn nhiều bất cập cả về chương trình, giáo trình, giáo viên, phương pháp giảng dạy.
Chưa có chế độ tuyển chọn công chứng viên phù hợp, quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên chưa thật sự khoa học, còn mang tính chất quan liêu, chưa có quy định chặt chẽ, ràng buộc trách nhiệm giữa cơ quan đề nghị bổ nhiệm và cơ quan bổ nhiệm công chứng viên.
Chưa có chế độ thanh tra, kiểm tra thường xuyên, định kỳ để kịp thời uốn nắn, phát hiện các sai phạm trong hoạt động công chứng. Việc thanh tra kiểm tra thường chỉ được tiến hành theo vụ việc khi có khiếu nại, tố cáo hoặc cơ quan có thẩm quyền đã phát hiện sai phạm.
Thứ sáu: Chưa có cơ chế tài chính phù hợp đối với các Phòng công chứng
Được tổ chức như một cơ quan công quyền, do đó các phòng công chứng đang được áp dụng chế độ tài chính như các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, mặc dù nguồn tài chính của phòng công chứng, ngoài phần ngân sách nhà nước cấp theo dự toán hàng năm còn có khoản thu lệ phí công chứng theo quy định của Thông tư liên tịch số 93/2001/TTLT/BTC-BTP ngày 21/11/2001 của Liên bộ Tài chính - Tư pháp (theo thông tư này, phòng công chứng được tạm tính theo tỷ lệ (%) trên tổng số tiền lệ phí công chứng thu được trước khi nộp ngân sách nhà nước như sau: Phòng công chứng số 1 và số 2 Thành phố Hồ Chí Minh: 15%, các phòng còn lại: 20%. Số tiền này được sử dụng vào các nội dung chi phục vụ cho hoạt động thu lệ phí công chứng). Ngoài ra, các phòng công chứng còn có khoản thu phí dịch vụ (soạn thảo hợp đồng, dịch giấy tờ tài liệu và một số việc khác).
Việc áp dụng chế độ tài chính như hiện nay đối với phòng công chứng đã làm mất đi quyền chủ động sử dụng kinh phí; không đảm bảo trả lương gắn với hiệu quả, chất lượng hoạt động, thu nhập của công chứng viên không gắn với sản phẩm và chất lượng dịch vụ, tạo ra tình trạng trả lương bình quân, không khuyến khích các công chứng viên nhiệt tình, hăng say, yên tâm gắn bó với công việc. Mặt khác, không đảm bảo sự công khai, minh bạch về thu nhập, không kiểm soát và không hợp thức hóa được các khoản thu nhập chính đáng ngoài lương. Đồng thời không ngăn chặn, xóa bỏ được những loại thu nhập ngoài lương không hợp pháp và không hợp lý. Nếu căn cứ vào chế độ lương của công chứng viên thì thu nhập không tương xứng với lao động của họ, song Nhà nước lại không quản lý được thu nhập thực tế của công chứng viên (với sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng, miền, khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau và nhu cầu công chứng khác nhau). Không tạo khả năng để các phòng công chứng chủ động mua sắm trang thiết bị, cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của phòng. Ngoài ra, không loại trừ việc thất thu ngân sách nhà nước do không quản lý được các loại phí dịch vụ.
Ngay từ năm 2001, tại Chỉ thị số 01/2001/CT-TTg ngày 05/3/2001 về việc triển khai thực hiện Nghị định 75/2000/NĐ-CP; Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo: "Bộ Tư pháp phối hợp với Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành khảo sát, nghiên cứu và chuẩn bị đề án thực hiện thí điểm việc chuyển hoạt động của một số phòng công chứng sang chế độ tự trang trải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định vào quý IV/2001".
Nhưng không rõ vì lý do gì, cho đến nay, đã qua gần 5 năm, đề án đó vẫn chưa được xây dựng, triển khai.
Trên thực tế, từ năm 2002, đã có một số tỉnh, thành phố (Thái Bình, Hà Nội) thực hiện chuyển phòng công chứng sang chế độ tự trang trải theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Việc chuyển các phòng công chứng này sang chế độ tự trang trải theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP đã khắc phục được những hạn chế, bất cập của cơ chế tài chính bao cấp. Các đơn vị đã chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, tự chủ về tài chính được khoán phần kinh phí ngân sách cấp, đồng thời khai thác tích cực các nguồn thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ và được chủ động sử dụng các nguồn kinh phí tùy theo yêu cầu hoạt động của đơn vị; đảm bảo chi tiêu hiệu quả, tiết kiệm; tăng thu nhập cho công chứng viên, nhân viên nghiệp vụ và người lao động khác trong phòng. Đồng thời, tạo sự chủ động để các phòng đầu tư mua sắm trang thiết bị, tăng cường cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng hoạt động.
Những kết quả nói trên đã khẳng định hướng đi đúng đắn trong việc thí điểm chuyển các phòng công chứng sang chế độ tự trang trải. Tuy nhiên, việc thí điểm này mới chỉ là chủ trương của các tỉnh, thành phố [98], [99]. Vì thế, chưa có sự chỉ đạo, tổng kết, đánh giá ở tầm vĩ mô để tạo cơ sở cho sự chuyển biến tích cực trong cơ chế tài chính đối với các phòng công chứng trên toàn quốc.
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ, sự sôi động của các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại; sự tăng nhanh của nhu cầu công chứng với các yêu cầu nhanh chóng, thuận lợi, kịp thời, chính xác, đúng pháp luật; xác định chế độ tài chính phù hợp theo hướng tự trang trải, tạo sự chủ động cho các phòng công chứng đáp ứng kịp thời yêu cầu của xã hội, đồng thời, đảm bảo sự phù hợp với thông lệ quốc tế là thực sự cần thiết.
Tuy nhiên, xung quanh chế độ tài chính cho các phòng công chứng còn có những ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, phòng công chứng là cơ quan hành chính nhà nước có thu, chế độ tài chính áp dụng cho phòng công chứng theo Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước là phù hợp.
Đa số các ý kiến khác lại cho rằng, phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp có thu, do đó, thực hiện chế độ tài chính theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu mới phù hợp.
Theo tinh thần của Quyết định 192/2001/QĐ-TTg, thì đối tượng áp dụng của quyết định này là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ trung ương đến các huyện, với một số điều kiện nhất định, như có biên chế được giao ổn định, có chức năng nhiệm vụ rõ ràng do cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập.
Còn theo tinh thần của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP thì đối tượng áp dụng của Nghị định này là các đơn vị sự nghiệp hoạt động có thu (không có chức năng quản lý nhà nước) do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước quyết định thành lập.
Như đã làm rõ ở trên, hoạt động công chứng là hoạt động xã hội - nghề nghiệp không mang đặc trưng quyền lực nhà nước, không có yếu tố quản lý nhà nước. Vì thế cơ quan công chứng không phải là đối tượng áp dụng của Quyết định 192/2001/QĐ-TTg, mà chỉ có thể là đối tượng áp dụng của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP (tuy nhiên, việc áp dụng Nghị định này mới chỉ là tương đối phù hợp trong điều kiện hiện nay, khi pháp luật chỉ định sẵn một khuôn khổ chật hẹp như trên). Thiết nghĩ, pháp luật về tài chính cần được sửa đổi, bổ sung, đổi mới, hoàn thiện kịp thời để đảm bảo đáp ứng kịp thời yêu cầu kinh tế thị trường, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế hiện nay.
Những hạn chế bất cập của công chứng nhà nước ở Việt Nam hiện nay là do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Nguyên nhân thứ nhất: Nhận thức về công chứng còn nhiều bất cập.
Xét về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn, để tổ chức, hoạt động công chứng đạt hiệu quả cao, đảm bảo phát huy vai trò công chứng trong đời sống xã hội, trước hết, cần có nhận thức đúng về công chứng, trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận: Khái niệm, bản chất công chứng, chức năng, vai trò công chứng trong nền kinh tế thị trường, trong việc phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền….
Tuy nhiên ở nước ta, vấn đề lý luận về công chứng chưa thật sự được chú trọng nghiên cứu. Có thể nói, một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém, bất cập của công chứng nước ta hiện nay là do chưa có được nhận thức đầy đủ về công chứng, chưa có hệ thống lý luận hoàn chỉnh trên cơ sở khoa học và thực tiễn về công chứng; chưa có sự đầu tư nghiên cứu, thiết kế mô hình tổ chức công chứng mang bản sắc Việt Nam, đảm bảo phản ánh đúng bản chất công chứng, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, truyền thống pháp lý dân tộc, đồng thời đảm bảo theo kịp trình độ phát triển của khu vực và quốc tế. Chính vì thế, trong vòng 10 năm (1991-2000), mặc dù thể chế công chứng đã hai lần được sửa đổi, nhưng do thiếu cơ sở khoa học, chủ yếu do sức ép của dư luận xã hội, của yêu cầu cải cách hành chính nên đã chưa tạo được sự chuyển biến căn bản về tổ chức và hoạt động công chứng. So với khu vực và quốc tế, cũng như so với các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, chúng ta vẫn đang "một mình một chợ", thiếu khả năng hội nhập trong lĩnh vực công chứng.
Tóm lại, sự lạc hậu về lý luận, dẫn đến nhận thức không đầy đủ, thiếu thống nhất về công chứng vừa là nguyên nhân của những yếu kém bất cập, đồng thời vừa là lực cản đối với chủ trương cải cách công chứng theo hướng xã hội hóa ở nước ta hiện nay.
Nguyên nhân thứ hai: Thiếu một cách nhìn tổng thể, một chiến lược tổng thể về công chứng; cải cách công chứng chưa được chú trọng đúng mức trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Chính vì thế các giải pháp về công chứng còn nặng về giải pháp tình thế, luôn bị động trước yêu cầu của cuộc sống; thiếu thống nhất và thiếu đồng bộ (ví dụ, giao việc có tính chất công chứng cho các chủ thể khác nhau thực hiện, tăng thẩm quyền chứng thực hợp đồng giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình và cá nhân cho Ủy ban nhân dân cấp xã; thí điểm phân cấp chứng thực bản sao về cho Ủy ban nhân dân cấp phường, xã thực hiện (ở Thành phố Hồ Chí Minh)…
Nguyên nhân thứ ba: Thể chế công chứng còn nhiều bất cập, chậm được hoàn thiện, đổi mới.
Văn bản về tổ chức, hoạt động công chứng còn ở tầm hiệu lực thấp (nghị định của Chính phủ), vì thế dễ bị các nghị định ra đời sau, hoặc các văn bản quy phạm pháp luật có tầm hiệu lực cao hơn phủ nhận. Ví dụ, theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã có thẩm quyền chứng thực (tại các điều 22, 24), song Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003, tại Điều 106 (nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc thi hành pháp luật) và Điều 117 (nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc thi hành pháp luật), không quy định về nhiệm vụ chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện và xã. Hoặc theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP; tại Điều 19, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực, song Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003, tại Điều 94 (nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực thi hành pháp luật); chỉ quy định "tổ chức, chỉ đạo việc quản lý hộ tịch; thực hiện công tác công chứng, giám định tư pháp… theo quy định của pháp luật", không có nhiệm vụ quản lý công tác chứng thực.
Như vậy về góc độ pháp lý, thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã bị Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 phủ nhận.
Hoặc theo khoản 2, 3 Điều 14, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, văn bản công chứng có giá trị thi hành và giá trị chứng cứ, song Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 chỉ quy định: "Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan tổ chức có thẩm quyền cung cấp hoặc xác nhận" (khoản 1 Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004). Như vậy, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng chưa được khẳng định trong Bộ luật Tố tụng dân sự.
Các nội dung mang tính chất nền tảng cơ bản về công chứng chưa được làm rõ trong Nghị định: khái niệm công chứng, phân biệt phạm vi công chứng, phạm vi chứng thực, địa vị pháp lý của phòng công chứng và công chứng viên....
Trong Nghị định, còn nhiều quy định khá chung chung, rất dễ gây sự tùy tiện trong áp dụng, gây phiền hà cho khách hàng; thiếu các chế tài cụ thể để bảo đảm thực hiện. Ví dụ: "Khi thực hiện công chứng, chứng thực, người thực hiện công chứng, chứng thực phải … chịu trách nhiệm về việc công chứng, chứng thực của mình" (khoản 2 Điều 6); "người yêu cầu công chứng, chứng thực còn phải bảo đảm sự trung thực của mình trong việc giao kết hợp đồng, xác lập giao dịch" (khoản 3 Điều7);
Người thực hiện yêu cầu công chứng, chứng thực có quyền hạn sau:
1. Yêu cầu người công chứng, chứng thực xuất trình đủ các giấy tờ cần thiết cho việc thực hiện công chứng, chứng thực.
4. ... có những biện pháp đối với những trường hợp người yêu cầu công chứng, chứng thực có hành vi vi phạm pháp luật (Điều 38).
v.v…
Một số nội dung của Nghị định thiếu tính khoa học, hợp lý. Ví dụ, khái niệm công chứng (Điều 2); đồng nhất phạm vi công chứng, phạm vi chứng thực; quy định cho nhiều chủ thể khác nhau thực hiện việc mang tính chất công chứng (Điều 21, 22, 24); hạn chế thẩm quyền công chứng khi việc công chứng thuộc thẩm quyền địa hạt của ủy ban nhân dân cấp huyện (khoản 2 Điều 21, Điều 23)...
Theo pháp luật hiện hành, các loại việc công chứng không quy định theo kiểu liệt kê mà được quy định ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Điều này là hoàn toàn phù hợp. Song giữa các văn bản trên hiện có những mâu thuẫn mà chậm được sửa đổi. Ví dụ, theo Bộ luật Dân sự năm 1995, các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất không phải công chứng, chứng thực (Điều 707 - hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất); có nghĩa là cơ quan công chứng, chứng thực không được phép công chứng, chứng thực các giao dịch, hợp đồng loại này. Song Luật Đất đai năm 2003 lại quy định các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của phòng công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã (nếu là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân). Điều này gây nên sự áp dụng tùy tiện, thiếu thống nhất ở một số Ủy ban nhân dân cấp xã hiện nay. Theo khảo sát về công tác công chứng, chứng thực trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc của Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Phúc (tháng 6/2005), hiện nay ở một số xã, phường của tỉnh Vĩnh Phúc, việc giải quyết các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất vẫn được giao cho cán bộ địa chính giải quyết theo quy định của Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/2999 về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Cũng có xã, phường vẫn "án binh bất động", chưa thực hiện chứng thực các hợp đồng giao dịch theo Luật Đất đai 2003 vì không hiểu rõ trách nhiệm của mình đến đâu. Hiện nay, Bộ luật Dân sự 2005 tại khoản 2 Điều 689 đã quy định: "Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật". (Tuy nhiên quy định thẩm quyền chứng thực ở đây là không còn phù hợp).
Một số quy định ở Bộ luật Dân sự năm 1995 đã trở nên lỗi thời, thiếu tính khả thi (quy định quá nhiều loại hợp đồng giao dịch phải công chứng, chứng thực, kể cả những loại hợp đồng, giao dịch đơn giản như hợp đồng trao đổi tài sản) (Điều 459); hợp đồng thuê khoán (Điều 506); hợp đồng gửi giữ tài sản (Điều 563)..., song chậm được sửa đổi (hiện nay, điểm bất cập này đã được khắc phục trong Bộ luật Dân sự 2005 theo hướng giảm đáng kể các loại hợp đồng phải công chứng, chứng thực).
Nguyên nhân thứ tư: Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng chưa được coi trọng.
Hiện nay, chương trình tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về công chứng nằm trong chương trình chung của Bộ Tư pháp hàng năm. Song mảng tuyên truyền về công chứng rất nhỏ, hầu như được đề cập rất ít. Vì thiếu một chương trình riêng, nên chưa có được các hình thức, biện pháp, nội dung phù hợp. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng phụ thuộc vào sự quan tâm của từng địa phương. Ví dụ, thành phố Hà Nội là địa phương khá quan tâm đến vấn đề này và thường xuyên có các chuyên đề, giải đáp về công chứng trên đài phát thanh và truyền hình Hà Nội; còn ở các địa phương khác, hầu như bị xem nhẹ. Chính vì thế, nhận thức về công chứng trong nhân dân hiện nay còn rất nhiều bất cập. Trả lời phỏng vấn của đoàn khảo sát của Sở Tư pháp Vĩnh Phúc về hoạt động công chứng chứng thực trên địa bàn tỉnh, đa số các giám đốc doanh nghiệp cho biết: Từ khi thành lập, nhiều doanh nghiệp chưa có hợp đồng nào được mang tới công chứng. Nguyên nhân chính là do họ chưa hiểu rõ về vai trò công chứng, và cho rằng: nếu thấy rõ vai trò công chứng trong việc đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng giao dịch thì doanh nghiệp sẽ chủ động yêu cầu công chứng hợp đồng. Đồng thời các doanh nghiệp cũng thể hiện nguyện vọng được tuyên truyền nhiều hơn về pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật về công chứng.
Nguyên nhân thứ năm: Chưa chú trọng tổng kết thực tiễn về công chứng.
Tổng kết thực tiễn là hoạt động quan trọng trong quản lý nói chung cũng như quản lý tổ chức và hoạt động công chứng. Thông qua tổng kết thực tiễn, kịp thời phát hiện những yếu kém, bất cập, những mâu thuẫn trong thể chế, tổ chức, hoạt động công chứng, kịp thời rút ra bài học kinh nghiệm, tìm ra các nguyên nhân của tồn tại, yếu kém, bất cập để kịp thời kiến nghị, đề ra các biện pháp khắc phục.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực công chứng, công tác tổng kết thực tiễn chưa được coi trọng. Kể từ năm 1991 đến nay đã có ba nghị định về công chứng lần lượt ra đời, thay thế nhau, xong các hội nghị chuyên đề, hội nghị tổng kết đánh giá về mô hình tổ chức, hoạt động, hiệu quả hoạt động, hiệu quả quản lý rất ít được tổ chức. Việc thực hiện thí điểm các mô hình tự trang trải về tài chính theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ở một số địa phương (như Thái Bình, Hà Nội); đặc biệt mô hình dịch vụ hành chính công trong lĩnh vực công chứng ở Hà Nội gây nên các phản ứng trái ngược nhau trong xã hội, xong chưa được tổng kết, đánh giá kịp thời để có các kết luận cụ thể, chính thức về hiệu quả công tác thí điểm, những nhân tố hợp lý và bất hợp lý để có thể nhân rộng điển hình hoặc kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm.
Tóm lại, sự lạc hậu về lý luận, sự bất cập về nhận thức, chậm đổi mới tư duy khoa học pháp lý, thiếu coi trọng nghiên cứu, tổng kết thực tiễn là các nguyên nhân cơ bản dẫn tới thể chế công chứng bất cập, chậm được hoàn thiện đổi mới và thực trạng yếu kém, bất cập trong tổ chức, hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, cần có quan điểm khách quan, toàn diện trước thực trạng và các nguyên nhân trên.
Là một hoạt động xã hội - nghề nghiệp, với bản chất dịch vụ công, công chứng đóng vai trò quan trọng hỗ trợ công dân trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; đồng thời hỗ trợ Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Song ở Việt Nam hiện nay, về phương diện hành pháp, công chứng được tổ chức và hoạt động như một cơ quan công quyền, về phương diện tư pháp, công chứng được coi là cơ quan bổ trợ tư pháp. Vì thế, sự tồn tại và phát triển của công chứng không thể tách rời mà ngược lại, chịu sự ràng buộc chặt chẽ, phụ thuộc thể chế hành chính, thể chế tư pháp và cơ chế tố tụng của đất nước, có thể góp phần tạo ra động lực thúc đẩy hoặc trở thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, xem xét tổng thể, có thể thấy công chứng nhà nước của ta là sản phẩm của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi, còn mang nặng dấu ấn của thời kỳ quan liêu bao cấp. Không những vậy, trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải cách công chứng chưa được xem trọng đúng mức. Do đó, thực trạng công chứng đã phân tích ở trên là một tất yếu.
2.2. XÃ HỘI HÓA CÔNG CHỨNG - YÊU CẦU KHÁCH QUAN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Xã hội hóa công chứng nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do sở hữu, hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản: tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, tự do cạnh tranh, tự do giá cả và tự định đoạt. Không có các quyền tự do này thì nền kinh tế thị trường không thể vận hành được. Sự can thiệp của Nhà nước chủ yếu là để bảo vệ các công cụ của thị trường hoặc hạn chế các tiêu cực của thị trường.
Ở Việt Nam, kinh tế thị trường hình thành muộn (mới từ sau năm 1986, khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới) và trên cơ sở của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ. Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng to lớn của xã hội, làm sinh động hóa các quan hệ xã hội, thúc đẩy các giao lưu dân sự, thương mại, kinh tế phát triển, làm tăng mạnh nhu cầu của xã hội về phòng ngừa tranh chấp thông qua hoạt động công chứng. Đồng thời, đặt ra yêu cầu phát huy tính tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo của toàn xã hội, "phi nhà nước hóa" những lĩnh vực hoạt động thuộc trách nhiệm của xã hội và xã hội có khả năng tự đảm nhiệm để Nhà nước tập trung quản lý vĩ mô, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đối với lĩnh vực công chứng, kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu về một thể chế công chứng đồng bộ, phù hợp, tạo nên sự đồng bộ của thể chế kinh tế thị trường và một thiết chế công chứng năng động, linh hoạt, hiệu quả đáp ứng tốt nhất nhu cầu về công chứng của xã hội. Trước các yêu cầu trên, xã hội hóa công chứng là một giải pháp quan trọng, góp phần tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phát triển.
2.2.2. Xã hội hóa công chứng đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính
Cải cách hành chính là yêu cầu khách quan, là nội dung hết sức quan trọng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của nước ta. Đặc biệt, từ Hội nghị Trung ương lần thứ tám, khóa VII, cải cách hành chính được đặt thành nhiệm vụ có tầm chiến lược, nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công cuộc cải cách hành chính được tiến hành tương đối toàn diện, trên cả 4 lĩnh vực: cải cách thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ và cải cách tài chính công.
Với các nội dung trên, đối với lĩnh vực công chứng, cải cách hành chính đặt ra yêu cầu xác định rõ hoạt động công chứng là hoạt động gì? (quản lý nhà nước hay xã hội nghề nghiệp?); cơ quan công chứng là loại cơ quan nào? (cơ quan nhà nước có thu hay cơ quan sự nghiệp có thu?); trên cơ sở đó xác định mô hình tổ chức hoạt động, cơ chế quản lý, cơ chế tài chính đối với lĩnh vực công chứng nhằm tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung ứng dịch vụ công chứng, góp phần giảm tải cho hoạt động của bộ máy nhà nước, thu gọn đầu mối, tinh giản biên chế và tiết kiệm chi ngân sách.
Cải cách hành chính cũng đặt ra yêu cầu mở rộng mạng lưới công chứng, nhằm đưa hệ thống công chứng gần dân hơn. Đồng thời, phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hóa, đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng ngày càng cao của xã hội.
Khâu đột phá của cải cách hành chính là cải cách thủ tục hành chính. Trong đó, công chứng là một trong bảy lĩnh vực được đề cập tại Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính, nhằm giảm bớt phiền hà cho công dân và các tổ chức. Cho đến nay, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng vẫn đang là vấn đề thời sự, là yêu cầu bức xúc của xã hội nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, đơn giản trong trình tự, thủ tục công chứng, tạo điều kiện thuận tiện cho người yêu cầu công chứng, đáp ứng yêu cầu "nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện, chính xác, đúng pháp luật" của hoạt động công chứng.
Để đáp ứng yêu cầu trên của cải cách hành chính, xã hội hóa công chứng là giải pháp quan trọng.
Có thể thấy, cải cách công chứng theo hướng xã hội hóa vừa là yêu cầu, vừa là kết quả tất yếu của cải cách hành chính, góp phần đảm bảo dỡ bỏ các rào cản hành chính đối với hoạt động kinh doanh và các lĩnh vực của đời sống xã hội, cải thiện theo hướng tích cực mối liên hệ giữa các thiết chế hành chính công quyền với nhân dân, tạo cơ sở cho việc thiết lập một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
2.2.3. Xã hội hóa công chứng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, thể hiện ở các Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 7 (khóa VIII), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và đặc biệt là Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong đó, mục tiêu của cải cách tư pháp được chỉ rõ: "Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao".
Cải cách tòa án là trọng tâm của cải cách tư pháp. Trong đó, một nội dung quan trọng là chuyển từ cơ chế tố tụng xét hỏi sang cơ chế tố tụng tranh tụng nhằm dân chủ hóa hoạt động tố tụng, bảo đảm quyền tự định đoạt và chứng minh của các bên đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp và yêu cầu hợp pháp của họ trước tòa. Tòa án không tự xác minh, thu thập chứng cứ trong các vụ án dân sự. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ xuất trình chứng cứ để tự chứng minh, tòa án chỉ ra phán quyết trên cơ sở các đương sự xuất trình chứng cứ và tranh tụng trước tòa.
Đối với các vụ án hình sự trong lĩnh vực kinh tế, luật sư có quyền thu thập các chứng cứ, trong đó có các hợp đồng kinh tế đã được công chứng làm cơ sở tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ thân chủ của mình.
Như vậy, với cơ chế tranh tụng, công chứng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra các chứng cứ viết (văn bản công chứng - một loại công chứng thư) để các bên đương sự cũng như luật sư xuất trình tại phiên tòa, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên trước tòa án.
Tuy nhiên, như thực trạng đã phân tích ở phần 2.1.1, công chứng nước ta hiện nay chưa khẳng định được vai trò của mình trong hoạt động tố tụng với tư cách là một hoạt động bổ trợ tư pháp, cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử.
Đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, xã hội hóa công chứng là một giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả công chứng, khẳng định giá trị pháp lý của văn bản công chứng (đặc biệt là giá trị chứng cứ), khẳng định vị thế của công chứng trong hoạt động tố tụng, cung cấp chứng cứ đảm bảo cho hoạt động xét xử được nhanh chóng, khách quan, đúng pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử. Đồng thời, bảo vệ có hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân và các tổ chức trước các tranh chấp tại tòa án.
2.2.4. Xã hội hóa công chứng đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
Nhà nước pháp quyền là mô hình nhà nước mà ở đó, bên cạnh những đặc điểm chung của Nhà nước, còn có các đặc điểm riêng, đó là: Sự phân công quyền lực một cách hợp lý; sự hiện diện của Hiến pháp và nền pháp chế thống nhất, công bằng và sự tồn tại của chế độ dân chủ. Trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật phải thống trị mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản giữa công dân với Nhà nước, giữa công dân với công dân; giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội. Các chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật và được bình đẳng trước pháp luật. Ngay cả Nhà nước cũng được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Ở Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đặt ra các yêu cầu:
- Bộ máy nhà nước phải gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả; có sự phân công rõ ràng để thực hiện tốt các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có hệ thống pháp luật thống nhất, minh bạch, đồng bộ và hoàn thiện, phản ánh đúng ý chí, lợi ích của nhân dân và cộng đồng xã hội, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân (công dân được làm tất cả, trừ những gì luật cấm), quy định rõ ràng về nghĩa vụ của Nhà nước với công dân, công dân với Nhà nước; ý thức chính trị, ý thức pháp luật, trình độ văn hóa cao.
- Khắc phục tình trạng nhà nước hóa hầu hết các quá trình xã hội, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa, "phi nhà nước hóa" những lĩnh vực thuộc chức năng xã hội của Nhà nước mà xã hội có thể đảm nhiệm; đồng thời hoàn thiện các thể chế, thiết chế của xã hội dân sự.
- Sự bình đẳng pháp lý, đạo đức, đồng trách nhiệm giữa Nhà nước và cá nhân công dân, vai trò của Nhà nước về dịch vụ công cùng các nhu cầu về bảo đảm an toàn, an ninh không ngừng tăng lên. Nhu cầu về công lý, về hoạt động xét xử cũng tăng lên rất mạnh.
Như vậy, xã hội hóa công chứng chính là để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; góp phần làm cho bộ máy nhà nước gọn nhẹ, nâng cao hiệu quả dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng, phát huy vai trò công chứng trong bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mọi công dân, tổ chức khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, làm cho công chứng thực sự trở thành một trong các thiết chế bảo đảm thực hiện quyền dân chủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
2.2.5. Xã hội hóa công chứng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Đảng ta chủ trương "mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" [26, tr. 119].
Cho đến nay, nước ta đã mở rộng quan hệ ngoại giao với trên 160 nước, quan hệ thương mại song phương với trên 150 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong việc ký kết các điều ước quốc tế, Việt Nam không chỉ dừng lại ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, các nước láng giềng như trước thời kỳ đổi mới mà ngày càng mở rộng. Đặc biệt phải kể đến Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức tài chính lớn trên thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); tham gia Công ước về tổ chức đảm bảo đầu tư ASEAN (AIA); Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài; Nghị định thư 1996 về cơ chế giải quyết tranh chấp trong hợp đồng kinh tế giữa các nước ASEAN; ký kết Hiệp định về buôn bán hàng dệt may Việt Nam - Cộng đồng châu Âu; Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - Cộng đồng châu Âu, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và đang xúc tiến việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)...
Hợp tác và hội nhập quốc tế gắn bó chặt chẽ với công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương nhất quán thực hiện. Đổi mới tạo tiền đề cho hội nhập, đồng thời, hội nhập có tác dụng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới. Gần 20 năm đổi mới, kể từ năm 1986 đến nay, đổi mới kinh tế ở Việt Nam với nội dung quan trọng là chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo tiền đề để kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Quá trình đổi mới, hội nhập đặt ra các yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong đó có cải cách công chứng, tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam.
Như vậy, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đã tạo tiền đề cho sự phát triển của công chứng, mặt khác, công chứng nhà nước ở Việt Nam cần được cải cách, đổi mới theo hướng xã hội hóa để phục vụ cho sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ đắc lực cho chính sách mở cửa giao lưu, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Không những thế trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, xã hội hóa công chứng còn đảm bảo cho sự phát triển của chính ngành công chứng. Chỉ trên cơ sở xã hội hóa, công chứng Việt Nam mới có cơ hội giao lưu hội nhập, phát triển ngang tầm khu vực và thế giới, thực sự khẳng định vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiến trình hội nhập quốc tế.
Tóm lại, trước thực trạng yếu kém, bất cập của công chứng nhà nước trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng yêu cầu xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và yêu cầu hội nhập quốc tế, đổi mới tổ chức, hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa là yêu cầu tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa công chứng của Đảng và Nhà nước, cần dựa trên các quan điểm khách quan, toàn diện, cụ thể; xây dựng các giải pháp mang tính chiến lược, đồng bộ, tạo những bước đi vững chắc trong quá trình xã hội hóa công chứng, đảm bảo giữ vững ổn định trật tự, công bằng xã hội.
2.3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP XÃ HỘI HÓA CÔNG CHỨNG
2.3.1. Quan điểm xã hội hóa công chứng
Xã hội hóa công chứng là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ: "cải tiến hoạt động công chứng, bảo đảm nhanh chóng, thuận tiện, chính xác" và "nghiên cứu việc xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp". Chỉ thị số 10/2002/CT-TTG ngày 19/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: Bộ Tư pháp "chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng đề án từng bước xã hội hóa hoạt động công chứng...". Tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tư pháp toàn quốc năm 2004, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo: "Tiếp tục nghiên cứu để từng bước xã hội hóa hoạt động công chứng, chứng thực". Đặc biệt gần đây, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đối với lĩnh vực công chứng, nghị quyết chỉ rõ: "Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này".
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng về xã hội hóa công chứng, để thực hiện xã hội hóa công chứng ở Việt Nam, về góc độ khoa học, cần quán triệt một số quan điểm cơ bản:
Quan điểm thứ nhất: Xã hội hóa công chứng phải được tiến hành trên cơ sở xác định phạm vi, nội dung và những bước đi phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và khu vực.
Đây là quan điểm quan trọng, mang tính quyết định đối với tính khả thi, sự thành công của quá trình xã hội hóa công chứng ở Việt Nam. Công chứng là hoạt động xã hội nghề nghiệp không mang đặc trưng quyền lực nhà nước, khởi nguồn nghề công chứng đã là nghề tự do, và hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, nghề công chứng được coi là nghề tự do. Như vậy, đối với lĩnh vực công chứng có thể xã hội hóa hoàn toàn. Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay là tất yếu khách quan, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Song, xã hội hóa đến đâu, ở mức độ nào, lại do điều kiện kinh tế - xã hội quyết định. Ở Việt Nam, xã hội hóa dịch vụ công nói chung, xã hội hóa công chứng nói riêng là vấn đề mới và khó, chưa có tiền lệ, kinh nghiệm, vì thế phải thận trọng tiến hành từng bước, có mục tiêu, nội dung, giải pháp cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, tránh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn. Sau mỗi bước đi, cần chú trọng tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn sau. Các giải pháp cho từng giai đoạn phải phù hợp với chiến lược tổng thể, tránh các giải pháp tình thế, bị động, thiếu cơ sở khoa học, thiếu thống nhất, đồng bộ, phi thực tiễn, thiếu tính khả thi. Xã hội hóa công chứng cần thiết kế mô hình công chứng đảm bảo phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, mang bản sắc Việt Nam, đồng thời, phù hợp với thông lệ quốc tế. Bởi không chỉ có điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đặc điểm tâm lý, truyền thống dân tộc, mà cả xu thế hội nhập quốc tế và khu vực cũng đang tác động mạnh mẽ đến quá trình xã hội hóa công chứng, góp phần khắc phục những "dị biệt" của thiết chế công chứng Việt Nam so với các hệ thống công chứng trên thế giới hiện nay, làm cho công chứng Việt Nam không chỉ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đặc thù của Việt Nam mà còn phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Như vậy, quá trình xã hội hóa công chứng phải tính đến những tác động và yêu cầu thực tiễn của quá trình hội nhập, phải phản ánh được quá trình tăng cường các quan hệ qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong xu thế hội nhập, tạo khả năng phục vụ tích cực, hiệu quả các giao lưu trong nước và quốc tế. Yêu cầu này đòi hỏi trong quá trình xã hội hóa, phải nghiên cứu, học tập, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công chứng trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm xã hội hóa ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi.
Quan điểm thứ hai: Xã hội hóa công chứng phải đặt trong nội dung tổng thể cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Ở nước ta hiện nay, công chứng là một thiết chế nhà nước, được tổ chức như một cơ quan công quyền, với chức năng bổ trợ tư pháp. Vì thế, xã hội hóa công chứng vừa là yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, vừa là một nội dung của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Có thể xem mối quan hệ giữa xã hội hóa công chứng với cải cách hành chính, cải cách tư pháp là mối quan hệ giữa bộ phận và toàn bộ, có sự tác động qua lại lẫn nhau, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, toàn diện, tránh được sự mâu thuẫn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo; khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ, chắp vá, bị động, nặng về giải pháp tình thế trong quá trình thực hiện cải cách.
Mặt khác, chỉ khi được đặt trong nội dung tổng thể cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, vấn đề xã hội hóa công chứng mới được xem trọng đúng mức, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo kịp yêu cầu đổi mới nói chung, đặc biệt là đổi mới kinh tế; đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, phát huy dân chủ, củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước, vào hệ thống chính trị và đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta.
Quan điểm thứ ba: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quá trình xã hội hóa công chứng.
Đặc trưng của hệ thống chính trị nước ta là một đảng duy nhất cầm quyền; xã hội hóa công chứng là một nội dung của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, vì thế không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết nhằm định hướng đảm bảo sự ổn định chính trị, giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong quá trình thực hiện xã hội hóa công chứng.
Nhà nước quản lý chủ yếu bằng pháp luật, tạo môi trường pháp lý, khung pháp luật cho quá trình xã hội hóa công chứng. Thông qua pháp luật, Nhà nước đảm bảo quá trình xã hội hóa giữ đúng định hướng, đảm bảo ổn định trật tự, công bằng xã hội, tránh tình trạng tự phát, tự do vô chính phủ, tùy tiện, vô nguyên tắc gây mất ổn định trật tự công bằng xã hội.
Vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp (tổ chức quản lý nghề công chứng) đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực quản lý nghề công chứng, giúp cho Nhà nước giảm tải các công việc không thuộc chức năng quản lý nhà nước; tạo ra các chuẩn mực chung về đạo đức, phong cách, nghiệp vụ của công chứng viên. Tổ chức này sẽ giúp công chứng viên tự tin trong nghề nghiệp, nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của công chứng viên trong xã hội cũng như đối với các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử, nâng cao chất lượng hoạt động và trách nhiệm đối với khách hàng.
Tóm lại, vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp là các yếu tố quan trọng, đảm bảo sự thành công của quá trình xã hội hóa công chứng ở nước ta.
2.3.2. Giải pháp xã hội hóa công chứng
2.3.2.1. Đổi mới nhận thức về bản chất, vai trò công chứng
Nhận thức đúng về bản chất, vai trò công chứng là một trong các yêu cầu quan trọng đảm bảo tính khoa học, phù hợp, tương thích của thể chế công chứng.
Có thể thấy ở Việt Nam, thiết chế công chứng đã có 15 năm tồn tại với ba lần thay đổi thể chế. Song về cơ bản công chứng Việt Nam vẫn mang tính khép kín, chưa tiếp thu một cách chọn lọc những yếu tố hợp lý cách thức tổ chức công chứng của các quốc gia trên thế giới, phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam; chưa có khả năng hội nhập.
Một trong các nguyên nhân của tình trạng trên là do chưa đổi mới nhận thức về bản chất, vai trò công chứng, dẫn đến sự lạc hậu về tư duy pháp lý, sự bất cập của thể chế công chứng. Vì vậy, một trong các giải pháp hàng đầu để tiến tới xã hội hóa công chứng là phải đổi mới nhận thức về bản chất, vai trò công chứng; trên cơ sở đó, đổi mới tư duy pháp lý, xây dựng thể chế, xác định mô hình tổ chức, hoạt động, mô hình quản lý công chứng phù hợp.
Thực chất, đổi mới nhận thức về bản chất, vai trò công chứng chính là nhận thức lại về bản chất, vai trò của nó - điều mà chúng ta chưa đạt được khi tiến hành xây dựng thể chế và xác định mô hình tổ chức, hoạt động công chứng ở Việt Nam. Cần phải khẳng định rõ rằng bản chất công chứng là một hoạt động xã hội - nghề nghiệp, mang tính dịch vụ công, không mang đặc trưng quyền lực nhà nước. Tính dịch vụ công biểu hiện ở vai trò quản lý chặt chẽ của Nhà nước đối với hoạt động công chứng, ở trách nhiệm của Nhà nước đối với việc đảm bảo cung ứng dịch vụ công chứng cho xã hội. Hay nói cách khác, sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước đối với tổ chức, hoạt động công chứng khẳng định bản chất dịch vụ công của nó, chứ không phải là sự thể hiện đặc trưng quyền lực nhà nước trong hoạt động công chứng. Cùng với việc nhận thức về bản công chứng như trên, cần nhận thức rõ vai trò công chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay (đã được phân tích tại mục 1.1.3).
Mặt khác, cần phải thấy yêu cầu đổi mới nhận thức về bản chất và vai trò công chứng không chỉ đặt ra đối với Nhà nước mà còn đặt ra đối với công dân và các tổ chức cũng như với chính đội ngũ những người làm công chứng. Bởi chỉ khi nhận thức đúng về công chứng, thấy rõ vai trò công chứng đối với sự an toàn pháp lý của các hợp đồng, giao dịch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; chỉ khi công dân nhận thức rõ công chứng chính là một trong các công cụ, biện pháp tự bảo vệ an toàn nhất khi tham gia hợp đồng, giao dịch, người dân mới tự nguyện đến với công chứng, coi công chứng là nhu cầu không thể thiếu của chính bản thân công dân chứ không phải chỉ do yêu cầu quản lý nhà nước.
Đối với đội ngũ những người làm công chứng, chỉ khi ý thức rõ được bản chất dịch vụ công và tính chất phục vụ của hoạt động công chứng, mới tạo ra sự thay đổi căn bản về thái độ phục vụ, tác phong lề lối làm việc, phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, trách nhiệm trong hoạt động. Đồng thời xóa bỏ tâm lý ỷ lại, phụ thuộc vào sự bao cấp của Nhà nước.
Tóm lại, khi và chỉ khi Nhà nước - xã hội - đội ngũ những người làm công chứng có được những nhận thức đúng về bản chất, vai trò công chứng mới tạo ra các tiền đề quan trọng để công chứng phát triển.
2.3.2.2. Hoàn thiện pháp luật công chứng theo hướng xã hội hóa, đồng thời hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến công chứng
* Hoàn thiện pháp luật công chứng theo hướng xã hội hóa
Hoàn thiện thể chế công chứng theo hướng xã hội hóa vừa là giải pháp, vừa là yêu cầu bức thiết hiện nay, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện khung pháp luật, bảo đảm sự đồng bộ của thể chế kinh tế thị trường.
Hiện nay, các lĩnh vực liên quan đến công chứng (hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại) đều đã được điều chỉnh bằng luật (Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại…), để đảm bảo tính đồng bộ, khả thi, công chứng cũng cần phải được điều chỉnh bằng luật. Mặt khác, ban hành Luật Hành nghề công chứng chính là đảm bảo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền: Nhà nước quản lý xã hội bằng luật chứ không phải bằng các văn bản dưới luật.
Tuy nhiên, hiện nay văn bản quy phạm pháp luật chính điều chỉnh lĩnh vực công chứng mới chỉ ở tầm nghị định của Chính phủ, vì thế trước mắt cần sớm ban hành Pháp lệnh công chứng. Đây là quá trình pháp điển hóa để chuẩn bị xây dựng, ban hành Luật Hành nghề công chứng với các nội dung phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp lý của dân tộc, đồng thời đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế.
Pháp lệnh công chứng phải đảm bảo đúng định hướng của Đảng: "Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi công chứng và chứng thực; giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này" [29]; đồng thời đảm bảo các tiêu chí về tính toàn diện, tính đồng bộ, tính thống nhất, tính khả thi và tính minh bạch của cả hệ thống pháp luật nói chung cũng như trong Pháp lệnh công chứng nói riêng.
Pháp lệnh công chứng phải đáp ứng được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu của chiến lược phát triển khung pháp luật đến năm 2010 và 2020.
Với mục tiêu xây dựng một hệ thống công chứng hiệu quả, đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế; đáp ứng các yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách tư pháp; tạo cơ sở pháp lý cho việc từng bước xã hội hóa công chứng, nội dung của pháp lệnh cần đảm bảo một số yêu cầu cơ bản:
Về phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh công chứng: chỉ quy định các vấn đề thuộc về lĩnh vực công chứng với các nguyên tắc đặc thù của hoạt động công chứng, còn chứng thực là hoạt động của các cơ quan hành chính công quyền, dựa trên các nguyên tắc, yêu cầu của hoạt động hành chính, không nên quy định chung ở đây.
Phạm vi công chứng cần được xác định trên nguyên tắc khoa học và phù hợp với thông lệ quốc tế; đó là: bao gồm tất cả các hợp đồng, giao dịch. Trong đó, có những loại hợp đồng giao dịch do nhu cầu quản lý chặt chẽ của Nhà nước, Nhà nước bắt buộc phải công chứng và những loại hợp đồng, giao dịch do công dân tự nguyện yêu cầu công chứng. (Khi đã xác định phạm vi công chứng như trên, đối với việc chứng thực bản sao cần quán triệt tinh thần của Chị thị số 01/2001/CT-TTg ngày 05/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị định 75/2000/NĐ-CP:
Riêng về việc sao y giấy tờ, Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ tiến hành rà soát để hủy bỏ các quy định bắt buộc người dân phải nộp bản sao giấy tờ do phòng công chứng chứng nhận trong hồ sơ tuyển sinh, tuyển dụng, bổ nhiệm, tuyển lao động, giải quyết chính sách… Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm hướng dẫn các trường học, cơ sở giáo dục và đào tạo trong cả nước về việc cấp bản sao văn bằng, chứng chỉ và các giấy tờ khác từ sổ gốc... Cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận giấy tờ xét thấy cần bản chính để đối chiếu thì phải tự mình đối chiếu bản chụp với bản chính.
Tuy nhiên, nội dung này phải được thể hiện ở một văn bản quy phạm pháp luật có tầm hiệu lực cao hơn, với các chế tài cụ thể. Đồng thời chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trách nhiệm công chức, phẩm chất đạo đức, tinh thần phục vụ của công chức tư pháp - hộ tịch xã, phường, của đội ngũ công chức các cơ quan thuộc các bộ, ngành nói trên. Mặt khác, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật để các tổ chức và cá nhân công dân nhận thức rõ về giá trị pháp lý của các bản sao được cấp theo trình tự này).
Xác định công chứng là một nghề, trong đó chủ thể duy nhất của hoạt động công chứng là công chứng viên; quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn công chứng viên, điều kiện bổ nhiệm công chứng viên, quy trình bổ nhiệm công chứng viên. Quy định về hình thức hành nghề trong giai đoạn chuyển tiếp bao gồm hành nghề trong tổ chức công chứng tư nhân và hành nghề trong các phòng công chứng nhà nước. Hình thức tổ chức hành nghề trong giai đoạn chuyển tiếp bao gồm: Văn phòng công chứng tư nhân và phòng công chứng nhà nước với các chi nhánh công chứng nhà nước. Quy định về hoạt động hành nghề của công chứng viên, bao gồm: Phạm vi hành nghề công chứng, luật hóa một số quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp công chứng; trách nhiệm giữ bí mật thông tin về việc công chứng, về khách hàng; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của công chứng viên; quy định nghĩa vụ tư vấn của công chứng viên…). (Pháp luật cần xác định sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các văn phòng công chứng tư nhân với các phòng công chứng nhà nước; giá trị pháp lý của văn bản công chứng tư nhân với văn bản công chứng nhà nước).
Tổ chức tự quản là cơ quan đại diện, bảo vệ quyền lợi của công chứng viên được thành lập ở hai cấp: cấp quốc gia và cấp tỉnh với hình thức Hội đồng công chứng quốc gia và Hội đồng tự quản cấp tỉnh.
Xác định cơ chế quản lý công chứng bao gồm: quản lý nhà nước và tự quản, cơ chế phối hợp giữa quản lý nhà nước với tự quản. Đồng thời, quy định cụ thể cơ chế giám sát của Nhà nước, của xã hội đối với công chứng.
* Hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến công chứng đảm bảo thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về chứng cứ trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Chứng cứ là một trong những vấn đề cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành chưa phân biệt giá trị chứng cứ của văn bản công chứng với các văn bản do các cơ quan, tổ chức khác cung cấp, xác nhận. Bộ luật Tố tụng dân sự cần quy định rõ ràng, cụ thể về giá trị chứng cứ của văn bản công chứng, phân biệt thứ bậc giữa giá trị chứng cứ của văn bản công chứng với các văn bản do các cơ quan, tổ chức khác cung cấp, xác nhận.
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
Hợp đồng là đối tượng của hoạt động công chứng. Sự phát triển của các hợp đồng giao dịch trong đời sống dân sự chính là tiền đề cho sự phát triển công chứng. Chính vì thế, song song hoàn thiện thể chế công chứng, cần thiết phải hoàn thiện chế định về hợp đồng.
Hợp đồng là công cụ hữu hiệu để thực hiện và thúc đẩy các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Hiện nay, pháp luật hợp đồng của Việt Nam đang bị chia tách thành các cơ chế điều chỉnh khác nhau và không thống nhất. Các quy định này nằm rải rác trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chồng chéo, loại trừ lẫn nhau, do đó, tạo ra nhiều lỗ hổng pháp lý khiến người áp dụng và các cơ quan tài phán gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong áp dụng. Điều này đặt ra yêu cầu thống nhất và đồng bộ hóa các quy định về hợp đồng, tạo ra cơ sở pháp lý ổn định, minh bạch và tin cậy trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đồng thời bảo đảm tính tương thích với pháp luật quốc tế trong quá trình hội nhập.
Vừa qua, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật Dân sự 2005. Theo nghị quyết này, kể từ ngày 01/01/2006, khi Bộ luật này có hiệu lực, sẽ chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại năm 2005 cũng không có quy định chung về hợp đồng. Đây là một bước phát triển quan trọng của pháp luật về hợp đồng Việt Nam, đảm bảo để các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự là quy định mang tính nguyên tắc và có hiệu lực điều chỉnh chung đối với quan hệ hợp đồng trong mọi lĩnh vực. Đồng thời, không loại trừ khả năng xây dựng các quy định đặc thù để điều chỉnh các hợp đồng trong những lĩnh vực khác nhau (như thương mại, đầu tư, chứng khoán...).
Tuy nhiên, vì Bộ luật Dân sự là Bộ luật gốc, điều chỉnh chung (Lex general), do đó không nên sử dụng khái niệm "hợp đồng dân sự", "giao dịch dân sự" mà chỉ nên sử dụng khái niệm "hợp đồng", "giao dịch" (hiện nay Bộ luật Dân sự 2005 vẫn sử dụng khái niệm "hợp đồng dân sự", "giao dịch dân sự").
Pháp luật hợp đồng phải thể hiện được tinh thần tôn trọng nguyên tắc tự do hợp đồng một cách thực sự, giảm đến mức tối đa sự can thiệp của Nhà nước vào giao lưu dân sự, tôn trọng sự thỏa thuận ý chí thực của các bên trong các quan hệ. Do đó, cần bảo hộ tối đa quyền tự do hợp đồng của các giao dịch dân sự, hạn chế việc tuyên bố vô hiệu một cách tùy tiện, bất hợp lý với các giao dịch dân sự. Vì thế, về mặt hình thức hợp đồng, nên giảm tối đa các quy định "hợp đồng phải được lập thành văn bản"; "hợp đồng phải được công chứng, chứng thực"; "hợp đồng phải được đăng ký"... trong Bộ luật Dân sự cũng như luật chuyên ngành (đặc biệt, không nên quy định thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã vì đó là phạm vi công chứng). Chỉ nên quy định hình thức hợp đồng bắt buộc đối với các hợp đồng liên quan đến bất động sản, cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Về nội dung của hợp đồng, pháp luật không nên quy định quá nhiều nội dung cơ bản của hợp đồng, dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu khi chỉ thiếu một nội dung cơ bản (vô hình dung, pháp luật đã khuyến khích sự bội tín, bội ước trong hợp đồng dân sự). Bộ luật Dân sự 2005 đã có sự tiến bộ đáng kể trong việc quy định về hình thức cũng như nội dung hợp đồng, đảm bảo tôn trọng quyền tự do hợp đồng của các chủ thể, hạn chế khả năng giao dịch dân sự bị tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên, hiện nay, theo Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003, hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (khoản 4, Điều 146). Quy định như trên chỉ đạt được mục đích tạo thuận lợi cho quản lý nhà nước, đẩy khó khăn, phiền hà về phía người dân. Theo nguyên tắc pháp lý dân sự, hiệu lực của hợp đồng đã phát sinh ngay từ khi các bên đã hoàn thành khế ước trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận mà không vi phạm các điều cấm của luật. Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào các quan hệ dân sự bằng các biện pháp hành chính, vô hình dung đã tạo thêm rào cản hành chính đối với các giao lưu dân sự.
Hoàn thiện hệ thống các cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và đảm bảo các điều kiện để hệ thống cơ quan này hoạt động hiệu quả. Đồng thời, cần quy định rõ các vấn đề về nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm, cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực đăng ký bất động sản và đăng ký giao dịch bảo đảm, tiến tới thực hiện một cửa và do một cơ quan quản lý thống nhất.
- Hoàn thiện pháp luật về sở hữu
Công chứng là hoạt động liên quan đến giải quyết các mối quan hệ sở hữu trong lĩnh vực gia đình, thừa kế, vay mượn, tín dụng, kinh doanh trong xã hội. Vì vậy hoàn thiện pháp luật về sở hữu có vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ sở pháp lý để người có quyền có thể khai thác, hưởng lợi từ tài sản, tham gia giao lưu dân sự, tham gia các giao dịch nhằm tạo lập, dịch chuyển tài sản và các quyền đối với tài sản.
Các quy định về sở hữu, trong đó các quy định về hình thức sở hữu, vì thế, phải làm sao góp phần khuyến khích người dân tham gia tạo lập và dịch chuyển tài sản. Đó cũng là yêu cầu của việc phát triển kinh tế thị trường; khuyến khích người dân làm giàu (tức là khuyến khích người dân tạo lập, khai thác, sử dụng hiệu quả và tích tụ tài sản một cách hợp pháp) nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu nước mạnh".
Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân được quy định tại Điều 15 Hiến pháp 1992, Bộ luật Dân sự 1995 quy định các hình thức sở hữu gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; sở hữu hỗn hợp, sở hữu chung. Trong đó Bộ luật Dân sự 1995 chưa quy định rõ ràng về sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, đã dẫn đến tình trạng nhiều tài sản thuộc hai hình thức sở hữu này (đặc biệt là sở hữu toàn dân) chưa được quản lý và sử dụng có hiệu quả. Sự tồn tại của sở hữu hỗn hợp đã không làm sáng tỏ được sở hữu của doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước.
Bộ luật Dân sự 2005 đã có sự sửa đổi, bổ sung quan trọng về hình thức sở hữu. Theo đó, trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, Bộ luật quy định các hình thức sở hữu: Sở hữu Nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu chung; sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội; sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Với quy định như trên, sẽ khắc phục được sự bất cập của các quy định cũ về hình thức sở hữu, đặc biệt là hình thức sở hữu của toàn dân và sở hữu hỗn hợp.
Tuy nhiên, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về sở hữu trên cơ sở đảm bảo thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch, nhằm chỉ rõ cho mọi người biết một tài sản nhất định nào đó (đặc biệt là bất động sản) thuộc về ai. Cần sớm ban hành Luật Đăng ký bất động sản nhằm xác định tình trạng pháp lý của bất động sản, trong đó nổi bật là vấn đề quyền sở hữu, quyền sử dụng, các quyền và lợi ích liên quan đến bất động sản. Qua đó, một mặt, Nhà nước công nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng của cá nhân, tổ chức đối với bất động sản (đây là những quyền cơ bản đã được Hiến pháp khẳng định). Mặt khác, thông qua việc đăng ký bất động sản, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý các tài sản đó, đồng thời công khai các quyền, giao dịch về bất động sản, giúp cho cá nhân, tổ chức có nguồn thông tin cần thiết để xem xét, quyết định trước khi tiến hành các giao dịch về bất động sản. Việc tổ chức tốt hoạt động đăng ký bất động sản sẽ góp phần phát triển thị trường bất động sản - một trong các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010. Thông qua việc ban hành Luật Đăng ký bất động sản, còn khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo, mâu thuẫn của pháp luật về đăng ký bất động sản và thị trường bất động sản, tạo điều kiện để thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên khi tham gia giao dịch về bất động sản, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bất động sản và cá nhân, tổ chức liên quan.
- Hoàn thiện pháp luật về đất đai
Quyền sử dụng đất là đối tượng quan trọng của các giao lưu dân sự, đồng thời là đối tượng chủ yếu của thị trường bất động sản. Hoàn thiện pháp luật đất đai góp phần tạo điều kiện để việc công chứng các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất được thuận lợi, nhanh chóng, đúng pháp luật, giảm bớt phiền hà cho công dân và các tổ chức, đồng thời, góp phần đảm bảo sự công khai, minh bạch của thị trường bất động sản, tạo điều kiện để Nhà nước quản lý thị có hiệu quả thị trường này.
Trước hết, cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tất cả các thửa đất được sử dụng hợp pháp, không có tranh chấp, hoàn chỉnh hệ thống bản đồ địa chính, thành lập hệ thống hồ sơ địa chính chính quy, tin học hóa hệ thống quản lý đất đai.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính là cơ sở pháp lý đảm bảo các quyền của người sử dụng đất, làm đất trở thành hàng hóa. Hiện nay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho 90% diện tích đất nông nghiệp, 50% diện tích đất rừng sản xuất, 50% diện tích đất ở thuộc khu dân cư nông thôn, 35% diện tích đất ở thành thị. Trong số giấy chứng nhận đã cấp, mới chỉ có 40% được lập hồ sơ địa chính chính quy. Việc chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một hạn chế để vận hành thị trường bất động sản lành mạnh, vì người được sử dụng đất phải có giấy chứng nhận sử dụng đất mới có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Tuy nhiên, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện còn gặp nhiều khó khăn (đặc biệt là đất ở đô thị) do người sử dụng đất thiếu các căn cứ về nguồn gốc đất (do người dân chưa có thói quen lưu trữ các thông tin cá nhân, hệ thống lưu trữ địa chính chưa đảm bảo, lại bị phá hủy nghiêm trọng do chiến tranh, thiên tai...). Do vậy, cần có các biện pháp thiết thực, hiệu quả để chấm dứt tình trạng này. Đồng thời, nghiên cứu mức thu phù hợp với mức thu nhập trung bình của người dân để người dân có điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong việc đăng ký quyền sử dụng đất (trên thực tế, hiện tại, đây chưa phải là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước).
Cải cách thủ tục hành chính về đăng ký quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất và chuyển quyền sử dụng đất.
Đây là một giải pháp cấp bách và quan trọng. Hiện nay, thủ tục và giấy tờ hành chính trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất quá phức tạp và phiền hà, đòi hỏi người dân phải có quá nhiều thứ giấy tờ, qua quá nhiều cửa, nhiều khâu, tốn kém thì giờ, tiền bạc (không loại trừ các khoản tiêu cực phí) và tạo tâm lý e ngại cho người dân khi làm các thủ tục trên. Cần thiết phải quy định một trình tự, thủ tục đơn giản, phù hợp, cụ thể, minh bạch, đồng thời xây dựng, kiện toàn cơ quan quản lý đất đai theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, hiện đại, có đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp. Tách dịch vụ công ra khỏi bộ máy hành chính (dịch vụ chuyển dịch sở hữu, cấp phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...).
Nhà nước cần có các biện pháp tạo mọi thuận lợi cho người dân khi họ định đoạt tài sản và nhà đất, góp phần biến đất thành tài sản thực tế, lưu chuyển trong quá trình kinh doanh. Muốn vậy, một mặt, các cơ quan có thẩm quyền cần tổ chức cung cấp thông tin về sở hữu nhà đất và các giao dịch liên quan, tạo điều kiện để người dân được tư vấn về các thông tin liên quan đến nhà đất (nguồn gốc đất, quy hoạch, tình trạng sở hữu, thế chấp và các tranh chấp nếu có). Mặt khác, cần hạn chế sự can thiệp của các cơ quan công quyền vào việc định đoạt tài sản nhà đất (như quy định về các điều kiện được mua bán nhà đất ở một số địa phương hiện nay). Đồng thời, sớm sửa đổi Luật Đất đai năm 2003 tại các điều từ 126 đến 131, quy định thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã đối với các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình và cá nhân; vì thẩm quyền này thuộc công chứng.
- Hoàn thiện pháp luật về thuế, lệ phí và phí, đảm bảo dễ áp dụng, minh bạch, công khai, chống thất thu cho ngân sách nhà nước cũng như chống sự áp dụng tùy tiện của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu.
2.3.2.3. Hoàn thiện cơ chế quản lý công chứng
Để đảm bảo công chứng thật sự là một nghề, có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao, một nội dung quan trọng là phải xây dựng cơ chế quản lý công chứng theo hướng vừa đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước, vừa phát huy khả năng tự quản thông qua tổ chức quản lý nghề công chứng. Phân định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền quản lý nghề công chứng; xác định rõ cơ chế phối hợp giữa quản lý nhà nước và quản lý nghề nghiệp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Thẩm quyền quản lý nhà nước về công chứng thuộc Bộ Tư pháp (ở trung ương) và các Sở Tư pháp (ở cấp tỉnh); bao gồm:
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch, hoạch định chính sách phát triển công chứng.
- Xây dựng pháp luật về công chứng.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản pháp luật về công chứng.
- Chỉ đạo hoạt động công chứng trên toàn quốc, đảm bảo để hoạt động công chứng ổn định, phát triển đồng bộ.
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên, cấp thẻ công chứng viên, chứng chỉ hành nghề công chứng.
- Quyết định thành lập, giải thể các phòng công chứng, phân bổ các phòng công chứng, công chứng viên trên phạm vi toàn quốc.
- Thông qua điều lệ công chứng, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên.
- Đào tạo công chứng viên
- Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, khen thưởng kỷ luật đối với công chứng viên.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công chứng.
Tổ chức quản lý nghề công chứng được tổ chức ở hai cấp: Hội đồng công chứng quốc gia và Hội đồng tự quản cấp tỉnh. Thành viên của các tổ chức tự quản này là các công chứng viên đương nhiệm (những người quản lý chuyên trách không được hành nghề công chứng).
Hội đồng công chứng quốc gia là cơ quan tự quản cao nhất, đại diện cho toàn ngành công chứng Việt Nam, đặt bên cạnh Bộ Tư pháp.
Hội đồng tự quản cấp tỉnh là cơ quan đại diện cho các công chứng viên của mỗi tỉnh; đặt dưới Hội đồng công chứng quốc gia và có quan hệ phối hợp chặt chẽ với các Sở Tư pháp các tỉnh.
Thẩm quyền của tổ chức tự quản nghề công chứng gồm:
- Xây dựng điều lệ công chứng và quy tắc đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên, trình Bộ Tư pháp thông qua.
- Hướng dẫn nghiệp vụ công chứng.
- Bồi dưỡng định kỳ, bảo đảm nâng cao nghiệp vụ cho công chứng viên.
- Đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định phân bố các phòng công chứng, công chứng viên theo vị trí địa lý, mật độ dân cư và nhu cầu công chứng ở từng địa phương, khu vực.
- Xây dựng chế độ thanh, kiểm tra và tiến hành thanh, kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với hoạt động của các phòng công chứng và công chứng viên.
- Giải quyết khiếu nại của công chứng viên đối với quyết định của trưởng phòng công chứng.
- Xem xét, kỷ luật đối với công chứng viên vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp, điều lệ công chứng.
- Cho ý kiến về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên.
2.3.2.4. Tiêu chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chứng viên
Công chứng là một nghề liên quan trực tiếp, thường xuyên, liên tục đến quyền và nghĩa vụ dân sự, lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức với chức năng chính là cung ứng dịch vụ đảm bảo an toàn pháp lý cho công dân và các tổ chức trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Đồng thời công chứng còn có chức năng hỗ trợ Nhà nước trong quản lý nhà nước và bổ trợ tư pháp. Chính vì vậy, công chứng viên - chủ thể duy nhất của hoạt động công chứng - cần được tiêu chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa để đảm bảo chất lượng và hiệu quả hoạt động, nâng cao vai trò, vị thế công chứng trong đời sống xã hội.
Điều 30 Nghị định 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực đã có quy định về điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên tương đối chặt chẽ:
a- Là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam.
b- Có bằng cử nhân luật và chứng chỉ tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng.
c- Có phẩm chất đạo đức tốt.
d- Có thời gian công tác pháp luật liên tục từ 5 năm trở lên, kể từ khi có bằng cử nhân luật; đối với những người đã có thời gian công tác pháp luật liên tục từ 5 năm trở lên trước khi có bằng cử nhân luật, thì thời gian công tác pháp luật sau khi có bằng cử nhân luật ít nhất là 2 năm liên tục.
Tuy nhiên, do cơ chế đào tạo và chất lượng đào tạo cơ bản cũng như đào tạo nghề công chứng thời gian qua còn nhiều bất cập, do đó thực chất chất lượng đội ngũ công chứng viên chưa thật sự được chuẩn hóa.
Để chuẩn hóa đội ngũ công chứng viên phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế cần bám sát định hướng của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh:
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa [29].
Đáp ứng yêu cầu trên, để nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hóa cần xây dựng kế hoạch, chiến lược đào tạo toàn diện, đảm bảo chất lượng đồng bộ giữa đào tạo cơ bản, đào tạo nghề và đào tạo lại, chú trọng đào tạo nguồn công chứng viên và đào tạo lại đối với công chứng viên. Đối với công tác đào tạo nghề công chứng của Học viện Tư pháp, cần xây dựng chương trình, giáo trình chuẩn và đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, giàu kinh nghiệm thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy, kết hợp nhuần nhuyễn giữa giảng dạy lý thuyết và thực hành, chú trọng rèn luyện các kỹ năng nghề nghiệp. Cần thiết phải xây dựng kế hoạch đào tạo lại (từ 3 đến 5 năm một lần) và kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo tại chỗ định kỳ mỗi năm một lần (40 giờ) đối với công chứng viên.
Xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên đồng thời đảm bảo các nguyên tắc bổ nhiệm công chứng viên với các điều kiện bổ nhiệm, quy trình bổ nhiệm chặt chẽ. Quy định chế độ tập sự hành nghề công chứng, áp dụng chế độ thi tuyển công chứng viên, chế độ chứng chỉ hành nghề đối với công chứng viên.
Tăng cường hợp tác quốc tế về công chứng, mở rộng giao lưu, tiếp xúc giữa công chứng viên Việt Nam với công chứng viên các nước. Thường xuyên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, đảm bảo sớm nâng tầm công chứng viên Việt Nam ngang tầm công chứng viên khu vực và quốc tế.
2.3.2.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng với các hình thức, phương pháp, nội dung phù hợp
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng là cầu nối để đưa pháp luật công chứng vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đồng thời nâng cao hiệu quả công chứng.
Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng có vai trò to lớn trong việc xây dựng ý thức pháp luật trong nhân dân, tăng cường hiểu biết về công chứng, khuyến khích hình thành thói quen sử dụng công chứng như một công cụ, biện pháp để tự bảo vệ khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; nâng cao dân trí pháp lý, ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội, phòng ngừa có hiệu quả các tranh chấp và vi phạm pháp luật trong giao lưu dân sự. Đặc biệt, trong quá trình xã hội hóa công chứng, làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng còn có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần từng bước khắc phục tâm lý ngờ vực, thiếu tin tưởng của công dân, các tổ chức vào hệ thống công chứng tư nhân.
Tuy nhiên, có thể nói đây là "mặt trận" hầu như bị bỏ ngỏ từ trước tới nay, tạo nên sự bất cập trong nhận thức của các tầng lớp nhân dân về công chứng, gây nên những bất lợi không nhỏ và tạo nên một "bức tranh" không mấy sáng sủa về công chứng Việt Nam. Vì vậy, để thực hiện xã hội hóa công chứng ở nước ta hiện nay, một giải pháp quan trọng là phải đẩy mạnh công tác tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng trong tất cả các bộ phận nhân dân đặc biệt đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư để tăng cường sự hiểu biết và có nhận thức đúng về công chứng.
Sử dụng và phát huy có hiệu quả các hình thức tuyên truyền phù hợp (như tuyên truyền miệng, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình, đặc biệt là hệ thống truyền thanh cơ sở; tuyên truyền bằng chính hoạt động tư vấn, công chứng của công chứng viên, phát hành tờ rơi, tờ gấp...) với các nội dung ngắn gọn, thiết thực, dễ hiểu, dễ nhớ. Thông qua đó mọi thông tin về công chứng đặc biệt là trình tự, thủ tục công chứng, quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu công chứng và công chứng viên, các loại phí, lệ phí, ý nghĩa vai trò của công chứng đối với đời sống xã hội... đến được với từng người dân, từng cộng đồng dân cư, từng tổ chức trong xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công chứng là nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, làm cho công chứng thực sự góp phần quan trọng đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, tự do định đoạt của mọi công dân (chứ không phải là hạn chế các quyền đó thông qua việc lạm dụng các quy định "hợp đồng phải được công chứng"). Đồng thời, công chứng phải trở thành chỗ dựa tin cậy của công dân khi tham gia giao lưu dân sự, để công dân ngày càng tự nguyện đến yêu cầu công chứng nhiều hơn và trở thành nhu cầu không thể thiếu của chính bản thân công dân chứ không phải do sự bắt buộc của pháp luật.
2.3.2.6. Xác định lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam
Một số yêu cầu cơ bản đặt ra đối với việc xác định lộ trình xã hội hóa công chứng
- Xác định lộ trình xã hội hóa công chứng phải đảm bảo tính khách quan, khoa học, tránh tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn.
- Xác định lộ trình công chứng phải bám sát mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và lộ trình cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng.
- Xác định lộ trình xã hội hóa công chứng phải đồng thời vừa mang tính bứt phá trong cải cách, vừa không gây hoang mang, mất ổn định xã hội nói chung, cũng như hệ thống công chứng nhà nước nói riêng.
Các giai đoạn của lộ trình xã hội hóa công chứng:
Giai đoạn 1: (từ năm 2005 đến 2010), thí điểm, tiến tới chuyển toàn bộ các phòng công chứng nhà nước sang chế độ tự trang trải về mặt tài chính theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP, rà soát, sắp xếp lại các phòng công chứng nhà nước. Các nội dung cơ bản của giai đoạn một được xác định:
Tiến hành tổng kết thực tiễn về công chứng nhà nước, đánh giá nhu cầu thực chất về công chứng ở các tỉnh, thành phố trên cả nước. Đánh giá tổng thể chất lượng, hiệu quả công chứng, đánh giá phân loại chất lượng đội ngũ công chứng viên trên toàn quốc. Đồng thời, đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, trách nhiệm của ngành, cấp đối với lĩnh vực công chứng để có cơ sở ban hành Pháp lệnh công chứng.
Trên cơ sở Pháp lệnh công chứng, thí điểm chuyển một số phòng công chứng ở các tỉnh, thành phố lớn có nhu cầu công chứng cao, mức thu lệ phí công chứng và phí dịch vụ đảm bảo tự trang trải sang chế độ tự trang trải, (lấy thu bù chi); tự chủ trong việc bố trí, sắp xếp, sử dụng nhân sự, đảm bảo các chế độ, chính sách theo quy định của Nhà nước; xây dựng chế độ quản lý giám sát phù hợp, chặt chẽ; chú trọng tổng kết, rút kinh nghiệm. Đến hết năm 2010, chuyển toàn bộ các phòng công chứng nhà nước sang chế độ tự trang trải về tài chính.
Đồng thời với việc chuyển toàn bộ các phòng công chứng nhà nước sang chế độ tự trang trải về tài chính; căn cứ vào nhu cầu công chứng, hiệu quả công chứng, khả năng tự trang trải, tiến hành sắp xếp lại các phòng công chứng nhà nước trên phạm vi toàn quốc theo hướng: Chỉ duy trì những phòng công chứng nhà nước ở những nơi có nhu cầu công chứng cao, có khả năng tự trang trải; tiến hành giải thể các phòng công chứng không đáp ứng những yêu cầu trên. Đồng thời, thành lập các chi nhánh công chứng nhà nước thuộc phòng công chứng nhà nước tại các huyện hoặc khu vực (liên huyện); mỗi chi nhánh chỉ có một công chứng viên và một số thư ký công chứng (theo đó, khi thực hiện hành vi công chứng, công chứng viên chỉ sử dụng con dấu riêng của công chứng viên theo thông lệ quốc tế mà không sử dụng con dấu phòng công chứng như hiện nay).
Thí điểm cho phép thành lập một số văn phòng công chứng tư nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội
Khẩn trương đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp, đồng thời làm tốt công tác đào tạo nguồn công chứng viên, nâng cao chất lượng đào tạo; đảm bảo nhu cầu sử dụng trước mắt, đồng thời tạo nguồn công chứng viên để kế cận, thay thế dần các công chứng viên đến tuổi nghỉ hưu hoặc không muốn tiếp tục làm nghề công chứng.
Đến năm 2010, sắp xếp song toàn bộ các phòng công chứng nhà nước trên toàn quốc; mở rộng mạng lưới chi nhánh công chứng, đảm bảo có một hệ thống công chứng sát với nhu cầu của xã hội, giảm đáng kể gánh nặng về ngân sách cho Nhà nước, tăng khả năng thích ứng của công chứng viên trong môi trường hoạt động độc lập, chuyên nghiệp; từng bước thay đổi nhận thức của xã hội về công chứng đồng thời tăng cường sự giám sát của xã hội đối với hoạt động công chứng.
Giai đoạn 2: (từ năm 2010 đến năm 2015), hình thành hệ thống văn phòng công chứng tư nhân, hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý công chứng, hoàn thiện thể chế công chứng (ban hành Luật Hành nghề công chứng). Các nội dung cơ bản:
Từng bước nhân rộng, hình thành hệ thống văn phòng công chứng tư nhân song song tồn tại bên cạnh hệ thống phòng công chứng nhà nước và các chi nhánh công chứng nhà nước đã có từ trước năm 2010.
Có chính sách phù hợp khuyến khích các phòng công chứng nhà nước, chi nhánh công chứng nhà nước chuyển đổi thành văn phòng công chứng tư nhân; các công chứng viên nhà nước chuyển sang hành nghề công chứng tự do. Đồng thời, đảm bảo chính sách đối với các công chứng viên nhà nước không muốn hoặc không có khả năng tiếp tục hành nghề công chứng trong điều kiện mới.
Thành lập tổ chức tự quản nghề công chứng; thực hiện quản lý công chứng theo hai kênh: quản lý nhà nước và tự quản. Đồng thời, lập quỹ bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên.
Tiến hành tổng kết thi hành Pháp lệnh công chứng, đánh giá quá trình chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt động công chứng, hiệu quả hoạt động của văn phòng công chứng tư nhân, hiệu lực, hiệu quả quản lý đối với lĩnh vực công chứng.
Ban hành Luật Hành nghề công chứng, đảm bảo góp phần tích cực trong việc tạo môi trường pháp lý ổn định, minh bạch, thuận lợi phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chủ động hội nhập quốc tế nói chung và phát triển nghề công chứng ở Việt Nam nói riêng.
Giai đoạn 3: (từ năm 2015 đến năm 2020), hoàn thành việc chuyển đổi mô hình tổ chức công chứng từ công chứng nhà nước sang công chứng tự do với các hình thức hoạt động phù hợp (Văn phòng công chứng của một công chứng viên hoặc công ty dân sự nghề nghiệp mà các công chứng viên là các cổ đông).
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Công chứng Việt Nam ra đời tương đối muộn so với các quốc gia khác trên thế giới và chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống công chứng Collectiviste, đặc biệt là công chứng Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu.
Trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế, công chứng nhà nước đã đạt được những kết quả quan trọng và đóng vai trò tích cực trong đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, làm lành mạnh hóa các quan hệ dân sự, góp phần ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
Bên cạnh những kết quả quan trọng trên, công chứng nhà nước ở nước ta ngày càng bộc lộ những hạn chế, bất cập gây ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả, hiệu quả công chứng cũng như vai trò công chứng trong đời sống xã hội; điều này thể hiện sự không còn phù hợp của mô hình công chứng nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trước các yêu cầu của kinh tế thị trường, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và hội nhập quốc tế, xã hội hóa công chứng ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng về xã hội hóa công chứng, chương 2 của luận văn đã đề xuất các quan điểm, giải pháp xã hội hóa công chứng đảm bảo đưa chủ trương xã hội hóa công chứng của Đảng và Nhà nước ta đi vào cuộc sống.
KẾT LUẬN
Xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có xã hội hóa công chứng là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là một giải pháp quan trọng trong quá trình cải cách tổ chức, hoạt động, hoàn thiện bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Với đề tài "Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay", luận văn đã làm sáng tỏ các luận điểm sau:
1. Bản chất công chứng là một hoạt động xã hội - nghề nghiệp mang tính dịch vụ công, không mang đặc trưng quyền lực nhà nước.
2. Cung ứng dịch vụ công là một chức năng của Nhà nước, chức năng phục vụ. Dịch vụ công có thể và cần phải xã hội hóa nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy nhà nước, giải phóng Nhà nước khỏi những hoạt động có thể giao cho khu vực tư nhân, để Nhà nước tập trung vào thực hiện chức năng quản lý vĩ mô mọi mặt đời sống xã hội, đảm bảo sự bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
3. Là hoạt động mang bản chất dịch vụ công, không mang đặc trưng quyền lực nhà nước, xã hội hóa công chứng nhà nước ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi là tất yếu khách quan.
4. Với những hạn chế, bất cập của công chứng nhà nước ở Việt Nam hiện nay, trước các yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, xã hội hóa công chứng ở Việt Nam là tất yếu và đang là yêu cầu cấp bách hiện nay. Chủ trương xã hội hóa công chứng của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp.
5. Để thực hiện thành công xã hội hóa công chứng ở Việt Nam, cần dựa trên hệ các quan điểm được xây dựng một cách khách quan, toàn diện, cụ thể và có các giải pháp đồng bộ, mang tính chiến lược, phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Đó là ba quan điểm:
- Xã hội hóa công chứng phải được tiến hành trên cơ sở xác định phạm vi, nội dung và bước đi phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. hội nhập quốc tế và khu vực.
- Xã hội hóa công chứng phải đặt trong nội dung tổng thể cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Và sáu giải pháp:
- Đổi mới nhận thức về bản chất, vai trò công chứng.
- Hoàn thiện pháp luật công chứng theo hướng xã hội hóa, đồng thời hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến công chứng.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý công chứng.
- Tiêu chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chứng viên.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về công chứng.
- Xác định lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam.
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
-
Lê Thị Phương Hoa (2005), "Thuật ngữ "công chứng nhà nước" trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)", Dân chủ và pháp luật, (4), tr. 6-7.
-
Lê Thị Phương Hoa (2005), "Công chứng và xã hội hóa công chứng ở Việt Nam", Nghiên cứu lập pháp, 8(57), tr. 33-40.
-
Lê Thị Phương Hoa (2005), "Góp ý Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi): Về vấn đề công chứng", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Góp ý dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Khoa Nhà nước và pháp luật và Chi hội Luật gia - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức.
-
Lê Thị Phương Hoa (2005), "Công chứng nhà nước trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", Hội thảo khoa học: 60 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân - những thành tựu, kinh nghiệm đổi mới, Viện Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Lê Trọng Ân (2004), "Dân chủ và phát huy dân chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (24), tr. 27-31.
-
Ban chỉ đạo liên ngành đề án đánh giá nhu cầu phát triển khung pháp luật Việt Nam đến 2010, Hà Nội, 5/2002.
-
Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995).
-
Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005).
-
Bộ luật Hàng hải Việt Nam (1990).
-
Bộ luật Tố tụng dân sự (2004).
-
Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên bộ số 93/2001/TTLT/BTC-BTP ngày 21/11 hướng dẫn về lệ phí công chứng, Hà Nội
-
Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10 về công tác công chứng nhà nước, Hà Nội.
-
Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10 về hướng dẫn thực hiện các việc công chứng, Hà Nội.
-
Bộ Tư pháp (2001), Thông tư số 03/2001/TP-CC ngày 14/3 hướng dẫn thi hành Nghị định 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực, Hà Nội.
-
Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ (2005), Thông tư liên bộ số 04/2005/TTLT/TP-NV ngày 05/5 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương, Hà Nội.
-
Chính phủ (1994), Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5 về cải cách một bước thủ tục hành chính, Hà Nội.
-
Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18/5 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Hà Nội.
-
Chính phủ (2000), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12 về công chứng, chứng thực, Hà Nội.
-
Chính phủ (2001), Chỉ thị số 01/2001/CT-TTg ngày 05/3 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị định 75/2000/NĐ-CP, Hà Nội.
-
Chính phủ (2001), Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12 của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với cơ quan hành chính nhà nước, Hà Nội.
-
Chính phủ (2002), Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, Hà Nội.
-
Chính phủ (2002), Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị, Hà Nội.
-
Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003, Hà Nội.
-
Ngô Cường (2003), "Giá trị văn bản công chứng trong tố tụng của tòa án", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Dự thảo Pháp lệnh công chứng (tháng 8/2005).
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
-
Trần Ngọc Đường (2004), Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp Nhà nước KX04.04, Hà Nội.
-
Hoàng Văn Hảo (2003), "Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 14-19.
-
Bùi Đình Hiện (2003), "Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng tại thành phố Hải Phòng", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2001), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2002), Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công - nhận thức, thực trạng và giải pháp, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
-
Hội đồng Bộ trưởng (1981), Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Hội đồng Bộ trưởng (1989), Quyết định số 90/HĐBT ngày 19/7 về con dấu của Phòng công chứng nhà nước, Hà Nội.
-
Hội đồng Bộ trưởng (1991) Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Hà Nội.
-
Lê Thị Kim Hoa (2003), Hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
-
Nguyễn Văn Hợi (2003), "Thực tiễn thực hiện thí điểm tự trang trải về tài chính của Phòng công chứng số 1 tỉnh Thái Bình", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Trần Thị Quang Hồng (2000), Xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
-
Lê Khả (2003), "Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan công chứng", Báo Pháp luật, số ra ngày 18/02.
-
Đặng Văn Khanh (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung, hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
-
Đặng Văn Khanh (2003), "Mô hình dịch vụ công trong hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội, thực trạng và những vấn đề đặt ra", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Dương Khánh (2002), Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
-
Dương Khánh (2004), "Một số vấn đề cần được nghiên cứu trong quá trình xây dựng Pháp lệnh công chứng", Dân chủ và pháp luật, (12), tr.19-22.
-
Khoa Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
-
V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
-
Phạm Văn Lợi (2004), "Công chứng, chứng thực ở Việt Nam, thực trạng và định hướng phát triển", Dân chủ và pháp luật, (7), tr. 16-20
-
Luật Đất đai (2003).
-
Luật thương mại (2005).
-
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (2003).
-
Luật về hệ thống công chứng nhà nước, ngày 19/7/1973 của Liên Xô.
-
Trần Đức Lương (2005), "Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nhằm làm sáng tỏ hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (2), tr. 3-10.
-
Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm), Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 04-06, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
C. Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Lê Chi Mai (Chủ biên) (2002), Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài Nhà nước, vấn đề và giải pháp, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
-
Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
-
Monqtesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
-
Một số văn bản về chương trình cải cách hành chính, tinh giản biên chế trong bộ máy nhà nước (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Lê Hữu Nghĩa (2004), "Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học - thực tiễn: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 31-37.
-
Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2005), Tài liệu hội thảo quy chế nghề công chứng và phương hướng xây dựng Pháp lệnh công chứng, Hà Nội.
-
Lương Ninh (Chủ biên) (2003), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
-
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (29/9/1989).
-
Pháp lệnh lãnh sự (24/12/1990).
-
Phòng công chứng số 3 Hà Nội (6/2005), Tổng hợp kết quả hoạt động công chứng 4 năm (2001 - 2004), Hà Nội.
-
Phòng công chứng số 1 Hải Dương (6/2005), Tổng hợp kết quả hoạt động công chứng 4 năm (2001 - 2004), Hải Dương.
-
Phòng công chứng số 3 Hải Phòng (6/2005), Tổng hợp kết quả hoạt động công chứng 4 năm (2001 - 2004), Hải Phòng.
-
Phòng công chứng số 1 Thành phố Hồ Chí Minh (6/2005), Tổng hợp kết quả hoạt động công chứng 4 năm (2001 - 2004), Thành phố Hồ Chí Minh.
-
Phòng công chứng số 1 Vĩnh Phúc (8/2005), Báo cáo tổng kết 5 năm Nghị định 75/2000/NĐ-CP của Chính phủ về công chứng, chứng thực, Vĩnh Phúc.
-
Phòng công chứng số 1 Vĩnh Phúc (2005), Bảng tổng hợp kết quả hoạt động công chứng 4 năm (2001 - 2004), Vĩnh Phúc.
-
Phòng công chứng số 2 Vĩnh Phúc (2003), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực (2001 - 2003), Vĩnh Phúc.
-
Phòng công chứng số 2 Vĩnh Phúc (8/2005), Báo cáo tổng kết 5 năm Nghị định 75/2000/NĐ-CP của Chính phủ về công chứng, chứng thực, Vĩnh Phúc.
-
Phạm Xuân Phương (2003), "Mô hình công chứng lưu động trong điều kiện công chứng chứng thực hiện nay trên địa bàn Hà Nội", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện công chứng chứng thực ở Hà Nội, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Đinh Thị Mai Phương (2005), Thống nhất Luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
-
Hoàng Thị Kim Quế (2003), "Vai trò của Nhà nước và vấn đề dịch vụ công ở nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 20-24.
-
Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 về ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa.
-
Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1952 ban hành thể lệ trước bạ về các việc mua bán, cho và đổi nhà cửa, ruộng đất của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
-
Sở Tư pháp Hà Nội (2002), Báo cáo 20 năm xây dựng và trưởng thành của ngành tư pháp Thủ đô (10/11/1982 - 10/11/2002), Hà Nội.
-
Sở Tư pháp Vĩnh Phúc (2005), Kết quả khảo sát công tác công chứng, chứng thực trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.
-
Đinh Dũng Sỹ (2003), "Một số vấn đề về đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Nguyễn Văn Tam (2005), "Tin về hoạt động 6 tháng đầu năm 2005 của Phòng công chứng số 1 tỉnh Trà Vinh", Báo pháp luật Việt Nam, (158), ngày 04/7.
-
Phạm Hồng Thái (2004), "Bàn về xã hội công dân", Dân chủ và pháp luật, (11), tr. 6-11.
-
Dương Đình Thành (2003), "Chế độ tự trang trải về tài chính trong tổ chức và hoạt động của Phòng công chứng - một số vấn đề đặt ra", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Dương Đình Thành (2004), "Tiếp tục đổi mới hoạt động công chứng ở nước ta", Dân chủ và pháp luật, (11), tr. 28-30.
-
Chu Văn Thành (Chủ biên) (2004), Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
-
Trần Thất (2003), "Xã hội hóa hoạt động công chứng một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Trần Thất (2004), "Công chứng, chứng thực trong điều kiện cải cách hành chính và cải cách tư pháp", Dân chủ và pháp luật, (6), tr. 2-3.
-
Lê Minh Thông (2000), "Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở nước ta", Nhà nước và pháp luật, (8), tr. 3-15.
-
Lê Minh Thông (2001), "Đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy nhà nước đáp ứng các yêu cầu phát triển đất nước trong thế kỷ mới", Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 4-13.
-
Nguyễn Văn Toàn (2004), Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mô hình công chứng Latinh, Luận văn thạc sĩ, bảo vệ tại Cộng hòa Pháp.
-
Lê Tài Triển - (Chủ biên) (1971), Nhiệm vụ của công tố viện, Sài Gòn.
-
Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
-
Nguyễn Văn Tuân (2004), "Khái niệm, định hướng xã hội hóa tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp", Dân chủ và pháp luật, (8), tr. 13-17.
-
Đào Trí Úc (2000), "Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh đề cao pháp luật và pháp chế", Nhà nước và pháp luật, (12), tr. 3-9.
-
Đào Trí Úc (2003), "Cải cách tư pháp, ý nghĩa, mục đích và trọng tâm", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 3-5.
-
Đào Trí Úc (2003), "Về vị trí, vai trò và các nguyên tắc của hoạt động tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 3-6.
-
Đào Trí Úc (2004), "Mối liên hệ giữa Nhà nước với xã hội dân sự và vấn đề cải cách hành chính", Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 3-10.
-
Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2002), Quyết định số 2167/QĐ-UB ngày 10/9 về việc giao quyền tự chủ tài chính theo cơ chế tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động giai đoạn 2002 - 2004 cho các đơn vị sự nghiệp có thu, Thái Bình.
-
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2002), Quyết định số 22/2002/QĐ-UB ngày 25/02 về việc cho phép 3 Phòng công chứng thực hiện thí điểm hoạt động dịch vụ hành chính công, Hà Nội.
-
Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Quyết định số 55/2005/QĐ-UB ngày 01/4 thí điểm giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã, phường ở Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện chứng thực bản sao, Thành phố Hồ Chí Minh.
-
Nguyễn Văn Vẻ (2003), "Đổi mới công tác đào tạo nghề công chứng trong tổng thể đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở Việt Nam", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
-
Viện châu Á - Thái Bình Dương, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1991), Trung Quốc trên đường cải cách, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
-
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2003), "Chuyên đề đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn - thực trạng và hướng kiện toàn nâng cao năng lực hoạt động", Thông tin Khoa học pháp lý, Hà Nội.
-
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2003), "Chuyên đề đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển công tác đào tạo pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010", Thông tin Khoa học pháp lý, (4).
-
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), "công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hướng theo mô hình công chứng Latinh", Thông tin Khoa học pháp lý, (1).
-
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), "Chuyên đề tổng hợp ý kiến đóng góp của ngành Tư pháp về dự thảo Bộ luật Dân sự (Sửa đổi)", Thông tin Khoa học pháp lý, (2).
-
Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1994), Từ điển Pháp - Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
-
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1993), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam, Đề tài khoa học mã số 92-98-224, Hà Nội.
-
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1993), "Chuyên đề cải cách tư pháp", Thông tin Khoa học pháp lý, Hà Nội.
-
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), "Chuyên đề cải cách hành chính", Thông tin Khoa học pháp lý, Hà Nội.
-
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (1995), "Chuyên đề công chứng", Thông tin Khoa học pháp lý, Hà Nội.
-
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1997), "Chuyên đề 10 năm xây dựng thể chế hành chính", Thông tin Khoa học pháp lý, Hà Nội.
-
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), "Chuyên đề pháp luật của một số nước Đông Âu trong quá trình chuyển đổi cơ chế", Thông tin Khoa học pháp lý, (9).
-
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2000), "Chuyên đề năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước thực trạng, nguyên nhân và giải pháp", Thông tin Khoa học pháp lý, (12).
-
Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
-
Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
-
Võ Khánh Vinh (2003), "Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền và vai trò của nó trong việc xác định mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 6-13.
-
Vụ Hành chính tư pháp - Bộ Tư pháp (2005), Các quy định về công chứng của một số nước, Hà Nội.
TIẾNG ANH
-
BLACK'S LAW DICTIONARY - (ST.Paul, MINN, WEST - PUBLISHING CO. 1990).
TIẾNG PHÁP
-
ROBERT DITIONNAIRE DE LA LAGUE FRANCAISE 72' (SOCIE'TE' DU NOUVEAU LITTRE', Secre'taire ge'ne'ral de la Re'daction: ALAIN REY 1972).